Tin Mừng
Mát-thêu
Chương 1
I. GIÁNG SINH VÀ THỜI THƠ ẤU CỦA
ĐỨC GIÊ-SU
Gia phả Đức Giê-su Ki-tô (Lc 3:23-38)
1
Đây
là gia phả Đức Giê-su Ki-tô, con cháu vua Đa-vít, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham:
2
Ông
Áp-ra-ham sinh I-xa-ác; I-xa-ác sinh Gia-cóp; Gia-cóp sinh Giu-đa và các anh em
ông này; 3 Giu-đa ăn ở với Ta-ma sinh Pe-rét và De-rác; Pe-rét sinh
Khét-xơ-ron; Khét-xơ-ron sinh A-ram; 4 A-ram sinh Am-mi-na-đáp;
Am-mi-na-đáp sinh Nác-son; Nác-son sinh Xan-môn; 5 Xan-môn lấy
Ra-kháp sinh Bô-át; Bô-át lấy Rút sinh Ô-vết; Ô-vết sinh Gie-sê; 6 ông
Gie-sê sinh Đa-vít. 1 Vua Đa-vít lấy vợ ông U-ri-gia sinh Sa-lô-môn;
7 Sa-lô-môn sinh Rơ-kháp-am; Rơ-kháp-am sinh A-vi-gia; A-vi-gia sinh
A-xa; 8 A-xa sinh Giơ-hô-sa-phát; Giơ-hô-sa-phát sinh Giô-ram;
Giô-ram sinh Út-di-gia; 9 Út-di-gia sinh Gio-tham; Gio-tham sinh
A-khát; A-khát sinh Khít-ki-gia; 10 Khít-ki-gia sinh Mơ-na-se;
Mơ-na-se sinh A-môn; A-môn sinh Giô-si-gia; 11 Giô-si-gia sinh
Giơ-khon-gia và các anh em vua này; kế đó là thời lưu đày ở Ba-by-lon.
12
Sau
thời lưu đày ở Ba-by-lon, Giơ-khon-gia sinh San-ti-ên; San-ti-ên sinh
Dơ-rúp-ba-ven; 13 Dơ-rúp-ba-ven sinh A-vi-hút; A-vi-hút sinh
En-gia-kim; En-gia-kim sinh A-do; 14 A-do sinh Xa-đốc; Xa-đốc sinh
A-khin; A-khin sinh Ê-li-hút; 15 Ê-li-hút sinh E-la-da; E-la-da sinh
Mát-than; Mát-than sinh Gia-cóp; 16 Gia-cóp sinh Giu-se, chồng của
bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô.
17
Như
thế, tính chung lại thì: từ tổ phụ Áp-ra-ham đến vua Đa-vít, là mười bốn đời;
từ vua Đa-vít đến thời lưu đày ở Ba-by-lon, là mười bốn đời; và từ thời lưu đày
ở Ba-by-lon đến Đức Ki-tô, cũng là mười bốn đời.
Truyền tin cho ông Giu-se (Lc 2:1-7)
18
Sau
đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông
Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng
Chúa Thánh Thần. 19 Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và
không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. 20 Ông
đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng:
”Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người
con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. 21 Bà sẽ sinh con
trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người
khỏi tội lỗi của họ.” 22 Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng
nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: 23 Này đây, Trinh Nữ
sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là
Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” 24 Khi tỉnh
giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. 25 Ông
không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ
là Giê-su.
Chương 2
Các nhà chiêm tinh đến bái lạy
Đức Giê-su Hài Nhi
1
Khi
Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà
chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, 2 và hỏi: ”Đức Vua dân
Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên
phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” 3 Nghe tin ấy, vua
Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. 4 Nhà vua
liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết
Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. 5 Họ trả lời: ”Tại Bê-lem, miền
Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: 6 “Phần ngươi, hỡi
Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi
là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.”
7
Bấy
giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi
sao đã xuất hiện. 8 Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng:
”Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại
cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” 9 Nghe nhà vua nói thế, họ
ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận
nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. 10 Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô
cùng. 11 Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền
sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà
dâng tiến. 12 Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê
nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
Đức Giê-su trốn sang Ai-cập và
các anh hài bị giết
13
Khi
các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giu-se
rằng: ”Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho
đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!” 14 Ông
Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập. 15
Ông ở đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán
xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.
16
Bấy
giờ vua Hê-rô-đê thấy mình bị các nhà chiêm tinh đánh lừa, thì đùng đùng nổi
giận, nên sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận,
từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm
tinh. 17 Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a: 18 “Ở
Ra-ma, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Ra-khen khóc thương con mình
và không chịu để cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa.
Từ Ai-cập về đất Ít-ra-en
19
Sau
khi vua Hê-rô-đê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giu-se bên Ai-cập, 20
báo mộng cho ông rằng: ”Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất
Ít-ra-en, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi.” 21 Ông liền
trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en. 22 Nhưng vì nghe
biết Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông sợ
không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Ga-li-lê, 23 và
đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng
các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi là người Na-da-rét.
Chương 3
II. CÔNG BỐ NƯỚC TRỜI
1. PHẦN KÝ THUẬT
Ông Gio-an Tẩy Giả rao giảng (Mc 1:1-8; Lc 3:1-18;
Gi 1:19-28)
1
Hồi
ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng: 2
“Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” 3 Ông chính là người
đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn
con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.
4
Ông
Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng
làm thức ăn. 5 Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền
Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông. 6 Họ thú
tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan. 7 Thấy nhiều
người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ
rằng: ”Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên
Chúa sắp giáng xuống vậy? 8 Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. 9
Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: ”Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham.” Vì, tôi
nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con
cháu ông Áp-ra-ham. 10 Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào
không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. 11 Tôi, tôi làm
phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau
tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép
rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. 12 Tay Người cầm nia, Người
sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào
lửa không hề tắt mà đốt đi.”
Đức Giê-su chịu phép rửa (Mc 1:9-11; Lc 3:21-22)
13
Bấy
giờ, Đức Giê-su từ miền Ga-li-lê đến sông Gio-đan, gặp ông Gio-an để xin ông
làm phép rửa cho mình. 14 Nhưng ông một mực can Người và nói: ”Chính
tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” 15 Nhưng
Đức Giê-su trả lời: ”Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn
đức công chính.” Bấy giờ ông Gio-an mới chiều theo ý Người.
16
Khi
Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra.
Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. 17
Và có tiếng từ trời phán: ”Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về
Người.”
Chương 4
Đức Giê-su chịu cám dỗ (Mc 1:12-13; Lc 4:1-13)
1
Bấy
giờ Đức Giê-su được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ. 2 Người
ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói. 3 Bấy
giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: ”Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho
những hòn đá này hoá bánh đi!” 4 Nhưng Người đáp: ”Đã có lời chép
rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên
Chúa phán ra.”
5
Sau
đó, quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền thờ, 6 rồi
nói với Người: ”Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời
chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ
tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.”
7
Đức
Giê-su đáp: ”Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là
Thiên Chúa của ngươi.”
8
Quỷ
lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước
thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, 9 và bảo rằng: ”Tôi
sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi.” 10 Đức
Giê-su liền nói: ”Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái
lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà
thôi.”
11
Thế
rồi quỷ bỏ Người mà đi, và có các sứ thần tiến đến hầu hạ Người.
Đức Giê-su lánh qua miền Ga-li-lê (Mc 1:14-15; Lc 4:14-15)
12
Khi
Đức Giê-su nghe tin ông Gio-an đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê. 13
Rồi Người bỏ Na-da-rét, đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ
Ga-li-lê, thuộc địa hạt Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, 14 để ứng nghiệm lời
ngôn sứ I-sai-a nói: 15 Này đất Dơ-vu-lun, và đất Náp-ta-li, hỡi con
đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Gio-đan, hỡi Ga-li-lê, miền đất của dân
ngoại! 16 Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng,
những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu
rọi.
17
Từ
lúc đó, Đức Giê-su bắt đầu rao giảng và nói rằng: ”Anh em hãy sám hối, vì Nước
Trời đã đến gần.”
Đức Giê-su kêu gọi bốn môn đệ đầu
tiên
(Mc 1:16-20; Lc 5:1-11)
18
Người
đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy hai anh em kia, là ông Si-môn, cũng
gọi là Phê-rô, và người anh là ông An-rê, đang quăng chài xuống biển, vì các
ông làm nghề đánh cá. 19 Người bảo các ông: ”Các anh hãy theo tôi,
tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” 20 Lập
tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.
21
Đi
một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dê-bê-đê, là ông Gia-cô-bê và
người em là ông Gio-an. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dê-bê-đê vá lưới ở
trong thuyền. Người gọi các ông. 22 Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ
cha lại mà theo Người.
Đức Giê-su giảng dạy và chữa bệnh (Lc 6:17-19)
23
Thế
rồi Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng
Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân. 24 Danh
tiếng Người đồn ra khắp xứ Xy-ri. Thiên hạ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc
đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người
đã chữa họ. 25 Từ miền Ga-li-lê, vùng Thập Tỉnh, thành
Giê-ru-sa-lem, miền Giu-đê và vùng bên kia sông Gio-đan, dân chúng lũ lượt kéo
đến đi theo Người.
Chương 5
2. BÀI GIẢNG TRÊN NÚI
Tám mối Phúc (Lc 6:20-23)
1
Thấy
đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. 2 Người
mở miệng dạy họ rằng:
3 “Phúc thay ai có tâm
hồn nghèo khó,
vì
Nước Trời là của họ.
4
Phúc
thay ai hiền lành,
vì
họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
5
Phúc
thay ai sầu khổ,
vì
họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
6
Phúc
thay ai khát khao nên người công chính,
vì
họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
7
Phúc
thay ai xót thương người,
vì
họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
8
Phúc
thay ai có tâm hồn trong sạch,
vì
họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
9
Phúc
thay ai xây dựng hoà bình,
vì
họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
10
Phúc
thay ai bị bách hại vì sống công chính,
vì
Nước Trời là của họ.
11
Phúc
thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại
và
vu khống đủ điều xấu xa.
12
Anh
em hãy vui mừng hớn hở,
vì
phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.
Quả
vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như
thế.
Muối
cho đời và ánh sáng cho trần gian (Mc 9:50; Lc 14:34-35)
13 “Chính anh em là muối
cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô
dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.
14 “Chính anh em là ánh
sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. 15
Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế,
và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. 16 Cũng vậy, ánh sáng của
anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp
anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.
Đức Giê-su kiện toàn Luật Mô-sê
17 “Anh em đừng tưởng
Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để
bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. 18 Vì, Thầy bảo thật anh em, trước
khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi,
cho đến khi mọi sự được hoàn thành. 19 Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một
trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là
kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được
gọi là lớn trong Nước Trời.
Đức công chính của người môn đệ
20 “Vậy, Thầy bảo cho
anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người
Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.
Đừng giận ghét (Lc 12:57-59)
21 “Anh em đã nghe Luật
dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. 22
Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa
ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội
Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu
đốt. 23 Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ
có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, 24 thì hãy để của
lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ
vật của mình. 25 Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn
đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan
toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. 26 Thầy
bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối
cùng.
Chớ ngoại tình
27 “Anh em đã nghe Luật
dạy rằng: Chớ ngoại tình. 28 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai
nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. 29
Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà
mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. 30 Nếu
tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một
phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục.
Đừng ly dị (Mt 19:9; Mc 10:11-12;
Lc 16:18)
31 “Luật còn dạy rằng:
Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. 32 Còn Thầy, Thầy bảo
cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy
vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại
tình.
Đừng thề thốt
33 “Anh em còn nghe Luật
dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. 34 Còn
Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời
là ngai Thiên Chúa. 35 Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân
Người. Đừng chỉ Giê-ru-sa-lem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. 36
Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng
hay đen được. 37 Nhưng hễ”có” thì phải nói”có”,”không” thì phải
nói”không” . Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.
Chớ trả thù (Lc 62:9-30)
38 “Anh em đã nghe Luật
dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. 39 Còn Thầy, Thầy bảo anh em:
đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má
bên trái ra nữa. 40 Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh,
thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. 41 Nếu có người bắt anh đi một
dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. 42 Ai xin, thì hãy cho; ai
muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt
Phải yêu kẻ thù (Lc 6:27-28,32-36 )
43
"Anh
em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. 44 Còn
Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh
em. 45 Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng
ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như
người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. 46
Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi?
Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? 47 Nếu anh em chỉ chào
hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại
cũng chẳng làm như thế sao? 48 Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em
trên trời là Đấng hoàn thiện.
Chương 6
Bố thí cách kín đáo
1 “Khi làm việc lành
phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng
không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. 2
Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả
thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy
bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. 3 Còn anh, khi bố
thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, 4 để việc anh bố thí
được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho
anh.
Cầu nguyện nơi kín đáo
5 “Và khi cầu nguyện,
anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội
đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em:
chúng đã được phần thưởng rồi. 6 Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào
phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín
đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.
Kinh Lạy Cha” (Lc 11:2-4)
7 “Khi cầu nguyện, anh
em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. 8
Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh
em cầu xin.
9 “Vậy, anh em hãy cầu
nguyện như thế này:
“
Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời,
xin
làm cho danh thánh Cha vinh hiển,
10
triều
đại Cha mau đến,
ý
Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
11
Xin
Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày;
12
xin
tha tội cho chúng con
như
chúng con cũng tha
cho
những người có lỗi với chúng con;
13
xin
đừng để chúng con sa chước cám dỗ,
nhưng
cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
14 “Thật vậy, nếu anh em
tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. 15
Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không
tha lỗi cho anh em.
Ăn chay cách kín đáo
16 “Còn khi ăn chay, anh
em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để
thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng
rồi. 17 Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho
thơm, 18 để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng
hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả
lại cho anh.
Của cải trên trời (Lc 12:33-34)
19 “Anh em đừng tích trữ
cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách
lấy đi. 20 Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi
mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. 21 Vì
kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó.
Đèn của thân thể (Lc 11:34-36)
22 “Đèn của thân thể là
con mắt. Vậy nếu mắt anh sáng, thì toàn thân anh sẽ sáng. 23 Còn nếu
mắt anh xấu, thì toàn thân anh sẽ tối. Vậy nếu ánh sáng nơi anh lại thành bóng
tối, thì tối biết chừng nào!
Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa
vừa làm tôi Tiền Của
(Lc 16, 13)
24 “Không ai có thể làm
tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này
mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền
Của được.
Tin tưởng vào Chúa quan phòng (Lc 12:22-31)
25 “Vì vậy Thầy bảo cho
anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể:
lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo
mặc sao? 26 Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào
kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn
chúng sao? 27 Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm
được dù chỉ một gang tay? 28 Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm
xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng,
không kéo sợi; 29 thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua
Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. 30
Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa
còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! 31 Vì
thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? 32 Tất
cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em
cần tất cả những thứ đó. 33 Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa
và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. 34
Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày
nào có cái khổ của ngày ấy.
Chương 7
Đừng xét đoán (Lc 6:37-38, 41-42)
1 “Anh em đừng xét
đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, 2 vì anh em xét đoán thế nào,
thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong đấu nào, thì
Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em. 3 Sao anh thấy cái rác
trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không
để ý tới? 4 Sao anh lại nói với người anh em: ”Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi
mắt bạn”, trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh? 5 Hỡi kẻ đạo đức giả!
Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi
mắt người anh em.
Đừng quăng của thánh cho chó
6 “Của thánh, đừng
quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi
còn quay lại cắn xé anh em.
Cứ xin thì sẽ được (Lc 11:9-13)
7 “Anh em cứ xin thì sẽ
được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. 8 Vì hễ ai xin
thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho. 9 Có
người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? 10
Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? 11 Vậy nếu anh em vốn là những kẻ
xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em,
Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người
sao?
Khuôn vàng thước ngọc (Lc 6:31)
12 “Vậy tất cả những gì
anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta,
vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó.
Hai con đường (Lc 13:24)
13 “Hãy qua cửa hẹp mà
vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại
đi qua đó. 14 Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng
ít người tìm được lối ấy.
Cây nào trái ấy (Lc 6:43-44)
15 “Anh em hãy coi chừng
các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói
dữ tham mồi. 16 Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Ở bụi
gai, làm gì có nho mà hái? Trên cây găng, làm gì có vả mà bẻ? 17 Nên hễ cây tốt
thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. 18 Cây tốt không thể
sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt. 19 Cây nào
không sinh quả tốt, thì bị chặt đi và quăng vào lửa. 20 Vậy, cứ xem
họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai.
Môn đệ chân chính (Lc 6:47-49; 13:25-27)
21 “Không phải bất cứ ai
thưa với Thầy: ”Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai
thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. 22
Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ”Lạy Chúa, lạy Chúa,
nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà
trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?” 23 Và bấy giờ
Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta,
hỡi bọn làm điều gian ác!
24 “Vậy ai nghe những
lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên
đá. 25 Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không
sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. 26 Còn ai nghe những lời Thầy nói
đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát.
27 Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp
đổ tan tành.”
Cách giảng dạy của Đức Giê-su
28
Khi
Đức Giê-su giảng dạy những điều ấy xong, dân chúng sửng sốt về lời giảng dạy
của Người, 29 vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ
không như các kinh sư của họ.
Chương 8
III. RAO GIẢNG NƯỚC TRỜI
1. PHẦN KÝ THUẬT
Đức Giê-su chữa người bị phong
hủi
(Mc 1:40-45; Lc 5:12-14)
1
Khi
Đức Giê-su ở trên núi xuống, đám đông lũ lượt đi theo Người. 2 Bỗng
có một người phong hủi tiến lại, bái lạy Người và nói: ”Thưa Ngài, nếu Ngài
muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” 3 Người giơ tay đụng vào
anh và bảo: ”Tôi muốn, anh sạch đi.” Lập tức, anh được sạch bệnh phong hủi. 4
Rồi Đức Giê-su bảo anh: ”Coi chừng, đừng nói với ai cả, nhưng hãy đi
trình diện tư tế và dâng của lễ, như ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho
người ta biết.”
Đức Giê-su chữa đầy tớ của một
đại đội trưởng
(Lc 7:1-10)
5
Khi
Đức Giê-su vào thành Ca-phác-na-um, có một viên đại đội trưởng đến gặp Người và
nài xin: 6 “Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà,
đau đớn lắm.” 7 Người nói: ”Chính tôi sẽ đến chữa nó.” Viên đại đội
trưởng đáp: 8 “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin
Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh. 9 Vì tôi đây, tuy
dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này:
”Đi!”, là nó đi, bảo người kia: ”Đến!”, là nó đến, và bảo người nô lệ của tôi:
”Làm cái này!”, là nó làm.” 10 Nghe vậy, Đức Giê-su ngạc nhiên và
nói với những kẻ theo Người rằng: ”Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một
người Ít-ra-en nào có lòng tin như thế. 11 Tôi nói cho các ông hay:
Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ
Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. 12 Nhưng con cái Nước
Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc
nghiến răng.” 13 Rồi Đức Giê-su nói với viên đại đội trưởng rằng:
”Ông cứ về đi! Ông tin thế nào thì được như vậy!” Và ngay giờ đó, người đầy tớ
được khỏi bệnh.
Đức Giê-su chữa bà mẹ vợ ông Phê-rô (Mc 1:29-31; Lc 4:38-39)
14
Đức
Giê-su đến nhà ông Phê-rô, thấy bà mẹ vợ ông đang nằm liệt và lên cơn sốt. 15
Người đụng vào tay bà, cơn sốt dứt ngay và bà chỗi dậy phục vụ Người.
Đức Giê-su chữa lành mọi kẻ ốm
đau
(Mc 1:32-34; Lc 4:40-41)
16
Chiều
đến, người ta đem nhiều kẻ bị quỷ ám tới gặp Đức Giê-su. Người nói một lời là
trừ được các thần dữ và Người chữa lành mọi kẻ ốm đau, 17 để ứng
nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a: Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy
các bệnh hoạn của ta.
Người môn đệ phải bỏ mọi sự (Lc 9:57-62)
18
Thấy
xung quanh có đám đông, Đức Giê-su ra lệnh sang bờ bên kia. 19 Một
kinh sư tiến đến thưa Người rằng: ”Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi
theo.” 20 Đức Giê-su trả lời: ”Con chồn có hang, chim trời có tổ,
nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”
21
Một
môn đệ khác thưa với Người: ”Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con
trước đã.” 22 Đức Giê-su bảo: ”Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết
chôn kẻ chết của họ.”
Đức
Giê-su dẹp yên biển động (Mc 4:35-41; Lc 8:22-25)
23
Đức
Giê-su xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người. 24 Bỗng nhiên biển
động mạnh khiến sóng ập vào thuyền, nhưng Người vẫn ngủ. 25 Các ông
lại gần đánh thức Người và nói: ”Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết
mất!” 26 Đức Giê-su nói: ”Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng
tin!” Rồi Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ.
27
Người
ta ngạc nhiên và nói: ”Ông này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân
lệnh?”
Hai người bị quỷ ám (Mc 5:1-20; Lc 8:26-39)
28
Khi
Đức Giê-su sang bờ bên kia, và đến miền Ga-đa-ra, thì có hai người bị quỷ ám từ
trong đám mồ mả ra đón Người; chúng rất dữ tợn, đến nỗi không ai dám qua lại
lối ấy. 29 Chúng la lên rằng: ”Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện chúng tôi
can gì đến ông? Chưa tới lúc mà ông đã đến đây làm khổ chúng tôi sao?” 30 Khi
ấy, ở đàng xa, có một bầy heo rất đông đang ăn. 31 Bọn quỷ nài xin
Người rằng: ”Nếu ông đuổi chúng tôi, thì xin sai chúng tôi nhập vào bầy heo
kia.” 32 Người bảo: ”Đi đi!” Chúng liền ra khỏi hai người đó và nhập
vào bầy heo. Thế là tất cả bầy heo từ trên sườn núi lao xuống biển và chết đuối
hết. 33 Các người chăn heo chạy trốn vào thành, kể lại mọi sự, và
những gì đã xảy ra cho những người bị quỷ ám. 34 Bấy giờ, cả thành
ra đón Đức Giê-su, và khi gặp Người, họ xin Người rời khỏi vùng đất của họ.
Chương 9
Đức Giê-su chữa người bại liệt (Mc 2:1-12; Lc 5:17-26)
1
Đức
Giê-su xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình. 2 Người ta
liền khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin
như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: ”Này con, cứ yên tâm, con đã được tha
tội rồi!” 3 Có mấy kinh sư nghĩ bụng rằng: ”Ông này nói phạm thượng.”
4 Nhưng Đức Giê-su biết ý nghĩ của họ, liền nói: ”Sao các ông lại
nghĩ xấu trong bụng như vậy? 5 Trong hai điều: một là bảo: ”Con đã được tha tội
rồi”, hai là bảo: ”Đứng dậy mà đi”, điều nào dễ hơn? 6 Vậy, để các ông biết: ở
dưới đất này, Con Người có quyền tha tội- bấy giờ Đức Giê-su bảo người bại
liệt: ”Đứng dậy, vác giường đi về nhà!” 7 Người bại liệt đứng dậy,
đi về nhà. 8 Thấy vậy, dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã
ban cho loài người được quyền năng như thế.
Đức Giê-su kêu gọi ông Mát-thêu (Mc 2:13-14; Lc 5:27-28)
9
Bỏ
nơi ấy, Đức Giê-su đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là
Mát-thêu đang ngồi tại trạm. Người bảo ông: ”Anh hãy theo tôi!” Ông đứng dậy đi
theo Người.
Đức
Giê-su dùng bữa với những người tội lỗi (Mc 2:15-17; Lc 5:29-32)
10
Khi
Đức Giê-su đang dùng bữa tại nhà ông ấy, có nhiều người thu thuế và tội lỗi kéo
đến, cùng ăn với Người và các môn đệ. 11 Thấy vậy, những người
Pha-ri-sêu nói với các môn đệ Người rằng: ”Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn
thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?” 12 Nghe thấy thế, Đức Giê-su
nói: ”Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. 13 Hãy
về học cho biết ý nghĩa của câu này: ”Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì
tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.”
Tranh luận về việc ăn chay (Mc 2:18-22; Lc 5:33-39)
14
Bấy
giờ, các môn đệ ông Gio-an tiến lại hỏi Đức Giê-su rằng: ”Tại sao chúng tôi và
các người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?” 15 Đức
Giê-su trả lời: ”Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể
còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay.
16 Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì miếng vá mới sẽ co lại,
khiến áo rách lại càng rách thêm. 17 Người ta cũng không đổ rượu mới
vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng
rượu mới thì đổ vào bầu mới: thế là giữ được cả hai.”
Đức Giê-su chữa người đàn bà bị
băng huyết và cho con gái một vị thủ lãnh sống lại (Mc 5:21-43; Lc 8:40-56)
18
Người
còn đang nói với họ như thế, thì bỗng một vị thủ lãnh đến gần bái lạy Người và
nói: ”Con gái tôi vừa mới chết. Nhưng xin Ngài đến đặt tay lên cháu, là nó sẽ
sống.” 19 Đức Giê-su đứng dậy đi theo ông ấy, và các môn đệ cũng đi
với Người.
20
Bỗng
một người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm tiến đến phía sau Người và sờ
vào tua áo của Người, 21 vì bà nghĩ bụng: ”Tôi chỉ cần sờ được vào
áo của Người thôi là sẽ được cứu!” 22 Đức Giê-su quay lại thấy bà
thì nói: ”Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con.” Và ngay từ
giờ ấy, bà được cứu chữa.
23
Đức
Giê-su đến nhà viên thủ lãnh; thấy phường kèn và đám đông xôn xao, Người nói: 24
“Lui ra! Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” Nhưng họ chế nhạo Người. 25 Khi
đám đông bị đuổi ra rồi, thì Người đi vào, cầm lấy tay con bé, nó liền trỗi dậy.
26 Và tin ấy đồn ra khắp cả vùng.
Đức Giê-su chữa hai người mù
27
Đang
khi Đức Giê-su ra khỏi nơi đó, thì có hai người mù đi theo kêu lên rằng: ”Lạy
Con Vua Đa-vít, xin thương xót chúng tôi!” 28 Khi Đức Giê-su về tới
nhà, thì hai người mù ấy tiến lại gần. Người nói với họ: ”Các anh có tin là tôi
làm được điều ấy không?” Họ đáp: ”Thưa Ngài, chúng tôi tin.” 29 Bấy
giờ Người sờ vào mắt họ và nói: ”Các anh tin thế nào thì được như vậy.” 30
Mắt họ liền mở ra. Người nghiêm giọng bảo họ: ”Coi chừng, đừng cho ai
biết!” 31 Nhưng vừa ra khỏi đó, họ đã nói về Người trong khắp cả
vùng.
Đức Giê-su chữa người câm bị quỷ
ám
32
Họ
vừa đi ra thì người ta đem đến cho Đức Giê-su một người câm bị quỷ ám. 33 Khi
quỷ bị trục xuất rồi, thì người câm nói được. Dân chúng kinh ngạc, nói rằng: ”Ở
Ít-ra-en, chưa hề thấy thế bao giờ!” 34 Nhưng người Pha-ri-sêu lại
bảo: ”Ông ấy dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ.”
Đức Giê-su thương dân chúng lầm
than
35
Đức
Giê-su đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao
giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.
36
Đức
Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy
chiên không người chăn dắt. 37 Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng:
Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. 38 Vậy anh em hãy xin chủ mùa
gặt sai thợ ra gặt lúa về.”
Chương 10
2. BÀI GIẢNG VỀ SỨ MỆNH TRUYỀN
GIÁO
Đức Giê-su sai mười hai Tông Đồ
đi giảng
(Mc 3:13-19; 6:7-13; Lc 6:12-16; 9:1-6)
1
Rồi
Đức Giê-su gọi mười hai môn đệ lại, để ban cho các ông quyền trên các thần ô
uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.
2
Sau
đây là tên của mười hai Tông Đồ: đứng đầu là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô,
rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê và ông
Gio-an, em của ông; 3 ông Phi-líp-phê và ông Ba-tô-lô-mê-ô; ông
Tô-ma và ông Mát-thêu người thu thuế; ông Gia-cô-bê con ông An-phê và ông
Ta-đê-ô; 4 ông Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giu-đa
Ít-ca-ri-ốt, là chính kẻ nộp Người. 5 Đức Giê-su sai mười hai ông ấy
đi và chỉ thị rằng:
6
Tốt
hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en. 7 Dọc đường hãy
rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. 8 Anh em hãy chữa lành người
đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử
trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy. 9 Đừng
kiếm vàng bạc hay tiền giắt lưng. 10 Đi đường, đừng mang bao bị,
đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn.
11
“Khi
anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi xem ở đó ai là người
xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi. 12 Vào nhà nào, anh em
hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. 13 Nếu nhà ấy xứng đáng, thì-bình
an của anh em sẽ đến với họ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của
anh em sẽ trở về với anh em. 14 Nếu người ta không đón tiếp và nghe
lời anh em, thì khi ra khỏi nhà hay thành ấy, anh em hãy giũ bụi chân lại. 15
Thầy bảo thật anh em, trong Ngày phán xét, đất Xơ-đôm và Gô-mô-ra còn
được xử khoan hồng hơn thành đó. 16 Này, Thầy sai anh em đi như
chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu.
Đức Giê-su tiên báo những cuộc
bách hại
(Mc 13:9-13; Lc 21:12-19).
17 “Hãy coi chừng người
đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội
đường của họ. 18 Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan
quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết. 19 Khi
người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì
trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: 20 thật
vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh
em.
21 “Anh sẽ nộp em, em sẽ
nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ
và làm cho cha mẹ phải chết. 22 Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người
thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
23 “Khi người ta bách
hại anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật anh em:
anh em chưa đi hết các thành của Ít-ra-en, thì Con Người đã đến.
24 “Trò không hơn thầy,
tớ không hơn chủ. 25 Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá
lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bê-en-dê-bun, huống chi là người nhà.
Hãy
nói giữa ban ngày, đừng có sợ (Lc 12:2-9)
26 “Vậy anh em đừng sợ
người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí
mật, mà người ta sẽ không biết. 27 Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm,
thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà
rao giảng.
28 “Anh em đừng sợ những
kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có
thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục. 29 Hai con chim sẻ chỉ
bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý
của Cha anh em. 30 Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên
đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. 31 Vậy anh em đừng sợ, anh em còn
quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.
32 “Phàm ai tuyên bố
nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt
Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. 33 Còn ai chối Thầy trước mặt thiên
hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.
Đức
Giê-su đến để gây chia rẽ (Lc 12:51-53)
34 “Anh em đừng tưởng
Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để
đem gươm giáo. 35 Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với
cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. 36 Kẻ thù của
mình chính là người nhà.
Từ
bỏ mình để theo Đức Giê-su (Lc 14:26-27)
37 “Ai yêu cha yêu mẹ
hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không
xứng với Thầy. 38 Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không
xứng với Thầy. 39 Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều
mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.
Ai
đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy (Mc 9, 41)
40 “Ai đón tiếp anh em
là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.
41 “Ai đón tiếp một ngôn
sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ;
ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được
lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính.
42 “Và ai cho một trong
những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của
Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”
Chương 11
IV.
MẦU NHIỆM NƯỚC TRỜI
1.
PHẦN KÝ THUẬT
Nhập
đề
1
Ra
chỉ thị cho mười hai môn đệ xong, Đức Giê-su rời chỗ đó, đi dạy dỗ và rao giảng
trong các thành thị trong miền.
Câu
hỏi của ông Gio-an Tẩy Giả và câu trả lời của Đức Giê-su (Lc 7, 18-28)
2
Ông
Gio-an lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ
đến hỏi Người rằng: 3 “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến
không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” 4 Đức Giê-su trả lời:
”Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: 5 Người
mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết
sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, 6 và phúc thay người nào
không vấp ngã vì tôi.”
7
Họ
đi rồi, Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về ông Gio-an rằng: ”Anh em ra xem
gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? 8 Thế thì anh em ra
xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì
ở trong cung điện nhà vua. 9 Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn
sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. 10
Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả
của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.
11 “Tôi nói thật với anh
em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an
Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông. 12 Từ
thời ông Gio-an Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh,
ai mạnh sức thì chiếm được. 13 Cho đến ông Gio-an, tất cả các ngôn
sứ cũng như Lề Luật đều đã nói tiên tri. 14 Và nếu anh em chịu tin
lời tôi, thì ông Gio-an chính là Ê-li-a, người phải đến. 15 Ai có
tai thì nghe.
Đức
Giê-su phán đoán về thế hệ của Người (Lc 7:31-35)
16 “Tôi phải ví thế hệ
này với ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác, 17 và
nói:
“
Tụi tôi thổi sáo cho các anh,
mà
các anh không nhảy múa;
tụi
tôi hát bài đưa đám,
mà
các anh không đấm ngực khóc than.”
18
Thật
vậy, ông Gio-an đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: ”Ông ta bị quỷ ám.”
19 Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo:
”Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.” Nhưng đức
Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động.”
Khốn
cho những thành đã chứng kiến các phép lạ mà không sám hối (Lc 10, 13-15)
20
Bấy
giờ Người bắt đầu quở trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người
làm mà không sám hối:
21 “Khốn cho ngươi, hỡi
Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các
ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu
tỏ lòng sám hối. 22 Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán
xét, thành Tia và thành Xi-đôn còn được xử khoan hồng hơn các ngươi. 23 Còn
ngươi nữa, hỡi Ca-phác-na-um, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư?
Ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi ngươi mà
được làm tại Xơ-đôm, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. 24 Vì
thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, đất Xơ-đôm còn được xử khoan
hồng hơn các ngươi.”
Chúa
Cha và người Con (Lc 10:21-22)
25
Vào
lúc ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói: ”Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi
khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều
này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. 26 Vâng, lạy Cha, vì
đó là điều đẹp ý Cha.
27 “Cha tôi đã giao phó
mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai
biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.
Hãy
mang lấy ách của tôi
28 “Tất cả những ai đang
vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. 29
Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền
hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. 30 Vì
ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.”
Chương 12
Môn
đệ bứt lúa ăn ngày sa-bát (Mc 2:23-28; Lc 6:1-5)
1
Hôm
ấy, vào ngày sa-bát, Đức Giê-su đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ thấy
đói và bắt đầu bứt lúa ăn. 2 Người Pha-ri-sêu thấy vậy, mới nói với
Đức Giê-su: ”Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm ngày sa-bát!”
3 Người đáp: ”Các ông chưa đọc trong Sách sao? Ông Đa-vít đã làm gì,
khi ông và thuộc hạ đói bụng? 4 Ông vào nhà Thiên Chúa, và đã cùng thuộc hạ ăn
bánh tiến. Thứ bánh này, họ không được phép ăn, chỉ có tư tế mới được ăn mà
thôi. 5 Hay các ông chưa đọc trong sách Luật rằng ngày sa-bát, các
tư tế trong Đền Thờ vi phạm luật sa-bát mà không mắc tội đó sao? 6 Tôi nói cho
các ông hay: ở đây còn lớn hơn Đền Thờ nữa. -7 Nếu các ông hiểu được ý nghĩa
của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông đã chẳng lên án kẻ
vô tội. 8 Quả thế, Con Người làm chủ ngày sa-bát.”
Đức
Giê-su chữa người bị bại tay trong ngày sa-bát (Mc 3:1-6; Lc 6:6-11)
9
Đức
Giê-su bỏ đó mà đi vào hội đường của họ. 10 Tại đây, có người bị bại
một tay. Người ta hỏi Đức Giê-su rằng: ”Có được phép chữa bệnh ngày sa-bát
không?” Họ hỏi thế là để tố cáo Người. 11 Người đáp: ”Ai trong các
ông có một con chiên độc nhất bị sa hố ngày sa-bát, lại không nắm lấy nó và kéo
lên sao? 12 Mà người thì quý hơn chiên biết mấy! Vì thế, ngày sa-bát được phép
làm điều lành.” 13 Rồi Đức Giê-su bảo người bại tay: ”Anh giơ tay
ra!” Người ấy giơ ra và tay liền trở lại bình thường lành mạnh như tay kia. 14
Ra khỏi đó, nhóm Pha-ri-sêu bàn bạc để tìm cách giết Đức Giê-su.
Đức
Giê-su, người Tôi Trung của Thiên Chúa
15
Biết
vậy, Đức Giê-su lánh khỏi nơi đó. Dân chúng theo Người đông đảo và Người chữa
lành hết. 16 Người còn cấm họ không được tiết lộ Người là ai. 17
Như thế là để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a đã nói: 18 “Đây
là người Tôi Trung Ta đã tuyển chọn, đây là người Ta yêu dấu: Ta hài lòng về
Người. Ta cho Thần Khí Ta ngự trên Người. Người sẽ loan báo công lý trước muôn
dân. 19 Người sẽ không cãi vã, không kêu to, chẳng ai nghe thấy
Người lên tiếng giữa phố phường. 20 Cây lau bị giập, Người không
đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Người đưa công lý
đến toàn thắng, 21 và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Người.
Đức
Giê-su và quỷ vương Bê-en-dê-bun (Mc 3:20-30; Lc 11:14-23)
22
Bấy
giờ họ đem đến cho Đức Giê-su một người bị quỷ ám vừa mù lại vừa câm. Người
chữa anh ta, khiến anh nói và thấy được. 23 Tất cả dân chúng đều
sửng sốt và nói: ”Ông này chẳng phải là Con vua Đa-vít sao?” 24 Nghe
vậy, những người Pha-ri-sêu nói rằng: ”Ông này trừ được quỷ chỉ là nhờ dựa thế
quỷ vương Bê-en-dê-bun.”
25
Biết
ý nghĩ của họ, Đức Giê-su nói: ”Bất cứ nước nào tự chia rẽ, thì sẽ điêu tàn.
Bất cứ thành nào hay nhà nào tự chia rẽ, thì sẽ không tồn tại. 26 Nếu
Xa-tan trừ Xa-tan, thì Xa-tan tự chia rẽ: nước nó tồn tại sao được? 27 Nếu tôi
dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ, thì đệ tử các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy, chính
họ sẽ xét xử các ông. 28 Còn nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa
mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.
29 “Làm sao người ta có
thể vào nhà một kẻ mạnh và cướp của được, nếu không trói kẻ mạnh ấy trước đã,
rồi mới cướp sạch nhà nó?
30 “Ai không đi với tôi,
là chống lại tôi; và ai không cùng tôi thu góp, là phân tán. 31 Vì
thế, tôi nói cho các ông hay: mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được
tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. 32 Ai
nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng
được tha, cả đời này lẫn đời sau.
Lòng
có đầy, miệng mới nói ra (Lc 6:43-45)
33 “Cây mà tốt thì quả
cũng tốt; cây mà sâu thì quả cũng sâu, vì xem quả thì biết cây. 34 Loài
rắn độc kia, xấu như các người, thì làm sao nói điều tốt được? Vì lòng có đầy,
miệng mới nói ra. 35 Người tốt thì rút cái tốt từ kho tàng tốt của
mình; kẻ xấu thì rút cái xấu từ kho tàng xấu của mình. 36 Tôi nói
cho các người hay: đến Ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lời về mọi điều vô
ích mình đã nói. 37 Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án;
và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án.”
Dấu
lạ ngôn sứ Giô-na (Mc 8:11-12; Lc 11:29-32)
38
Bấy
giờ có mấy kinh sư và mấy người Pha-ri-sêu nói với Đức Giê-su rằng: ”Thưa Thầy,
chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ.” 39 Người đáp: ”Thế hệ gian
ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài
dấu lạ ngôn sứ Giô-na. 40 Quả thật, ông Giô-na đã ở trong bụng kình
ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba
đêm như vậy. 41 Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy
cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông
Giô-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa. 42 Trong cuộc
phán xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với thế hệ này, và bà sẽ kết án
họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua
Sa-lô-môn; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-môn nữa.
Quỷ
phản công (Lc 11:24-26)
43 “Khi thần ô uế xuất
khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi mà tìm
không ra. 44 Bấy giờ nó nói: ”Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra
đi.” Khi đến nơi, nó thấy nhà để trống, lại được quét tước, trang hoàng hẳn hoi.
45 Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó.
Rốt cuộc, tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước. Thế hệ gian ác này rồi
cũng sẽ bị như vậy.”
Ai
thuộc gia đình của Đức Giê-su? (Mc 3:31-35; Lc 8:19-21)
46
Người
còn đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm
cách nói chuyện với Người. 47 Có kẻ thưa Người rằng: ”Thưa Thầy, có
mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy.” 48 Người
bảo kẻ ấy rằng: ”Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” 49 Rồi Người giơ
tay chỉ các môn đệ và nói: ”Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. 50 Vì
phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em
tôi, là mẹ tôi.”
Chương 13
2.
BÀI GIẢNG BẰNG DỤ NGÔN
Nhập
đề (Mc 4:1-2; Lc 8:4)
1
Hôm
ấy, Đức Giê-su từ trong nhà đi ra ngồi ở ven Biển Hồ. 2 Dân chúng tụ
họp bên Người rất đông, nên Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân
chúng thì đứng trên bờ. 3 Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều
điều.
Dụ
ngôn người gieo giống (Mc 4:3-9; Lc 8:5-8)
4
Trong
khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. 5
Có những hạt rơi trên nơi sỏi đá, chỗ đất không có nhiều; nó mọc ngay, vì
đất không sâu; 6 nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ
nên bị chết khô. 7 Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó
chết nghẹt. 8 Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết
quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục. 9 Ai có
tai thì nghe.”
Tại
sao Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói? (Mc 4:10-12; Lc 8, 9-10)
10
Các
môn đệ đến gần hỏi Đức Giê-su rằng: ”Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?” 11
Người đáp: ”Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời,
còn họ thì không. 12 Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa;
còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất. 13 Bởi
thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà
không nghe không hiểu. 14 Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm
của ngôn sứ I-sai-a, rằng: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố
mắt nhìn cũng chẳng thấy; 15 vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã
bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán
cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành.
16 “Còn anh em, mắt anh
em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe. 17 Quả
thế, Thầy bảo thật anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi
thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà
không được nghe.
Giải
nghĩa dụ ngôn người gieo giống (Mc 4:13-20; Lc 8:11-15)
18 “Vậy anh em hãy nghe
dụ ngôn người gieo giống. 19 Hễ ai nghe lời rao giảng Nước Trời mà
không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy: đó là kẻ
đã được gieo bên vệ đường. 20 Còn kẻ được gieo trên nơi sỏi đá, đó
là kẻ nghe Lời và liền vui vẻ đón nhận. 21 Nhưng nó không đâm rễ mà
là kẻ nhất thời: khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, nó vấp ngã ngay. 22
Còn kẻ được gieo vào bụi gai, đó là kẻ nghe Lời, nhưng nỗi lo lắng sự
đời, và bả vinh hoa phú quý bóp nghẹt, khiến Lời không sinh hoa kết quả gì. 23
Còn kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên
sinh hoa kết quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba
chục.”
Dụ
ngôn cỏ lùng
24
Đức
Giê-su trình bày cho dân chúng nghe một dụ ngôn khác: ”Nước Trời ví như chuyện
người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. 25 Khi mọi người đang
ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi mất. 26
Khi lúa mọc lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng xuất hiện. 27 Đầy
tớ mới đến thưa chủ nhà rằng: ”Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong
ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?” Ông đáp: ”Kẻ thù đã làm đó!”
Đầy tớ nói: ”Vậy ông có muốn chúng tôi ra đi gom lại không?” 29 Ông
đáp: ”Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. 30 Cứ
để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy
gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho
tôi.”
Dụ
ngôn hạt cải (Mc 4:30-32; Lc 13:18-19)
31
Đức
Giê-su còn trình bày cho họ nghe một dụ ngôn khác. Người nói: ”Nước Trời cũng
giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. 32 Tuy
nó là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là
thứ lớn nhất; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được.”
Dụ
ngôn men trong bột (Lc 13:20-21)
33
Người
còn kể cho họ một dụ ngôn khác: ”Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia
lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men.”
Tại
sao Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói? (Mc 4:33-34)
34
Tất
cả các điều ấy, Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói với đám đông; và Người không nói
gì với họ mà không dùng dụ ngôn, 35 hầu ứng nghiệm lời sấm của ngôn
sứ: Mở miệng ra, tôi sẽ kể dụ ngôn, công bố những điều được giữ kín từ tạo
thiên lập địa.
Giải
nghĩa dụ ngôn cỏ lùng
36
Bấy
giờ, Đức Giê-su bỏ đám đông mà về nhà. Các môn đệ lại gần Người và thưa rằng:
”Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe.” 37 Người
đáp: ”Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. 38 Ruộng là thế gian. Hạt
giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái Ác Thần. 39 Kẻ
thù đã gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên
thần. 40 Vậy, như người ta nhặt cỏ lùng rồi lấy lửa đốt đi thế nào,
thì đến ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy. 41 Con Người sẽ sai các
thiên thần của Người tập trung mọi kẻ làm gương mù gương xấu và mọi kẻ làm điều
gian ác, mà tống ra khỏi Nước của Người, 42 rồi quăng chúng vào lò
lửa; ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng. 43 Bấy giờ người công
chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ. Ai có tai thì nghe.
Dụ
ngôn kho báu và ngọc quý
44 “Nước Trời giống như
chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu
lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.
45 “Nước Trời lại cũng
giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. 46 Tìm được một
viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.
Dụ
ngôn chiếc lưới
47 “Nước Trời lại còn
giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. 48 Khi
lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu
thì vứt ra ngoài. 49 Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các
thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, 50
rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
Kết
thúc
51 “Anh em có hiểu tất
cả những điều ấy không?” Họ đáp: ”Thưa hiểu.” 52 Người bảo họ: ”Bởi
vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ
nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ.”
V.
GIÁO HỘI, BƯỚC ĐẦU CỦA NƯỚC TRỜI
1.
PHẦN KÝ THUẬT
Đức
Giê-su về thăm Na-da-rét (Mc 6:1-6; Lc 4:16-30)
53
Khi
Đức Giê-su kể các dụ ngôn ấy xong, Người đi khỏi nơi đó. 54 Người về
quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói: ”Bởi
đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? 55 Ông không phải
là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không
phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao? 56 Và chị em của ông
không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như
thế?” 57 Và họ vấp ngã vì Người. Nhưng Đức Giê-su bảo họ: ”Ngôn sứ
có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà
thôi.” 58 Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin.
Chương 14
Vua
Hê-rô-đê và Đức Giê-su (Mc 6:14-16; Lc 9:7-9)
1
Thời
ấy, tiểu vương Hê-rô-đê nghe danh tiếng Đức Giê-su, 2 thì nói với
những kẻ hầu cận rằng: ”Đó chính là ông Gio-an Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi
dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ.”
Ông
Gio-an Tẩy Giả bị chém đầu (Mc 6:17-29)
3
Số
là vua Hê-rô-đê đã bắt trói ông Gio-an và tống ngục vì bà Hê-rô-đi-a, vợ ông
Phi-líp-phê, anh của nhà vua. 4 Ông Gio-an có nói với vua: ”Ngài
không được phép lấy bà ấy.” 5 Vua muốn giết ông Gio-an, nhưng lại sợ
dân chúng, vì họ coi ông là ngôn sứ. 6 Vậy, nhân ngày sinh nhật của
vua Hê-rô-đê, con gái bà Hê-rô-đi-a đã biểu diễn một điệu vũ trước mặt quan
khách, làm cho nhà vua vui thích. 7 Bởi đó, vua thề là hễ cô xin gì,
vua cũng ban cho. 8 Nghe lời mẹ xui bảo, cô thưa rằng: ”Xin ngài ban
cho con, ngay tại chỗ, cái đầu ông Gio-an Tẩy Giả đặt trên mâm.” 9 Nhà
vua lấy làm buồn, nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên truyền
lệnh ban cho cô. 10 Vua sai người vào ngục chặt đầu ông Gio-an. 11
Người ta đặt đầu ông trên mâm, mang về trao cho cô, và cô ta đem đến cho
mẹ. 12 Môn đệ ông đến lấy thi hài ông đem đi mai táng, rồi đi báo
cho Đức Giê-su.
Đức
Giê-su hoá bánh ra nhiều lần thứ nhất (Mc 6:30-44; Lc 9:10-17; Ga 6:1-14)
13
Nghe
tin ấy, Đức Giê-su lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng
biệt. Nghe biết vậy, đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người. 14
Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh
lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ.
15
Chiều
đến, các môn đệ lại gần thưa với Người: ”Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi,
vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn.” 16
Đức Giê-su bảo: ”Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.”
17 Các ông đáp: ”Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai
con cá!” 18 Người bảo: ”Đem lại đây cho Thầy!” 19 Rồi sau
đó, Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai
con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và
môn đệ trao cho dân chúng. 20 Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu
bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. 21 Số người
ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.
Đức
Giê-su đi trên mặt nước (Mc 6:45-52; Ga 6:16-21)
22
Đức
Giê-su liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người
giải tán dân chúng. 23 Giải tán họ xong, Người lên núi một mình mà
cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình. 24 Còn chiếc thuyền thì
đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió. 25 Vào
khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. 26 Thấy
Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: ”Ma đấy!”, và sợ hãi la lên.
27 Đức Giê-su liền bảo các ông: ”Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng
sợ!” 28 Ông Phê-rô liền thưa với Người: ”Thưa Ngài, nếu quả là Ngài,
thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.” 29 Đức
Giê-su bảo ông: ”Cứ đến!” Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và
đến với Đức Giê-su. 30 Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi
bắt đầu chìm, ông la lên: ”Thưa Ngài, xin cứu con với!” 31 Đức
Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông và nói: ”Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài
nghi?” 32 Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. 33 Những
kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: ”Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!”
Đức
Giê-su chữa nhiều người đau ốm tại Ghen-nê-xa-rét (Mc 6:53-56)
34
Khi
qua biển rồi, thầy trò lên đất liền, vào Ghen-nê-xa-rét. 35 Dân địa
phương nhận ra Đức Giê-su, liền tung tin ra khắp vùng, và người ta đem tất cả
những kẻ đau ốm đến với Người. 36 Họ nài xin Người cho họ chỉ sờ vào
tua áo của Người thôi, và ai đã sờ vào thì đều được khỏi.
Chương 15
Tranh
luận về truyền thống (Mc 7:1-13)
1
Bấy
giờ có mấy người Pha-ri-sêu và mấy kinh sư từ Giê-ru-sa-lem đến gặp Đức Giê-su
và nói rằng: 2 “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân,
không chịu rửa tay khi dùng bữa?” 3 Người trả lời: ”Còn các ông, tại
sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên
Chúa? 4 Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa
cha mẹ, thì phải bị xử tử. 5 Còn các ông, các ông lại bảo: ”Ai nói
với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho
Chúa rồi, 6 thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa” . Như thế,
các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa. 7 Những
kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông
rằng: 8 “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì
lại xa Ta. 9 Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý
chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.
Cái
gì làm cho con người ra ô uế? (Mc 7:14-23)
10
Sau
đó, Đức Giê-su gọi đám đông lại mà bảo: ”Hãy nghe và hiểu cho rõ: 11 Không
phải cái vào miệng làm cho con người ra ô uế, nhưng cái từ miệng xuất ra, cái
đó mới làm cho con người ra ô uế.”
12
Bấy
giờ các môn đệ đến gần Đức Giê-su mà thưa rằng: ”Thầy có biết không? Những
người Pha-ri-sêu đã vấp phạm khi nghe Thầy nói lời ấy.” 13 Đức
Giê-su đáp: ”Cây nào mà Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời, đã không trồng, thì
sẽ bị nhổ đi. 14 Cứ để mặc họ. Họ là những người mù dắt người mù. Mù
mà lại dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố.”
15
Ông
Phê-rô thưa với Người: ”Xin Thầy giải thích dụ ngôn cho chúng con.” 16 Đức
Giê-su đáp: ”Cả anh em nữa, bây giờ mà anh em vẫn còn ngu tối sao? 17 Anh em
không hiểu rằng bất cứ cái gì vào miệng thì xuống bụng, rồi bị thải ra ngoài
sao? 18 Còn những cái gì từ miệng xuất ra, là phát xuất tự lòng, chính những
cái ấy mới làm cho con người ra ô uế. 19 Vì tự lòng phát xuất những
ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng
gian và vu khống. 20 Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế;
còn ăn mà không rửa tay thì không làm cho con người ra ô uế.”
Đức
Giê-su chữa con gái người đàn bà Ca-na-an (Mc 7:24-30)
21
Ra
khỏi đó, Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn, 22 thì này có một
người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: ”Lạy Ngài là con vua
Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” 23 Nhưng
Người không đáp lại một lời.
24
Người
đáp: ”Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” 25
Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: ”Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” 26
Người đáp: ”Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” 27
Bà ấy nói: ”Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những
mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” 28 Bấy giờ Đức Giê-su đáp: ”Này
bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái
bà được khỏi.
Đức
Giê-su chữa nhiều bệnh nhân tại ven Biển Hồ Ga-li-lê
29
Đức
Giê-su xuống khỏi miền ấy, đến ven Biển Hồ Ga-li-lê. Người lên núi và ngồi ở đó.
30 Có những đám người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ
què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những
kẻ ấy dưới chân Người và Người chữa lành, 31 khiến đám đông phải
kinh ngạc vì thấy kẻ câm nói được, người tàn tật được lành, người què đi được,
người mù xem thấy. Và họ tôn vinh Thiên Chúa của Ít-ra-en.
Đức
Giê-su hoá bánh ra nhiều lần thứ hai (Mc 8:1-10)
32
Đức
Giê-su gọi các môn đệ lại mà nói: ”Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở
luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ,
để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường.” 33 Các môn đệ
thưa: ”Trong nơi hoang vắng này, chúng con lấy đâu ra đủ bánh cho đám đông như
vậy ăn no?” 34 Đức Giê-su hỏi: ”Anh em có mấy chiếc bánh?” Các ông
đáp: ”Thưa có bảy chiếc bánh và một ít cá nhỏ.” 35 Bấy giờ, Người
truyền cho đám đông ngồi xuống đất. 36 Rồi Người cầm lấy bảy chiếc
bánh và mấy con cá, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho
đám đông. 37 Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa,
người ta thu lại được bảy thúng đầy. 38 Số người ăn có tới bốn ngàn
người đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con. 39 Sau khi giải tán đám
đông, Đức Giê-su lên thuyền, sang miền Ma-ga-đan.
Chương 16
Người
Do-thái đòi dấu lạ từ trời (Mc 8:11-13; Lc 12:54-56)
1
Bấy
giờ, có những người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc lại gần Đức Giê-su, và
để thử Người, thì xin Người cho thấy một dấu lạ từ trời. 2 Người
đáp: ”Chiều đến, các ông nói: ”Ráng vàng thì nắng”, 3 rồi sớm mai,
các ông nói: ”Ráng trắng thì mưa” . Cảnh sắc bầu trời thì các ông biết cắt
nghĩa, còn thời điềm thì các ông lại không cắt nghĩa nổi. 4 Thế hệ
gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ
nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na.” Rồi Người bỏ họ mà đi.
Men
Pha-ri-sêu và Xa-đốc (Mc 8:14-21)
5
Khi
sang bờ bên kia, các môn đệ quên đem bánh. 6 Đức Giê-su bảo các ông:
”Anh em phải cẩn thận, phải coi chừng men Pha-ri-sêu và Xa-đốc.” 7 Các
môn đệ nghĩ thầm rằng: ”Tại chúng ta không đem bánh.” 8 Nhưng, biết
thế, Đức Giê-su nói: ”Sao anh em lại nghĩ đến chuyện không có bánh, người đâu mà
kém tin vậy? 9 Anh em chưa hiểu ư? Anh em không nhớ chuyện năm chiếc bánh nuôi
năm ngàn người sao? Và anh em còn thu lại được bao nhiêu giỏ? 10 Rồi chuyện bảy
chiếc bánh nuôi bốn ngàn người nữa? Và anh em còn thu lại được bao nhiêu thúng?
11 Tại sao anh em không hiểu rằng Thầy chẳng có ý nói về bánh, khi Thầy nói:
Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu và Xa-đốc?” 12 Bấy giờ các ông
mới hiểu là Người không bảo phải coi chừng men bánh, mà phải coi chừng giáo lý
Pha-ri-sêu và Xa-đốc.
Ông
Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa (Mc 8:27-30; Lc 9:18-21)
13
Khi
Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ
rằng: ”Người ta nói Con Người là ai?” 14 Các ông thưa: ”Kẻ thì nói
là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông
Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.” 15 Đức Giê-su lại hỏi:
”Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” 16 Ông Si-môn Phê-rô thưa:
”Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” 17 Đức Giê-su nói
với ông: ”Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không
phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên
trời. 18 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là
Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần
sẽ không thắng nổi. 19 Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời:
dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất,
anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” 20 Rồi
Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô.
Đức
Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ nhất (Mc 8:31-33; Lc 9:22)
21
Từ
lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi
Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư
gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. 22 Ông Phê-rô
liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: ”Xin Thiên Chúa thương đừng để
Thầy gặp phải chuyện ấy!” 23 Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông
Phê-rô: ”Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh
không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”
Điều
kiện phải có để theo Đức Giê-su (Mc 8:34- 9:1; Lc 9:23-27)
24
Rồi
Đức Giê-su nói với các môn đệ: ”Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác
thập giá mình mà theo. 25 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì
sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. 26
Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có
lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?
27 “Vì Con Người sẽ ngự
đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy
giơ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm. 28 Thầy bảo thật
anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước
khi thấy Con Người đến hiển trị.”
Chương 17
Đức
Giê-su hiển dung (Mc 9:2-8; Lc 9:28-36)
1
Sáu
ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông
Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi
cao. 2 Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan
Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. 3
Và bỗng các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người. 4
Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: ”Lạy Ngài, chúng con ở đây,
thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một
cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.” 5 Ông còn đang nói, chợt có
đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: ”Đây là
Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” 6
Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. 7 Bấy
giờ Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: ”Chỗi dậy đi, đừng sợ!” 8
Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà
thôi.
Câu
hỏi về ngôn sứ Ê-li-a (Mc 9:9-13)
9
Đang
khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông rằng: ”Đừng nói
cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy.” 10 Các
môn đệ hỏi Người rằng: ”Vậy sao các kinh sư lại nói Ê-li-a phải đến trước?” 11
Người đáp: ”Ông Ê-li-a phải đến để chỉnh đốn mọi sự. 12 Nhưng
Thầy nói cho anh em biết: ông Ê-li-a đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử
với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế.” 13 Bấy
giờ các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông Gio-an Tẩy Giả.
Đức
Giê-su chữa đứa trẻ bị kinh phong (Mc 9:14-29; Lc 9:37-43 a)
14
Khi
thầy trò đến với đám đông, thì có một người tới quỳ xuống trước mặt Đức Giê-su
15 và nói: ”Thưa Ngài, xin thương xót con trai tôi, vì cháu bị kinh phong và
bệnh tình nặng lắm: nhiều lần ngã vào lửa, và cũng nhiều lần ngã xuống nước. 16
Tôi đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài chữa, nhưng các ông không chữa
được.” 17 Đức Giê-su đáp: ”Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin và
gian tà! Tôi còn phải ở với các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các
người cho đến bao giờ nữa? Đem cháu lại đây cho tôi.” 18 Đức Giê-su
quát mắng tên quỷ, quỷ liền xuất, và đứa bé được khỏi ngay từ giờ đó.
19
Bấy
giờ các môn đệ đến gần hỏi riêng Đức Giê-su rằng: ”Tại sao chúng con đây lại
không trừ nổi tên quỷ ấy?” 20 Người nói với các ông: ”Tại anh em kém
tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù
anh em có bảo núi này: ”rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng
có gì mà anh em không làm được. (21 Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta
không ăn chay cầu nguyện).”
Đức
Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ hai (Mc 9:30-32; Lc 9:43 b-45)
22
Khi
thầy trò tụ họp ở miền Ga-li-lê, Đức Giê-su nói với các ông: ”Con Người sắp bị
nộp vào tay người đời, 23 họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba
Người sẽ trỗi dậy.” Các môn đệ buồn phiền lắm.
Đức
Giê-su và ông Phê-rô nộp thuế
24
Khi
thầy trò tới Ca-phác-na-um, thì những người thu thuế cho đền thờ đến hỏi ông
Phê-rô: ”Thầy các ông không nộp thuế sao?” 25 Ông đáp: ”Có chứ!” Ông
về tới nhà, Đức Giê-su hỏi đón ông: ”Anh Si-môn, anh nghĩ sao? Vua chúa trần
gian bắt ai đóng sưu nộp thuế? Con cái mình hay người ngoài?” 26 Ông
Phê-rô đáp: ”Thưa, người ngoài.” Đức Giê-su liền bảo: ”Vậy thì con cái được
miễn. 27 Nhưng để khỏi làm gai mắt họ, anh ra biển thả câu; con cá
nào câu được trước hết, thì bắt lấy, mở miệng nó ra: anh sẽ thấy một đồng tiền
bốn quan; anh lấy đồng tiền ấy, nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của
anh.”
Chương 18
2.
BÀI GIẢNG VỀ GIÁO HỘI
Ai
là người lớn nhất trong Nước Trời? (Mc 9:33-37; Lc 9:46-48)
1
Lúc
ấy, các môn đệ lại gần hỏi Đức Giê-su rằng: ”Thưa Thầy, ai là người lớn nhất
trong Nước Trời?” 2 Đức Giê-su liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa
các ông 3 và bảo: ”Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như
trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.
4 “Vậy ai tự hạ, coi
mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.
Đừng
làm cớ cho người ta sa ngã (Mc 9:42-48; Lc 17:1-2)
5 “Còn ai tiếp đón một
em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. 6 Nhưng ai
làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà
treo cối đá lớn vào cổ nó mà xô cho chìm xuống đáy biển còn hơn. 7 Khốn
cho thế gian, vì làm cớ cho người ta sa ngã. Tất nhiên phải có những cớ gây sa
ngã, nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã.
8 “Nếu tay hoặc chân
anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà được
vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời. 9
Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà
được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục.
10 “Anh em hãy coi
chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh
em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha
Thầy, Đấng ngự trên trời. 11 Vì Con Người đến để cứu cái gì đã hư
mất).
Con
chiên lạc (Lc 15:4-7)
12 “Anh em nghĩ sao? Ai
có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia
trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? 13 Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo
thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con
không bị lạc. 14 Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không
muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.
Sửa
lỗi anh em
15 “Nếu người anh em của
anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu
nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em. 16 Còn
nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công
việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. 17 Nếu
nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng
nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.
18 “Thầy bảo thật anh
em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy;
dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy.
Hiệp
lời cầu nguyện
19 “Thầy còn bảo thật anh
em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì
Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. 20 Vì ở đâu có hai ba
người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”
Anh
em tha thứ cho nhau (Lc 17:3b-4)
21
Bấy
giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: ”Thưa Thầy, nếu anh em con cứ
xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” 22
Đức Giê-su đáp: ”Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần
bảy.”
Dụ
ngôn tên mắc nợ không biết thương xót
23
Vì
thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của
mình thanh toán sổ sách. 24 Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta
dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. 25 Y không có gì để
trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. 26 Bấy
giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: ”Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại
cho tôi, tôi sẽ lo trả hết.” 27 Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh
lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ. 28 Nhưng vừa ra đến ngoài,
tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm
lấy, bóp cổ mà bảo: ”Trả nợ cho tao!” 29 Bấy giờ, người đồng bạn sấp
mình xuống năn nỉ: ”Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả
anh.” 30 Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả
xong nợ. 31 Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn
lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. 32 Bấy giờ,
tôn chủ cho đòi y đến và bảo: ”Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy
cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, 33 thì đến lượt ngươi, ngươi
không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?” 34 Rồi
tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ
cho ông. 35 Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh
em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình.”
Chương 19
VI.
NƯỚC TRỜI: TRIỀU ĐẠI THIÊN CHÚA ĐÃ ĐẾN GẦN
1.
PHẦN KÝ THUẬT
Câu
hỏi về việc ly dị (Mc 10:1-12)
1
Khi
Đức Giê-su giảng dạy những điều ấy xong, Người rời khỏi miền Ga-li-lê và đi đến
miền Giu-đê, bên kia sông Gio-đan. 2 Dân chúng lũ lượt đi theo
Người, và Người đã chữa họ ở đó. 3 Có mấy người Pha-ri-sêu đến gần
Đức Giê-su để thử Người. Họ nói: ”Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ
lý do nào không?” 4 Người đáp: ”Các ông không đọc thấy điều này sao:
”Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ”, 5 và
Người đã phán: ”Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai
sẽ thành một xương một thịt.” 6 Như vậy, họ không còn là hai, nhưng
chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không
được phân ly.” 7 Họ thưa với Người: ”Thế sao ông Mô-sê lại truyền
dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ?” 8 Người bảo họ: ”Vì các ông lòng chai
dạ đá, nên ông Mô-sê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế
đâu. 9 Tôi nói cho các ông biết: Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất
hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình.”
Tự
nguyện sống khiết tịnh
10
Các
môn đệ thưa Người: ”Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy
vợ còn hơn.” 11 Nhưng Người nói với các ông: ”Không phải ai cũng
hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu. 12
Quả vậy, có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không
có khả năng; có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những
người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu.”
Đức
Giê-su và trẻ em (Mc 10:13-16; Lc 18:15-17)
13
Bấy
giờ người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng và cầu
nguyện. Các môn đệ la rầy chúng. 14 Nhưng Đức Giê-su nói: ”Cứ để trẻ
em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai giống như
chúng.” 15 Người đặt tay trên chúng, rồi đi khỏi nơi đó.
Người
thanh niên có nhiều của cải (Mc 10, 17-22; Lc 18:18-23)
16
Bấy
giờ có một người đến thưa Đức Giê-su rằng: ”Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt
để được hưởng sự sống đời đời?” 17 Đức Giê-su đáp: ”Sao anh hỏi tôi
về điều tốt? Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi. Nếu anh muốn vào cõi sống, thì
hãy giữ các điều răn.” 18 Người ấy hỏi: ”Điều răn nào?” Đức Giê-su
đáp: ”Ngươi không được giết người. Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không
được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian. 19 Ngươi phải thờ
cha kính mẹ”, và “Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình.” 20 Người
thanh niên ấy nói: ”Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ, tôi còn thiếu điều
gì nữa không?” 21 Đức Giê-su đáp: ”Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì
hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng
trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” 22 Nghe lời đó, người thanh niên
buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.
Người
giàu có khó vào Nước Trời (Mc 10:23-27; Lc 18:24-27)
23
Bấy
giờ Đức Giê-su nói với các môn đệ của Người: ”Thầy bảo thật anh em, người giàu
có khó vào Nước Trời. 24 Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà
chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” 25 Nghe
nói vậy, các môn đệ vô cùng sửng sốt và nói: ”Thế thì ai có thể được cứu?” 26
Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: ”Đối với loài người thì điều đó
không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.”
Phần
thưởng dành cho ai bỏ mọi sự mà theo Đức Giê-su (Mc 10:28-31; Lc 18:28-30)
27
Bấy
giờ ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: ”Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ
mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” 28 Đức Giê-su đáp:
”Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái
sinh, khi Con Người ngự toà vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai
toà mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en. 29 Và phàm ai bỏ nhà cửa,
anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp
bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp.
30 “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ
phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu.”
Chương 20
Dụ
ngôn thợ làm vườn nho
1 “Nước Trời giống như
chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho
của mình. 2 Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền,
ông sai họ vào vườn nho làm việc. 3 Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở
ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. 4 Ông
cũng bảo họ: ”Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp
lẽ công bằng.” 5 Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín,
ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. 6 Khoảng giờ mười một, ông trở
ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: ”Sao các anh đứng
đây suốt ngày không làm gì hết?” 7 Họ đáp: ”Vì không ai mướn chúng
tôi.” Ông bảo họ: ”Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!” 8 Chiều
đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: ”Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ,
bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.” 9
Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi
người một quan tiền. 10 Khi đến lượt những người vào làm trước nhất,
họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một
quan tiền. 11 Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: 12 “Mấy
người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với
chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng
nôi thiêu đốt.” 13 Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: ”Này
bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một
quan tiền sao? 14 Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người
vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. 15 Chẳng lẽ tôi lại
không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt
bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” 16 Thế là những kẻ đứng chót sẽ được
lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. (Vì kẻ được gọi
thì nhiều, mà người được chọn thì ít. )
Đức
Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ ba (Mc 10:32-34; Lc 18:31-34)
17
Lúc
sắp lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đưa Nhóm Mười Hai đi riêng với mình, và dọc
đường, Người nói với các ông: 18 “Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem, và
Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, 19
sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá
và, ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy.”
Bà
mẹ của hai người con ông Dê-bê-đê (Mc 10:35-40)
20
Bấy
giờ bà mẹ của các con ông Dê-bê-đê đến gặp Đức Giê-su, có các con bà đi theo;
bà bái lạy và kêu xin Người một điều. 21 Người hỏi bà: ”Bà muốn gì?”
Bà thưa: ”Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây, một người ngồi bên hữu, một
người bên tả Thầy trong Nước Thầy.” 22 Đức Giê-su bảo: ”Các người
không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?”
Họ đáp: ”Thưa uống nổi.” 23 Đức Giê-su bảo: ”Chén của Thầy, các người
sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho,
nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được.”
Ai
làm lớn phải phục vụ (Mc 10:40-45)
24
Nghe
vậy, mười môn đệ kia tức tối với hai anh em đó. 25 Nhưng Đức Giê-su
gọi các ông lại và nói: ”Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị
dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. 26 Giữa anh
em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục
vụ anh em. 27 Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. 28
Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để
phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.”
Đức
Giê-su chữa hai người mù tại Giê-ri-khô (Mc 10:46-52; Lc 18:35-43)
29
Khi
Đức Giê-su và môn đệ ra khỏi thành Giê-ri-khô, dân chúng lũ lượt đi theo Người.
30 Và kìa có hai người mù ngồi ở vệ đường, vừa nghe Đức Giê-su đi
ngang qua đó, liền kêu lên rằng: ”Lạy Ngài, lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng
thương chúng tôi!” 31 Đám đông quát nạt, bảo họ im đi, nhưng họ càng
kêu lớn hơn nữa: ”Lạy Ngài, lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương chúng tôi!” 32
Đức Giê-su dừng lại, gọi họ đến và nói: ”Các anh muốn tôi làm gì cho các
anh?” 33 Họ thưa: ”Lạy Ngài, xin cho mắt chúng tôi được mở ra!” 34
Đức Giê-su chạnh lòng thương, sờ vào mắt họ; tức khắc, họ nhìn thấy được
và đi theo Người.
Chương 21
Đức
Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a (Mc 11:1-11; Lc 19:28-38;
Ga 12:12-16)
1
Khi
thầy trò đến gần thành Giê-ru-sa-lem và tới làng Bết-pha-ghê, phía núi Ô-liu,
Đức Giê-su sai hai môn đệ và 2 bảo: ”Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ
thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh cởi
dây ra và dắt về cho Thầy. 3 Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả
lời là Chúa cần đến chúng, Người sẽ gởi lại ngay.” 4 Sự việc đó xảy
ra như thế để ứng nghiệm lời ngôn sứ: 5 “Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa
Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con,
là con của một con vật chở đồ.
6
Các
môn đệ ra đi và làm theo lời Đức Giê-su đã truyền. 7 Các ông dắt lừa
mẹ và lừa con về, trải áo choàng của mình trên lưng chúng, và Đức Giê-su cỡi
lên. 8 Một đám người rất đông cũng lấy áo choàng trải xuống mặt
đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá mà rải lên lối đi. 9 Dân
chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: Hoan hô Con vua Đa-vít!
Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời.
10
Khi
Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: ”Ông này
là ai vậy?” 11 Dân chúng trả lời: ”Ngôn sứ Giê-su, người Na-da-rét,
xứ Ga-li-lê đấy.”
Đức
Giê-su đuổi những người đang mua bán trong Đền Thờ (Mc 11:15-19; Lc 19:45-48;
Ga 2:13-22)
12
Đức
Giê-su vào Đền Thờ, đuổi tất cả những người đang mua bán trong Đền Thờ, lật bàn
của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu. 13 Rồi
Người bảo họ: ”Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế
mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp.” 14 Có những kẻ
mù loà, què quặt đến với Người trong Đền Thờ, và Người đã chữa họ lành. 15
Nhưng các thượng tế và kinh sư thấy những việc lạ lùng Người đã làm và
thấy lũ trẻ reo hò trong Đền Thờ: ”Hoan hô Con vua Đa-vít!”, thì tức tối 16 và
nói với Người rằng: ”Ông có nghe chúng nói gì không?” Đức Giê-su đáp: ”Có;
nhưng còn lời này, các ông chưa bao giờ đọc sao: Ta sẽ cho miệng con thơ trẻ
nhỏ cất tiếng ngợi khen?” 17 Rồi Người bỏ họ mà ra khỏi thành, đến
Bê-ta-ni-a và qua đêm tại đó.
Cây
vả không ra trái (Mc 11:12-14, 20-24)
18
Sáng
sớm, khi trở vào thành, Người cảm thấy đói. 19 Trông thấy cây vả ở
bên đường, Người lại gần nhưng không tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi. Nên
Người nói: ”Từ nay, không bao giờ mày có trái nữa!” Cây vả chết khô ngay lập
tức. 20 Thấy vậy, các môn đệ ngạc nhiên nói: ”Sao cây vả lại chết
khô ngay lập tức như thế?” 21 Đức Giê-su trả lời: ”Thầy bảo thật anh
em, nếu anh em tin và không chút nghi nan, thì chẳng những anh em làm được điều
Thầy vừa làm cho cây vả, mà hơn nữa, anh em có bảo núi này: ”Dời chỗ đi, nhào
xuống biển!”, thì sự việc sẽ xảy ra như thế. 22 Tất cả những gì anh
em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì anh em sẽ được.”
Câu
hỏi về quyền bính của Đức Giê-su (Mc 11:27-33; Lc 20:1-8)
23
Đức
Giê-su vào Đền Thờ, và trong khi Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ mục trong
dân đến gần Người và hỏi: ”Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông
quyền ấy?” 24 Đức Giê-su đáp: ”Còn tôi, tôi chỉ xin hỏi các ông một
điều thôi; nếu các ông trả lời được cho tôi, thì tôi cũng sẽ nói cho các ông
biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. 25 Vậy, phép rửa của ông
Gio-an do đâu mà có? Do Trời hay do người ta?” Họ mới nghĩ thầm: ”Nếu mình nói:
”Do Trời”, thì ông ấy sẽ vặn lại: ”Thế sao các ông lại không tin ông ấy?” 26
Còn nếu mình nói: ”Do người ta”, thì mình sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho
ông Gio-an là một ngôn sứ.” 27 Họ mới trả lời Đức Giê-su: ”Chúng tôi
không biết.” Người cũng nói với họ: ”Tôi cũng vậy, tôi không nói cho các ông là
tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy.”
Dụ
ngôn hai người con
28
Các
ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất:
”Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.” 29 Nó đáp: ”Con không
muốn đâu!” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. 30 Ông đến gặp
người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: ”Thưa ngài, con đây!” nhưng rồi lại
không đi. 31 Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người
cha?” Họ trả lời: ”Người thứ nhất.” Đức Giê-su nói với họ: ”Tôi bảo thật các
ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các
ông. 32 Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà
các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại
tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin
ông ấy.”
Dụ
ngôn những tá điền sát nhân (Mc 12:1-12; Lc 20:9-19)
33
Các
ông hãy nghe một dụ ngôn khác: ”Có gia chủ kia trồng được một vườn nho; chung
quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp
canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. 34 Gần đến mùa hái
nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi. 35 Bọn tá
điền bắt các đầy tớ ông: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ.
36 Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền
cũng xử với họ y như vậy. 37 Sau cùng, ông sai chính con trai mình
đến gặp chúng, vì nghĩ rằng: ”Chúng sẽ nể con ta.” 38 Nhưng bọn tá
điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: ”Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách
nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!” 39 Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng
ra bên ngoài vườn nho, và giết đi. 40 Vậy xin hỏi: Khi ông chủ vườn
nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?” 41 Họ đáp: ”Ác giả ác báo,
ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ
đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông.” 42 Đức Giê-su bảo họ: ”Các ông
chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại
trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu
trước mắt chúng ta.
43
Bởi
đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho
các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi. 44 Ai
ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát
thịt).”
45
Nghe
những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pha-ri-sêu hiểu là Người nói về
họ. 46 Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng
cho Người là một ngôn sứ.
Chương 22
Dụ
ngôn tiệc cưới (Lc 14:15-24)
1
Đức
Giê-su lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: 2 “Nước Trời cũng giống
như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. 3 Nhà vua sai đầy
tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ
không chịu đến. 4 Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi, và dặn họ:
”Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và
thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!” 5 Nhưng
quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi
buôn, 6 còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và
giết chết. 7 Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn
sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng. 8 Rồi nhà vua bảo đầy
tớ: ”Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. 9
Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới.” 10
Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp
cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.
11 “Bấy giờ nhà vua tiến
vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, 12
mới hỏi người ấy: ”Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ
cưới?” Người ấy câm miệng không nói được gì. 13 Nhà vua liền bảo
những người phục dịch: ”Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên
ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng! 14 Vì kẻ được gọi thì nhiều,
mà người được chọn thì ít.”
Nộp
thuế cho Xê-da (Mc 12:13-17; Lc 20:20-26)
15
Bấy
giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giê-su
phải lỡ lời mà mắc bẫy.
16
Họ
sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hê-rô-đê, đến nói với Đức
Giê-su rằng: ”Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật
mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề
ngoài mà đánh giá người ta. 17 Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được
phép nộp thuế cho Xê-da hay không?”
18
Nhưng
Đức Giê-su biết họ có ác ý, nên Người nói: ”Tại sao các người lại thử tôi, hỡi
những kẻ giả hình! 19 Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế!” Họ liền đưa cho Người
một quan tiền. 20 Người hỏi họ: ”Hình và danh hiệu này là của ai
đây?” 21 Họ đáp: ”Của Xê-da.” Bấy giờ, Người bảo họ: ”Thế thì của Xê-da,
trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” 22 Nghe vậy, họ
ngạc nhiên và để Người lại đó mà đi.
Kẻ
chết sống lại (Mc 12:18-27; Lc 20:27-40)
23
Hôm
đó, có những người thuộc nhóm Xa-đốc, đen gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương
không có sự sống lại. Họ hỏi Người: 24 “Thưa Thầy, ông Mô-sê có nói:
Nếu ai chết mà không có con, thì anh hay em của người ấy phải cưới lấy người vợ
goá, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. 25 Mà, trong chúng
tôi, nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, rồi chết, và vì không có
con nối dòng, nên để vợ lại cho em. 26 Người thứ hai, rồi người thứ
ba, cho đến hết bảy người, người nào cũng vậy. 27 Sau hết, người đàn
bà ấy cũng chết. 28 Vậy, trong ngày sống lại, bà ấy sẽ là vợ ai
trong số bảy người, vì tất cả đều đã lấy bà?” 29 Đức Giê-su trả lời
họ: ”Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng Thiên
Chúa. 30 Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy
chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời. 31 Còn về vấn đề
kẻ chết sống lại, thì các ông không đọc lời Thiên Chúa đã phán cùng các ông
sao? 32 Người phán: Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác và
Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là
của kẻ sống.” 33 Dân chúng kinh ngạc khi nghe lời Người dạy.
Điều
răn trọng nhất (Mc 12:28-34; Lc 10:25-28)
34
Khi
nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người
Pha-ri-sêu họp nhau lại. -35 Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su
để thử Người rằng: 36 “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn
nào là điều răn trọng nhất?” 37 Đức Giê-su đáp: ”Ngươi phải yêu mến
Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. 38
Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. 39 Còn
điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như
chính mình. 40 Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc
vào hai điều răn ấy.”
Đức
Ki-tô là Con và cũng là Chúa của vua Đa-vít (Mc 12:35-37; Lc 20:41-44)
41
Những
người Pha-ri-sêu đang tụ tập thì Đức Giê-su hỏi họ42 rằng: ”Các ông nghĩ sao về
Đấng Ki-tô? Người là con của ai?” Họ thưa: ”Con của vua Đa-vít.” 43 Người
hỏi: ”Vậy tại sao vua Đa-vít, được Thần Khí soi sáng, lại gọi Người là Chúa
Thượng, khi nói rằng: 44 Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi: bên hữu
Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con?
45 “Vậy nếu vua Đa-vít
gọi Đấng Ki-tô là Chúa Thượng, thì làm sao Đấng Ki-tô lại là con vua ấy được?” 46
Không ai đáp lại Người được một tiếng. Và từ ngày ấy, chẳng ai còn dám
chất vấn Người nữa.
Chương 23
Các
kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình (Mc 12:38-40; Lc 11:43-46; 20:45-47)
1
Bấy
giờ, Đức Giê-su nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: 2 “Các
kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. 3 Vậy,
tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì
đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm. 4 Họ bó những gánh nặng mà
chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. 5
Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh
thật lớn, mang những tua áo thật dài. 6 Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám
tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, 7 ưa được người ta chào
hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi” .
8 “Phần anh em, thì
đừng để ai gọi mình là “ráp-bi”, vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em
đều là anh em với nhau. 9 Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là
cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. 10 Anh em
cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo,
là Đức Ki-tô. 11 Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người
phục vụ anh em. 12 Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình
xuống, sẽ được tôn lên.
Đức
Giê-su khiển trách các kinh sư và người Pha-ri-sêu (Mc 12:40; Lc 11:39-48; 20:47)
13 “Khốn cho các người,
hỡi các kinh sư và ngươi Pha-ri-sêu giả hình! Các người khoá cửa Nước Trời
không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người
cũng không để họ vào. (14 Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người
Pha-ri-sêu giả hình! Các người nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ
đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các người sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn).
15 “Khốn cho các người,
hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rảo khắp biển cả đất
liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại
làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người.
16 “Khốn cho các người,
những kẻ dẫn đường mù quáng! Các người bảo: ”Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề
cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc.” 17
Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của
thánh, cái nào trọng hơn? 18 Các người còn nói: ”Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có
thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, thì bị ràng buộc.”
19 Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên
của thánh, cái nào trọng hơn? 20 Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề, là chỉ bàn thờ và
mọi sự trên bàn thờ mà thề. 21 Và ai chỉ Đền Thờ mà thề, là chỉ Đền
Thờ và Đấng ngự ở đó mà thề. 22 Và ai chỉ trời mà thề, là chỉ ngai
Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề.
23 “Khốn cho các người,
hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về
bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là
công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia
thì không được bỏ. 24 Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con
muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.
25 “Khốn cho các người,
hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén
đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ. 26 Hỡi
người Pha-ri-sêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để
bên ngoài cũng được sạch.
27 “Khốn cho các người,
hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi,
bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô
uế. 28 Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt
thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!
29 “Khốn cho các người,
hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người xây mồ cho các ngôn sứ
và tô mả cho những người công chính. 30 Các người nói: ”Nếu như
chúng ta sống vào thời của tổ tiên, hẳn chúng ta đã không thông đồng với các
ngài mà đổ máu các ngôn sứ.” 31 Như vậy, các người tự làm chứng rằng
các người đúng là con cháu của những kẻ đã giết các ngôn sứ. 32 Thì
các người đổ thêm cho đầy đấu tội của tổ tiên các người đi!
Tội
ác và hình phạt (Lc 11:49-51)
33 “Đồ mãng xà, nòi rắn
độc kia! Các người trốn đâu cho khỏi hình phạt hoả ngục? 34 Vì thế, này tôi sai
ngôn sứ, hiền nhân và kinh sư đến cùng các người: các người sẽ giết và đóng
đinh người này vào thập giá, đánh đòn người kia trong hội đường và lùng bắt họ
từ thành này đến thành khác. 35 Như vậy, máu của tất cả những người
công chính đã đổ xuống đất, thì cũng đổ xuống đầu các người, từ máu ông A-ben,
người công chính, đến máu ông Da-ca-ri-a, con ông Be-réc-gia, mà các người đã
giết giữa đền thánh và bàn thờ. 36 Tôi bảo thật các người: tất cả
những tội ấy sẽ đổ xuống đầu thế hệ này.
Đức
Giê-su thương tiếc thành Giê-ru-sa-lem (Lc 13:34-35)
37 “Giê-ru-sa-lem,
Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng
ngươi! Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con
dưới cánh, mà các ngươi không chịu. 38 Thì này, nhà các ngươi sẽ bị
bỏ hoang mặc cho các ngươi. 39 Thật vậy, Ta nói cho các ngươi hay,
từ nay các ngươi sẽ không còn thấy Ta nữa, cho đến khi các ngươi nói: Chúc tụng
Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!”
Chương 24
2.
BÀI GIẢNG VỀ THỜI CÁNH CHUNG
Nhập
đề (Mc 13:1-4; Lc 21:5-7)
1
Khi
Đức Giê-su từ trong Đền Thờ đi ra, thì các môn đệ của Người lại gần chỉ cho
Người xem công trình kiến trúc Đền Thờ. 2 Nhưng Người nói: ”Anh em
nhìn thấy tất cả những cái đó, phải không? Thầy bảo thật anh em: tại đây, sẽ
không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ.” 3 Sau
đó, lúc Người ngồi trên núi Ô-liu, các môn đệ tới gặp riêng Người và thưa: ”Xin
Thầy nói cho chúng con biết khi nào những sự việc ấy xảy ra, và cứ điềm nào mà
biết ngày Thầy quang lâm và ngày tận thế?”
Những
cơn đau đớn khởi đầu (Mc 13:5-13; Lc 21:8-19)
4
Đức
Giê-su đáp: ”Anh em hãy coi chừng, đừng để ai lừa gạt anh em, 5 vì
sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: ”Chính Ta đây là Đấng Ki-tô”, và họ
sẽ lừa gạt được nhiều người. 6 Anh em sẽ nghe có giặc giã và tin đồn
giặc giã; coi chừng, đừng khiếp sợ, vì những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa
phải là tận cùng. 7 Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước
này chống nước nọ. Sẽ có những cơn đói kém, và những trận động đất ở nhiều nơi.
8 Nhưng tất cả những sự việc ấy chỉ là khởi đầu các cơn đau đớn.
9 “Bấy giờ, người ta sẽ
nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, va người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ
bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy. 10 Bấy giờ sẽ có nhiều người
vấp ngã. Người ta sẽ nộp nhau và thù ghét nhau. 11 Sẽ có nhiều ngôn
sứ giả xuất hiện và lừa gạt được nhiều người. 12 Vì tội ác gia tăng,
nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. 13 Nhưng kẻ nào bền
chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
14 “Tin Mừng này về
Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc
được biết. Và bấy giờ sẽ là tận cùng.”
Cơn
gian nan khốn khổ tại Giê-ru-sa-lem (Mc 13:14-23; Lc 21:20-24)
15 “Vậy, khi anh em thấy
đặt trong nơi thánh Đồ Ghê Tởm Khốc Hại mà ngôn sứ Đa-ni-en đã nói đến người
đọc hay lo mà hiểu! 16 thì bấy giờ ai ở miền Giu-đê, hãy trốn lên núi, 17 ai
ở trên sân thượng thì đừng xuống lấy đồ đạc trong nhà, 18 ai ở ngoài
đồng, đừng trở lại phía sau lấy áo choàng của mình. 19 Khốn cho
những người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó! 20
Anh em hãy cầu xin cho khỏi phải chạy trốn vào mùa đông hay ngày sa-bát. 21
Vì khi ấy sẽ có cơn gian nan khốn khổ đến mức từ thuở khai thiên lập địa
cho đến bây giờ chưa khi nào xảy ra, và sẽ không bao giờ xảy ra như vậy nữa. 22
ếu những ngày ấy không được rút ngắn lại, thì không ai được cứu thoát;
nhưng, vì những người được tuyển chọn, các ngày ấy sẽ được rút ngắn
23 “Bấy giờ, nếu có ai
bảo anh em: ”Này, Đấng Ki-tô ở đây” hoặc”ở đó”, thì anh em đừng tin. 24 Thật
vậy, sẽ có những Ki-tô giả và ngôn sứ giả xuất hiện, đưa ra những dấu lạ lớn
lao và những điềm thiêng, đến nỗi chúng lừa gạt cả những người đã được tuyển
chọn, nếu có thể. 25 Thầy báo trước cho anh em đấy!
Cuộc
quang lâm của Con Người (Lc 17:23-24)
26 “Vậy, nếu người ta
bảo anh em: ”Này, Người ở trong hoang địa”, anh em chớ ra đó;”Kìa, Người ở
trong phòng kín”, anh em cũng đừng tin. 27 Vì, như chớp loé ra từ
phương đông và chiếu sáng đến phương tây thế nào, thì cuộc quang lâm của Con
Người cũng sẽ như vậy. 28 Xác chết nằm đâu, diều hâu tụ đó.
Hiện
tượng của ngày Quang Lâm (Mc 13:24-27; Lc 21:25-28)
29 “Ngay sau những ngày
gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các
ngôi sao từ trời sa xuống và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. 30 Bấy
giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; bấy giờ mọi chi tộc trên
mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời
mà đến. 31 Người sẽ sai các thiên sứ của Người thổi loa vang dậy,
tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương, từ chân trời này đến chân
trời kia.
Thí
dụ cây vả (Mc 13:28-32; Lc 21:29-33)
32 “Anh em cứ lấy thí dụ
cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết
là mùa hè đã đến gần. 33 Cũng vậy, khi thấy tất cả những điều đó,
anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi. 34 Thầy
bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. 35
Trời đat sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu. 36 Còn
về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả
người Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi.
Phải
canh thức và sẵn sàng (Mc 13:32-37; Lc 17:26-30, 35-36)
37 “Quả thế, thời ông
Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. 38 Vì
trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng,
mãi cho đen ngày ông Nô-ê vào tàu. 39 Họ không hay biết gì, cho đến
khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như
vậy. 40 Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người
được đem đi, một người bị bỏ lại; 41 hai người đàn bà đang kéo cối
xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại.
42 “Vậy anh em hãy canh
thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. 43 Anh em
hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã
thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. 44 Cho nên anh em cũng
vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ
đến.
Dụ
ngôn người đầy tớ trung tín (Lc 12:42-46)
45 “Vậy thì ai là người
đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà ông chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cấp phát
lương thực cho họ đúng giờ đúng lúc? 46 Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy
anh ta đang làm như vậy. 47 Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta
lên coi sóc tất cả tài sản của mình. 48 Nhưng nếu tên đầy tớ xấu xa
ấy nghĩ bụng: ”Còn lâu chủ ta mới về”, 49 thế rồi hắn bắt đầu đánh
đập các đồng bạn, và chè chén với những bọn say sưa, 50 chủ của tên
đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không chờ, vào giờ hắn không biết, 51 và
ông sẽ loại hắn ra, bắt chung số phận với những tên giả hình: ở đó, người ta sẽ
phải khóc lóc nghiến răng.”
Chương 25
Dụ
ngôn mười trinh nữ
1 “Bấy giờ, Nước Trời
sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. 2 Trong
mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. 3 Quả vậy, các cô dại
mang đèn mà không mang dầu theo. 4 Còn những cô khôn thì vừa mang
đèn vừa mang chai dầu theo. 5 Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp
đi, rồi ngủ cả. 6 Nửa đêm, có tiếng la lên: ”Chú rể kia rồi, ra đón
đi!” 7 Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn.
8 Các cô dại nói với các cô khôn rằng: ”Xin các chị cho chúng em
chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!” 9 Các cô khôn đáp: ”Sợ
không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn.” 10
Đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi
theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. 11 Sau
cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: ”Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng
tôi với!” 12 Nhưng Người đáp: ”Tôi bảo thật các cô, tôi không biết
các cô là ai cả!” 13 Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết
ngày nào, giờ nào.
Dụ
ngôn những yến bạc (Lc 19:12-27)
14 “Quả thế, cũng như có
người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. 15
Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ
khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, 16 người đã lãnh
năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. 17
Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. 18 Còn
người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. 19 Sau
một thời gian lâu dài, ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách
với họ. 20 Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và
nói: ”Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến
khác đây.” 21 Ông chủ nói với người ấy: ”Khá lắm! hỡi đầy tớ tài
giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều
cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” 22 Người đã lãnh
hai yến cũng tiến lại gần và nói: ”Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến,
tôi đã gây lời được hai yến khác đây.” 23 Ông chủ nói với người ấy:
”Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung
thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” 24
Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói: ”Thưa ông chủ, tôi
biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. 25 Vì
thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông
cầm lấy!” 26 Ông chủ đáp: ”Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã
biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, 27 thì đáng lý anh
phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn
lời chứ! 28 Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có
mười yến. 29 Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa;
còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. 30 Còn tên
đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc
lóc nghiến răng.”
Cuộc
Phán Xét chung
31 “Khi Con Người đến trong
vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên
ngai vinh hiển của Người. 32 Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước
mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê.
33 Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. 34
Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: ”Nào những kẻ
Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ
thuở tạo thiên lập địa. 35 Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta
khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; 36 Ta
trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi
tù, các ngươi đến hỏi han.” 37 Bấy giờ những người công chính sẽ
thưa rằng: ”Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà
cho uống; 38 có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc
trần truồng mà cho mặc? 39 Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi
tù, mà đến hỏi han đâu?” 40 Đức Vua sẽ đáp lại rằng: ”Ta bảo thật
các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất
của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” 41 Rồi Đức Vua sẽ
phán cùng những người ở bên trái rằng: ”Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất
mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. 42
Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho
uống; 43 Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần
truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng
thăm viếng.” 44 Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: ”Lạy Chúa,
có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần
truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?” 45 Bấy giờ
Người sẽ đáp lại họ rằng: ”Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm
như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm
cho chính Ta vậy.” 46 Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp,
còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời.”
Chương 26
VII.
THƯƠNG KHÓ VÀ PHỤC SINH
Âm
mưu hại Đức Giê-su (Mc 14:1-2; Lc 22:1-2; Ga 11:45-53)
1
Khi
Đức Giê-su giảng dạy tất cả những điều ấy xong, Người bảo các môn đệ của Người
rằng: 2 “Anh em biết còn hai ngày nữa là đến lễ Vượt Qua, và Con
Người sắp bị nộp để chịu đóng đinh vào thập giá.”
3
Lúc
ấy, các thượng tế và kỳ mục trong dân nhóm họp tại dinh của vị thượng tế tên là
Cai-pha, 4 và cùng nhau quyết định dùng mưu bắt Đức Giê-su và giết
đi. 5 Nhưng họ lại nói: ”Không nên làm vào chính ngày lễ, kẻo gây náo
động trong dân.”
Đức
Giê-su được xức dầu thơm tại Bê-ta-ni-a (Mc 14:3-9; Ga 12:1-8)
6
Đức
Giê-su đang ở làng Bê-ta-ni-a tại nhà ông Si-mon Cùi, 7 thì có một
người phụ nữ đến gần Người, mang theo một bình bạch ngọc, đựng một thứ dầu thơm
đắt giá. Cô đổ dầu thơm trên đầu Người, lúc Người đang dùng bữa. 8 Thấy
vậy, các môn đệ lấy làm bực tức nói: ”Sao lại phí của như thế? 9 Dầu đó có thể
bán được nhiều tiền mà cho người nghèo.” 10 Biết thế, Đức Giê-su bảo
các ông: ”Sao lại muốn gây chuyện với người phụ nữ này? Quả thật, cô ấy vừa làm
cho Thầy một việc nghĩa. 11 Người nghèo thì lúc nào anh em cũng có
với anh em; còn Thầy, thì không phải lúc nào anh em cũng có đâu! 12 Cô ấy đổ
dầu thơm trên mình Thầy là hướng về ngày mai táng Thầy. 13 Thầy bảo
thật anh em: Tin Mừng này được loan báo bất cứ nơi nào trong khắp thiên hạ, thì
người ta cũng sẽ kể lại việc cô vừa làm mà nhớ tới cô.”
Giu-đa
nộp Đức Giê-su (Mc 14:10-11; Lc 22:3-6)
14
Bấy
giờ, một người trong Nhóm Mười Hai tên là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, đi gặp các thượng
tế 15 mà nói: ”Tôi nộp ông ấy cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu.”
Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc. 16 Từ lúc đó, hắn cố tìm dịp
thuận tiện để nộp Đức Giê-su.
Chuẩn
bị ăn lễ Vượt Qua (Mc 14:12-16; Lc 22:7-13)
17
Ngày
thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Đức Giê-su: ”Thầy
muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?” 18 Người bảo:
”Các anh đi vào thành, đến nhà một người kia và nói với ông ấy: ”Thầy nhắn:
thời của Thầy đã gần tới, Thầy sẽ đến nhà ông để ăn mừng lễ Vượt Qua với các
môn đệ của Thầy.” 19 Các môn đệ làm y như Đức Giê-su đã truyền, và
dọn tiệc Vượt Qua.
Đức
Giê-su tiên báo Giu-đa sẽ nộp Thầy (Mc 14:17-21; Lc 22:21-23; Ga 13:21-30)
20
Chiều
đến, Đức Giê-su vào bàn tiệc với mười hai môn đệ. 21 Đang bữa ăn,
Người nói: ”Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp Thầy.” 22 Các
môn đệ buồn rầu quá sức, lần lượt hỏi Người: ”Thưa Ngài, chẳng lẽ con sao?” 23
Người đáp: ”Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy. 24
Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ
nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn!” 25 Giu-đa, kẻ nộp
Người cũng hỏi: ”Ráp-bi, chẳng lẽ con sao?” Người trả lời: ”Chính anh nói đó!”
Đức
Giê-su lập bí tích Thanh Thể (Mc 14:22-25; Lc 22 19-20; ICo 11:23-25)
26
Cũng
trong bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho
môn đệ và nói: ”Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy.” 27 Rồi
Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: ”Tất cả anh em hãy
uống chén này, 28 vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn
người được tha tội. 29 Thầy bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy không
còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ
rượu mới trong Nước của Cha Thầy.”
Đức
Giê-su tiên báo thánh Phê-rô sẽ chối Thầy (Mc 14:26-31; Lc 22:31-34; Ga 13:36-38)
30
Hát
thánh vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra núi Ô-liu. 31 Bấy giờ
Đức Giê-su nói với các ông: ”Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có
lời đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác. 32 Nhưng
sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em.” 33 Ông Phê-rô
liền thưa: ”Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao
giờ vấp ngã.” 34 Đức Giê-su bảo ông: ”Thầy bảo thật anh: nội đêm
nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.” 35 Ông Phê-rô
lại nói: ”Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” Tất cả các môn
đệ cũng đều nói như vậy.
Đức
Giê-su cầu nguyện tại vườn Ghết-sê-ma-ni (Mc 14:32-42; Lc 22:39-46)
36
Bấy
giờ Đức Giê-su đi cùng với các ông đến một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni. Người
nói với các môn đệ: ”Anh em ngồi lại đây, Thầy đến đàng kia cầu nguyện.” 37
Rồi Người đưa ông Phê-rô và hai người con ông Dê-bê-đê đi theo. Người bắt
đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến. 38 Bấy giờ Người nói với các ông:
”Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy.” 39
Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện rằng: ”Lạy Cha, nếu
có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con,
mà xin theo ý Cha.” 40 Rồi Người đến chỗ các môn đệ, thấy các ông
đang ngủ, liền nói với ông Phê-rô: ”Thế ra anh em không thể canh thức nổi với
Thầy một giờ sao? 41 Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn
cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” 42 Người
lại đi cầu nguyện lần thứ hai và nói: ”Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này
mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha.” 43 Rồi Người lại đến,
thấy các môn đệ vẫn đang ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. 44 Người để mặc
các ông mà đi cầu nguyện lần thứ ba, nói lại cũng một lời đó. 45 Bấy
giờ Người đến chỗ các môn đệ và nói với các ông: ”Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ
sao? Này, đến giờ Con Người bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi. 46 Đứng
dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!”
Đức
Giê-su bị bắt (Mc 14:43-50; Lc 22:47-53; Ga 18:3-11)
47
Người
còn đang nói, thì Giu-đa, một người trong nhóm Mười Hai, đã đến. Cùng đi với
hắn, có cả một đám người đông đảo mang gươm giáo gậy gộc. Họ được các thượng tế
và kỳ mục trong dân sai đến. 48 Kẻ nộp Người đã cho họ một dấu hiệu,
hắn dặn rằng: ”Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy!” 49 Ngay
lúc đó, Giu-đa tiến lại gần Đức Giê-su và nói: ”Ráp-bi, xin chào Thầy!”, rồi
hôn Người. 50 Đức Giê-su bảo hắn: ”Này bạn, bạn đến đây làm gì thì
cứ làm đi!” Bấy giờ họ tiến đến, tra tay bắt Đức Giê-su. 51 Một
trong những kẻ theo Đức Giê-su liền vung tay tuốt gươm ra, chém phải tên đầy tớ
của thượng tế, làm nó đứt tai. 52 Đức Giê-su bảo người ấy: ”Hãy xỏ
gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm. 53 Hay anh
tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy
hơn mười hai đạo binh thiên thần! 54 Nhưng như thế, thì lời Kinh Thánh ứng
nghiệm sao được? Vì theo đó, mọi sự phải xảy ra như vậy.” 55 Vào giờ
ấy Đức Giê-su nói với đám đông: ”Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm
giáo gậy gộc đến bắt? Ngày ngày tôi vẫn ngồi giảng dạy ở Đền Thờ thì các ông
không bắt. 56 Nhưng tất cả sự việc này xảy ra là để ứng nghiệm những
lời chép trong Sách Các Ngôn Sứ.” Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết.
Đức
Giê-su ra trước Thượng Hội Đồng (Mc 14:53-65; Lc 22:54-55, 63-71; Ga 18:13-14,
19-24)
57
Họ
bắt Đức Giê-su, rồi điệu đến thượng tế Cai-pha. Các kinh sư và kỳ mục đã tề tựu
sẵn đó. 58 Ông Phê-rô theo Người xa xa, đến tận dinh thượng tế. Ông
vào bên trong ngồi với bọn thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao.
59
Còn
các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức
Giê-su để lên án tử hình. 60 Nhưng họ tìm không ra, mặc dầu có nhiều
kẻ đã đứng ra làm chứng gian. Sau cùng, có hai người bước ra, 61 khai
rằng: ”Tên này đã nói: tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày,
sẽ xây cất lại.” 62 Bấy giờ vị thượng tế đứng lên hỏi Đức Giê-su:
”Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?” 63 Nhưng
Đức Giê-su vẫn làm thinh. Vị thượng tế nói với Người: ”Nhân danh Thiên Chúa
hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng
Ki-tô Con Thiên Chúa không?” 64 Đức Giê-su trả lời: ”Chính ngài vừa
nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự
bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.” 65 Bấy giờ vị
thượng tế liền xé áo mình ra và nói: ”Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân
chứng nữa? Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, 66 quý
vị nghĩ sao?” Họ liền đáp: ”Hắn đáng chết!”
67
Rồi
họ khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Người. Có kẻ lai tát Người68 và nói: ”Ông Ki-tô
ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó?”
Thánh
Phêrô chối Thầy
69
Lúc
đó ông Phê-rô đang ngồi ngoài sân. Một người đầy tớ gái đến bên ông và nói: ”Cả
bác nữa, bác cũng đã ở với ông Giê-su, người Ga-li-lê đó chứ gì?” 70 Ông
liền chối trước mặt mọi người mà nói: ”Tôi không biết cô nói gì!” 71 Ông
đi ra đến cổng, thì một người tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở
đó: ”Bác này cũng đã ở với ông Giê-su người Na-da-rét đấy.” 72 Nhưng
ông Phê-rô lại thề mà chối: ”Tôi không biết người ấy.” 73 Một lát
sau, những người đứng đó xích lại gần ông Phê-rô mà nói: ”Đúng là bác cũng
thuộc bọn họ. Cứ nghe giọng nói của bác là biết ngay.” 74 Bấy giờ
ông Phê-rô liền thề độc mà quả quyết rằng: ”Tôi thề là không biết người ấy.”
Ngay lúc đó, có tiếng gà gáy. 75 Ông Phê-rô sực nhớ lời Đức Giê-su
đã nói: ”Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần.” Ông ra ngoài, khóc lóc
thảm thiết.
Chương 27
Đức
Giê-su bị giải đến tổng trấn Phi-la-tô (Mc 15:1; Lc 23, 1; Ga 18:28)
1
Trời
vừa sáng, tất cả các thượng tế và kỳ mục trong dân cùng nhau bàn kế hại Đức
Giê-su, để xử tử Người. 2 Sau đó, họ cho trói Người lại và giải đi nộp
cho tổng trấn Phi-la-tô.
Giu-đa
đi thắt cổ (Cv 1:18-19)
3
Bấy
giờ, Giu-đa, kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận. Hắn đem ba mươi
đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ mục4 mà nói: ”Tôi đã phạm tội nộp
người vô tội, khiến Người phải chết oan.” Nhưng họ đáp: ”Can gì đến chúng tôi.
Mặc kệ anh!” 5 Giu-đa ném số bạc vào Đền Thờ và ra đi thắt cổ. 6
Các thượng tế lượm lấy số bạc ấy mà nói: ”Không được phép bỏ vào quỹ Đền
Thờ, vì đây là giá máu.” 7 Sau khi bàn định với nhau, họ dùng tiền
đó tậu”Thửa Ruộng Ông Thợ Gốm” để làm nơi chôn cất khách ngoại kiều. 8 Vì
vậy mà thửa ruộng ấy gọi là “Ruộng Máu” cho đến ngày nay. 9 Thế là
ứng nghiệm lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a: ”Họ đã lượm lấy ba mươi đồng bạc, tức là
cái giá mà một số con cái Ít-ra-en đã đặt khi đánh giá Người. 10 Và
họ lấy số bạc đó mà mua”Thửa Ruộng Ông Thợ Gốm”, theo những điều Đức Chúa đã
truyền cho tôi.”
Đức
Giê-su ra trước toà tổng trấn Phi-la-tô (Mc 15:2-15; Lc 23:3-5, 13-25; Ga 18:33-9:16)
11
Đức
Giê-su bị điệu ra trước mặt tổng trấn; tổng trấn hỏi Người: ”Ông là vua dân
Do-thái sao?” Đức Giê-su trả lời: ”Chính ngài nói đó.” 12 Nhưng khi
các thượng tế và kỳ mục tố Người, thì Người không trả lời một tiếng. 13 Bấy
giờ ông Phi-la-tô hỏi Người: ”Ông không nghe bao nhiêu điều họ làm chứng chống lại
ông đó sao?” 14 Nhưng Đức Giê-su không trả lời ông về một điều nào,
khiến tổng trấn rất đỗi ngạc nhiên.
15
Vào
mỗi dịp lễ lớn, tổng trấn có lệ phóng thích cho dân chúng một người tù, tuỳ ý
họ muốn. 16 Mà khi ấy có một người tù khét tiếng, tên là Ba-ra-ba. 17
Vậy khi đám đông đã tụ họp lại, thì tổng trấn Phi-la-tô nói với họ: ”Các
ngươi muốn ta phóng thích ai cho các ngươi đây? Ba-ra-ba hay Giê-su, cũng gọi
là Ki-tô?” 18 Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Người.
19
Lúc
tổng trấn đang ngồi xử án, thì bà vợ sai người đến nói với ông: ”Ông đừng nhúng
tay vào vụ xử người công chính này, vì hôm nay, tôi chiêm bao thấy mình phải
khổ nhiều vì ông ấy.”
20
Nhưng
các thượng tế và kỳ mục lại xúi đám đông đòi tha tên Ba-ra-ba mà giết Đức
Giê-su. 21 Tổng trấn hỏi họ: ”Trong hai người này, các người muốn ta
tha ai cho các người?” Họ thưa: ”Ba-ra-ba!” 22 Tổng trấn Phi-la-tô
nói tiếp: ”Thế còn ông Giê-su, cũng gọi là Ki-tô, ta sẽ làm gì đây?” Mọi người
đồng thanh: ”Đóng đinh nó vào thập giá!” 23 Tổng trấn lại nói: ”Thế
ông ấy đã làm điều gì gian ác?” Họ càng la to: ”Đóng đinh nó vào thập giá!” 24
Tổng trấn Phi-la-tô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên
lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: ”Ta vô can trong vụ đổ máu người
này. Mặc các người liệu lấy!” 25 Toàn dân đáp lại: ”Máu hắn cứ đổ
xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!” 26 Bấy giờ, tổng trấn
phóng thích tên Ba-ra-ba cho họ, còn Đức Giê-su, thì ông truyền đánh đòn, rồi
trao cho họ đóng đinh vào thập giá.
Đức
Giê-su phải đội vòng gai (Mc 15:16-20; Ga 19:1-3)
27
Bấy
giờ lính của tổng trấn đem Đức Giê-su vào trong dinh, và tập trung cả cơ đội
quanh Người. 28 Chúng lột áo Người ra, khoác cho Người một tấm áo
choàng đỏ, 29 rồi kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người,
và trao vào tay mặt Người một cây sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Người mà nhạo
rằng: ”Vạn tuế Đức Vua dân Do-thái!” 30 Rồi chúng khạc nhổ vào Người
và lấy cây sậy mà đập vào đầu Người. 31 Chế giễu chán, chúng lột áo
choàng ra, và cho Người mặc áo lại như trước, rồi điệu Người đi đóng đinh vào
thập giá.
Đức
Giê-su chịu đóng đinh vào thập giá (Mc 15:21-28; Lc 23:26. 33-34. 36-38; Ga 19:17-24)
32
Đang
đi ra, thì chúng gặp một người Ky-rê-nê, tên là Si-môn; chúng bắt ông vác thập
giá của Người. 33 Khi đến nơi gọi là Gôn-gô-tha, nghĩa là Đồi Sọ, 34
chúng cho Người uống rượu pha mật đắng, nhưng Người chỉ nếm một chút mà
không chịu uống. 35 Đóng đinh Người vào thập giá xong, chúng đem áo
Người ra bắt thăm mà chia nhau. 36 Rồi chúng ngồi đó mà canh giữ
Người.
37
Phía
trên đầu Người, chúng đặt bản án xử tội viết rằng: ”Người này là Giê-su, vua
dân Do-thái.” 38 Cùng bị đóng đinh với Người, có hai tên cướp, một
tên bên phải, một tên bên trái.
Đức
Giê-su bị nhục mạ (Mc 15:29-32; Lc 23:35)
39
Kẻ
qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu40 vừa nói: ”Mi là kẻ phá được Đền
Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là Con
Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!” 41 Các thượng tế, kinh
sư và kỳ mục cũng chế giễu Người mà nói: 42 “Hắn cứu được thiên hạ,
mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là Vua Ít-ra-en! Hắn cứ xuống khỏi thập giá ngay bây
giờ đi, chúng ta tin hắn liền! 43 Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu
hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: ”Ta là Con Thiên Chúa!” 44
Cả những tên cướp cùng bị đóng đinh với Người cũng sỉ vả Người như thế.
Đức
Giê-su trút linh hồn (Mc 15:33-41; Lc 23:44-49; Ga 19:28-30)
45
Từ
giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. 46 Vào
giờ thứ chín, Đức Giê-su kêu lớn tiếng: ”Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni”,
nghĩa là “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” 47
Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: ”Hắn ta gọi ông Ê-li-a!” 48
Lập tức, một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm,
buộc vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. 49 Còn những người
khác lại bảo: ”Khoan đã, để xem ông Ê-li-a có đến cứu hắn không!” 50 Đức
Giê-su lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn.
51
Ngay
lúc đó, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Đất rung
đá vỡ. 52 Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được
trỗi dậy. 53 Sau khi Chúa trỗi dậy, các ngài ra khỏi mồ, vào thành
thánh, và hiện ra với nhiều người. 54 Thấy động đất và các sự việc
xảy ra, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giê-su đều rất
đỗi sợ hãi và nói: ”Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.”
55
Ở
đó, cũng có nhiều người phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa. Các bà này đã theo Đức
Giê-su từ Ga-li-lê để giúp đỡ Người. 56 Trong số đó, có bà Ma-ri-a
Mác-đa-la, bà Ma-ri-a mẹ các ông Gia-cô-bê và Giô-xếp, và bà mẹ các con ông
Dê-bê-đê.
Mai
táng Đức Giê-su (Mc 15:42-47; Lc 23:50-55; Ga 19:38-42)
57
Chiều
đến, có một người giàu sang tới. Ông này là người thành A-ri-ma-thê, tên là
Giô-xếp, và cũng là môn đệ Đức Giê-su. 58 Ông đến gặp ông Phi-la-tô
để xin thi hài Đức Giê-su. Bấy giờ tổng trấn Phi-la-tô ra lệnh trao trả thi hài
cho ông. 59 Khi đã nhận thi hài, ông Giô-xếp lấy tấm vải gai sạch mà
liệm, 60 và đặt vào ngôi mộ mới, đã đục sẵn trong núi đá, dành cho
ông. Ông lăn tảng đá to lấp cửa mồ, rồi ra về. 61 Còn bà Ma-ri-a
Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a ở lại đó, quay mặt vào mồ.
Lính
canh mồ
62
Hôm
sau, tức là khi ngày áp lễ đã qua, các thượng tế và những người Pha-ri-sêu kéo
nhau đến ông Phi-la-tô, 63 và nói: ”Thưa ngài, chúng tôi nhớ tên bịp
bợm ấy khi còn sống có nói: ”Sau ba ngày, Ta sẽ trỗi dậy.” 64 Vậy
xin quan lớn truyền canh mộ kỹ càng cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ hắn đến lấy
trộm xác rồi phao trong dân là hắn đã từ cõi chết trỗi dậy. Và như thế, chuyện
bịp cuối cùng này sẽ còn tệ hại hơn chuyện trước.” 65 Ông Phi-la-tô
bảo họ: ”Thì có sẵn lính đó, các ngươi hãy đi mà canh giữ theo cách các ngươi
biết!” 66 Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá và cắt
lính canh mồ.
Chương 28
Ngôi
mộ trống (Mc 16:1-8; Lc 24:1-10; Ga 20:1-10)
1
Sau
ngày sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và
một bà khác cũng tên là Ma-ri-a, đi viếng mộ. 2 Thình lình, đất rung
chuyển dữ dội: thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên
trên; 3 diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. 4
Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy chết ngất đi. 5 Thiên
thần lên tiếng bảo các phụ nữ: ”Này các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm
Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. 6 Người không có ở đây, vì Người đã
trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, 7 rồi
mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và
Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin
nói cho các bà hay.” 8 Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng
cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay.
Đức
Giê-su hiện ra với các phụ nữ
9
Bỗng
Đức Giê-su đón gặp các bà và nói: ”Chào chị em!” Các bà tiến lại gần Người, ôm
lấy chân, và bái lạy Người. 10 Bấy giờ, Đức Giê-su nói với các bà:
”Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy
Thầy ở đó.”
Các
thượng tế lừa đảo
11
Các
bà đang đi, thì có mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các
thượng tế biết mọi việc đã xảy ra. 12 Các thượng tế liền họp với các
kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn, 13 và bảo:
”Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của
hắn đã đến lấy trộm xác. 14 Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn,
chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự.” 15 Lính
đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người
Do-thái cho đến ngày nay.
Đức
Giê-su hiện ra tại Ga-li-lê, và sai môn đệ đi đến với muôn dân (Mc 16:14-18; Lc
24:36-49; Ga 20:19-23; Cv 1:6-8)
16
Mười
một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông
đến. 17 Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài
nghi. 18 Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: ”Thầy đã được trao
toàn quyền trên trời dưới đất. 19 Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn
dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần, 20 dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh
em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
Mác-cô
Chương 1
I.
GIAI ĐOẠN DỌN ĐƯỜNG CHO SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊ-SU
Ông
Gio-an Tẩy Giả rao giảng (Mt 3:1-12; Lc 3:1-18; Ga 1:19-28)
1
Khởi
đầu Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa:
2
Trong
sách ngôn sứ I-sai-a có chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con,
người sẽ dọn đường cho Con. 3 Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy
dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.
4
Đúng
theo lời đó, ông Gio-an Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi
người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. 5 Mọi
người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội,
và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan.
6
Ông
Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng.
7 Ông rao giảng rằng: ”Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi,
tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. 8 Tôi thì tôi làm
phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em
trong Thánh Thần.”
Đức
Giê-su chịu phép rửa (Mt 3:13-17; Lc 3:21-22)
9
Hồi
ấy, Đức Giê-su từ Na-da-rét miền Ga-li-lê đến, và được ông Gio-an làm phép rửa
dưới sông Gio-đan. 10 Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng
trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. 11 Lại
có tiếng từ trời phán rằng: ”Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.”
Đức
Giê-su chịu cám dỗ trong sa mạc (Mt 4:1-11; Lc 4:1-13)
12
Thần
Khí liền đẩy Người vào hoang địa. 13 Người ở trong hoang địa bốn
mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ
Người.
II.
SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊ-SU TẠI GA-LI-LÊ
Đức
Giê-su khai mạc công việc rao giảng (Mt 4:12-17; Lc 4:14-15)
14
Sau
khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của
Thiên Chúa. 15 Người nói: ”Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa
đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”
Đức
Giê-su kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (Mt 4:18-22; Lc 5:1-11)
16
Người
đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-môn với người anh là ông
An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá. 17 Người
bảo họ: ”Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người
như lưới cá.” 18 Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.
19
Đi
xa hơn một chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông
Gio-an. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. 20 Người liền gọi
các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những
người làm công, mà đi theo Người.
Đức
Giê-su giảng dạy tại Ca-phác-na-um và chữa lành một người bị quỷ ám (Lc 4:31-37)
21
Đức
Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào
hội đường giảng dạy. 22 Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của
Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh
sư.
23
Lập
tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên 24 rằng:
”Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt
chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” 25 Nhưng
Đức Giê-su quát mắng nó: ”Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” 26 Thần
ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. 27 Mọi
người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: ”Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì
mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng
phải tuân lệnh!” 28 Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả
vùng lân cận miền Ga-li-lê.
Đức
Giê-su chữa nhạc mẫu ông Si-môn (Mt 8:14-15; Lc 4:38-39)
29
Vừa
ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê.
Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. 30 Lúc đó, bà mẹ vợ ông
Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình
trạng của bà. 31 Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt
dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
Đức
Giê-su chữa cho nhiều người (Mt 8:16-17; Lc 4:40-41)
32
Chiều
đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến
cho Người. 33 Cả thành xúm lại trước cửa. 34 Đức Giê-su
chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ
nói, vì chúng biết Người là ai.
Đức
Giê-su âm thầm rời Ca-phác-na-um và đi khắp miền Ga-li-lê (Lc 4:42-44)
35
Sáng
sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện
ở đó. 36 Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. 37 Khi
gặp Người, các ông thưa: ”Mọi người đang tìm Thầy đấy!” 38 Người bảo
các ông: ”Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn
rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” 39 Rồi Người
đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.
Đức
Giê-su chữa người bị phong hủi (Mt 8:1-4; Lc 5:12-16)
40
Có
người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: ”Nếu Ngài
muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” 41 Người chạnh lòng thương
giơ tay đụng vào anh và bảo: ”Tôi muốn, anh sạch đi!” 42 Lập tức,
chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch. 43 Nhưng Người
nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, 44 và bảo anh: ”Coi chừng, đừng nói
gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì
hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.” 45
Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi,
đến nỗi Người không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi
hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người.
Chương 2
Đức
Giê-su chữa người bại liệt (Mt 9:1-8; Lc 5:17-26)
1
Vài
ngày sau, Đức Giê-su trở lại thành Ca-phác-na-um. Hay tin Người ở nhà, 2 dân
chúng tụ tập lại, đông đến nỗi trong nhà ngoài sân chứa không hết. Người giảng
lời cho họ. 3 Bấy giờ người ta đem đến cho Đức Giê-su một kẻ bại
liệt, có bốn người khiêng. 4 Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ
không sao khiêng đến gần Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người
ngồi, làm thành một lỗ hổng, rồi thả người bại liệt nằm trên chõng xuống. 5
Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: ”Này con, con
đã được tha tội rồi.” 6 Nhưng có mấy kinh sư đang ngồi đó, họ nghĩ
thầm trong bụng rằng: 7 “Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói
phạm thượng! Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?” 8 Tâm
trí Đức Giê-su thấu biết ngay họ đang thầm nghĩ như thế, Người mới bảo họ: ”Sao
trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy? 9 Trong hai điều: một là bảo người
bại liệt: ”Con đã được tha tội rồi”, hai là bảo: ”Đứng dậy, vác lấy chõng của
con mà đi”, điều nào dễ hơn? 10 Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người
có quyền tha tội,-Đức Giê-su bảo người bại liệt,-11 Ta truyền cho con: Hãy đứng
dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà!” 12 Người bại liệt đứng
dậy, và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt
và tôn vinh Thiên Chúa. Họ bảo nhau: ”Chúng ta chưa thấy vậy bao giờ!”
Đức
Giê-su kêu gọi ông Lê-vi (Mt 9:9; Lc 5:27-28)
13
Đức
Giê-su lại đi ra bờ biển hồ. Toàn thể dân chúng đến với Người, và Người dạy dỗ
họ. 14 Đi ngang qua trạm thu thuế, Người thấy ông Lê-vi là con ông
An-phê, đang ngồi ở đó. Người bảo ông: ”Anh hãy theo tôi!” Ông đứng dậy đi theo
Người.
Đức
Giê-su dùng bữa với những người tội lỗi (Mt 9:10-13; Lc 5:29-32)
15
Người
đến dùng bữa tại nhà ông. Nhiều người thu thuế và người tội lỗi cùng ăn với Đức
Giê-su và các môn đệ: con số họ đông và họ đi theo Người. 16 Những
kinh sư thuộc nhóm Pha-ri-sêu thấy Người ăn uống với những kẻ tội lỗi và người
thu thuế, thì nói với các môn đệ Người: ”Sao! Ông ấy ăn uống với bọn thu thuế
và quân tội lỗi!” 17 Nghe thấy thế, Đức Giê-su nói với họ: ”Người
khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi
người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.”
Tranh
luận về việc ăn chay (Mt 9:14-17; Lc 5:33-39)
18
Bấy
giờ các môn đệ ông Gio-an và các người Pha-ri-sêu đang ăn chay; có người đến
hỏi Đức Giê-su: ”Tại sao các môn đệ ông Gio-an và các môn đệ người Pha-ri-sêu
ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?” 19 Đức Giê-su trả lời:
”Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao
lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được. 20 Nhưng khi
tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay trong ngày đó. 21 Chẳng
ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì như vậy, miếng vá mới đã vá vào sẽ kéo vải cũ,
khiến chỗ rách lại càng rách thêm. 22 Cũng không ai đổ rượu mới vào
bầu da cũ, vì như vậy, rượu sẽ làm nứt bầu, thế là rượu cũng mất mà bầu cũng
hư. Nhưng rượu mới, bầu cũng phải mới!”
Các
môn đệ bứt lúa (Mt 12:1-8; Lc 6:1-5)
23
Vào
ngày sa-bát, Đức Giê-su đi băng qua một cánh đồng lúa. Dọc đường, các môn đệ
bắt đầu bứt lúa. 24 Người Pha-ri-sêu liền nói với Đức Giê-su: ”Ông
coi, ngày sa-bát mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được phép!” 25 Người
đáp: ”Các ông chưa bao giờ đọc trong Sách sao? Ông Đa-vít đã làm gì, khi ông và
thuộc hạ bị thiếu thốn và đói bụng? 26 Dưới thời thượng tế A-bi-a-tha, ông vào
nhà Thiên Chúa, ăn bánh tiến, rồi còn cho cả thuộc hạ ăn nữa. Thứ bánh này
không ai được phép ăn ngoại trừ tư tế.”
27
Người
nói tiếp: ”Ngày sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho
ngày sa-bát. 28 Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày sa-bát.”
Chương 3
Đức
Giê-su chữa người bị bại tay (Mt 12:9-14; Lc 6:6-11)
1
Đức
Giê-su lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. 2 Họ rình
xem Đức Giê-su có chữa người ấy ngày sa-bát không, để tố cáo Người. 3 Đức
Giê-su bảo người bại tay: ”Anh trỗi dậy, ra giữa đây!” 4 Rồi Người
nói với họ: ”Ngày sa-bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người
hay giết đi?” Nhưng họ làm thinh. 5 Đức Giê-su giận dữ rảo mắt nhìn
họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá. Người bảo anh bại tay: ”Anh giơ tay ra!” Người
ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường. 6 Ra khỏi đó, nhóm
Pha-ri-sêu lập tức bàn tính với phe Hê-rô-đê, để tìm cách giết Đức Giê-su.
Dân
chúng đi theo Đức Giê-su
7
Đức
Giê-su cùng với các môn đệ của Người lánh về phía Biển Hồ. Từ miền Ga-li-lê,
người ta lũ lượt đi theo Người. Và từ miền Giu-đê, 8 từ Giê-ru-sa-lem,
từ xứ I-đu-mê, từ vùng bên kia sông Gio-đan và vùng phụ cận hai thành Tia và
Xi-đôn, người ta lũ lượt đến với Người, vì nghe biết những gì Người đã làm. 9
Người đã bảo các môn đệ dành sẵn cho Người một chiếc thuyền nhỏ, để khỏi
bị đám đông chen lấn. 10 Quả thế, Người đã chữa lành nhiều bệnh
nhân, khiến ai ai có bệnh cũng đổ xô đến để sờ vào Người. 11 Còn các
thần ô uế, hễ thấy Đức Giê-su, thì sấp mình dưới chân Người và kêu lên: ”Ông là
Con Thiên Chúa!” 12 Nhưng Người cấm ngặt chúng không được tiết lộ
Người là ai.
Đức
Giê-su thành lập Nhóm Mười Hai (Mt 10:1-4; Lc 6:12-16)
13
Rồi
Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với
Người. 14 Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để
Người sai các ông đi rao giảng, 15 với quyền trừ quỷ. 16 Người
lập Nhóm Mười Hai và đặt tên cho ông Si-môn là Phê-rô, 17 rồi có ông
Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê, và ông Gio-an em ông Gia-cô-bê-Người đặt tên cho
hai ông là Bô-a-nê-ghê, nghĩa là con của thiên lôi-, 18 rồi đến các
ông An-rê, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông
An-phê, Ta-đê-ô, Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, 19 và Giu-đa
Ít-ca-ri-ốt là chính kẻ nộp Người.
Trình
thuật: a) Các thân nhân coi Đức Giê-su là mất trí
20
Người
trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn
uống được. 21 Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì
họ nói rằng Người đã mất trí.
b)
Các kinh sư coi Đức Giê-su là người bị quỷ ám
22
Còn
các kinh sư từ Giê-ru-sa-lem xuống thì lại nói rằng Người bị quỷ vương
Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ.
c)
Đức Giê-su trả lời
24
Người
liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: ”Xa-tan làm sao trừ Xa-tan được?
Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; 25 nhà nào tự chia rẽ,
nhà ấy không thể vững. 26 Vậy Xa-tan mà chống Xa-tan, Xa-tan mà tự
chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số. 27 Không ai vào nhà
một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã,
rồi mới cướp sạch nhà nó.
28 “Tôi bảo thật anh em:
mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng
nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha. 29 Nhưng ai nói phạm
đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời” . 30 Đó
là vì họ đã nói”ông ấy bị thần ô uế ám.”
Ai
mới thật là thân nhân của Đức Giê-su? (Mt 12:46-50; Lc 8:19-21)
31
Mẹ
và anh em Đức Giê-su đến, đứng ở ngoài, cho gọi Người ra. 32 Lúc ấy,
đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: ”Thưa Thầy, có
mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!” 33 Nhưng Người
đáp lại: ”Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” 34 Rồi Người rảo mắt nhìn
những kẻ ngồi chung quanh và nói: ”Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. 35 Ai
thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.”
Chương 4
Dụ
ngôn người gieo giống (Mt 13:1-9; Lc 8:4-8)
1
Đức
Giê-su lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ. Một đám người rất đông tụ họp chung
quanh Người, nên Người phải xuống thuyền mà ngồi dưới biển, còn toàn thể đám
đông thì ở trên bờ. 2 Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều. Trong
lúc giảng dạy, Người nói với họ:
3 “Các người nghe đây!
Người gieo giống đi ra gieo giống. 4 Trong khi gieo, có hạt rơi
xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. 5 Có hạt rơi trên sỏi đá, chỗ
không có nhiều đất; nó mọc ngay, vì đất không sâu; 6 nhưng khi nắng
lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. 7 Có hạt rơi
vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt và không sinh hoa kết quả. 8 Có
những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nó mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả: hạt thì được
ba mươi, hạt thì được sáu mươi, hạt thì được một trăm.” 9 Rồi Người
nói: ”Ai có tai nghe thì nghe!”
Tại
sao Đức Giê-su dùng dụ ngôn? (Mt 13:10-15; Lc 8:9-10)
10
Khi
còn một mình Đức Giê-su, những người thân cận cùng với Nhóm Mười Hai mới hỏi
Người về các dụ ngôn. 11 Người nói với các ông: ”Phần anh em, mầu
nhiệm Nước Thiên Chúa đã được ban cho anh em; còn với những người kia là những
kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn, 12 để họ có trố mắt
nhìn cũng chẳng thấy, có lắng tai nghe cũng không hiểu, kẻo họ trở lại và được
ơn tha thứ.”
Cắt
nghĩa dụ ngôn người gieo giống (Mt 13:18-23; Lc 8:11-15)
13
Người
còn nói với các ông: ”Anh em không hiểu dụ ngôn này, thì làm sao hiểu được tất
cả các dụ ngôn? 14 Người gieo giống đây là người gieo lời. 15 Những
kẻ ở bên vệ đường, nơi lời đã gieo xuống, là những kẻ vừa nghe thì Xa-tan liền
đến cất lời đã gieo nơi họ. 16 Còn những kẻ được gieo trên sỏi đá là
những kẻ khi nghe lời thì liền vui vẻ đón nhận, 17 nhưng họ không
đâm rễ mà là những kẻ nông nổi nhất thời; sau đó, khi gặp gian nan hay bị ngược
đãi vì lời, họ vấp ngã ngay. 18 Những kẻ khác là những kẻ được gieo
vào bụi gai: đó là những kẻ đã nghe lời, 19 nhưng những nỗi lo lắng
sự đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác xâm chiếm lòng họ, bóp nghẹt
lời khiến lời không sinh hoa kết quả gì. 20 Còn những người khác nữa
là những người được gieo vào đất tốt: đó là những người nghe lời và đón nhận,
rồi sinh hoa kết quả, kẻ thì ba mươi, kẻ thì sáu mươi, kẻ thì một trăm.”
Dụ
ngôn cái đèn, đấu đong (Lc 8:16-18)
21
Người
nói với các ông: ”Chẳng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm
giường? Nào chẳng phải là để đặt trên đế sao? 22 Vì chẳng có gì che giấu mà
không phải là để được tỏ bày, chẳng có gì bí ẩn mà không phải là để đưa ra ánh
sáng. 23 Ai có tai nghe thì nghe!”
24
Người
nói với các ông: ”Hãy để ý tới điều anh em nghe. Anh em đong đấu nào, thì Thiên
Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em, và còn cho anh em hơn nữa. 25 Vì
ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị
lấy mất.”
Dụ
ngôn hạt giống tự mọc lên
26
Người
nói: ”Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống
xuống đất. 27 Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống
vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. 28 Đất
tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau
cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. 29 Lúa vừa chín, người ấy đem
liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa.”
Dụ
ngôn hạt cải (Mt 13:31-32; Lc 13:18-19)
30
Rồi
Người lại nói: ”Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà
hình dung được? 31 Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là
loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. 32 Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc
lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ
dưới bóng.”
Kết
luận về các dụ ngôn (Mt 13:34)
33
Người
dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể
nghe. 34 Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn.
Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết.
Đức
Giê-su dẹp sóng gió (Mt 8:23-27; Lc 8:22-25)
35
Hôm
ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: ”Chúng ta sang bờ bên kia đi!”
36 Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên
thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người. 37 Và một trận cuồng
phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. 38 Trong
khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ
đánh thức Người dậy và nói: ”Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo
gì sao?” 39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: ”Im đi!
Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ. 40 Rồi Người bảo các
ông: ”Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” 41 Các
ông hoảng sợ và nói với nhau: ”Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng
tuân lệnh?”
Chương 5
Người
bị quỷ ám ở Ghê-ra-sa (Mt 8:28-34; Lc 8:26-39)
1
Đức
Giê-su và các môn đệ sang tới bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất của dân Ghê-ra-sa. 2
Người vừa ra khỏi thuyền, thì từ đám mồ mả, có một kẻ bị thần ô uế ám
liền ra đón Người. 3 Anh này thường sống trong đám mồ mả và không ai
có thể trói anh ta lại được, dầu phải dùng đến cả xiềng xích. 4 Thật
vậy, nhiều lần anh bị gông cùm và bị xiềng xích, nhưng anh đã bẻ gãy xiềng
xích, và đập tan gông cùm. Và không ai có thể kiềm chế anh được. 5 Suốt
đêm ngày, anh ta cứ ở trong đám mồ mả và trên núi đồi, tru tréo và lấy đá đập
vào mình. 6 Thấy Đức Giê-su tự đàng xa, anh ta chạy đến bái lạy
Người7 và kêu lớn tiếng rằng: ”Lạy ông Giê-su, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện
tôi can gì đến ông? Nhân danh Thiên Chúa, tôi van ông đừng hành hạ tôi!” 8
Thật vậy, Đức Giê-su đã bảo nó: ”Thần ô uế kia, xuất khỏi người này!” 9
Người hỏi nó: ”Tên ngươi là gì?” Nó thưa: ”Tên tôi là đạo binh, vì chúng
tôi đông lắm.” 10 Nó khẩn khoản nài xin Người đừng đuổi chúng ra
khỏi vùng ấy. 11 Ở đó có một bầy heo rất đông đang ăn bên sườn núi. 12
Đám thần ô uế nài xin Người rằng: ”Xin sai chúng tôi đến nhập vào những
con heo kia.” 13 Người cho phép. Chúng xuất khỏi người đó và nhập
vào bầy heo. Cả bầy heo-chừng hai ngàn con- từ trên sườn núi lao xuống biển và
chết ngộp dưới đó. 14 Các kẻ chăn heo bỏ chạy, loan tin trong thành
và thôn xóm. Thiên hạ đến xem việc gì đã xảy ra. 15 Họ đến cùng Đức
Giê-su và thấy kẻ bị quỷ ám ngồi đó, ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo-chính
người này đã bị đạo binh quỷ nhập vào. Họ phát sợ. 16 Những người
chứng kiến đã kể lại cho họ nghe việc đã xảy ra thế nào cho người bị quỷ ám và
chuyện bầy heo. 17 Bấy giờ họ lên tiếng nài xin Người rời khỏi vùng
đất của họ.
18
Khi
Người xuống thuyền, thì kẻ trước kia đã bị quỷ ám nài xin cho được ở với Người.
19 Nhưng Người không cho phép, Người bảo: ”Anh cứ về nhà với thân
nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương
anh như thế nào.” 20 Anh ta ra đi và bắt đầu rao truyền trong miền
Thập Tỉnh tất cả những gì Đức Giê-su đã làm cho anh. Ai nấy đều kinh ngạc.
Đức
Giê-su chữa một người bị băng huyết và cho con gái ông Gia-ia sống lại (Mt 9:18-26;
Lc 8:40-56)
21
Đức
Giê-su xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh
Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. 22 Có một ông trưởng
hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giê-su, ông ta sụp xuống dưới chân
Người, 23 và khẩn khoản nài xin: ”Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài
đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống.” 24 Người
liền ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người.
25
Có
một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, 26 bao phen khổ sở vì chạy
thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn
thêm nặng là khác. 27 Được nghe đồn về Đức Giê-su, bà lách qua đám
đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người. 28 Vì bà tự
nhủ: ”Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu.” 29 Tức
khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. 30 Ngay
lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Người liền quay
lại giữa đám đông mà hỏi: ”Ai đã sờ vào áo tôi?” 31 Các môn đệ thưa:
”Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: ÀAi đã sờ vào tôi?” 32
Đức Giê-su ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó. 33 Bà
này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước
mặt Người, và nói hết sự thật với Người. 34 Người nói với bà ta:
”Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn
bệnh.”
35
Đức
Giê-su còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: ”Con
gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” 36 Nhưng Đức Giê-su nghe
được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: ”Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.”
37 Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông
Gia-cô-bê và em ông này là ông Gio-an. 38 Các ngài đến nhà ông
trưởng hội đường. Đức Giê-su thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. 39 Người
bước vào nhà và bảo họ: ”Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết
đâu, nó ngủ đấy!” 40 Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài
hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm.
41 Người cầm lấy tay nó và nói: ”Ta-li-tha kum”, nghĩa là: ”Này bé,
Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!” 42 Lập tức con bé đứng dậy và đi
lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta kinh ngạc sững sờ. 43
Đức Giê-su nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho
con bé ăn.
Chương 6
Đức
Giê-su về thăm Na-da-rét (Mt 13:53-58; Lc 4:16-30)
1
Đức
Giê-su ra khỏi đó và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. 2 Đến
ngày sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi
ngạc nhiên. Họ nói: ”Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như
vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? 3
Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê,
Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với
chúng ta sao?” Và họ vấp ngã vì Người. 4 Đức Giê-su bảo họ: ”Ngôn sứ
có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân
thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” 5 Người đã không thể làm
được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành
họ. 6 Người lấy làm lạ vì họ không tin.
Đức
Giê-su sai Nhóm Mười Hai đi giảng (Mt 10:5-15; Lc 9:1-6)
7
Người
gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các
ông quyền trừ quỷ. 8 Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi
đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt
lưng; 9 được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. 10 Người
bảo các ông: ”Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến
lúc ra đi. 11 Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh
em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.” 12 Các
ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. 13 Các ông trừ
được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.
Vua
Hê-rô-đê và Đức Giê-su (Mt 14:1-2; Lc 9:7-9)
14
Vua
Hê-rô-đê nghe biết về Đức Giê-su, vì Người đã nổi danh. Có kẻ nói: ”Đó là ông
Gio-an Tẩy Giả từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ.” 15
Kẻ khác nói: ”Đó là ông Ê-li-a.” Kẻ khác nữa lại nói: ”Đó là một ngôn sứ
như một trong các ngôn sứ.” 16 Vua Hê-rô-đê nghe thế, liền nói: ”Ông
Gio-an, ta đã cho chém đầu, chính ông đã trỗi dậy!”
Ông
Gio-an Tẩy Giả bị trảm quyết (Mt 14:3-12)
17
Số
là vua Hê-rô-đê đã sai người đi bắt ông Gio-an và xiềng ông trong ngục. Lý do
là vì vua đã lấy bà Hê-rô-đi-a, vợ của người anh là Phi-líp-phê, 18 mà
ông Gio-an lại bảo: ”Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài!” 19 Bà
Hê-rô-đi-a căm thù ông Gio-an và muốn giết ông, nhưng không được. 20 Thật
vậy, vua Hê-rô-đê biết ông Gio-an là người công chính thánh thiện, nên sợ ông,
và còn che chở ông. Nghe ông nói, nhà vua rất phân vân, nhưng lại cứ thích
nghe.
21
Một
ngày thuận lợi đến: nhân dịp mừng sinh nhật của mình, vua Hê-rô-đê mở tiệc thết
đãi bá quan văn võ và các thân hào miền Ga-li-lê. 22 Con gái bà
Hê-rô-đi-a vào biểu diễn một điệu vũ, làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui
thích. Nhà vua nói với cô gái: ”Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con.” 23
Vua lại còn thề: ”Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng
được.” 24 Cô gái đi ra hỏi mẹ: ”Con nên xin gì đây?” Mẹ cô nói: ”Đầu
Gio-an Tẩy Giả.” 25 Lập tức cô vội trở vào đến bên nhà vua và xin
rằng: ”Con muốn ngài ban ngay cho con cái đầu ông Gio-an Tẩy Giả, đặt trên mâm.”
26 Nhà vua buồn lắm, nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự
tiệc, nên không muốn thất hứa với cô. 27 Lập tức, vua sai thị vệ đi
và truyền mang đầu ông Gio-an tới. Thị vệ ra đi, chặt đầu ông ở trong ngục, 28
bưng đầu ông trên một cái mâm trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ. 29
Nghe tin ấy, môn đệ đến lấy thi hài ông và đặt trong một ngôi mộ.
Đức
Giê-su làm cho bánh hoá nhiều lần thứ nhất (Mt 14:13-21; Lc 9:10-17; Ga 6:1-13)
30
Các
Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông
đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. 31 Người bảo các ông: ”Chính anh
em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Quả thế, kẻ
lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. 32 Vậy,
thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. 33 Thấy
các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo
đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. 34 Ra khỏi thuyền, Đức
Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên
không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. 35 Vì
bấy giờ đã khá muộn, các môn đệ đến gần Người và thưa: ”Ở đây hoang vắng và bây
giờ đã khá muộn. 36 Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm và
làng mạc chung quanh mà mua gì ăn.” 37 Người đáp: ”Thì chính anh em
hãy cho họ ăn đi!” Các ông nói với Người: ”Chúng con phải đi mua tới hai trăm
quan tiền bánh mà cho họ ăn sao?” 38 Người bảo các ông: ”Anh em có
mấy chiếc bánh? Đi coi xem!” Khi biết rồi, các ông thưa: ”Có năm chiếc bánh và
hai con cá.” 39 Người ra lệnh cho các ông bảo mọi người ngồi thành
từng nhóm trên cỏ xanh. 40 Họ ngồi xuống thành từng đám, chỗ thì một
trăm, chỗ thì năm mươi. 41 Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con
cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để
các ông dọn ra cho dân chúng. Người cũng chia hai con cá cho mọi người. 42
Ai nấy đều ăn và được no nê. 43 Người ta thu lại những mẩu
bánh được mười hai thúng đầy, cùng với cá còn dư. 44 Số người ăn
bánh là năm ngàn người đàn ông.
Đức
Giê-su đi trên mặt biển hồ (Mt 14:22-33; Ga 6:16-21)
45
Lập
tức, Đức Giê-su bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia về phía thành
Bết-xai-đa trước, trong lúc Người giải tán đám đông. 46 Sau khi từ
biệt các ông, Người lên núi cầu nguyện. 47 Chiều đến, chiếc thuyền
đang ở giữa biển hồ, chỉ còn một mình Người ở trên đất. 48 Người
thấy các ông phải vất vả chèo chống vì gió ngược, nên vào khoảng canh tư đêm
ấy, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông và Người định vượt các ông. 49
Nhưng khi các ông thấy Người đi trên mặt biển, lại tưởng là ma, thì la
lên. 50 Quả thế, tất cả các ông đều nhìn thấy Người và đều hoảng
hốt. Lập tức, Người bảo các ông: ”Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” 51
Người lên thuyền với các ông, và gió lặng. Các ông cảm thấy bàng hoàng
sửng sốt, 52 vì các ông đã không hiểu ý nghĩa phép lạ bánh hoá
nhiều: lòng trí các ông còn ngu muội!
Đức
Giê-su chữa nhiều người ở Ghen-nê-xa-rét (Mt 14:34-36)
53
Khi
qua biển rồi, Đức Giê-su và các môn đệ ghé vào đất liền tại Ghen-nê-xa-rét và
lên bờ. 54 Thầy trò vừa ra khỏi thuyền, thì lập tức người ta nhận ra
Đức Giê-su. 55 Họ rảo khắp vùng ấy và nghe tin Người ở đâu, thì bắt
đầu cáng bệnh nhân đến đó. 56 Người đi tới đâu, vào làng mạc, thành
thị hay thôn xóm nào, người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở ngoài đường ngoài chợ, và
xin Người cho họ ít là được chạm đến tua áo choàng của Người; và bất cứ ai chạm
đến, thì đều được khỏi.
Chương 7
Tranh
luận về những truyền thống người Pha-ri-sêu (Mt 15:1-9)
1
Có
những người Pha-ri-sêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giê-su. Họ là những
người từ Giê-ru-sa-lem đến. 2 Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa
mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. 3 Thật vậy, người Pha-ri-sêu
cũng như mọi người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn
gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; 4 thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải
rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát,
bình lọ và các đồ đồng. 5 Vậy, người Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi Đức
Giê-su: ”Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để
tay ô uế mà dùng bữa?” 6 Người trả lời họ: ”Ngôn sứ I-sai-a thật đã
nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng:
Dân
này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,
còn
lòng chúng thì lại xa Ta.
7
Chúng
có thờ phượng Ta thì cũng vô ích,
vì
giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.
8
Các
ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm.” 9
Người còn nói: ”Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để
nắm giữ truyền thống của các ông. 10 Quả thế, ông Mô-sê đã dạy rằng:
Ngươi hãy thờ cha kính mẹ và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử! 11
Còn các ông, các ông lại bảo: ”Người nào nói với cha với mẹ rằng: những gì con
có để giúp cha mẹ đều là “co-ban” nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho Chúa” rồi, 12
và các ông không để cho người ấy làm gì để giúp cha mẹ nữa. 13 Thế
là các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ lời Thiên
Chúa. Các ông còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa!”
Cái
gì làm cho con người ra ô uế? (Mt 15:10-20)
14
Sau
đó, Đức Giê-su lại gọi đám đông tới mà bảo: ”Xin mọi người nghe tôi nói đây, và
hiểu cho rõ: 15 Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại
có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là
cái làm cho con người ra ô uế. 16 Ai có tai nghe thì nghe!”
17
Khi
Đức Giê-su đã rời đám đông mà vào nhà, các môn đệ hỏi Người về dụ ngôn ấy. 18
Người nói với các ông: ”Cả anh em nữa, anh em cũng ngu tối như thế sao?
Anh em không hiểu sao? Bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì
không thể làm cho con người ra ô uế, 19 bởi vì nó không đi vào lòng,
nhưng vào bụng người ta, rồi bị thải ra ngoài?” Như vậy là Người tuyên bố mọi
thức ăn đều thanh sạch. 20 Người nói: ”Cái gì từ trong con người
xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. 21 Vì từ bên trong,
từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, 22
ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu
ngạo, ngông cuồng. 23 Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong
xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.”
III.
NHỮNG CUỘC HÀNH TRÌNH CỦA ĐỨC GIÊ-SU Ở NGOÀI MIỀN GA-LI-LÊ
Đức
Giê-su chữa con gái một bà gốc Phê-ni-xi xứ Xy-ri (Mt 15:21-28)
24
Đức
Giê-su đứng dậy, rời nơi đó, đến địa hạt Tia. Người vào một nhà nọ mà không
muốn cho ai biết, nhưng không thể giấu được. 25 Thật vậy, một người
đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình
dưới chân Người. 26 Bà là người Hy-lạp, gốc Phê-ni-xi thuộc xứ
Xy-ri. Bà xin Người trừ quỷ cho con gái bà. 27 Người nói với bà:
”Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà
ném cho chó con.” 28 Bà ấy đáp: ”Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con
ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con.” 29 Người
nói với bà: ”Vì bà nói thế, nên bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi.” 30
Về đến nhà, bà thấy đứa trẻ nằm trên giường và quỷ đã xuất.
Đức
Giê-su chữa người vừa điếc vừa ngọng
31
Đức
Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập
Tỉnh. 32 Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức
Giê-su, và xin Người đặt tay trên anh. 33 Người kéo riêng anh ta ra
khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi
anh. 34 Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói:
”Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra! 35 Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị
buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. 36 Đức Giê-su truyền bảo họ không
được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra.
37 Họ hết sức kinh ngạc, và nói: ”Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp
cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.”
Chương 8
Đức
Giê-su làm cho bánh hoá nhiều lần thứ hai (Mt 15:32-39)
1
Trong
những ngày ấy, lại có một đám rất đông, và họ không có gì ăn, nên Đức Giê-su
gọi các môn đệ lại mà nói: 2 “Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ
ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi mà không có gì ăn! 3 Nếu Thầy giải tán, để họ
nhịn đói mà về nhà, thì họ sẽ bị xỉu dọc đường. Trong số đó, lại có những người
ở xa đến.” 4 Các môn đệ thưa Người: ”Ở đây, trong nơi hoang vắng
này, lấy đâu ra bánh cho họ ăn no?” 5 Người hỏi các ông: ”Anh em có
mấy chiếc bánh?” Các ông đáp: ”Thưa có bảy chiếc.” 6 Người truyền
cho họ ngồi xuống đất. Rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, dâng lời tạ ơn, và bẻ
ra, trao cho các môn đệ để các ông dọn ra. Và các ông đã dọn ra cho đám đông. 7
Các ông cũng có mấy con cá nhỏ. Người đọc lời chúc tụng, rồi bảo các ông
dọn cả cá ra. 8 Đám đông đã ăn và được no nê. Người ta nhặt lấy
những mẩu bánh còn thừa: bảy giỏ! 9 Mà đám đông có khoảng bốn ngàn người. Người
giải tán họ. 10 Lập tức, Đức Giê-su xuống thuyền với các môn đệ và
đến miền Đan-ma-nu-tha.
Người
Pha-ri-sêu xin một dấu trên trời (Mt 16:1-4)
11
Những
người Pha-ri-sêu kéo ra và bắt đầu tranh luận với Đức Giê-su, họ đòi Người một
dấu lạ từ trời để thử Người. 12 Người thở dài não nuột và nói: ”Sao
thế hệ này lại xin một dấu lạ? Tôi bảo thật cho các ông biết: thế hệ này sẽ
không được một dấu lạ nào cả.” 13 Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống
thuyền qua bờ bên kia.
Men
Pha-ri-sêu và men Hê-rô-đê (Mt 16:5-12)
14
Các
môn đệ quên đem bánh theo; trên thuyền, các ông chỉ có một chiếc bánh. 15 Người
răn bảo các ông: ”Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pha-ri-sêu và men
Hê-rô-đê!” 16 Và các ông bàn tán với nhau về chuyện các ông không có
bánh. 17 Biết thế, Người nói với các ông: ”Sao anh em lại bàn tán về
chuyện anh em không có bánh? Anh em chưa hiểu chưa thấu sao? Lòng anh em ngu
muội thế! 18 Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư? Anh em không
nhớ sao: 19 khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, anh em
đã thu lại được bao nhiêu thúng đầy mẩu bánh?” Các ông đáp: ”Thưa được mười
hai.” 20 “Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, anh
em đã thu lại được bao nhiêu giỏ đầy mẩu bánh?” Các ông nói: ”Thưa được bảy.” 21
Người bảo các ông: ”Anh em chưa hiểu ư?”
Đức
Giê-su chữa người mù ở Bết-xai-đa
22
Đức
Giê-su và các môn đệ đến Bết-xai-đa. Người ta dẫn một người mù đến và nài xin
Đức Giê-su sờ vào anh ta. 23 Người cầm lấy tay anh mù, đưa ra khỏi
làng, rồi nhổ nước miếng vào mắt anh, đặt tay trên anh và hỏi: ”Anh có thấy gì
không?” 24 Anh ngước mắt lên và thưa: ”Tôi thấy người ta, trông họ
như cây cối, họ đi đi lại lại.” 25 Rồi Người lại đặt tay trên mắt
anh, anh trông rõ và khỏi hẳn; anh thấy tỏ tường mọi sự. 26 Người
cho anh về nhà và dặn: ”Anh đừng có vào làng.”
Ông
Phê-rô tuyên xưng đức tin (Mt 16:13-20; Lc 9:18-21)
27
Đức
Giê-su và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê.
Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: ”Người ta nói Thầy là ai?” 28 Các
ông đáp: ”Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ
khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” 29 Người lại hỏi các ông: ”Còn
anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phê-rô trả lời: ”Thầy là Đấng Ki-tô.” 30
Đức Giê-su liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người.
Đức
Giê-su loan báo lần thứ nhất cuộc Thương Khó và Phục Sinh (Mt 16:21-23; Lc 9:22)
31
Rồi
Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ
mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. 32
Người nói rõ điều đó, không úp mở. Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và
bắt đầu trách Người. 33 Nhưng khi Đức Giê-su quay lại, nhìn thấy các
môn đệ, Người trách ông Phê-rô: ”Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của
anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”
Những
điều kiện để theo Đức Giê-su (Mt 16:24-28; Lc 9:23-27)
34
Rồi
Đức Giê-su gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: ”Ai
muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. 35 Quả
vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì
tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. 36 Vì được cả thế
giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì? 37 Quả thật, người
ta lấy gì mà đổi lại mạng sống mình? 38 Giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này,
ai hổ thẹn vì tôi và những lời tôi dạy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy,
khi Người ngự đến cùng với các thánh thiên thần, trong vinh quang của Cha
Người.”
Chương 9
1
Đức
Giê-su còn nói với họ: ”Tôi bảo thật các người: trong số những người có mặt ở
đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết, trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa
đến, đầy uy lực.”
Đức
Giê-su biến đổi hình dạng (Mt 17:1-8; Lc 9:28-36)
2
Sáu
ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình.
Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi
cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. 3 Y phục Người
trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như
vậy. 4 Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo
với Đức Giê-su. 5 Bấy giờ, ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng:
”Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một
cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.” 6 Thực ra, ông
không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. 7 Bỗng có một đám mây
bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: ”Đây là Con Ta yêu dấu, hãy
vâng nghe lời Người.” 8 Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai
nữa, chỉ còn Đức Giê-su với các ông mà thôi.
Câu
hỏi về ông Ê-li-a (Mt 17:9-12)
9
Ở
trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe
những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. 10 Các
ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu”từ cõi chết sống lại” nghĩa là
gì. 11 Các ông hỏi Đức Giê-su: ”Tại sao các kinh sư lại nói ông
Ê-li-a phải đến trước?” 12 Người đáp: ”Đúng thế, ông Ê-li-a đến
trước để chỉnh đốn mọi sự. Vậy sao có lời chép rằng Con Người phải chịu nhiều
đau khổ và bị khinh chê? 13 Nhưng Thầy nói cho anh em biết: ông Ê-li-a đã đến,
và họ đã xử với ông theo ý họ muốn, như Sách Thánh đã chép về ông.”
Đức
Giê-su chữa người bị quỷ ám mắc bệnh động kinh (Mt 17:14-21; Lc 9:37-43 a)
14
Khi
Đức Giê-su và ba môn đệ trở lại với các môn đệ khác, thì thấy một đám người rất
đông đang vây quanh các ông, và các kinh sư tranh luận với các ông. 15 Thấy
Đức Giê-su, lập tức tất cả đám đông kinh ngạc. Họ chạy lại chào Người. 16 Người
hỏi các môn đệ: ”Anh em tranh luận gì với họ thế?” 17 Một người
trong đám đông trả lời: ”Thưa Thầy, tôi đã đem con trai tôi lại cùng Thầy; cháu
bị quỷ câm ám. 18 Bất cứ ở đâu, hễ quỷ nhập vào là vật cháu xuống.
Cháu sùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ người ra. Tôi đã nói với các môn đệ Thầy
để họ trừ tên quỷ đó, nhưng các ông không làm nổi.” 19 Người đáp:
”Ôi thế hệ cứng lòng, không chịu tin! Tôi phải ở cùng các người cho đến bao
giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa? Đem nó lại đây cho tôi.”
20 Người ta đem nó lại cho Người. Vừa thấy Người, quỷ liền lay nó
thật mạnh, nó ngã xuống đất, lăn lộn, sùi cả bọt mép. 21 Người hỏi
cha nó: ”Cháu bị như thế từ bao lâu rồi?” Ông ấy đáp: ”Thưa từ thuở bé. 22
Nhiều khi quỷ xô nó vào lửa hoặc đẩy xuống nước cho nó chết. Nhưng nếu
Thầy có thể làm được gì, thì xin chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi.” 23
Đức Giê-su nói với ông ta: ”Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Mọi sự đều có
thể đối với người tin.” 24 Lập tức, cha đứa bé kêu lên: ”Tôi tin!
Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi!” 25 Khi thấy đám đông
tuôn đến, Đức Giê-su quát mắng tên quỷ: ”Thần câm điếc kia, Ta truyền cho
ngươi: ra khỏi đứa bé và không được nhập vào nó nữa!” 26 Quỷ thét
lên, lay nó thật mạnh, rồi ra khỏi. Đứa bé ra như chết, khiến cho nhiều người
nói: ”Nó chết rồi!” 27 Nhưng Đức Giê-su cầm lấy tay nó, đỡ nó dậy,
và nó đứng lên. 28 Khi Người vào nhà, các môn đệ mới hỏi riêng
Người: ”Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?” 29 Người
đáp: ”Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi.”
Đức
Giê-su loan báo lần thứ hai cuộc Thương Khó và Phục Sinh (Mt 17:22-23; Lc 9:43
b-45)
30
Đức
Giê-su và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Ga-li-lê. Nhưng Đức Giê-su
không muốn cho ai biết, 31 vì Người đang dạy các môn đệ rằng: ”Con
Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị
giết chết, Người sẽ sống lại.” 32 Nhưng các ông không hiểu lời đó,
và các ông sợ không dám hỏi lại Người.
Ai
là người lớn hơn hết? (Mt 18:1-5; Lc 9:46-48)
33
Sau
đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Ca-phác-na-um. Khi về tới nhà, Đức
Giê-su hỏi các ông: ”Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?” 34 Các
ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả.
35 Rồi Đức Giê-su ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: ”Ai muốn
làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.”
36 Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó
và nói: 37 “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp
đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là
tiếp đón Đấng đã sai Thầy.”
Ai
không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta (Lc 9:49-50)
38
Ông
Gio-an nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà
trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.” 39 Đức
Giê-su bảo: ”Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm
phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. 40 Quả thật, ai
không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.
Bác
ái đối với môn đệ
41 “Ai cho anh em uống
một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Ki-tô, thì Thầy bảo thật anh em, người
đó sẽ không mất phần thưởng đâu.
Đừng
làm cớ cho người khác và cho mình sa ngã (Mt 18:6-9; Lc 17:1-2)
42 “Ai làm cớ cho một
trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ
nó mà ném xuống biển còn hơn. 43 Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã,
thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay
mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. 44 [ ]45 Nếu chân
anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi
sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. 46 [ ]47 Nếu
mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước
Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, 48 nơi
giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt. 49 Quả thật, ai nấy sẽ
được luyện bằng lửa như thể ướp bằng muối. 50 Muối là cái gì tốt.
Nhưng muối mà hết mặn, thì anh em sẽ lấy gì ướp cho mặn lại? Anh em hãy giữ
muối trong lòng anh em, và sống hoà thuận với nhau.”
Chương 10
Vấn
đề ly dị (Mt 19:1-9; Lc 16:18)
1
Đức
Giê-su bỏ nơi đó, đi tới miền Giu-đê và vùng bên kia sông Gio-đan. Đông đảo dân
chúng lại tuôn đến với Người. Và như thường lệ, Người lại dạy dỗ họ. 2 Có
mấy người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giê-su và hỏi rằng: ”Thưa Thầy, chồng có được
phép rẫy vợ không?” Họ hỏi thế là để thử Người. 3 Người đáp: ”Thế
ông Mô-sê đã truyền dạy các ông điều gì?” 4 Họ trả lời: ”Ông Mô-sê
đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ.” 5 Đức Giê-su nói với họ:
”Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các
ông. 6 Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên
con người có nam có nữ; 7 vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn
bó với vợ mình, 8 và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ
không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. 9 Vậy, sự gì
Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” 10 Khi về
đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điều ấy. 11 Người nói: ”Ai rẫy
vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; 12 và ai
bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình.”
Đức
Giê-su và các trẻ em (Mt 19:13-15; Lc 18:15-17)
13
Người
ta dẫn trẻ em đến với Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ
la rầy chúng. 14 Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: ”Cứ để
trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai
giống như chúng. 15 Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước
Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào.” 16 Rồi
Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng.
Người
giàu có muốn theo Đức Giê-su (Mt 19:16-22; Lc 18:18-23)
17
Đức
Giê-su vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và
hỏi: ”Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia
nghiệp?” 18 Đức Giê-su đáp: ”Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có
ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. 19 Hẳn anh biết các điều
răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm
hại ai, hãy thờ cha kính mẹ.” 20 Anh ta nói: ”Thưa Thầy, tất cả
những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.” 21 Đức Giê-su đưa mắt
nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: ”Anh chỉ thiếu có một điều,
là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên
trời. Rồi hãy đến theo tôi.” 22 Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt
và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.
Người
giàu có khó vào Nước Thiên Chúa (Mt 19:23-26; Lc 18:24-27)
23
Đức
Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: ”Những người có của
thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” 24 Nghe Người nói thế, các
môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: ”Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa
thật khó biết bao! 25 Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước
Thiên Chúa.” 26 Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau:
”Thế thì ai có thể được cứu?” 27 Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông
và nói: ”Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì
không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.”
Đức
Giê-su hứa ban phần thưởng cho người biết từ bỏ (Mt 19:27-30; Lc 18:28-30)
28
Ông
Phê-rô lên tiếng thưa Người: ”Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự
mà theo Thầy!” 29 Đức Giê-su đáp: ”Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có
ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin
Mừng, 30 mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa,
anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự
sống vĩnh cửu ở đời sau. 31 Quả thật, nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải
xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu.”
Đức
Giê-su loan báo lần thứ ba cuộc Thương Khó và Phục Sinh (Mt 20:17-19; Lc 18:31-34)
32
Đức
Giê-su và các môn đệ đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Người dẫn đầu các ông.
Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm
Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình: 33
“Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và
kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. 34 Họ
sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba
ngày sau, Người sẽ sống lại.”
Lời
xin của hai người con ông Dê-bê-đê (Mt 20:20-23)
35
Hai
người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an đến gần Đức Giê-su và nói: ”Thưa
Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây.” 36
Người hỏi: ”Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” 37 Các
ông thưa: ”Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người
được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” 38 Đức Giê-su bảo:
”Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay
chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” 39 Các ông đáp: ”Thưa
được.” Đức Giê-su bảo: ”Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy
sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. 40 Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả
Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ
ấy mới được.”
Người
làm đầu phải hầu hạ (Mt 20:24-28)
41
Nghe
vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Gia-cô-bê và ông Gio-an. 42 Đức
Giê-su gọi các ông lại và nói: ”Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh
các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai
quản dân. 43 Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm
lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; 44 ai muốn làm
đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. 45 Vì Con Người đến không
phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá
chuộc muôn người.”
Người
mù ở Giê-ri-khô (Mt 20:29-34; Lc 18:35-43)
46
Đức
Giê-su và các môn đệ đến thành Giê-ri-khô. Khi Đức Giê-su cùng với các môn đệ
và một đám người khá đông ra khỏi thành Giê-ri-khô, thì có một người mù đang
ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Ba-ti-mê, con ông Ti-mê. 47 Vừa
nghe nói đó là Đức Giê-su Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: ”Lạy ông
Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” 48 Nhiều người quát
nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: ”Lạy Con vua Đa-vít, xin
dủ lòng thương tôi!” 49 Đức Giê-su đứng lại và nói: ”Gọi anh ta lại
đây!” Người ta gọi anh mù và bảo: ”Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!” 50
Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giê-su. 51
Người hỏi: ”Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mù đáp: ”Thưa Thầy, xin cho
tôi nhìn thấy được.” 52 Người nói: ”Anh hãy đi, lòng tin của anh đã
cứu anh!” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người
đi.
Chương 11
IV.
SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊ-SU TẠI GIÊ-RU-SA-LEM
Đức
Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a (Mt 21:1-11; Lc 19:28-40;
Ga 12, 12-19)
1
Khi
Đức Giê-su và các môn đệ đến gần thành Giê-ru-sa-lem, gần làng Bết-pha-ghê và
Bê-ta-ni-a, bên triền núi Ô-liu, Người sai hai môn đệ 2 và bảo: ”Các anh đi vào
làng trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy ngay một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ,
đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và đem nó về đây. 3 Nếu có ai
bảo: ”Tại sao các anh làm như vậy?”, thì cứ nói là Chúa cần đến nó và Người sẽ
gởi lại đây ngay.” 4 Các ông ra đi và thấy một con lừa con cột ngoài
cửa ngõ, ngay mặt đường. Các ông liền cởi dây lừa ra. 5 Mấy người
đứng đó nói với các ông: ”Các anh cởi con lừa ra làm gì vậy?” 6 Hai
ông trả lời như Đức Giê-su đã dặn. Và họ để mặc các ông. 7 Hai ông
đem con lừa về cho Đức Giê-su, lấy áo choàng của mình trải lên lưng nó, và Đức
Giê-su cỡi lên. 8 Nhiều người cũng lấy áo choàng trải xuống mặt
đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá ngoài đồng mà rải. 9 Người
đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: ”Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân
danh Đức Chúa! 10 Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít, tổ phụ
chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!” 11 Đức Giê-su vào
Giê-ru-sa-lem và đi vào Đền Thờ. Người rảo mắt nhìn xem mọi sự, và vì giờ đã
muộn, Người đi ra Bê-ta-ni-a cùng với Nhóm Mười Hai.
Cây
vả không sinh trái (Mt 21:18-19)
12
Hôm
sau, khi thầy trò rời khỏi Bê-ta-ni-a, thì Đức Giê-su cảm thấy đói. 13 Trông
thấy ở đàng xa có một cây vả tốt lá, Người đến xem có tìm được trái nào không.
Nhưng khi lại gần, Người không tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi, vì không phải
là mùa vả. 14 Người lên tiếng bảo cây vả: ”Muôn đời sẽ chẳng còn ai
ăn trái của mày nữa!” Các môn đệ đã nghe Người nói thế.
Đức
Giê-su xua đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ (Mt 21:12-17; Lc 19:45-48;
Ga 2:13-22)
15
Thầy
trò đến Giê-ru-sa-lem. Đức Giê-su vào Đền Thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang
mua bán trong Đền Thờ, lật bàn của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ
bán bồ câu. 16 Người không cho ai được mang đồ vật gì đi qua Đền Thờ.
17 Người giảng dạy và nói với họ: ”Nào đã chẳng có lời chép rằng:
Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc sao? Thế mà các người đã
biến thành sào huyệt của bọn cướp!” 18 Các thượng tế và kinh sư nghe
thấy vậy, thì tìm cách giết Đức Giê-su. Quả thế, họ sợ Người, vì cả đám đông
đều rất ngạc nhiên về lời giảng dạy của Người. 19 Chiều đến, Đức
Giê-su và các môn đệ ra khỏi thành.
Cây
vả bị khô héo. Đức tin và cầu nguyện (Mt 21:20-22)
20
Sáng
sớm, khi đi ngang cây vả, các ngài thấy nó đã chết khô tận rễ. 21 Ông
Phê-rô sực nhớ lại, liền thưa Đức Giê-su: ”Kìa Thầy xem: cây vả Thầy rủa đã
chết khô rồi!” 22 Đức Giê-su nói với các ông: ”Anh em hãy tin vào
Thiên Chúa. 23 Thầy bảo thật anh em: nếu có ai nói với núi này: ÀDời
chỗ đi, nhào xuống biển!, mà trong lòng chẳng nghi nan, nhưng tin rằng điều
mình nói sẽ xảy ra, thì sẽ được như ý. 24 Vì thế, Thầy nói với anh
em: tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ
được như ý. 25 Khi anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất
bình với ai, thì hãy tha thứ cho họ, để Cha của anh em là Đấng ngự trên trời,
cũng tha lỗi cho anh em. (26 Nhưng nếu anh em không tha thứ, thì Cha của anh em
là Đấng ngự trên trời, cũng sẽ không tha lỗi cho anh em).”
Người
Do-thái chất vấn Đức Giê-su về thẩm quyền của Người (Mt 21:23-27; Lc 20:1-8)
27
Đức
Giê-su và các môn đệ lại vào Giê-ru-sa-lem. Người đang đi trong Đền Thờ, thì
các thượng tế, kinh sư và kỳ mục đến cùng Người và hỏi: 28 “Ông lấy
quyền nào mà làm các điều ấy, hay ai đã cho ông quyền làm các điều ấy?” 29
Đức Giê-su đáp: ”Tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi. Các ông trả lời
đi, rồi tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. 30
Vậy, phép rửa của ông Gio-an là do Trời hay do người ta? Các ông trả lời
cho tôi đi!” 31 Họ bàn với nhau: ”Nếu mình nói: ”Do Trời”, thì ông
ấy sẽ vặn lại: ”Thế sao các ông lại không tin ông ấy? 32 Nhưng chẳng lẽ mình
nói: ”Do người ta” ?” Họ sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gio-an thật là một
ngôn sứ. 33 Họ mới trả lời Đức Giê-su: ”Chúng tôi không biết.” Đức
Giê-su liền bảo họ: ”Tôi cũng vậy, tôi cũng không nói cho các ông là tôi lấy
quyền nào mà làm các điều ấy.”
Chương 12
Dụ
ngôn những người làm vườn nho sát nhân (Mt 21:33-46; Lc 20:9-19)
1
Đức
Giê-su bắt đầu dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: ”Có người kia trồng được một
vườn nho; ông rào giậu chung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông
cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. 2 Đến mùa, ông sai một đầy tớ
đến gặp các tá điền để thu hoa lợi vườn nho mà họ phải nộp. 3 Nhưng
họ bắt người đầy tớ, đánh đập và đuổi về tay không. 4 Ông lại sai
một đầy tớ khác đến với họ. Họ đánh vào đầu anh ta và hạ nhục. 5 Ông
sai một người khác nữa, họ cũng giết luôn. Rồi ông lại sai nhiều người khác: kẻ
thì họ đánh, người thì họ giết. 6 Ông chỉ còn một người nữa là người
con yêu dấu: người này là người cuối cùng ông sai đến gặp họ; ông nói: ”Chúng
sẽ nể con ta.” 7 Nhưng bọn tá điền ấy bảo nhau: ”Đứa thừa tự đây
rồi! Nào ta giết quách nó đi, và gia tài sẽ về tay ta.” 8 Thế là họ
bắt cậu, giết chết rồi quăng ra bên ngoài vườn nho. 9 Vậy ông chủ
vườn nho sẽ làm gì? Ông sẽ đến tiêu diệt các tá điền, rồi giao vườn nho cho
người khác. 10 Các ông chưa đọc câu Kinh Thánh này sao? Tảng đá thợ
xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. 11 Đó chính là công
trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta!
12
Họ
tìm cách bắt Đức Giê-su, nhưng lại sợ dân chúng; quả vậy, họ thừa hiểu Người đã
nhắm vào họ mà kể dụ ngôn ấy. Thế là họ để Người lại đó mà đi.
Vấn
đề nộp thuế cho hoàng đế Xê-da (Mt 22:15-22; Lc 20:20-26)
13
Họ
cử mấy người Pha-ri-sêu và mấy người thuộc phe Hê-rô-dê đến cùng Người để Người
phải lỡ lời mà mắc bẫy. 14 Những người này đến và nói: ”Thưa Thầy,
chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ
bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên
Chúa. Vậy có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không? Chúng tôi phải nộp hay
không phải nộp?” 15 Nhưng Đức Giê-su biết họ giả hình, nên Người
nói: ”Tại sao các người lại thử tôi? Đem một đồng bạc cho tôi xem!” 16 Họ
liền đưa cho Người. Người hỏi: ”Hình và danh hiệu này là của ai đây?” Họ đáp:
”Của Xê-da.” 17 Đức Giê-su bảo họ: ”Của Xê-da, trả về Xê-da; của
Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” Và họ hết sức ngạc nhiên về Người.
Vấn
đề người chết sống lại (Mt 22:23-33; Lc 20:27-40)
18
Có
những người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có
sự sống lại. Họ hỏi Người: 19 “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho
chúng ta rằng: ”Nếu anh hay em của người nào chết đi, để lại vợ mà không để lại
con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình.” 20
Vậy có bảy anh em trai. Người thứ nhất lấy vợ, nhưng chết đi mà không để
lại một đứa con nối dòng. 21 Người thứ hai lấy bà đó, rồi cũng chết
mà không để lại một đứa con nối dòng. Người thứ ba cũng vậy. 22 Cả
bảy người đều không để lại một đứa con nối dòng. Sau cùng, người đàn bà cũng
chết. 23 Trong ngày sống lại, khi họ sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai
trong số họ? Vì bảy người đó đã lấy bà làm vợ.”
24
Đức
Giê-su nói: ”Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà
các ông lầm sao? 25 Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn
lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời. 26 Còn
về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, các ông đã không đọc trong sách Mô-sê đoạn nói về
bụi gai sao? Thiên Chúa phán với ông ấy thế nào? Người phán: Ta là Thiên Chúa
của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp. 27 Người
không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to!”
Điều
răn đứng hàng đầu (Mt 23:34-40; Lc 10:25-28)
28
Có
một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giê-su và những người thuộc nhóm Xa-đốc
tranh luận với nhau. Thấy Đức Giê-su đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi:
”Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” 29 Đức Giê-su
trả lời: ”Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa
chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. 30 Ngươi phải yêu mến Đức Chúa,
Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.
31 Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính
mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” 32 Ông
kinh sư nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa
là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. 33 Yêu mến
Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính
mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.” 34 Đức Giê-su
thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: ”Ông không còn xa Nước Thiên
Chúa đâu!” Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa.
Đấng
Ki-tô là Con và là Chúa của vua Đa-vít (Mt 22:41-46; Lc 20:41-44)
35
Khi
giảng dạy trong Đền Thờ, Đức Giê-su lên tiếng hỏi: ”Sao các kinh sư lại nói
Đấng Ki-tô là con vua Đa-vít? 36 Chính vua Đa-vít được Thánh Thần soi sáng đã
nói: Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi: bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để
rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con.
37
Chính
vua Đa-vít gọi Đấng Ki-tô là Chúa Thượng, thì Đấng Ki-tô lại là con vua ấy thế
nào được?” Đám người đông đảo nghe Đức Giê-su cách thích thú.
Đức
Giê-su lên án các kinh sư (Mt 23:1-36; Lc 20:45-47)
38
Trong
lúc giảng dạy, Đức Giê-su nói rằng: ”Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa
dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những
nơi công cộng. 39 Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích
ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. 40 Họ nuốt hết tài sản của các bà goá,
lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm
khắc hơn.”
Tiền
dâng cúng của bà goá nghèo (Lc 21:1-4)
41
Đức
Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem
đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. 42 Cũng
có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng
xu Rô-ma. 43 Đức Giê-su liền gọi các môn đệ lại và nói: ”Thầy bảo
thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. 44 Quả
vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này,
thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì
bà có để nuôi sống mình.”
Chương 13
Bài
giảng cánh chung: Nhập đề (Mt 24:1-3; Lc 21:5-6)
1
Đang
khi Đức Giê-su ra khỏi Đền Thờ, thì một trong các môn đệ nói với Người: ”Thưa
Thầy, Thầy xem: đá lớn thật! Công trình kiến trúc vĩ đại thật!” 2 Đức
Giê-su đáp: ”Anh nhìn ngắm công trình vĩ đại đó ư? Tại đây, sẽ không còn tảng
đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ.”
3
Lúc
Đức Giê-su ngồi trên núi Ô-liu, đối diện với Đền Thờ, các ông Phê-rô,
Gia-cô-bê, Gio-an và An-rê hỏi riêng Người: 4 “Xin Thầy nói cho
chúng con biết bao giờ các sự việc ấy sẽ xảy ra, và khi tất cả sắp đến hồi
chung cục, thì có điềm gì báo trước?”
Khởi
đầu các cơn đau đớn (Mt 24:4-13; Lc 21:8-19)
5
Đức
Giê-su bắt đầu nói với các ông: ”Anh em hãy coi chừng kẻo bị người ta lừa gạt. 6
Sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: ”Chính Ta đây!”, và họ sẽ lừa
gạt được nhiều người. 7 Khi anh em nghe có giặc giã và tin đồn giặc
giã, thì đừng khiếp sợ. Những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là chung cục.
8 Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ.
Sẽ có động đất ở nhiều nơi, sẽ có những cơn đói kém. Những sự việc ấy là khởi
đầu các cơn đau đớn.
9 “Phần anh em, anh em
hãy coi chừng! Người ta sẽ nộp anh em cho các hội đồng và các hội đường; anh em
sẽ bị đánh đòn; anh em sẽ phải ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm
chứng cho họ được biết. 10 Nhưng trước tiên, Tin Mừng phải được rao
giảng cho mọi dân tộc.
11 “Khi người ta điệu
anh em đi nộp, thì anh em đừng lo trước phải nói gì, nhưng trong giờ đó, Thiên
Chúa cho anh em biết điều gì, thì hãy nói điều ấy: thật vậy, không phải chính
anh em nói, mà là Thánh Thần nói. 12 Anh em sẽ nộp nhau cho người ta
giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ
phải chết. 13 Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng
kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
Những
ngày gian nan tại Giê-ru-sa-lem (Mt 24:15-28; Lc 21:20-24)
14 “Khi anh em thấy
Đồ-Ghê-Tởm-Khốc-Hại đứng ở nơi nó không được phép đứng-người đọc hãy lo mà
hiểu!-, thì bấy giờ ai ở miền Giu-đê, hãy trốn lên núi; 15 ai ở trên
sân thượng thì đừng xuống và đừng vào lấy gì ra khỏi nhà; 16 ai ở
ngoài đồng, đừng trở lại lấy áo choàng của mình. 17 Khốn thay những
người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó! 18 Anh em
hãy cầu xin cho điều ấy đừng xảy ra vào mùa đông. 19 Vì những ngày
đó sẽ là những ngày gian nan đến mức từ lúc khởi đầu, khi Thiên Chúa tạo thành
vạn vật cho đến bây giờ, chưa khi nào xảy ra và sẽ không còn xảy ra như vậy nữa.
20 Nếu Chúa không rút ngắn những ngày ấy lại, thì không ai được cứu
thoát; nhưng vì những kẻ Người đã tuyển chọn, Người đã rút ngắn những ngày ấy
lại. 21 Bấy giờ, nếu có ai bảo anh em: ”Này, Đấng Ki-tô ở đây! Kìa,
Đấng Ki-tô ở đó!”, anh em đừng có tin. 22 Thật vậy, sẽ có những
ki-tô giả và ngôn sứ giả xuất hiện, làm những dấu lạ và những việc phi thường,
để lừa gạt những người đã được tuyển chọn, nếu có thể. 23 Phần anh
em, hãy coi chừng: Thầy đã báo trước tất cả cho anh em!
Con
Người quang lâm (Mt 24:29-31; Lc 21:25-28)
24 “Nhưng trong những
ngày đó, sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn
chiếu sáng, 25 các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên
trời bị lay chuyển. 26 Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền
năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. 27 Lúc đó, Người sẽ sai
các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn
phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời.
Dụ
ngôn cây vả (Mt 24:32-36; Lc 21:29-33)
28 “Anh em cứ lấy thí dụ
cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết
là mùa hè đã đến gần. 29 Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra,
anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi. 30 Thầy
bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. 31
Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu. 32
“Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời
hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi.
Phải
tỉnh thức và sẵn sàng (Mt 24:36-44)
33 “Anh em phải coi
chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. 34 Cũng
như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình,
chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức. 35
Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc
chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. 36 Anh em phải canh
thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ. 37 Điều
Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh
thức!”
Chương 14
V.
CUỘC THƯƠNG KHÓ VÀ PHỤC SINH CỦA ĐỨC GIÊ-SU
Người
Do-thái âm mưu hại Đức Giê-su (Mt 26:1-5; Lc 22:1-2; Ga 11:45-53)
1
Hai
ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và kinh sư tìm cách
dùng mưu bắt Đức Giê-su và giết đi; 2 vì họ nói: ”Đừng làm vào chính
ngày lễ, kẻo dân chúng náo động.”
Xức
dầu tại Bê-ta-ni-a (Mt 26:6-13; Ga 12:1-8)
3
Lúc
đó, Đức Giê-su đang ở làng Bê-ta-ni-a, tại nhà ông Si-mon Cùi. Giữa lúc Người
dùng bữa, có một người phụ nữ đến, mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm
cam tùng nguyên chất thứ đắt tiền. Cô đập ra, đổ dầu thơm trên đầu Người. 4
Có vài người lấy làm bực tức, nói với nhau: ”Phí dầu thơm như thế để làm
gì? 5 Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người
nghèo.” Rồi họ gắt gỏng với cô. 6 Nhưng Đức Giê-su bảo họ: ”Cứ để
cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. 7
Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm
phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu! 8 Điều gì
làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai
táng. 9 Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu
trong khắp thiên hạ, thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới
cô.”
Giu-đa
phản bội (Mt 26:14-16; Lc 22:3-6)
10
Giu-đa
Ít-ca-ri-ốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người
cho họ. 11 Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền. Giu-đa liền
tìm cách nộp Người sao cho tiện.
Chuẩn
bị ăn lễ Vượt Qua (Mt 26:17-19; Lc 22:7-13)
12
Ngày
thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ
thưa với Đức Giê-su: ”Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”
13 Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: ”Các anh đi vào thành, và sẽ
có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. 14 Người
đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: ”Cái phòng dành cho
tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu? 15 Và ông ấy sẽ chỉ cho các
anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó, các anh
hãy dọn tiệc cho chúng ta.” 16 Hai môn đệ ra đi. Vào đến thành, các
ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua.
Đức
Giê-su báo Giu-đa sẽ phản bội (Mt 26:20-25; Lc 22:21-23; Ga 13:21-30)
17
Chiều
đến, Đức Giê-su và Nhóm Mười Hai cùng tới. 18 Đang khi dùng bữa,
Người nói: ”Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là
người đang cùng ăn với Thầy.” 19 Các môn đệ đâm ra buồn rầu, và lần
lượt hỏi Người: ”Chẳng lẽ con sao?” 20 Người đáp: ”Chính là một
trong Nhóm Mười Hai đây, mà là người chấm chung một đĩa với Thầy. 21 Đã
hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp
Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!”
Đức
Giê-su lập bí tích Thánh Thể (Mt 26:26-29; Lc 22:14-20; ICo 11:23-25)
22
Cũng
đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho
các ông và nói: ”Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy.” 23 Và Người
cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén
này. 24 Người bảo các ông: ”Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì
muôn người. 25 Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản
phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên
Chúa.”
Đức
Giê-su tiên báo ông Phê-rô sẽ chối Người (Mt 26:30-35; Lc 22:31-34; Ga 13:36-38)
26
Hát
thánh vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra núi Ô-liu. 27 Đức
Giê-su nói với các ông: ”Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ
đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác. 28 Nhưng sau khi trỗi
dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em.” 29 Ông Phê-rô liền thưa:
”Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không.” 30 Đức
Giê-su nói với ông: ”Thầy bảo thật anh: hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy
hai lần, thì chính anh, anh đã chối Thầy đến ba lần.” 31 Nhưng ông
Phê-rô lại nói quả quyết hơn: ”Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối
Thầy.” Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy.
Tại
vườn Ghết-sê-ma-ni (Mt 26:36-46; Lc 22:39-46)
32
Sau
đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni. Người nói
với các ông: ”Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện.” 33 Rồi
Người đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo. Người bắt đầu cảm thấy
hãi hùng xao xuyến. 34 Người nói với các ông: ”Tâm hồn Thầy buồn đến
chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức.” 35 Người đi xa hơn một
chút, sấp mình xuống đất mà cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy, nếu có thể
được. 36 Người nói: ”Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén
này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn.” 37 Rồi
Người trở lại, thấy các môn đệ đang ngủ, liền nói với ông Phê-rô: ”Si-mon, anh
ngủ à? Anh không thức nổi một giờ sao? 38 Anh em hãy canh thức và cầu nguyện
kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối.” 39
Người lại đi cầu nguyện, kêu xin như lần trước. 40 Rồi Người
trở lại, thấy các môn đệ vẫn ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. Các ông chẳng biết trả
lời làm sao với Người. 41 Lần thứ ba, Người trở lại và bảo các ông:
”Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Thôi, đủ rồi. Giờ đã điểm. Này Con Người bị
nộp vào tay phường tội lỗi. 42 Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy
đã tới!”
Đức
Giê-su bị bắt (Mt 26:47-56; Lc 22:47-53; Ga 18:3-11)
43
Ngay
lúc đó, khi Người còn đang nói, thì Giu-đa, một người trong Nhóm Mười Hai, xuất
hiện. Cùng đi với hắn, có một đám đông mang gươm giáo gậy gộc. Họ được các
thượng tế, kinh sư và kỳ mục sai đến. 44 Kẻ nộp Đức Giê-su đã cho họ
một ám hiệu, hắn dặn rằng: ”Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy
và điệu đi cho cẩn thận.” 45 Vừa tới, Giu-đa tiến lại gần Người và
nói: ”Thưa Thầy!”, rồi hôn Người. 46 Họ liền tra tay bắt Người. 47
Nhưng một trong những kẻ đang có mặt tại đó tuốt gươm ra, chém phải tên
đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai.
48
Đức
Giê-su nói với họ: ”Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc
đến bắt? 49 Ngày ngày, tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy ở Đền Thờ, mà các
ông không bắt. Nhưng thế này là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm.” 50 Bấy
giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết. 51 Trong khi đó có một cậu
thanh niên đi theo Người, mình khoác vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh. 52
Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng.
Đức
Giê-su ra trước Thượng Hội Đồng (Mt 26:57-68; Lc 22:54-55, 63-71; Ga 18:13-14,
19-24)
53
Họ
điệu Đức Giê-su đến vị thượng tế. Các thượng tế, kỳ mục và kinh sư tề tựu đông
đủ. 54 Ông Phê-rô theo Người xa xa, vào tận bên trong dinh thượng
tế, và ngồi sưởi bên đống lửa với đám thuộc hạ.
55
Bấy
giờ các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm lời chứng buộc tội Đức Giê-su
để lên án tử hình, nhưng họ tìm không ra, 56 vì tuy có nhiều kẻ đưa
chứng gian tố cáo Người, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau. 57
Có vài kẻ đứng lên cáo gian Người rằng: 58 “Chúng tôi có nghe
ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày,
tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!” 59 Nhưng
ngay về điểm này, chứng của họ cũng không ăn khớp với nhau.
60
Bấy
giờ vị thượng tế đứng lên giữa hội đồng hỏi Đức Giê-su: ”Ông không nói lại được
một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?” 61 Nhưng Đức Giê-su
vẫn làm thinh, không đáp một tiếng. Vị thượng tế lại hỏi Người: ”Ông có phải là
Đấng Ki-tô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?” 62 Đức Giê-su trả lời:
”Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và
ngự giá mây trời mà đến.” 63 Vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói:
”Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? 64 Quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên
Chúa, quý vị nghĩ sao?” Tất cả đều kết án Người đáng chết.
65
Thế
là một số bắt đầu khạc nhổ vào Người, bịt mặt Người lại, vừa đánh đấm Người vừa
nói: ”Hãy nói tiên tri đi!” Và đám thuộc hạ tát Người túi bụi.
26
Ông
Phê-rô chối Thầy (Mt 26, 69-75; Lc 22:56-62; Ga 18:15-18, 25-27)66 Ông Phê-rô
đang ở dưới sân, có một người tớ gái của thượng tế đi tới; 67 thấy
ông ngồi sưởi, cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói: ”Cả bác nữa, bác cũng đã ở với
cái ông người Na-da-rét, ông Giê-su đó chứ gì!” 68 Ông liền chối:
”Tôi chẳng biết, chẳng hiểu cô muốn nói gì!” Rồi ông bỏ đi ra phía tiền sảnh.
Bấy giờ có tiếng gà gáy. 69 Người tớ gái thấy ông, lại bắt đầu nói
với những người đứng đó: ”Bác này cũng thuộc bọn chúng đấy.” 70 Nhưng
ông Phê-rô lại chối. Một lát sau, những người đứng đó lại nói với ông: ”Đúng là
bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người Ga-li-lê!” 71 Nhưng ông
Phê-rô liền thốt lên những lời độc địa và thề rằng: ”Tôi thề là không có biết
người các ông nói đó!” 72 Ngay lúc đó, gà gáy lần thứ hai. Ông
Phê-rô sực nhớ điều Đức Giê-su đã nói với mình: ”Gà chưa kịp gáy hai lần, thì
anh đã chối Thầy đến ba lần.” Thế là ông oà lên khóc.
Chương 15
Đức
Giê-su ra trước tổng trấn Phi-la-tô (Mt 27:1-2. 11-26; Lc 23:1-5, 13-25; Ga 18:28-
19:16)
1
Vừa
tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể
Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giê-su lại và giải đi nộp cho ông
Phi-la-tô.
2
Ông
Phi-la-tô hỏi Người: ”Ông là vua dân Do-thái sao?” Người trả lời: ”Đúng như
ngài nói đó.” 3 Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, 4 nên
ông Phi-la-tô lại hỏi Người: ”Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông
biết bao nhiêu tội!” 5 Nhưng Đức Giê-su không trả lời gì nữa, khiến
ông Phi-la-tô phải ngạc nhiên.
6
Vào
mỗi dịp lễ lớn, ông thường phóng thích cho dân một người tù, tuỳ ý họ xin. 7
Khi ấy có một người tên là Ba-ra-ba, đang bị giam với những tên phiến
loạn đã giết người trong một vụ nổi dậy. 8 Đám đông kéo nhau lên yêu
cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. 9 Đáp lời họ yêu cầu, ông
Phi-la-tô hỏi: ”Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Do-thái
không?” 10 Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp
Người. 11 Nhưng các thượng tế sách động đám đông đòi ông Phi-la-tô
phóng thích tên Ba-ra-ba thì hơn. 12 Ông Phi-la-tô lại hỏi: ”Vậy ta
phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do-thái?” 13 Họ
la lên: ”Đóng đinh nó vào thập giá!” 14 Ông Phi-la-tô lại hỏi:
”Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?” Họ càng la to: ”Đóng đinh nó vào thập
giá!” 15 Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Phi-la-tô phóng thích tên
Ba-ra-ba, truyền đánh đòn Đức Giê-su, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập
giá.
Đức
Giê-su đội vòng gai (Mt 27:27-31; Ga 19:2-3)
16
Lính
điệu Đức Giê-su vào bên trong công trường, tức là dinh tổng trấn, và tập trung
cả cơ đội lại. 17 Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một
vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. 18 Rồi chúng bái chào
Người: ”Vạn tuế đức vua dân Do-thái!” 19 Chúng lấy cây sậy đập lên
đầu Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy. 20 Chế giễu chán,
chúng lột áo điều ra, và cho Người mặc áo lại như trước. Sau đó, chúng dẫn
Người đi để đóng đinh vào thập giá.
Đường
lên Gôn-gô-tha (Mt 27:32-33; Lc 23:26. 33; Ga 19:16 b-17)
21
Lúc
ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Si-môn, gốc Ky-rê-nê.
Ông là thân phụ hai ông A-lê-xan-đê và Ru-phô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ
Đức Giê-su. 22 Chúng đưa Người lên một nơi gọi là Gôn-gô-tha, nghĩa
là Đồi Sọ.
Đức
Giê-su chịu đóng đinh vào thập giá (Mt 27:34-38; Lc 23:33-34. 38; Ga 19:18-24)
23
Chúng
trao rượu pha mộc dược cho Người, nhưng Người không uống. 24 Chúng
đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai
được cái gì. 25 Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba. 26 Bản
án xử tội Người viết rằng: ”Vua người Do-thái” . 27 Bên cạnh Người,
chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. (28 Thế
là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp. )
Đức
Giê-su ở trên thập giá bị sỉ vả nhạo cười (Mt 27:39-44; Lc 23:35-37)
29
Kẻ
qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: ”Ê, mi là kẻ phá Đền Thờ,
và nội trong ba ngày xây lại được, 30 có giỏi thì xuống khỏi thập
giá mà cứu mình đi!” 31 Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người
như vậy, họ nói với nhau: ”Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. 32
Ông Ki-tô vua Ít-ra-en, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng
ta thấy và tin.” Cả những tên cùng chịu đóng đinh với Người cũng nhục mạ Người.
Đức
Giê-su chết trên thập giá (Mt 27:45-54; Lc 23:44-48; Ga 19:28-30)
33
Vào
giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. 34 Vào
giờ thứ chín, Đức Giê-su kêu lớn tiếng: ”Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma xa-bác-tha-ni!”
Nghĩa là: ”Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” 35 Nghe
vậy, một vài người đứng đó liền nói: ”Kìa hắn kêu cứu ông Ê-li-a.” 36 Rồi
có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa
lên cho Người uống mà nói: ”Để xem ông Ê-li-a có đến đem hắn xuống không.” 37
Đức Giê-su lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. 38 Bức màn
trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. 39 Viên
đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giê-su, thấy Người tắt thở như vậy liền
nói: ”Quả thật, người này là Con Thiên Chúa.”
Các
phụ nữ đạo đức trên Gôn-gô-tha (Mt 27:55-56; Lc 23:49)
40
Nhưng
cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà
Ma-ri-a mẹ các ông Gia-cô-bê Thứ và Giô-xết, cùng bà Sa-lô-mê. 41 Các
bà này đã đi theo và giúp đỡ Đức Giê-su khi Người còn ở Ga-li-lê. Lại có nhiều
bà khác đã cùng với Người lên Giê-ru-sa-lem, cũng có mặt tại đó.
Đức
Giê-su được mai táng (Mt 27:57-61; Lc 23:50-56; Ga 19:38-42)
42
Chiều
đến, vì hôm ấy là ngày áp lễ, tức là hôm trước ngày sa-bát, 43 nên
ông Giô-xếp tới. Ông là người thành A-ri-ma-thê, thành viên có thế giá của hội
đồng, và cũng là người vẫn mong đợi Triều Đại của Thiên Chúa. Ông đã mạnh dạn
đến gặp tổng trấn Phi-la-tô để xin thi hài Đức Giê-su. 44 Nghe nói
Người đã chết, ông Phi-la-tô lấy làm ngạc nhiên, và cho đòi viên đại đội trưởng
đến, hỏi xem Người đã chết lâu chưa. 45 Sau khi nghe viên sĩ quan
cho biết sự việc, tổng trấn đã cho ông Giô-xếp lãnh lấy thi hài. 46 Ông
này mua một tấm vải gai, hạ xác Đức Giê-su xuống, lấy tấm vải ấy liệm Người
lại, đem đặt vào ngôi mộ đã đục sẵn trong núi đá, rồi lăn tảng đá lấp cửa mộ. 47
Còn bà Ma-ri-a Mác-đa-la và bà Ma-ri-a mẹ ông Giô-xết, thì để ý nhìn xem
chỗ họ mai táng Người.
Chương 16
Ngôi
mộ trống. Thiên thần báo tin (Mt 28:1-8; Lc 24:1-12; Ga 20:1-10)
1
Vừa
hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà
Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su. 2 Sáng tinh sương
ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.
3
Các
bà bảo nhau: ”Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?” 4 Nhưng
vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn
lắm. 5 Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải,
mặc áo trắng; các bà hoảng sợ. 6 Nhưng người thanh niên liền nói:
”Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng bị đóng đinh chứ gì!
Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này! 7 Xin các
bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng Người sẽ đến Ga-li-lê trước các
ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông.” 8 Vừa
ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng
nói gì với ai, vì sợ hãi.
Đức
Giê-su phục sinh hiện ra (Mt 28:9-20; Lc 24:13-53; Ga 20:11-23; Cv 1:6-11)
9
Sau
khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giê-su hiện ra
trước tiên với bà Ma-ri-a Mác-đa-la, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ. 10
Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Người mà nay đang buồn bã
khóc lóc. 11 Nghe bà nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các
ông vẫn không tin.
12
Sau
đó, Người tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông,
khi họ đang trên đường đi về quê. 13 Họ trở về báo tin cho các ông
khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này.
14
Sau
cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người
khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những
kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy. 15 Người nói với các
ông: ”Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ
tạo. 16 Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin,
thì sẽ bị kết án. 17 Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng
tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. 18
Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và
nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.”
19
Nói
xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. 20 Còn
các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông,
và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.
Lu-ca
Chương 1
Lời
tựa
1
Thưa
ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật
những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta. 2 Họ viết theo những
điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền
lại cho chúng ta. 3 Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu
đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, 4
mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững
chắc.
I.
THỜI THƠ ẤU: ÔNG GIO-AN TẨY GIẢ VÀ ĐỨC GIÊ-SU SINH RA VÀ SỐNG ẨN DẬT
Truyền
tin cho ông Da-ca-ri-a
5
Thời
vua Hê-rô-đê cai trị miền Giu-đê, có một vị tư tế thuộc nhóm A-vi-gia, tên là
Da-ca-ri-a; vợ ông là Ê-li-sa-bét cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron. 6 Cả
hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi
điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì. 7 Nhưng
họ lại không có con, vì bà Ê-li-sa-bét là người hiếm hoi. Vả lại, cả hai đều đã
cao niên.
8
Sau
đây là chuyện xảy ra trong lúc ông đang lo việc tế tự trước nhan Thiên Chúa khi
đến phiên của nhóm ông: 9 Trong cuộc bắt thăm thường lệ của hàng tư
tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của Đức Chúa. 10 Trong
giờ dâng hương đó, toàn thể dân chúng cầu nguyện ở bên ngoài.
11
Bỗng
một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. 12 Thấy
vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối, và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. 13 Nhưng
sứ thần bảo ông: ”Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông
cầu xin: bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải
đặt tên cho con là Gio-an. 14 Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều
người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời. 15 Vì em bé sẽ nên
cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn
trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. 16 Em sẽ đưa nhiều con cái
Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. 17 Được đầy thần khí
và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha
ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo
chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa.” 18 Ông
Da-ca-ri-a thưa với sứ thần: ”Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã
già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi.” 19 Sứ thần đáp: ”Tôi là
Gáp-ri-en, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và
loan báo tin mừng ấy cho ông. 20 Và này đây ông sẽ bị câm, không nói
được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là
những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi.” 21 Dân chúng đợi
ông Da-ca-ri-a, và lấy làm lạ sao ông ở lại trong cung thánh lâu như thế. 22
Lúc đi ra, ông không nói với họ được, và dân chúng biết là ông đã thấy
một thị kiến trong cung thánh. Còn ông, ông chỉ làm hiệu cho họ và vẫn bị câm.
23
Khi
thời gian phục vụ ở Đền Thờ đã mãn, ông trở về nhà. 24 Ít lâu sau,
bà Ê-li-sa-bét vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng. 25 Bà tự nhủ:
”Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu
trước mặt người đời.”
Truyền
tin cho Đức Ma-ri-a
26
Bà
Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến
một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, 27 gặp một trinh nữ đã
thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy
tên là Ma-ri-a.
28
Sứ
thần vào nhà trinh nữ và nói: ”Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở
cùng bà.” 29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy
có nghĩa gì.
30
Sứ
thần liền nói: ”Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. 31
Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. 32
Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là
Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. 33 Người
sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”
34
Bà
Ma-ri-a thưa với sứ thần: ”Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến
việc vợ chồng!”
35
Sứ
thần đáp: ”Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp
bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. 36
Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu
mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai
được sáu tháng. 37 Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể
làm được.”
38
Bấy
giờ bà Ma-ri-a nói: ”Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi
như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
Đức
Ma-ri-a viếng thăm bà Ê-li-sa-bét
39
Hồi
ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa.
40 Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. 41 Bà
Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và
bà được đầy tràn Thánh Thần, 42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng: ”Em
được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được
chúc phúc. 43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế
này? 44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã
nhảy lên vui sướng. 45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực
hiện những gì Người đã nói với em.”
Bài
ca”Ngợi Khen” (Magnificat)
46
Bấy
giờ bà Ma-ri-a nói:
“
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
47
thần
trí tôi hớn hở vui mừng
vì
Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
48
Phận
nữ tỳ hèn mọn,
Người
đoái thương nhìn tới;
từ
nay, hết mọi đời
sẽ
khen tôi diễm phúc.
49
Đấng
Toàn Năng đã làm cho tôi
biết
bao điều cao cả,
danh
Người thật chí thánh chí tôn!
50
Đời
nọ tới đời kia,
Chúa
hằng thương xót những ai kính sợ Người.
51
Chúa
giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp
tan phường lòng trí kiêu căng.
52
Chúa
hạ bệ những ai quyền thế,
Người
nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
53
Kẻ
đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người
giàu có, lại đuổi về tay trắng.
54
Chúa
độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
55
như
đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì
Người nhớ lại lòng thương xót
dành
cho tổ phụ Áp-ra-ham
và
cho con cháu đến muôn đời.”
56
Bà
Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
Ông
Gio-an Tẩy Giả ra đời, láng giềng chia vui
57
Tới
ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Ê-li-sa-bét sinh hạ một con trai. 58 Nghe
biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với
bà.
Ông
Gio-an Tẩy Giả chịu phép cắt bì
59
Khi
con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là
Da-ca-ri-a mà đặt cho em. 60 Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: ”Không, phải
đặt tên cháu là Gio-an.” 61 Họ bảo bà: ”Trong họ hàng của bà, chẳng
ai có tên như vậy cả.” 62 Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông
muốn đặt tên cho em bé là gì. 63 Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết:
”Tên cháu là Gio-an.” Ai nấy đều bỡ ngỡ. 64 Ngay lúc ấy, miệng lưỡi
ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. 65 Láng giềng
ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê. 66
Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: ”Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào
đây?” Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.
Bài
ca”Chúc Tụng” (Benedictus)
67
Bấy
giờ, người cha của em, tức là ông Da-ca-ri-a, được đầy Thánh Thần, liền nói
tiên tri rằng:
68
“Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en
đã
viếng thăm cứu chuộc dân Người.
69
Từ
dòng dõi trung thần Đa-vít,
Người
đã cho xuất hiện
Vị
Cứu Tinh quyền thế để giúp ta,
70
như
Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ
mà
phán hứa tự ngàn xưa:
71
sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù,
thoát
tay mọi kẻ hằng ghen ghét;
72
sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên
và
nhớ lại lời xưa giao ước;
73
Chúa đã thề với tổ phụ Áp-ra-ham
rằng
sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù,
74
và cho ta chẳng còn sợ hãi,
75
để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người,
mà
phụng thờ Người suốt cả đời ta.
76
Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu
là
ngôn sứ của Đấng Tối Cao:
con
sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người,
77
bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ
là
tha cho họ hết mọi tội khiên.
78
Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn,
cho
Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta,
79soi
sáng những ai ngồi nơi tăm tối
và
trong bóng tử thần,
dẫn
ta bước vào đường nẻo bình an” .
Ông
Gio-an Tẩy Giả sống ẩn dật
80
Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho
đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en.
Chương 2
Đức
Giê-su ra đời. Những người chăn chiên đến viếng thăm (Mt 1:18-25)
1
Thời
ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên
hạ. 2 Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông
Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri. 3 Ai nấy đều phải về nguyên quán
mà khai tên tuổi. 4 Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét, miền
Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít tức là Bê-lem, miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình
dòng tộc vua Đa-vít. 5 Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành
hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. 6 Khi hai người đang
ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. 7 Bà sinh con
trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không
tìm được chỗ trong nhà trọ.
8
Trong
vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật.
9 Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả
chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. 10 Nhưng sứ thần bảo họ:
”Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin
mừng cho toàn dân: 11 Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em
trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa. 12 Anh em cứ
dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong
máng cỏ.” 13 Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng
ngợi khen Thiên Chúa rằng:
14 “Vinh danh Thiên Chúa
trên trời,
bình
an dưới thế cho loài người Chúa thương.”
15
Khi
các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau:
”Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta
biết.” 16 Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông
Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. 17 Thấy thế, họ liền
kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. 18 Nghe các người
chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. 19 Còn bà Ma-ri-a thì
hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. 20 Rồi
các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều
họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
Đức
Giê-su chịu phép cắt bì
21
Khi
Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên
cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người
được thụ thai trong lòng mẹ.
Tiến
dâng Đức Giê-su cho Thiên Chúa
22
Khi
đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se
đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, 23 như đã chép
trong Luật Chúa rằng: ”Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành
cho Chúa”, 24 và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một
đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. 25 Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có
một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong
chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. 26 Ông
đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi
được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. 27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông
lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật
đã truyền liên quan đến Người, 28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay,
và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
Bài
ca”An Bình Ra Đi” (Nunc dimittis)
29 “Muôn lạy Chúa, giờ
đây
theo
lời Ngài đã hứa,
xin
để tôi tớ này được an bình ra đi.
30
Vì
chính mắt con được thấy ơn cứu độ
31
Chúa
đã dành sẵn cho muôn dân:
32
Đó
là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
là
vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.”
Ông
Si-mê-ôn nói tiên tri
33
Cha
và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-ôn vừa nói về Người. 34 Ông
Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi:
”Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống
hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; 35 và
như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi
gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.”
Bà
An-na nói tiên tri
36
Lại
cũng có một nữ ngôn sứ tên là An-na, con ông Pơ-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. Bà
đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, 37 rồi
ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu
nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. 38 Cũng vào lúc ấy, bà tiến
lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong
chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.
Đức
Giê-su tiếp tục sống ẩn dật tại Na-da-rét
39
Khi
hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là
thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê. 40 Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên,
thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
Đức
Giê-su ngồi giữa các bậc thầy Do-thái
41
Hằng
năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua. 42 Khi
Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm
trong ngày lễ. 43 Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su
thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết. 44 Ông bà cứ
tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm
giữa đám bà con và người quen thuộc. 45 Không thấy con đâu, hai ông
bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm.
46
Sau
ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy
dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. 47 Ai nghe cậu nói cũng ngạc
nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu. 48 Khi thấy
con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: ”Con ơi, sao con lại xử
với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!”
49 Người đáp: ”Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có
bổn phận ở nhà của Cha con sao?” 50 Nhưng ông bà không hiểu lời
Người vừa nói.
Đức
Giê-su còn sống ẩn dật tại Na-da-rét
51
Sau
đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các
ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. 52 Còn
Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với
Thiên Chúa và người ta.
Chương 3
II.
ĐỨC GIÊ-SU CHUẨN BỊ THI HÀNH SỨ MỆNH
Ông
Gio-an Tẩy Giả rao giảng (Mt 3:1-12; Mc 1:2-6; Ga 1:19-28)
1
Năm
thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô, thời Phong-xi-ô Phi-la-tô làm tổng
trấn miền Giu-đê, Hê-rô-đê làm tiểu vương miền Ga-li-lê, người em là
Phi-líp-phê làm tiểu vương miền I-tu-rê và Tra-khô-nít, Ly-xa-ni-a làm tiểu
vương miền A-bi-lên, 2 Kha-nan và Cai-pha làm thượng tế, có lời
Thiên Chúa phán cùng con ông Da-ca-ri-a là ông Gio-an trong hoang địa. 3 Ông
liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa
tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội, 4 như có lời chép trong sách
ngôn sứ I-sai-a rằng: Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường
cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. 5 Mọi thung lũng, phải
lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay,
đường lồi lõm, phải san cho phẳng. 6 Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa.
7
Đám
đông lũ lượt kéo đến xin ông Gio-an làm phép rửa; ông nói với họ: ”Nòi rắn độc
kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng
xuống vậy? 8 Các anh hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối. Và đừng vội
nghĩ bụng rằng: Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham; vì, tôi nói cho các anh hay,
Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham. 9
Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt
đi và quăng vào lửa.”
10
Đám
đông hỏi ông rằng: ”Chúng tôi phải làm gì đây?” 11 Ông trả lời: ”Ai
có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.” 12
Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: ”Thưa thầy,
chúng tôi phải làm gì?” 13 Ông bảo họ: ”Đừng đòi hỏi gì quá mức đã
ấn định cho các anh.” 14 Binh lính cũng hỏi ông: ”Còn anh em chúng
tôi thì phải làm gì?” Ông bảo họ: ”Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người
ta, hãy an phận với số lương của mình.”
15
Hồi
đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông
Gio-an lại chẳng là Đấng Mê-si-a! 16 Ông Gio-an trả lời mọi người rằng: ”Tôi,
tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang
đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em
trong Thánh Thần và lửa. 17 Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân:
thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt
đi.” 18 Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan
báo Tin Mừng cho họ.
Ông
Gio-an Tẩy Giả bị bỏ tù
19
Còn
tiểu vương Hê-rô-đê thì bị ông Gio-an khiển trách vì đã lấy bà Hê-rô-đi-a là vợ
của người anh, và vì tất cả các tội ác tiểu vương đã phạm. 20 Ngoài
ra, tiểu vương còn phạm thêm tội này là bỏ tù ông Gio-an.
Đức
Giê-su chịu phép rửa (Mt 3:13-17; Mc 1:9-11)
21
Khi
toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giê-su cũng chịu phép rửa, và đang khi Người cầu
nguyện, thì trời mở ra, 22 và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới
hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày
hôm nay, Cha đã sinh ra Con.
Gia
phả Đức Giê-su Ki-tô (Mt 1:1-17)
23
Khi
Đức Giê-su khởi sự rao giảng, Người trạc ba mươi tuổi. Thiên hạ vẫn coi Người
là con ông Giu-se. Giu-se là con Ê-li, 24 Ê-li con Mát-tát, Mát-tát
con Lê-vi, Lê-vi con Man-ki, Man-ki con Gian-nai, Gian-nai con Giô-xếp. 25
Giô-xếp con Mát-tít-gia, Mát-tít-gia con A-mốt, A-mốt con Na-khum,
Na-khum con Khét-li, Khét-li con Nác-gai. 26 Nác-gai con Ma-khát,
Ma-khát con Mát-tít-gia, Mát-tít-gia con Sim-y, Sim-y con Giô-xếch, Giô-xếch
con Giô-đa. 27 Giô-đa con Giô-kha-nan, Giô-kha-nan con Rê-sa, Rê-sa
con Dơ-rúp-ba-ven, Dơ-rúp-ba-ven con San-ti-ên.
28
Nê-ri
con Man-ki, Man-ki con Át-đi, Át-đi con Cô-xam, Cô-xam con En-mơ-đam, En-mơ-đam
con E. 29 E con Giê-su, Giê-su con Ê-li-e-de, Ê-li-e-de con Giô-rim,
Giô-rim con Mát-tát, Mát-tát con Lê-vi. 30 Lê-vi con Si-mê-ôn,
Si-mê-ôn con Giu-đa, Giu-đa con Giô-xếp, Giô-xếp con Giô-nam, Giô-nam con
En-gia-kim, 31 En-gia-kim con Ma-li-a, Ma-li-a con Mi-na, Mi-na con
Mát-tát-ta, Mát-tát-ta con Na-than, Na-than con Đa-vít.
32
Đa-vít
con Gie-sê. Gie-sê con Ô-vết, Ô-vết con Bô-át, Bô-át con Xan-môn, Xan-môn con
Nác-sôn. 33 Nác-sôn con Am-mi-na-đáp, Am-mi-na-đáp con Át-min,
Át-min con Ác-ni, Ác-ni con Khét-rôn, Khét-rôn con Pe-rét, Pe-rét con Giu-đa. 34
Giu-đa con Gia-cóp, Gia-cóp con I-xa-ác, I-xa-ác con Áp-ra-ham.
35
Na-kho
con Xơ-rúc, Xơ-rúc con Rơ-u, Rơ-u con Pe-léc, Pe-léc con Ê-ve. Ê-ve con Se-lác.
36 Se-lác con Kê-nan, Kê-nan con Ác-pắc-sát, Ác-pắc-sát con Sêm, Sêm
con Nô-ê, Nô-ê con La-méc. 37 La-méc con Mơ-thu-se-lác.
Mơ-thu-se-lác con Kha-nốc, Kha-nốc con Gie-rét, Gie-rét con Ma-ha-lan-ên,
Ma-ha-lan-ên con Kên-nan. 38 Kên-nan con E-nốt, E-nốt con Sết, Sết
con A-đam và A-đam là con Thiên Chúa.
Chương 4
Đức
Giê-su chịu cám dỗ (Mt 4:1-11; Mc 1:12-13)
1
Đức
Giê-su được đầy Thánh Thần, từ sông Gio-đan trở về. 2 Suốt bốn mươi
ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ. Trong
những ngày ấy, Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, thì Người thấy
đói. 3 Bấy giờ, quỷ nói với Người: ”Nếu ông là Con Thiên Chúa thì
truyền cho hòn đá này hoá bánh đi!” 4 Nhưng Đức Giê-su đáp lại: ”Đã
có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh.”
5
Sau
đó, quỷ đem Đức Giê-su lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả
các nước thiên hạ. 6 Rồi nó nói với Người: ”Tôi sẽ cho ông toàn
quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã
được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. 7 Vậy nếu ông bái lạy
tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông.” 8 Đức Giê-su đáp lại: ”Đã có lời
chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ
phượng một mình Người mà thôi.”
9
Quỷ
lại đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với
Người: ”Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! 10 Vì đã
có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. 11 Lại
còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.” 12
Bấy giờ Đức Giê-su đáp lại: ”Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa
là Thiên Chúa của ngươi.”
13
Sau
khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ.
III.
ĐỨC GIÊ-SU RAO GIẢNG TẠI MIỀN GA-LI-LÊ
Đức
Giê-su bắt đầu rao giảng (Mt 4:12-17; Mc 1:14-15)
14
Được
quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê, và tiếng tăm
Người đồn ra khắp vùng lân cận. 15 Người giảng dạy trong các hội
đường, và được mọi người tôn vinh.
Đức
Giê-su tại Na-da-rét (Mt 13:53-58; Mc 6:1-6)
16
Rồi
Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như
Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. 17 Họ
trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: 18
Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan
báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm
biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người
bị áp bức, 19 công bố một năm hồng ân của Chúa.
20
Đức
Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy
trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. 21 Người bắt đầu nói với
họ: ”Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” 22 Mọi
người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
23
Người
nói với họ: ”Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy
chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um,
ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!” 24 Người nói tiếp:
”Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.
25 “Thật vậy, tôi nói
cho các ông hay: vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng,
cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en; 26 thế
mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà
goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. 27 Cũng vậy, vào thời ngôn sứ
Ê-li-sa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào
được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi.”
28
Nghe
vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. 29 Họ đứng dậy, lôi
Người ra khỏi thành-thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi,
để xô Người xuống vực. 30 Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
Đức
Giê-su giảng dạy tại Ca-phác-na-um và chữa lành một người bị quỷ ám (Mc 1:21-28)
31
Người
xuống Ca-phác-na-um, một thành miền Ga-li-lê, và ngày sa-bát, Người giảng dạy
dân chúng. 32 Họ sửng sốt về cách Người giảng dạy, vì lời của Người
có uy quyền.
33
Trong
hội đường, có một người bị quỷ thần ô uế nhập, la to lên rằng: 34 “Ông
Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng
tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” 35 Nhưng
Đức Giê-su quát mắng nó: ”Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” Quỷ vật người ấy
ngã xuống giữa hội đường, rồi xuất khỏi anh ta, nhưng không làm hại gì anh. 36
Mọi người rất đỗi kinh ngạc và nói với nhau: ”Lời ấy là thế nào? Ông ấy
lấy uy quyền và thế lực mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất!” 37
Và tiếng đồn về Người lan ra khắp nơi trong vùng.
Đức
Giê-su chữa bà mẹ vợ ông Si-môn (Mt 8:14-15; Mc 1:29-31)
38
Đức
Giê-su rời khỏi hội đường, đi vào nhà ông Si-môn. Lúc ấy, bà mẹ vợ ông Si-môn
đang bị sốt nặng. Họ xin Người chữa bà. 39 Đức Giê-su cúi xuống gần
bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến mất: tức khắc bà trỗi dậy phục vụ các
ngài.
Đức
Giê-su chữa lành nhiều người đau yếu (Mt 8:16-17; Mc 1:32-34)
40
Lúc
mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa
tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ. 41 Quỷ cũng
xuất khỏi nhiều người, và la lên rằng: ”Ông là Con Thiên Chúa!” Người quát
mắng, không cho phép chúng nói, vì chúng biết Người là Đấng Ki-tô.
Đức
Giê-su rao giảng tại miền Giu-đê (Mc 1:35-39)
42
Sáng
ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã
đến, và muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi. 43 Nhưng Người
nói với họ: ”Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác
nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.” 44 Và Người rao giảng
trong các hội đường miền Giu-đê.
Chương 5
Đức
Giê-su kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (Mt 4:18-22; Mc 1:16-20)
1
Một
hôm, Đức Giê-su đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến
gần Người để nghe lời Thiên Chúa. 2 Người thấy hai chiếc thuyền đậu
dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. 3
Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-môn, và Người xin
ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền
Người giảng dạy đám đông.
4
Giảng
xong, Người bảo ông Si-môn: ”Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá.” 5 Ông
Si-môn đáp: ”Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả.
Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.” 6 Họ đã làm như vậy, và bắt
được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. 7 Họ làm hiệu cho
các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ
lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.
8
Thấy
vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: ”Lạy Chúa, xin
tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” 9 Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt
được, ông Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. 10
Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông
Si-môn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn: ”Đừng sợ, từ
nay anh sẽ là người thu phục người ta.” 11 Thế là họ đưa thuyền vào
bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.
Đức
Giê-su chữa người bị phong hủi (Mt 8:1-4; Mc 1:40-45)
12
Khi
ấy, Đức Giê-su đang ở trong một thành kia; có một người đầy phong hủi vừa thấy
Người, liền sấp mặt xuống, xin Người rằng: ”Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có
thể làm cho tôi được sạch.” 13 Người giơ tay đụng vào anh ta và bảo:
”Tôi muốn, anh sạch đi.” Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh. 14 Rồi
Người truyền anh ta không được nói với ai, và Người bảo: ”Hãy đi trình diện tư
tế, và vì anh đã được sạch, thì hãy dâng của lễ như ông Mô-sê đã truyền, để làm
chứng cho người ta biết.”
15
Tiếng
đồn về Người ngày càng lan rộng; đám đông lũ lượt tuôn đến để nghe Người và để
được chữa bệnh. 16 Nhưng Người lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện.
Đức
Giê-su chữa người bại liệt (Mt 9:1-8; Mc 2:1-12)
17
Một
hôm, khi Đức Giê-su giảng dạy, có mấy người Pha-ri-sêu và luật sĩ ngồi đó; họ
từ khắp các làng mạc miền Ga-li-lê, Giu-đê và từ Giê-ru-sa-lem mà đến. Quyền
năng Chúa ở với Người, khiến Người chữa lành các bệnh tật. 18 Bỗng
có mấy người khiêng đến một bệnh nhân bị bại liệt nằm trên giường, họ tìm cách
đem vào đặt trước mặt Người. 19 Nhưng vì có đám đông, họ không tìm
được lối đem người ấy vào, nên họ mới lên mái nhà, dỡ ngói ra, thả người ấy
cùng với cái giường xuống ngay chính giữa, trước mặt Đức Giê-su. 20 Thấy
họ có lòng tin như vậy, Người bảo: ”Này anh, anh đã được tha tội rồi.”
21
Các
kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu suy nghĩ: ”Ông này là ai mà nói phạm
thượng như thế? Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?” 22 Nhưng
Đức Giê-su thấu biết họ đang suy nghĩ như thế, nên Người lên tiếng bảo họ rằng:
”Các ông đang nghĩ gì trong bụng vậy? 23 Trong hai điều: một là bảo: ”Anh đã
được tha tội rồi”, hai là bảo: ”Đứng dậy mà đi”, điều nào dễ hơn? 24 Vậy, để
các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội-Đức Giê-su bảo người
bại liệt-: tôi truyền cho anh: Hãy đứng dậy, vác lấy giường của anh mà đi về
nhà!” 25 Ngay lúc ấy, người bại liệt trỗi dậy trước mặt họ, vác cái
anh đã dùng để nằm, vừa đi về nhà vừa tôn vinh Thiên Chúa.
26
Mọi
người đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ kinh hãi bảo nhau: ”Hôm nay,
chúng ta đã thấy những chuyện lạ kỳ!”
Đức
Giê-su kêu gọi ông Lê-vi (Mt 9:9; Mc 2:13-14)
27
Sau
đó, Đức Giê-su đi ra và trông thấy một người thu thuế, tên là Lê-vi, đang ngồi
ở trạm thu thuế. Người bảo ông: ”Anh hãy theo tôi!” 28 Ông bỏ tất
cả, đứng dậy đi theo Người.
Đức
Giê–su dùng bữa với những người tội lỗi tại nhà ông Lê–vi (Mt 9, 10-13; Mc 2:15-17)
29
Ông
Lê-vi làm tiệc lớn đãi Người tại nhà ông. Có đông đảo người thu thuế và những
người khác cùng ăn với các ngài. 30 Những người Pha-ri-sêu và những
kinh sư thuộc nhóm của họ mới lẩm bẩm trách các môn đệ Đức Giê-su rằng: ”Sao
các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?” 31 Đức Giê-su
đáp lại họ rằng: ”Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. 32
Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi
sám hối ăn năn.”
Tranh
luận về việc ăn chay (Mt 9:14-17; Mc 2:18-22)
33
Họ
nói với Người: ”Môn đệ ông Gio-an năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người
Pha-ri-sêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống!” 34 Đức Giê-su
trả lời: ”Chẳng lẽ các ông lại có thể bắt khách dự tiệc cưới ăn chay, khi chàng
rể còn ở với họ? 35 Sẽ có ngày chàng rể bị đem đi; ngày đó, họ mới ăn chay.”
36
Đức
Giê-su còn kể cho họ nghe dụ ngôn này: ”Chẳng ai xé áo mới lấy vải vá áo cũ, vì
như vậy, không những họ xé áo mới, mà miếng vải áo mới cũng không ăn với áo cũ.
37 “Không ai đổ rượu mới
vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư. 38
Nhưng rượu mới thì phải đổ vào bầu mới. 39 Cũng không ai uống
rượu cũ mà còn thèm rượu mới. Vì người ta nói: ”Rượu cũ ngon hơn.”
Chương 6
Môn
đệ bứt lúa ăn ngày sa-bát (Mt 12:1-8; Mc 2:23-28)
1
Vào
một ngày sa-bát, Đức Giê-su đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ bứt lúa,
vò trong tay mà ăn. 2 Nhưng có mấy người Pha-ri-sêu nói: ”Tại sao
các ông làm điều không được phép làm ngày sa-bát?”
3
Đức
Giê-su trả lời: ”Các ông chưa đọc chuyện này trong Sách sao? Ông Đa-vít đã làm
gì khi ông và thuộc hạ đói bụng? 4 Ông vào nhà Thiên Chúa lấy bánh tiến mà ăn
và cho thuộc hạ ăn. Thứ bánh này, chỉ có tư tế mới được ăn mà thôi.” 5 Rồi
Người nói: ”Con Người làm chủ ngày sa-bát.”
Đức
Giê-su chữa người bại tay ngày sa-bát (Mt 12:9-14; Mc 3:1-6)
6
Một
ngày sa-bát khác, Đức Giê-su cũng vào hội đường và giảng dạy. Ở đó có một người
bị khô bại tay phải. 7 Các kinh sư và những người Pha-ri-sêu rình
xem Đức Giê-su có chữa người ấy trong ngày sa-bát không, để tìm được cớ tố cáo
Người. 8 Nhưng Người biết họ đang suy nghĩ như thế, nên bảo người
bại tay: ”Anh trỗi dậy, ra đứng giữa đây!” Người ấy liền trỗi dậy và đứng đó. 9
Đức Giê-su nói với họ: ”Tôi xin hỏi các ông: ngày sa-bát, được phép làm
điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt?” 10 Người rảo
mắt nhìn họ tất cả, rồi bảo người bại tay: ”Anh giơ tay ra!” Anh ấy làm như vậy
và tay anh liền trở lại bình thường. 11 Nhưng họ thì giận điên lên,
và bàn nhau xem có làm gì được Đức Giê-su không.
Đức
Giê-su tuyển chọn mười hai Tông Đồ (Mt 10:1-4; Mc 3:13-19)
12
Trong
những ngày ấy, Đức Giê-su đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu
nguyện cùng Thiên Chúa. 13 Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn
lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ. 14 Đó là ông Si-môn mà Người gọi
là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là các ông Gia-cô-bê, Gio-an,
Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, 15 Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông
An-phê, Si-môn biệt danh là Quá Khích, 16 Giu-đa con ông Gia-cô-bê,
và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, người đã trở thành kẻ phản bội.
Dân
chúng kéo đến cùng Đức Giê-su (Mt 4:23-25)
17
Đức
Giê-su đi xuống cùng với các ông, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó,
đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giu-đê,
Giê-ru-sa-lem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đôn 18 đến để nghe Người
giảng và để được chữa lành bệnh tật. Những kẻ bị các thần ô uế quấy nhiễu cũng
được chữa lành. 19 Tất cả đám đông tìm cách sờ vào Người, vì có một
năng lực tự nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người.
Bài
giảng khai mạc. Các mối phúc thật (Mt 5:1-12)
20
Đức
Giê-su ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói:
“
Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó,
vì
Nước Thiên Chúa là của anh em.
21 “Phúc cho anh em là
những kẻ bây giờ đang phải đói,
vì
Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng.
“
Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc,
vì
anh em sẽ được vui cười.
22 “Phúc cho anh em khi
vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu
xa. 23 Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng
dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị
cha ông họ đối xử như thế.
Các
mối hoạ
24 “Nhưng khốn cho các
ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi.
25 “Khốn cho các ngươi,
hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói.
“
Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ
phải sầu khổ khóc than.
26 “Khốn cho các ngươi
khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối
xử như thế.
Yêu
thương kẻ thù (Mt 5:38-48; 7:12 a)
27 “Thầy nói với anh em
là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em,
28 hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu
khống anh em. 29 Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia
nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. 30 Ai
xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. 31 Anh em
muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy. 32 Nếu
anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người
tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. 33 Và nếu anh em làm ơn
cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng
làm như thế. 34 Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn
gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả
lại sòng phẳng. 35 Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và
cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em
sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả
phường vô ân và quân độc ác.
Phải
có lòng nhân từ (Mt 7:1-2)
36 “Anh em hãy có lòng
nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. 37 Anh em đừng xét đoán,
thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị
Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. 38 Anh
em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ
lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng
đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.”
Mù
mà lại dắt mù. Cái rác và cái xà (Mt 7:3-5)
39
Đức
Giê-su còn kể cho môn đệ dụ ngôn này: ”Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai
lại không sa xuống hố? 40 Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng
thầy mà thôi. 41 Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh
em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? 42 Sao anh
lại có thể nói với người anh em: ”Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt
anh ra”, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? Hỡi
kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy
cái rác trong con mắt người anh em!
Cây
nào trái ấy (Mt 7:15-20; 12:33-35)
43 “Không có cây nào tốt
mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây nào sâu mà lại sinh quả tốt. 44 Thật
vậy, xem quả thì biết cây. Ở bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì
hái được nho! 45 Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ
xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra.
Phải
thực hành lời Đức Giê-su dạy (Mt 7:24-27)
46 “Tại sao anh em gọi
Thầy: ”Lạy Chúa! Lạy Chúa!, mà anh em không làm điều Thầy dạy?
47 “Ai đến với Thầy, và
nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết
người ấy ví được như ai. 48 Người ấy ví được như một người khi xây
nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lụt dâng lên, dòng sông
có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi, vì nhà đã xây vững chắc. 49 Còn
ai nghe mà không thực hành, thì ví được như người xây nhà ngay mặt đất, không
nền móng. Nước sông ùa vào, nhà sụp đổ ngay và bị phá huỷ tan tành.”
Chương 7
Đức
Giê-su chữa người nô lệ của một đại đội trưởng (Mt 8:5-13)
1
Sau
khi đã nói hết những lời ấy cho dân chúng nghe, Đức Giê-su vào thành
Ca-phác-na-um. 2 Một viên đại đội trưởng kia có người nô lệ bệnh
nặng gần chết. Ông ta yêu quý người ấy lắm. 3 Khi nghe đồn về Đức
Giê-su, ông cho mấy kỳ mục của người Do-thái đi xin Người đến cứu sống người nô
lệ của ông.
4
Họ
đến gặp Đức Giê-su và khẩn khoản nài xin Người rằng: ”Thưa Ngài, ông ấy đáng
được Ngài làm ơn cho. 5 Vì ông quý mến dân ta. Vả lại chính ông đã
xây cất hội đường cho chúng ta.” 6 Đức Giê-su liền đi với họ. Khi
Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này cho bạn hữu ra nói
với Người: ”Thưa Ngài, không dám phiền Ngài quá như vậy, vì tôi không đáng rước
Ngài vào nhà tôi. 7 Cũng vì thế, tôi không nghĩ mình xứng đáng đến
gặp Ngài. Nhưng xin Ngài cứ nói một lời, thì đầy tớ của tôi được khỏi bệnh. 8
Vì chính tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền
tôi. Tôi bảo người này: ”Đi! là nó đi; bảo người kia: ”Đến! là nó đến; và bảo
người nô lệ của tôi: ”Làm cái này! là nó làm.” 9 Nghe vậy, Đức
Giê-su thán phục ông ta, Người quay lại nói với đám đông đang theo Người rằng:
”Tôi nói cho các ông hay: ngay cả trong dân Ít-ra-en, tôi cũng chưa thấy một
người nào có lòng tin mạnh như thế.” 10 Về đến nhà, những người đã
được sai đi thấy người nô lệ đã khỏi hẳn.
Đức
Giê-su cho con trai một bà goá thành Na-in sống lại
11
Sau
đó, Đức Giê-su đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám rất đông
cùng đi với Người. 12 Khi Đức Giê-su đến gần cửa thành, thì đang lúc
người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ
anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. 13 Trông
thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: ”Bà đừng khóc nữa!” 14 Rồi
Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giê-su nói: ”Này
người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!” 15 Người chết liền
ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ. 16 Mọi
người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: ”Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất
hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” . 17 Lời
này về Đức Giê-su được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận.
Câu
hỏi của ông Gio-an Tẩy Giả và câu trả lời của Đức Giê-su (Mt 11:2-15)
18
Môn
đệ của ông Gio-an báo cho ông biết tất cả những việc ấy; ông Gio-an liền gọi
hai người trong nhóm môn đệ lại, 19 sai họ đến hỏi Chúa rằng: ”Thầy
có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” 20
Khi đến gặp Đức Giê-su, hai người ấy nói: ”Ông Gio-an Tẩy Giả sai chúng
tôi đến hỏi Thầy: ”Thầy có thật là “Đấng phải đến” không, hay là chúng tôi còn
phải đợi ai khác?” 21 Chính giờ ấy, Đức Giê-su chữa nhiều người khỏi
bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám, và ban ơn cho nhiều người mù được thấy. 22
Người trả lời hai người ấy rằng: ”Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an
những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi
được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng,
23 và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”
24
Khi
những người ông Gio-an sai đến đã ra về, Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về
ông Gio-an rằng: ”Anh em đi xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước
gió chăng? 25 Hẳn là không! Thế thì anh em đi xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa
là chăng? Nhưng kẻ áo quần lộng lẫy, đời sống xa hoa thì ở trong cung trong
điện. 26 Thế thì anh em đi xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế
đó; mà tôi nói cho anh em biết: đây còn hơn cả ngôn sứ nữa! 27 Chính ông là
người Thiên Chúa đã nói tới trong Kinh Thánh rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi
trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến!
28 “Tôi nói cho anh em
biết: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gio-an;
tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông. 29 Nghe
ông giảng, toàn dân, kể cả những người thu thuế, đều nhìn nhận Thiên Chúa là
Đấng Công Chính và đã chịu phép rửa của ông. 30 Còn những người
Pha-ri-sêu và các nhà thông luật thì khước từ ý định của Thiên Chúa về họ, và
không chịu phép rửa của ông.
Đức
Giê-su phán đoán về thế hệ của Người (Mt 11, 16-19)
31 “Vậy tôi phải ví
người thế hệ này với ai? Họ giống ai? 32 Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi
nhau mà nói:
“
Tụi tôi thổi sáo cho các anh,
mà
các anh không nhảy múa;
tụi
tôi hát bài đưa đám,
mà
các anh không khóc than.
33 “Thật vậy, ông Gio-an
Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo: ”Ông ta bị quỷ ám.
34 Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo:
”Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi. 35 Nhưng
Đức Khôn Ngoan đã được tất cả con cái mình biện minh cho.”
Người
phụ nữ tội lỗi đã được tha thứ và đã yêu mến Chúa nhiều
36
Có
người thuộc nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dùng bữa với mình. Đức Giê-su đến
nhà người Pha-ri-sêu ấy và vào bàn ăn. 37 Bỗng một phụ nữ vốn là
người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông
Pha-ri-sêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. 38 Chị
đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị
lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.
39
Thấy
vậy, ông Pha-ri-sêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: ”Nếu quả thật ông này là
ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người
nào: một người tội lỗi!” 40 Đức Giê-su lên tiếng bảo ông: ”Này ông
Si-môn, tôi có điều muốn nói với ông!” Ông ấy thưa: ”Dạ, xin Thầy cứ nói.” 41
Đức Giê-su nói: ”Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan
tiền, một người năm chục. 42 Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã
thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?” 43
Ông Si-môn đáp: ”Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn.” Đức
Giê-su bảo: ”Ông xét đúng lắm.”
44
Rồi
quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Si-môn: ”Ông thấy người phụ nữ
này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy
đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. 45 Ông
đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân
tôi. 46 Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy
dầu thơm mà đổ lên chân tôi. 47 Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của
chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được
tha ít thì yêu mến ít.” 48 Rồi Đức Giê-su nói với người phụ nữ: ”Tội
của chị đã được tha rồi.” 49 Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ
bụng: ”Ông này là ai mà lại tha được tội?” 50 Nhưng Đức Giê-su nói
với người phụ nữ: ”Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an.”
Chương 8
Những
người phụ nữ đi theo Đức Giê-su
1
Sau
đó, Đức Giê-su rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng
Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai 2 và mấy người phụ nữ đã
được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la,
người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, 3 bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da
quản lý của vua Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy
của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ.
Dụ
ngôn người gieo giống (Mt 13:1-9; Mc 4:1-9)
4
Người
ta tụ họp đông đảo. Từ khắp các thành thị, người ta kéo đến cùng Đức Giê-su.
Bấy giờ Người dùng dụ ngôn mà nói rằng:
5 “Người gieo giống đi
ra gieo hạt giống của mình. Trong khi người ấy gieo, thì có hạt rơi xuống vệ
đường, người ta giẫm lên và chim trời ăn mất. 6 Hạt khác rơi trên
đá, và khi mọc lên, lại héo đi vì thiếu ẩm ướt. 7 Có hạt rơi vào
giữa bụi gai, gai cùng mọc lên, làm nó chết nghẹt. 8 Có hạt lại rơi
nhằm đất tốt, và khi mọc lên, nó sinh hoa kết quả gấp trăm” . Nói xong, Người
hô lên rằng: ”Ai có tai nghe thì nghe.”
Tại
sao Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói (Mt 13:10-17; Mc 4:10-12)
9
Các
môn đệ hỏi Người dụ ngôn ấy có ý nghĩa gì. 10 Người đáp: ”Anh em thì
được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Thiên Chúa; còn với kẻ khác thì phải dùng
dụ ngôn để chúng nhìn mà không nhìn, nghe mà không hiểu.
Giải
nghĩa dụ ngôn người gieo giống (Mt 13:18-23; Mc 4:13-20)
11 “Đây là ý nghĩa dụ
ngôn: Hạt giống là lời Thiên Chúa. 12 Những kẻ ở bên vệ đường là
những kẻ đã nghe nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được
cứu độ. 13 Còn những kẻ ở trên đá là những kẻ khi nghe thì vui vẻ
tiếp nhận Lời, nhưng họ không có rễ. Họ tin nhất thời, và khi gặp thử thách, họ
bỏ cuộc. 14 Hạt rơi vào bụi gai: đó là những kẻ nghe, nhưng dọc
đường bị những nỗi lo lắng và vinh hoa phú quý cùng những khoái lạc cuộc đời
làm cho chết ngộp và không đạt tới mức trưởng thành. 15 Hạt rơi vào
đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm
giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả.
Lãnh
nhận và truyền bá giáo huấn của Đức Giê-su thế nào (Mc 4:21-25)
16 “Chẳng có ai đốt đèn,
rồi lấy hũ che đi hoặc đặt dưới gầm giường, nhưng đặt trên đế, để những ai đi
vào thì nhìn thấy ánh sáng. 17 Vì chẳng có gì bí ẩn mà lại không trở
nên hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà người ta lại không biết và không bị đưa
ra ánh sáng. 18 Vậy hãy để ý tới cách thức anh em nghe. Vì ai đã có,
thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái họ tưởng là có, cũng sẽ bị lấy
mất.”
Những
ai thật sự thuộc gia đình của Đức Giê-su (Mt 12:46-50; Mc 3:31-35)
19
Mẹ
và anh em Đức Giê-su đến gặp Người, mà không làm sao lại gần được, vì dân chúng
quá đông. 20 Người ta báo cho Người biết: ”Thưa Thầy, có mẹ và anh
em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn gặp Thầy.” 21 Người đáp lại: ”Mẹ
tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành.”
Đức
Giê-su dẹp yên biển động (Mt 8:23-27; Mc 4:35-41)
22
Một
ngày nọ, Đức Giê-su xuống thuyền với các môn đệ. Người nói: ”Chúng ta sang bên
kia hồ đi!” Rồi thầy trò ra khơi. 23 Đang khi các ngài đi thuyền,
thì Đức Giê-su thiếp ngủ. Một trận cuồng phong ập xuống hồ; các ngài bị ngập
nước và lâm nguy. 24 Các môn đệ lại gần đánh thức Người dậy và nói:
”Thầy ơi, Thầy! Chúng ta chết mất!” Người thức dậy, ngăm đe sóng gió, sóng gió
liền ngừng và biển lặng ngay. 25 Người bảo các ông: ”Đức tin anh em
ở đâu?” Các ông hoảng sợ, kinh ngạc và nói với nhau: ”Vậy người này là ai mà ra
lệnh cho cả sóng gió, và sóng gió phải tuân lệnh?”
Đức
Giê-su chữa người bị quỷ ám tại Ghê-ra-xa (Mt 8:28-34; Mc 5:1-20)
26
Thầy
trò ghé thuyền vào vùng đất của người Ghê-ra-xa, đối diện với miền Ga-li-lê. 27
Người vừa ra khỏi thuyền và đặt chân lên đất, thì có một người dân trong
thành bị quỷ ám ra đón Người. Từ lâu, anh ta không mặc quần áo, không ở trong
nhà, nhưng ở trong đám mồ mả.
28
Thấy
Đức Giê-su, anh la lên, sấp mình dưới chân Người, và lớn tiếng nói rằng: ”Lạy
ông Giê-su, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến ông? Tôi xin ông đừng
hành hạ tôi!” 29 Ấy là vì Đức Giê-su đã truyền cho thần ô uế xuất
khỏi người ấy. Thật vậy, đã nhiều lần quỷ bắt lấy anh ta, người ta dùng xiềng
xích gông cùm mà trói và giữ anh; nhưng anh bứt tung dây trói và bị quỷ đưa vào
những nơi hoang vắng. 30 Đức Giê-su hỏi anh: ”Tên anh là gì?” Anh
thưa: ”Đạo Binh”, vì rất nhiều quỷ nhập vào anh. 31 Lũ quỷ nài xin
Người đừng truyền cho chúng rút xuống vực thẳm.
32
Ở
đó có một bầy heo khá đông đang ăn trên núi. Lũ quỷ nài xin Người cho phép
chúng nhập vào bầy heo kia, và Người cho phép. 33 Lũ quỷ xuất khỏi
người đó, nhập vào bầy heo. Cả bầy heo từ trên sườn núi lao xuống hồ và chết
ngộp hết.
34
Thấy
sự việc xảy ra, các người chăn heo bỏ chạy, loan tin trong thành và thôn xóm. 35
Thiên hạ ra xem sự việc đã xảy ra. Họ đến cùng Đức Giê-su và thấy kẻ đã
được trừ quỷ đang ngồi dưới chân Đức Giê-su, ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh
táo. Họ phát sợ. 36 Những người chứng kiến đã kể lại cho họ nghe
người bị quỷ ám được cứu chữa thế nào. 37 Bấy giờ đông đảo dân chúng
vùng Ghê-ra-xa xin Người rời họ, vì họ sợ quá. Thế nên Người xuống thuyền trở
về.
38
Kẻ
đã được trừ quỷ xin được ở với Người. Nhưng Người bảo anh ta về và nói: 39
“Anh cứ về nhà và kể lại mọi điều Thiên Chúa đã làm cho anh.” Anh ta ra đi, rao
truyền cho cả thành biết mọi điều Đức Giê-su đã làm cho anh.
Đức
Giê-su chữa người đàn bà bị băng huyết và cho con gái ông Gia-ia sống lại (Mt 9:18-26;
Mc 5:21-43)
40
Khi
Đức Giê-su trở về thì đám đông tiếp đón, vì ai ai cũng đợi chờ Người. 41 Bỗng
có một người tên là Gia-ia đi tới; ông là trưởng hội đường. Ông sụp xuống dưới
chân Đức Giê-su, nài xin Người vào nhà ông, 42 vì ông có một đứa con
gái duy nhất độ mười hai tuổi, mà nó lại sắp chết. Trong khi Người đi, đám đông
dân chúng chen lấn làm Người nghẹt thở.
43
Có
một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, không ai có thể chữa được. 44 Bà
tiến đến phía sau Người và sờ vào tua áo của Người. Tức khắc, máu ngừng chảy. 45
Đức Giê-su hỏi: ”Ai là người đã sờ vào tôi?” Mọi người đều chối, nên ông
Phê-rô nói: ”Thưa Thầy, đám đông xô đẩy, chen lấn Thầy đấy!” 46 Nhưng
Đức Giê-su nói: ”Có người đã đụng vào Thầy, vì Thầy biết có một năng lực tự nơi
Thầy phát ra.” 47 Người đàn bà thấy mình không giữ kín được nữa, thì
run rẩy đến phủ phục trước mặt Người, và loan báo trước mặt toàn dân lý do tại
sao bà đã đụng vào Đức Giê-su, và bà đã được khỏi bệnh tức khắc như thế nào. 48
Đức Giê-su nói với bà: ”Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con
hãy đi bình an.”
49
Đức
Giê-su còn đang nói, thì có người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo ông: ”Con
gái ông chết rồi, đừng làm phiền Thầy nữa!” 50 Nghe vậy, Đức Giê-su
bảo ông trưởng hội đường: ”Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi, là con gái ông sẽ
được cứu.” 51 Khi đến nhà, Người không cho ai vào với mình, trừ ông
Phê-rô, ông Gio-an, ông Gia-cô-bê và cha mẹ của đứa bé. 52 Mọi người
đều đấm ngực khóc thương nó. Đức Giê-su nói: ”Đừng khóc! Con bé có chết đâu, nó
ngủ đấy!” 53 Họ chế nhạo Người, vì biết nó đã chết. 54 Nhưng
Người cầm lấy tay nó, lên tiếng gọi: ”Này bé, trỗi dậy đi!” 55 Hồn
đứa bé trở lại, và nó đứng dậy ngay. Đức Giê-su bảo người ta cho nó ăn. 56
Cha mẹ nó kinh ngạc. Nhưng Người ra lệnh cho họ không được nói với ai về
việc đã xảy ra.
Chương 9
Đức
Giê-su sai mười hai Tông Đồ đi giảng (Mt 10:1. 5-14; Mc 6:7-13)
1
Đức
Giê-su tập họp Nhóm Mười Hai lại, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ
mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật. 2 Người sai các ông đi rao giảng
Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. 3 Người nói: ”Anh em đừng
mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai
áo. 4 Khi anh em vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó và cũng từ đó mà
ra đi. 5 Hễ người ta không đón tiếp anh em, thì khi ra khỏi thành,
anh em hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.” 6 Các ông ra đi, rảo
qua các làng mạc loan báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi.
Vua
Hê-rô-đê và Đức Giê-su (Mt 14:1-2; Mc 6:14-29)
7
Tiểu
vương Hê-rô-đê nghe biết tất cả những gì đã xảy ra, thì phân vân lắm. Thật vậy,
có kẻ nói: ”Đó là ông Gio-an từ cõi chết trỗi dậy.” 8 Kẻ khác nói:
”Ông Ê-li-a xuất hiện đấy!” Kẻ khác nữa lại nói: ”Đó là một ngôn sứ thời xưa
sống lại.” 9 Còn vua Hê-rô-đê thì nói: ”Ông Gio-an, chính ta đã chém
đầu rồi! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?” Rồi vua
tìm cách gặp Đức Giê-su.
Các
Tông Đồ trở về. Đức Giê-su hoá bánh ra nhiều (Mt 14:13-21; Mc 6:30-44; Ga 6:1-13)
10
Các
Tông Đồ trở về thuật lại cho Đức Giê-su những việc các ông đã làm. Người đem
các ông đi riêng với mình, lui về thành kia gọi là Bết-xai-đa. 11 Đám
đông dân chúng biết thế, liền đi theo Người. Người tiếp đón họ, nói với họ về
Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa.
12
Ngày
đã bắt đầu tàn. Nhóm Mười Hai đến bên Đức Giê-su thưa Người rằng: ”Xin Thầy cho
đám đông về, để họ vào các làng mạc nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và kiếm
thức ăn, vì nơi chúng ta đang ở đây là nơi hoang vắng.” 13 Đức
Giê-su bảo: ”Chính anh em hãy cho họ ăn.” Các ông đáp: ”Chúng con chỉ có vỏn
vẹn năm cái bánh và hai con cá, trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho
cả đám dân này.” 14 Quả thật có tới chừng năm ngàn đàn ông. Đức
Giê-su nói với các môn đệ: ”Anh em hãy bảo họ ngồi thành từng nhóm khoảng năm
mươi người một.” 15 Các môn đệ làm y như vậy, và bảo mọi người ngồi
xuống. 16 Bấy giờ Đức Giê-su cầm lấy năm cái bánh và hai con cá,
ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn
ra cho đám đông. 17 Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những
miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng.
Ông
Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa (Mt 16:13-20; Mc 8:27-30).
18
Hôm
ấy, Đức Giê-su cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người
hỏi các ông rằng: ”Dân chúng nói Thầy là ai?” 19 Các ông thưa: ”Họ
bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại
cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại.” 20 Người lại
hỏi: ”Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phê-rô thưa: ”Thầy là Đấng Ki-tô
của Thiên Chúa.” 21 Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không
được nói điều ấy với ai.
Đức
Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ nhất (Mt 16:21; Mc 8:31)
22
Người
còn nói: ”Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh
sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.”
Điều
kiện phải có để theo Đức Giê-su (Mt 16:24-27; Mc 8:34-38)
23
Rồi
Đức Giê-su nói với mọi người: ”Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác
thập giá mình hằng ngày mà theo. 24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống
mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng
sống ấy. 25 Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính
mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì? 26 Ai xấu hổ vì tôi và những lời của
tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang
của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần.
Triều
đại Thiên Chúa đã gần đến (Mt 16:28; Mc 9:1)
27 “Thầy bảo thật anh
em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải chết, trước khi thấy
Nước Thiên Chúa.”
Đức
Giê-su hiển dung (Mt 17:1-8; Mc 9:2-8)
28
Khoảng
tám ngày sau khi nói những lời ấy, Đức Giê-su lên núi cầu nguyện đem theo các
ông Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê. 29 Đang lúc Người cầu nguyện, dung
mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. 30 Và
kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a. 31 Hai
vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành
tại Giê-ru-sa-lem. 32 Còn ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt,
nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su, và hai nhân
vật đứng bên Người. 33 Đang lúc hai vị này từ biệt Đức Giê-su, ông
Phê-rô thưa với Người rằng: ”Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con
xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”
Ông không biết mình đang nói gì. 34 Ông còn đang nói, thì bỗng có
một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ.
35 Và từ đám mây có tiếng phán rằng: ”Đây là Con Ta, người đã được
Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” 36 Tiếng phán vừa dứt, thì
chỉ còn thấy một mình Đức Giê-su. Còn các môn đệ thì nín thinh, và trong những
ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.
Đức
Giê-su chữa đứa trẻ bị kinh phong (Mt 17:14-18; Mc 9:14-27)
37
Hôm
sau, khi Đức Giê-su và ba môn đệ ở trên núi xuống, có đám đông dân chúng tới
đón Người. 38 Bỗng có một người đàn ông từ trong đám đông kêu lên
rằng: ”Thưa Thầy, tôi xin Thầy đoái nhìn đứa con trai tôi, vì tôi chỉ có một
mình cháu. 39 Thế mà quỷ nhập vào cháu, khiến cháu bỗng dưng la lên,
vật mình vật mẩy, sùi cả bọt mép, và khó lắm nó mới chịu rời cháu, bỏ cháu lại
đó mệt nhừ. 40 Tôi có xin các môn đệ Thầy trừ tên quỷ đó, nhưng các
ông trừ không được.” 41 Đức Giê-su đáp: ”Ôi thế hệ cứng lòng không
chịu tin và gian tà! Tôi phải ở cùng các người và chịu đựng các người cho đến
bao giờ nữa? Ông đem cháu lại đây!” 42 Đứa trẻ đang tiến lại, thì
quỷ vật nó xuống và lay nó thật mạnh. Đức Giê-su quát mắng tên quỷ ô uế, chữa
đứa trẻ, và trao lại cho cha nó. 43 Mọi người đều kinh ngạc trước
quyền năng cao cả của Thiên Chúa.
Đức
Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ hai (Mt 18:22-23; Mc 9:30-32)
44 “Phần anh em, hãy
lắng tai nghe cho kỹ những lời sau đây: Con Người sắp bị nộp vào tay người đời.”
45 Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì đối với các ông, lời đó còn
bí ẩn, đến nỗi các ông không nhận ra ý nghĩa. Nhưng các ông sợ không dám hỏi
lại Người về lời ấy.
Ai
là người lớn nhất trong các môn đệ (Mt 18:1-5; Mc 9:33-37)
46
Một
câu hỏi chợt đến với các ông: trong các ông, ai là người lớn nhất? 47 Đức
Giê-su biết điều các ông đang tự hỏi trong lòng, liền đem một em nhỏ đặt bên
cạnh mình48 và nói với các ông: ”Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp
đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy. Thật vậy, ai
là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất.”
Nhân
danh Đức Giê-su mà trừ quỷ (Mc 9:38-40)
49
Ông
Gio-an lên tiếng nói: ”Thưa Thầy, chúng con thấy có người nhân danh Thầy mà trừ
quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không cùng với chúng con đi theo
Thầy.” 50 Đức Giê-su bảo ông: ”Đừng ngăn cản người ta. Quả thật, ai
không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta!”
IV.
ĐỨC GIÊ-SU LÊN GIÊ-RU-SA-LEM
Một
làng miền Sa-ma-ri không đón tiếp Đức Giê-su
51
Khi
đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên
Giê-ru-sa-lem. 52 Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào
một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến. 53 Nhưng dân làng
không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem. 54 Thấy
thế, hai môn đệ Người là ông Gia-cô-bê và ông Gio-an nói rằng: ”Thưa Thầy, Thầy
có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” 55 Nhưng
Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông. 56 Rồi Thầy trò đi sang làng
khác.
Đức
Giê-su đòi hỏi môn đệ phải bỏ mọi sự (Mt 8:19-22)
57
Đang
khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Người rằng: ”Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi
cũng xin đi theo.” 58 Người trả lời: ”Con chồn có hang, chim trời có
tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”
59
Đức
Giê-su nói với một người khác: ”Anh hãy theo tôi!” Người ấy thưa: ”Thưa Thầy,
xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã.” 60 Đức Giê-su bảo:
”Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại
Thiên Chúa.”
61
Một
người khác nữa lại nói: ”Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi
từ biệt gia đình trước đã.” 62 Đức Giê-su bảo: ”Ai đã tra tay cầm
cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”
Chương 10
Đức
Giê-su sai bảy mươi hai môn đệ đi giảng (Mt 11:20-24)
1
Sau
đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một
đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. 2 Người
bảo các ông:
3
Anh
em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. 4 Đừng
mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. 5 Vào
bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: ”Bình an cho nhà này!” 6 Nếu ở đó,
có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng
không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. 7 Hãy ở lại nhà ấy, và
người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được
trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. 8 Vào bất cứ thành nào mà
được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. 9 Hãy
chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: ”Triều Đại Thiên Chúa đã
đến gần các ông.” 10 Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không
tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: 11 “Ngay cả bụi
trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các
ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.” 12
Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy, thành Xơ-đôm còn được xử khoan
hồng hơn thành đó.”
13 “Khốn cho ngươi, hỡi
Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các
ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì từ lâu họ đã mặc áo vải thô, ngồi trên
tro tỏ lòng sám hối rồi. 14 Vì thế, trong cuộc Phán Xét, Tia và
Xi-đôn sẽ được xử khoan hồng hơn các ngươi. 15 Còn ngươi nữa, hỡi
Ca-phác-na-um, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Không, ngươi sẽ
phải nhào xuống tận âm phủ!
16 “ Ai nghe anh em là
nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước
từ Đấng đã sai Thầy.”
“
Hãy mừng vì tên anh em được ghi trên trời”
17
Nhóm
Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: ”Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng
phải khuất phục chúng con.” 18 Đức Giê-su bảo các ông: ”Thầy đã thấy
Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống. 19 Đây, Thầy đã ban cho
anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có
gì làm hại được anh em. 20 Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần
phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời.”
Chúa
Cha mặc khải cho những người bé mọn (Mt 11:25-26)
21
Ngay
giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng và nói: ”Lạy Cha
là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc
khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người
bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.
Chúa
Cha và Chúa Con (Mt 11:27)
22 “Cha tôi đã giao phó
mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không
ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.”
Đặc
ân các môn đệ (Mt 13:16-17)
23
Rồi
Đức Giê-su quay lại với các môn đệ và bảo riêng: ”Phúc thay mắt nào được thấy
điều anh em thấy! 24 Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều
vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều
anh em đang nghe, mà không được nghe.”
Điều
răn lớn
25
Và
này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: ”Thưa
Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia ì
26
Người
đáp: ”Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” 27 Ông ấy thưa:
”Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết
sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” 28
Đức Giê-su bảo ông ta: ”Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được
sống.”
Dụ
ngôn người Sa-ma-ri tốt lành
29
Nhưng
ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: ”Nhưng
ai là người thân cận của tôi?” 30 Đức Giê-su đáp: ”Một người kia từ
Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột
sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. 31
Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người
này, ông tránh qua bên kia mà đi. 32 Rồi cũng thế, một thầy Lê-vi đi
tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. 33 Nhưng một
người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng
thương. 34 Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho
người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán
trọ mà săn sóc. 35 Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ
quán và nói: ”Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi
trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.” 36 Vậy theo ông nghĩ, trong ba
người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” 37
Người thông luật trả lời: ”Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối
với người ấy.” Đức Giê-su bảo ông ta: ”Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.”
Hai
chị em Mác-ta và Ma-ri-a
38
Trong
khi thầy trò đi đường, Đức Giê-su vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là
Mác-ta đón Người vào nhà. 39 Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô
này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. 40 Còn cô Mác-ta
thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: ”Thưa Thầy, em con để mình con
phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” 41
Chúa đáp: ”Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! 42
Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không
bị lấy đi.”
Chương 11
“Kinh
Lạy Cha” (Mt 6:9-13)
1
Có
một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một
người trong nhóm môn đệ nói với Người: ”Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu
nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông.” 2 Người bảo các
ông: ”Khi cầu nguyện, anh em hãy nói:
“
Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển,
Triều
Đại Cha mau đến,
3
xin
Cha cho chúng con
ngày
nào có lương thực ngày ấy;
4
xin
tha tội cho chúng con,
vì
chính chúng con cũng tha
cho
mọi người mắc lỗi với chúng con,
và
xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.”
Người
bạn quấy rầy
5
Người
còn nói với các ông: ”Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người
bạn ấy mà nói: ”Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, 6 vì tôi có anh bạn
lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả”; 7 mà
người kia từ trong nhà lại đáp: ”Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi,
các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được.
? 8 Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình
bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ
lì ra đó.
Cứ
xin thì sẽ được (Mt 7:7-11)
9 “Thế nên Thầy bảo anh
em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. 10
Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. 11
Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại
lấy rắn mà cho nó? 12 Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? 13 Vậy nếu anh em
vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi
Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”
Đức
Giê-su và quỷ vương Bê-en-dê-bun (Mt 12:22-29; Mc 3:22-27)
14
Bấy
giờ Đức Giê-su trừ một tên quỷ, và nó là quỷ câm. Khi quỷ xuất rồi, thì người
câm nói được. Đám đông lấy làm ngạc nhiên. 15 Nhưng trong số đó có
mấy người lại bảo: ”Ông ấy dựa thế quỷ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ.” 16 Kẻ
khác lại muốn thử Người, nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời. 17 Nhưng
Người biết tư tưởng của họ, nên nói: ”Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà
nọ đổ xuống nhà kia. 18 Nếu Xa-tan cũng tự chia rẽ chống lại chính
mình, thì nước nó tồn tại sao được? . . . bởi lẽ các ông nói tôi dựa thế
Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ. 19 Nếu tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ,
thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy, chính họ sẽ xét xử các ông. 20
Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại
Thiên Chúa đã đến giữa các ông. 21 Khi một người mạnh được vũ trang
đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn. 22 Nhưng
nếu có người mạnh thế hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ
khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được.
Không
theo Đức Giê-su là chống lại Người (Mt 12:30)
23 “Ai không đi với tôi
là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.
Quỷ
phản công (Mt 12:43-45)
24 “Khi thần ô uế xuất
khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi. Mà vì
tìm không ra, nó nói: ”Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi.” 25 Khi
đến nơi, nó thấy nhà được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi. 26 Nó liền đi
kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng của
người ấy lại còn tệ hơn trước.”
Thế
nào là hạnh phúc thật
27
Khi
Đức Giê-su đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một người phụ nữ lên tiếng thưa
với Người: ”Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!” 28 Nhưng
Người đáp lại: ”Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời
Thiên Chúa.”
Dấu
lạ ngôn sứ Giô-na (Mt 12:38-42)
29
Khi
dân chúng tụ họp đông đảo, Đức Giê-su bắt đầu nói: ”Thế hệ này là một thế hệ
gian ác; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu
lạ ông Giô-na. 30 Quả thật, ông Giô-na đã là một dấu lạ cho dân
thành Ni-ni-vê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như
vậy. 31 Trong cuộc Phán Xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng
với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng
trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn; mà đây thì còn hơn vua
Sa-lô-môn nữa. 32 Trong cuộc Phán Xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ chỗi
dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông
Giô-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa.
Hai
lời nói về đèn (Mt 5:15; 6:22-23)
33 “Chẳng có ai đốt đèn
lên rồi đặt vào chỗ khuất hoặc dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, để những ai
đi vào thì nhìn thấy ánh sáng.
34 “Đèn của thân thể là
con mắt của anh. Khi mắt anh sáng, thì toàn thân anh cũng sáng. Nhưng khi mắt
anh xấu, thì thân anh cũng tối. 35 Vậy hãy coi chừng kẻo ánh sáng
nơi anh lại thành bóng tối. 36 Nếu toàn thân anh sáng, không có phần
nào tối tăm, thì nó sẽ sáng hoàn toàn, như khi đèn toả sáng chiếu soi anh.”
Đức
Giê-su khiển trách các người Pha-ri-sêu và các nhà thông luật (Mt 23:1-36; Mc 12:38-40)
37
Đức
Giê-su đang nói, thì có một ông Pha-ri-sêu mời Người đến nhà dùng bữa. Tới nơi,
Người liền vào bàn ăn. 38 Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu lấy làm lạ vì Người
không rửa tay trước bữa ăn. 39 Nhưng Chúa nói với ông ấy rằng:
”Thật, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa, thì các người rửa sạch,
nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà. 40 Đồ
ngốc! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao? 41 Tốt
hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch
cho các người. 42 Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu! Các
người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ
công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa. Các điều này phải làm, mà các điều kia
cũng không được bỏ. 43 Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu!
Các người thích ngồi ghế đầu trong hội đường, thích được người ta chào hỏi ở
nơi công cộng. 44 Khốn cho các người! Các người như mồ mả không có
gì làm dấu, người ta giẫm lên mà không hay.”
45
Một
người trong số các nhà thông luật lên tiếng nói: ”Thưa Thầy, Thầy nói như vậy
là nhục mạ cả chúng tôi nữa!” 46 Đức Giê-su nói: ”Khốn cho cả các
người nữa, hỡi các nhà thông luật! Các người chất trên vai kẻ khác những gánh
nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không
động vào.
47 “Khốn cho các người!
Các người xây lăng cho các ngôn sứ, nhưng cha ông các người đã giết chết các vị
ấy! 48 Như vậy, các người vừa chứng thực vừa tán thành việc làm của cha ông các
người, vì họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng.
49 “Vì thế mà Đức Khôn
Ngoan của Thiên Chúa đã phán: ”Ta sẽ sai Ngôn Sứ và Tông Đồ đến với chúng:
chúng sẽ giết người này, lùng bắt người kia. 50 Như vậy, thế hệ này
sẽ bị đòi nợ máu tất cả các ngôn sứ đã đổ ra từ tạo thiên lập địa, 51 từ
máu ông A-ben đến máu ông Da-ca-ri-a, người đã bị giết giữa bàn thờ và Thánh
Điện. Phải, tôi nói cho các người biết: thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu.
52 “Khốn cho các người,
hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết: các
người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản.”
53
Khi
Đức Giê-su ra khỏi đó, các kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu căm giận
Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện, 54 gài bẫy để xem có
bắt được Người nói điều gì sai chăng.
Chương 12
Hãy
nói công khai và đừng sợ (Mt 10:26-33; 12:32; 10:17-20)
1
Trong
lúc ấy, đám đông tụ họp hàng vạn người, đến nỗi giẫm lên nhau. Bấy giờ Đức
Giê-su bắt đầu nói, trước hết là với các môn đệ: ”Anh em phải coi chừng men
Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả. 2 Không có gì che giấu mà sẽ
không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết. 3 Vì
thế, tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày; và
điều anh em rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà.
4 “Thầy nói cho anh em
là bạn hữu của Thầy được biết: Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó
không làm gì hơn được nữa. 5 Thầy sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ ai:
hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hoả ngục. Thật vậy, Thầy nói cho
anh em biết: anh em hãy sợ Đấng ấy. 6 Năm con chim sẻ chỉ bán được
hai hào, phải không? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. 7
Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em
còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.
8 “Thầy nói cho anh em
biết: phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ
tuyên bố nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa. 9 Còn
ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì sẽ bị chối trước mặt các thiên thần của
Thiên Chúa.
10 “Bất cứ ai nói phạm
đến Con Người, thì còn được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ chẳng
được tha.
11 “Khi người ta đưa anh
em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền,
thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì, 12 vì
ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói.”
Đừng
thu tích của cải cho mình
13
Có
người trong đám đông nói với Đức Giê-su rằng: ”Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi
chia phần gia tài cho tôi.” 14 Người đáp: ”Này anh, ai đã đặt tôi
làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?” 15 Và Người
nói với họ: ”Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không
phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.”
16
Sau
đó Người nói với họ dụ ngôn này: ”Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều
hoa lợi, 17 mới nghĩ bụng rằng: ”Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ
đâu mà tích trữ hoa mầu! 18 Rồi ông ta tự bảo: ”Mình sẽ làm thế này: phá những
cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải
mình vào đó. 19 Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề
của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã! 20
Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: ”Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng
ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? 21 Ấy kẻ nào thu tích của
cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như
thế đó.”
Tin
tưởng vào Thiên Chúa quan phòng (Mt 6:25-34)
22
Đức
Giê-su nói với các môn đệ rằng: ”Vì vậy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho
mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; 23 vì
mạng sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc. 24 Hãy nhìn
những con quạ mà suy: chúng không gieo, không gặt, cũng không có kho có lẫm,
thế mà Thiên Chúa vẫn nuôi chúng. Anh em còn quý giá hơn loài chim biết bao! 25
Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được một gang
tay? 26 Vậy, việc nhỏ nhất mà anh em còn làm không được, thì anh em lo lắng về
những việc khác làm gì? 27 Hãy nhìn hoa huệ mà suy: chúng không kéo sợi, không
dệt vải, thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa
tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. 28 Vậy nếu hoa cỏ
ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như
thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! 29 Phần anh em, đừng tìm xem
mình sẽ ăn gì, uống gì, và đừng bận tâm. 30 Vì tất cả những thứ đó,
dân ngoại trên thế gian vẫn tìm kiếm; nhưng Cha của anh em thừa biết anh em cần
những thứ đó. 31 Vậy hãy lo tìm Nước của Người, còn các thứ kia,
Người sẽ thêm cho.
32 “Hỡi đoàn chiên nhỏ
bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em.
Bán
của cải đi mà bố thí (Mt 6:19-21)
33 “Hãy bán tài sản của
mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng
không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục
phá. 34 Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó.
Phải
sẵn sàng chờ Chủ trở về (Mt 24:43-51)
35 “Anh em hãy thắt lưng
cho gọn, thắp đèn cho sẵn. 36 Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn
cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. 37 Khi chủ về mà
thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh
em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. 38
Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như
vậy, thì thật là phúc cho họ. 39 Anh em hãy biết điều này: nếu chủ
nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. 40
Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì
Con Người sẽ đến.”
41
Bấy
giờ ông Phê-rô hỏi: ”Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất
cả mọi người?” 42 Chúa đáp: ”Vậy thì ai là người quản gia trung tín,
khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc
gạo đúng giờ đúng lúc? 43 Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì
thật là phúc cho anh ta. 44 Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta
lên coi sóc tất cả tài sản của mình. 45 Nhưng nếu người đầy tớ ấy
nghĩ bụng: ”Chủ ta còn lâu mới về”, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè
chén say sưa, 46 chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không
ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với
những tên thất tín.
47 “Đầy tớ nào đã biết ý
chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều.
48 Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị
đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều
thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.
Thái
độ của Đức Giê-su trước cuộc Thương Khó
49 “Thầy đã đến ném lửa
vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! 50 Thầy còn
một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này
hoàn tất!
Thầy
đến để gây chia rẽ (Mt 10, 34-36)
51 “Anh em tưởng rằng
Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải
thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. 52 Vì từ nay, năm người trong cùng
một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba. 53 Họ
sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại
con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại
mẹ chồng.”
Nhận
xét thời đại (Mt 16:2-3; 5:25-26)
54
Đức
Giê-su cũng nói với đám đông rằng: ”Khi các người thấy mây kéo lên ở phía tây,
các người nói ngay: ”Mưa đến nơi rồi”, và xảy ra đúng như vậy. 55 Khi
thấy gió nồm thổi, các người nói: ”Trời sẽ oi bức”, và xảy ra đúng như vậy. 56
Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc đất trời, thì các người biết nhận xét,
còn thời đại này, sao các người lại không biết nhận xét?
57 “Sao các người không
tự mình xét xem cái gì là phải? 58 Thật vậy, khi anh đi cùng đối phương ra toà,
thì dọc đường hãy cố gắng giải quyết với người ấy cho xong, kẻo người ấy lôi
anh đến quan toà, quan toà lại nộp anh cho thừa phát lại, và thừa phát lại tống
anh vào ngục. 59 Tôi bảo cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó trước
khi trả hết đồng kẽm cuối cùng.”
Chương 13
Nếu
không sám hối, thì sẽ chết hết
1
Cùng
lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê
bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang
dâng. 2 Đức Giê-su đáp lại rằng: ”Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê
này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao? 3 Tôi
nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì
các ông cũng sẽ chết hết như vậy. 4 Cũng như mười tám người kia bị
tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng
hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? 5 Tôi nói cho các ông biết:
không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ
chết hết y như vậy.”
Dụ
ngôn cây vả không ra trái
6
Rồi
Đức Giê-su kể dụ ngôn này: ”Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình.
Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, 7 nên bảo người làm vườn: ”Anh
coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó
đi, để làm gì cho hại đất? 8 Nhưng người làm vườn đáp: ”Thưa ông, xin cứ để nó
lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. 9 May
ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.”
Đức
Giê-su chữa một phụ nữ còng lưng ngày sa-bát
10
Ngày
sa-bát kia, Đức Giê-su giảng dạy trong một hội đường. 11 Ở đó, có
một phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà
không thể nào đứng thẳng lên được. 12 Trông thấy bà, Đức Giê-su gọi
lại và bảo: ”Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền!” 13 Rồi
Người đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa.
14
Ông
trưởng hội đường tức tối vì Đức Giê-su đã chữa bệnh vào ngày sa-bát. Ông lên tiếng
nói với đám đông rằng: ”Đã có sáu ngày để làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh
những ngày đó, đừng có đến vào ngày sa-bát!” 15 Chúa đáp: ”Những kẻ
đạo đức giả kia! Thế ngày sa-bát, ai trong các người lại không cởi dây, dắt bò
lừa rời máng cỏ đi uống nước? 16 Còn bà này, là con cháu ông Áp-ra-ham, bị
Xa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng
xích đó trong ngày sa-bát sao?” 17 Nghe Người nói thế, tất cả những
kẻ chống đối Người lấy làm xấu hổ, còn toàn thể đám đông thì vui mừng vì mọi
việc hiển hách Người đã thực hiện.
Dụ
ngôn hạt cải (Mt 13:31-32; Mc 4:30-32)
18
Vậy
Người nói: ”Nước Thiên Chúa giống cái gì đây? Tôi phải ví Nước ấy với cái gì?
19 Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người nọ lấy gieo trong vườn
mình. Nó lớn lên và trở thành cây, chim trời làm tổ trên cành được.”
Dụ
ngôn nắm men trong bột (Mt 13:33)
20
Người
lại nói: ”Tôi phải ví Nước Thiên Chúa với cái gì? 21 Nước Thiên Chúa giống như
chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy
men.”
Cửa
hẹp. Thiên Chúa ruồng bỏ người Do-thái bất trung và kêu mời dân ngoại (Mt 7:13-14:1-23)
22
Trên
đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà
giảng dạy. 23 Có kẻ hỏi Người: ”Thưa Ngài, những người được cứu
thoát thì ít, có phải không?” Người bảo họ: 24 “Hãy chiến đấu để qua
được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào
mà không thể được.
25 “Một khi chủ nhà đã
đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói:
”Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!, thì ông sẽ bảo anh em: ”Các anh đấy ư?
Ta không biết các anh từ đâu đến! 26 Bấy giờ anh em mới nói: ”Chúng tôi đã từng
được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố
của chúng tôi. 27 Nhưng ông sẽ đáp lại: ”Ta không biết các anh từ
đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!
28 “Bấy giờ anh em sẽ
khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất
cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. 29
Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. 30
“Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống
hàng chót.”
Con
cáo già Hê-rô-đê
31
Cũng
vào giờ ấy, có mấy người Pha-ri-sêu đến thưa Đức Giê-su rằng: ”Xin ông đi ra
khỏi đây, vì vua Hê-rô-đê đang muốn giết ông!” 32 Người bảo họ: ”Các
ông hãy đi nói với con cáo ấy thế này: ”Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa
lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất. 33 Tuy nhiên, hôm nay, ngày
mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi, vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành
Giê-ru-sa-lem thì không được.
Đức
Giê-su than trách thành Giê-ru-sa-lem (Mt 23:37-39)
34 “Giê-ru-sa-lem,
Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng
ngươi! Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con
dưới cánh, mà các ngươi không chịu. 35 Thì này, nhà các ngươi sẽ bị
bỏ mặc cho các ngươi. Mà Ta nói cho các ngươi hay: các ngươi sẽ không còn thấy Ta
nữa cho đến thời các ngươi nói: Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!”
Chương 14
Ngày
sa-bát Đức Giê-su chữa người mắc bệnh phù thũng
1
Một
ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng
bữa: họ cố dò xét Người. 2 Và kìa trước mặt Đức Giê-su, có một người
mắc bệnh phù thũng. 3 Người lên tiếng nói với các nhà thông luật và
những người Pha-ri-sêu: ”Có được phép chữa bệnh ngày sa-bát hay không?” 4 Nhưng
họ làm thinh. Người đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về. 5 Rồi
Người nói với họ: ”Ai trong các ông có đứa con trai hoặc có con bò sa xuống
giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sa-bát?” 6 Và họ không
thể đáp lại những lời đó.
“
Hãy ngồi chỗ cuối”
7
Người
nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: 8
“Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào
quan trọng hơn anh cũng được mời, 9 và rồi người đã mời cả anh lẫn
nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: ”Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ
anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. 10 Trái lại, khi anh được
mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: ”Xin mời
ông bạn lên trên cho. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn.
11Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn
lên.”
“
Khi đãi khách, hãy mời những người nghèo khó”
12
Rồi
Đức Giê-su nói với kẻ đã mời Người rằng: ”Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn
tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ
cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. 13 Trái lại, khi
ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. 14
Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được
đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.”
Dụ
ngôn khách được mời xin kiếu (Mt 22:1-10)
15
Nghe
vậy, một trong những kẻ đồng bàn nói với Đức Giê-su: ”Phúc thay ai được dự tiệc
trong Nước Thiên Chúa!” 16 Người đáp: ”Một người kia làm tiệc lớn và
đã mời nhiều người. 17 Đến giờ tiệc, ông sai đầy tớ đi thưa với quan
khách rằng: ”Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn. 18 Bấy giờ mọi người
nhất loạt bắt đầu xin kiếu. Người thứ nhất nói: ”Tôi mới mua một thửa đất, cần
phải đi thăm; cho tôi xin kiếu. 19 Người khác nói: ”Tôi mới tậu năm
cặp bò, tôi đi thử đây; cho tôi xin kiếu. 20 Người khác nói: ”Tôi
mới cưới vợ, nên không thể đến được.
21 “Đầy tớ ấy trở về, kể
lại sự việc cho chủ. Bấy giờ chủ nhà nổi cơn thịnh nộ bảo người đầy tớ rằng:
”Mau ra các nơi công cộng và đường phố trong thành, đưa các người nghèo khó,
tàn tật, đui mù, què quặt vào đây. 22 Đầy tớ nói: ”Thưa ông, lệnh
ông đã được thi hành mà vẫn còn chỗ. 23 Ông chủ bảo người đầy tớ:
”Ra các đường làng, đường xóm, ép người ta vào đầy nhà cho ta. 24 Tôi
nói cho các anh biết: Những khách đã được mời trước kia, không ai sẽ được dự
tiệc của tôi.”
Vác
thập giá mình mà đi theo Đức Giê-su (Mt 10:37-38)
25
Có
rất đông người cùng đi đường với Đức Giê-su. Người quay lại bảo họ:
26 “Ai đến với tôi mà
không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không
thể làm môn đệ tôi được. 27 Ai không vác thập giá mình mà đi theo
tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.
Từ
bỏ hết những gì mình có
28 “Quả thế, ai trong
anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí
tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? 29 Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có
khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: 30
“Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc. 31 Hoặc
có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống
bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai
vạn quân tiến đánh mình chăng? 32 Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở
xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà. 33 Cũng vậy, ai trong anh
em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.
Muối
mà nhạt đi. . . (Mt 5:13; Mc 9:50)
34 “Muối quả là một cái
gì tốt. Nhưng chính muối mà nhạt đi, thì lấy gì ướp nó cho mặn lại? 35 Dùng nó
để bón ruộng hay trộn phân đều không thích hợp, nên người ta quăng nó ra ngoài.
Ai có tai nghe thì nghe.”
Chương 15
Ba
dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa
1
Các
người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người
giảng. 2 Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau:
”Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” 3 Đức Giê-su
mới kể cho họ dụ ngôn này:
Dụ
ngôn con chiên bị mất (Mt 18:12-14)
4 “Người nào trong các
ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con
kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? 5 Tìm được rồi,
người ấy mừng rỡ vác lên vai. 6 Về đến nhà, người ấy mời bạn bè,
hàng xóm lại, và nói: ”Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của
tôi, con chiên bị mất đó. 7 Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời
cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì
chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.
Dụ
ngôn đồng bạc bị đánh mất
8 “Hoặc người phụ nữ
nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi
quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được? 9 Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm
lại, và nói: ”Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh
mất. 10 Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên
Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.”
Dụ
ngôn người cha nhân hậu
11
Rồi
Đức Giê-su nói tiếp: ”Một người kia có hai con trai. 12 Người con
thứ nói với cha rằng: ”Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và
người cha đã chia của cải cho hai con. 13 Ít ngày sau, người con thứ
thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí
tài sản của mình.
14 “Khi anh ta đã ăn
tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta
bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, 15 nên phải đi ở đợ cho một người dân
trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. 16 Anh ta ao ước
lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. 17 Bấy
giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: ”Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được
cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! 18 Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha
và thưa với người: ”Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, 19 chẳng
còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy. 20
Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.
21
Bấy
giờ người con nói rằng: ”Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng
còn đáng gọi là con cha nữa. . . 22 Nhưng người cha liền bảo các đầy
tớ rằng: ”Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép
vào chân cậu, 23 rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở
tiệc ăn mừng! 24 Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm
thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng.
25 “Lúc ấy người con cả
của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca
nhảy múa, 26 liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. 27
Người ấy trả lời: ”Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì
gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ. 28 Người anh cả liền nổi giận và không
chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. 29 Cậu trả lời cha: ”Cha coi,
đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa
bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. 30 Còn
thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở
về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!
31 “Nhưng người cha nói
với anh ta: ”Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là
của con. 32 Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây
đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.”
Chương 16
Dụ
ngôn người quản gia bất lương
1
Đức
Giê-su còn nói với các môn đệ rằng: ”Một nhà phú hộ kia có một người quản gia.
Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông. 2 Ông
mới gọi anh ta đến mà bảo: ”Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản
lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa! 3 Người
quản gia liền nghĩ bụng: ”Mình sẽ làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia
của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. 4 Mình
biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình
về nhà họ!
5 “Anh ta liền cho gọi
từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: ”Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?
6 Người ấy đáp: ”Một trăm thùng dầu ô-liu. Anh ta bảo: ”Bác cầm lấy biên lai
của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi. 7 Rồi anh ta hỏi
người khác: ”Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy? Người ấy đáp: ”Một ngàn giạ lúa.
Anh ta bảo: ”Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.
8 “Và ông chủ khen tên
quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế, con cái đời này khôn
khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.
Trung
tín trong việc sử dụng Tiền Của
9 “Phần Thầy, Thầy bảo
cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết
tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. 10 Ai trung
tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong
việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. 11 Vậy nếu anh em
không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà
giao phó của cải chân thật cho anh em? 12 Và nếu anh em không trung tín trong
việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành
riêng cho anh em?
13 “Không gia nhân nào
có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó
với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa
làm tôi Tiền Của được.”
Đức
Giê-su khiển trách người Pha-ri-sêu ham tiền
14
Người
Pha-ri-sêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy, thì cười nhạo Đức Giê-su.
15 Người bảo họ: ”Các ông là những kẻ làm ra bộ công chính trước mặt
người đời, nhưng Thiên Chúa thấu biết lòng các ông, bởi vì điều cao trọng đối
với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa.
Dùng
sức mạnh mà vào Nước Thiên Chúa (Mt 11:12-13)
16 “Cho đến thời ông
Gio-an, thì có Lề Luật và các ngôn sứ; còn từ thời đó, thì Tin Mừng Nước Thiên
Chúa được loan báo, và ai cũng dùng sức mạnh mà vào.
Lề
Luật sẽ không bao giờ ra vô hiệu (Mt 5:18)
17 “Trời đất qua đi còn
dễ hơn là một cái phết của Lề Luật rụng mất.
Vấn
đề ly dị (Mt 5:31-32; Mc 10:11-12)
18 “Bất cứ ai rẫy vợ mà
cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị chồng rẫy, thì
cũng phạm tội ngoại tình.
Dụ
ngôn ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó
19 “Có một ông nhà giàu
kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. 20 Lại
có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông
nhà giàu, 21 thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà
ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. 22 Thế
rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông
nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.
23 “Dưới âm phủ, đang
khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa,
và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. 24 Bấy giờ ông ta kêu lên:
”Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón
tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!
25 Ông Áp-ra-ham đáp: ”Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần
phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ,
La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. 26 Hơn
nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn
qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không
được.
27 “Ông nhà giàu nói:
”Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con, 28 vì
con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng
sa vào chốn cực hình này! 29 Ông Áp-ra-ham đáp: ”Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn
Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó. 30 Ông nhà giàu nói: ”Thưa tổ
phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với
họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối. 31 Ông Áp-ra-ham đáp: ”Mô-sê và các
Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng
chịu tin.”
Chương 17
Cớ
vấp ngã (Mt 18:6-7; Mc 9:42)
1
Đức
Giê-su nói với các môn đệ rằng: ”Không thể không có những cớ làm cho người ta
vấp ngã; nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã! 2 Thà buộc cối đá lớn
vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi cho nó hơn là để nó làm cớ cho một trong
những kẻ bé nhỏ này vấp ngã. 3 Anh em hãy đề phòng!
Sửa
lỗi anh em (Mt 18:15, 21-22)
4
Dù
nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh: ”Tôi
hối hận”, thì anh cũng phải tha cho nó.”
Sức
mạnh của lòng tin
5
Các
Tông Đồ thưa với Chúa Giê-su rằng: ”Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.”
6 Chúa đáp: ”Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em
có bảo cây dâu này: ”Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc”, nó cũng sẽ
vâng lời anh em.
Phục
vụ cách khiêm tốn
7 “Ai trong anh em có
người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó:
”Mau vào ăn cơm đi”, 8 chứ không bảo: ”Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt
lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau! ? 9 Chẳng lẽ ông
chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao? 10 Đối với anh em
cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi
là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”
Mười
người phong hủi
11
Trên
đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và
Ga-li-lê. 12 Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi
đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa 13 và kêu lớn tiếng: ”Lạy Thầy Giê-su, xin
dủ lòng thương chúng tôi!” 14 Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ: ”Hãy đi
trình diện với các tư tế.” Đang khi đi thì họ được sạch. 15 Một
người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh
Thiên Chúa. 16 Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta
lại là người Sa-ma-ri. 17 Đức Giê-su mới nói: ”Không phải cả mười
người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? 18 Sao không thấy họ trở
lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” . 19 Rồi
Người nói với anh ta: ”Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”
19 “Triều Đại Thiên Chúa
đang ở giữa các ông” 20 Người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giê-su bao giờ
Triều Đại Thiên Chúa đến. Người trả lời: ”Triều Đại Thiên Chúa không đến như
một điều có thể quan sát được. 21 Và người ta sẽ không nói: ”Ở đây
này! hay”Ở kia kìa!, vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.”
Ngày
của Con Người (Mt 24:23-28, 37-41)
22
Rồi
Đức Giê-su nói với các môn đệ: ”Sẽ đến thời anh em mong ước được thấy một trong
những ngày của Con Người thôi, mà cũng không được thấy. 23 Người ta
sẽ bảo anh em: ”Người ở kia kìa! hay”Người ở đây này! Anh em đừng đi, đừng chạy
theo. 24 Vì ánh chớp chói loà chiếu sáng từ phương trời này đến
phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong ngày của Người. 25
Nhưng trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ.
26 “Và cũng như thời ông
Nô-ê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong những ngày của Con Người, sự việc
cũng sẽ xảy ra như vậy. 27 Thiên hạ ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi
cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu, và nạn hồng thủy ập tới, tiêu diệt tất cả. 28
Sự việc cũng xảy ra giống như vậy trong thời ông Lót: thiên hạ ăn uống,
mua bán, trồng trọt, xây cất. 29 Nhưng ngày ông Lót ra khỏi Xơ-đôm,
thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả. 30
Sự việc cũng sẽ xảy ra như thế, ngày Con Người được mặc khải.
31 “Ngày ấy, ai ở trên
sân thượng mà đồ đạc ở dưới nhà, thì đừng xuống lấy. Cũng vậy, ai ở ngoài đồng
thì đừng quay trở lại. 32 Hãy nhớ chuyện vợ ông Lót. 33 Ai
tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ
bảo tồn được mạng sống. 34 Thầy nói cho anh em biết: đêm ấy, hai
người đang nằm chung một giường, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị
bỏ lại. 35 Hai người đàn bà đang cùng nhau xay bột, thì một người sẽ
được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. 36 Hai người đàn ông đang ở
ngoài đồng, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại.” 37 Các
môn đệ lên tiếng hỏi Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, ở đâu vậy?” Người nói với các ông:
”Xác nằm đâu, diều hâu tụ đó.”
Chương 18
Dụ
ngôn quan toà bất chính và bà goá quấy rầy
1
Đức
Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn,
không được nản chí. 2 Người nói: ”Trong thành kia, có một ông quan
toà. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì. 3 Trong
thành đó, cũng có một bà goá. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông: ”Đối phương
tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho. 4 Một thời gian khá lâu, ông
không chịu. Nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng: ”Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên
Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, 5 nhưng mụ goá này quấy rầy mãi,
thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc.”
6
Rồi
Chúa nói: ”Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! 7 Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa
lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với
Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? 8Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ
mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy
lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”
Dụ
ngôn người Pha-ri-sêu và người thu thuế
9
Đức
Giê-su còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà
khinh chê người khác: 10 “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một
người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia làm nghề thu thuế. 11 Người
Pha-ri-sêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: ”Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì
con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu
thuế kia. 12 Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một
phần mười thu nhập của con. 13 Còn người thu thuế thì đứng đằng xa,
thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: ”Lạy
Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. 14 Tôi nói cho các ông
biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn
người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình
xuống sẽ được tôn lên.”
Đức
Giê-su và các trẻ em (Mt 19:13-15; Mc 10:13-16)
15
Người
ta còn đem cả trẻ thơ đến với Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng. Thấy
vậy, các môn đệ la rầy chúng. 16 Nhưng Đức Giê-su gọi chúng lại mà
nói: ”Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của
những ai giống như chúng. 17 Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận
Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào.”
Người
thủ lãnh giàu có (Mt 19:16-22; Mc 10:17-22)
18
Có
một thủ lãnh hỏi Đức Giê-su: ”Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự
sống đời đời làm gia nghiệp?” 19 Đức Giê-su đáp: ”Sao ông nói tôi
nhân lành? Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. 20 Hẳn
ông biết các điều răn: Chớ ngoại tình, chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm
chứng gian, hãy thờ cha kính mẹ.” 21 Ông ta nói: ”Tất cả những việc
đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.” 22 Nghe vậy, Đức Giê-su bảo ông:
”Ông chỉ còn thiếu có một điều, là hãy bán tất cả những gì ông có mà phân phát
cho người nghèo, và ông sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” 23
Nghe vậy, ông ta buồn lắm, vì ông rất giàu.
Người
giàu có khó vào Nước Thiên Chúa (Mt 19:23-26; Mc 10:23-27)
24
Đức
Giê-su nhìn ông ta và nói: ”Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết
bao! 25 Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước
Thiên Chúa.” 26 Những người nghe Đức Giê-su nói liền hỏi: ”Thế thì
ai có thể được cứu?” 27 Người đáp: ”Những gì không thể được đối với
loài người, thì đều có thể được đối với Thiên Chúa.”
Phần
thưởng dành cho ai bỏ mọi sự mà theo Đức Giê-su (Mt 19:27-29; Mc 10:28-30)
28
Ông
Phê-rô thưa: ”Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ những gì là của mình mà
theo Thầy.” 29 Người đáp: ”Thầy bảo thật anh em: chẳng hề có ai bỏ
nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa, 30 mà lại
không được gấp bội ở đời này và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.”
Đức
Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ ba (Mt 20:17-19; Mc 10:32-34)
31
Đức
Giê-su kéo riêng Nhóm Mười Hai ra và nói với các ông: ”Này chúng ta lên
Giê-ru-sa-lem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn
tất. 32 Quả vậy, Người sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng,
nhục mạ, khạc nhổ. 33 Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Người, và ngày
thứ ba Người sẽ sống lại.” 34 Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối
với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói.
Đức
Giê-su chữa người mù tại Giê-ri-khô (Mt 20:29-34; Mc 10:46-52)
35
Khi
Đức Giê-su gần đến Giê-ri-khô, có một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường. 36
Nghe thấy đám đông đi qua, anh ta hỏi xem có chuyện gì. 37 Họ
báo cho anh biết là Đức Giê-su Na-da-rét đang đi qua đó. 38 Anh liền
kêu lên rằng: ”Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” 39
Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi; nhưng anh càng kêu lớn
tiếng: ”Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” 40 Đức Giê-su
dừng lại, truyền dẫn anh ta đến. Khi anh đã đến gần, Người hỏi: 41 “Anh
muốn tôi làm gì cho anh?” Anh ta đáp: ”Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được.” 42
Đức Giê-su nói: ”Anh nhìn thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” 43
Lập tức, anh ta nhìn thấy được và theo Người, vừa đi vừa tôn vinh Thiên
Chúa. Thấy vậy, toàn dân cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa.
Chương 19
Ông
Da-kêu
1
Sau
khi vào Giê-ri-khô, Đức Giê-su đi ngang qua thành phố ấy. 2 Ở đó có
một người tên là Da-kêu; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có.
3 Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai, nhưng không
được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. 4 Ông liền chạy tới
phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó. 5
Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: ”Này ông
Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” 6 Ông vội
vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. 7 Thấy vậy, mọi người xầm
xì với nhau: ”Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” 8 Ông
Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng: ”Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi,
tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp
bốn.” 9 Đức Giê-su mới nói về ông ta rằng: ”Hôm nay, ơn cứu độ đã
đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. 10 Vì
Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.”
Dụ
ngôn mười nén bạc (Mt 25:14-30)
11
Khi
dân chúng đang nghe những điều ấy, thì Đức Giê-su lại kể thêm một dụ ngôn, vì
Người đang ở gần Giê-ru-sa-lem và vì họ tưởng là Triều Đại Thiên Chúa sắp xuất
hiện đến nơi rồi. 12 Vậy Người nói: ”Có một người quý tộc kia trẩy
đi phương xa lãnh nhận vương quyền, rồi trở về. 13 Ông gọi mười người
trong các tôi tớ của ông đến, phát cho họ mười nén bạc và nói với họ: ”Hãy lo
làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến.” 14 Nhưng đồng bào ông ghét
ông, nên họ cử một phái đoàn đến sau ông để nói rằng: ”Chúng tôi không muốn ông
này làm vua chúng tôi.
15 “Sau khi lãnh nhận
vương quyền, ông trở về. Bấy giờ ông truyền gọi những đầy tớ ông đã giao bạc
cho, để xem mỗi người làm ăn sinh lợi được bao nhiêu. 16 Người thứ
nhất đến trình: ”Thưa ngài, nén bạc của ngài đã sinh lợi được mười nén. 17
Ông bảo người ấy: ”Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi! Vì anh đã trung thành
trong việc rất nhỏ, thì hãy cầm quyền cai trị mười thành. 18 Người
thứ hai đến trình: ”Thưa ngài, nén bạc của ngài đã làm lợi được năm nén. 19
Ông cũng bảo người ấy: ”Anh cũng vậy, anh hãy cai trị năm thành.
20
Rồi
người thứ ba đến trình: ”Thưa ngài, nén bạc của ngài đây, tôi đã bọc khăn giữ
kỹ. 21 Tôi sợ ngài, vì ngài là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi,
gặt cái không gieo. 22 Ông nói: ”Hỡi đầy tớ tồi tệ! Tôi cứ lời miệng
anh mà xử anh. Anh đã biết tôi là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái
không gieo. 23 Thế sao anh không gửi bạc của tôi vào ngân hàng? Có
vậy, khi tôi đến, tôi mới rút ra được cả vốn lẫn lời chứ! 24 Rồi ông bảo những
người đứng đó: ”Lấy lại nén bạc nó giữ mà đưa cho người đã có mười nén. 25
Họ thưa ông: ”Thưa ngài, anh ấy có mười nén rồi! 26-” Tôi nói cho các anh
hay: phàm ai đã có, thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang
có cũng sẽ bị lấy đi.
27 “Còn bọn thù địch của
tôi kia, những người không muốn tôi làm vua cai trị chúng, thì hãy dẫn chúng
lại đây và giết chết trước mặt tôi.”
V.
ĐỨC GIÊ-SU RAO GIẢNG TẠI GIÊ-RU-SA-LEM
Đức
Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là Mê-si-a (Mt 21:1-11; Mc 11:1-10; Ga 12:12-19)
28
Nói
những lời ấy xong, Đức Giê-su đi đầu, tiến lên Giê-ru-sa-lem. 29 Khi
đến gần làng Bết-pha-ghê và làng Bê-ta-ni-a, bên triền núi gọi là núi Ô-liu,
Người sai hai môn đệ và bảo: 30 “Các anh đi vào làng trước mặt kia.
Khi vào sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh
cởi dây ra và dắt nó đi. 31 Nếu có ai hỏi: ”Tại sao các anh cởi lừa
người ta ra”, thì cứ nói: ”Chúa có việc cần dùng! 32 Hai người được sai liền ra
đi và thấy y như Người đã nói. 33 Các ông đang cởi dây lừa, thì
những người chủ nói với các ông: ”Tại sao các anh lại cởi lừa người ta ra?” 34
Hai ông đáp: ”Chúa có việc cần dùng.”
35
Các
ông dắt lừa về cho Đức Giê-su, rồi lấy áo choàng của mình phủ trên lưng lừa, và
giúp Người cỡi lên. 36 Người đi tới đâu, dân chúng cũng lấy áo
choàng trải xuống mặt đường. 37 Khi Người đến gần chỗ dốc xuống núi
Ô-liu, tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì các
phép lạ họ đã được thấy. 38 Họ hô lên: Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự
đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!
Đức
Giê-su tán thành việc các môn đệ hoan hô Người (Mt 21:15-16)
39
Trong
đám đông, có vài người thuộc nhóm Pha-ri-sêu nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy,
Thầy trách môn đệ Thầy đi chứ!” 40 Người đáp: ”Tôi bảo các ông: họ
mà làm thinh, thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên!”
Đức
Giê-su thương tiếc thành Giê-ru-sa-lem
41
Khi
đến gần Giê-ru-sa-lem và trông thấy thành, Đức Giê-su khóc thương42 mà nói:
”Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi!
Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được. 43 Thật
vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi
tư bề. 44 Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ
không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi
được Thiên Chúa viếng thăm.”
Đức
Giê-su đuổi những người đang buôn bán trong Đền Thờ (Mt 21:12-14; Mc 11:15-19;
Ga 2:13-16)
45
Đức
Giê-su vào Đền Thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán46 và nói với họ:
”Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện thế mà các ngươi đã biến
thành sào huyệt của bọn cướp!”
Đức
Giê-su giảng dạy tại Đền Thờ (Mc 11:18)
47
Hằng
ngày, Người giảng dạy trong Đền Thờ. Các thượng tế và kinh sư tìm cách giết
Người, cả các thân hào trong dân cũng vậy. 48 Nhưng họ không biết
phải làm sao, vì toàn dân say mê nghe Người.
Chương 20
Câu
hỏi về quyền bính của Đức Giê-su (Mt 21:23-27; Mc 11:27-33)
1
Một
hôm, đang khi Đức Giê-su giảng dạy cho dân trong Đền Thờ và loan báo Tin Mừng,
thì các thượng tế và kinh sư cùng các kỳ mục kéo đến 2 và nói với Người rằng:
”Xin ông cho chúng tôi biết: ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Hay ai là
người đã cho ông quyền ấy?” 3 Đức Giê-su đáp: ”Tôi cũng vậy, tôi hỏi
các ông một điều, xin nói cho tôi biết: 4 phép rửa của ông Gio-an là
do Trời hay do người ta?” 5 Họ liền bàn tính với nhau: ”Nếu mình
nói: ”Do Trời”, thì ông ấy sẽ vặn lại: ”Thế sao các ông lại không tin ông ấy? 6
Còn nếu mình nói: ”Do người ta”, thì toàn dân sẽ ném đá mình, vì họ xác tín
rằng ông Gio-an là một Ngôn Sứ.” 7 Họ mới trả lời là họ không biết
do đâu. 8 Đức Giê-su liền bảo họ: ”Tôi cũng vậy, tôi cũng không nói
cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy.”
Dụ
ngôn những tá điền sát nhân (Mt 21:33-46; Mc 12:1-12)
9
Rồi
Đức Giê-su bắt đầu kể cho dân nghe dụ ngôn này: ”Có người kia trồng được một
vườn nho và cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa một thời gian khá lâu.
10 “Đến mùa, ông sai một
đầy tớ đến gặp các tá điền để chúng nộp hoa lợi vườn nho cho anh đem về. Nhưng
bọn tá điền đánh anh ta rồi đuổi về tay không. 11 Ông lại sai một
đầy tớ khác, nhưng họ cũng đánh anh ta, hạ nhục, rồi đuổi về tay không. 12
Ông còn sai thêm một người thứ ba, nhưng họ cũng đánh trọng thương, rồi
quăng ra ngoài. 13 Ông chủ vườn nho mới nói: ”Ta phải làm gì đây? Ta
sẽ phái người con yêu dấu của ta, biết đâu chúng sẽ nể con ta. 14 Nhưng
vừa thấy cậu, bọn tá điền liền bàn nhau: ”Đứa thừa tự đây rồi! Ta giết quách nó
đi, rồi gia tài sẽ về tay ta. 15 Thế là chúng quăng cậu ra bên ngoài
vườn nho, rồi giết đi.
16
Ông
sẽ đến tru diệt các tá điền ấy, rồi giao vườn nho cho người khác” . Nghe vậy,
họ nói: ”Mong đừng có chuyện ấy!” 17 Nhưng Đức Giê-su đưa mắt nhìn
họ và nói: ”Vậy câu Kinh Thánh này có nghĩa gì:
Tảng
đá thợ xây nhà loại bỏ,
lại
trở nên đá tảng góc tường?
18 “Phàm ai ngã xuống đá
này, kẻ ấy sẽ tan xương; đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát thịt.”
19
Ngay
giờ đó, các kinh sư và thượng tế tìm cách tra tay bắt Đức Giê-su, nhưng lại sợ
dân. Quả vậy, họ thừa hiểu Người đã nhắm vào họ mà kể dụ ngôn ấy.
Nộp
thuế cho Xê-da (Mt 22:15-22; Mc 12:13-17)
20
Họ
rình rập và sai một số người giả bộ công chính đến dò la, mong bắt quả tang Đức
Giê-su lỡ lời, để nộp Người cho nhà chức trách có thẩm quyền là tổng trấn. 21
Những người này hỏi Đức Giê-su rằng: ”Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy nói
và dạy một cách thẳng thắn, không thiên vị ai, nhưng theo sự thật mà dạy đường
lối của Thiên Chúa. 22 Vậy, chúng tôi có được phép nộp thuế cho
Xê-da hay không?” 23 Nhưng Đức Giê-su thấu suốt lòng xảo trá của họ,
nên Người nói: 24 “Cho tôi coi một quan tiền! Quan tiền này mang hình
và danh hiệu của ai đây?” Họ đáp: ”Của Xê-da.” 25 Người bảo họ: ”Thế
thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.”
26
Họ
không tài nào bắt quả tang Người lỡ lời trước mặt dân; nghe câu trả lời của
Người, họ ngạc nhiên và làm thinh luôn.
Kẻ
chết sống lại (Mt 22:23-33; Mc 12:18-27)
27
Có
mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự
sống lại. 28 Mấy người ấy hỏi Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, ông Mô-sê có
viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ
mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay
em mình. 29 Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ,
nhưng chưa có con thì đã chết. 30 Người thứ hai, 31 rồi
người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà
không để lại đứa con nào. 32 Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. 33
Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã
lấy nàng làm vợ?”
34
Đức
Giê-su đáp: ”Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, 35 chứ những ai được
xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng
chẳng lấy chồng. 36 Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang
hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. 37
Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy
trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ
Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. 38
Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ
sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.”
39
Bấy
giờ có mấy người thuộc nhóm kinh sư lên tiếng nói: ”Thưa Thầy, Thầy nói hay
lắm.” 40 Thế là, họ không dám chất vấn Người điều gì nữa.
Đức
Ki-tô là Con và cũng là Chúa của vua Đa-vít (Mt 22:41-46; Mc 12:35-37)
41
Nhưng
Người hỏi họ: ”Sao người ta lại nói Đấng Ki-tô là con vua Đa-vít? 42 Vì chính
vua Đa-vít đã nói trong sách Thánh vịnh: Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi:
Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, 43 Để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt
làm bệ dưới chân Con.
44 “Như vậy, vua Đa-vít
gọi Đấng Ki-tô là Chúa Thượng; thế thì làm sao Đấng Ki-tô lại là con vua ấy
được?”
Đức
Giê-su khiển trách các kinh sư (Mt 23:1-36; Mc 12:38-40)
45
Toàn
dân đang nghe, thì Người nói với các môn đệ: 46 “Anh em phải coi
chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được
chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích
ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. 47 Họ nuốt hết tài sản của các bà goá,
lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm
khắc hơn.”
Chương 21
Hai
đồng tiền nhỏ của bà goá (Mc 12:41-44)
1
Ngước
mắt lên nhìn, Đức Giê-su thấy những người giàu đang bỏ tiền dâng cúng của họ
vào thùng tiền. 2 Người cũng thấy một bà goá túng thiếu kia bỏ vào
đó hai đồng tiền kẽm. 3 Người liền nói: ”Thầy bảo thật anh em: bà
goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. 4 Quả vậy, tất cả những
người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này,
thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi
sống mình.”
Bài
giảng về sự sụp đổ của thành Giê-ru-sa-lem. Nhập đề (Mt 24:1-3; Mc 13:1-4)
5
Nhân
có mấy người nói về Đền Thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ
dâng cúng, Đức Giê-su bảo: 6 “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó
sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.” 7 Họ
hỏi Người: ”Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra,
thì có điềm gì báo trước?”
Những
điềm báo trước (Mt 24:4-13; Mc 13:5-13)
8
Đức
Giê-su đáp: ”Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh
Thầy đến nói rằng: ”Chính ta đây”, và: ”Thời kỳ đã đến gần”; anh em chớ có theo
họ. 9 Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì
những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu” . 10
Rồi Người nói tiếp: ”Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống
nước nọ. 11 Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn
dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời
xuất hiện.
12 “Nhưng trước khi tất
cả các sự ấy xảy ra, thì người ta sẽ tra tay bắt và ngược đãi anh em, nộp anh
em cho các hội đường và bỏ tù, điệu anh em đến trước mặt vua chúa quan quyền vì
danh Thầy. 13 Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy. 14 Vậy
anh em hãy ghi lòng tạc dạ điều này, là anh em đừng lo nghĩ phải bào chữa cách
nào. 15 Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến
tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được. 16 Anh
em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số
người trong anh em. 17 Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét.
18 Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. 19
Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.
Giê-ru-sa-lem
bị vây hãm (Mt 24:15-19; Mc 13:14-17)
20 “Khi anh em thấy
thành Giê-ru-sa-lem bị các đạo binh vây hãm, bấy giờ anh em hãy biết rằng đã
gần đến ngày khốc hại của thành. 21 Bấy giờ, ai ở miền Giu-đê, hãy
trốn lên núi; ai ở trong thành, hãy bỏ đi nơi khác; ai ở vùng quê, thì chớ vào
thành. 22 Thật vậy, đó sẽ là những ngày báo oán, ngày mà tất cả
những gì đã chép trong Kinh Thánh sẽ được ứng nghiệm.
Cơn
khốn khổ. Thời của dân ngoại
23
Khốn
thay những người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó!
“
Vì sẽ có cơn khốn khổ cùng cực trên đất này, và cơn thịnh nộ sẽ giáng xuống dân
này.
24
Họ
sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước, và Giê-ru-sa-lem
sẽ bị dân ngoại giày xéo, cho đến khi mãn thời của dân ngoại.
Những
điềm lạ. Con Người quang lâm. (Mt 24, 29-31; Mc 13:24-27)
25 “Sẽ có những điềm lạ
trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang
mang trước cảnh biển gào sóng thét. 26 Người ta sợ đến hồn xiêu
phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ
bị lay chuyển. 27 Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng
và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. 28 Khi những biến cố ấy bắt
đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu
chuộc.”
Dụ
ngôn cây vả (Mt 24:32-35; Mc 13:28-31)
29
Đức
Giê-su kể cho các môn đệ nghe một dụ ngôn: ”Anh em hãy xem cây vả cũng như tất
cả những cây khác. 30 Khi cây đâm chồi, anh em nhìn thì đủ biết là
mùa hè đã đến gần rồi. 31 Anh em cũng vậy, khi thấy những điều đó
xảy ra, thì hãy biết là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. 32 Thầy bảo
thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. 33 Trời
đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.
Phải
tỉnh thức và cầu nguyện
34 “Vậy anh em phải đề
phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo
Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, 35 vì
Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. 36 Vậy anh em hãy
tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và
đứng vững trước mặt Con Người.”
Những
ngày sau hết của Đức Giê-su
37
Ban
ngày, Đức Giê-su giảng dạy trong Đền Thờ; nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm
tại núi gọi là núi Ô-liu. 38 Sáng sớm, toàn dân đến với Người trong
Đền Thờ để nghe Người giảng dạy.
Chương 22
VI.
CUỘC THƯƠNG KHÓ
Âm
mưu hại Đức Giê-su. Giu-đa tìm cách nộp Thầy (Mt 26:1-5, 14-16; Mc 14:1-2,
10-11; Ga 11:45-53)
1
Lễ
Bánh Không Men, cũng gọi là lễ Vượt Qua, đã đến gần. 2 Các thượng tế
và kinh sư tìm cách thủ tiêu Đức Giê-su, vì họ sợ dân.
3
Xa-tan
đã nhập vào Giu-đa, cũng gọi là Ít-ca-ri-ốt, một người trong Nhóm Mười Hai. 4
Hắn đi nói chuyện với các thượng tế và lãnh binh Đền Thờ về cách thức nộp
Người cho họ. 5 Họ rất mừng và đồng ý sẽ cho hắn tiền. 6 Hắn
ưng thuận và tìm dịp tiện để nộp Đức Giê-su cho họ, lúc không có đám đông.
Chuẩn
bị ăn lễ Vượt Qua (Mt 26:17-25; Mc 14:12-21; Ga 13:21-30)
7
Đã
đến ngày lễ Bánh Không Men, ngày phải sát tế chiên Vượt Qua. 8 Đức
Giê-su sai ông Phê-rô với ông Gio-an đi và dặn: ”Các anh hãy đi dọn cho chúng
ta ăn lễ Vượt Qua.” 9 Hai ông hỏi: ”Thầy muốn chúng con dọn ở đâu?” 10
Người bảo họ: ”Này, khi vào thành, các anh sẽ gặp một người mang vò nước.
Cứ đi theo người đó, người đó vào nhà nào, 11 thì các anh vào thưa
với chủ nhà: ”Thầy nhắn ông: Căn phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn
đệ của tôi ở đâu? 12 Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một căn phòng rộng rãi trên
lầu, đã được trang bị: các anh hãy dọn ở đó.” 13 Các ông ra đi, thấy
mọi sự y như Người đã nói, và các ông dọn tiệc Vượt Qua.
Ăn
tiệc Vượt Qua (Mt 26:20. 29; Mc 14:17-25)
14
Khi
giờ đã đến, Đức Giê-su vào bàn, và các Tông Đồ cùng vào với Người. 15 Người
nói với các ông: ”Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em
trước khi chịu khổ hình. 16 Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ
không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn
trong Nước Thiên Chúa.”
17
Rồi
Người nhận lấy chén, dâng lời tạ ơn và nói: ”Anh em hãy cầm lấy mà chia nhau. 18
Bởi vì, Thầy bảo cho anh em biết, từ nay, Thầy không còn uống sản phẩm
của cây nho nữa, cho đến khi Triều Đại Thiên Chúa đến.”
Đức
Giê-su lập phép Thánh Thể (Mt 26:26-28; Mc 14:22-24; ICo 11:23-25)
19
Rồi
Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: ”Đây là
mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.” 20
Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: ”Chén này là
giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.
Đức
Giê-su tiên báo Giu-đa sẽ nộp Thầy (Mt 26:21-25; Mc 14:17-21)
21 “Nhưng này bàn tay kẻ
nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy. 22 Đã hẳn Con Người ra đi
như đã ấn định, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người.” 23 Các Tông Đồ
bắt đầu bàn tán với nhau xem ai trong Nhóm lại là kẻ toan làm chuyện ấy.
Kẻ
làm đầu phải hầu thiên hạ
24
Các
ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất. 25 Đức
Giê-su bảo các ông: ”Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm
quyền thì tự xưng là ân nhân. 26 Nhưng anh em thì không phải như
thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất,
và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. 27 Bởi lẽ, giữa người
ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy
đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ.
Phần
thưởng dành cho các Tông Đồ
28 “Còn anh em, anh em
vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. 29
Vì thế, Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy,
30 để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của
Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en.”
Đức
Giê-su tiên báo: ông Phê-rô sẽ chối Thầy, nhưng sẽ trở lại (Mt 26:30-35; Mc 14:26-31;
Ga 13:36-38)
31
Rồi
Chúa nói: ”Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta
sàng gạo. 32 Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng
tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh.” 33
Ông Phê-rô thưa với Người: ”Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết
với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng.” 34 Đức Giê-su lại nói: ”Này anh
Phê-rô, Thầy bảo cho anh biết, hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần anh chối
là không biết Thầy.”
Giờ
chiến đấu quyết liệt
35
Rồi
Người nói với các ông: ”Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao
bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?” Các ông đáp: ”Thưa không.” 36
Người bảo các ông: ”Nhưng bây giờ, ai có túi tiền thì hãy mang theo, ai
có bao bị cũng vậy; còn ai chưa có gươm thì bán áo đi mà mua. 37 Vì
Thầy bảo cho anh em hay: cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh
đã chép: Người bị liệt vào hàng phạm pháp. Thật vậy, những gì đã chép về Thầy
sắp được hoàn tất.” 38 Các ông nói: ”Lạy Chúa, đã có hai thanh gươm
đây.” Người bảo họ: ”Đủ rồi!”
Tại
núi Ô-liu (Mt 26:36-46; Mc 14:32-42)
39
Rồi
Người đi ra núi Ô-liu như đã quen. Các môn đệ cũng theo Người. 40 Đến
nơi, Người bảo các ông: ”Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ.”
41
Rồi
Người đi xa các ông một quãng, chừng bằng ném một hòn đá, và quỳ gối cầu nguyện
rằng: 42 “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy,
xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha.” 43 Bấy giờ có thiên sứ
tự trời hiện đến tăng sức cho Người. 44 Người lâm cơn xao xuyến bồi
hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống
đất.
45
Cầu
nguyện xong, Người đứng lên, đến chỗ các môn đệ, thấy các ông đang ngủ vì buồn
phiền, 46 Người liền nói với các ông: ”Sao anh em lại ngủ? Dậy mà
cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ.”
Đức
Giê-su bị bắt (Mt 26:47-55; Mc 14:43-49; Ga 18:3-11)
47
Người
còn đang nói, thì một đám đông xuất hiện, và kẻ dẫn đầu tên là Giu-đa, một
người trong Nhóm Mười Hai. Hắn lại gần Đức Giê-su để hôn Người. 48 Đức
Giê-su bảo hắn: ”Giu-đa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” 49 Thấy
việc sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi: ”Lạy Chúa, chúng con
tuốt gươm chém được không?” 50 Thế rồi một người trong nhóm chém tên
đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai bên phải. 51 Nhưng Đức Giê-su
lên tiếng: ”Thôi, ngừng lại.” Và Người sờ vào tai tên đầy tớ mà chữa lành.
52
Sau
đó Đức Giê-su nói với các thượng tế, lãnh binh Đền Thờ và kỳ mục đến bắt Người:
”Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến? 53 Ngày ngày,
tôi ở giữa các ông trong Đền Thờ, mà các ông không tra tay bắt. Nhưng đây là
giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm.”
Ông
Phê-rô chối Thầy (Mt 26:57, 69-75; Mc 14:53-54, 66-72; Ga 18:12-18, 25-27)
54
Họ
bắt Đức Giê-su, điệu Người đến nhà vị thượng tế. Còn ông Phê-rô thì theo xa xa.
55 Họ đốt lửa giữa sân và đang ngồi quây quần với nhau, thì ông
Phê-rô đến ngồi giữa họ. 56 Thấy ông ngồi bên ánh lửa, một người tớ
gái nhìn ông chòng chọc và nói: ”Cả bác này cũng đã ở với ông ấy đấy!” 57 Ông
liền chối: ”Tôi có biết ông ấy đâu, chị!” 58 Một lát sau, có người
khác thấy ông, liền nói: ”Cả bác nữa, bác cũng thuộc bọn chúng!” Nhưng ông
Phê-rô đáp lại: ”Này anh, không phải đâu!” 59 Chừng một giờ sau, có
người khác lại quả quyết: ”Đúng là bác này cũng đã ở với ông ấy, vì bác ta cũng
là người Ga-li-lê.” 60 Nhưng ông Phê-rô trả lời: ”Này anh, tôi không
biết anh nói gì!” Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. 61 Chúa
quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: ”Hôm nay, gà chưa kịp gáy,
thì anh đã chối Thầy ba lần.” 62 Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm
thiết.
Đức
Giê-su bị đánh đập (Mt 26:67-68; Mc 14:65)
63
Những
kẻ canh giữ Đức Giê-su nhạo báng đánh đập Người. 64 Chúng bịt mắt
Người lại, rồi hỏi rằng: ”Nói tiên tri xem: ai đánh ông đó?” 65 Chúng
còn thốt ra nhiều lời khác xúc phạm đến Người.
Đức
Giê-su ra trước Thượng Hội Đồng (Mt 26:59-66; Mc 14:55-64; Ga 18:19-24)
66
Khi
trời sáng, đoàn kỳ mục trong dân, các thượng tế và kinh sư nhóm họp. Họ điệu
Người ra trước Thượng Hội Đồng67 và hỏi: ”Ông có phải là Đấng Mê-si-a thì nói
cho chúng tôi biết!” Người đáp: ”Tôi có nói với các ông, các ông cũng chẳng tin;
68 tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời. 69 Nhưng từ
nay, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng.” 70 Mọi người
liền nói: ”Vậy ông là Con Thiên Chúa sao?” Người đáp: ”Đúng như các ông nói,
chính tôi đây.” 71 Họ liền nói: ”Chúng ta cần gì lời chứng nữa?
Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói!”
Chương 23
1
Toàn
thể cử toạ đứng lên, điệu Đức Giê-su đến ông Phi-la-tô; .
Đức
Giê-su ra trước toà tổng trấn Phi-la-tô (Mt 27:11-14; Mc 15:2-5; Ga 18:28-38)
2
Họ
bắt đầu tố cáo Người rằng: ”Chúng tôi đã phát giác ra tên này sách động dân tộc
chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xê-da, lại còn xưng mình
là Mê-si-a, là Vua nữa.” 3 Ông Phi-la-tô hỏi Người: ”Ông là Vua dân
Do-thái sao?” Người trả lời: ”Chính ngài nói đó.” 4 Ông Phi-la-tô
nói với các thượng tế và đám đông: ”Ta xét thấy người này không có tội gì.” 5
Nhưng họ cứ khăng khăng nói: ”Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp
vùng Giu-đê, bắt đầu từ Ga-li-lê cho đến đây.” 6 Nghe nói thế, ông
Phi-la-tô liền hỏi xem đương sự có phải là người Ga-li-lê không. 7 Và
khi biết Người thuộc thẩm quyền vua Hê-rô-đê, ông liền cho áp giải Người đến
với nhà vua lúc ấy cũng đang có mặt tại Giê-ru-sa-lem.
Đức
Giê-su ra trước mặt vua Hê-rô-đê.
8
Vua
Hê-rô-đê thấy Đức Giê-su thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu vua muốn được gặp Người bởi
đã từng nghe nói về Người. Vả lại, vua cũng mong được xem Người làm một hai
phép lạ. 9 Nhà vua hỏi Người nhiều điều, nhưng Người không trả lời
gì cả. 10 Các thượng tế và kinh sư đứng đó, tố cáo Người dữ dội. 11
Vua Hê-rô-đê cũng như thị vệ đều khinh dể Người ra mặt nên khoác cho
Người một chiếc áo rực rỡ mà chế giễu, rồi cho giải Người lại cho ông Phi-la-tô.
12 Ngày hôm ấy, vua Hê-rô-đê và tổng trấn Phi-la-tô bắt đầu thân
thiện với nhau, chứ trước kia hai bên vẫn hiềm thù.
Đức
Giê-su lại ra trước toà tổng trấn Phi-la-tô (Mt 27:15-26; Mc 15:6-15; Ga 18:39-19:16)
13
Bấy
giờ ông Phi-la-tô triệu tập các thượng tế, thủ lãnh và dân chúng lại 14 mà nói:
”Các ngươi nộp người này cho ta, vì cho là tay kích động dân, nhưng ta đã hỏi
cung ngay trước mặt các ngươi, mà không thấy người này có tội gì, như các ngươi
tố cáo. 15 Cả vua Hê-rô-đê cũng vậy, bởi lẽ nhà vua đã cho giải ông
ấy lại cho chúng ta. Và các ngươi thấy đó, ông ấy chẳng can tội gì đáng chết cả.
16 Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra.” 17 Vào mỗi dịp lễ
lớn, ông Phi-la-tô phải phóng thích cho họ một người tù. 18 Nhưng
tất cả mọi người đều la ó: ”Giết nó đi, thả Ba-ra-ba cho chúng tôi!” 19 Tên
này đã bị tống ngục vì một vụ bạo động đã xảy ra trong thành, và vì tội giết
người.
20
Ông
Phi-la-tô muốn thả Đức Giê-su, nên lại lên tiếng một lần nữa. 21 Nhưng
họ cứ một mực la lớn: ”Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập giá!” 22 Lần
thứ ba, ông Phi-la-tô nói với họ: ”Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác? Ta xét
thấy ông ấy không có tội gì đáng chết. Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra.” 23
Nhưng họ cứ la to hơn, nhất định đòi phải đóng đinh Người. Và tiếng la
càng thêm dữ dội.
24
Ông
Phi-la-tô quyết định chấp thuận điều họ yêu cầu. 25 Ông phóng thích
người tù họ xin tha, tức là tên bị tống ngục vì tội bạo động và giết người. Còn
Đức Giê-su thì ông trao nộp theo ý họ muốn.
Trên
đường lên núi Sọ (Mt 27:32; Mc 15:21)
26
Khi
điệu Đức Giê-su đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Si-môn, gốc
Ky-rê-nê, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức Giê-su. 27 Dân
chúng đi theo Người đông lắm, trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than
khóc Người. 28 Đức Giê-su quay lại phía các bà mà nói: ”Hỡi chị em
thành Giê-ru-sa-lem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận
mình và cho con cháu. 29 Vì này đây sẽ tới những ngày người ta phải
nói: ”Phúc thay đàn bà hiếm hoi, người không sinh không đẻ, kẻ không cho bú
mớm!” 30 Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non: Đổ xuống chúng
tôi đi!, và với gò nổng: Phủ lấp chúng tôi đi! 31 Vì cây xanh tươi mà người ta
còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao?” 32 Có hai tên gian
phi cũng bị điệu đi hành quyết cùng với Người.
Đức
Giê-su chịu đóng đinh vào thập giá (Mt 27:33-35; Mc 15:22-24; Ga 19:17-18,
23-24)
33
Khi
đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên
gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. 34 Bấy giờ Đức Giê-su
cầu nguyện rằng: ”Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” Rồi
họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm.
Đức
Giê-su bị nhục mạ (Mt 27:37-44; Mc 15:26-32)
35
Dân
chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: ”Hắn đã cứu người
khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người
được tuyển chọn!” 36 Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần,
đưa giấm cho Người uống 37 và nói: ”Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình
đi!” 38 Phía trên đầu Người, có bản án viết: ”Đây là vua người
Do-thái.”
Người
gian phi sám hối
39
Một
trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: ”Ông không
phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” 40 Nhưng
tên kia mắng nó: ”Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày
cũng không biết sợ! 41 Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc
đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” 42 Rồi anh ta thưa với
Đức Giê-su: ”Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” 43
Và Người nói với anh ta: ”Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với
tôi trên Thiên Đàng.”
Đức
Giê-su trút hơi thở cuối cùng (Mt 27:45-51; Mc 15:33-38; Ga 19:28-30)
44
Bấy
giờ đã gần tới giờ thứ sáu, thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ
thứ chín. 45 Mặt trời ngưng chiếu sáng. Bức màn trướng trong Đền Thờ
bị xé ngay chính giữa. 46 Đức Giê-su kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin
phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở.
Sau
khi Đức Giê-su tắt thở (Mt 27:54-56; Mc 15:39-41)
47
Thấy
sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng:
”Người này đích thực là người công chính!” 48 Toàn thể dân chúng đã
kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về.
49
Đứng
đàng xa, có tất cả những người quen biết Đức Giê-su cũng như những phụ nữ đã
theo Người từ Ga-li-lê; các bà đã chứng kiến những việc ấy.
Mai
táng Đức Giê-su (Mt 27:57-61; Mc 15:42-47; Ga 19:38-42)
50
Khi
ấy có một người tên là Giô-xếp, thành viên của Thượng Hội Đồng, một người lương
thiện, công chính. 51 Ông đã không tán thành quyết định và hành động
của Thượng Hội Đồng. Ông là người thành A-ri-ma-thê, một thành của người
Do-thái, và cũng là người vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa. 52 Ông đến
gặp tổng trấn Phi-la-tô để xin thi hài Đức Giê-su. 53 Ông hạ xác
Người xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào ngôi mộ đục sẵn trong
núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ. 54 Hôm ấy là áp lễ, và ngày
sa-bát bắt đầu ló rạng.
55
Cùng
đi với ông Giô-xếp, có những người phụ nữ đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê. Các
bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào.
56
Rồi
các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày sa-bát, các bà nghỉ lễ
như Luật truyền.
Chương 24
VII.
SAU PHỤC SINH
Ngôi
mộ trống (Mt 28:1-7; Mc 16:1-7)
1
Ngày
thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã
chuẩn bị sẵn. 2 Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. 3 Nhưng
khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả. 4 Họ còn
đang phân vân, thì bỗng có hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ. 5
Đang lúc các bà sợ hãi, cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói: ”Sao
các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? 6 Người không còn đây nữa, nhưng đã
trỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê, 7
là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập
giá, rồi ngày thứ ba sống lại.”
Các
Tông Đồ không tin lời các phụ nữ (Mt 28:8)
8
Bấy
giờ các bà nhớ lại những điều Đức Giê-su đã nói. 9 Khi từ mộ trở về,
các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. 10
Mấy bà nói đây là bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Gio-an-na, và bà Ma-ri-a, mẹ
ông Gia-cô-bê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông Đồ như
vậy. 11 Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin.
Ông
Phê-rô ra mộ (Ga 20:3-10)
12
Dầu
vậy, ông Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn, ông thấy chỉ còn
có những khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự việc đã xảy
ra.
Đức
Giê-su hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau (Mc 16:12-13)
13
Cũng
ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau,
cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số. 14 Họ trò chuyện với nhau
về tất cả những sự việc mới xảy ra. 15 Đang lúc họ trò chuyện và bàn
tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. 16 Nhưng
mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. 17 Người hỏi họ: ”Các
anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn
rầu.
18
Một
trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời: ”Chắc ông là người duy nhất trú ngụ
tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa
nay.” 19 Đức Giê-su hỏi: ”Chuyện gì vậy?” Họ thưa: ”Chuyện ông
Giê-su Na-da-rét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời
nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. 20 Thế mà các thượng tế và thủ
lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người
vào thập giá. 21 Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính
Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là
ngày thứ ba rồi. 22 Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm
chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, 23 không
thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người
vẫn sống. 24 Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự
việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy.”
25
Bấy
giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: ”Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các
anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! 26 Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu
khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? 27 Rồi bắt đầu từ
ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên
quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.
28
Khi
gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. 29 Họ
nài ép Người rằng: ”Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày
sắp tàn.” Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. 30 Khi đồng bàn với
họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. 31 Mắt
họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. 32 Họ
mới bảo nhau: ”Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho
chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”
33
Ngay
lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn
hữu đang tụ họp tại đó. 34 Những người này bảo hai ông: ”Chúa trỗi dậy
thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn.” 35 Còn hai ông thì thuật
lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người
bẻ bánh.
Đức
Giê-su hiện ra với các Tông Đồ (Ga 20:19-20)
36
Các
ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: ”Bình an cho
anh em!” 37 Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. 38 Nhưng
Người nói: ”Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? 39 Nhìn chân tay
Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy
Thầy có đây?” 40 Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. 41
Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi:
”Ở đây anh em có gì ăn không?” 42 Các ông đưa cho Người một khúc cá
nướng. 43 Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.
Những
lời chỉ bảo sau hết cho các Tông Đồ (Mt 28:16-20; Mc 16:14-18; Ga 20:21-23; Cv 1:6-8)
44
Rồi
Người bảo: ”Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những
gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải
được ứng nghiệm.” 45 Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh
Thánh46 và Người nói: ”Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ
hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; 47 phải nhân danh Người
mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được
ơn tha tội. 48 Chính anh em là chứng nhân về những điều này. 49
“Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại
trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”
Đức
Giê-su được rước lên trời (Mc 16:19-20; Cv 1:9-11)
50
Sau
đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. 51
Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời. 52
Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan
hỷ, 53 và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
Gio-an
Chương 1
I.
LỜI TỰA
1
Lúc
khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi
Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và
Ngôi Lời là Thiên Chúa.
2
Lúc
khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.
3
Nhờ
Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và
không có Người,
thì
chẳng có gì được tạo thành.
Điều
đã được tạo thành
4
ở
nơi Người là sự sống,
và
sự sống là ánh sáng cho nhân loại.
5
Ánh
sáng chiếu soi trong bóng tối,
và
bóng tối đã không diệt được ánh sáng.
6
Có
một người được Thiên Chúa sai đến,
tên
là Gio-an.
7
Ông
đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng,
để
mọi người nhờ ông mà tin.
8
Ông
không phải là ánh sáng,
nhưng
ông đến để làm chứng về ánh sáng.
9
Ngôi
Lời là ánh sáng thật,
ánh
sáng đến thế gian
và
chiếu soi mọi người.
10
Người
ở giữa thế gian,
và
thế gian đã nhờ Người mà có,
nhưng
lại không nhận biết Người.
11
Người
đã đến nhà mình,
nhưng
người nhà chẳng chịu đón nhận.
12
Còn
những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,
thì
Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.
13
Họ
được sinh ra, không phải do khí huyết,
cũng
chẳng do ước muốn của nhục thể,
hoặc
do ước muốn của người đàn ông,
nhưng
do bởi Thiên Chúa.
14
Ngôi
Lời đã trở nên người phàm
và
cư ngụ giữa chúng ta.
Chúng
tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,
vinh
quang mà Chúa Cha ban cho Người,
là
Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.
15
Ông
Gio-an làm chứng về Người, ông tuyên bố:
“
Đây là Đấng mà tôi đã nói:
Người
đến sau tôi,
nhưng
trổi hơn tôi, vì có trước tôi.”
16
Từ
nguồn sung mãn của Người,
tất
cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.
17
Quả
thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê,
còn
ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có.
18
Thiên
Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả;
nhưng
Con Một vốn là Thiên Chúa
và
là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,
chính
Người đã tỏ cho chúng ta biết.
II.
SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊ-SU
1.
LOAN BÁO NHIỆM CỤC MỚI
A.
TUẦN LỄ KHAI MẠC
Lời
chứng của ông Gio-an (Mt 3:1-12; Mc 1:1-8; Lc 3:1-18)
19
Và
đây là lời chứng của ông Gio-an, khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số
tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: ”Ông là ai?” 20 Ông tuyên bố
thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: ”Tôi không phải là Đấng Ki-tô.” 21 Họ
lại hỏi ông: ”Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?” Ông nói:
”Không phải.”-”Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” Ông đáp: ”Không.” 22 Họ
liền nói với ông: ”Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã
cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?” 23 Ông nói: Tôi là tiếng
người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ
I-sai-a đã nói. 24 Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái
Pha-ri-sêu. 25 Họ hỏi ông: ”Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông
không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?” 26
Ông Gio-an trả lời: ”Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị
đang ở giữa các ông mà các ông không biết. 27 Người sẽ đến sau tôi
và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” 28 Các việc đó đã xảy ra
tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa.
29
Hôm
sau, ông Gio-an thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, liền nói: ”Đây là Chiên
Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. 30 Chính Người là Đấng
tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có
trước tôi.
31
Tôi
đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm
phép rửa trong nước.” 32 Ông Gio-an còn làm chứng: ”Tôi đã thấy Thần
Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. 33 Tôi đã không
biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi:
”Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép
rửa trong Thánh Thần.” 34 Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người
là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.”
Các
môn đệ đầu tiên
35
Hôm
sau, ông Gio-an lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. 36 Thấy
Đức Giê-su đi ngang qua, ông lên tiếng nói: ”Đây là Chiên Thiên Chúa.” 37 Hai
môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê-su. 38 Đức Giê-su quay
lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: ”Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: ”Thưa
Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?” 39 Người bảo họ: ”Đến mà
xem.” Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào
khoảng giờ thứ mười.
40
Ông
An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô, là một trong hai người đã nghe ông Gio-an nói và
đi theo Đức Giê-su. 41 Trước hết, ông gặp em mình là ông Si-môn và
nói: ”Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô). 42 Rồi
ông dẫn em mình đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn ông Si-môn và nói: ”Anh là
Si-môn, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha” (tức là Phê-rô).
43
Hôm
sau, Đức Giê-su quyết định đi tới miền Ga-li-lê. Người gặp ông Phi-líp-phê và
nói: ”Anh hãy theo tôi.” 44 Ông Phi-líp-phê là người Bết-xai-đa,
cùng quê với các ông An-rê và Phê-rô.
45
Ông
Phi-líp-phê gặp ông Na-tha-na-en và nói: ”Đấng mà sách Luật Mô-sê và các ngôn
sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giê-su, con ông Giu-se, người
Na-da-rét.” 46 Ông Na-tha-na-en liền bảo: ”Từ Na-da-rét, làm sao có
cái gì hay được?” Ông Phi-líp-phê trả lời: ”Cứ đến mà xem!” 47 Đức
Giê-su thấy ông Na-tha-na-en tiến về phía mình, liền nói về ông rằng: ”Đây đích
thật là một người Ít-ra-en, lòng dạ không có gì gian dối.” 48 Ông
Na-tha-na-en hỏi Người: ”Làm sao Ngài lại biết tôi?” Đức Giê-su trả lời: ”Trước
khi Phi-líp-phê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi.” 49
Ông Na-tha-na-en nói: ”Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính
Thầy là Vua Ít-ra-en!” 50 Đức Giê-su đáp: ”Vì tôi nói với anh là tôi
đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao
hơn thế nữa.” 51 Người lại nói: ”Thật, tôi bảo thật các anh, các anh
sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên
Con Người.”
Chương 2
Tiệc
cưới Ca-na
1
Ngày
thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức
Giê-su. 2 Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự. 3 Khi
thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: ”Họ hết rượu rồi.” 4 Đức
Giê-su đáp: ”Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.” 5
Thân mẫu Người nói với gia nhân: ”Người bảo gì, các anh cứ việc làm
theo.”
6
Ở
đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái, mỗi
chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. 7 Đức
Giê-su bảo họ: ”Các anh đổ đầy nước vào chum đi!” Và họ đổ đầy tới miệng. 8
Rồi Người nói với họ: ”Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.” Họ
liền đem cho ông. 9 Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành
rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới
gọi tân lang lại 10 và nói: ”Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã
ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây
giờ.” 11 Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền
Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người. 12 Sau
đó, Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Ca-phác-na-um và ở lại
đó ít ngày.
B.
LỄ VƯỢT QUA THỨ NHẤT
Đức
Giê-su tẩy uế Đền Thờ (Mt 21:12-13; Mc 11:15-17; Lc 19:45-46)
13
Gần
đến lễ Vượt Qua của người Do-thái, Đức Giê-su lên thành Giê-ru-sa-lem. 14 Người
thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi
đổi tiền. 15 Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ
cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ
tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. 16 Người nói với những kẻ bán
bồ câu: ”Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi
buôn bán.” 17 Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh
Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.
18
Người
Do-thái hỏi Đức Giê-su: ”Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông
có quyền làm như thế?” 19 Đức Giê-su đáp: ”Các ông cứ phá huỷ Đền
Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” 20 Người Do-thái nói:
”Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày
ông xây lại được sao?” 21 Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là
chính thân thể Người. 22 Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các
môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã
nói.
Đức
Giê-su ở tại Giê-ru-sa-lem
23
Trong
lúc Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh
Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm. 24 Nhưng chính Đức
Giê-su không tin họ, vì Người biết họ hết thảy, 25 và không cần ai
làm chứng về con người. Quả thật, chính Người biết có gì trong lòng con người.
Chương 3
Cuộc
đối thoại với ông Ni-cô-đê-mô
1
Trong
nhóm Pha-ri-sêu, có một người tên là Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người
Do-thái. 2 Ông đến gặp Đức Giê-su ban đêm. Ông nói với Người: ”Thưa
Thầy, chúng tôi biết: Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả vậy,
chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy.”
3 Đức Giê-su trả lời: ”Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy
Nước Thiên Chúa, nếu không đươc sinh ra một lần nữa bởi ơn trên.” 4 Ông
Ni-cô-đê-mô thưa: ”Một người đã già rồi, làm sao có thể sinh ra được? Chẳng lẽ
người đó có thể trở vào lòng mẹ lần thứ hai để sinh ra sao?” 5 Đức
Giê-su đáp: ”Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu
không sinh ra bởi nước và Thần Khí. 6 Cái bởi xác thịt sinh ra là
xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí. 7 Ông đừng ngạc
nhiên vì tôi đã nói: các ông cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên. 8
Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ
đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy.”
9
Ông
Ni-cô-đê-mô hỏi Người: ”Làm sao những chuyện ấy có thể xảy ra được?” 10 Đức
Giê-su đáp: ”Ông là bậc thầy trong dân Ít-ra-en, mà lại không biết những chuyện
ấy! 11 Thật, tôi bảo thật ông: chúng tôi nói những điều chúng tôi biết, chúng
tôi làm chứng về những đieu chúng tôi đã thấy, nhưng các ông không nhận lời
chứng của chúng tôi. 12 Nếu tôi nói với các ông về những chuyện dưới
đất mà các ông còn không tin, thì giả như tôi nói với các ông về những chuyện
trên trời, làm sao các ông tin được?” 13 Không ai đã lên trời, ngoại
trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. 14 Như ông Mô-sê đã giương cao
con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, 15 để
ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
16
Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời. 17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con
của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian,
nhờ Con của Người, mà được cứu độ. 18 Ai tin vào Con của Người, thì
không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào
danh của Con Một Thiên Chúa. 19 Và đây là bản án: ánh sáng đã đến
thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm
đều xấu xa. 20 Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không
đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. 21 Nhưng kẻ
sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của
người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”
Sứ
vụ của Đức Giê-su tại Giu-đê. Lời chứng cuối cùng của ông Gio-an
22
Sau
đó, Đức Giê-su và các môn đệ đi tới miền Giu-đê. Người ở lại nơi ấy với các ông
và làm phép rửa. 23 Còn ông Gio-an, ông cũng đang làm phép rửa tại
Ê-nôn, gần Sa-lim, vì ở đấy có nhiều nước, và người ta thường đến chịu phép rửa.
24 Lúc ấy, ông Gio-an chưa bị tống giam.
25
Bấy
giờ, có một cuộc tranh luận xảy ra giữa các môn đệ của ông Gio-an và một người
Do-thái về việc thanh tẩy. 26 Họ đến gặp ông Gio-an và nói: ”Thưa
thầy, người trước đây đã ở với thầy bên kia sông Gio-đan và được thầy làm chứng
cho, bây giờ ông ấy cũng đang làm phép rửa, và thiên hạ đều đến với ông.” 27
Ông Gio-an trả lời: ”Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban. 28
Chính anh em làm chứng cho thầy là thầy đã nói: ”Tôi đây không phải là
Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. 29 Ai cưới cô dâu,
người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng
hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy
bây giờ đã trọn vẹn. 30 Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ
đi.
31
Đấng
từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và
nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người; 32 Người
làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của
Người. 33 Ai nhận lời chứng của Người, thì xác nhận Thiên Chúa là
Đấng chân thật. 34 Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói
những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn. 35
Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người. 36 Ai
tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người
Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ
ấy.”
Chương 4
Đức
Giê-su tại Sa-ma-ri
1
Nhóm
Pha-ri-sêu nghe tin Đức Giê-su thâu nạp và làm phép rửa cho nhiều môn đệ hơn
ông Gio-an. 2 (Thực ra, không phải chính Đức Giê-su làm phép rửa,
nhưng là các môn đệ của Người). 3 Biết thế, Đức Giê-su bỏ miền
Giu-đê mà trở lại miền Ga-li-lê. 4 Do đó, Người phải băng qua
Sa-ma-ri. 5 Vậy, Người đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần
thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se. 6 Ở đấy, có giếng của
ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào
khoảng mười hai giờ trưa.
7
Có
một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy: ”Chị cho
tôi xin chút nước uống!” 8 Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành
mua thức ăn. 9 Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói: ”Ông là người
Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?” Quả the,
người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri. 10 Đức
Giê-su trả lời: ”Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với
chị: ”Cho tôi chút nước uống”, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị
nước hằng sống.” 11 Chị ấy nói: ”Thưa ông, ông không có gầu, mà
giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? 12 Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ
phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống
nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.” 13 Đức
Giê-su trả lời: ”Ai uống nước này, sẽ lại khát. 14 Còn ai uống nước
tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy
một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.”
15
Người
phụ nữ nói với Đức Giê-su: ”Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết
khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” 16 Người bảo chị ấy: ”Chị hãy
gọi chồng chị, rồi trở lại đây.” 17 Người phụ nữ đáp: ”Tôi không có
chồng.” Đức Giê-su bảo: ”Chị nói: ”Tôi không có chồng” là phải, 18 vì
chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng
chị. Chị đã nói đúng.” 19 Người phụ nữ nói với Người: ”Thưa ông, tôi
thấy ông thật là một ngôn sứ. . . 20 Cha ông chúng tôi đã thờ phượng
Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi
phải thờ phượng Thiên Chúa.” 21 Đức Giê-su phán: ”Này chị, hãy tin
tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay
tại Giê-ru-sa-lem. 22 Các người thờ Đấng các người không biết; còn
chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. 23
Nhưng giờ đã đến-và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích
thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm
những ai thờ phượng Người như thế. 24 Thiên Chúa là thần khí, và
những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” 25 Người
phụ nữ thưa: ”Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến,
Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” 26 Đức Giê-su nói: ”Đấng ấy
chính là tôi, người đang nói với chị đây.”
27
Vừa
lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một
phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: ”Thầy cần gì vậy?” Hoặc”Thầy nói gì với chị
ấy?” 28 Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: 29
“Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy
không phải là Đấng Ki-tô sao?” 30 Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.
31
Trong
khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: ”Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa.” 32
Người nói với các ông: ”Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không
biết.” 33 Các môn đệ mới hỏi nhau: ”Đã có ai mang thức ăn đến cho
Thầy rồi chăng?” 34 Đức Giê-su nói với các ông: ”Lương thực của Thầy
là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người. 35
Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy
bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!
36 Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế,
cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng. 37 Thật vậy, câu tục
ngữ”kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng! 38 Thầy sai anh em đi gặt những gì
chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn
anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ.”
39
Có
nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ
làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. 40 Vậy, khi đến
gặp Người, dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. 41
Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa. 42 Họ bảo
người phụ nữ: ”Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính
chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.”
Đức
Giê-su ở Ga-li-lê
43
Sau
hai ngày, Đức Giê-su bỏ nơi đó đi Ga-li-lê. 44 Chính Người đã quả
quyết: ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình. 45 Khi Người
đến Ga-li-lê, dân chúng trong miền đón tiếp Người, vì đã được chứng kiến tất cả
những gì Người làm tại Giê-ru-sa-lem trong dịp lễ, bởi lẽ chính họ cũng đã đi
dự lễ.
Dấu
lạ thứ hai ở Ca-na: Đức Giê-su chữa con của một sĩ quan cận vệ của nhà vua
46
Vậy
Đức Giê-su trở lại Ca-na miền Ga-li-lê, là nơi Người đã làm cho nước hoá thành
rượu. Bấy giờ có một sĩ quan cận vệ của nhà vua có đứa con trai đang bị bệnh
tại Ca-phác-na-um. 47 Khi nghe tin Đức Giê-su từ Giu-đê đến
Ga-li-lê, ông tới gặp và xin Người xuống chữa con ông vì nó sắp chết. 48 Đức
Giê-su nói với ông: ”Các ông mà không thấy dấu lạ điềm thiêng thì các ông sẽ
chẳng tin đâu!” 49 Viên sĩ quan nói: ”Thưa Ngài, xin Ngài xuống cho,
kẻo cháu nó chết mất!” 50 Đức Giê-su bảo: ”Ông cứ về đi, con ông
sống.” Ông tin vào lời Đức Giê-su nói với mình, và ra về. 51 Ông còn
đang đi xuống, thì gia nhân đã đón gặp và nói là con ông sống rồi. 52 Ông
hỏi họ con ông đã bắt đầu khá hơn vào giờ nào. Họ đáp: ”Hôm qua, vào lúc một
giờ trưa thì cậu hết sốt.” 53 Người cha nhận ra là vào đúng giờ đó,
Đức Giê-su đã nói với mình: ”Con ông sống”, nên ông và cả nhà đều tin. 54 Đó
là dấu lạ thứ hai Đức Giê-su đã làm, khi Người từ miền Giu-đê đến miền
Ga-li-lê.
Chương 5
2.
LỄ THỨ HAI TẠI GIÊ-RU-SA-LEM
Đức
Giê-su chữa một người đau ốm ở hồ nước tại Bết-da-tha
1
Sau
đó, nhân dịp lễ của người Do-thái, Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem. 2 Tại
Giê-ru-sa-lem, gần Cửa Chiên, có một hồ nước, tiếng Híp-ri gọi là Bết-da-tha.
Hồ này có năm hành lang. 3 Nhiều người đau ốm, đui mù, què quặt, bất
toại nằm la liệt ở đó, (chờ cho nước động, 4 vì thỉnh thoảng có
thiên thần Chúa xuống hồ khuấy nước lên; khi nước khuấy lên, ai xuống trước,
thì dù mắc bệnh gì đi nữa, cũng được khỏi). 5 Ở đó, có một người đau
ốm đã ba mươi tám năm. 6 Đức Giê-su thấy anh ta nằm đấy và biết anh
sống trong tình trạng đó đã lâu, thì nói: ”Anh có muốn khỏi bệnh không?” 7
Bệnh nhân đáp: ”Thưa Ngài, khi nước khuấy lên, không có người đem tôi
xuống hồ. Lúc tôi tới đó, thì đã có người khác xuống trước mất rồi!” 8 Đức
Giê-su bảo: ”Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi!” 9 Người ấy liền
được khỏi bệnh, vác chõng và đi được.
Hôm
đó lại là ngày sa-bát.
10
Người
Do-thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh: ”Hôm nay là ngày sa-bát, anh không được
phép vác chõng!” 11 Nhưng anh đáp: ”Chính người chữa tôi khỏi bệnh
đã nói với tôi: ”Anh hãy vác chõng mà đi!” 12 Họ hỏi anh: ”Ai là
người đã bảo anh: ”Vác chõng mà đi” ?” 13 Nhưng người đã được khỏi
bệnh không biết là ai. Quả thế, Đức Giê-su đã lánh đi, vì có đám đông ở đấy. 14
Sau đó, Đức Giê-su gặp người ấy trong Đền Thờ và nói: ”Này, anh đã được
khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!” 15 Anh
ta đi nói với người Do-thái: Đức Giê-su là người đã chữa anh khỏi bệnh. 16
Do đó, người Do-thái chống đối Đức Giê-su, vì Người hay chữa bệnh ngày
sa-bát. 17 Nhưng Đức Giê-su đáp lại: ”Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm
việc, thì tôi cũng làm việc.” 18 Bởi vậy, người Do-thái lại càng tìm
cách giết Đức Giê-su, vì không những Người phá luật sa-bát, lại còn nói Thiên
Chúa là Cha của mình, và như thế là tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Diễn
từ về công việc của Chúa Con
19
Đức
Giê-su lên tiếng nói với họ rằng: ”Thật, tôi bảo thật các ông: người Con không
thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều
gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy. 20 Quả thật, Chúa
Cha yêu người Con và cho người Con thấy mọi điều mình làm, lại sẽ còn cho người
Con thấy những việc lớn lao hơn nữa, khiến chính các ông cũng phải kinh ngạc. 21
Chúa Cha làm cho kẻ chết trỗi dậy và ban sự sống cho họ thế nào, thì
người Con cũng ban sự sống cho ai tuỳ ý. 22 Quả thật, Chúa Cha không
xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử, 23 để ai
nấy đều tôn kính người Con như tôn kính Chúa Cha. Kẻ nào không tôn kính người
Con, thì cũng không tôn kính Chúa Cha, Đấng đã sai người Con. 24 Thật,
tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự
sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống.
25
Thật,
tôi bảo thật các ông: giờ đã đến- và chính là lúc này đây- giờ các kẻ chết nghe
tiếng Con Thiên Chúa; ai nghe thì sẽ được sống. 26 Quả thật, Chúa
Cha có sự sống nơi mình thế nào, thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi
mình như vậy, 27 lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người
Con là Con Người. 28 Các ông chớ ngạc nhiên về điều này, vì giờ đã
đến, giờ mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng người Con 29 và sẽ ra khỏi đó: ai đã
làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại
để bị kết án.
30
Tôi
không thể tự ý mình làm gì. Tôi xét xử theo như tôi được nghe, và phán quyết
của tôi thật công minh, vì tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo
ý Đấng đã sai tôi.
31
Nếu
tôi làm chứng về chính mình, thì lời chứng của tôi không thật. 32 Có
Đấng khác làm chứng về tôi, và tôi biết: lời Người làm chứng về tôi là lời
chứng thật. 33 Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gio-an, và ông
ấy đã làm chứng cho sự thật. 34 Phần tôi, tôi không cần lời chứng
của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điều này để các ông được cứu độ. 35
Ông Gio-an là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng
của ông trong một thời gian. 36 Nhưng phần tôi, tôi có một lời chứng
lớn hơn lời chứng của ông Gio-an: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để
tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã
sai tôi. 37 Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, chính Người cũng đã làm chứng
cho tôi. Các ông đã không bao giờ nghe tiếng Người, cũng chẳng bao giờ thấy tôn
nhan Người. 38 Các ông đã không để cho lời Người ở mãi trong lòng,
bởi vì chính các ông không tin vào Đấng Người đã sai đến. 39 Các ông
nghiên cứu Kinh Thánh, vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được sự sống đời
đời. Mà chính Kinh Thánh lại làm chứng về tôi. 40 Các ông không muốn
đến cùng tôi để được sự sống.
41
Tôi
không cần người đời tôn vinh. 42 Nhưng tôi biết: các ông không có
lòng yêu mến Thiên Chúa. 43 Tôi đã đến nhân danh Cha tôi, nhưng các
ông không đón nhận. Nếu có ai khác nhân danh mình mà đến, thì các ông lại đón
nhận. 44 Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát
xuất từ Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các ông có thể tin được?
45
Các
ông đừng tưởng là tôi sẽ tố cáo các ông với Chúa Cha. Kẻ tố cáo các ông chính
là ông Mô-sê, người mà các ông tin cậy. 46 Vì nếu các ông tin ông
Mô-sê, thì hẳn các ông cũng tin tôi, bởi lẽ ông ấy đã viết về tôi. 47 Nhưng
nếu điều ông ấy viết mà các ông không tin, thì làm sao tin được lời tôi nói?”
Chương 6
3.
LỄ VƯỢT QUA- DIỄN TỪ VỀ BÁNH TRƯỜNG SINH
Đức
Giê-su hoá bánh ra nhiều (Mt 14:13-21; Mc 6:30-44; Lc 9:10-17)
1
Sau
đó, Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Biển Hồ Ti-bê-ri-a. 2
Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những
dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. 3 Đức Giê-su lên núi và
ngồi đó với các môn đệ. 4 Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của
người Do-thái.
5
Ngước
mắt lên, Đức Giê-su nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông
Phi-líp-phê: ”Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” 6 Người nói thế là
để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. 7 Ông Phi-líp-phê
đáp: ”Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một
chút.” 8 Một trong các môn đệ, là ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô,
thưa với Người: 9 “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và
hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” 10 Đức Giê-su
nói: ”Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi.” Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi
xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. 11 Vậy, Đức Giê-su
cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ,
Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. 12 Khi họ
đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: ”Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí
đi.” 13 Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch
người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. 14 Dân chúng
thấy dấu lạ Đức Giê-su làm thì nói: ”Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến
thế gian!” 15 Nhưng Đức Giê-su biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà
tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
Đức
Giê-su đi trên mặt Biển Hồ mà đến với các môn đệ (Mt 14:22-33; Mc 6:45-52)
16
Chiều
đến, các môn đệ xuống bờ Biển Hồ, 17 rồi xuống thuyền đi về phía
Ca-phác-na-um bên kia Biển Hồ. Trời đã tối mà Đức Giê-su chưa đến với các ông. 18
Biển động, vì gió thổi mạnh. 19 Khi đã chèo được chừng năm
hoặc sáu cây số, các ông thấy Đức Giê-su đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần
thuyền. Các ông hoảng sợ. 20 Nhưng Người bảo các ông: ”Thầy đây mà,
đừng sợ!” 21 Các ông muốn rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc đó
thuyền đã tới bờ, nơi các ông định đến.
Diễn
từ trong hội đường Ca-phác-na-um
22
Hôm
sau, đám đông dân chúng còn đứng ở bờ bên kia Biển Hồ, thấy rằng ở đó chỉ có
một chiếc thuyền và Đức Giê-su lại không cùng xuống thuyền đó với các môn đệ,
nhưng chỉ có các ông đi mà thôi. 23 Tuy nhiên, có những thuyền khác
từ Ti-bê-ri-a đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn.
24 Vậy khi dân chúng thấy Đức Giê-su cũng như các môn đệ đều không
có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm Người. 25 Khi gặp
thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: ”Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” 26
Đức Giê-su đáp: ”Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không
phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. 27
Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng
để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con
Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi
dấu xác nhận.” 28 Họ liền hỏi Người: ”Chúng tôi phải làm gì để thực
hiện những việc Thiên Chúa muốn?” 29 Đức Giê-su trả lời: ”Việc Thiên
Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến.” 30 Họ
lại hỏi: ”Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông?
Ông sẽ làm gì đây? 31 Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời
chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời.”
32
Đức
Giê-su đáp: ”Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn
bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích
thực, 33 vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại
sự sống cho thế gian.” 34 Họ liền nói: ”Thưa Ngài, xin cho chúng tôi
được ăn mãi thứ bánh ấy.” 35 Đức Giê-su bảo họ: ”Chính tôi là bánh
trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao
giờ! 36 Nhưng tôi đã bảo các ông: các ông đã thấy tôi mà không tin. 37 Tất
cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi
sẽ không loại ra ngoài, 38 vì tôi tự trời mà xuống, không phải để
làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. 39 Mà ý của
Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất
một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. 40 Thật vậy, ý
của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được
sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”
41
Người
Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: ”Tôi là bánh từ trời
xuống.” 42 Họ nói: ”Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se
đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: ”Tôi
từ trời xuống?” 43 Đức Giê-su bảo họ: ”Các ông đừng có xầm xì với
nhau! 44 Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi
kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. 45 Xưa
có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ.
Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. 46
Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên
Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. 47 Thật, tôi bảo thật
các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. 48 Tôi là bánh trường sinh.
49 Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. 50
Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. 51 Tôi
là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh
tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
52
Người
Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: ”Làm sao ông này có thể cho chúng
ta ăn thịt ông ta được?” 53 Đức Giê-su nói với họ: ”Thật, tôi bảo
thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có
sự sống nơi mình. 54 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn
đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, 55 vì thịt
tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. 56 Ai ăn thịt và
uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. 57 Như
Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ
ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. 58 Đây là bánh từ trời
xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh
này, sẽ được sống muôn đời.”
59
Đó
là những điều Đức Giê-su đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Ca-phác-na-um.
60
Nghe
rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: ”Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?”
61 Nhưng Đức Giê-su tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về
vấn đề ấy, Người bảo các ông: ”Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận
được ư? 62 Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? 63
Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh
em là thần khí và là sự sống.
64
Nhưng
trong anh em có những kẻ không tin.” Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết
những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. 65 Người nói tiếp:
”Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban
ơn ấy cho.” 66 Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo
Người nữa.
Ông
Phê-rô tuyên xưng lòng tin
67
Vậy
Đức Giê-su hỏi Nhóm Mười Hai: ”Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” 68
Ông Si-môn Phê-rô liền đáp: ”Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến
với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. 69 Phần chúng
con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên
Chúa.” 70 Đức Giê-su đáp: ”Chẳng phải Thầy đã chọn anh em là Nhóm
Mười Hai sao? Thế mà một người trong anh em lại là quỷ!” 71 Người
muốn nói về Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt; thật thế, chính y, một môn đệ
trong Nhóm Mười Hai, sẽ nộp Người.
Chương 7
4.
LỄ LỀU
Đức
Giê-su lên Giê-ru-sa-lem dự lễ và giảng dạy
1
Sau
đó, Đức Giê-su thường đi lại trong miền Ga-li-lê; thật vậy, Người không muốn đi
lại trong miền Giu-đê, vì người Do-thái tìm giết Người.
2
Lễ
Lều của người Do-thái gần tới, 3 anh em Đức Giê-su nói với Người:
”Ông bỏ đây mà sang miền Giu-đê đi, để cả môn đệ của ông cũng được nhìn thấy
những việc ông làm, 4 vì không ai muốn nổi danh mà lại hoạt động âm
thầm cả. Nếu ông làm những việc ấy, thì hãy tỏ mình ra cho thiên hạ biết.” 5
Thật thế, anh em Người không tin vào Người. 6 Đức Giê-su nói
với họ: ”Thời của tôi chưa đến, nhưng thời của các anh lúc nào cũng thuận tiện.
7 Thế gian không thể ghét các anh, nhưng tôi thì nó ghét, vì tôi làm
chứng rằng các việc nó làm thì xấu xa. 8 Các anh cứ lên dự lễ đi;
còn tôi, tôi không lên dự lễ này, vì thời của tôi chưa chín muồi.” 9 Nói
thế rồi, Người ở lại miền Ga-li-lê. 10 Tuy nhiên, khi anh em Người
đã lên dự lễ, thì chính Người cũng lên, nhưng không công khai và hầu như bí mật.
11 Người Do-thái tìm kiếm Người trong dịp lễ và nói: ”Ông ấy đâu
rồi?” 12 Dân chúng bàn tán nhiều về Người. Kẻ thì bảo: ”Đó là một
người tốt.” Kẻ thì nói: ”Không, ông ta mê hoặc dân chúng.” 13 Nhưng
không ai dám công khai nói về Người, vì sợ người Do-thái.
14
Vào
giữa kỳ lễ, Đức Giê-su lên Đền Thờ và giảng dạy. 15 Người Do-thái
lấy làm ngạc nhiên. Họ nói: ”Ông này không học hành gì, mà sao lại thông thạo
chữ nghĩa thế!” 16 Đức Giê-su trả lời: ”Đạo lý tôi dạy không phải là
của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi. 17 Ai muốn làm theo ý của
Người, thì sẽ biết rằng đạo lý ấy là bởi Thiên Chúa hay do tôi tự mình giảng
dạy. 18 Ai tự mình giảng dạy, thì tìm vinh quang cho chính mình. Còn
ai tìm vinh quang cho Đấng đã sai mình, thì là người chân thật, và nơi người ấy
không có gì là bất chính. 19 Ông Mô-sê đã chẳng ban Lề Luật cho các
ông sao? Thế mà không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!
Sao
các ông lại tìm cách giết tôi?”
20
Dân
chúng đáp: ”Ông bị quỷ ám rồi! Có ai tìm giết ông đâu?” 21 Đức
Giê-su trả lời: ”Tôi chỉ làm có một việc, mà tất cả các ông đều ngạc nhiên. 22
Ông Mô-sê đã truyền cho các ông làm phép cắt bì (thực ra, phép ấy đã có
từ thời các tổ phụ, chứ không phải từ thời ông Mô-sê), và các ông làm phép cắt
bì cả trong ngày sa-bát. 23 Vậy nếu người ta làm phép cắt bì cả
trong ngày sa-bát để khỏi lỗi Luật Mô-sê, thì sao các ông lại nổi giận với tôi,
vì tôi đã chữa lành toàn thân một người trong ngày sa-bát? 24 Các ông đừng xét
đoán theo bề ngoài nữa, nhưng hãy xét đoán cho công minh.”
Dân
chúng tranh luận về nguồn gốc của Đấng Ki-tô
25
Bấy
giờ có những người ở Giê-ru-sa-lem nói: ”Ông này không phải là người họ đang
tìm giết đó sao? 26 Kìa, ông ta ăn nói công khai mà họ chẳng bảo gì cả. Phải
chăng các nhà hữu trách đã thực sự nhìn nhận ông là Đấng Ki-tô? 27 Ông ấy,
chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi; còn Đấng Ki-tô, khi Người đến thì chẳng
ai biết Người xuất thân từ đâu cả.” 28 Lúc giảng dạy trong Đền Thờ,
Đức Giê-su nói lớn tiếng rằng: ”Các ông biết tôi ư? Các ông biết tôi xuất thân
từ đâu ư? Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật. Các
ông, các ông không biết Người. 29 Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì
tôi từ nơi Người mà đến, và chính Người đã sai tôi.”
30
Bấy
giờ họ tìm cách bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt, vì giờ của Người chưa
đến.
Đức
Giê-su loan báo Người sắp ra đi
31
Trong
dân chúng, có nhiều kẻ đã tin vào Người, họ nói: ”Khi Đấng Ki-tô đến, liệu
Người có làm nhiều dấu lạ hơn ông này chăng?” 32 Người Pha-ri-sêu
nghe dân chúng bàn tán với nhau về Người như thế, nên họ và các thượng tế sai
vệ binh đi bắt Người. 33 Vậy, Đức Giê-su bảo họ: ”Tôi còn ở với các
ông ít lâu nữa thôi, rồi tôi đi đến cùng Đấng đã sai tôi. 34 Các ông
sẽ tìm tôi mà không gặp, và nơi tôi ở, các ông không thể đến được.” 35 Người
Do-thái liền nói với nhau: ”Ông ấy sắp đi đâu mà chúng ta không gặp được? Phải
chăng ông sắp đi gặp kiều bào sống giữa người Hy-lạp, để giảng dạy cho người
Hy-lạp? 36 Ông ấy muốn nói gì khi bảo: ”Các ông sẽ tìm tôi mà không gặp, và nơi
tôi ở, các ông không thể đến được. ?”
Lời
hứa ban nước hằng sống
38
Hôm
ấy là ngày bế mạc tuần lễ Lều, và là ngày long trọng nhất. Đức Giê-su đứng
trong Đền Thờ và lớn tiếng nói rằng: ”Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi,
hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng
nước hằng sống.” 39 Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin
vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức
Giê-su chưa được tôn vinh.
Dân
chúng lại tranh luận về nguồn gốc của Đấng Ki-tô
40
Trong
dân chúng, có những người nghe các lời ấy thì nói: ”Ông này thật là vị ngôn sứ.”
41 Kẻ khác rằng: ”Ông này là Đấng Ki-tô.” Nhưng có kẻ lại nói: ”Đấng
Ki-tô mà lại xuất thân từ Ga-li-lê sao? 42 Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Đấng
Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít và từ Bê-lem, làng của vua Đa-vít sao?” 43
Vậy, vì Người mà dân chúng đâm ra chia rẽ. 44 Một số trong bọn
họ muốn bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt.
45
Các
vệ binh trở về với các thượng tế và người Pha-ri-sêu. Họ liền hỏi chúng: ”Tại
sao các anh không điệu ông ấy về đây?” 46 Các vệ binh trả lời: ”Xưa
nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy!” 47 Người Pha-ri-sêu
liền nói với chúng: ”Cả các anh nữa, các anh cũng bị mê hoặc rồi sao? 48 Trong
hàng thủ lãnh hay trong giới Pha-ri-sêu, đã có một ai tin vào tên ấy đâu? 49
Còn bọn dân đen này, thứ người không biết Lề Luật, đúng là quân bị nguyền rủa!”
50 Trong nhóm Pha-ri-sêu, có một người tên là Ni-cô-đê-mô, trước đây
đã đến gặp Đức Giê-su; ông nói với họ: 51 “Lề Luật của chúng ta có
cho phép kết án ai, trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?” 52
Họ đáp: ”Cả ông nữa, ông cũng là người Ga-li-lê sao? Ông cứ nghiên cứu,
rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Ga-li-lê cả.” 53 Sau
đó, ai nấy trở về nhà mình.
Chương 8
1
Còn
Đức Giê-su thì đến núi Ô-liu.
Người
phụ nữ ngoại tình
2
Vừa
tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống
giảng dạy họ. 3 Lúc đó, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến
trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở
giữa, 4 rồi nói với Người: ”Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả
tang đang ngoại tình. 5 Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng
tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” 6 Họ nói
thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giê-su cúi xuống lấy
ngón tay viết trên đất. 7 Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và
bảo họ: ”Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” 8
Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. 9 Nghe vậy, họ bỏ đi
hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình
Đức Giê-su, và người phụ nữ thì đứng ở giữa. 10 Người ngẩng lên và
nói: ”Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”
11Người
đàn bà đáp: ”Thưa ông, không có ai cả.” Đức Giê-su nói: ”Tôi cũng vậy, tôi
không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
Đức
Giê-su, ánh sáng cho trần gian
12
Đức
Giê-su lại nói với người Do-thái: ”Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ
không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.”
Tranh
luận về lời chứng của Đức Giê-su liên quan đến bản thân Người
13
Người
Pha-ri-sêu nói với Đức Giê-su: ”Ông làm chứng cho chính mình; lời chứng của ông
không thật!” 14 Người trả lời: ”Tôi có làm chứng cho chính mình đi
nữa, thì lời chứng của tôi vẫn là chứng thật, bởi vì tôi biết tôi từ đâu tới và
đi đâu. Còn các ông, các ông không biết tôi từ đâu tới và đi đâu. 15 Các
ông xét đoán theo kiểu người phàm; phần tôi, tôi không xét đoán ai cả. 16 Mà
nếu tôi có xét đoán, thì sự xét đoán của tôi vẫn đúng sự thật, vì không phải
chỉ có mình tôi, nhưng có tôi và Đấng đã sai tôi. 17 Trong Lề Luật
của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật. 18 Tôi
làm chứng cho chính mình, và Chúa Cha là Đấng đã sai tôi cũng làm chứng cho
tôi.” 19 Họ liền hỏi Người: ”Cha ông ở đâu?” Đức Giê-su đáp: ”Các
ông không biết tôi, cũng chẳng biết Cha tôi. Nếu các ông biết tôi, thì hẳn cũng
biết Cha tôi.”
20
Người
đã nói những lời ấy, khi giảng dạy trong Đền Thờ, tại nơi đặt thùng tiền dâng
cúng. Không có ai bắt Người, vì giờ của Người chưa đến. 21 Đức
Giê-su lại nói với họ: ”Tôi ra đi, các ông sẽ tìm tôi, và các ông sẽ mang tội
mình mà chết. Nơi tôi đi, các ông không thể đến được.” 22 Người
Do-thái mới nói: ”Ông ấy sẽ tự tử hay sao mà lại nói: ”Nơi tôi đi, các ông
không thể đến được” ?” 23 Người bảo họ: ”Các ông bởi hạ giới; còn
tôi, tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không
thuộc về thế gian này. 24 Tôi đã nói với các ông là các ông sẽ mang
tội lỗi mình mà chết. Thật vậy, nếu các ông không tin là Tôi Hằng Hữu, các ông
sẽ mang tội lỗi mình mà chết.” 25 Họ liền hỏi Người: ”Ông là ai?”
Đức Giê-su đáp: ”Hoàn toàn đúng như tôi vừa nói với các ông đó. 26 Tôi
còn có nhiều điều phải nói và xét đoán về các ông. Nhưng Đấng đã sai tôi là
Đấng chân thật; còn tôi, tôi nói lại cho thế gian những điều tôi đã nghe Người
nói.” 27 Họ không hiểu là Đức Giê-su nói với họ về Chúa Cha. 28
Người bảo họ: ”Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ
biết là Tôi Hằng Hữu, và biết tôi không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Chúa
Cha đã dạy tôi thế nào, thì tôi nói như vậy. 29 Đấng đã sai tôi vẫn
ở với tôi; Người không để tôi cô độc, vì tôi hằng làm những điều đẹp ý Người.” 30
Khi Đức Giê-su nói thế, thì có nhiều kẻ tin vào Người.
Đức
Giê-su và ông Áp-ra-ham
31
Vậy,
Đức Giê-su nói với những người Do-thái đã tin Người: ”Nếu các ông ở lại trong
lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; 32 các ông sẽ biết sự
thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông.” 33 Họ đáp: ”Chúng tôi là
dòng dõi ông Áp-ra-ham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao
ông lại nói: các ông sẽ được tự do?” 34 Đức Giê-su trả lời: ”Thật,
tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. 35 Mà kẻ
nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi. 36
Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là
những người tự do. 37 Tôi biết các ông là dòng dõi ông Áp-ra-ham,
nhưng các ông tìm cách giết tôi, vì lời tôi không thấm vào lòng các ông. 38
Phần tôi, tôi nói những điều đã thấy nơi Cha tôi; còn các ông, các ông
làm những gì đã nghe cha các ông nói.” 39 Họ đáp: ”Cha chúng tôi là
ông Áp-ra-ham.” Đức Giê-su nói: ”Giả như các ông là con cái ông Áp-ra-ham, hẳn
các ông phải làm những việc ông Áp-ra-ham đã làm. 40 Thế mà bây giờ
các ông lại tìm giết tôi, là người đã nói cho các ông sự thật mà tôi đã nghe
biết từ Thiên Chúa. Điều đó, ông Áp-ra-ham đã không làm. 41 Còn các
ông, các ông làm những việc cha các ông làm.”
42
Đức
Giê-su bảo họ: ”Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến
tôi, vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến. Thật thế, tôi
không tự mình mà đến, nhưng chính Người đã sai tôi. 43 Tại sao các
ông không hiểu lối nói của tôi? Là vì các ông không thể nghe lời tôi nói. 44
Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham
thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì
sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì
nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối. 45 Còn tôi, chính vì tôi
nói sự thật, nên các ông không tin tôi. 46 Ai trong các ông chứng
minh được là tôi có tội? Nếu tôi nói sự thật, sao các ông lại không tin tôi? 47
Ai thuộc về Thiên Chúa, thì nghe lời Thiên Chúa nói; còn các ông, các ông không
chịu nghe, vì các ông không thuộc về Thiên Chúa.”
48
Người
Do-thái đáp: ”Chúng tôi bảo ông là người Sa-ma-ri và là người bị quỷ ám thì
chẳng đúng lắm sao?” 49 Đức Giê-su trả lời: ”Tôi không bị quỷ ám.
Nhưng tôi tôn kính Cha tôi; còn các ông, các ông lại làm nhục tôi. 50 Phần
tôi, tôi không tìm vinh quang cho mình. Có Đấng tìm cho tôi và xét xử cho tôi. 51
Thật, tôi bảo thật các ông: ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ
phải chết.”
52
Người
Do-thái liền nói: ”Bây giờ, chúng tôi biết chắc là ông bị quỷ ám. Ông Áp-ra-ham
đã chết, các ngôn sứ cũng vậy; thế mà ông lại nói: ”Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ
không bao giờ phải chết.
53
Chẳng
lẽ ông lại cao trọng hơn cha chúng tôi là ông Áp-ra-ham sao? Người đã chết, các
ngôn sứ cũng đã chết. Ông tự coi mình là ai?” 54 Đức Giê-su đáp:
”Nếu tôi tôn vinh chính mình, vinh quang của tôi chẳng là gì cả. Đấng tôn vinh
tôi chính là Cha tôi, Đấng mà các ông gọi là Thiên Chúa của các ông. 55 Các
ông không biết Người; còn tôi, tôi biết Người. Nếu tôi nói là tôi không biết
Người, thì tôi cũng là kẻ nói dối như các ông. Nhưng tôi biết Người và giữ lời
Người. 56 Ông Áp-ra-ham là cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng
được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ.”
57
Người
Do-thái nói: ”Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã thấy ông Áp-ra-ham!” 58 Đức
Giê-su đáp: ”Thật, tôi bảo thật các ông: trước khi có ông Áp-ra-ham, thì tôi,
Tôi Hằng Hữu!”
59
Họ
liền lượm đá để ném Người. Nhưng Đức Giê-su lánh đi và ra khỏi Đền Thờ.
Chương 9
Đức
Giê-su chữa một người mù từ thuở mới sinh
1
Đi
ngang qua, Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. 2 Các
môn đệ hỏi Người: ”Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù,
anh ta hay cha mẹ anh ta?” 3 Đức Giê-su trả lời: ”Không phải anh ta,
cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ
nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. 4 Chúng ta
phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến,
không ai có thể làm việc được. 5 Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy
là ánh sáng thế gian.”
6
Nói
xong, Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người
mù, 7 rồi bảo anh ta: ”Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có
nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn
thấy được.
8
Các
người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: ”Hắn
không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?” 9 Có người nói: ”Chính
hắn đó!” Kẻ khác lại rằng: ”Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó
thôi!” Còn anh ta thì quả quyết: ”Chính tôi đây!” 10 Người ta liền
hỏi anh: ”Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?” 11 Anh ta
trả lời: ”Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo:
”Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy.” 12 Họ
lại hỏi anh: ”Ông ấy ở đâu?” Anh ta đáp: ”Tôi không biết.”
13
Họ
dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pha-ri-sêu. 14 Nhưng ngày
Đức Giê-su trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày sa-bát. 15
Vậy, các người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy
được. Anh trả lời: ”Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy.”
16 Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì nói: ”Ông ta không thể là người
của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát”; kẻ thì bảo: ”Một người tội lỗi
sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?” Thế là họ đâm ra chia rẽ. 17 Họ
lại hỏi người mù: ”Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh đáp:
”Người là một vị ngôn sứ!”
18
Người
Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha
mẹ anh ta đến. 19 Họ hỏi: ”Anh này có phải là con ông bà không? Ông
bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?” 20
Cha mẹ anh đáp: ”Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới
sinh. 21 Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết,
hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó;
nó đã khôn lớn rồi, nó có thể tự khai được.” 22 Cha mẹ anh nói thế
vì sợ người Do-thái. Thật vậy, người Do-thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội
đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô. 23 Vì thế, cha
mẹ anh mới nói: ”Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó.”
24
Một
lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: ”Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa.
Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi.” 25 Anh ta đáp:
”Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một
điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!” 26 Họ mới nói
với anh: ”Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào?” 27 Anh
trả lời: ”Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao
các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông
ấy chăng?” 28 Họ liền mắng nhiếc anh: ”Có mày mới là môn đệ của ông
ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. 29 Chúng ta biết
rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giê-su ấy
bởi đâu mà đến.” 30 Anh đáp: ”Kể cũng lạ thật! Các ông không biết
ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! 31 Chúng ta
biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và
làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. 32 Xưa nay chưa hề
nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. 33 Nếu không
phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.” 34 Họ
đối lại: ”Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta
ư?” Rồi họ trục xuất anh.
35
Đức
Giê-su nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: ”Anh có tin
vào Con Người không?” 36 Anh đáp: ”Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi
tin?” 37 Đức Giê-su trả lời: ”Anh đã thấy Người. Chính Người đang
nói với anh đây.” 38 Anh nói: ”Thưa Ngài, tôi tin.” Rồi anh sấp mình
xuống trước mặt Người.
39
Đức
Giê-su nói: ”Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy
được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!”
40
Những
người Pha-ri-sêu đang ở đó với Đức Giê-su nghe vậy, liền lên tiếng: ”Thế ra cả
chúng tôi cũng đui mù hay sao?” 41 Đức Giê-su bảo họ: ”Nếu các ông
đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ”Chúng tôi
thấy”, nên tội các ông vẫn còn!”
Chương 10
Vị
Mục Tử nhân lành
1 “Thật, tôi bảo thật
các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào,
người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. 2 Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy
là mục tử. 3 Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng
của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. 4 Khi đã cho chiên
ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh.
5 Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không
nhận biết tiếng người lạ.” 6 Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó.
Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ.
7
Vậy,
Đức Giê-su lại nói: ”Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. 8
Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ. 9
Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp
được đồng cỏ. 10 Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ.
Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
11
Tôi
chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn
chiên. 12 Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không
thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và
làm cho chiên tán loạn, 13 vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết
gì đến chiên. 14 Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của
tôi, và chiên của tôi biết tôi, 15 như Chúa Cha biết tôi, và tôi
biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
16
Tôi
còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng
sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. 17 Sở
dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. 18
Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh
mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là
mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.”
19
Người
Do-thái lại chia rẽ nhau vì những lời đó. 20 Nhiều người trong nhóm
họ nói: ”Ông ấy bị quỷ ám và điên khùng rồi! Nghe ông ấy làm gì?” 21 Kẻ
khác bảo: ”Người bị quỷ ám đâu có nói được như vậy! Quỷ có thể mở mắt cho người
mù được sao?”
5.
LỄ CUNG HIẾN ĐỀN THỜ
Đức
Giê-su xưng mình là Con Thiên Chúa
22
Khi
ấy, ở Giê-ru-sa-lem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy giờ là mùa
đông. 23 Đức Giê-su đi đi lại lại trong Đền Thờ, tại hành lang
Sa-lô-môn. 24 Người Do-thái vây quanh Đức Giê-su và nói: ”Ông còn để
lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì
xin nói công khai cho chúng tôi biết.” 25 Đức Giê-su đáp: ”Tôi đã
nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi,
những việc đó làm chứng cho tôi. 26 Nhưng các ông không tin, vì các
ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. 27 Chiên của tôi thì nghe
tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. 28 Tôi ban cho chúng sự
sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng
khỏi tay tôi. 29 Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất
cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. 30 Tôi và Chúa
Cha là một.”
31
Người
Do-thái lại lấy đá để ném Đức Giê-su. 32 Người bảo họ: ”Tôi đã cho
các ông thấy nhiều việc tốt đẹp Chúa Cha đã giao cho tôi làm; vì việc nào mà
các ông ném đá tôi?” 33 Người Do-thái đáp: ”Chúng tôi ném đá ông,
không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người
phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa.” 34 Đức Giê-su bảo họ: ”Trong
Lề Luật các ông, đã chẳng có chép lời này sao: ”Ta đã phán: các ngươi là những
bậc thần thánh”“? 35 Nếu Lề Luật gọi những kẻ được Thiên Chúa ngỏ lời là những
bậc thần thánh, mà lời Kinh Thánh không thể bị huỷ bỏ, 36 thì tôi là
người Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian, làm sao các ông lại bảo tôi:
”Ông nói phạm thượng! vì tôi đã nói: ”Tôi là Con Thiên Chúa” ? 37 Nếu tôi không
làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. 38 Còn nếu tôi
làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó.
Như vậy, các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng: Chúa Cha ở trong tôi và
tôi ở trong Chúa Cha.”
39Bấy
giờ họ lại tìm cách bắt Người, nhưng Người đã thoát khỏi tay họ.
Đức
Giê-su rút lui sang bên kia sông Gio-đan
40
Đức
Giê-su lại ra đi, sang bên kia sông Gio-đan, đến chỗ trước kia ông Gio-an đã
làm phép rửa, và Người ở lại đó. 41 Nhiều người đến gặp Đức Giê-su.
Họ bảo nhau: ”Ông Gio-an đã không làm một dấu lạ nào cả, nhưng mọi điều ông ấy
nói về người này đều đúng.” 42 Ở đó, nhiều người đã tin vào Đức
Giê-su.
Chương 11
Anh
La-da-rô sống lại
1
Có
một người bị đau nặng, tên là La-da-rô, quê ở Bê-ta-ni-a, làng của hai chị em
cô Mác-ta và Ma-ri-a. 2 Cô Ma-ri-a là người sau này sẽ xức dầu thơm
cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Anh La-da-rô, người bị đau nặng, là em của
cô. 3 Hai cô cho người đến nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, người
Thầy thương mến đang bị đau nặng.” 4 Nghe vậy, Đức Giê-su bảo: ”Bệnh
này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa:
qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.”
5
Đức
Giê-su quý mến cô Mác-ta, cùng hai người em là cô Ma-ri-a và anh La-da-rô.
6
Tuy
nhiên, sau khi được tin anh La-da-rô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày
tại nơi đang ở. 7 Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ: ”Nào chúng
ta cùng trở lại miền Giu-đê!” 8 Các môn đệ nói: ”Thưa Thầy, mới đây
người Do-thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?” 9 Đức
Giê-su trả lời: ”Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao? Ai đi ban ngày thì
không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời. 10 Còn ai đi ban đêm, thì
vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình!”
11
Nói
những lời này xong, Người bảo họ: ”La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc;
tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây.” 12 Các môn đệ nói với Người:
”Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khoẻ lại.” 13 Đức
Giê-su nói về cái chết của anh La-da-rô, còn họ tưởng Người nói về giấc ngủ
thường. 14 Bấy giờ Người mới nói rõ: ”La-da-rô đã chết. 15 Thầy
mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng
ta đến với anh ấy.” 16 Ông Tô-ma, gọi là Đi-đy-mô, nói với các bạn
đồng môn: ”Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!”
17
Khi
đến nơi, Đức Giê-su thấy anh La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. 18
Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem không đầy ba cây số. 19 Nhiều
người Do-thái đến chia buồn với hai cô Mác-ta và Ma-ri-a, vì em các cô mới qua
đời. 20 Vừa được tin Đức Giê-su đến, cô Mác-ta liền ra đón Người.
Còn cô Ma-ri-a thì ngồi ở nhà. 21 Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su:
”Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. 22 Nhưng bây
giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho
Thầy.” 23 Đức Giê-su nói: ”Em chị sẽ sống lại!” 24 Cô
Mác-ta thưa: ”Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau
hết.” 25 Đức Giê-su liền phán: ”Chính Thầy là sự sống lại và là sự
sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. 26 Ai sống
và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” 27 Cô
Mác-ta đáp: ”Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng
phải đến thế gian.”
28
Nói
xong, cô đi gọi em là Ma-ri-a, và nói nhỏ: ”Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy!” 29
Nghe vậy, cô Ma-ri-a vội đứng lên và đến với Đức Giê-su. 30 Lúc
đó, Người chưa vào làng, nhưng vẫn còn ở chỗ cô Mác-ta đã ra đón Người. 31
Những người Do-thái đang ở trong nhà với cô Ma-ri-a để chia buồn, thấy cô
vội vã đứng dậy đi ra, liền đi theo, tưởng rằng cô ra mộ khóc em.
32
Khi
đến gần Đức Giê-su, cô Ma-ri-a vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói:
”Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.” 33 Thấy cô
khóc, và những người Do-thái đi với cô cũng khóc, Đức Giê-su thổn thức trong
lòng và xao xuyến. 34 Người hỏi: ”Các người để xác anh ấy ở đâu?” Họ
trả lời: ”Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem.” 35 Đức Giê-su liền khóc. 36
Người Do-thái mới nói: ”Kìa xem! Ông ta thương anh La-da-rô biết mấy!” 37
Có vài người trong nhóm họ nói: ”Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không
thể làm cho anh ấy khỏi chết ư?” 38 Đức Giê-su lại thổn thức trong
lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. 39 Đức
Giê-su nói: ”Đem phiến đá này đi.” Cô Mác-ta là chị người chết liền nói: ”Thưa
Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày.” 40 Đức
Giê-su bảo: ”Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy
vinh quang của Thiên Chúa sao?” 41 Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức
Giê-su ngước mắt lên và nói: ”Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. 42
Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh
đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.” 43 Nói xong, Người
kêu lớn tiếng: ”Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!” 44 Người chết liền
ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Đức Giê-su bảo: ”Cởi khăn và
vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.”
Các
thủ lãnh Do-thái quyết định giết Đức Giê-su (Mt 26:1-5; Mc 14:1-2; Lc 22:1-2)
45
Trong
số những người Do-thái đến thăm cô Ma-ri-a và được chứng kiến việc Đức Giê-su
làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người. 46 Nhưng lại có những người đi
gặp nhóm Pha-ri-sêu và kể cho họ những gì Đức Giê-su đã làm. 47 Vậy
các thượng tế và các người Pha-ri-sêu triệu tập Thượng Hội Đồng và nói: ”Chúng
ta phải làm gì đây? Người này làm nhiều dấu lạ. 48 Nếu chúng ta cứ
để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rô-ma sẽ đến phá huỷ
cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta.” 49 Một người trong Thượng Hội
Đồng tên là Cai-pha, làm thượng tế năm ấy, nói rằng: ”Các ông không hiểu gì cả,
50 các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một
người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt.” 51 Điều
đó, ông không tự mình nói ra, nhưng vì ông là thượng tế năm ấy, nên đã nói tiên
tri là Đức Giê-su sắp phải chết thay cho dân, 52 và không chỉ thay
cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi
về một mối. 53 Từ ngày đó, họ quyết định giết Đức Giê-su. 54 Vậy
Đức Giê-su không đi lại công khai giữa người Do-thái nữa; nhưng từ nơi ấy,
Người đến một vùng gần hoang địa, tới một thành gọi là Ép-ra-im. Người ở lại đó
với các môn đệ.
6.
SỨ VỤ CÔNG KHAI CỦA ĐỨC GIÊ-SU KẾT THÚC
Lễ
Vượt Qua gần đến
55
Khi
ấy sắp đến lễ Vượt Qua của người Do-thái. Từ miền quê, nhiều người lên
Giê-ru-sa-lem để cử hành các nghi thức thanh tẩy dọn mình mừng lễ. 56 Họ
tìm Đức Giê-su và đứng trong Đền Thờ bàn tán với nhau: ”Có thể ông ấy sẽ không
lên dự lễ, các ông có nghĩ thế không?” 57 Còn các thượng tế và người
Pha-ri-sêu thì ra lệnh: ai biết được ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt.
Chương 12
Xức
dầu thơm tại Bê-ta-ni-a (Mt 26:6-13; Mc 14:3-9)
1
Sáu
ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su đến làng Bê-ta-ni-a, nơi anh La-da-rô ở. Anh
này đã được Người cho sống lại từ cõi chết. 2 Ở đó, người ta dọn bữa
ăn tối thết đãi Đức Giê-su; cô Mác-ta lo hầu bàn, còn anh La-da-rô là một trong
những kẻ cùng dự tiệc với Người. 3 Cô Ma-ri-a lấy một cân dầu thơm
cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giê-su, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà
sực mùi thơm. 4 Một trong các môn đệ của Đức Giê-su là Giu-đa
Ít-ca-ri-ốt, kẻ sẽ nộp Người, liền nói: 5 “Sao lại không bán dầu
thơm đó lấy ba trăm quan tiền mà cho người nghèo?” 6 Y nói thế,
không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền
và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung. 7 Đức
Giê-su nói: ”Hãy để cô ấy yên. Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai
táng Thầy. 8 Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng
có; còn Thầy, anh em không có mãi đâu.”
9
Một
đám đông người Do-thái biết Đức Giê-su đang ở đó. Họ tuôn đến, không phải chỉ
vì Đức Giê-su, nhưng còn để nhìn thấy anh La-da-rô, kẻ đã được Người cho sống
lại từ cõi chết. 10 Các thượng tế mới quyết định giết cả anh
La-da-rô nữa, 11 vì tại anh mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin
vào Đức Giê-su.
Đức
Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a (Mt 21:1-11; Mc 11:1-10;
Lc 19:28-38)
12
Hôm
sau, dân chúng lũ lượt tuôn đến mừng lễ. Thoạt nghe tin Đức Giê-su tới
Giê-ru-sa-lem, 13 họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò:
Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua
Ít-ra-en! 14 Đức Giê-su gặp một con lừa nhỏ, liền cỡi lên như có lời chép: 15
Hỡi thiếu nữ Xi-on, đừng sợ! Này Đức Vua của ngươi ngự đến, ngồi trên
lưng lừa con. 16 Lúc đầu, các môn đệ không hiểu những điều ấy. Nhưng
sau khi Đức Giê-su được tôn vinh, các ông mới nhớ lại là Kinh Thánh đã chép
những điều đó về Người, và dân chúng đã làm cho Người đúng y như vậy.
17
Vậy,
đám đông dân chúng làm chứng cho Đức Giê-su, họ là những người đã có mặt, khi
Đức Giê-su gọi anh La-da-rô ra khỏi mồ và làm cho anh trỗi dậy từ cõi chết. 18
Sở dĩ dân chúng đi đón Người, là vì họ nghe biết Người đã làm dấu lạ đó. 19
Bấy giờ người Pha-ri-sêu bảo nhau: ”Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm
nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!”
Đức
Giê-su loan báo Người sẽ được tôn vinh nhờ cái chết của Người
20
Trong
số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp. 21
Họ đến gặp ông Phi-líp-phê, người Bết-xai-đa, miền Ga-li-lê, và xin rằng:
”Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su.” 22 Ông Phi-líp-phê
đi nói với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức
Giê-su. 23 Đức Giê-su trả lời: ”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!
24 Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi,
thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.
25 Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng
sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. 26 Ai
phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.
Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.”
27 “Bây giờ, tâm hồn
Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng
chính vì giờ này mà con đã đến. 28 Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha.”
Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: ”Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn
vinh nữa!” 29 Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: ”Đó là tiếng
sấm!” Người khác lại bảo: ”Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!” 30 Đức
Giê-su đáp: ”Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. 31
Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế
gian này sắp bị tống ra ngoài! 32 Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi
mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” 33 Đức Giê-su nói thế để
ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
34
Vậy,
dân chúng thưa Người: ”Chúng tôi đã học biết trong sách Luật rằng: Đấng Ki-tô
phải trường tồn mãi mãi. Thế sao ông lại nói: ”Con Người phải được giương cao”
? Con Người đó là ai?” 35 Đức Giê-su bảo họ: ”Ánh sáng còn ở giữa
các ông ít lâu nữa thôi. Các ông hãy bước đi, bao lâu các ông còn có ánh sáng,
kẻo bóng tối bắt chợt các ông. Ai bước đi trong bóng tối, thì không biết mình
đi đâu. 36 Bao lâu các ông còn có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để
trở nên con cái ánh sáng.” Nói thế xong, Đức Giê-su rời nơi đó và lánh đi không
cho họ thấy.
Kết
luận: Người Do-thái cứng lòng không chịu tin
37
Người
đã làm ngần ấy dấu lạ trước mặt họ, thế mà họ vẫn không tin vào Người. 38 Như
vậy là ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a: Lạy Đức Chúa, ai đã tin lời chúng tôi
rao giảng? Và quyền lực của Đức Chúa đã được tỏ cho ai?
39
Sở
dĩ họ không thể tin là vì ngôn sứ I-sai-a còn nói: 40 Thiên Chúa đã
làm cho mắt chúng ra đui mù và lòng chúng ra chai đá, kẻo mắt chúng thấy và
lòng chúng hiểu được mà hoán cải, rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành!
41
Ngôn
sứ I-sai-a nói những lời đó, vì đã thấy vinh quang của Đức Giê-su, và ông đã
nói về Người.
42
Tuy
nhiên, ngay cả trong giới lãnh đạo Do-thái cũng có nhiều người đã tin vào Đức
Giê-su. Nhưng họ không dám xưng ra, vì sợ bị nhóm Pha-ri-sêu khai trừ khỏi hội
đường. 43 Thật thế, họ chuộng vinh quang của người phàm hơn là vinh
quang của Thiên Chúa. 44 Đức Giê-su lớn tiếng nói rằng: ”Ai tin vào
tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi; 45 ai
thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi. 46 Tôi là ánh sáng đến thế gian,
để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối. 47 Ai nghe
những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy,
vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian. 48 Ai
từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy: chính
lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết. 49 Thật vậy,
không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền
lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì. 50 Và tôi biết: mệnh lệnh của
Người là sự sống đời đời. Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha
đã nói với tôi.”
Chương 13
III.
GIỜ CỦA ĐỨC GIÊ-SULỄ VƯỢT QUA CỦA CHIÊN THIÊN CHÚA
1.
BỮA ĂN CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC GIÊ-SU VÀ CÁC MÔN ĐỆ
Đức
Giê-su rửa chân cho các môn đệ
1
Trước
lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về
với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và
Người yêu thương họ đến cùng.
2
Ma
quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Đức Giê-su.
3 Đức Giê-su biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người,
Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa, 4 nên
trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà
thắt lưng. 5 Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho
các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.
6
Vậy,
Người đến chỗ ông Si-môn Phê-rô, ông liền thưa với Người: ”Thưa Thầy! Thầy mà
lại rửa chân cho con sao?” 7 Đức Giê-su trả lời: ”Việc Thầy làm, bây
giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu.” 8 Ông Phê-rô lại
thưa: ”Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!” Đức Giê-su đáp: ”Nếu
Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy.” 9 Ông
Si-môn Phê-rô liền thưa: ”Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả
tay và đầu con nữa.” 10 Đức Giê-su bảo ông: ”Ai đã tắm rồi, thì
không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã
sạch, nhưng không phải tất cả đâu!” 11 Thật vậy, Người biết ai sẽ
nộp Người, nên mới nói: ”Không phải tất cả anh em đều sạch.”
12
Khi
rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giê-su mặc áo vào, về chỗ và nói: ”Anh em có
hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? 13 Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”,
điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. 14 Vậy, nếu
Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa
chân cho nhau. 15 Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm
như Thầy đã làm cho anh em. 16 Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ
không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. 17 Anh
em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em! 18
Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn,
nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh
lại giơ gót đạp con. 19 Thầy nói với anh em điều đó ngay từ lúc này,
trước khi sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra, anh em tin là Thầy Hằng Hữu. 20
Thật, Thầy bảo thật anh em: ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp
Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.”
Đức
Giê-su loan báo Giu-đa sẽ phản bội (Mt 26:20-25; Mc 14:17-21; Lc 22:21-23)
21
Nói
xong, Đức Giê-su cảm thấy tâm thần xao xuyến. Người tuyên bố: ”Thật, Thầy bảo
thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy.” 22 Các môn đệ
nhìn nhau, phân vân không biết Người nói về ai. 23 Trong số các môn
đệ, có một người được Đức Giê-su thương mến. Ông đang dùng bữa, đầu tựa vào
lòng Đức Giê-su. 24 Ông Si-môn Phê-rô làm hiệu cho ông ấy và bảo:
”Hỏi xem Thầy muốn nói về ai?” 25 Ông này liền nghiêng mình vào ngực
Đức Giê-su và hỏi: ”Thưa Thầy, ai vậy?” 26 Đức Giê-su trả lời: ”Thầy
chấm bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy.” Rồi Người chấm một miếng bánh, trao
cho Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt. 27 Y vừa ăn xong miếng bánh,
Xa-tan liền nhập vào y. Đức Giê-su bảo y: ”Anh làm gì thì làm mau đi!” 28 Nhưng
trong số các người đang dùng bữa, không ai hiểu tại sao Người nói với y như thế.
29 Vì Giu-đa giữ túi tiền, nên có vài người tưởng rằng Đức Giê-su
nói với y: ”Hãy mua những món cần dùng trong dịp lễ”, hoặc bảo y bố thí cho
người nghèo. 30 Sau khi ăn miếng bánh, Giu-đa liền đi ra. Lúc đó,
trời đã tối.
Những
lời cáo biệt
31
Khi
Giu-đa đi rồi, Đức Giê-su nói: ”Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa
cũng được tôn vinh nơi Người. 32 Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi
Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp
tôn vinh Người.
33
Hỡi
anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa
thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy; nhưng như Thầy đã nói với người Do-thái: ”Nơi
tôi đi, các người không thể đến được”, bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như
vậy. 34 Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu
thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. 35 Mọi
người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu
thương nhau.”
36
Ông
Si-môn Phê-rô nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?” Đức Giê-su trả
lời: ”Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi
theo.” 37 Ông Phê-rô thưa: ”Thưa Thầy, sao con lại không thể đi theo
Thầy ngay bây giờ được? Con sẽ thí mạng con vì Thầy!” 38 Đức Giê-su
đáp: ”Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy,
anh đã chối Thầy ba lần.
Chương 14
1
Anh
em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. 2 Trong
nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi
dọn chỗ cho anh em. 3 Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại
đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. 4 Và
Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.”
5
Ông
Tô-ma nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao
chúng con biết được đường?” 6 Đức Giê-su đáp: ”Chính Thầy là con
đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. 7
Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết
Người và đã thấy Người.”
8
Ông
Phi-líp-phê nói: ”Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là
chúng con mãn nguyện.” 9 Đức Giê-su trả lời: ”Thầy ở với anh em bấy
lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa
Cha. Sao anh lại nói: ”Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha” ? 10 Anh không tin
rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với
anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy,
chính Người làm những việc của mình. 11 Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở
trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc
Thầy làm. 12 Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người
đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn
nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha. 13 Và bất cứ điều gì anh em nhân
danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. 14
Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều
đó.
15
Nếu
anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. 16 Thầy sẽ
xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em
luôn mãi. 17 Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón
nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người,
vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. 18 Thầy sẽ không để
anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em. 19 Chẳng bao lâu nữa, thế gian
sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và
anh em cũng sẽ được sống. 20 Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở
trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. 21 Ai
có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến
Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình
ra cho người ấy.”
22
Ông
Giu-đa, không phải Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, tại sao
Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” 23 Đức
Giê-su đáp: ”Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người
ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. 24 Ai không yêu
mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của
Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. 25 Các điều đó, Thầy
đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. 26 Nhưng Đấng Bảo Trợ
là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi
điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.
27
Thầy
để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho
anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. 28
Anh em đã nghe Thầy bảo: ”Thầy ra đi và đến cùng anh em” . Nếu anh em yêu
mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa
Cha cao trọng hơn Thầy. 29 Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự
việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.
30
Thầy
sẽ không còn nói nhiều với anh em nữa, bởi vì Thủ lãnh thế gian đang đến. Đã
hẳn, nó không làm gì được Thầy. 31 Nhưng chuyện đó xảy ra là để cho
thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho
Thầy. Nào đứng dậy! Ta đi khỏi đây!”
Chương 15
Cây
nho thật
1 “Thầy là cây nho
thật, và Cha Thầy là người trồng nho. 2 Cành nào gắn liền với Thầy
mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì
Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn. 3 Anh em được thanh
sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em. 4 Hãy ở lại trong Thầy như
Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu
không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy.
5
Thầy
là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy,
thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. 6
Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô
héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. 7 Nếu anh em ở
lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh
em sẽ được như ý. 8 Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh
nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy.
9
Chúa
Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại
trong tình thương của Thầy. 10 Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy,
anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của
Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. 11 Các điều ấy, Thầy
đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh
em được nên trọn vẹn.
12
Đây
là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
13 Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy
sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. 14 Anh em là bạn hữu của Thầy,
nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. 15 Thầy không còn
gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh
em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh
em biết.
16
Không
phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để
anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả
những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. 17
Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.
Các
môn đệ và thế gian
18
Nếu
thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. 19 Giả
như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng
vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế
gian, nên thế gian ghét anh em. 20 Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em:
tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.
Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. 21 Nhưng
họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi
họ không biết Đấng đã sai Thầy.
22
Giả
như Thầy không đến và không nói với họ, họ đã chẳng có tội. Nhưng bây giờ, họ
không thể chữa tội được. 23 Ai ghét Thầy, thì cũng ghét Cha Thầy. 24
Giả như Thầy không làm giữa họ những việc không một ai khác đã làm, họ đã
không có tội. Nhưng nay họ thấy rồi mà vẫn ghét cả Thầy lẫn Cha Thầy. 25 Như
thế là ứng nghiệm lời đã viết trong Sách Luật của họ: Chúng ghét con vô cớ.
26
Khi
Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là
Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. 27 Cả
anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu.
Chương 16
1
Thầy
đã nói với anh em các điều ấy, để anh em khỏi bị vấp ngã. 2 Họ sẽ
khai trừ anh em khỏi hội đường. Hơn nữa, sẽ đến giờ kẻ nào giết anh em cũng
tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa. 3 Họ sẽ làm như thế, bởi vì họ
không biết Chúa Cha cũng chẳng biết Thầy.
Đấng
Bảo Trợ sẽ đến
4
Nhưng
Thầy đã nói với anh em những điều ấy, để khi đến giờ họ hành động, anh em nhớ
lại là Thầy đã nói với anh em rồi.
5
Bây
giờ Thầy đến cùng Đấng đã sai Thầy, và không ai trong anh em hỏi: ”Thầy đi đâu?
6 Nhưng vì Thầy nói ra các điều ấy, nên lòng anh em tràn ngập ưu phiền. 7 Song,
Thầy nói thật với anh em: Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy
không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ
sai Đấng ấy đến với anh em. 8 Khi Người đến, Người sẽ chứng minh
rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và việc xét xử: 9 về
tội lỗi: vì chúng không tin vào Thầy; 10 về sự công chính: vì Thầy
đến cùng Chúa Cha, và anh em không còn thấy Thầy nữa; 11 về việc xét
xử: vì Thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử rồi.
12
Thầy
còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi.
13 Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật
toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe,
Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. 14 Người
sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em. 15
Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Người lấy những
gì của Thầy mà loan báo cho anh em.
Đức
Giê-su loan báo Người sẽ mau trở lại
16 “Ít lâu nữa, anh em
sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy.”
17
Bấy
giờ vài người trong nhóm môn đệ của Đức Giê-su hỏi nhau: ”Người muốn nói gì khi
bảo chúng ta: ”Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh
em sẽ lại thấy Thầy” và “Thầy đến cùng Chúa Cha” ?” 18 Vậy các ông
nói: ”“ Ít lâu nữa” nghĩa là gì? Chúng ta không hiểu Người nói gì!” 19 Đức
Giê-su biết là các ông muốn hỏi mình, nên bảo các ông: ”Anh em bàn luận với
nhau về lời Thầy nói: ”Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu
nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy” . 20 Thật, Thầy bảo thật anh em: anh
em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng
nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui. 21 Khi sinh con, người
đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến
cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong
thế gian. 22 Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ
gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy
mất được. 23 Ngày ấy, anh em không còn phải hỏi Thầy gì nữa. Thật,
Thầy bảo thật anh em: anh em mà xin Chúa Cha điều gì, thì Người sẽ ban cho anh
em nhân danh Thầy. 24 Cho đến nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh
Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn.
25
Thầy
đã dùng dụ ngôn mà nói những điều ấy với anh em. Sẽ đến giờ Thầy không còn dùng
dụ ngôn mà nói với anh em nữa, nhưng Thầy sẽ nói rõ cho anh em về Chúa Cha,
không còn úp mở. 26 Ngày ấy, anh em sẽ nhân danh Thầy mà xin, và
Thầy không nói với anh em là Thầy sẽ cầu xin Chúa Cha cho anh em. 27 Thật
vậy, chính Chúa Cha yêu mến anh em, vì anh em đã yêu mến Thầy, và tin rằng Thầy
từ Thiên Chúa mà đến. 28 Thầy từ Chúa Cha mà đến và Thầy đã đến thế
gian. Thầy lại bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha.”
29
Các
môn đệ Người thưa: ”Đấy, bây giờ Thầy nói rõ, chứ không còn dùng dụ ngôn nào
nữa. 30 Giờ đây, chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi sự, và Thầy
không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến.”
31 Đức Giê-su đáp: ”Bây giờ anh em tin à? 32 Này đến giờ-và giờ ấy
đã đến rồi- anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô độc một mình.
Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy. 33 Thầy nói với
anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em
sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian.”
Chương 17
Lời
cầu nguyện của Đức Giê-su
1
Nói
thế xong, Đức Giê-su ngước mắt lên trời và cầu nguyện: ”Lạy Cha, giờ đã đến!
Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. 2 Thật vậy, Cha đã
ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất
cả những ai Cha đã ban cho Người. 3 Mà sự sống đời đời đó là họ nhận
biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến,
là Giê-su Ki-tô.
4
Phần
con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho
con làm. 5 Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha: xin
ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian. 6
Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho họ biết
danh Cha. Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ đã tuân giữ lời Cha. 7
Giờ đây, họ biết rằng tất cả những gì Cha ban cho con đều do bởi Cha, 8
vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con; họ đã nhận những lời ấy,
họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đã tin là Cha đã sai con.
9
Con
cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã
ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha. 10 Tất cả những gì của con đều
là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của con; và con được tôn vinh nơi họ.
11 Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế
gian; phần con, con đến cùng Cha.
12
Khi
còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã
canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng
nghiệm lời Kinh Thánh. 13 Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói
những điều này lúc còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con. 14
Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không
thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian. 15 Con
không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. 16
Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. 17
Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. 18 Như
Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. 19 Vì
họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.
20
Con
không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà
tin vào con, 21 để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở
trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai
con. 22 Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho
con, để họ được nên một như chúng ta là một: 23 Con ở trong họ và
Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết
là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con.
24
Lạy
Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với
con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con,
vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành. 25 Lạy
Cha là Đấng công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng con, con đã biết Cha,
và những người này đã biết là chính Cha đã sai con. 26 Con đã cho họ
biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở
trong họ, và con cũng ở trong họ nữa.”
Chương 18
2.
CUỘC THƯƠNG KHÓ
Đức
Giê-su bị bắt giữ (Mt 26:47-56; Mc 14:43-50; Lc 22:47-53)
1
Sau
khi nói những lời đó, Đức Giê-su đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối
Kít-rôn. Ở đó, có một thửa vườn, Người cùng với các môn đệ đi vào. 2 Giu-đa,
kẻ nộp Người, cũng biết nơi này, vì Người thường tụ họp ở đó với các môn đệ. 3
Vậy, Giu-đa tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng tế
và nhóm Pha-ri-sêu; họ mang theo đèn đuốc và khí giới. 4 Đức Giê-su
biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi: ”Các anh tìm ai?” 5
Họ đáp: ”Tìm Giê-su Na-da-rét.” Người nói: ”Chính tôi đây.” Giu-đa, kẻ
nộp Người, cũng đứng chung với họ. 6 Khi Người vừa nói: ”Chính tôi
đây”, thì họ lùi lại và ngã xuống đất. 7 Người lại hỏi một lần nữa:
”Các anh tìm ai?” Họ đáp: ”Tìm Giê-su Na-da-rét.” 8 Đức Giê-su nói:
”Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để
cho những người này đi.” 9 Thế là ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã nói:
”Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai.”
10
Ông
Si-môn Phê-rô có sẵn một thanh gươm, bèn tuốt ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế,
mà chém đứt tai phải của y. Người đầy tớ ấy tên là Man-khô. 11 Đức
Giê-su nói với ông Phê-rô: ”Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho
Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?”
Đức
Giê-su bị điệu ra trước các ông Kha-nan và Cai-pha. Ông Phê-rô chối Thầy (Mt 26:57-58,
69-75; Mc 14:53-54, 66-72; Lc 22:54-62)
12
Bấy
giờ toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người Do-thái bắt Đức
Giê-su và trói Người lại. 13 Trước tiên, họ điệu Đức Giê-su đến ông
Kha-nan là nhạc phụ ông Cai-pha. Ông Cai-pha làm thượng tế năm đó. 14 Chính
ông này đã đề nghị với người Do-thái là nên để một người chết thay cho dân thì
hơn.
15
Ông
Si-môn Phê-rô và một môn đệ khác đi theo Đức Giê-su. Người môn đệ này quen biết
vị thượng tế, nên cùng với Đức Giê-su vào sân trong của tư dinh vị thượng tế. 16
Còn ông Phê-rô đứng ở phía ngoài, gần cổng. Người môn đệ kia quen biết vị
thượng tế ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phê-rô vào. 17 Người
tớ gái giữ cổng nói với ông Phê-rô: ”Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ
của người ấy sao?” Ông liền đáp: ”Đâu phải.” 18 Vì trời lạnh, các
đầy tớ và thuộc hạ đốt than và đứng sưởi ở đó; ông Phê-rô cũng đứng sưởi với họ.
19 Vị thượng tế tra hỏi Đức Giê-su về các môn đệ và giáo huấn của
Người. 20 Đức Giê-su trả lời: ”Tôi đã nói công khai trước mặt thiên
hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do-thái tụ
họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. 21 Sao ông lại hỏi tôi? Điều
tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì.” 22
Đức Giê-su vừa dứt lời, thì một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào
mặt Người mà nói: ”Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?” 23 Đức
Giê-su đáp: ”Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói
phải, sao anh lại đánh tôi?” 24 Ông Kha-nan cho giải Người đến
thượng tế Cai-pha, Người vẫn bị trói.
25
Còn
ông Si-môn Phê-rô thì vẫn đứng sưởi ở đó. Người ta nói với ông: ”Cả bác nữa,
bác không thuộc nhóm môn đệ của ông ấy sao?” Ông liền chối: ”Đâu phải.” 26
Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ với người bị ông Phê-rô chém
đứt tai, lên tiếng hỏi: ”Tôi đã chẳng thấy bác ở trong vườn với ông ấy sao?” 27
Một lần nữa ông Phê-rô lại chối, và ngay lúc ấy gà liền gáy.
Đức
Giê-su bị điệu ra trước tổng trấn Phi-la-tô (Mt 27:1-2, 11-30; Mc 15:1-19; Lc 23:1-5,
13-23)
28
Vậy,
người Do-thái điệu Đức Giê-su từ nhà ông Cai-pha đến dinh tổng trấn. Lúc đó
trời vừa sáng. Nhưng họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua
được. 29 Vì thế, tổng trấn Phi-la-tô ra ngoài gặp họ và hỏi: ”Các
người tố cáo ông này về tội gì?” 30 Họ đáp: ”Nếu ông này không làm
điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan.” 31 Ông Phi-la-tô
bảo họ: ”Các người cứ đem ông ta đi mà xét xử theo luật của các người.” Người
Do-thái đáp: ”Chúng tôi không có quyền xử tử ai cả.” 32 Thế là ứng
nghiệm lời Đức Giê-su đã nói, khi ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
33
Ông
Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su và nói với Người: ”Ông có phải là
vua dân Do-thái không?” 34 Đức Giê-su đáp: ”Ngài tự ý nói điều ấy,
hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” 35 Ông Phi-la-tô trả
lời: ”Tôi là người Do-thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông
cho tôi. Ông đã làm gì?” 36 Đức Giê-su trả lời: ”Nước tôi không
thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã
chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không
thuộc chốn này.” 37 Ông Phi-la-tô liền hỏi: ”Vậy ông là vua sao?”
Đức Giê-su đáp: ”Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế
gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe
tiếng tôi.” 38 Ông Phi-la-tô nói với Người: ”Sự thật là gì?”
39
Theo
tục lệ của các người, vào dịp lễ Vượt Qua, ta thường tha một người nào đó cho
các người. Vậy các người có muốn ta tha vua dân Do-thái cho các người không?” 40
Họ lại la lên rằng: ”Đừng tha nó, nhưng xin tha Ba-ra-ba!” Mà Ba-ra-ba là
một tên cướp.
Chương 19
1
Bấy
giờ ông Phi-la-tô truyền đem Đức Giê-su đi và đánh đòn Người. 2 Bọn
lính kết một vòng gai làm vương miện, đặt lên đầu Người, và khoác cho Người một
áo choàng đỏ. 3 Họ đến gần và nói: ”Kính chào Vua dân Do-thái!”, rồi
vả vào mặt Người.
4
Ông
Phi-la-tô lại ra ngoài và nói với người Do-thái: ”Đây ta dẫn ông ấy ra ngoài
cho các người, để các người biết là ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy.”
5 Vậy, Đức Giê-su bước ra ngoài, đầu đội vương miện bằng gai, mình
khoác áo choàng đỏ. Ông Phi-la-tô nói với họ: ”Đây là người!” 6 Khi
vừa thấy Đức Giê-su, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng: ”Đóng
đinh, đóng đinh nó vào thập giá!” Ông Phi-la-tô bảo họ: ”Các người cứ đem ông
này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết
tội ông ấy.” 7 Người Do-thái đáp lại: ”Chúng tôi có Lề Luật; và
chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa.”
8
Nghe
lời đó, ông Phi-la-tô càng sợ hơn nữa. 9 Ông lại trở vào dinh và nói
với Đức Giê-su: ”Ông từ đâu mà đến?” Nhưng Đức Giê-su không trả lời. 10 Ông
Phi-la-tô mới nói với Người: ”Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi
có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?” 11 Đức
Giê-su đáp lại: ”Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho
ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn.”
Đức
Giê-su bị kết án tử hình
12
Từ
đó, ông Phi-la-tô tìm cách tha Người. Nhưng dân Do-thái kêu lên rằng: ”Nếu ngài
tha nó, ngài không phải là bạn của Xê-da. Ai xưng mình là vua, thì chống lại
Xê-da.” 13 Khi nghe thấy thế, ông Phi-la-tô truyền dẫn Đức Giê-su ra
ngoài. Ông đặt Người ngồi trên toà, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng Híp-ri là
Gáp-ba-tha. 14 Hôm ấy là ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai
giờ trưa. Ông Phi-la-tô nói với người Do-thái: ”Đây là vua các người!” 15 Họ
liền hô lớn: ”Đem đi! Đem nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!” Ông Phi-la-tô nói
với họ: ”Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao?” Các thượng tế đáp:
”Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xê-da.” 16 Bấy giờ ông
Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho họ đóng đinh vào thập giá.
Đức
Giê-su chịu đóng đinh vào thập giá (Mt 27:33-38; Mc 15:22-26; Lc 23:33-38)
17
Chính
Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Híp-ri là Gôn-gô-tha;
18 tại đó, họ đóng đinh Người vào thập giá, đồng thời cũng đóng đinh
hai người khác nữa, mỗi người một bên, còn Đức Giê-su thì ở giữa. 19 Ông
Phi-la-tô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá; bảng đó có ghi: ”Giê-su
Na-da-rét, Vua dân Do-thái.” 20 Trong dân Do-thái, có nhiều người
đọc được bảng đó, vì nơi Đức Giê-su bị đóng đinh là một địa điểm ở gần thành.
Tấm bảng này viết bằng các tiếng: Híp-ri, La-tinh và Hy-lạp. 21 Các
thượng tế của người Do-thái nói với ông Phi-la-tô: ”Xin ngài đừng viết: ”Vua
dân Do-thái”, nhưng viết: ”Tên này đã nói: Ta là Vua dân Do-thái” .” 22 Ông
Phi-la-tô trả lời: ”Ta viết sao, cứ để vậy!”
Lính
tráng chia nhau áo xống của Đức Giê-su (Mt 27:35; Mc 15:24; Lc 23:34 b)
23
Đóng
đinh Đức Giê-su vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm
bốn phần, mỗi người một phần; họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài
này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. 24 Vậy họ nói
với nhau: ”Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được.” Thế là ứng nghiệm lời Kinh
Thánh: Áo xống tôi, chúng đem chia chác, cả áo dài, cũng bắt thăm luôn. Đó là
những điều lính tráng đã làm.
27
25
Đứng
gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông
Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. 26 Khi thấy thân mẫu và
môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: ”Thưa
Bà, đây là con của Bà.” 27 Rồi Người nói với môn đệ: ”Đây là mẹ của
anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.
27
28
Sau
đó, Đức Giê-su biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh,
Người nói: ”Tôi khát!” 29 Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy
miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên
miệng Người. 30 Nhắp xong, Đức Giê-su nói: ”Thế là đã hoàn tất!” Rồi
Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.
Đức
Giê-su bị lưỡi đòng đâm thâu
31
Hôm
đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày
sa-bát, mà ngày sa-bát đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Phi-la-tô cho
đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. 32 Quân
lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh
với Đức Giê-su. 33 Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không
đánh giập ống chân Người. 34 Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào
cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. 35 Người xem thấy
việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết
mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin. 36 Các việc này đã
xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị
đánh giập. 37 Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã
đâm thâu.
Đức
Giê-su được mai táng (Mt 27:57-60; Mc 15:42-46; Lc 23:50-54)
38
Sau
đó, ông Giô-xếp, người A-ri-ma-thê, xin ông Phi-la-tô cho phép hạ thi hài Đức
Giê-su xuống. Ông Giô-xếp này là một môn đệ theo Đức Giê-su, nhưng cách kín
đáo, vì sợ người Do-thái. Ông Phi-la-tô chấp thuận. Vậy, ông Giô-xếp đến hạ thi
hài Người xuống. 39 Ông Ni-cô-đê-mô cũng đến. Ông này trước kia đã
tới gặp Đức Giê-su ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với
trầm hương. 40 Các ông lãnh thi hài Đức Giê-su, lấy băng vải tẩm
thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do-thái. 41 Nơi Đức
Giê-su bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới,
chưa chôn cất ai. 42 Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do-thái, mà
ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giê-su ở đó.
Chương 20
3.
NGÀY PHỤC SINH
Ngôi
mộ trống (Mt 28:1-8; Mc 16:1-8; Lc 24:1-11)
1
Sáng
sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ,
thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. 2 Bà liền chạy về gặp ông Si-môn
Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: ”Người ta đã đem Chúa đi
khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.”
3
Ông
Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. 4 Cả hai người cùng chạy. Nhưng
môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. 5 Ông cúi
xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. 6 Ông
Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng
vải để ở đó, 7 và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với
các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. 8 Bấy giờ người
môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. 9 Thật
vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi
dậy từ cõi chết. 10 Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà.
Đức
Giê-su hiện ra với bà Ma-ri-a Mác-đa-la (Mt 28:9-10; Mc 16:9-11)
11
Bà
Ma-ri-a Mác-đa-la đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống
nhìn vào trong mộ, 12 thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở
nơi đã đặt thi hài của Đức Giê-su, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. 13
Thiên thần hỏi bà: ”Này bà, sao bà khóc?” Bà thưa: ”Người ta đã lấy mất
Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!” 14 Nói xong, bà
quay lại và thấy Đức Giê-su đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giê-su. 15
Đức Giê-su nói với bà: ”Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?” Bà Ma-ri-a tưởng
là người làm vườn, liền nói: ”Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói
cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” 16 Đức Giê-su
gọi bà: ”Ma-ri-a!” Bà quay lại và nói bằng tiếng Híp-ri: ”Ráp-bu-ni!” (nghĩa là
“Lạy Thầy” ). 17 Đức Giê-su bảo: ”Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy
chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: ”Thầy lên cùng
Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là
Thiên Chúa của anh em” .” 18 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi báo cho các môn
đệ: ”Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.
Đức
Giê-su hiện ra với các môn đệ (Mt 28:16-20; Mc 16:14-18; Lc 24:36-49)
19
Vào
chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng
kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói:
”Bình an cho anh em!” 20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh
sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 21 Người lại nói với
các ông: ”Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh
em.” 22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: ”Anh em hãy
nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được
tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”
24
Một
người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các
ông khi Đức Giê-su đến. 25 Các môn đệ khác nói với ông: ”Chúng tôi
đã được thấy Chúa!” Ông Tô-ma đáp: ”Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người,
nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người,
tôi chẳng có tin.” 26 Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt
trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su
đến, đứng giữa các ông và nói: ”Bình an cho anh em.” 27 Rồi Người
bảo ông Tô-ma: ”Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà
đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” 28 Ông
Tô-ma thưa Người: ”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” 29 Đức
Giê-su bảo: ”Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà
tin!”
4.
KẾT LUẬN THỨ NHẤT
30
Đức
Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó
không được ghi chép trong sách này. 31 Còn những điều đã được chép ở
đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh
em tin mà được sự sống nhờ danh Người.
Chương 21
IV.
ĐOẠN CUỐI
Đức
Giê-su hiện ra ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a
1
Sau
đó, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ
mình ra như thế này. 2 Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô,
ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai
môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. 3 Ông Si-môn Phê-rô nói với
các ông: ”Tôi đi đánh cá đây.” Các ông đáp: ”Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi
mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
4
Khi
trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó
chính là Đức Giê-su. 5 Người nói với các ông: ”Này các chú, không có
gì ăn ư?” Các ông trả lời: ”Thưa không.” 6 Người bảo các ông: ”Cứ
thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới
xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. 7 Người
môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô: ”Chúa đó!” Vừa nghe
nói”Chúa đó!”, ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy
xuống biển. 8 Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy
cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
9
Bước
lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa.
10 Đức Giê-su bảo các ông: ”Đem ít cá mới bắt được tới đây!” 11
Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn,
đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. 12
Đức Giê-su nói: ”Anh em đến mà ăn!” Không ai trong các môn đệ dám hỏi”Ông
là ai?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. 13 Đức Giê-su đến, cầm lấy
bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy. 14 Đó là lần
thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
15
Khi
các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô: ”Này anh Si-môn, con ông
Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Ông đáp: ”Thưa Thầy có, Thầy
biết con yêu mến Thầy.” Đức Giê-su nói với ông: ”Hãy chăm sóc chiên con của
Thầy.” 16 Người lại hỏi: ”Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến
Thầy không?” Ông đáp: ”Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Người nói:
”Hãy chăn dắt chiên của Thầy.” 17 Người hỏi lần thứ ba: ”Này anh
Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không?” Ông Phê-rô buồn vì Người
hỏi tới ba lần: ”Anh có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: ”Thưa Thầy, Thầy biết rõ
mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giê-su bảo: ”Hãy chăm sóc chiên của
Thầy. 18 Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình
thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra
cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” 19 Người
nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi,
Người bảo ông: ”Hãy theo Thầy.”
20
Ông
Phê-rô quay lại, thì thấy người môn đệ Đức Giê-su thương mến đi theo sau; ông
này là người đã nghiêng mình vào ngực Đức Giê-su trong bữa ăn tối và hỏi: ”Thưa
Thầy, ai là kẻ nộp Thầy?” 21 Vậy khi thấy người đó, ông Phê-rô nói
với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, còn anh này thì sao?” 22 Đức Giê-su đáp:
”Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh?
Phần anh, hãy theo Thầy.” 23 Do đó, mới có tiếng đồn giữa anh em là
môn đệ ấy sẽ không chết. Nhưng Đức Giê-su đã không nói với ông Phê-rô là: ”Anh
ấy sẽ không chết”, mà chỉ nói: ”Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi
Thầy đến, thì việc gì đến anh?”
Kết
luận
24
Chính
môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời
chứng của người ấy là xác thực.
25
Còn
có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết
nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.
Các Sách Khác
Công Vụ Tông
Đồ
Chương 1
Lời
tựa
1
Thưa
ngài Thê-ô-phi-lô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc
Đức Giê-su làm và những điều Người dạy, kể từ đầu 2 cho tới ngày Người được
rước lên trời. Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển
chọn nhờ Thánh Thần. 3 Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho
các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày,
Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. 4 Một
hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giê-su truyền cho các ông không
được rời khỏi Giê-ru-sa-lem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã
hứa,”điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, 5 đó là: ông Gio-an thì
làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong
Thánh Thần.”
Thăng
thiên
6
Bấy
giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: ”Thưa Thầy, có phải bây giờ là
lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” 7 Người đáp: ”Anh em
không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, 8 nhưng
anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em.
Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền
Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.”
9
Nói
xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người,
khiến các ông không còn thấy Người nữa. 10 Và đang lúc các ông còn
đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng
đứng bên cạnh 11 và nói: ”Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời?
Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y
như các ông đã thấy Người lên trời.”
I.
HỘI THÁNH TẠI GIÊ-RU-SA-LEM
Nhóm
các Tông Đồ
12
Bấy
giờ các ông từ núi gọi là núi Ô-liu trở về Giê-ru-sa-lem. Núi này ở gần
Giê-ru-sa-lem, cách đoạn đường được phép đi trong ngày sa-bát. 13 Trở
về nhà, các ông lên lầu trên, là nơi các ông trú ngụ. Đó là các ông: Phê-rô,
Gio-an, Gia-cô-bê, An-rê, Phi-líp-phê, Tô-ma, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu,
Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và Giu-đa con ông
Gia-cô-bê. 14 Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu
nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với
anh em của Đức Giê-su.
Chọn
ông Mát-thi-a thay thế ông Giu-đa
15
Trong
những ngày ấy, ông Phê-rô đứng lên giữa các anh em- có khoảng một trăm hai mươi
người đang họp mặt- Ông nói: 16 “Thưa anh em, lời Kinh Thánh phải ứng
nghiệm, lời mà Thánh Thần đã dùng miệng vua Đa-vít để nói trước về Giu-đa, kẻ
đã trở thành tên dẫn đường cho những người bắt Đức Giê-su. 17 Y đã
là một người trong số chúng tôi và được tham dự vào công việc phục vụ của chúng
tôi. 18 Vậy, con người ấy đã dùng tiền công của tội ác mà tậu một
thửa đất; y đã ngã lộn đầu xuống, vỡ bụng, lòi cả ruột gan ra. 19 Điều
đó, mọi người ở Giê-ru-sa-lem đều biết, khiến họ đặt tên cho thửa đất ấy là
Kha-ken-đơ-ma, theo tiếng của họ nghĩa là Đất Máu. 20 Thật thế,
trong sách Thánh vịnh có chép rằng:
Ước
gì lều trại nó phải tan hoang,
không
còn ai trú ngụ.
và
ước gì người khác nhận lấy chức vụ của nó.
21 “Vậy phải làm thế
này: có những anh em đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giê-su suốt thời gian Người
sống giữa chúng ta, 22 kể từ khi Người được ông Gio-an làm phép rửa
cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời. Một trong những anh
em đó phải cùng với chúng tôi làm chứng rằng Người đã phục sinh.”
23
Họ
đề cử hai người: ông Giô-xếp, biệt danh là Ba-sa-ba, cũng gọi là Giút-tô, và
ông Mát-thi-a. 24 Họ cầu nguyện rằng: ”Lạy Chúa, chính Chúa thấu
suốt lòng mọi người; giữa hai người này, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai 25 để
nhận chỗ trong sứ vụ Tông Đồ, chỗ Giu-đa đã bỏ để đi về nơi dành cho y.” 26
Họ rút thăm, thăm trúng ông Mát-thi-a: ông được kể thêm vào số mười một
Tông Đồ.
Chương 2
Ngày
lễ Ngũ Tuần
1
Khi
đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, 2 bỗng từ
trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ
đang tụ họp. 3 Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi
lửa tản ra đậu xuống từng người một. 4 Và ai nấy đều được tràn đầy
ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần
ban cho.
5
Lúc
đó, tại Giê-ru-sa-lem, có những người Do-thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở
về. 6 Nghe tiếng ấy, có nhiều người kéo đến. Họ kinh ngạc vì ai nấy
đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. 7 Họ sửng sốt, thán phục
và nói: ”Những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê cả ư? 8 Thế sao
mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta? 9 Chúng ta đây, có
người là dân Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a,
Pon-tô, và A-xi-a, 10 có người là dân Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a,
Ai-cập, và những vùng Li-by-a giáp giới Ky-rê-nê; nào là những người từ Rô-ma
đến đây; 11 nào là người Do-thái cũng như người đạo theo; nào là
người đảo Cơ-rê-ta hay người Ả-rập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói
của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!”12 Ai nấy đều sửng sốt và
phân vân, họ bảo nhau: ”Thế nghĩa là gì?” 13 Nhưng người khác lại
chế nhạo: ”Mấy ông này say bứ rồi!”
Ông
Phê-rô giảng cho dân chúng
14
Bấy
giờ, ông Phê-rô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với họ rằng: ”Thưa
anh em miền Giu-đê và tất cả những người đang cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, xin
biết cho điều này, và lắng nghe những lời tôi nói đây. 15 Không,
những người này không say rượu như anh em nghĩ, vì bây giờ mới là giờ thứ ba. 16
Nhưng đó là điều đã được ngôn sứ Giô-en nói đến: 17 Thiên Chúa
phán: Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người
phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ thấy thị
kiến, bô lão sẽ được báo mộng. 18 Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ
Thần Khí Ta cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ. 19
Ta sẽ cho xuất hiện những điềm thiêng trên trời cao, và những dấu lạ dưới
đất thấp, đó là máu, lửa và những cột khói. 20 Mặt trời sẽ trở nên
tối tăm, mặt trăng hoá thành máu, trước khi ngày của Đức Chúa đến, ngày vĩ đại,
vinh quang. 21 Bấy giờ hết những ai kêu cầu danh Đức Chúa, sẽ được
ơn cứu độ.
22 “Thưa đồng bào
Ít-ra-en, xin nghe những lời sau đây. Đức Giê-su Na-da-rét, là người đã được
Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa
đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh
em biết điều đó. 23 Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước,
Đức Giê-su ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào
thập giá mà giết đi. 24 Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại,
giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào
khống chế được Người mãi. 25 Quả vậy, vua Đa-vít đã nói về Người
rằng: Tôi luôn nhìn thấy Đức Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu, để tôi
chẳng nao lòng. 26 Bởi thế tâm hồn con mừng rỡ, và miệng lưỡi hân
hoan, cả thân xác con cũng nghỉ ngơi trong niềm hy vọng. 27 Vì Chúa
chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài
phải hư nát. 28 Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con
được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan.
29 “Thưa anh em, xin
được phép mạnh dạn nói với anh em về tổ phụ Đa-vít rằng: người đã chết và được
mai táng, và mộ của người còn ở giữa chúng ta cho đến ngày nay. 30 Nhưng
vì là ngôn sứ và biết rằng Thiên Chúa đã thề với người là sẽ đặt một người
trong dòng dõi trên ngai vàng của người, 31 nên người đã thấy trước
và loan báo sự phục sinh của Đức Ki-tô khi nói: Người đã không bị bỏ mặc trong
cõi âm ty và thân xác Người không phải hư nát. 32 Chính Đức Giê-su
đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng.
33 Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người
Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy đang nghe. 34
Thật vậy, vua Đa-vít đã chẳng lên trời, thế mà lại nói: Đức Chúa phán
cùng Chúa Thượng tôi: Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, 35 để rồi
bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân Con. 36 Vậy toàn thể nhà
Ít-ra-en phải biết chắc điều này: Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá,
Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô.”
Những
người trở lại đầu tiên
37
Nghe
thế, họ đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phê-rô cùng các Tông Đồ khác: ”Thưa các
anh, vậy chúng tôi phải làm gì?” 38 Ông Phê-rô đáp: ”Anh em hãy sám
hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn tha
tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. 39 Thật vậy, đó là
điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con cháu anh em và tất cả những
người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi.” 40
Ông Phê-rô còn dùng nhiều lời khác để long trọng làm chứng và khuyên nhủ
họ. Ông nói: ”Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này để được cứu độ.” 41 Vậy
những ai đã đón nhận lời ông, đều chịu phép rửa. Và hôm ấy đã có thêm khoảng ba
ngàn người theo đạo.
Cộng
đoàn tín hữu đầu tiên
42
Các
tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau,
siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng.
43
Mọi
người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ.
44
Tất
cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. 45 Họ
đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu.
46
Họ
đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư
gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. 47 Họ ca tụng Thiên Chúa,
và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người
được cứu độ.
Chương 3
Ông
Phê-rô chữa một người què
1
Một
hôm, ông Phê-rô và ông Gio-an lên Đền Thờ, vào buổi cầu nguyện giờ thứ chín. 2
Khi ấy, người ta khiêng đến một người què từ khi lọt lòng mẹ. Ngày ngày
họ đặt anh ta bên cửa Đền Thờ gọi là Cửa Đẹp, để xin kẻ ra vào Đền Thờ bố thí. 3
Vừa thấy ông Phê-rô và ông Gio-an sắp vào Đền Thờ, anh liền xin bố thí. 4
Hai ông nhìn thẳng vào anh, và ông Phê-rô nói: ”Anh nhìn chúng tôi đây!”5
Anh ta chăm chú nhìn hai ông, tưởng rằng sẽ được cái gì. 6 Bấy giờ
ông Phê-rô nói: ”Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây:
nhân danh Đức Giê-su Ki-tô người Na-da-rét, anh đứng dậy mà đi!”7 Rồi ông nắm
chặt lấy tay mặt anh, kéo anh chỗi dậy. Lập tức bàn chân và xương mắt cá của
anh trở nên cứng cáp. 8 Anh đứng phắt dậy, đi lại được; rồi cùng với
hai ông, anh vào Đền Thờ, vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa. 9 Toàn
dân thấy anh đi lại và ca tụng Thiên Chúa. 10 Và khi nhận ra anh
chính là người vẫn ngồi ăn xin tại Cửa Đẹp Đền Thờ, họ kinh ngạc sững sờ về sự
việc mới xảy đến cho anh.
Ông
Phê-rô giảng cho dân chúng
11
Anh
cứ níu lấy ông Phê-rô và ông Gio-an, nên toàn dân rất kinh ngạc, chạy ùa tới
các ông tại hành lang gọi là hành lang Sa-lô-môn. 12 Thấy vậy, ông
Phê-rô lên tiếng nói với dân: ”Thưa đồng bào Ít-ra-en, sao lại ngạc nhiên về
điều đó, sao lại nhìn chúng tôi chằm chằm, như thể chúng tôi đã làm cho người
này đi lại được, nhờ quyền năng riêng hay lòng đạo đức của chúng tôi? 13 Thiên
Chúa của các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, Thiên Chúa của cha ông chúng
ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giê-su, Đấng mà chính anh em đã nộp
và chối bỏ trước mặt quan Phi-la-tô, dù quan ấy xét là phải tha. 14 Anh
em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát
nhân. 15 Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã
làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng. 16
Chính nhờ lòng tin vào danh Người, mà danh Người đã làm cho kẻ anh em
nhìn và biết đây trở nên cứng cáp; chính lòng tin Người ban đã cho anh này được
khỏi hẳn như thế, ngay trước mắt tất cả anh em.
17 “Thưa anh em, giờ đây
tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh
em. 18 Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người
dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Ki-tô của Người phải
chịu khổ hình. 19 Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa,
để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em. 20 Như vậy thời kỳ an lạc mà Đức
Chúa ban cho anh em sẽ đến, khi Người sai Đấng Ki-tô Người đã dành cho anh em,
là Đức Giê-su. 21 Đức Giê-su còn phải được giữ lại trên trời, cho
đến thời phục hồi vạn vật, thời mà Thiên Chúa đã dùng miệng các vị thánh ngôn
sứ của Người mà loan báo tự ngàn xưa. 22 Thật vậy, ông Mô-sê đã nói:
Từ giữa đồng bào của anh em, Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em sẽ cho trỗi dậy
một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; tất cả những gì vị ấy nói với anh em, anh
em hãy nghe. 23 Kẻ nào mà không nghe ngôn sứ ấy, thì sẽ bị diệt trừ
khỏi dân. 24 Sau đó, mọi ngôn sứ, kể từ ông Sa-mu-en đến các vị kế
tiếp, khi lên tiếng thì cũng đã loan báo những ngày chúng ta đang sống.
25 “Phần anh em, anh em
là con cháu của các ngôn sứ và của giao ước mà Thiên Chúa đã lập với cha ông
anh em, khi Người phán với ông Áp-ra-ham: Nhờ dòng dõi ngươi, mọi gia tộc trên
mặt đất sẽ được chúc phúc. 26 Thiên Chúa đã cho Tôi Trung của Người
trỗi dậy để giúp anh em trước tiên, và sai đi chúc phúc cho anh em, bằng cách
làm cho mỗi người trong anh em lìa bỏ những tội ác của mình.”
Chương 4
Ông
Phê-rô và ông Gio-an ra trước Thượng Hội Đồng
1
Hai
ông còn đang nói với dân, thì có các tư tế, viên lãnh binh Đền Thờ, và các
người thuộc nhóm Xa-đốc kéo đến. 2 Họ bực tức vì các ông giảng dạy
cho dân và dựa vào trường hợp Đức Giê-su mà loan báo kẻ chết sẽ sống lại. 3
Họ bắt hai ông và tống ngục cho đến ngày hôm sau, vì trời đã về chiều. 4
Nhưng trong đám người nghe lời giảng, có nhiều kẻ đã tin theo, chỉ riêng
số đàn ông đã lên đến chừng năm ngàn.
5
Hôm
sau, các thủ lãnh Do-thái, các kỳ mục và kinh sư họp nhau tại Giê-ru-sa-lem. 6
Có cả thượng tế Kha-nan, các ông Cai-pha, Gio-an, A-lê-xan-đê và mọi
người trong dòng họ thượng tế. 7 Họ cho điệu hai Tông Đồ ra giữa hội
đồng và tra hỏi: ”Nhờ quyền năng nào hay nhân danh ai mà các ông làm điều ấy?” 8
Bấy giờ, ông Phê-rô được đầy Thánh Thần, liền nói với họ: ”Thưa quý vị
thủ lãnh trong dân và quý vị kỳ mục, 9 hôm nay chúng tôi bị thẩm vấn
về việc lành chúng tôi đã làm cho một người tàn tật, về cách thức người ấy đã
được cứu chữa. 10 Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Ít-ra-en biết
cho rằng: nhân danh chính Đức Giê-su Ki-tô, người Na-da-rét, Đấng mà quý vị đã
đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính
nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị. 11 Đấng
ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá
tảng góc tường. 12 Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì
dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để
chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.”
13
Họ
ngạc nhiên khi thấy ông Phê-rô và ông Gio-an mạnh dạn, và biết rằng hai ông là
những người không có chữ nghĩa, lại thuộc giới bình dân. Họ nhận ra hai ông là
những người đã từng theo Đức Giê-su; 14 đồng thời họ lại thấy người
đã được chữa lành đứng đó với hai ông, nên họ không biết đối đáp thế nào. 15
Họ mới truyền cho hai ông ra khỏi Thượng Hội Đồng, và bàn tính với nhau. 16
Họ nói: ”Ta phải xử làm sao với những người này? Họ đã làm một dấu lạ
rành rành: điều đó hiển nhiên đối với mọi người cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, và ta
không thể chối được. 17 Nhưng để cho việc đó khỏi lan rộng thêm
trong dân, ta hãy ngăm đe, nghiêm cấm họ từ nay không được nói đến danh ấy với
ai nữa.”
18
Họ
cho gọi hai ông vào và tuyệt đối cấm hai ông không được lên tiếng hay giảng dạy
về danh Đức Giê-su nữa. 19 Hai ông Phê-rô và Gio-an đáp lại: ”Nghe
lời các ông hơn là nghe lời Thiên Chúa, xin hỏi: trước mặt Thiên Chúa, điều ấy
có phải lẽ không? Các ông thử xét xem! 20 Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe,
mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra.” 21 Sau khi ngăm đe
lần nữa, họ thả hai ông về, vì không tìm được cách trừng trị hai ông. Lý do là
vì họ sợ dân: ai nấy đều tôn vinh Thiên Chúa vì việc đã xảy ra. 22 Thật
vậy, người được phép lạ ấy chữa lành đã ngoài bốn mươi tuổi.
Các
Tông Đồ cầu nguyện trong cơn bách hại
23
Được
thả về, hai ông đến với các anh em và thuật lại mọi điều các thượng tế và kỳ
mục đã nói với hai ông. 24 Nghe vậy, họ đồng tâm nhất trí cất tiếng
lên cùng Thiên Chúa: ”Lạy Chúa, Ngài là Đấng tạo thành trời đất với biển khơi
cùng muôn loài trong đó; 25 Ngài là Đấng đã nhờ Thánh Thần, dùng
miệng tổ phụ chúng con là Đa-vít, tôi trung của Ngài, mà phán: Sao chư dân lại
ồn ào náo động, sao vạn quốc dám bày kế viển vông? 26 Vua chúa trần gian cùng
nổi dậy, vương hầu khanh tướng rập mưu đồ, chống lại Đức Chúa, chống lại Đấng
Người đã xức dầu phong vương.
27 “Đúng vậy, Hê-rô-đê,
Phong-xi-ô Phi-la-tô, cùng với chư dân và dân Ít-ra-en đã toa rập trong thành
này, chống lại tôi tớ thánh của Ngài là Đức Giê-su, Đấng Ngài đã xức dầu. 28
Như thế họ đã thực hiện tất cả những gì quyền năng và ý muốn của Ngài đã
định trước. 29 Giờ đây, lạy Chúa, xin để ý đến những lời ngăm đe của
họ, và cho các tôi tớ Ngài đây được nói lời Ngài với tất cả sự mạnh dạn. 30
Xin giơ tay chữa lành, và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, nhân danh
tôi tớ thánh của Ngài là Đức Giê-su.” 31 Họ cầu nguyện xong, thì nơi
họ họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh
dạn nói lời Thiên Chúa.
Cộng
đoàn tín hữu đầu tiên
32
Các
tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất
cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung.
33
Nhờ
quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giê-su đã sống
lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng.
34
Trong
cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa,
đều bán đi, lấy tiền, 35 đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được
phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu.
Lòng
rộng rãi của ông Ba-na-ba
36
Ông
Giô-xếp, người được các Tông Đồ đặt tên là Ba-na-ba, nghĩa là người có tài yên
ủi, có một thửa đất. Ông là một thầy Lê-vi quê quán ở đảo Sýp. 37 Ông
bán đất đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ.
Chương 5
Kha-na-ni-a
và Xa-phi-ra gian lận
1
Có
một người tên là Kha-na-ni-a cùng với vợ là Xa-phi-ra bán một thửa đất. 2 Ông
đồng ý với vợ giữ lại một phần tiền, rồi đem phần còn lại đặt dưới chân các
Tông Đồ. 3 Ông Phê-rô mới nói: ”Anh Kha-na-ni-a, sao anh lại để
Xa-tan xâm chiếm lòng anh, khiến anh lừa dối Thánh Thần, mà giữ lại một phần
giá thửa đất? 4 Khi đất còn đó thì nó chẳng còn là của anh sao? Bán đi rồi thì
anh chẳng có quyền sử dụng tiền bán đó sao? Sao anh lại rắp tâm làm việc ấy?
Anh đã không lừa dối người phàm, mà lừa dối Thiên Chúa.” 5 Nghe
những lời ấy, Kha-na-ni-a ngã xuống tắt thở. Tất cả những ai nghe kể lại chuyện
này đều rất sợ hãi. 6 Các thanh niên đến liệm xác ông và đem đi
chôn.
7
Khoảng
ba giờ sau, vợ ông đi vào mà không hay biết chuyện đã xảy ra. 8 Ông
Phê-rô lên tiếng hỏi: ”Chị nói cho tôi hay: anh chị bán thửa đất được bấy
nhiêu, phải không?” Chị ta đáp: ”Vâng, được bấy nhiêu thôi.” 9 Ông
Phê-rô liền nói: ”Sao anh chị lại đồng lòng với nhau để thử thách Thần Khí
Chúa? Kìa những người đã chôn cất chồng chị còn đứng ở ngoài cửa, họ sắp khiêng
cả chị đi đấy!”10 Lập tức bà ta ngã xuống dưới chân ông Phê-rô và tắt thở. Khi
vào, các thanh niên thấy bà đã chết, liền khiêng đi chôn bên cạnh chồng. 11
Toàn thể Hội Thánh và tất cả những ai nghe kể chuyện này đều rất sợ hãi.
Các
Tông Đồ làm phép lạ
12
Nhiều
dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay các Tông Đồ.
13
Không
một ai khác dám nhập đoàn với họ. Nhưng dân thì lại ca tụng họ. 14 Càng
ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông.
15
Người
ta còn khiêng cả những kẻ đau ốm ra tận đường phố đặt trên giường trên chõng,
để khi ông Phê-rô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh
nhân nào đó. 16 Nhiều người từ các thành chung quanh Giê-ru-sa-lem
cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế
ám, và tất cả đều được chữa lành.
Các
Tông Đồ bị bắt và được giải thoát
17
Bấy
giờ, vị thượng tế cùng tất cả những người theo ông-tức là phái Xa-đốc- ra tay
hành động. Đầy lòng ghen tức, 18 họ bắt các Tông Đồ, nhốt vào nhà tù
công cộng.
19
Nhưng
ban đêm thiên sứ của Đức Chúa mở cửa ngục, đưa các ông ra mà nói: 20
“Các ông hãy đi, vào đứng trong Đền Thờ mà nói cho dân những lời ban sự sống.” 21
Nghe thế, các ông vào Đền Thờ ngay từ lúc rạng đông và bắt đầu giảng dạy.
Các
Tông Đồ ra trước Thượng Hội Đồng
22
Nhưng
khi thuộc hạ đến, họ không thấy các ông trong ngục. Họ trở về báo cáo 23 rằng:
”Chúng tôi thấy ngục đóng kỹ lưỡng và những người lính canh đứng ở cửa; nhưng
khi mở cửa ra, chúng tôi không thấy ai ở bên trong.” 24 Nghe những
lời ấy, viên lãnh binh Đền Thờ và các thượng tế phân vân về các ông, không biết
chuyện gì xảy ra. 25 Bấy giờ có một người đến báo cáo cho họ: ”Những
người các ông đã tống ngục, kìa họ đang đứng trong Đền Thờ và giảng dạy cho
dân!”26 Viên lãnh binh bèn đi với bọn thuộc hạ và điệu các ông về, nhưng không
dùng bạo lực vì sợ bị dân ném đá.
27
Họ
điệu các ông đến giữa Thượng Hội Đồng; vị thượng tế hỏi các ông rằng: 28
“Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà
các ông đã làm cho Giê-ru-sa-lem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho
máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!”29 Bấy giờ ông Phê-rô và các Tông Đồ khác
đáp lại rằng: ”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. 30 Đức
Giê-su đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông
chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, 31 và Thiên Chúa đã ra tay uy
quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en
ơn sám hối và ơn tha tội. 32 Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm
chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời
Người.” 33 Nghe vậy, họ giận điên lên và muốn giết các ông.
Ông
Ga-ma-li-ên lên tiếng
34
Bấy
giờ có một người Pha-ri-sêu tên là Ga-ma-li-ên đứng lên giữa Thượng Hội Đồng;
ông là một kinh sư được toàn dân kính trọng. Ông truyền đưa các đương sự ra
ngoài một lát. 35 Rồi ông nói với Thượng Hội Đồng: ”Thưa quý vị là
người Ít-ra-en, xin quý vị coi chừng điều quý vị sắp làm cho những người này. 36
Thời gian trước đây, có Thêu-đa nổi lên, xưng mình là một nhân vật và kết
nạp được khoảng bốn trăm người; ông ta đã bị giết, và mọi kẻ theo ông cũng tan
rã, không còn gì hết. 37 Sau ông, có Giu-đa người Ga-li-lê nổi lên
vào thời kiểm tra dân số, và lôi cuốn dân đi với mình; cả ông này cũng bị diệt,
và tất cả những người theo ông ta đều bị tan tác. 38 Vậy giờ đây,
tôi xin nói với quý vị: hãy để mặc những người này. Cứ cho họ về, vì nếu ý định
hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá huỷ; 39 còn nếu
quả thật là do Thiên Chúa, thì quý vị không thể nào phá huỷ được; không khéo
quý vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa.” Họ tán thành ý kiến của ông.
40
Họ
cho gọi các Tông Đồ lại mà đánh đòn và cấm các ông không được nói đến danh Đức
Giê-su, rồi thả các ông ra. 41 Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng,
lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su.
42
Mỗi
ngày, trong Đền Thờ và tại tư gia, các ông không ngừng giảng dạy và loan báo
Tin Mừng về Đức Ki-tô Giê-su.
Chương 6
II.
NHỮNG BƯỚC ĐẦU CỦA CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO
Lập
nhóm Bảy người
1
Thời
đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do-thái theo văn hoá Hy-lạp kêu
trách những tín hữu Do-thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng
ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. 2 Bởi thế, Nhóm Mười Hai
triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: ”Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên
Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. 3 Vậy, thưa anh em, anh
em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn
ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. 4 Còn chúng
tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa.” 5 Đề
nghị trên được mọi người tán thành. Họ chọn ông Tê-pha-nô, một người đầy lòng
tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Phi-líp-phê, Pơ-rô-khô-rô, Ni-ca-no,
Ti-môn, Pác-mê-na và ông Ni-cô-la, một người ngoại quê An-ti-ô-khi-a đã theo
đạo Do-thái. 6 Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau khi cầu
nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông.
7
Lời
Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Giê-ru-sa-lem, số các môn đệ tăng thêm rất
nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin.
Ông
Tê-pha-nô bị bắt
8
Ông
Tê-pha-nô được đầy ân sủng và quyền năng, đã làm những điềm thiêng dấu lạ lớn
lao trong dân. 9 Có những người thuộc hội đường gọi là hội đường của
nhóm nô lệ được giải phóng, gốc Ky-rê-nê và A-lê-xan-ri-a, cùng với một số
người gốc Ki-li-ki-a và A-xi-a, đứng lên tranh luận với ông Tê-pha-nô. 10 Nhưng
họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông. 11 Bấy
giờ, họ mới xui mấy người phao lên rằng: ”Chúng tôi đã nghe hắn nói lộng ngôn
xúc phạm đến ông Mô-sê và Thiên Chúa.” 12 Họ sách động dân và các kỳ
mục cùng kinh sư, rồi ập đến bắt ông và điệu đến Thượng Hội Đồng. 13 Họ
đưa mấy người chứng gian ra khai rằng: ”Tên này không ngừng nói những lời phạm
đến Nơi Thánh và Lề Luật. 14 Vì chúng tôi đã nghe hắn nói rằng
Giê-su người Na-da-rét sẽ phá huỷ nơi này và thay đổi những tục lệ mà ông Mô-sê
đã truyền lại cho chúng ta.” 15 Toàn thể cử toạ trong Thượng Hội
Đồng đều nhìn thẳng vào ông Tê-pha-nô, và họ thấy mặt ông giống như mặt thiên
sứ.
Chương 7
Diễn
từ của ông Tê-pha-nô
1
Bấy
giờ vị thượng tế hỏi ông Tê-pha-nô: ”Có đúng như vậy không?” 2 Ông
đáp: ”Thưa quý vị là những bậc cha anh, xin nghe tôi đây: Thiên Chúa hiển vinh
đã hiện ra với ông Áp-ra-ham, tổ phụ chúng ta, khi ông còn đang ở miền
Mê-xô-pô-ta-mi-a, trước khi ông đến ở Kha-ran. 3 Người phán với ông:
Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng ngươi, và đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. 4 Ông
liền bỏ xứ người Can-đê mà đến ở Kha-ran. Sau khi thân phụ qua đời, Người bảo
ông rời nơi ấy đến đất này, nơi anh em hiện đang ở. 5 Người không
ban cho ông sản nghiệp nào ở đất này, dù một tấc đất cũng không, nhưng hứa cho
ông cũng như cho dòng dõi ông được chiếm hữu đất này, mặc dầu bấy giờ ông không
có con. 6 Thiên Chúa phán với ông rằng dòng dõi ông sẽ trú ngụ nơi
đất khách quê người, và người ta sẽ bắt họ làm nô lệ và ngược đãi họ trong vòng
bốn trăm năm. 7 Người lại phán: Nhưng Ta sẽ xét xử dân đã bắt chúng
làm nô lệ, và sau đó chúng sẽ ra đi và sẽ thờ phượng Ta tại nơi này. 8 Rồi
Người ban cho ông giao ước, mà dấu chỉ là phép cắt bì; và như thế, sau khi sinh
ông I-xa-ác được tám ngày, ông làm phép cắt bì cho con; ông I-xa-ác cũng làm
như thế cho ông Gia-cóp, và ông Gia-cóp đã làm như thế cho mười hai tổ phụ.
9 “Các tổ phụ ghen ông
Giu-se nên đã bán ông cho người ta đưa sang Ai-cập. Nhưng Thiên Chúa vẫn ở với
ông. 10 Người cứu ông khỏi mọi bước ngặt nghèo, cho ông được cảm
tình của Pha-ra-ô, vua Ai-cập, và được khôn ngoan trước mặt nhà vua, khiến nhà
vua đặt ông làm tể tướng cai quản nước Ai-cập và toàn thể hoàng cung. 11 Rồi
xảy ra nạn đói trong cả nước Ai-cập và tại Ca-na-an: đó là thời rất ngặt nghèo,
và cha ông chúng ta không tìm đâu ra lương thực. 12 Khi ông Gia-cóp
nghe nói bên Ai-cập có lúa mì, liền sai cha ông chúng ta đi lần thứ nhất. 13
Rồi đến lần thứ hai, thì ông Giu-se cho các anh em nhận ra mình; bấy giờ
Pha-ra-ô biết rõ gốc tích của ông Giu-se. 14 Ông Giu-se liền sai đi
mời thân phụ là ông Gia-cóp, cùng với tất cả họ hàng là bảy mươi lăm người. 15
Vậy ông Gia-cóp xuống Ai-cập. Ông đã qua đời ở đó, và cha ông chúng ta
cũng vậy. 16 Hài cốt các ông được đưa về Si-khem và táng trong ngôi
mộ mà ông Áp-ra-ham đã bỏ tiền ra mua của con cái Kha-mo tại Si-khem.
17 “Khi gần đến thời
thực hiện lời Thiên Chúa đã long trọng hứa với ông Áp-ra-ham, thì dân sinh sôi
nảy nở ra nhiều tại Ai-cập, 18 cho đến khi một vua khác lên trị vì
nước Ai-cập. Vua này không biết ông Giu-se. 19 Là người xảo quyệt,
vua xử tệ với nòi giống chúng ta, ngược đãi cha ông chúng ta, đến nỗi bắt các
cụ phải đem trẻ sơ sinh của mình bỏ đi, không cho chúng sống. 20 Chính
vào thời đó, Mô-sê sinh ra. Đứa bé kháu khỉnh trước mặt Thiên Chúa, lại chỉ
được nuôi ba tháng ở nhà thân phụ. 21 Sau đó bị bỏ, nhưng được con
gái Pha-ra-ô rước về nuôi làm con trai mình. 22 Cậu bé được dạy cho
biết tất cả về sự khôn ngoan của người Ai-cập, và là người đầy uy thế trong lời
nói cũng như việc làm.
23 “Khi được chẵn bốn
mươi tuổi, ông Mô-sê nảy ra ý định thăm viếng các anh em mình là con cái
Ít-ra-en. 24 Thấy một người anh em bị một người Ai-cập làm hại, ông
liền bênh, và để trả thù cho người bị áp bức, ông đánh chết người Ai-cập. 25
Ông tưởng các anh em ông sẽ hiểu rằng Thiên Chúa dùng tay ông để ban ơn
cứu độ cho họ; nhưng họ thì không hiểu. 26 Ngày hôm sau, đang khi họ
đánh lộn thì ông xuất hiện và dàn xếp cho đôi bên làm hoà. Ông nói: ”Này các
người, các người là anh em, tại sao lại xử tệ với nhau? 27 Nhưng kẻ đang xử tệ
với người đồng bào gạt ông ra và nói: Ai đã đặt ông làm người lãnh đạo và người
xét xử chúng tôi? 28 Hay là ông tính giết tôi, y như đã giết tên Ai-cập hôm
qua? 29 Nghe câu nói ấy, ông Mô-sê liền trốn đi và đến trú ngụ ở miền Ma-đi-an.
Ở đó ông sinh được hai con trai.
30 “Đúng bốn mươi năm
sau, một thiên sứ hiện ra với ông tại sa mạc núi Xi-nai, trong ngọn lửa của một
bụi cây đang cháy. 31 Ông Mô-sê ngạc nhiên khi thấy thị kiến ấy.
Đang khi ông lại gần để xem cho rõ, thì có tiếng Chúa phán với ông: 32 Ta
là Thiên Chúa của cha ông ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp.
Ông Mô-sê phát run lên, không dám nhìn nữa. 33 Bấy giờ Chúa phán với
ông: ”Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh! 34 Ta đã thấy rõ
cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập và đã nghe tiếng chúng kêu than, nên Ta
xuống giải thoát chúng. Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi sang Ai-cập".
35 “Ông Mô-sê này là
người mà họ đã từng chối bỏ khi nói: Ai đã đặt ông làm người lãnh đạo và người
xét xử?, thì Thiên Chúa lại sai ông làm người lãnh đạo và cứu chuộc, qua trung
gian vị thiên sứ đã hiện ra với ông trong bụi gai. 36 Chính ông đã
đưa họ ra, bằng cách làm những điềm thiêng dấu lạ tại đất Ai-cập, trong Biển Đỏ
và trong sa mạc bốn mươi năm trường. 37 Chính ông Mô-sê đó là người
đã nói với con cái Ít-ra-en: Từ giữa đồng bào của anh em, Thiên Chúa sẽ cho
đứng lên một ngôn sứ như tôi để giúp anh em. 38 Chính ông là người
đã có mặt trong đại hội ở sa mạc, bên cạnh vị thiên sứ nói với ông trên núi
Xi-nai, và bên cạnh cha ông chúng ta. Chính ông đã đón nhận những lời hằng sống
để ban cho chúng ta. 39 Nhưng cha ông chúng ta đã không muốn vâng
lời ông; họ đã gạt ông ra và trong thâm tâm, họ đã quay lại Ai-cập. 40 Họ
nói với ông A-ha-ron: Xin ông làm cho chúng tôi những vị thần dẫn đầu chúng
tôi, vì cái ông Mô-sê, người đã đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, chúng tôi
không biết chuyện gì đã xảy ra cho ông ta. 41 Trong những ngày ấy,
họ đã làm tượng một con bê, họ dâng lễ tế cho ngẫu tượng ấy và ăn mừng công
trình tay họ làm ra. 42 Bấy giờ Thiên Chúa xoay mặt họ đi, và để mặc
họ thờ thiên binh, như có lời chép trong sách các ngôn sứ:
Hỡi
nhà Ít-ra-en, bốn mươi năm trường trong sa mạc,
các
ngươi có dâng lên Ta vật hy sinh và lễ tế nào đâu?
43
Các
ngươi đã kiệu lều của thần Mô-lóc
và
ngôi sao của thần Rê-phan,
là
những ảnh tượng các ngươi đã làm ra để thờ;
nên
Ta đã đày các ngươi tới bên kia Ba-by-lon.
44 “Khi ở trong sa mạc,
cha ông chúng ta có Lều chứng ước, như Đấng phán với ông Mô-sê đã truyền phải
làm theo kiểu mẫu ông đã thấy. 45 Lều ấy, cha ông chúng ta đã kế
thừa, và đã cùng với ông Giô-suê, đem vào đất chiếm được của các dân ngoại mà
Thiên Chúa đã đuổi đi khuất mắt các ông. Lều ở lại đó cho đến thời vua Đa-vít. 46
Vua này đẹp lòng Thiên Chúa và đã xin được tìm một ngôi nhà cho Thiên
Chúa của Gia-cóp. 47 Nhưng chính vua Sa-lô-môn mới xây nhà cho Người.
48 Tuy nhiên, Đấng Tối Cao không ở trong những ngôi nhà do tay người
phàm làm ra, như lời ngôn sứ đã nói:
49
Chúa
phán: Trời là ngai của Ta,
còn
đất là bệ dưới chân Ta.
Các
ngươi sẽ xây cho Ta nhà nào,
và
nơi nào sẽ là chốn Ta nghỉ ngơi
50
Chẳng
phải chính tay Ta đã làm nên mọi sự ấy sao?
51 “Hỡi những người cứng
đầu cứng cổ, lòng và tai không cắt bì, các ông luôn luôn chống lại Thánh Thần.
Cha ông các ông thế nào, thì các ông cũng vậy. 52 Có ngôn sứ nào mà
cha ông các ông không bắt bớ? Họ đã giết những vị tiên báo Đấng Công Chính sẽ
đến; còn các ông, nay đã trở thành những kẻ phản bội và sát hại Đấng ấy. 53
Các ông là những người đã lãnh nhận Lề Luật do các thiên sứ công bố,
nhưng lại chẳng tuân giữ.”
54
Khi
nghe những lời ấy, lòng họ giận điên lên, và họ nghiến răng căm thù ông
Tê-pha-nô.
Ông
Tê-pha-nô bị ném đá. Ông Sao-lô bắt đạo
55
Được
đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy
Đức Giê-su đứng bên hữu Thiên Chúa. 56 Ông nói: ”Kìa, tôi thấy trời
mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.” 57 Họ liền kêu lớn
tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông58 rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá.
Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Sao-lô. 59 Họ
ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin rằng: ”Lạy Chúa Giê-su, xin nhận lấy
hồn con.” 60 Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: ”Lạy Chúa, xin
đừng chấp họ tội này.” Nói thế rồi, ông an nghỉ.
Chương 8
1
Phần
ông Sao-lô, ông tán thành việc giết ông Tê-pha-nô.
Hồi
ấy, Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem trải qua một cơn bắt bớ dữ dội. Ngoài các Tông
Đồ ra, mọi người đều phải tản mác về các vùng quê miền Giu-đê và Sa-ma-ri.
2
Có
mấy người sùng đạo chôn cất ông Tê-pha-nô và khóc thương ông thảm thiết.
3
Còn
ông Sao-lô thì cứ phá hoại Hội Thánh: ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn
bà đi tống ngục.
Ông
Phi-líp-phê đến Sa-ma-ri
4
Vậy
những người phải tản mác này đi khắp nơi loan báo lời Chúa.
5
Ông
Phi-líp-phê xuống một thành miền Sa-ma-ri và rao giảng Đức Ki-tô cho dân cư ở
đó. 6 Đám đông một lòng chú ý đến những điều ông Phi-líp-phê giảng,
bởi được nghe đồn và được chứng kiến những dấu lạ ông làm. 7 Thật
vậy, các thần ô uế vừa kêu lớn tiếng vừa xuất khỏi nhiều người trong số những
kẻ bị chúng ám. Nhiều người tê bại và tàn tật được chữa lành. 8 Trong
thành, người ta rất vui mừng.
Thầy
phù thủy Si-môn
9
Trong
thành ấy, có một người tên là Si-môn, vốn dùng phù phép làm cho dân Sa-ma-ri
kinh ngạc. Ông ta xưng mình là một nhân vật quan trọng, 10 và mọi
người từ nhỏ đến lớn đều chú ý đến ông. Họ nói: ”Ông này là Quyền năng của
Thiên Chúa, Quyền năng được gọi là “Vĩ đại".” 11 Họ chú ý đến
ông, vì từ khá lâu ông đã dùng phù phép làm cho họ kinh ngạc. 12 Nhưng
khi họ tin lời ông Phi-líp-phê loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa và về danh
Đức Giê-su Ki-tô, thì họ đã chịu phép rửa, có cả đàn ông lẫn đàn bà. 13 Cả
ông Si-môn nữa cũng đã tin theo, và sau khi chịu phép rửa, ông cứ theo sát ông
Phi-líp-phê, và kinh ngạc vì được thấy các dấu lạ và các phép mầu vĩ đại xảy
ra.
14
Các
Tông Đồ ở Giê-ru-sa-lem nghe biết dân miền Sa-ma-ri đã đón nhận lời Thiên Chúa,
thì cử ông Phê-rô và ông Gio-an đến với họ. 15 Khi đến nơi, hai ông
cầu nguyện cho họ, để họ nhận được Thánh Thần. 16 Vì Thánh Thần chưa
ngự xuống một ai trong nhóm họ: họ mới chỉ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su.
17 Bấy giờ hai ông đặt tay trên họ, và họ nhận được Thánh Thần.
18
Ông
Si-môn thấy khi các Tông Đồ đặt tay, thì Thánh Thần được ban xuống, nên ông đem
tiền đến biếu các ông 19 và nói: ”Xin cũng ban quyền ấy cho tôi nữa, để tôi đặt
tay cho ai thì người ấy nhận được Thánh Thần.” 20 Nhưng ông Phê-rô
đáp: ”Tiền bạc của anh tiêu tan luôn với anh cho rồi, vì anh tưởng có thể lấy
tiền mà mua ân huệ của Thiên Chúa! 21 Chẳng có phần chia cho anh, cũng chẳng có
phần thừa kế trong việc này đâu, vì lòng anh không ngay thẳng trước mặt Thiên
Chúa. 22 Vậy anh hãy sám hối về việc xấu ấy của anh, và cầu xin
Chúa, may ra Người sẽ tha cho anh tội đã nghĩ như thế trong lòng. 23 Thật
vậy, tôi thấy anh đang ứ đầy mật đắng và đang bị tội ác trói buộc.” 24 Ông
Si-môn thưa: ”Xin hai ông cầu cùng Chúa cho tôi, để không điều nào trong những
điều các ông đã nói giáng xuống trên tôi.”
25
Sau
khi đã long trọng làm chứng và nói lời Chúa, hai Tông Đồ trở về Giê-ru-sa-lem
và loan Tin Mừng cho nhiều làng miền Sa-ma-ri.
Ông
Phi-líp-phê làm phép rửa cho một viên thái giám
26
Thiên
sứ của Chúa nói với ông Phi-líp-phê: ”Đứng lên, đi về hướng nam, theo con đường
từ Giê-ru-sa-lem xuống Ga-da; con đường này vắng.” 27 Ông đứng lên đi.
Khi ấy có một viên thái giám người Ê-thi-óp, làm quan lớn trong triều của bà
Can-đa-kê, nữ hoàng nước Ê-thi-óp. Ông này làm tổng quản kho bạc của bà. Ông đã
lên Giê-ru-sa-lem hành hương 28 và bấy giờ đang trên đường về. Ngồi trên xe
nhà, ông đọc sách ngôn sứ I-sai-a. 29 Thần Khí nói với ông
Phi-líp-phê: ”Tiến lên, đuổi kịp xe đó.” 30 Ông Phi-líp-phê chạy
lại, nghe thấy ông kia đọc sách ngôn sứ I-sai-a, thì hỏi: ”Ngài có hiểu điều
ngài đọc không?” 31 Ông quan đáp: ”Mà làm sao tôi hiểu được, nếu
không có người dẫn giải?” Rồi ông mời ông Phi-líp-phê lên ngồi với mình. 32
Đoạn Kinh Thánh ông đang đọc là đoạn này: Như chiên bị đem đi làm thịt,
như cừu câm nín khi bị xén lông, Người chẳng mở miệng kêu ca. 33 Bởi
Người bị hạ xuống, nên bản án của Người đã được huỷ bỏ. Dòng dõi Người, ai sẽ
kể lại, vì cuộc sống của Người trên trần gian đã bị chấm dứt.
34
Viên
thái giám ngỏ lời với ông Phi-líp-phê: ”Xin ông cho biết: vị ngôn sứ nói thế về
ai? Về chính mình hay về một ai khác?” 35 Ông Phi-líp-phê lên tiếng,
và khởi từ đoạn Kinh Thánh ấy mà loan báo Tin Mừng Đức Giê-su cho ông.
36
Dọc
đường, các ông tới một chỗ có nước, viên thái giám mới nói: ”Sẵn nước đây, có
gì ngăn trở tôi chịu phép rửa không?” 37 Ông Phi-líp-phê đáp: ”Nếu
ngài tin hết lòng, thì được.” Viên thái giám thưa: ”Tôi tin Đức Giê-su Ki-tô là
Con Thiên Chúa.” 38 Ông truyền dừng xe lại. Ông Phi-líp-phê và viên
thái giám, cả hai cùng xuống chỗ có nước, và ông Phi-líp-phê làm phép rửa cho
ông quan. 39 Khi hai ông lên khỏi nước, Thần Khí Chúa đem ông
Phi-líp-phê đi mất, và viên thái giám không còn thấy ông nữa. Nhưng ông tiếp
tục cuộc hành trình, lòng đầy hoan hỷ. 40 Còn ông Phi-líp-phê thì
người ta gặp thấy ở Át-đốt. Ông loan báo Tin Mừng cho mọi thành thị ông đi qua,
cho tới khi đến Xê-da-rê.
Chương 9
Ông
Sao-lô được kêu gọi làm Tông Đồ (Cv 22:5-16; 26:9-18 )
1
Ông
Sao-lô vẫn còn hằm hằm đe doạ giết các môn đệ Chúa, nên đã tới gặp thượng tế 2
xin thư giới thiệu đến các hội đường ở Đa-mát, để nếu thấy những người theo
Đạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Giê-ru-sa-lem.
3
Vậy
đang khi ông đi đường và đến gần Đa-mát, thì bỗng nhiên có một luồng ánh sáng
từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. 4 Ông ngã xuống đất và nghe có
tiếng nói với ông: ”Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” 5 Ông
nói: ”Thưa Ngài, Ngài là ai?” Người đáp: ”Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ. 6
Nhưng ngươi hãy đứng dậy, vào thành, và người ta sẽ nói cho ngươi biết
ngươi phải làm gì.” 7 Những người cùng đi với ông dừng lại, sững sờ:
họ nghe có tiếng nói, nhưng không trông thấy ai. 8 Ông Sao-lô từ
dưới đất đứng dậy, mắt thì mở nhưng không thấy gì. Người ta phải cầm tay dắt
ông vào Đa-mát. 9 Suốt ba ngày, ông không nhìn thấy, cũng chẳng ăn,
chẳng uống.
10
Bấy
giờ ở Đa-mát có một môn đệ tên là Kha-na-ni-a. Trong một thị kiến, Chúa phán
với ông: ”Kha-na-ni-a!” Ông thưa: ”Dạ, lạy Chúa, con đây.” 11 Chúa
bảo ông: ”Đứng lên, đi tới phố gọi là Phố Thẳng, đến nhà Giu-đa tìm một người
tên là Sao-lô quê ở Tác-xô: người ấy đang cầu nguyện 12 và thấy một người tên
là Kha-na-ni-a đi vào, đặt tay trên mình để làm cho mình lại thấy được.” 13
Ông Kha-na-ni-a thưa: ”Lạy Chúa, con đã nghe lắm kẻ nói về người ấy, về
tất cả những điều ác người ấy đã làm cho dân thánh Chúa tại Giê-ru-sa-lem. 14
Còn ở đây, người ấy được các thượng tế cho quyền bắt trói tất cả những ai
kêu cầu danh Chúa.” 15 Nhưng Chúa phán với ông: ”Cứ đi, vì người ấy
là lợi khí Ta chọn để mang danh Ta đến trước mặt các dân ngoại, các vua chúa và
con cái Ít-ra-en. 16 Thật vậy, chính Ta sẽ chỉ cho người ấy thấy tất
cả những đau khổ người ấy phải chịu vì danh Ta.” 17 Ông Kha-na-ni-a
liền đi; ông vào nhà, đặt tay trên ông Sao-lô và nói: ”Anh Sa-un, Chúa đã sai
tôi đến đây, Người là Đức Giê-su, Đấng đã hiện ra với anh trên đường anh tới
đây. Người sai tôi đến để anh lại thấy được và để anh được đầy Thánh Thần.” 18
Lập tức có những cái gì như vảy bong ra khỏi mắt ông Sao-lô, và ông lại
thấy được. Ông đứng dậy và chịu phép rửa. 19 Rồi ông ăn và khoẻ lại.
Ông
Sao-lô rao giảng tại Đa-mát
20
rồi
lập tức ông bắt đầu rao giảng Đức Giê-su trong các hội đường, rằng Người là Con
Thiên Chúa. 21 Mọi người nghe ông giảng đều kinh ngạc và nói: ”Ông
này chẳng phải là người ở Giê-ru-sa-lem vẫn tiêu diệt những ai kêu cầu danh
Giê-su sao? Chẳng phải ông đã đến đây với mục đích bắt trói họ giải về cho các
thượng tế sao?” 22 Nhưng ông Sao-lô càng thêm vững mạnh, và ông làm
cho người Do-thái ở Đa-mát phải bẽ mặt, khi minh chứng rằng Đức Giê-su là Đấng
Mê-si-a.
23
Sau
một thời gian khá lâu, người Do-thái cùng nhau bàn kế giết ông Sao-lô; 24 nhưng
ông biết được âm mưu của họ. Thậm chí người ta canh giữ các cửa thành ngày đêm,
để giết ông. 25 Nhưng ban đêm, các môn đệ ông đã đưa ông qua tường
thành bằng cách đặt ông ngồi trong một cái thúng rồi dòng dây thả xuống.
Ông
Sao-lô tới thăm Giê-ru-sa-lem
26
Khi
tới Giê-ru-sa-lem, ông Sao-lô tìm cách nhập đoàn với các môn đệ. Nhưng mọi
người vẫn còn sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ. 27 Ông
Ba-na-ba liền đứng ra bảo lãnh đưa ông Sao-lô đến gặp các Tông Đồ, và tường
thuật cho các ông nghe chuyện ông ấy được thấy Chúa hiện ra trên đường và phán
dạy làm sao, cũng như việc ông ấy đã mạnh dạn rao giảng nhân danh Đức Giê-su
tại Đa-mát thế nào. 28 Từ đó ông Sao-lô cùng với các Tông Đồ đi lại
hoạt động tại Giê-ru-sa-lem. Ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa. 29 Ông
thường đàm đạo và tranh luận với những người Do-thái theo văn hoá Hy-lạp. Nhưng
họ tìm cách giết ông. 30 Các anh em biết thế, liền dẫn ông xuống
Xê-da-rê và tiễn ông lên đường về Tác-xô.
Thời
kỳ yên ổn
31
Hồi
ấy, trong khắp miền Giu-đê, Ga-li-lê và Sa-ma-ri, Hội Thánh được bình an, được
xây dựng vững chắc và sống trong niềm kính sợ Chúa, và ngày một thêm đông, nhờ
Thánh Thần nâng đỡ.
Ông
Phê-rô chữa một người tê bại ở Lốt
32
Bấy
giờ ông Phê-rô rảo khắp nơi, xuống thăm cả dân thánh cư ngụ tại Lốt. 33 Nơi
đây ông gặp thấy một người tên là Ê-nê liệt giường đã tám năm, vì anh bị tê bại.
34 Ông Phê-rô nói với anh ta: ”Anh Ê-nê, Đức Giê-su Ki-tô chữa anh
khỏi. Anh hãy đứng dậy và tự dọn giường lấy.” Lập tức anh đứng dậy. 35 Tất
cả những người cư ngụ ở Lốt và đồng bằng Sa-ron thấy anh, và họ trở lại cùng
Chúa.
Ông
Phê-rô làm cho một người chết sống lại
36
Ở
Gia-phô, trong số các môn đệ có một bà tên là Ta-bi-tha, có nghĩa là Linh
Dương. Bà này đầy công đức vì những việc lành và bố thí bà đã làm. 37 Trong
những ngày ấy, bà mắc bệnh và qua đời. Người ta tắm xác cho bà và đặt ở lầu
trên. 38 Vì Lốt gần Gia-phô, nên khi các môn đệ nghe biết ông Phê-rô
ở đó, liền cử hai người đến mời: ”Xin ông đến với chúng tôi, đừng trì hoãn.”
39
Ông
Phê-rô đứng dậy cùng đi với họ. Tới nơi, người ta đưa ông lên lầu trên. Các bà
goá xúm lại quanh ông, vừa khóc vừa cho ông xem những áo dài và áo choàng bà
Linh Dương đã may khi còn sống với họ. 40 Ông Phê-rô cho mọi người
ra ngoài, rồi quỳ xuống cầu nguyện. Sau đó, ông quay lại về phía thi hài và ra
lệnh: ”Bà Ta-bi-tha, hãy đứng dậy!” Bà ấy mở mắt ra, và khi thấy ông Phê-rô,
liền ngồi dậy. 41 Ông đưa tay đỡ bà đứng dậy, rồi gọi dân thánh và
các bà goá lại và cho thấy bà đang sống. 42 Cả thành Gia-phô đều
biết việc này, và có nhiều người tin vào Chúa.
43
Ông
Phê-rô ở lại Gia-phô khá lâu, tại nhà một người thợ thuộc da tên là Si-môn.
Chương 10
Ông
Phê-rô tới nhà một viên đại đội trưởng người Rô-ma
1
Ở
Xê-da-rê có một người tên là Co-nê-li-ô làm đại đội trưởng thuộc cơ đội gọi là
cơ đội I-ta-li-a. 2 Ông là người đạo đức và kính sợ Thiên Chúa, cũng
như cả nhà ông; ông rộng tay cứu trợ dân và luôn luôn cầu nguyện cùng Thiên
Chúa.
3
Một
hôm, vào khoảng giờ thứ chín, trong một thị kiến ông thấy rõ ràng một thiên sứ
của Thiên Chúa vào nhà ông và nói: ”Co-nê-li-ô!”4 Ông nhìn thẳng vào thiên sứ
và phát sợ, ông nói: ”Thưa ngài, có việc chi vậy?” Thiên sứ đáp: ”Lời cầu
nguyện và việc cứu trợ của ông đã thấu toà Thiên Chúa khiến Người nhớ đến ông. 5
Vậy bây giờ ông hãy sai người đi Gia-phô mời một người tên là Si-môn,
cũng gọi là Phê-rô. 6 Ông ấy trọ tại nhà một người thợ thuộc da tên
là Si-môn, ở gần bờ biển.” 7 Khi vị thiên sứ nói với ông Co-nê-li-ô
vừa đi khỏi, ông gọi hai người nhà và một người lính đạo đức trong số những
người vẫn ở dưới quyền ông. 8 Ông kể cho họ nghe tất cả sự việc, rồi
sai họ đi Gia-phô.
9
Hôm
sau, đang khi họ đi đường và đến gần Gia-phô, thì ông Phê-rô lên sân thượng cầu
nguyện; lúc đó, vào khoảng giờ thứ sáu. 10 Ông thấy đói và muốn ăn.
Đang khi người ta dọn bữa thì ông xuất thần. 11 Ông thấy trời mở ra
và một vật gì sà xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, đang được thả
xuống đất. 12 Trong đó có mọi giống vật bốn chân và rắn rết sống
trên đất, cùng mọi thứ chim trời. 13 Có tiếng phán bảo ông: ”Phê-rô,
đứng dậy, làm thịt mà ăn!”14 Ông Phê-rô thưa: ”Lạy Chúa, không thể được, vì
không bao giờ con ăn những gì ô uế và không thanh sạch.” 15 Lại có
tiếng phán bảo ông lần thứ hai: ”Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch,
thì ngươi chớ gọi là ô uế.” 16 Việc ấy xảy ra đến ba lần, và lập tức
vật ấy được đưa lên trời.
17
Ông
Phê-rô còn đang phân vân tự hỏi thị kiến ông vừa thấy có ý nghĩa gì, thì những
người ông Co-nê-li-ô sai đi đã hỏi ra được nhà ông Si-môn, và họ đang đứng
trước cổng. 18 Họ lớn tiếng hỏi có phải ông Si-môn, cũng gọi là
Phê-rô, trọ ở đấy không. 19 Ông Phê-rô vẫn còn phân vân về thị kiến,
thì Thần Khí bảo ông: ”Kìa có ba người đang tìm ngươi. 20 Đứng lên,
xuống mà đi với họ, đừng ngần ngại gì, vì chính Ta đã sai họ đến.” 21 Ông
Phê-rô xuống với những người ấy và nói: ”Tôi đây chính là người các ông đang
tìm. Vì lý do nào các ông đến đây?” 22 Họ đáp: ”Ông đại đội trưởng
Co-nê-li-ô, một người công chính, kính sợ Thiên Chúa và được toàn dân Do-thái
chứng nhận là tốt, đã được một thánh thiên sứ linh báo là phải cho mời ông đến
nhà, để được nghe các lời ông dạy.” 23 Ông Phê-rô liền rước họ vào
và mời họ nghỉ lại.
24
Hôm
sau nữa, ông vào Xê-da-rê. Bấy giờ ông Co-nê-li-ô đang đợi; ông đã cho mời thân
bằng quyến thuộc đến. 25 Khi ông Phê-rô bước vào, thì ông Co-nê-li-ô
liền ra đón và phủ phục dưới chân ông mà bái lạy. 26 Nhưng ông
Phê-rô đỡ ông ấy lên và nói: ”Xin ông đứng dậy, vì bản thân tôi đây cũng chỉ là
người phàm.” 27 Rồi ông vừa nói chuyện với ông Co-nê-li-ô, vừa đi
vào. Thấy có đông người tụ họp ở đó, 28 ông nói với họ: ”Quý vị thừa
biết: giao du hay vào nhà một người khác chủng tộc là điều cấm kỵ đối với người
Do-thái. Nhưng tôi thì Thiên Chúa đã cho tôi thấy là không được gọi ai là ô uế
hay không thanh sạch. 29 Vì thế khi được mời, tôi đã đến mà không hề
chống cãi. Vậy tôi xin hỏi: vì lẽ nào quý vị đã mời tôi đến?” 30 Ông
Co-nê-li-ô trả lời: ”Cách đây bốn hôm, vào khoảng giờ này, lúc tôi đang đọc
kinh giờ chín tại nhà, bỗng có một người đứng trước mặt tôi, y phục rực rỡ. 31
Người ấy nói với tôi: ”Ông Co-nê-li-ô, Thiên Chúa đã nhận lời cầu nguyện
của ông và nhớ đến việc cứu trợ của ông. 32 Vậy ông hãy sai người đi
Gia-phô mời ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô; ông ấy trọ tại nhà ông Si-môn, thợ
thuộc da, ở gần bờ biển. 33 Lập tức tôi đã sai người đến mời ông, và
ông đã có lòng tốt đến đây. Vậy bây giờ tất cả chúng tôi đang ở trước mặt Thiên
Chúa, để nghe tất cả những gì Người đã truyền cho ông.”
Ông
Phê-rô giảng tại nhà ông Co-nê-li-ô
34
Bấy
giờ ông Phê-rô lên tiếng nói: ”Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị
người nào. 35 Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì
dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận.
36 “Người đã gửi đến cho
con cái nhà Ít-ra-en lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, là
Chúa của mọi người. 37 Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn
cõi Giu-đê, bắt đầu từ miền Ga-li-lê, sau phép rửa mà ông Gio-an rao giảng. 38
Quý vị biết rõ: Đức Giê-su xuất thân từ Na-da-rét, Thiên Chúa đã dùng
Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân
giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở
với Người. 39 Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã
làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giê-ru-sa-lem. Họ đã treo Người lên
cây gỗ mà giết đi. 40 Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi
dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, 41 không phải trước mặt toàn
dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là
chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi
chết sống lại. 42 Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân,
và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán,
để xét xử kẻ sống và kẻ chết. 43 Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về
Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha
tội.”
Ông
Phê-rô làm phép rửa cho những người ngoại đầu tiên
44
Ông
Phê-rô còn đang nói những điều đó, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả
những người đang nghe lời Thiên Chúa. 45 Những tín hữu thuộc giới
cắt bì cùng đến đó với ông Phê-rô đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban
Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại nữa, 46 bởi họ nghe những
người này nói các thứ tiếng và tán dương Thiên Chúa. Bấy giờ ông Phê-rô nói
rằng: 47 “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta,
thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” 48 Rồi
ông truyền làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giê-su Ki-tô. Sau đó họ xin ông ở
lại ít ngày.
Chương 11
Ông
Phê-rô tự biện minh ở Giê-ru-sa-lem
1
Các
Tông Đồ và các anh em ở miền Giu-đê nghe tin là cả dân ngoại cũng đã đón nhận
lời Thiên Chúa. 2 Khi ông Phê-rô lên Giê-ru-sa-lem, các người thuộc
giới cắt bì chỉ trích ông, 3 họ nói: ”Ông đã vào nhà những kẻ không
cắt bì và cùng ăn uống với họ!”4 Bấy giờ ông Phê-rô bắt đầu trình bày cho họ
đầu đuôi sự việc, ông nói: 5 “Tôi đang cầu nguyện tại thành Gia-phô,
thì trong lúc xuất thần, tôi thấy thị kiến này: có một vật gì sà xuống, trông
như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, từ trời thả xuống đến tận chỗ tôi. 6 Nhìn
chăm chú và xem xét kỹ, tôi thấy các giống vật bốn chân sống trên đất, các thú
rừng, rắn rết và chim trời. 7 Và tôi nghe có tiếng phán bảo tôi:
”Phê-rô, đứng dậy, làm thịt mà ăn! 8 Tôi đáp: ”Lạy Chúa, không thể được, vì
những gì ô uế và không thanh sạch không bao giờ lọt vào miệng con! 9 Có tiếng
từ trời phán lần thứ hai: ”Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch, thì
ngươi chớ gọi là ô uế! 10 Việc ấy xảy ra đến ba lần, rồi tất cả lại được kéo
lên trời.
11 “Ngay lúc đó, có ba
người đến nhà chúng tôi ở: họ được sai từ Xê-da-rê đến gặp tôi. 12 Thần
Khí bảo tôi đi với họ, đừng ngần ngại gì. Có sáu anh em đây cùng đi với tôi.
Chúng tôi đã vào nhà ông Co-nê-li-ô. 13 Ông này thuật lại cho chúng
tôi nghe việc ông đã thấy thiên sứ đứng trong nhà ông và bảo: ”Hãy sai người đi
Gia-phô mời ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô. 14 Ông ấy sẽ nói với ông
những lời nhờ đó ông và cả nhà ông sẽ được cứu độ.
15 “Tôi vừa mới bắt đầu
nói, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên họ, như đã ngự xuống trên chúng ta lúc
ban đầu. 16 Tôi sực nhớ lại lời Chúa nói rằng: ”Ông Gio-an thì làm
phép rửa bằng nước, còn anh em thì sẽ được rửa trong Thánh Thần. 17 Vậy,
nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì
chúng ta tin vào Chúa Giê-su Ki-tô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa?”
18
Nghe
thế, họ mới chịu im, và họ tôn vinh Thiên Chúa mà nói: ”Vậy ra Thiên Chúa cũng
ban cho các dân ngoại ơn sám hối để được sự sống!”
Thành
lập Hội Thánh An-ti-ô-khi-a
19
Vậy
những người phải tản mác vì cuộc bách hại xảy ra nhân vụ ông Tê-pha-nô, đi đến
tận miền Phê-ni-xi, đảo Sýp và thành An-ti-ô-khi-a. Họ không rao giảng lời Chúa
cho ai ngoài người Do-thái. 20 Nhưng trong nhóm, có mấy người gốc
Sýp và Ky-rê-nê; những người này, khi đến An-ti-ô-khi-a, đã giảng cho cả người
Hy-lạp nữa, loan Tin Mừng Chúa Giê-su cho họ. 21 Vì có bàn tay Chúa
ở với họ, nên một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa.
22
Tin
ấy đến tai Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem, nên người ta cử ông Ba-na-ba đi
An-ti-ô-khi-a. 23 Khi tới nơi và thấy ơn Thiên Chúa như vậy, ông
Ba-na-ba mừng rỡ và khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa, 24 vì
ông là người tốt, đầy ơn Thánh Thần và lòng tin. Và đã có thêm một đám rất đông
theo Chúa.
25
Ông
Ba-na-ba trẩy đi Tác-xô tìm ông Sao-lô. 26 Tìm được rồi, ông đưa ông
Sao-lô đến An-ti-ô-khi-a. Hai ông cùng làm việc trong Hội Thánh ấy suốt một năm
và giảng dạy cho rất nhiều người. Chính tại An-ti-ô-khi-a mà lần đầu tiên các
môn đệ được gọi là Ki-tô hữu.
Ông
Ba-na-ba và ông Sao-lô được cử đi Giê-ru-sa-lem
27
Trong
những ngày ấy, có những ngôn sứ từ Giê-ru-sa-lem xuống An-ti-ô-khi-a. 28 Một
trong những người ấy tên là A-ga-bô đứng lên và được Thần Khí soi sáng, báo
trước là sẽ có nạn đói lớn trong khắp cả thiên hạ; đó là nạn đói xảy ra dưới
thời hoàng đế Cơ-lau-đi-ô. 29 Các môn đệ mới quyết định là mỗi người
tuỳ theo khả năng, sẽ gửi quà giúp đỡ anh em ở miền Giu-đê. 30 Và họ
đã làm việc ấy: gửi đến cho hàng kỳ mục qua tay ông Ba-na-ba và ông Sao-lô.
Chương 12
Ông
Phê-rô bị bắt và được cứu cách lạ lùng
1
Thời
kỳ ấy, vua Hê-rô-đê ra tay ngược đãi một số người trong Hội Thánh. 2 Nhà
vua đã cho chém đầu ông Gia-cô-bê là anh ông Gio-an. 3 Thấy việc đó
làm vừa lòng người Do-thái, nhà vua lại cho bắt cả ông Phê-rô nữa. Bấy giờ đang
là tuần lễ Bánh Không Men. 4 Bắt được rồi, nhà vua truyền tống ngục
và giao cho bốn tốp lính canh gác, mỗi tốp gồm bốn người, định sau lễ Vượt Qua
sẽ điệu ông ra cho dân chúng. 5 Đang khi ông Phê-rô bị giam giữ như
thế, thì Hội Thánh không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết
cho ông.
6
Trong
đêm trước ngày bị vua Hê-rô-đê đem ra xử, ông Phê-rô ngủ giữa hai người lính,
và bị khoá vào hai cái xiềng. Trước cửa ngục lại có lính canh. 7 Bỗng
thiên sứ của Chúa đứng bên cạnh ông, và ánh sáng chói rực cả phòng giam. Thiên
sứ đập vào cạnh sườn ông Phê-rô, đánh thức ông và bảo: ”Đứng dậy mau đi!” Xiềng
xích liền tuột khỏi tay ông. 8 Thiên sứ nói tiếp: ”Thắt lưng lại và
xỏ dép vào!” Ông làm như vậy. Rồi thiên sứ lại bảo ông: ”Khoác áo choàng vào và
đi theo tôi!”9 Ông liền theo ra, mà không biết việc thiên sứ làm đó có thật hay
không, cứ tưởng là mình thấy một thị kiến. 10 Qua vọng canh thứ
nhất, rồi vọng canh thứ hai, thiên sứ và ông tới trước cửa sắt thông ra phố.
Cửa tự động mở ra trước mặt hai người. Ra đến ngoài, đi hết một đường phố, thì
bỗng nhiên thiên sứ bỏ ông mà đi. 11 Lúc ấy ông Phê-rô mới hoàn hồn
và nói: ”Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và
Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Hê-rô-đê, và khỏi mọi điều dân Do-thái mong
muốn tôi phải chịu.”
12
Ý
thức được như vậy, ông đi đến nhà bà Ma-ri-a, mẹ của ông Gio-an, cũng gọi là
Mác-cô; ở đó có khá đông người đang tụ họp và cầu nguyện. 13 Ông đập
cổng thì có một người tớ gái tên là Rô-đê ra nghe ngóng. 14 Nhận ra
tiếng ông Phê-rô, cô mừng quýnh, không mở cổng, mà lại chạy vào báo tin ông
Phê-rô đang đứng ngoài cổng. 15 Người ta bảo cô: ”Đồ khùng!” Nhưng
cô ấy cứ quả quyết là đúng như vậy. Họ nói: ”Thiên sứ của ông ấy đấy!”16 Trong
khi đó, ông Phê-rô tiếp tục đập cổng. Mở cổng ra, thấy ông, họ kinh ngạc. 17
Ông giơ tay làm hiệu bảo họ im lặng, rồi kể cho họ nghe Chúa đã đưa ông
ra khỏi tù thế nào. Ông nói: ”Xin báo tin này cho ông Gia-cô-bê và cho các anh
em.” Rồi ông ra đi, đến một nơi khác.
18
Sáng
ra, bọn lính nhốn nháo không ít: ông Phê-rô đã ra sao rồi? 19Vua Hê-rô-đê cho
truy nã ông: bởi không tìm ra, nhà vua tra hỏi lính canh và ra lệnh điệu họ đi
xử. Rồi nhà vua bỏ miền Giu-đê xuống ở Xê-da-rê.
Cái
chết của vua Hê-rô-đê
20
Nhà
vua đang tức tối với dân thành Tia và Xi-đôn. Họ đồng tâm nhất trí đến yết kiến
nhà vua. Sau khi đã mua chuộc được quan thị vệ của vua là Bơ-lát-tô, họ cầu
hoà, vì lãnh thổ của họ phải nhờ lãnh thổ của nhà vua cung cấp lương thực. 21
Đến ngày hẹn, vua Hê-rô-đê mặc cẩm bào, ngồi trên ngai, ngỏ lời với họ. 22
Dân hoan hô: ”Tiếng thần minh, chứ không phải tiếng người phàm!”23 Nhưng
ngay lúc đó, thiên sứ của Chúa đánh phạt nhà vua, vì nhà vua đã không tôn vinh
Thiên Chúa. Nhà vua bị giòi bọ rúc rỉa nên đã tắt thở.
Ông
Ba-na-ba và ông Sao-lô trở về An-ti-ô-khi-a
24
Trong
khi ấy, lời Thiên Chúa vẫn lan tràn và phát triển. 25 Còn ông
Ba-na-ba và ông Sao-lô, sau khi đã chu toàn công việc phục vụ tại Giê-ru-sa-lem
thì trở về, đem theo ông Gio-an, cũng gọi là Mác-cô.
Chương 13
III.
CUỘC HÀNH TRÌNH TRUYỀN GIÁO CỦA ÔNG BA-NA-BA VÀ ÔNG SAO-LÔ. CÔNG ĐỒNG
GIÊ-RU-SA-LEM
Ông
Ba-na-ba và ông Sao-lô được cử đi truyền giáo
1
Trong
Hội Thánh tại An-ti-ô-khi-a, có những ngôn sứ và thầy dạy, đó là các ông
Ba-na-ba, Si-mê-ôn biệt hiệu là Đen, Lu-ki-ô người Ky-rê-nê, Ma-na-en, bạn thời
thơ ấu của tiểu vương Hê-rô-đê, và Sao-lô. 2 Một hôm, đang khi họ làm
việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo: ”Hãy dành riêng
Ba-na-ba và Sao-lô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm.” 3
Bấy giờ họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi.
Thầy
phù thủy Ê-ly-ma tại đảo Sýp
4
Vậy,
được Thánh Thần sai đi, hai ông xuống Xê-lêu-ki-a, rồi từ đó đáp tàu đi đảo Sýp.
5 Đến Xa-la-min, hai ông loan báo lời Thiên Chúa trong các hội đường
người Do-thái. Có ông Gio-an giúp hai ông.
6
Các
ông đi xuyên qua đảo đến Pa-phô; ở đây các ông gặp một người phù thuỷ, mạo xưng
là ngôn sứ; ông này là người Do-thái, tên là Ba-giê-su. 7 Ông ta ở
với thống đốc Xéc-ghi-ô Phao-lô, một người thông minh. Thống đốc cho mời ông
Ba-na-ba và ông Sao-lô đến và ước ao được nghe lời Thiên Chúa. 8 Nhưng
người phù thủy ấy, tên Hy-lạp là Ê-ly-ma, chống lại hai ông và tìm cách ngăn
cản thống đốc tin Chúa. 9 Bấy giờ ông Sao-lô, cũng gọi là Phao-lô,
được đầy Thánh Thần, nhìn thẳng vào người phù thuỷ, 10 và nói: ”Hỡi
kẻ đầy mọi thứ mưu mô và mọi trò xảo trá, hỡi con cái ma quỷ và kẻ thù của tất
cả những gì là công chính, ngươi không bỏ thói bẻ cong những đường lối ngay
thẳng của Chúa sao? 11 Giờ đây, này bàn tay Chúa giáng xuống trên ngươi: ngươi
sẽ bị mù, không thấy ánh sáng mặt trời trong một thời gian.” Lập tức, mù loà và
tối tăm ập xuống trên người phù thuỷ, và ông ta phải lần mò tìm người dắt. 12
Bấy giờ, thấy việc xảy ra, thống đốc liền tin theo, vì ông rất đỗi ngạc
nhiên về giáo huấn của Chúa.
Hai
ông đến An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a
13
Từ
Pa-phô, ông Phao-lô và các bạn đồng hành vượt biển đến Péc-ghê miền
Pam-phy-li-a. Nhưng ông Gio-an bỏ các ông mà về Giê-ru-sa-lem. 14 Còn
hai ông thì rời Péc-ghê tiếp tục đi An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a. Ngày sa-bát,
hai ông vào hội đường ngồi tham dự. 15 Sau phần đọc sách Luật và
sách Các Ngôn Sứ, các trưởng hội đường cho người đến nói với hai ông: ”Thưa anh
em, nếu anh em muốn khuyên nhủ dân điều gì, xin cứ nói.”
Ông
Phao-lô giảng cho người Do-thái
16
Ông
Phao-lô đứng dậy, giơ tay xin mọi người lưu ý, rồi nói:
17
Thiên
Chúa của dân Ít-ra-en đã chọn cha ông chúng ta, đã làm cho dân này thành một
dân lớn trong thời họ cư ngụ ở đất Ai-cập, và đã giơ cánh tay mạnh mẽ của Người
mà đem họ ra khỏi đó. 18 Và trong thời gian chừng bốn mươi năm,
Người đã nuôi dưỡng họ trong sa mạc. 19 Rồi Người đã tiêu diệt bảy
dân tộc ở đất Ca-na-an và ban đất của chúng cho họ làm gia sản: 20 tất
cả đã xảy ra trong khoảng bốn trăm năm mươi năm. Sau đó, Người ban cho họ các
vị thủ lãnh cho đến thời ngôn sứ Sa-mu-en. 21 Rồi họ đòi có vua,
Thiên Chúa ban cho họ ông Sa-un, con ông Kít thuộc chi tộc Ben-gia-min, trị vì
bốn mươi năm. 22 Sau khi truất phế vua Sa-un, Người đã cho ông
Đa-vít xuất hiện làm vua cai trị họ. Người đã làm chứng về ông rằng: Ta đã tìm
được Đa-vít, con của Gie-sê, một người đẹp lòng Ta và sẽ thi hành mọi ý muốn
của Ta. 23 Từ dòng dõi vua này, theo lời hứa, Thiên Chúa đã đưa đến
cho Ít-ra-en một Đấng Cứu Độ là Đức Giê-su. 24 Để dọn đường cho Đức
Giê-su, ông Gio-an đã rao giảng kêu gọi toàn dân Ít-ra-en chịu phép rửa tỏ lòng
sám hối. 25 Khi sắp hoàn thành sứ mệnh, ông Gio-an đã tuyên bố: ”Tôi
không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa Đấng ấy đến sau tôi, và tôi
không đáng cởi dép cho Người.
26 “Thưa anh em, là con
cái thuộc dòng giống Áp-ra-ham, và thưa anh em đang hiện diện nơi đây, là những
người kính sợ Thiên Chúa, lời cứu độ này được gửi tới chúng ta. 27 Dân
cư thành Giê-ru-sa-lem và các thủ lãnh của họ đã không nhận biết Đức Giê-su;
khi kết án Người, họ đã làm cho ứng nghiệm những lời ngôn sứ đọc mỗi ngày
sa-bát. 28 Tuy không thấy Người có tội gì đáng chết, họ vẫn đòi
Phi-la-tô xử tử. 29 Sau khi thực hiện tất cả mọi điều Kinh Thánh
chép về Người, họ đã hạ Người từ trên cây gỗ xuống và mai táng trong mồ. 30
Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết. 31 Trong
nhiều ngày, Đức Giê-su đã hiện ra với những kẻ từng theo Người từ Ga-li-lê lên
Giê-ru-sa-lem. Giờ đây chính họ làm chứng cho Người trước mặt dân.
32 “Còn chúng tôi, chúng
tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng
ta, 33 thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi
làm cho Đức Giê-su sống lại, đúng như lời đã chép trong Thánh vịnh 2: Con là
Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con.
34 “Về việc Người đã làm
cho Đức Giê-su từ cõi chết sống lại, không còn phải hư nát nữa, thì Người phán
thế này: Ta sẽ ban cho các ngươi những ơn lộc đã hứa cho Đa-vít. 35 Vì
vậy ở chỗ khác, lại có lời rằng: Ngài sẽ không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát.
36 Thế mà vua Đa-vít, sau khi phục vụ ý định của Thiên Chúa trong
đời ông, đã an nghỉ, đã được chôn cất bên cạnh tổ tiên và phải hư nát. 37 Còn
Đấng mà Thiên Chúa đã cho trỗi dậy thì không phải hư nát.
38 “Vậy thưa anh em, xin
biết cho điều này: chính nhờ Đấng ấy mà ơn tha tội được loan báo cho anh em; và
trong khi anh em không thể được giải thoát khỏi tội lỗi mà trở nên công chính
nhờ tuân giữ Luật Mô-sê, 39 thì nhờ Người, mọi kẻ tin đều được nên
công chính.
40 “Vậy hãy coi chừng
kẻo lại xảy ra điều đã nói trong sách Các Ngôn Sứ: 41 Hỡi những kẻ
khinh mạn, hãy xem, hãy kinh ngạc sững sờ và biến mất đi! Vì chính vào thời các
ngươi, Ta sắp làm một việc, một việc mà các ngươi sẽ chẳng tin, nếu có ai kể
lại cho các ngươi.
42
Khi
ông Phao-lô và ông Ba-na-ba đi ra, người ta mời hai ông lại nói về đề tài ấy
ngày sa-bát sau. 43Tan buổi họp, có nhiều người Do-thái và nhiều người đạo
theo, tức là những người tôn thờ Thiên Chúa, đi theo hai ông. Hai ông nói
chuyện với họ và khuyên nhủ họ gắn bó với ơn Thiên Chúa.
Ông
Phao-lô và ông Ba-na-ba hướng về dân ngoại
44
Ngày
sa-bát sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa. 45 Thấy
những đám đông như vậy, người Do-thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời
ông Phao-lô nói và nhục mạ ông. 46 Bấy giờ ông Phao-lô và ông
Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng: ”Anh em phải là những người đầu tiên được nghe
công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không
xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. 47
Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn
dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.”
48
Nghe
thế, dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất cả những người đã được Thiên
Chúa định cho hưởng sự sống đời đời, đều tin theo. 49 Lời Chúa lan
tràn khắp miền ấy.
50
Nhưng
người Do-thái sách động nhóm phụ nữ hượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những
thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phao-lô và ông Ba-na-ba, và
trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. 51 Hai ông liền giũ bụi
chân phản đối họ và đi tới I-cô-ni-ô. 52 Còn các môn đệ được tràn
đầy hoan lạc và Thánh Thần.
Chương 14
Loan
báo Tin Mừng tại I-cô-ni-ô
1
Tại
I-cô-ni-ô cũng xảy ra như vậy: hai ông vào hội đường người Do-thái và giảng
dạy, khiến rất đông người Do-thái và Hy-lạp tin theo.
2
Nhưng
những người Do-thái không tin theo thì xúi giục những người ngoại và làm cho họ
có ác cảm với các anh em.
3
Vậy
hai ông ở lại một thời gian khá lâu, mạnh dạn vì dựa vào Chúa, là Đấng chứng
nhận lời giảng về ân sủng của Người, khi cho tay các ông thực hiện những dấu lạ
điềm thiêng.
4
Quần
chúng trong thành chia rẽ, kẻ thì đứng về phía người Do-thái, kẻ thì đứng về
phía các Tông Đồ. 5 Những người ngoại và những người Do-thái, cùng
với các thủ lãnh của họ, mưu toan làm nhục và ném đá hai ông. 6 Biết
thế, hai ông lánh sang các thành miền Ly-cao-ni-a là Lýt-ra, Đéc-bê và các vùng
phụ cận; 7 và tại đó các ông tiếp tục loan báo Tin Mừng.
Ông
Phao-lô chữa một người bại chân
8
Tại
Lýt-ra, có một người bại hai chân ngồi đó; anh ta bị què từ khi lọt lòng mẹ,
chưa hề đi được bước nào. 9 Anh nghe ông Phao-lô giảng. Ông nhìn
thẳng vào anh và thấy anh có lòng tin để được cứu chữa, 10 thì lớn
tiếng nói: ”Anh trỗi dậy đi, hai chân đứng thẳng!” Anh đứng phắt dậy và đi lại
được.
11
Thấy
việc ông Phao-lô làm, đám đông hô lên bằng tiếng Ly-cao-ni-a: ”Thần linh mặc
lốt người phàm đã xuống với chúng ta!”12 Họ gọi ông Ba-na-ba là thần Dớt, ông
Phao-lô là thần Héc-mê, vì ông là người phát ngôn. 13 Thầy tư tế đền
thờ thần Dớt ở ngoại thành đem bò và vòng hoa đến trước cổng thành, và cùng với
đám đông, muốn dâng lễ tế. 14 Nghe biết được, hai tông đồ Ba-na-ba
và Phao-lô xé áo mình ra, xông vào đám đông mà kêu lên: 15 “Hỡi các
bạn, các bạn làm gì thế này? Chúng tôi đây cũng chỉ là người phàm, cùng thân
phận với các bạn. Chúng tôi loan Tin Mừng cho các bạn, là hãy bỏ những cái hão
huyền này đi, mà trở lại cùng Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã tạo thành trời đất
với biển khơi cùng muôn loài trong đó. 16 Trong những thế hệ đã qua,
Người để cho muôn dân đi theo đường lối của họ. 17 Tuy vậy Người
không ngừng làm chứng cho mình, khi thi ân giáng phúc, ban mưa từ trời và mùa
màng sung túc cho các bạn, và cho các bạn được no lòng, được an vui.” 18 Nói
vậy mà hai ông vẫn còn phải vất vả mới can được đám đông không dâng lễ tế cho
hai ông. 19 Bấy giờ có những người Do-thái từ An-ti-ô-khi-a và
I-cô-ni-ô đến, thuyết phục được đám đông. Họ ném đá ông Phao-lô rồi lôi ông ra
ngoài thành, vì tưởng ông đã chết. 20 Nhưng khi các môn đệ xúm lại
quanh ông, ông đứng dậy và vào thành. Hôm sau, ông trẩy đi Đéc-bê cùng với ông
Ba-na-ba.
21
Sau
khi đã loan Tin Mừng cho thành ấy và nhận khá nhiều người làm môn đệ, hai ông
trở lại Lýt-ra, I-cô-ni-ô và An-ti-ô-khi-a. 22 Hai ông củng cố tinh
thần các môn đệ, và khuyên nhủ họ giữ vững đức tin. Hai ông nói: ”Chúng ta phải
chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa.” 23 Trong mỗi Hội
Thánh, hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục, và sau khi ăn chay cầu nguyện, hai
ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin.
24
Hai
ông đi qua miền Pi-xi-đi-a mà đến miền Pam-phy-li-a, 25 rao giảng
lời Chúa tại Péc-ghê, rồi xuống Át-ta-li-a. 26 Từ đó hai ông vượt
biển về An-ti-ô-khi-a, là nơi trước đây các ông đã được giao phó cho ân sủng
của Thiên Chúa để làm công việc vừa mới hoàn thành.
27
Khi
tới nơi, hai ông tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng
làm với hai ông, và việc Người đã mở cửa cho các dân ngoại đón nhận đức tin. 28
Rồi hai ông ở lại một thời gian khá lâu với các môn đệ.
Chương 15
Cuộc
tranh luận tại An-ti-ô-khi-a
1
Có
những người từ miền Giu-đê đến dạy anh em rằng: ”Nếu anh em không chịu phép cắt
bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ.” 2 Ông
Phao-lô và ông Ba-na-ba chống đối và tranh luận khá gay go với họ. Người ta bèn
quyết định cử ông Phao-lô, ông Ba-na-ba và một vài người khác lên Giê-ru-sa-lem
gặp các Tông Đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận này.
3
Các
ông được Hội Thánh tiễn đưa. Khi đi qua miền Phê-ni-xi và miền Sa-ma-ri, các
ông tường thuật việc các dân ngoại đã trở lại với Thiên Chúa, khiến tất cả các
anh em rất đỗi vui mừng. 4 Tới Giê-ru-sa-lem, các ông được Hội
Thánh, các Tông Đồ và kỳ mục tiếp đón, và các ông kể lại tất cả những gì Thiên
Chúa đã cùng làm với các ông.
Cuộc
tranh luận tại Giê-ru-sa-lem
5
Có
những người thuộc phái Pha-ri-sêu đã trở thành tín hữu, bấy giờ đứng ra nói
rằng: ”Phải làm phép cắt bì cho người ngoại và truyền cho họ giữ luật Mô-sê.” 6
Các Tông Đồ và các kỳ mục bèn họp nhau để xem xét vụ này.
Diễn
từ của ông Phê-rô
7
Sau
khi các ông đã tranh luận nhiều, ông Phê-rô đứng lên nói: ”Thưa anh em, anh em
biết: ngay từ những ngày đầu, Thiên Chúa đã chọn tôi giữa anh em, để các dân
ngoại được nghe lời Tin Mừng từ miệng tôi và tin theo. 8 Thiên Chúa
là Đấng thấu suốt mọi tâm can đã chứng tỏ Người chấp nhận họ, khi ban Thánh
Thần cho họ cũng như đã ban cho chúng ta. 9 Người không phân biệt
chút nào giữa chúng ta với họ, vì đã dùng đức tin để thanh tẩy lòng họ. 10
Vậy bây giờ, sao anh em lại thử thách Thiên Chúa, mà quàng vào cổ các môn
đệ một cái ách mà cả cha ông chúng ta lẫn chúng ta đã không có sức mang nổi? 11
Vả lại, chính nhờ ân sủng Chúa Giê-su mà chúng ta tin mình được cứu độ, cùng
một cách như họ.”
12
Bấy
giờ toàn thể hội nghị im lặng. Họ nghe ông Ba-na-ba và ông Phao-lô thuật lại
các dấu lạ điềm thiêng Thiên Chúa đã dùng hai ông mà làm giữa các dân ngoại.
Diễn
từ của ông Gia-cô-bê
13
Khi
hai ông dứt lời, ông Gia-cô-bê lên tiếng nói: ”Thưa anh em, xin nghe tôi đây: 14
Ông Si-môn đã thuật lại cho chúng ta rằng: ngay từ đầu, Thiên Chúa đã
đoái thương chọn trong các dân ngoại một dân mang danh Người. 15 Những
lời các ngôn sứ cũng phù hợp với điều ấy, như đã chép: 16 Sau đó, Ta
sẽ trở lại, và sẽ xây dựng lại lều Đa-vít đã sụp đổ; đống hoang tàn đó, Ta sẽ
xây dựng lại, và Ta sẽ dựng lại lều ấy. 17 Như vậy các người còn lại
và tất cả các dân ngoại được mang danh Ta sẽ tìm kiếm Chúa. Chúa phán như vậy, 18
Người là Đấng cho biết những điều ấy tự ngàn xưa.
19 “Vì vậy, phần tôi,
tôi xét là không được gây phiền hà cho những người gốc dân ngoại trở lại với
Thiên Chúa, 20 nhưng chỉ viết thư bảo họ kiêng những thức ăn ô uế vì
đã cúng cho ngẫu tượng, tránh gian dâm, kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết
và kiêng ăn tiết. 21 Thật vậy, từ những thế hệ xa xưa, trong mỗi
thành ông Mô-sê đều có những người rao giảng: họ đọc lời của ông trong các hội
đường mỗi ngày sa-bát.”
Thư
của các Tông Đồ
22
Bấy
giờ các Tông Đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy
người trong các ông, để phái đi An-ti-ô-khi-a với ông Phao-lô và ông Ba-na-ba.
Đó là ông Giu-đa, biệt danh là Ba-sa-ba, và ông Xi-la, những người có uy tín
trong Hội Thánh. 23 Các ông trao cho phái đoàn bức thư sau:
24
Chúng
tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm,
mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang. 25
Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu,
và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi
là ông Ba-na-ba và ông Phao-lô, 26 những người đã cống hiến cuộc đời
vì danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. 27 Vậy chúng tôi cử ông
Giu-đa và ông Xi-la đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây: 28 Thánh
Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác
ngoài những điều cần thiết này: 29 là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu
tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh
em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh.”
Các
đại biểu đến An-ti-ô-khi-a
30
Sau
khi được mọi người tiễn chân, các đại biểu xuống An-ti-ô-khi-a, triệu tập cộng
đoàn lại và trao bức thư. 31 Đọc thư xong, họ vui mừng vì lời khích
lệ đó. 32 Ông Giu-đa và ông Xi-la, vì cũng là ngôn sứ, đã nói chuyện
lâu với các anh em mà khuyên nhủ và làm cho họ được vững mạnh. 33 Hai
ông ở lại một thời gian, rồi các anh em lại tiễn chân hai ông trở về bình an
với những người đã phái hai ông đi. 34 Nhưng ông Xi-la quyết định ở
lại, chỉ một mình ông Giu-đa đi. 35 Còn ông Phao-lô và ông Ba-na-ba
thì ở lại An-ti-ô-khi-a. Cùng với nhiều người khác, hai ông giảng dạy và loan
báo Tin Mừng lời Chúa.
IV.
NHỮNG CUỘC HÀNH TRÌNH TRUYỀN GIÁO CỦA ÔNG PHAO-LÔ
Ông
Phao-lô và ông Ba-na-ba chia tay. Ông Phao-lô chọn ông Xi-la làm cộng tác viên
36
Ít
ngày sau, ông Phao-lô nói với ông Ba-na-ba: ”Ta hãy trở lại thăm các anh em
trong mỗi thành ta đã loan báo lời Chúa, xem họ ra sao.” 37 Ông
Ba-na-ba muốn đem theo cả ông Gio-an cũng gọi là Mác-cô. 38 Nhưng
ông Phao-lô thì nghĩ là một người đã từng bỏ hai ông từ khi ở miền Pam-phy-li-a
và đã không cộng tác với hai ông, thì không nên đem theo. 39 Hai bên
nổi nóng đến mức phải chia tay nhau. Ông Ba-na-ba đem ông Mác-cô theo, vượt
biển đi đảo Sýp. 40 Còn ông Phao-lô thì chọn ông Xi-la và lên đường,
sau khi đã được các anh em giao phó cho ân sủng Chúa.
Ông
Phao-lô chọn thêm ông Ti-mô-thê
41
Ông
đi qua miền Xy-ri và miền Ki-li-ki-a, và làm cho các Hội Thánh được vững mạnh.
Chương 16
1
Ông
đến Đéc-bê, rồi đến Lýt-ra. Ở đó có một môn đệ tên là Ti-mô-thê, mẹ là người
Do-thái đã tin Chúa, còn cha là người Hy-lạp. 2 Ông được các anh em
ở Lýt-ra và I-cô-ni-ô chứng nhận là tốt. 3 Ông Phao-lô muốn ông ấy
cùng lên đường với mình, nên đã đem ông đi làm phép cắt bì, vì nể các người
Do-thái ở những nơi ấy; thật vậy, ai cũng biết cha ông là người Hy-lạp.
4
Khi
đi qua các thành, các ông truyền lại cho các anh em những chỉ thị đã được các
Tông Đồ và kỳ mục ở Giê-ru-sa-lem ban bố, để họ tuân giữ.
5
Vậy
các Hội Thánh được vững mạnh trong đức tin và mỗi ngày thêm đông số.
Đi
qua miền A-xi-a
6
Các
ông đi qua miền Phy-ghi-a và Ga-lát, vì Thánh Thần ngăn cản không cho các ông
rao giảng lời Chúa ở A-xi-a. 7 Khi tới sát ranh giới My-xi-a, các
ông thử vào miền Bi-thy-ni-a, nhưng Thần Khí Đức Giê-su không cho phép. 8 Các
ông bèn đi qua miền My-xi-a mà xuống Trô-a.
9
Ban
đêm, ông Phao-lô thấy một thị kiến: một người miền Ma-kê-đô-ni-a đứng đó, mời
ông rằng: ”Xin ông sang Ma-kê-đô-ni-a giúp chúng tôi!”10 Sau khi ông thấy thị kiến
đó, lập tức chúng tôi tìm cách đi Ma-kê-đô-ni-a, vì hiểu ra rằng Thiên Chúa kêu
gọi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho họ.
Đến
Phi-líp-phê
11
Xuống
tàu ở Trô-a, chúng tôi đi thẳng đến đảo Xa-mốt-ra-kê, rồi hôm sau đến
Nê-a-pô-li. 12 Từ đó chúng tôi đi Phi-líp-phê là thị trấn quan trọng
nhất trong hạt ấy của tỉnh Ma-kê-đô-ni-a, và là thuộc địa Rô-ma. Chúng tôi ở
lại thành đó mấy ngày. 13 Ngày sa-bát, chúng tôi ra khỏi cổng thành,
men theo bờ sông, đến một chỗ chúng tôi đoán chừng có nơi cầu nguyện. Chúng tôi
ngồi xuống nói chuyện với những phụ nữ đang họp nhau tại đó. 14 Có
một bà tên là Ly-đi-a, quê ở Thy-a-ti-ra, chuyên buôn bán vải điều. Bà là người
tôn thờ Thiên Chúa; bà nghe, và Chúa mở lòng cho bà để bà chú ý đến những lời
ông Phao-lô nói. 15 Sau khi bà và cả nhà đã chịu phép rửa, bà mời
chúng tôi: ”Các ông đã coi tôi là một tín hữu Chúa, thì xin các ông đến ở nhà
tôi.” Và bà ép chúng tôi phải nhận lời.
Ông
Phao-lô và ông Xi-la bị bắt giam
16
Một
hôm, đang khi chúng tôi đi tới nơi cầu nguyện, một đầy tớ gái đón gặp chúng
tôi; cô ta bị quỷ thần ốp, và thuật bói toán của cô làm lợi nhiều cho các chủ
của cô. 17 Cô lẽo đẽo theo ông Phao-lô và chúng tôi mà kêu: ”Các ông
này là tôi tớ Thiên Chúa Tối Cao; họ loan báo cho các người con đường cứu độ.” 18
Cô cứ làm thế trong nhiều ngày. Bực mình, ông Phao-lô quay lại bảo quỷ:
”Nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, ta truyền cho ngươi phải xuất khỏi người này!”
Ngay lúc ấy, quỷ thần liền xuất.
19
Các
chủ của cô thấy hy vọng kiếm lợi đã tiêu tan, liền túm lấy ông Phao-lô và ông
Xi-la mà lôi đến quảng trường, đưa ra trước nhà chức trách. 20 Họ
điệu hai ông đến các quan toà và nói: ”Những người này gây xáo trộn trong thành
phố chúng ta; họ là người Do-thái, 21 và họ truyền bá những tập tục
mà người Rô-ma chúng ta không được phép chấp nhận và thi hành.” 22 Đám
đông nổi lên chống hai ông. Các quan toà, sau khi đã cho lột áo hai ông, thì ra
lệnh đánh đòn. 23 Khi đã đánh nhừ tử, họ tống hai ông vào ngục, và
truyền cho viên cai ngục phải canh giữ cẩn thận. 24 Được lệnh đó,
người này tống hai ông vào phòng giam sâu nhất và cùm chân lại.
Các
nhà truyền giáo được giải thoát cách lạ lùng
25
Vào
quãng nửa đêm, ông Phao-lô và ông Xi-la hát thánh ca cầu nguyện với Thiên Chúa;
các người tù nghe hai ông hát. 26 Bỗng nhiên có động đất mạnh, khiến
nền móng nhà tù phải rung chuyển. Ngay lúc đó, tất cả các cửa mở toang và xiềng
xích của mọi người buột tung ra. 27 Viên cai ngục choàng dậy và thấy
các cửa ngục mở toang, liền rút gươm định tự tử, vì tưởng rằng các người tù đã
trốn đi. 28 Nhưng ông Phao-lô lớn tiếng bảo: ”Ông chớ hại mình làm
chi: chúng tôi còn cả đây mà!”
29
Viên
cai ngục bảo lấy đèn, nhảy bổ vào, run rẩy sấp mình dưới chân ông Phao-lô và
ông Xi-la, 30 rồi đưa hai ông ra ngoài và nói: ”Thưa các ngài, tôi
phải làm gì để được cứu độ?” 31 Hai ông đáp: ”Hãy tin vào Chúa
Giê-su, thì ông và cả nhà sẽ được cứu độ.” 32 Hai ông liền giảng lời
Chúa cho viên cai ngục cùng mọi người trong nhà ông ấy. 33 Ngay lúc
đó, giữa ban đêm, viên cai ngục đem hai ông đi, rửa các vết thương, và lập tức
ông ấy được chịu phép rửa cùng với tất cả người nhà. 34 Rồi ông ấy
đưa hai ông lên nhà, dọn bàn ăn. Ông và cả nhà vui mừng vì đã tin Thiên Chúa.
35
Sáng
ngày ra, các quan toà sai vệ binh đến nói với viên cai ngục: ”Thả những người
ấy ra!”36 Viên cai ngục báo tin ấy cho ông Phao-lô: ”Các quan toà sai người đến
bảo thả các ngài. Vậy bây giờ xin các ngài ra và đi bình an.” 37 Nhưng
ông Phao-lô nói với họ: ”Chúng tôi là những công dân Rô-ma, không có án gì cả,
mà họ đã đánh đòn chúng tôi trước công chúng, rồi tống ngục. Bây giờ họ lại lén
lút tống chúng tôi ra! Không được! Họ phải đích thân đến đưa chúng tôi ra!”
38
Các
vệ binh trình lại những lời ấy cho các quan toà. Những ông này sợ hãi khi nghe
biết hai ông là công dân Rô-ma. 39 Họ bèn đến xin lỗi, rồi đưa hai
ông ra và xin hai ông rời khỏi thành phố. 40 Ra khỏi ngục, hai ông
đến nhà bà Ly-đi-a; sau khi gặp các anh em và khuyên nhủ họ, hai ông ra đi.
Chương 17
Ông
Phao-lô gặp khó khăn với người Do-thái tại Thê-xa-lô-ni-ca
1
Hai
ông đi ngang qua Am-phi-pô-li và A-pô-lô-ni-a, đến Thê-xa-lô-ni-ca, là nơi có
một hội đường của người Do-thái. 2 Theo thói quen, ông Phao-lô đến
với họ, và trong ba ngày sa-bát liền, ông thảo luận với họ; dựa vào Kinh Thánh,
ông 3 giải thích và xác định rằng Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình và sống lại từ
cõi chết; ông nói: ”Đấng Ki-tô ấy, chính là Đức Giê-su mà tôi rao giảng cho anh
em.” 4 Trong nhóm đó, có mấy người đã chịu tin theo và nhập đoàn với
ông Phao-lô và ông Xi-la; một số rất đông những người Hy-lạp tôn thờ Thiên Chúa
và không ít phụ nữ quý phái cũng làm như vậy.
5
Nhưng
người Do-thái sinh ghen tức, họ quy tụ một số du đãng đầu đường xó chợ, họp
thành đám đông, gây náo động trong thành. Họ kéo đến nhà ông Gia-xon, tìm ông
Phao-lô và ông Xi-la để đưa hai ông ra trước đại hội toàn dân. 6 Không
tìm thấy hai ông, họ bèn lôi ông Gia-xon và một số anh em ra trước nhà chức
trách thành phố, mà kêu la rằng: ”Những tên gây rối trong cả thiên hạ, nay vác
mặt đến đây, 7 thế mà Gia-xon lại chứa chấp chúng! Tất cả bọn này đi
ngược lại các chiếu chỉ của hoàng đế Xê-da, vì chúng nói rằng có một vua khác
là Giê-su.” 8 Nghe những lời ấy, đám đông và các nhà chức trách
thành phố xôn xao, 9 họ đòi ông Gia-xon và những người kia phải nộp
tiền ký quỹ rồi mới thả ra.
Lại
gặp khó khăn ở Bê-roi-a
10
Ngay
đêm ấy, các anh em tiễn ông Phao-lô và ông Xi-la đi Bê-roi-a. Đến nơi, các ông
vào hội đường người Do-thái. 11 Những người Do-thái ở đây cởi mở hơn
những người ở Thê-xa-lô-ni-ca: họ đón nhận lời Chúa với tất cả nhiệt tâm, ngày
ngày tra cứu Sách Thánh để xem có đúng như vậy không. 12 Vậy nhiều
người trong nhóm họ tin theo; về phía người Hy-lạp, cũng có nhiều phụ nữ thượng
lưu và nhiều đàn ông cũng tin theo.
13
Nhưng
khi người Do-thái ở Thê-xa-lô-ni-ca biết là ông Phao-lô cũng loan báo lời Thiên
Chúa ở Bê-roi-a nữa, thì họ lại đến đấy sách động và gây xôn xao trong dân
chúng. 14 Bấy giờ các anh em lập tức tiễn ông Phao-lô ra tận bờ
biển; còn ông Xi-la và ông Ti-mô-thê thì vẫn ở lại đó. 15 Các người
tháp tùng đưa ông Phao-lô đến A-thê-na rồi từ đó trở về, mang theo lệnh bảo ông
Xi-la và ông Ti-mô-thê phải đến với ông Phao-lô càng sớm càng tốt.
Ông
Phao-lô giảng ở A-thê-na
16
Trong
khi ông Phao-lô đợi hai ông ở A-thê-na, ông nổi giận vì thấy thành phố nhan
nhản những tượng thần. 17 Vậy ông thảo luận trong hội đường với
những người Do-thái và những người tôn thờ Thiên Chúa, và ngoài quảng trường
mỗi ngày với những người qua lại. 18 Có mấy triết gia thuộc phái
Khoái Lạc và phái Khắc Kỷ cũng trao đổi với ông. Kẻ thì nói: ”Con vẹt đó muốn
nói gì vậy?” Người khác lại bảo: ”Hình như ông ta rao giảng về những thần xa
lạ", vì ông Phao-lô loan báo Tin Mừng về Đức Giê-su và về sự Phục Sinh.
19
Họ
mời ông đi với họ đến Hội đồng A-rê-ô-pa-gô và nói: ”Chúng tôi có thể biết thứ
đạo lý mới ông dạy là gì không? 20 Quả ông có đem đến cho chúng tôi một số điều
lạ tai; vậy chúng tôi muốn biết những điều đó nghĩa là gì.” 21 Thật
thế, mọi người A-thê-na và kiều dân ở đó chỉ để thời giờ bàn tán hay nghe những
chuyện mới nhất.
Diễn
từ của ông Phao-lô trước Hội đồng A-rê-ô-pa-gô
22
Đứng
giữa Hội đồng A-rê-ô-pa-gô, ông Phao-lô nói: ”Thưa quý vị người A-thê-na, tôi
thấy rằng, về mọi mặt, quý vị là người sùng đạo hơn ai hết. 23 Thật
vậy, khi rảo qua thành phố và nhìn lên những nơi thờ phượng của quý vị, tôi đã
thấy có cả một bàn thờ, trên đó khắc chữ: ”Kính thần vô danh". Vậy Đấng
quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị.
24 “Thiên Chúa, Đấng tạo
thành vũ trụ và muôn loài trong đó, Đấng làm Chúa Tể trời đất, không ngự trong
những đền do tay con người làm nên. 25 Người cũng không cần được bàn
tay con người phục vụ, như thể Người thiếu thốn cái gì, vì Người ban cho mọi
loài sự sống, hơi thở và mọi sự. 26 Từ một người duy nhất, Thiên
Chúa đã tạo thành toàn thể nhân loại, để họ ở trên khắp mặt đất; Người đã vạch
ra những thời kỳ nhất định và những ranh giới cho nơi ở của họ. 27 Như
vậy là để họ tìm kiếm Thiên Chúa; may ra họ dò dẫm mà tìm thấy Người, tuy rằng
thực sự Người không ở xa mỗi người chúng ta. 28 Thật vậy, chính ở
nơi Người mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu, như một số thi sĩ của quý vị
đã nói: ”Chúng ta cũng thuộc dòng giống của Người.
29 “Vậy, vì là dòng
giống Thiên Chúa, chúng ta không được nghĩ rằng thần linh giống như hình tượng
do nghệ thuật và tài trí con người chạm trổ trên vàng, bạc hay đá.
30 “Vậy mà Thiên Chúa nhắm
mắt bỏ qua những thời người ta không nhận biết Người. Bây giờ Người truyền cho
người ta rằng mọi người ở mọi nơi phải sám hối, 31 vì Người đã ấn
định một ngày để xét xử thiên hạ theo công lý, nhờ một người mà Người đã chỉ
định. Để bảo đảm điều ấy với mọi người, Thiên Chúa đã làm cho vị này sống lại
từ cõi chết.”
32
Vừa
nghe nói đến người chết sống lại, kẻ thì nhạo cười, kẻ thì nói: ”Để khi khác
chúng tôi sẽ nghe ông nói về vấn đề ấy.” 33 Thế là ông Phao-lô bỏ họ
mà đi. 34 Nhưng có mấy người đã theo ông và tin Chúa, trong số đó có
ông Đi-ô-ny-xi-ô, thành viên Hội đồng A-rê-ô-pa-gô và một phụ nữ tên là
Đa-ma-ri cùng những người khác nữa.
Chương 18
Thành
lập Hội Thánh Cô-rin-tô
1
Sau
đó, ông Phao-lô rời A-thê-na đi Cô-rin-tô. 2 Tại đây, ông gặp một
người Do-thái tên là A-qui-la, quê ở Pon-tô, vừa mới từ I-ta-li-a đến, cùng với
vợ là Pơ-rít-ki-la, vì hoàng đế Cơ-lau-đi-ô đã ra lệnh cho mọi người Do-thái
phải rời Rô-ma. Ông Phao-lô đến thăm hai ông bà, 3 và vì cùng nghề,
nên ông ở lại nhà họ và cùng làm việc: họ làm nghề dệt lều. 4 Mỗi
ngày sa-bát, ông thảo luận tại hội đường, cố thuyết phục cả người Do-thái lẫn
người Hy-lạp.
5
Khi
ông Xi-la và ông Ti-mô-thê từ Ma-kê-đô-ni-a xuống, thì ông Phao-lô chỉ lo
giảng, long trọng làm chứng cho người Do-thái biết rằng Đức Giê-su chính là
Đấng Ki-tô. 6 Bởi họ chống đối và nói lộng ngôn, nên ông giũ áo mà
bảo họ: ”Máu các người cứ đổ xuống trên đầu các người! Phần tôi, tôi vô can; từ
nay trở đi, tôi sẽ đến với người ngoại.” 7 Ông rời bỏ chỗ ấy đến nhà
một người ngoại tôn thờ Thiên Chúa, tên là Ti-xi-ô Giút-tô, ở sát bên hội đường.
8 Ông Cơ-rít-pô, trưởng hội đường, tin Chúa, cùng với cả nhà. Nhiều
người Cô-rin-tô đã nghe ông Phao-lô giảng cũng tin theo và chịu phép rửa. 9
Một đêm, Chúa bảo ông Phao-lô trong một thị kiến: ”Đừng sợ! Cứ nói đi,
đừng làm thinh, 10 vì Thầy ở với anh; không ai tra tay hại anh được,
vì Thầy có một dân đông đảo trong thành này.” 11 Ông Phao-lô ở lại
đó một năm rưỡi, dạy cho họ lời Thiên Chúa.
Người
Do-thái đưa ông Phao-lô ra toà
12
Thời
ông Ga-li-on làm thống đốc tỉnh A-khai-a, người Do-thái nhất tề nổi dậy chống
ông Phao-lô; họ đưa ông ra toà 13 và nói: ”Tên này xúi giục người ta tôn thờ
Thiên Chúa trái với Lề Luật.” 14 Ông Phao-lô toan mở miệng, thì ông
Ga-li-on đã nói với người Do-thái: ”Hỡi người Do-thái, giả như có gì là trái
Luật hay phạm pháp, thì lẽ đương nhiên là tôi sẽ chịu khó nghe các ông. 15
Nhưng đây lại là những chuyện tranh luận về giáo thuyết, danh từ, luật lệ
riêng của các ông, thì các ông hãy tự xét lấy. Phần tôi, tôi không muốn xét xử
những điều ấy.” 16 Rồi ông đuổi họ ra khỏi toà án. 17 Mọi
người liền túm lấy ông Xốt-thê-nê, trưởng hội đường, mà đánh túi bụi ngay trước
toà án. Nhưng ông Ga-li-on chẳng bận tâm gì về việc này.
Ông
Phao-lô trở về An-ti-ô-khi-a và bắt đầu cuộc hành trình thứ ba
18
Ông
Phao-lô còn ở lại Cô-rin-tô khá lâu, rồi từ giã các anh em và vượt biển sang
miền Xy-ri, cùng với bà Pơ-rít-ki-la và ông A-qui-la. Trước đó, tại Ken-khơ-rê,
ông xuống tóc, vì có lời khấn.
19
Khi
đến Ê-phê-xô, ông Phao-lô từ biệt hai người kia. Phần ông, ông vào hội đường và
thảo luận với người Do-thái. 20 Họ xin ông ở lại lâu hơn. Ông không
chịu. 21 Nhưng khi từ giã họ, ông nói: ”Để lần khác tôi sẽ trở lại
với các ông, nếu Thiên Chúa muốn.” Rồi ông xuống tàu rời Ê-phê-xô.
22
Đến
Xê-da-rê, ông lên Giê-ru-sa-lem chào thăm Hội Thánh, rồi xuống An-ti-ô-khi-a. 23
Sau khi ở đó một thời gian, ông ra đi, lần lượt qua miền Ga-lát và
Phy-ghi-a và làm cho tất cả các môn đệ được vững mạnh.
Ông
A-pô-lô
24
Có
một người Do-thái tên là A-pô-lô, quê ở A-lê-xan-ri-a, đã đến Ê-phê-xô; ông là
người có tài hùng biện và thông thạo Kinh Thánh. 25 Ông đã được học
Đạo Chúa; với tâm hồn nồng nhiệt, ông thường lên tiếng giảng dạy chính xác
những điều liên quan đến Đức Giê-su, tuy rằng ông chỉ biết có phép rửa của ông
Gio-an. 26 Ông bắt đầu mạnh dạn rao giảng trong hội đường. Sau khi
nghe ông nói, bà Pơ-rít-ki-la và ông A-qui-la mời ông về nhà trình bày Đạo của
Thiên Chúa cho ông chính xác hơn.
27
Ông
A-pô-lô muốn sang miền A-khai-a thì các anh em khuyến khích ông và viết thư xin
các môn đệ tiếp đón ông. Khi đến nơi, nhờ ơn Chúa, ông đã giúp ích nhiều cho
các tín hữu, 28 vì ông mạnh mẽ và công khai bẻ lại người Do-thái,
dẫn Kinh Thánh mà minh chứng rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô.
Chương 19
Môn
đệ của ông Gio-an Tẩy Giả tại Ê-phê-xô
1
Trong
khi ông A-pô-lô ở Cô-rin-tô thì ông Phao-lô đi qua miền thượng du đến Ê-phê-xô.
Ông Phao-lô gặp một số môn đệ 2 và hỏi họ: ”Khi tin theo, anh em đã nhận được
Thánh Thần chưa?” Họ trả lời: ”Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa
hề được nghe nói.” 3 Ông hỏi: ”Vậy anh em đã được chịu phép rửa
nào?” Họ đáp: ”Phép rửa của ông Gio-an.” 4 Ông Phao-lô nói: ”Ông
Gio-an đã làm một phép rửa tỏ lòng sám hối, và ông bảo dân tin vào Đấng đến sau
ông, tức là Đức Giê-su.” 5 Nghe nói thế, họ chịu phép rửa nhân danh
Chúa Giê-su. 6 Và khi ông Phao-lô đặt tay trên họ, thì Thánh Thần
ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và nói tiên tri. 7 Cả nhóm có
chừng mười hai người.
Thành
lập Hội Thánh Ê-phê-xô
8
Ông
Phao-lô vào hội đường, và trong vòng ba tháng, ông mạnh dạn rao giảng, thảo
luận về Nước Thiên Chúa và cố gắng thuyết phục họ. 9 Nhưng có một số
người cứng lòng, không chịu tin, lại còn nói xấu Đạo trước mặt cộng đoàn, nên
ông tuyệt giao với họ, tách các môn đệ ra; ngày ngày ông thảo luận trong trường
học của ông Ty-ran-nô. 10 Cứ như thế trong vòng hai năm, khiến mọi
người ở A-xi-a, Do-thái cũng như Hy-lạp, đều được nghe lời Chúa.
Những
người Do-thái làm nghề trừ quỷ
11
Thiên
Chúa dùng tay ông Phao-lô mà làm những phép lạ phi thường, 12 đến
nỗi người ta lấy cả khăn cả áo đã chạm đến da thịt ông mà đặt trên người bệnh,
và bệnh tật biến đi, tà thần cũng phải xuất.
13
Có
mấy người Do-thái đi đây đi đó làm nghề trừ quỷ cũng thử lấy danh Chúa Giê-su
mà chữa những người bị tà thần ám. Họ nói: ”Nhân danh Đức Giê-su mà ông Phao-lô
rao giảng, ta truyền lệnh cho các ngươi!”14 Ông Xi-kêu-a nọ, thượng tế Do-thái,
có bảy con trai thường làm như vậy. 15 Nhưng tà thần đáp: ”Đức
Giê-su, tao biết; ông Phao-lô, tao cũng tường; còn bay, bay là ai?” 16 Rồi
người bị tà thần ám xông vào họ, đè cả bọn xuống đánh túi bụi, khiến họ phải bỏ
nhà ấy mà chạy trốn, trần truồng và đầy thương tích. 17 Mọi người ở
Ê-phê-xô, Do-thái cũng như Hy-lạp, đều biết chuyện ấy; ai cũng sợ hãi, và thiên
hạ tán dương danh Chúa Giê-su.
18
Trong
số các tín hữu, có nhiều người đến thú nhận và kể ra những phù phép của mình. 19
Khá đông người làm nghề phù thủy đem gom sách vở mà đốt trước mặt mọi
người; tổng cộng số sách ấy trị giá tới năm mươi ngàn đồng bạc.
20
Như
vậy, nhờ uy lực của Chúa, lời Chúa cứ lan tràn và thêm vững mạnh.
V.
KẾT THÚC NHỮNG CUỘC HÀNH TRÌNH TRUYỀN GIÁO. ÔNG PHAO-LÔ, NGƯỜI TÙ CỦA ĐỨC KI-TÔ
Các
dự định của ông Phao-lô
21
Sau
khi những việc ấy xảy ra, ông Phao-lô được Thánh Thần thúc đẩy, quyết định đi
ngang qua miền Ma-kê-đô-ni-a và miền A-khai-a mà về Giê-ru-sa-lem; ông nói: ”Về
đó rồi, tôi còn phải đi thăm Rô-ma nữa.” 22 Ông sai hai người trong
các phụ tá của ông là Ti-mô-thê và Ê-rát-tô đi Ma-kê-đô-ni-a, còn ông thì ở lại
A-xi-a một thời gian.
Thợ
bạc Ê-phê-xô gây rối loạn
23
Vào
thời kỳ ấy, xảy ra một vụ rối loạn khá trầm trọng liên quan đến Đạo. 24 Số
là có một người thợ bạc tên là Đê-mết-ri-ô, chuyên làm mô hình đền nữ thần
Ác-tê-mi bằng bạc, và nhờ đó đem lại cho các người thợ một nguồn lợi không nhỏ.
25 Ông ta tập hợp họ và những người làm nghề tương tự, và nói: ”Thưa
các bạn, các bạn thừa biết là nhờ việc làm ăn này mà chúng ta phát tài. 26
Thế mà, như các bạn thấy và nghe biết: không những ở Ê-phê-xô này, mà gần
như trong khắp cả A-xi-a, tên Phao-lô ấy đã thuyết phục và làm cho một đám đông
đáng kể thay lòng đổi dạ, khi hắn nói rằng thần linh do tay người làm ra không
phải là thần. 27 Như vậy, có nguy cơ là không những ngành nghề của
chúng ta bị chê bai, mà cả đền thờ đại nữ thần Ác-tê-mi cũng bị người ta coi
chẳng ra gì, và rốt cuộc vị nữ thần mà toàn A-xi-a và cả thiên hạ tôn thờ cũng
chẳng còn gì là vĩ đại nữa.” 28 Nghe nói thế, họ đầy lòng căm phẫn
và thét lên: ”Vĩ đại thay, thần Ác-tê-mi của người Ê-phê-xô!”29 Cả thành đầy
hỗn loạn, người ta ùn ùn kéo đến hí trường, lôi theo ông Gai-ô và ông
A-rít-ta-khô là những người Ma-kê-đô-ni-a, bạn đồng hành của ông Phao-lô. 30
Ông Phao-lô muốn ra trước đại hội toàn dân, nhưng các môn đệ không cho. 31
Có mấy vị chức sắc tỉnh A-xi-a, là bạn của ông Phao-lô, cũng sai người
đến khuyên ông đừng liều mình đến hí trường.
32
Dân
chúng hò la, kẻ thế này, người thế nọ, đại hội trở nên hỗn loạn và phần đông
không biết mình họp nhau để làm gì. 33 Trong đám đông, có những
người nói rõ sự thể cho ông A-lê-xan-đê biết, vì người Do-thái đã đưa ông ra.
Ông A-lê-xan-đê giơ tay làm hiệu tỏ ý muốn thanh minh với đại hội toàn dân. 34
Nhưng khi nhận ra ông là người Do-thái, thì tất cả mọi người đồng thanh
hò hét suốt gần hai tiếng đồng hồ: ”Vĩ đại thay, thần Ác-tê-mi của người
Ê-phê-xô!”35 Sau cùng, viên thư ký thành phố trấn an đám đông, ông nói: ”Thưa
đồng bào Ê-phê-xô, có ai trong loài người lại không biết rằng thành Ê-phê-xô
được coi sóc đền thần Ác-tê-mi vĩ đại và giữ pho tượng của người từ trời rơi
xuống? 36 Điều đó hẳn không ai chối cãi được, vậy đồng bào hãy bình tĩnh và
đừng làm gì hấp tấp. 37 Đồng bào đã đưa những người này tới đây: họ
không phạm thánh cũng chẳng nói lộng ngôn chống nữ thần của chúng ta. 38 Vậy
nếu ông Đê-mết-ri-ô và các thợ cùng đi với ông có điều gì kiện cáo ai, thì đã
có các phiên toà, các thống đốc: họ cứ việc đưa nhau ra toà! 39 Ngoài ra, nếu
đồng bào còn điều gì khác muốn yêu cầu, thì đại hội hợp pháp sẽ giải quyết. 40
Quả thế, điều xảy ra hôm nay có nguy cơ làm chúng ta bị tố cáo về tội nổi
loạn, vì không có lý do nào để chúng ta có thể biện minh việc tụ họp này.” Nói
thế rồi, ông giải tán đại hội.
Chương 20
Ông
Phao-lô rời Ê-phê-xô
1
Sau
khi cuộc náo động chấm dứt, ông Phao-lô mời các môn đệ tới, khuyên nhủ họ, rồi
chào từ biệt và lên đường đi Ma-kê-đô-ni-a. 2 Ông đi qua miền đó, nói
nhiều lời khuyên nhủ các anh em, rồi tới Hy-lạp 3 và ở lại đó ba tháng. Vì
người Do-thái âm mưu hại ông, nên khi sắp xuống tàu sang miền Xy-ri, ông quyết
định qua ngã Ma-kê-đô-ni-a mà về. 4 Cùng đi với ông, có ông
Xô-pát-rô, con ông Py-rô, người Bê-roi-a, hai ông A-rít-ta-khô và Xê-cun-đô,
người Thê-xa-lô-ni-ca, ông Gai-ô, người Đéc-bê, ông Ti-mô-thê, hai ông
Ty-khi-cô và Trô-phi-mô, người A-xi-a. 5 Các ông này đã đi trước
chúng tôi và đợi chúng tôi ở Trô-a. 6 Phần chúng tôi, sau tuần lễ
Bánh Không Men, chúng tôi xuống tàu rời Phi-líp-phê, và năm ngày sau gặp các
ông ấy ở Trô-a và ở lại đó bảy ngày.
Ở
Trô-a, ông Phao-lô làm cho một người chết sống lại
7
Ngày
thứ nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau để bẻ bánh. Ông Phao-lô thảo luận với
các anh em, và vì hôm sau ông ra đi, nên ông đã kéo dài cuộc nói chuyện đến mãi
nửa đêm. 8 Có khá nhiều đèn ở lầu trên, nơi chúng tôi họp nhau. 9
Một thiếu niên kia, tên là Êu-ty-khô, ngồi ở cửa sổ, đã thiếp đi và ngủ
say trong khi ông Phao-lô vẫn cứ giảng. Vì ngủ say, nên nó ngã từ tầng thứ ba
xuống. Vực lên, thì nó đã chết. 10 Ông Phao-lô xuống, cúi mình trên
nó, ôm lấy và nói: ”Đừng xôn xao nữa, vì nó sống mà!”11 Rồi ông lên, bẻ bánh và
ăn. Ông còn nói chuyện khá lâu, mãi đến tảng sáng mới ra đi. 12 Người
ta đưa cậu bé đang sống về, và ai nấy được an ủi không ít.
Từ
Trô-a đến Mi-lê-tô
13
Chúng
tôi xuống tàu trước đi Át-xô, là nơi chúng tôi sẽ đón ông Phao-lô; ông đã sắp
đặt như thế, vì ông tính đi đường bộ. 14 Khi ông gặp lại chúng tôi ở
Át-xô, chúng tôi đón ông xuống tàu rồi đi tới Mi-ty-len. 15 Từ đó
chúng tôi vượt biển và hôm sau tới ngang đảo Khi-ô. Hôm sau nữa, chúng tôi cặp
bến ở đảo Xa-mốt, rồi ngày kế đó đến Mi-lê-tô, 16 vì ông Phao-lô đã
quyết định không ghé Ê-phê-xô, để khỏi mất thời giờ ở A-xi-a. Ông vội vã như thế
để, nếu có thể, thì có mặt ở Giê-ru-sa-lem ngày lễ Ngũ Tuần.
Từ
giã các kỳ mục trong Hội Thánh Ê-phê-xô
17
Từ
Mi-lê-tô, ông sai người đi mời các kỳ mục trong Hội Thánh Ê-phê-xô. 18 Khi
họ đến gặp ông, ông nói với họ:
19
Khi
phục vụ Chúa, tôi đã hết lòng khiêm tốn, đã nhiều lần phải rơi lệ, đã gặp bao
thử thách do những âm mưu của người Do-thái. 20 Anh em biết tôi đã
không bỏ qua một điều gì có ích cho anh em; trái lại tôi đã giảng cho anh em và
dạy anh em ở nơi công cộng cũng như tại chốn tư gia. 21 Tôi đã
khuyến cáo cả người Do-thái lẫn người Hy-lạp phải trở về với Thiên Chúa, và tin
vào Đức Giê-su, Chúa chúng ta.
22 “Giờ đây, bị Thần Khí
trói buộc, tôi về Giê-ru-sa-lem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó,
23 trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến
cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. 24 Nhưng
mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng
đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giê-su, là long trọng làm chứng cho
Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa.
25 “Giờ đây tôi biết
rằng: tất cả anh em, những người tôi đã đến thăm để rao giảng Nước Thiên Chúa,
anh em sẽ không còn thấy mặt tôi nữa. 26 Vì vậy, hôm nay tôi xin
tuyên bố với anh em rằng: nếu có ai trong anh em phải hư mất, thì tôi vô can. 27
Thật tôi đã không bỏ qua điều gì, trái lại đã rao giảng cho anh em tất cả
ý định của Thiên Chúa.
28 “Anh em hãy ân cần lo
cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi
sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Người đã mua bằng máu của
chính mình.
29 “Phần tôi, tôi biết
rằng khi tôi đi rồi, thì sẽ có những sói dữ đột nhập vào anh em, chúng không
tha đàn chiên. 30 Ngay từ giữa hàng ngũ anh em sẽ xuất hiện những
người giảng dạy những điều sai lạc, hòng lôi cuốn các môn đệ theo chúng. 31
Vì vậy anh em phải canh thức, và nhớ rằng, suốt ba năm, ngày đêm tôi đã
không ngừng khuyên bảo mỗi người trong anh em, lắm khi phải rơi lệ.
32 “Giờ đây, tôi xin phó
thác anh em cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người, là lời có sức xây dựng
và ban cho anh em được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những người đã được
thánh hiến.
33 “Vàng bạc hay quần áo
của bất cứ ai, tôi đã chẳng ham. 34 Chính anh em biết rõ: những gì
cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. 35
Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng
cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: cho thì
có phúc hơn là nhận.”
36
Nói
thế rồi, ông Phao-lô cùng với tất cả các anh em quỳ gối xuống cầu nguyện. 37
Ai nấy oà lên khóc và ôm cổ ông mà hôn. 38 Họ đau đớn nhất vì
lời ông vừa nói là họ sẽ không còn thấy mặt ông nữa. Rồi họ tiễn ông xuống tàu.
Chương 21
Ông
Phao-lô lên Giê-ru-sa-lem
1
Đến
khi dứt ra được mà xuống tàu, chúng tôi đi thẳng đến đảo Cô, ngày hôm sau đến
đảo Rô-đô, rồi từ đó đến Pa-ta-ra. 2 Gặp chuyến đi Phê-ni-xi, chúng
tôi xuống tàu và ra khơi. 3 Khi trông thấy đảo Sýp, chúng tôi đi
vòng phía nam mà hướng về Xy-ri, và cập bến tại Tia, vì tàu phải đổ hàng ở đó. 4
Tìm gặp được các môn đệ, chúng tôi ở lại đó bảy ngày. Được Thần Khí soi
sáng, họ nói với ông Phao-lô đừng lên Giê-ru-sa-lem. 5 Nhưng khi hết
thời gian ở đó, chúng tôi ra đi và lên đường, có tất cả các môn đệ cùng với vợ
con họ tiễn chân đến tận ngoại thành. Chúng tôi quỳ xuống trên bãi biển mà cầu
nguyện. 6 Sau khi từ biệt nhau, chúng tôi xuống tàu, còn họ thì trở
về nhà.
7
Phần
chúng tôi, để kết thúc chuyến vượt biển này, chúng tôi đi từ Tia đến
Pơ-tô-lê-mai; chúng tôi chào thăm các anh em ở đó và ở lại với họ một ngày. 8
Hôm sau chúng tôi lên đường và đến Xê-da-rê. Chúng tôi vào nhà ông
Phi-líp-phê, người loan báo Tin Mừng, thuộc nhóm Bảy người, và ở lại với ông. 9
Ông này có bốn người con gái đồng trinh được ơn nói tiên tri. 10 Đang
khi chúng tôi ở lại đó nhiều ngày, có một ngôn sứ tên là A-ga-bô từ miền Giu-đê
xuống. 11 Ông đến thăm chúng tôi và lấy dây lưng của ông Phao-lô tự
trói chân tay lại và nói: ”Đây là điều Thánh Thần phán: người có dây lưng này
sẽ bị người Do-thái trói lại như thế ở Giê-ru-sa-lem mà nộp vào tay người
ngoại.” 12 Nghe vậy, chúng tôi và các người địa phương nài xin ông
Phao-lô đừng lên Giê-ru-sa-lem. 13 Bấy giờ ông Phao-lô trả lời: ”Có
gì mà anh em phải khóc và làm tan nát trái tim tôi? Phần tôi, tôi sẵn sàng
không những để cho người ta trói, mà còn chịu chết tại Giê-ru-sa-lem vì danh
Chúa Giê-su.” 14 Không thể thuyết phục được ông, chúng tôi đành thôi
và nói: ”Xin cho ý Chúa được thể hiện!”
Ông
Phao-lô tới Giê-ru-sa-lem
15
Sau
mấy ngày đó, khi đã chuẩn bị xong, chúng tôi lên Giê-ru-sa-lem. 16 Có
những môn đệ từ Xê-da-rê cùng đi với chúng tôi; họ dẫn chúng tôi đến trọ nhà
ông Mơ-na-xon người Sýp, một môn đệ kỳ cựu.
17
Khi
chúng tôi đến Giê-ru-sa-lem, các anh em niềm nở đón tiếp chúng tôi. 18 Hôm
sau, ông Phao-lô cùng đi với chúng tôi đến nhà ông Gia-cô-bê, ở đó có đông đủ
các kỳ mục đang họp. 19 Sau khi chào hỏi, ông Phao-lô kể lại từng
chi tiết những gì Thiên Chúa đã dùng việc phục vụ của ông mà làm nơi các dân
ngoại. 20 Nghe nói thế, họ tôn vinh Thiên Chúa, rồi nói với ông Phao-lô:
”Thưa anh, anh thấy có hàng vạn người Do-thái đã tin theo, và tất cả đều nhiệt
thành đối với Luật Mô-sê. 21 Thế mà họ đã nghe nói về anh rằng: anh
dạy tất cả những người Do-thái sống giữa các dân ngoại phải bỏ ông Mô-sê, anh
bảo họ đừng làm phép cắt bì cho con cái, và đừng giữ các tục lệ nữa. 22 Vậy
phải làm gì? Thế nào người ta cũng sẽ nghe biết là anh đã tới. 23 Vậy
xin anh làm như chúng tôi nói với anh đây: chúng tôi có bốn người đang phải giữ
lời khấn; 24 anh hãy đem họ theo mà cùng làm nghi lễ tẩy uế với họ,
và đài thọ chi phí cho họ để họ có thể xuống tóc. Như vậy ai nấy sẽ biết rằng
những điều họ đã nghe nói về anh chỉ là chuyện không đâu; trái lại, chính anh
cũng ăn ở như người tuân giữ Lề Luật. 25 Còn về những người ngoại đã
tin theo, thì chúng tôi đã viết thư thông báo những quyết định của chúng tôi,
là họ phải kiêng: ăn đồ cúng cho ngẫu tượng, ăn tiết, ăn thịt loài vật không
cắt tiết, và tránh gian dâm.”
26
Bấy
giờ ông Phao-lô đem bốn người kia theo, và ngày hôm sau ông cùng làm nghi lễ
tẩy uế với họ. Rồi ông vào Đền Thờ và loan báo ngày kết thúc thời gian tẩy uế,
là ngày phải dâng lễ vật cầu cho mỗi người trong nhóm họ.
Ông
Phao-lô bị bắt
27
Khi
sắp hết thời gian bảy ngày, những người Do-thái từ A-xi-a đến thấy ông trong
Đền Thờ thì sách động toàn thể đám đông và tra tay bắt ông. 28 Họ
tri hô: ”Hỡi đồng bào Ít-ra-en, giúp một tay nào! Nó kia kìa, tên vẫn đi mọi
nơi dạy cho mọi người những điều phản dân, phạm đến Lề Luật và Nơi Thánh này!
Nó còn đem cả mấy người Hy-lạp vào Đền Thờ mà làm cho Nơi Thánh này ra ô uế.” 29
Họ nói thế là vì trước đó họ đã thấy ông Trô-phi-mô, người Ê-phê-xô, cùng
đi với ông Phao-lô trong thành, và họ nghĩ ông Phao-lô đã đưa ông ấy vào Đền
Thờ.
30
Cả
thành phố sôi động và dân đổ xô đến. Họ túm lấy ông Phao-lô, lôi ra khỏi Đền
Thờ; lập tức người ta đóng các cửa Đền Thờ lại. 31 Họ còn đang tìm
cách giết ông, thì có tin báo lên cho vị chỉ huy cơ đội: ”Cả Giê-ru-sa-lem náo
động!”32 Lập tức, ông ta huy động một số binh sĩ và đại đội trưởng, và xông vào
đám đông. Vừa thấy vị chỉ huy và binh sĩ, thì họ thôi không đánh ông Phao-lô
nữa. 33 Bấy giờ vị chỉ huy lại gần, bắt ông và ra lệnh lấy hai cái
xiềng còng ông lại, rồi hỏi cho biết ông là ai và đã làm gì. 34 Đám
đông la hét, kẻ thế này, người thế nọ. Vì quá ồn ào, vị chỉ huy không thể biết
được điều gì chắc chắn, nên mới ra lệnh đem ông Phao-lô về đồn. 35 Khi
đến bậc thềm, binh sĩ phải khiêng ông đi, vì đám đông quá hung bạo. 36 Dân
cứ theo sau cả đám mà hò la: ”Giết nó đi!”
37
Khi
sắp bị đem vào đồn, ông Phao-lô nói với vị chỉ huy: ”Tôi có được phép nói với
ông một lời chăng?” Ông này đáp: ”Ông biết tiếng Hy-lạp à? 38 Vậy ra ông không
phải là tên Ai-cập, trước đây ít lâu, đã xúi bốn ngàn tên khủng bố nổi loạn và
dẫn chúng vào sa mạc hay sao?” 39 Ông Phao-lô nói: ”Tôi đây là người
Do-thái, quê ở Tác-xô miền Ki-li-ki-a, công dân một thành không phải là không
có tiếng tăm. Xin ông cho phép tôi ngỏ lời với dân.” 40 Được vị chỉ
huy cho phép, ông Phao-lô đứng trên bậc thềm giơ tay làm hiệu cho dân. Mọi
người im phăng phắc; ông Phao-lô nói với họ bằng tiếng Híp-ri:
Chương 22
Ông
Phao-lô nói với người Do-thái ở Giê-ru-sa-lem (Cv 9:1-19; 26:12-18 )
1 “Thưa quý vị là những
bậc cha anh, xin nghe những lời biện bạch tôi nói với quý vị bây giờ đây.” 2
Khi nghe thấy ông nói với họ bằng tiếng Híp-ri, họ càng yên lặng hơn. Ông
nói tiếp: 3 “Tôi là người Do-thái, sinh ở Tác-xô miền Ki-li-ki-a,
nhưng tôi đã được nuôi dưỡng tại thành này; dưới chân ông Ga-ma-li-ên, tôi đã
được giáo dục để giữ Luật cha ông một cách nghiêm ngặt. Tôi cũng đã nhiệt thành
phục vụ Thiên Chúa như tất cả các ông hiện nay. 4 Tôi đã bắt bớ Đạo
này, không ngần ngại giết kẻ theo Đạo, đã đóng xiềng và tống ngục cả đàn ông
lẫn đàn bà, 5 như cả vị thượng tế lẫn toàn thể hội đồng kỳ mục có
thể làm chứng cho tôi. Tôi còn được các vị ấy cho thư giới thiệu với anh em ở
Đa-mát, và tôi đi để bắt trói những người ở đó, giải về Giê-ru-sa-lem trừng
trị.
6 “Đang khi tôi đi
đường và đến gần Đa-mát, thì vào khoảng trưa, bỗng nhiên có một luồng ánh sáng
chói lọi từ trời chiếu xuống bao phủ lấy tôi. 7 Tôi ngã xuống đất và
nghe có tiếng nói với tôi: ”Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta? 8 Tôi đáp:
”Thưa Ngài, Ngài là ai? Người nói với tôi: ”Ta là Giê-su Na-da-rét mà ngươi
đang bắt bớ. 9 Những người cùng đi với tôi trông thấy có ánh sáng,
nhưng không nghe thấy tiếng Đấng đang nói với tôi. 10 Tôi nói: ”Lạy
Chúa, con phải làm gì? Chúa bảo tôi: ”Hãy đứng dậy, đi vào Đa-mát, ở đó người
ta sẽ nói cho anh biết tất cả những gì Thiên Chúa đã chỉ định cho anh phải làm.
11 Vì ánh sáng chói loà kia làm cho tôi không còn trông thấy nữa,
nên tôi đã được các bạn đồng hành cầm tay dắt vào Đa-mát.
12 “Ở đó, có ông
Kha-na-ni-a, một người sùng đạo, sống theo Lề Luật và được mọi người Do-thái ở
Đa-mát chứng nhận là tốt. 13 Ông đến, đứng bên tôi và nói: ”Anh
Sa-un, anh thấy lại đi! Ngay lúc đó, tôi thấy lại được và nhìn ông. 14 Ông
nói: ”Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã chọn anh để anh được biết ý muốn của
Người, được thấy Đấng Công Chính và nghe tiếng từ miệng Đấng ấy phán ra. 15
Quả vậy, anh sẽ làm chứng nhân cho Đấng ấy trước mặt mọi người về các
điều anh đã thấy và đã nghe. 16 Vậy bây giờ anh còn chần chừ gì nữa?
Anh hãy đứng lên, chịu phép rửa và thanh tẩy mình cho sạch tội lỗi, miệng kêu
cầu danh Người.
17 “Khi trở về
Giê-ru-sa-lem, đang lúc tôi cầu nguyện trong Đền Thờ, thì tôi xuất thần 18 và
thấy Chúa bảo tôi: ”Mau lên, hãy rời khỏi Giê-ru-sa-lem gấp, vì chúng sẽ không
nhận lời anh làm chứng về Thầy đâu. 19 Tôi thưa: ”Lạy Chúa, chính họ
biết rõ con đây đã đến từng hội đường bắt giam và đánh đòn những kẻ tin Chúa. 20
Khi người ta đổ máu ông Tê-pha-nô, chứng nhân của Chúa, thì chính con
cũng có mặt, con tán thành và giữ áo cho những kẻ giết ông ấy. 21 Chúa
bảo tôi: ”Hãy đi, vì Thầy sẽ sai anh đến với các dân ngoại ở phương xa.
Ông
Phao-lô, công dân Rô-ma
22
Đám
đông lắng nghe ông Phao-lô nói tới đó thì hét lên: ”Hãy bứng khỏi mặt đất loại
người như thế! Nó không đáng sống!”23 Họ hò la, phất áo và tung bụi lên trời. 24
Vị chỉ huy cơ đội ra lệnh đem ông Phao-lô vào đồn và truyền đánh đòn tra
tấn, để biết lý do tại sao người ta hò hét phản đối ông ấy như vậy. 25 Họ
vừa nọc ông Phao-lô ra để đánh đòn, thì ông nói với viên đại đội trưởng đứng
gần đó: ”Một công dân Rô-ma chưa được xét xử, các ông có được phép đánh đòn
không?” 26 Nghe vậy, viên đại đội trưởng đi báo cáo cho vị chỉ huy
rằng: ”Ông định làm gì bây giờ? Đương sự là công dân Rô-ma!”27 Vị chỉ huy liền
đến gặp ông Phao-lô và hỏi: ”Ông nói cho tôi biết: ông là công dân Rô-ma sao?”
Ông Phao-lô trả lời: ”Phải.” 28 Vị chỉ huy nói tiếp: ”Tôi đây, tôi
phải tốn bao nhiêu tiền của mới mua được quyền công dân ấy.” Ông Phao-lô đáp:
”Còn tôi, sinh ra đã có quyền ấy rồi.” 29 Lập tức những người sắp
tra tấn ông rút lui, còn vị chỉ huy thì phát sợ, vì biết rằng ông Phao-lô là
công dân Rô-ma mà mình lại đã còng ông ấy.
Ông
Phao-lô ra trước Thượng Hội Đồng
30
Hôm
sau, vì muốn biết chắc chắn người Do-thái tố cáo ông Phao-lô về điều gì, vị chỉ
huy tháo xiềng cho ông và ra lệnh cho các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng
họp lại, rồi ông đưa ông Phao-lô từ đồn xuống, để ra trước mặt họ.
Chương 23
1
Ông
Phao-lô nhìn thẳng vào Thượng Hội Đồng rồi nói: ”Thưa anh em, cho đến ngày hôm
nay, tôi đã ăn ở trước mặt Thiên Chúa với một lương tâm hoàn toàn ngay thẳng.” 2
Nhưng thượng tế Kha-na-ni-a truyền cho những người phụ tá đánh vào miệng
ông Phao-lô. 3 Bấy giờ ông Phao-lô nói với ông ấy: ”Bức tường tô vôi
kia, Thiên Chúa sẽ đánh ông! Ông ngồi xử tôi chiếu theo Lề Luật, mà ông lại ra
lệnh đánh tôi trái với Lề Luật!”4 Những người phụ tá nói: ”Vị thượng tế của
Thiên Chúa mà mi dám nguyền rủa sao?” 5 Ông Phao-lô trả lời: ”Thưa
anh em, tôi không biết đó là thượng tế; quả có lời chép: Ngươi không được
nguyền rủa người đầu mục trong dân.”
6
Ông
Phao-lô biết rằng một phần Thượng Hội Đồng thuộc phái Xa-đốc, còn phần kia
thuộc phái Pha-ri-sêu, nên ông nói lớn tiếng giữa hội nghị: ”Thưa anh em, tôi
là người Pha-ri-sêu, thuộc dòng dõi Pha-ri-sêu; chính vì hy vọng rằng kẻ chết
sẽ sống lại mà tôi bị đưa ra xét xử.” 7 Ông vừa nói thế, thì người
Pha-ri-sêu và người Xa-đốc chống đối nhau, khiến hội nghị chia rẽ. 8 Thật
vậy, người Xa-đốc chủ trương rằng chẳng có sự sống lại, chẳng có thiên sứ hay
quỷ thần; còn người Pha-ri-sêu thì lại tin là có. 9 Người ta la lối
om sòm. Có mấy kinh sư thuộc phái Pha-ri-sêu đứng lên phản đối mạnh mẽ: ”Chúng
tôi không thấy người này có gì là xấu. Biết đâu một vị thần hay một thiên sứ đã
nói với ông ấy?” 10 Hai bên chống đối gay gắt đến nỗi vị chỉ huy sợ
người ta xé xác ông Phao-lô, nên mới ra lệnh cho lính xuống lôi ông ra khỏi đám
người đó mà đưa về đồn.
11
Đêm
ấy Chúa đến bên ông Phao-lô và nói: ”Hãy vững lòng! Con đã long trọng làm chứng
cho Thầy ở Giê-ru-sa-lem thế nào, thì con cũng phải làm chứng như vậy tại Rô-ma
nữa.”
Người
Do-thái âm mưu giết ông Phao-lô
12
Sáng
ngày ra, người Do-thái âm mưu với nhau. Họ thề độc là sẽ không ăn không uống,
bao lâu chưa giết được ông Phao-lô. 13 Có trên bốn mươi người đã
cùng thề với nhau như vậy. 14 Họ đến gặp các thượng tế và kỳ mục mà
nói: ”Chúng tôi đã thề độc là sẽ không ăn uống gì, bao lâu chưa giết được tên
Phao-lô. 15 Vậy bây giờ xin quý vị, cùng với Thượng Hội Đồng, đề
nghị vị chỉ huy cho dẫn nó xuống với quý vị, lấy cớ là để điều tra về nó cho
cặn kẽ hơn. Phần chúng tôi, chúng tôi sẵn sàng giết nó trước khi nó tới.”
16
Nhưng
người con trai của bà chị ông Phao-lô nghe biết âm mưu đó, liền đến đồn và vào
báo tin cho ông Phao-lô. 17 Ông Phao-lô mời viên đại đội trưởng đến
và nói: ”Xin ông dẫn cháu này đến gặp vị chỉ huy, vì cháu có điều phải báo cáo
cho ông ấy.” 18 Vậy viên đại đội trưởng đem cậu bé đi theo, dẫn đến
gặp vị chỉ huy mà trình rằng: ”Tù nhân Phao-lô đã mời tôi đến và xin tôi dẫn
cậu này đến gặp ông; cậu ấy có điều phải nói với ông.” 19 Vị chỉ huy
nắm tay cậu bé, đưa riêng ra một nơi mà hỏi: ”Em có điều gì phải báo cáo cho ta
biết?” 20 Cậu bé trả lời: ”Người Do-thái đã đồng ý với nhau là sẽ
xin ông ngày mai cho điệu ông Phao-lô xuống Thượng Hội Đồng, lấy cớ là để tra
hỏi cho cặn kẽ hơn. 21 Vậy xin ông đừng tin họ, vì có trên bốn mươi
người trong bọn họ đang phục sẵn để hại ông ấy; họ đã thề độc là sẽ không ăn
không uống, bao lâu chưa giết được ông ấy. Hiện giờ họ sẵn sàng, chỉ còn chờ
ông chấp thuận.” 22 Vị chỉ huy cho cậu bé về và căn dặn: ”Đừng nói
với ai là em đã tiết lộ những chuyện đó cho ta.”
Ông
Phao-lô bị giải đi Xê-da-rê
23
Ông
gọi hai viên đại đội trưởng đến và bảo: ”Các anh hãy chuẩn bị hai trăm bộ binh,
bảy mươi kỵ binh và hai trăm khinh binh, để ngay giờ thứ ba đêm nay đi Xê-da-rê.
24 Cũng phải có sẵn ngựa cho ông Phao-lô, để đưa ông ấy an toàn đến
với tổng trấn Phê-lích.”
25
Ông
viết một bức thư nội dung như sau: 26 “Cơ-lau-đi-ô Ly-xi-a trân
trọng chào ngài tổng trấn Phê-lích đáng kính. 27 Người này đã bị
người Do-thái bắt và sắp bị họ giết, thì tôi đem lính đến giải thoát, vì được
biết rằng đương sự là công dân Rô-ma. 28 Vì muốn biết rõ họ tố cáo
đương sự về tội gì, tôi đã đưa đương sự ra trước Thượng Hội Đồng của họ. 29
Tôi thấy rằng đương sự bị tố cáo về những vấn đề liên quan đến Lề Luật
của họ, nhưng không có tội gì đáng chết hay đáng bị tù. 30 Được báo
là người ta âm mưu hại đương sự, tôi đã cho giải đương sự lên ngài ngay lập
tức, một trật bảo nguyên cáo muốn kiện đương sự thì cứ lên ngài mà kiện.”
31
Tuân
lệnh trên, binh lính đã nhận ông Phao-lô, và ban đêm đưa ông đi An-ti-pát-ri. 32
Hôm sau, họ để kỵ binh tiếp tục đi với ông, còn họ thì trở về đồn. 33
Đến Xê-da-rê, kỵ binh trình thư và giao ông Phao-lô cho tổng trấn. 34
Tổng trấn đọc thư và hỏi ông là người tỉnh nào. Biết ông là người miền
Ki-li-ki-a, 35 ông nói: ”Tôi sẽ xét vụ của anh, khi nào cả nguyên
cáo nữa cũng đến.” Rồi ông ra lệnh giam ông Phao-lô ở dinh Hê-rô-đê.
Chương 24
Tổng
trấn Phê-lích xử vụ kiện ông Phao-lô
1
Năm
ngày sau, thượng tế Kha-na-ni-a xuống Xê-da-rê cùng với một số kỳ mục và một
trạng sư tên là Téc-tu-lô. Họ đến kiện ông Phao-lô trước toà tổng trấn. 2 Ông
Phao-lô bị gọi ra toà, và ông Téc-tu-lô bắt đầu tố cáo như sau: ”Thưa ngài
Phê-lích đáng kính, nhờ ngài chúng tôi được sống trong cảnh thái bình; nhờ ngài
ân cần săn sóc, dân tộc này được hưởng nhiều cải cách. 3 Ở đâu và
lúc nào chúng tôi cũng đón nhận những ân huệ ấy với tất cả lòng biết ơn. 4
Nhưng để khỏi quấy rầy ngài thêm, chúng tôi sẽ trình bày vắn tắt vụ việc
như sau, xin ngài nghe với tấm lòng khoan hậu sẵn có. 5 Số là chúng
tôi đã bắt gặp tên này, một thứ ôn dịch, chuyên gây bạo loạn giữa mọi người
Do-thái trong thiên hạ, và là đầu sỏ phái Na-da-rét. 6 Y còn mưu
toan xúc phạm đến Đền Thờ, và chúng tôi đã bắt y. 7 Chúng tôi muốn
xử y chiếu theo Luật của chúng tôi, nhưng viên chỉ huy Ly-xi-a đã can thiệp,
dùng bạo lực mà giật y khỏi tay chúng tôi, và truyền cho những người tố cáo y phải
đến trước toà ngài. 8 Tra hỏi y, ngài sẽ có thể biết rõ về mọi điều
chúng tôi tố cáo y.” 9 Người Do-thái tán đồng và quả quyết là đúng
như vậy.
Ông
Phao-lô tự biện hộ trước tổng trấn Rô-ma
10
Tổng
trấn ra hiệu bảo ông Phao-lô nói, ông liền đáp: ”Tôi biết rằng đã từ nhiều năm,
ngài cầm cân nảy mực cho dân tộc này, nên tôi sung sướng biện hộ cho mình. 11
Chính ngài có thể biết rõ: tôi lên Giê-ru-sa-lem hành hương đến nay chưa
quá mười hai ngày. 12 Trong Đền Thờ, trong các hội đường cũng như
trong thành phố, người ta đã không bắt gặp được tôi thảo luận với ai hay sách
động đám đông. 13 Họ cũng không thể đưa ra cho ngài bằng chứng về
những điều bây giờ họ tố cáo tôi.
14 “Tuy nhiên, tôi xin
công nhận với ngài điều này: tôi phụng thờ Thiên Chúa của cha ông chúng tôi
theo Đạo mà họ gọi là bè phái; tôi tin mọi điều chép trong sách Luật Mô-sê và
sách Các Ngôn Sứ. 15 Tôi đặt nơi Thiên Chúa niềm hy vọng này, như
chính họ cũng hy vọng, là người lành và kẻ dữ sẽ sống lại. 16 Vì
thế, cả tôi nữa, tôi cố gắng để trước mặt Thiên Chúa và người ta, lương tâm tôi
không có gì đáng chê trách.
17 “Sau nhiều năm, tôi
về Giê-ru-sa-lem để đem tiền cứu trợ cho dân tộc tôi và để dâng lễ phẩm lên
Thiên Chúa. 18 Chính lúc đó họ bắt gặp tôi trong Đền Thờ, sau khi
tôi làm nghi lễ tẩy uế, không có tụ tập đám đông, cũng không gây ồn ào chi cả. 19
Có mấy người Do-thái từ A-xi-a đến. Đáng lẽ họ phải ra trình diện với
ngài mà tố cáo tôi, nếu như họ có điều gì chống tôi. 20 Hoặc những
người đang có mặt đây cứ nói xem: khi tôi ra trước Thượng Hội Đồng, họ đã tìm
thấy điều gì phạm pháp? 21 Phải chăng là lời duy nhất tôi đã hô lên khi đứng
giữa họ: chính vì sự phục sinh của kẻ chết mà hôm nay tôi bị các ông đưa ra xét
xử?”
Ông
Phao-lô bị giam ở Xê-da-rê
22
Ông
Phê-lích là người biết rất chính xác về Đạo, ông hoãn vụ án lại và nói: ”Khi
nào viên chỉ huy Ly-xi-a xuống, tôi sẽ xét vụ kiện của các người.” 23 Ông
truyền cho viên đại đội trưởng giam ông Phao-lô, nhưng cho ông hưởng chế độ dễ
dãi và không ngăn cấm thân nhân nào đến giúp đỡ ông.
24
Ít
ngày sau, ông Phê-lích cùng đến với vợ là bà Đơ-ru-xi-la, người Do-thái. Ông
cho vời ông Phao-lô đến và nghe ông nói về lòng tin vào Đức Ki-tô Giê-su. 25
Nhưng khi ông Phao-lô biện luận về đức công chính, sự tiết độ và cuộc
phán xét mai sau, thì ông Phê-lích phát sợ nên nói: ”Bây giờ ông có thể lui ra.
Khi nào tiện dịp, tôi sẽ cho gọi ông đến.” 26 Một trật, ông cũng hy
vọng ông Phao-lô đút lót; vì thế ông năng cho vời ông Phao-lô đến nói chuyện.
27
Mãn
hạn hai năm, ông Phê-lích được ông Po-ki-ô Phét-tô đến thay thế. Vì muốn được
lòng người Do-thái, ông Phê-lích cứ để ông Phao-lô ở lại trong tù.
Chương 25
Ông
Phao-lô kháng cáo lên hoàng đế Xê-da
1
Ba
ngày sau khi nhậm chức, tổng trấn Phét-tô từ Xê-da-rê lên Giê-ru-sa-lem. 2
Các thượng tế và thân hào Do-thái đến kiện ông Phao-lô. Họ khẩn khoản 3
xin tổng trấn một ân huệ để hại ông Phao-lô, là đưa ông về Giê-ru-sa-lem, vì họ
đang chuẩn bị một cuộc mai phục để giết ông dọc đường. 4 Nhưng ông
Phét-tô đáp rằng ông Phao-lô đang bị giam giữ ở Xê-da-rê, còn chính ông cũng
sắp sửa về đó ngay. 5 Ông lại thêm: ”Những ai trong các ông có đủ tư
cách, hãy cùng xuống đó với tôi, và nếu đương sự có gì sai trái thì cứ việc
tố.”
6
Sau
khi ở lại Giê-ru-sa-lem không quá tám hay mười ngày, ông xuống Xê-da-rê. Hôm
sau ông ra ngồi toà và truyền điệu ông Phao-lô đến. 7 Ông Phao-lô
vừa tới, thì những người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem xuống đã vây quanh ông: họ tố
cáo ông nhiều tội, mà toàn là tội nặng, nhưng họ không thể minh chứng. 8 Ông
Phao-lô tự biện hộ: ”Tôi không có tội gì đối với Lề Luật Do-thái, đối với Đền
Thờ hay hoàng đế Xê-da.” 9 Ông Phét-tô muốn được lòng người Do-thái
nên đề nghị với ông Phao-lô: ”Ông có muốn lên Giê-ru-sa-lem để được xử tại đó
trước mặt tôi về những lời tố cáo này không?” 10 Nhưng ông Phao-lô
đáp: ”Tôi đang đứng trước toà án của hoàng đế Xê-da, tôi phải được xử tại đó.
Tôi đã không làm gì hại người Do-thái, như chính ngài thừa biết. 11 Nếu
quả thật tôi có tội, nếu tôi đã làm điều gì đáng chết, thì tôi không xin tha
chết. Nhưng nếu những điều tố cáo của các người này là vô căn cứ, thì không ai
có quyền nộp tôi cho họ. Tôi kháng cáo lên hoàng đế Xê-da!”12 Bấy giờ ông
Phét-tô bàn với hội đồng tư vấn, rồi trả lời: ”Ông đã kháng cáo lên hoàng đế
Xê-da, thì ông sẽ lên hoàng đế Xê-da.”
Ông
Phao-lô ra trình diện vua Ác-ríp-pa
13
Ít
ngày sau, vua Ác-ríp-pa và bà Béc-ni-kê đến Xê-da-rê chào mừng ông Phét-tô. 14
Vì hai người ở lại đó nhiều ngày, ông Phét-tô mới đem vụ ông Phao-lô ra
trình bày với nhà vua. Ông nói: ”Ở đây có một người tù ông Phê-lích để lại. 15
Khi tôi tới Giê-ru-sa-lem, các thượng tế và các kỳ mục Do-thái đến kiện
và xin tôi kết án người ấy. 16 Tôi đã trả lời họ rằng người Rô-ma
không có lệ nộp bị cáo nào, trước khi đương sự ra đối chất với nguyên cáo, và
được cơ hội biện hộ về lời tố cáo. 17 Vậy họ cùng đến đây với tôi,
và không chút trì hoãn, ngày hôm sau tôi ra ngồi toà và truyền điệu đương sự
đến. 18 Đứng quanh đương sự, các nguyên cáo đã không đưa ra một tội
trạng nào như tôi tưởng. 19 Họ chỉ tranh luận với ông ta về một số
vấn đề liên quan đến tôn giáo riêng của họ, và liên quan đến một ông Giê-su nào
đó đã chết, mà Phao-lô quả quyết là vẫn sống. 20 Phần tôi, phân vân
trước cuộc tranh luận về những chuyện ấy, tôi hỏi xem ông ta có muốn đi
Giê-ru-sa-lem để được xử tại đó về vụ này không. 21 Nhưng Phao-lô đã
kháng cáo, xin dành vụ này cho Thánh Thượng xét xử, nên tôi đã ra lệnh giữ ông
ta lại cho đến khi giải lên hoàng đế.” 22 Bấy giờ vua Ác-ríp-pa nói
với ông Phét-tô: ”Tôi cũng muốn được nghe ông ta nói.” Ông Phét-tô trả lời:
”Ngày mai ngài sẽ được nghe.”
23
Vậy
hôm sau vua Ác-ríp-pa và bà Béc-ni-kê tiến vào công đường cách rất long trọng,
cùng với các sĩ quan chỉ huy cơ đội và các người có chức vị trong thành phố.
Theo lệnh của ông Phét-tô, người ta điệu ông Phao-lô đến. 24 Ông
Phét-tô nói: ”Kính thưa đức vua Ác-ríp-pa và toàn thể quý vị có mặt ở đây với
chúng tôi, quý vị thấy người này: toàn thể cộng đồng Do-thái đã đến gặp tôi, ở
Giê-ru-sa-lem cũng như ở đây, về việc của đương sự. Họ la lên rằng đương sự
không được phép sống nữa. 25 Phần tôi, tôi không thấy đương sự đã
làm gì đáng chết; nhưng vì chính đương sự đã kháng cáo lên thánh thượng, nên
tôi đã quyết định giải về kinh. 26 Về vụ của đương sự, tôi không có
gì chắc chắn để tâu lên chúa thượng. Vì thế tôi đã đưa đương sự ra trình diện
quý vị, và nhất là ngài, kính thưa đức vua Ác-ríp-pa, để sau lần tra hỏi này,
tôi sẽ có gì để tâu. 27 Vì thiết tưởng giải tù nhân lên, mà không
nói rõ đương sự bị tố cáo về những tội gì, thì thật là vô lý.”
Chương 26
Diễn
từ của ông Phao-lô trước mặt vua Ác-ríp-pa (Cv 9:1-19; 22:6-16 )
1
Vua
Ác-ríp-pa nói với ông Phao-lô: ”Ông được phép tự bào chữa.” Ông Phao-lô bèn giơ
tay ra tự biện hộ:
2 “Kính thưa đức vua
Ác-ríp-pa, tôi lấy làm sung sướng vì hôm nay sắp được tự biện hộ trước mặt
ngài, về mọi điều người Do-thái tố cáo tôi, 3 nhất là vì ngài am
hiểu tất cả những tục lệ và những chuyện tranh luận giữa người Do-thái. Bởi
thế, xin ngài kiên nhẫn nghe tôi nói.
4 “Tôi đã sống như thế
nào từ hồi niên thiếu, ngay từ đầu, giữa dân tộc tôi và tại Giê-ru-sa-lem, điều
đó mọi người Do-thái đều rõ. 5 Từ lâu họ đã biết, và nếu muốn, họ có
thể làm chứng rằng tôi đã sống theo phái nghiêm nhặt nhất trong tôn giáo chúng
tôi, tức là phái Pha-ri-sêu. 6 Và giờ đây tôi bị đưa ra toà chính là
vì hy vọng điều Thiên Chúa đã hứa cho cha ông chúng tôi. 7 Mười hai
chi tộc chúng tôi ngày đêm kiên trì thờ phượng Chúa, hy vọng thấy lời hứa ấy
được thực hiện. Kính thưa đức vua, chính vì niềm hy vọng đó mà tôi bị người
Do-thái tố cáo. 8 Sao trong quý vị lại có người cho rằng việc Thiên
Chúa làm cho kẻ chết sống lại là chuyện không thể tin được?
9 “Về phần tôi, trước
kia tôi nghĩ rằng phải dùng mọi cách để chống lại danh Giê-su người Na-da-rét. 10
Đó là điều tôi đã làm tại Giê-ru-sa-lem. Được các thượng tế uỷ quyền,
chính tôi đã bỏ tù nhiều người trong dân thánh; và khi họ bị xử tử, tôi đã bỏ
phiếu tán thành. 11 Nhiều lần tôi đã rảo khắp các hội đường, dùng
cực hình cưỡng bức họ phải nói lộng ngôn. Tôi đã giận dữ quá mức đến nỗi sang
cả các thành nước ngoài mà bắt bớ họ.
12 “Thế là sau khi được
các thượng tế trao quyền và uỷ nhiệm, tôi lên đường đi Đa-mát. 13 Kính
thưa đức vua, đang khi đi đường, vào lúc trưa, tôi đã thấy một luồng ánh sáng
chói lọi hơn mặt trời, từ trời chiếu toả xuống chung quanh tôi và các bạn đồng
hành. 14 Tất cả chúng tôi đều ngã nhào xuống đất, và tôi nghe có
tiếng nói với tôi bằng tiếng Híp-ri: ”Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Đá
lại mũi nhọn thì khốn cho ngươi! 15 Tôi hỏi: ”Thưa Ngài, Ngài là ai? Chúa đáp:
”Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ. 16 Nhưng ngươi hãy chỗi dậy,
đứng thẳng lên. Ta hiện ra với ngươi là để chọn ngươi làm đầy tớ và làm chứng
nhân về những điều ngươi đã thấy, cũng như những điều Ta sẽ hiện ra mà tỏ cho
ngươi biết. 17 Ta sẽ cứu ngươi thoát khỏi tay dân Do-thái và các dân
ngoại: Ta sai ngươi đến với chúng 18 để mở mắt cho chúng, khiến chúng rời bóng
tối mà trở về cùng ánh sáng, thoát khỏi quyền lực Xa-tan mà trở về cùng Thiên
Chúa. Như vậy, nhờ tin vào Ta, chúng sẽ được ơn tha tội và được hưởng phần gia
tài cùng với các người đã được thánh hiến.”
19 “Từ đó, kính thưa đức
vua Ác-ríp-pa, tôi đã không cưỡng lại thị kiến bởi trời. 20 Trái
lại, tôi đã rao giảng trước hết cho những người ở Đa-mát, rồi cho những người ở
Giê-ru-sa-lem và trong khắp miền Giu-đê, sau đó cho các dân ngoại, kêu gọi họ
sám hối và trở về cùng Thiên Chúa, đồng thời làm những việc chứng tỏ lòng ăn
năn sám hối. 21 Chính vì thế, người Do-thái đã bắt tôi khi tôi đang
ở trong Đền Thờ và tìm cách giết tôi. 22 Được Thiên Chúa phù hộ, cho
đến ngày hôm nay, tôi vẫn tiếp tục làm chứng trước mặt kẻ nhỏ cũng như kẻ lớn;
tôi không nói gì khác ngoài những điều các ngôn sứ và ông Mô-sê đã báo trước sẽ
xảy ra, 23 đó là: Đấng Ki-tô sẽ chịu đau khổ và là người đầu tiên
sống lại từ cõi chết, để loan báo ánh sáng cho dân Do-thái cũng như cho các dân
ngoại.”
Phản
ứng của cử toạ
24
Ông
Phao-lô còn đang tự biện hộ như thế, thì ông Phét-tô lớn tiếng nói: ”Ông
Phao-lô, ông điên mất rồi! Ông hay chữ quá nên hoá điên!”25 Ông Phao-lô đáp:
”Thưa ngài Phét-tô đáng kính, tôi không điên đâu, nhưng tôi nói lên những điều
hợp với sự thật và lẽ phải. 26 Quả thế, đức vua biết rõ những điều
ấy, và tôi mạnh dạn nói với người: tôi tin chắc rằng trong các điều ấy, không
có gì mà người không biết, vì chuyện này đã không xảy ra ở một xó nào đó. 27
Kính thưa đức vua Ác-ríp-pa, chắc là ngài tin các ngôn sứ? Tôi biết là
ngài tin.” 28 Vua Ác-ríp-pa nói với ông Phao-lô: ”Chút nữa là ông
thuyết phục được tôi trở thành Ki-tô hữu rồi đấy!”29 Ông Phao-lô trả lời: ”Chút
nữa hay nhiều nữa, thì tôi cũng xin Thiên Chúa cho, không những ngài, mà hết
mọi người đang nghe tôi nói hôm nay, được trở nên giống như tôi, trừ ra những
xiềng xích này!”
30
Bấy
giờ nhà vua, ông tổng trấn, bà Béc-ni-kê và cử toạ đứng dậy. 31 Khi
ra về, họ nói với nhau: ”Người này không làm chi đáng chết hay đáng bị tù.” 32
Vua Ác-ríp-pa nói với ông Phét-tô: ”Đáng lẽ người này có thể được thả ra,
nếu đã chẳng kháng cáo lên hoàng đế Xê-da.”
Chương 27
Ông
Phao-lô khởi hành đi Rô-ma
1
Khi
có quyết định cho chúng tôi đáp tàu sang I-ta-li-a, người ta giao ông Phao-lô
và mấy tù nhân khác cho một đại đội trưởng tên là Giu-li-ô, thuộc cơ đội
Au-gút-ta. 2 Chúng tôi xuống một chiếc tàu của thành
Át-ra-mýt-ti-on, sắp nhổ neo đi các cảng miền A-xi-a và chúng tôi ra khơi. Cùng
đi với chúng tôi có anh A-rít-ta-khô, một người Ma-kê-đô-ni-a quê
Thê-xa-lô-ni-ca. 3 Hôm sau, chúng tôi cập bến Xi-đôn; ông Giu-li-ô
xử nhân đạo với ông Phao-lô, cho phép ông đi thăm bạn hữu và để họ săn sóc ông.
4 Từ đó, chúng tôi lại ra khơi và đi vòng theo đảo Sýp, vì gió ngược.
5 Rồi chúng tôi vượt qua biển Ki-li-ki-a và Pam-phy-li-a và tới
My-ra miền Ly-ki-a. 6 Ở đấy, viên đại đội trưởng tìm được một chiếc
tàu của thành A-lê-xan-ri-a sắp đi I-ta-li-a, nên ông cho chúng tôi sang tàu
đó.
7
Trong
vòng nhiều ngày, tàu đi chậm, và vất vả lắm chúng tôi mới đến ngang Cơ-ni-đô.
Vì không thuận gió, chúng tôi đi vòng theo đảo Cơ-rê-ta, hướng về phía mũi
Xan-mô-nê. 8 Chúng tôi vất vả đi men theo mũi đó đến một nơi gọi là
Bến Lành, gần đó có thành La-xai-a.
Ông
Phao-lô gặp bão và bị đắm tàu
9
Chúng
tôi đã mất khá nhiều thời gian, và việc đi biển từ nay thật nguy hiểm, vì ngày
ăn chay đã qua rồi. Ông Phao-lô khuyên họ: 10 “Thưa các bạn, tôi
thấy rằng chuyến đi biển này sẽ gây nhiều thiệt hại và mất mát, chẳng những cho
hàng hoá và con tàu, mà còn cho tính mạng chúng ta nữa.” 11 Nhưng
viên đại đội trưởng tin tài công và chủ tàu hơn tin lời ông Phao-lô. 12 Vì
cảng không thích hợp cho tàu ở lại qua mùa đông, nên đa số có ý kiến lại ra
khơi, để nếu có thể thì cập bến và qua mùa đông ở Phê-ních, một cảng khác trên
đảo Cơ-rê-ta quay về hướng tây nam và tây bắc.
13
Một
cơn gió nam thổi nhẹ, khiến họ tưởng rằng có thể thực hiện được ý định, nên nhổ
neo và cho tàu đi men theo đảo Cơ-rê-ta. 14 Nhưng chẳng bao lâu một
trận cuồng phong, gọi là gió đông bắc, từ đảo thổi ra. 15 Tàu bị
cuốn đi, không thể chống chọi với gió, nên chúng tôi đành để cho trôi giạt. 16
Khi chạy vòng phía sau một đảo nhỏ tên là Cau-đa, chúng tôi vất vả lắm
mới ghì chiếc xuồng lại được. 17 Kéo nó lên rồi, họ dùng các phương
tiện cấp cứu, lấy thừng đánh đai con tàu. Rồi, vì sợ tàu bị mắc cạn trong vịnh
Xiếc-ti, họ thả neo nổi và cứ để tàu trôi giạt. 18 Chúng tôi vẫn bị
bão dữ dội, nên hôm sau thủy thủ ném hàng hoá xuống biển, 19 và hôm
sau nữa họ tự tay quăng đồ trang bị của tàu đi. 20 Đã từ nhiều ngày,
chẳng thấy mặt trời hay một vì sao nào xuất hiện, còn bão vẫn thổi mạnh, nên
chúng tôi mất dần hy vọng được cứu.
21
Từ
lâu không ai ăn uống gì; bấy giờ ông Phao-lô đứng giữa họ mà nói: ”Thưa các
bạn, phải chi các bạn đã nghe tôi không rời đảo Cơ-rê-ta, thì đã tránh được
những thiệt hại mất mát này. 22 Nhưng giờ đây tôi khuyên các bạn cứ
can đảm, vì không ai trong các bạn phải mất mạng đâu, chỉ mất tàu thôi. 23
Thật vậy, đêm vừa rồi, một thiên sứ của Thiên Chúa là Chúa Tể của tôi và
là Đấng tôi phụng thờ, đã hiện ra với tôi 24 và bảo: ”Này ông Phao-lô, đừng sợ!
Ông phải ra trước toà hoàng đế Xê-da; vì thương ông, Thiên Chúa cho tất cả
những người cùng đi tàu với ông được sống. 25 Vì thế, thưa các bạn,
hãy can đảm lên! Tôi tin tưởng nơi Thiên Chúa: sự việc sẽ xảy ra đúng như lời
đã phán với tôi. 26 Nhưng chúng ta sẽ phải mắc cạn ở một hòn đảo.”
27
Đến
đêm thứ mười bốn, chúng tôi đang trôi giạt trên biển Át-ri-a, thì vào quãng nửa
đêm, các thủy thủ có cảm giác như đang tới gần đất. 28 Thả dây dò
đáy biển, họ thấy sâu hai mươi sải; cách một quãng, họ lại thả dây dò lần nữa,
thì thấy còn mười lăm sải. 29 Sợ rằng tàu chúng tôi có thể đụng phải
đá ngầm, họ thả bốn chiếc neo ở đằng lái và cầu mong cho trời mau sáng. 30
Nhưng các thủy thủ tìm cách bỏ tàu mà trốn: họ hạ chiếc xuồng xuống biển,
lấy cớ là để thả neo đằng mũi. 31 Ông Phao-lô mới bảo viên đại đội
trưởng và binh sĩ: ”Nếu những người này không ở lại trên tàu, thì các ông không
thể được cứu đâu!”32 Lính bèn cắt đứt dây xuồng, cho nó trôi đi.
33
Trong
khi đợi trời sáng, ông Phao-lô khuyên mọi người nên ăn uống; ông nói: ”Cho đến
hôm nay là mười bốn ngày, các bạn nhịn đói chờ đợi, không ăn gì cả. 34 Vậy
tôi khuyên các bạn nên ăn uống, vì có thế các bạn mới được cứu. Không ai trong
các bạn sẽ mất một sợi tóc trên đầu.” 35 Nói thế rồi, ông cầm lấy
bánh, dâng lời tạ ơn Thiên Chúa trước mặt mọi người, bẻ ra và bắt đầu ăn. 36
Mọi người lấy lại được can đảm và họ cũng ăn uống. 37 Chúng
tôi ở trên tàu tất cả là hai trăm bảy mươi sáu người. 38 Sau khi ăn
no, họ đổ lúa mì xuống biển cho tàu nhẹ bớt.
39
Đến
sáng, họ không nhận ra được đó là đất nào, nhưng thấy rõ một vùng có bãi cát,
và tính chuyện cho tàu chạy vào, nếu có thể. 40 Họ mới gỡ các neo,
bỏ lại dưới biển, đồng thời tháo những thừng cột bánh lái ra; rồi căng buồm
đằng mũi lên cho gió thổi, hướng thẳng vào bãi. 41 Nhưng họ đụng
phải bãi cát ngầm, nên cho tàu mắc cạn ở đó. Mũi tàu đâm vào cát, không nhúc
nhích được, còn đằng lái thì bị sóng mạnh đánh vỡ tan.
42
Bấy
giờ binh sĩ nẩy ra ý muốn giết các người tù, vì sợ có người bơi được mà trốn
mất. 43 Nhưng viên đại đội trưởng muốn cứu ông Phao-lô nên ngăn cản
họ thực hiện ý định. Ông ra lệnh cho những ai biết bơi thì nhảy xuống trước bơi
vào bờ; 44 còn những người khác thì bám vào ván hoặc mảnh tàu vỡ mà
vào. Thế là mọi người vào được bờ và được cứu.
Chương 28
Ông
Phao-lô tại đảo Man-ta
1
Được
cứu rồi, chúng tôi mới biết đảo ấy gọi là Man-ta. 2 Dân địa phương
đối xử với chúng tôi một cách nhân đạo hiếm có. Họ đốt một đống lửa to và tiếp
đón tất cả chúng tôi, vì trời đã bắt đầu mưa và lạnh. 3 Ông Phao-lô
vơ được một mớ cành khô và đang bỏ vào lửa, thì một con rắn độc bị nóng bò ra,
cuốn vào tay ông. 4 Người địa phương thấy con vật lủng lẳng ở tay
ông thì bảo nhau: ”Chắc chắn người này là một tên sát nhân: hắn vừa được cứu
khỏi chết dưới biển, nhưng Thần Công Lý đã không để cho sống.” 5 Nhưng
ông giũ con vật vào lửa mà không hề hấn gì. 6 Họ cứ đợi ông sẽ sưng
phù lên hoặc lăn ra chết; nhưng đợi lâu mà không thấy có gì khác thường xảy đến
cho ông, thì đổi ý và bảo ông là một vị thần.
7
Gần
nơi ấy, có đồn điền của viên quan lớn nhất đảo, tên là Púp-li-ô. Ông tiếp đón
chúng tôi và niềm nở cho chúng tôi trú ngụ trong ba ngày. 8 Có ông
thân sinh ông Púp-li-ô đang liệt giường vì bị sốt và kiết lỵ. Ông Phao-lô vào
thăm, cầu nguyện, đặt tay trên ông và chữa khỏi. 9 Thấy thế, các
bệnh nhân khác trên đảo cũng đến với ông và được chữa lành. 10 Họ
trọng đãi chúng tôi, và khi chúng tôi xuống tàu, họ đã đem tới những gì chúng
tôi cần dùng.
Từ
Man-ta tới Rô-ma
11
Ba
tháng sau, chúng tôi ra khơi trên một chiếc tàu đã qua mùa đông tại đảo; tàu
này của thành A-lê-xan-ri-a và mang huy hiệu hai thần Đi-ốt-cu-ri. 12 Chúng
tôi ghé vào thành Xy-ra-cu-xa và ở lại đó ba ngày. 13 Từ nơi ấy,
chúng tôi đi men theo bờ biển và tới thành Rê-gi-ô. Ngày hôm sau có gió nam nổi
lên, và sau hai ngày chúng tôi tới cảng Pu-tê-ô-li. 14 Ở đây chúng
tôi gặp được những người anh em, họ mời chúng tôi ở lại với họ bảy ngày. Chúng
tôi đến Rô-ma như thế đó.
15
Các
anh em ở Rô-ma nghe tin chúng tôi tới thì đến tận chợ Áp-pi-ô và Ba Quán đón
chúng tôi. Thấy họ, ông Phao-lô tạ ơn Thiên Chúa và thêm can đảm. 16 Khi
chúng tôi vào Rô-ma, ông Phao-lô được phép ở nhà riêng cùng với người lính canh
giữ ông.
Ông
Phao-lô tiếp xúc với kiều bào Do-thái ở Rô-ma
17
Ba
ngày sau, ông mời các thân hào Do-thái đến. Khi họ đã tới đông đủ, ông nói với
họ: ”Thưa anh em, tôi đây, mặc dầu đã không làm gì chống lại dân ta hay các tục
lệ của tổ tiên, tôi đã bị bắt tại Giê-ru-sa-lem và bị nộp vào tay người Rô-ma. 18
Sau khi điều tra, họ muốn thả tôi, vì tôi không có tội gì đáng chết. 19
Nhưng vì người Do-thái chống đối, nên bó buộc tôi phải kháng cáo lên
hoàng đế Xê-da; tuy vậy không phải là tôi muốn tố cáo dân tộc tôi. 20 Đó
là lý do khiến tôi xin được gặp và nói chuyện với anh em, bởi chính vì niềm hy
vọng của Ít-ra-en mà tôi phải mang xiềng xích này.”
21
Họ
nói với ông: ”Về phía chúng tôi, chúng tôi không nhận được thư nào từ Giu-đê
nói về ông, cũng chẳng có ai trong các anh em đến đây báo cáo hoặc nói gì xấu
về ông. 22Chúng tôi muốn được nghe ông trình bày ý nghĩ của ông, vì chúng tôi biết
là phái của ông đến đâu cũng gặp chống đối.”
Ông
Phao-lô tuyên bố với kiều bào Do-thái ở Rô-ma
23
Họ
hẹn ngày với ông, và hôm đó đến gặp ông tại nhà trọ đông hơn. Ông trình bày cho
họ và long trọng làm chứng về Nước Thiên Chúa; từ sáng đến chiều, ông dựa vào
Luật Mô-sê và các ngôn sứ mà nói về Đức Giê-su, để cố thuyết phục họ. 24 Nghe
ông nói, người thì được thuyết phục, người thì không chịu tin. 25 Khi
giải tán, họ vẫn không đồng ý với nhau; ông Phao-lô chỉ nói thêm một lời:
”Thánh Thần đã nói rất đúng khi dùng ngôn sứ I-sai-a mà phán với cha ông anh em
26 rằng: Hãy đến gặp dân này và nói: Các ngươi có lắng tai nghe cũng không
hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; 27 vì lòng dân này đã ra chai
đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu
được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành.
28 “Vậy xin anh em biết
cho rằng: ơn cứu độ này của Thiên Chúa đã được gửi đến cho các dân ngoại; họ
thì họ sẽ nghe.” 29 Ông nói thế rồi thì người Do-thái đi ra, tranh
luận với nhau rất sôi nổi.
30
Suốt
hai năm tròn, ông Phao-lô ở tại nhà ông đã thuê, và tiếp đón tất cả những ai
đến với ông. 31 Ông rao giảng Nước Thiên Chúa và dạy về Chúa Giê-su
Ki-tô, một cách rất mạnh dạn, không gặp ngăn trở nào.
Rô-ma
Chương 1
Lời
mở đầu
1
Tôi
là Phao-lô, tôi tớ của Đức Ki-tô Giê-su; tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành
riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa. 2 Tin Mừng ấy, xưa Người
đã dùng các ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh. 3 Đó là
Tin Mừng về Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
4
Nhưng
xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con
Thiên Chúa với tất cả quyền năng.
5
Nhờ
Người, chúng tôi đã nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ, làm cho hết thảy các
dân ngoại vâng phục Tin Mừng hầu danh Người được rạng rỡ. 6 Trong số
đó, có cả anh em, là những người đã được kêu gọi để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô.
7
Kính
gửi tất cả anh em ở Rô-ma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi
làm dân thánh.
Xin
Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và
bình an.
Tạ
ơn và cầu xin
8
Trước
hết, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, tôi tạ ơn Thiên Chúa của tôi về tất cả anh em, vì
trong khắp hoàn cầu, ai ai cũng đều nói đến lòng tin của anh em. 9 Thiên
Chúa là Đấng tôi hết lòng thờ phượng khi loan báo Tin Mừng về Con của Người,
chính Người làm chứng cho tôi là tôi hằng nhắc nhở đến anh em: 10 mỗi
khi cầu nguyện, tôi hằng xin Người cho tôi có ngày nào được dịp tốt đến thăm
anh em, nếu Người muốn. 11 Thật vậy, tôi rất ước ao được gặp anh em,
để chia sẻ với anh em phần nào ân huệ của Thánh Thần, nhờ đó anh em vững mạnh, 12
nghĩa là để chúng ta cùng khích lệ nhau, bởi vì cả anh em lẫn tôi, chúng
ta đều chung một niềm tin. 13 Thưa anh em, tôi không muốn để anh em
chẳng hay biết là đã nhiều lần tôi có ý định đến thăm anh em, mong cũng thâu
lượm được kết quả nào đó nơi anh em, như đã thâu lượm được nơi các dân ngoại
khác, nhưng cho đến nay tôi cứ bị ngăn trở hoài. 14 Tôi mắc nợ người
Hy-lạp cũng như người man-di, người thông thái cũng như người dốt nát. 15 Bởi
vậy, tôi nóng lòng loan báo Tin Mừng cho cả anh em nữa, những người đang sống ở
Rô-ma.
CON
NGƯỜI ĐƯỢC CỨU ĐỘ NHỜ ĐỨC TIN
1.
THIÊN CHÚA LÀM CHO CON NGƯỜI NÊN CÔNG CHÍNH
Đề
tài bức thư
16
Vâng,
tôi không hổ thẹn vì Tin Mừng. Quả thế, Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để
cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp. 17
Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức
tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được
sống.
A.
NGƯỜI NGOẠI VÀ NGƯỜI DO-THÁI PHẢI CHỊU CƠN THỊNH NỘ CỦA THIÊN CHÚA
Người
ngoại phải chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa
18
Thật
vậy, từ trời, Thiên Chúa mặc khải cơn thịnh nộ của Người chống lại mọi thứ vô
luân và bất chính của những người lấy sự bất chính mà giam hãm chân lý. 19
Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa, thì thật là hiển nhiên trước
mắt họ, vì chính Thiên Chúa đã cho họ thấy rõ. 20 Quả vậy, những gì
người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và
thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người
có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người. Do đó, họ không thể tự
bào chữa được, 21 vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay
cảm tạ Người cho phải đạo. Trái lại, đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí
ngu si của họ hoá ra mê muội. 22 Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã
trở nên điên rồ. 23 Thay vì Thiên Chúa vinh quang bất tử, họ đã thờ
hình tượng người phàm là loài phải chết, hay hình tượng các loài chim chóc, thú
vật, rắn re
Chương 2
Người
Do-thái cũng phải chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa
1
Hỡi
người, dù bạn là ai đi nữa mà bạn xét đoán, thì bạn cũng không thể tự bào chữa
được. Vì khi bạn xét đoán người khác, mà bạn cũng làm như họ, thì bạn tự kết án
chính mình. 2 Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa cứ theo sự thật mà xét
xử những ai làm những điều đó. 3 Còn bạn, hỡi người xét đoán những
kẻ làm những điều đó trong khi chính mình cũng làm như vậy, bạn tưởng mình sẽ
khỏi bị Thiên Chúa xét xử sao? 4 Hay là bạn coi thường lòng Chúa vô cùng nhân
hậu, khoan dung, đại lượng, mà không nhận ra rằng: Thiên Chúa nhân hậu như thế
là để thúc giục bạn hối cải sao? 5 Thế nhưng bạn lòng chai dạ đá không chịu hối
cải, và như vậy bạn càng làm cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa chồng chất trên
đầu bạn, trong ngày Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ và biểu lộ phán quyết công minh.
6 Ngày đó, Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tuỳ theo việc họ làm;
7 những ai bền chí làm việc thiện mà tìm vinh quang, danh dự và phúc
trường sinh bất tử, thì Thiên Chúa sẽ cho họ được sống đời đời; 8 còn
những ai chống Thiên Chúa mà không vâng phục chân lý và chạy theo điều ác, thì
Người sẽ nổi trận lôi đình, trút cơn thịnh nộ xuống đầu họ. 9 Người
sẽ bắt mọi kẻ làm điều ác phải gian nan khốn khổ, trước là người Do-thái, sau
là người Hy-lạp. 10 Nhưng Người sẽ ban vinh quang, danh dự và bình
an cho tất cả những ai làm điều thiện, trước là người Do-thái, sau là người
Hy-lạp, 11 vì Thiên Chúa không thiên vị ai.
Mặc
dầu có Luật Mô-sê
12
Quả
thế, những người không biết Luật Mô-sê mà phạm tội, thì sẽ bị diệt vong không
chiếu theo Luật đó. Còn những người sống dưới Luật Mô-sê mà phạm tội, thì sẽ bị
xét xử theo Luật đó. 13 Thật vậy, người ta được Thiên Chúa coi là
công chính, không phải vì nghe biết Lề Luật, nhưng là vì tuân giữ Lề Luật. 14
Dân ngoại là những người không có Luật Mô-sê; nhưng mỗi khi họ theo lẽ tự
nhiên mà làm những gì Luật dạy, thì họ là Luật cho chính mình, mặc dầu họ không
có Luật Mô-sê. 15 Họ cho thấy là điều gì Luật đòi hỏi, thì đã được
ghi khắc trong lòng họ. Lương tâm họ cũng chứng thực điều đó, vì họ tự phán
đoán trong lòng, khi thì cho mình là trái, khi thì cho mình là phải. 16 Người
ta sẽ thấy điều đó, trong ngày Thiên Chúa cho Đức Ki-tô Giê-su đến xét xử những
gì bí ẩn nơi con người theo Tin Mừng tôi rao giảng.
17
Còn
bạn, bạn mang tên là người Do-thái, lại ỷ rằng mình có Lề Luật, và tự hào vì có
Thiên Chúa; 18 bạn được biết ý Người, được Lề Luật dạy cho điều hay
lẽ phải; 19 bạn xác tín rằng mình là người dẫn dắt kẻ mù loà, là ánh
sáng cho kẻ ở trong bóng tối, 20 là nhà giáo dục kẻ u mê, là thầy
dạy người non dại, vì bạn tưởng mình có Lề Luật là có tất cả tri thức và chân
lý: 21 Vậy, bạn biết dạy người khác, mà lại không dạy chính mình!
Bạn giảng: đừng trộm cắp, mà bạn lại trộm cắp! 22 Bạn nói: chớ ngoại tình, mà
bạn lại ngoại tình! Bạn gớm ghét ngẫu tượng, mà bạn lại cướp bóc đền miếu! 23
Bạn tự hào vì có Lề Luật, mà bạn lại vi phạm Lề Luật, và như vậy bạn làm nhục
Thiên Chúa! 24 Thật đúng như lời chép: Chính vì các người mà danh Thiên Chúa bị
phỉ báng giữa chư dân.
Mặc
dầu có phép cắt bì
25
Còn
phép cắt bì, đã hẳn là có ích, nếu bạn thi hành Lề Luật. Nhưng nếu bạn vi phạm
Lề Luật, thì bạn có được cắt bì cũng kể như không cắt bì. 26 Trái
lại, nếu người không được cắt bì mà giữ những điều Luật dạy, thì tuy họ không
được cắt bì, Thiên Chúa chẳng coi họ như đã được cắt bì sao? 27 Người không
được cắt bì trong thân xác mà vẫn chu toàn Lề Luật, người ấy sẽ lên án bạn, vì
bạn có Lề Luật ghi chép hẳn hoi và bạn đã được cắt bì, mà vẫn vi phạm Lề Luật. 28
Thật vậy, người Do-thái chính hiệu không phải là căn cứ vào cái thấy được
bên ngoài, phép cắt bì chính hiệu không phải là căn cứ vào cái thấy được bên
ngoài, nơi thân xác. 29 Nhưng người Do-thái chính hiệu là người
Do-thái tận đáy lòng, phép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo
tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo chữ viết của Lề Luật. Người như thế
được Thiên Chúa chứ không phải người phàm khen ngợi.
Chương 3
Mặc
dầu có lời hứa của Thiên Chúa
1
Vậy
thì người Do-thái được gì hơn? Phép cắt bì có ích lợi gì? 2 Nhiều lắm chứ! Về
mọi mặt! Trước hết, họ đã được Thiên Chúa giao phó lời Người cho họ. 3 Nhưng
nếu có một số người Do-thái không trung tín thì sao? Chẳng lẽ sự bất trung bất
tín của họ lại làm cho lòng trung tín của Thiên Chúa ra vô hiệu? 4 Không phải
thế! Thiên Chúa nhất định là Đấng chân thật, còn mọi người đều giả dối. Như có
lời chép trong Kinh Thánh:
Như
vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án,
liêm
chính khi xét xử.
5
Nhưng
nếu sự bất chính của chúng tôi làm nổi bật sự công chính của Thiên Chúa, thì
phải nói sao? Phải chăng Thiên Chúa không công chính khi Người trút cơn thịnh
nộ? Ấy là tôi nói theo kiểu người phàm. 6 Không phải thế! Vì giả như
Thiên Chúa không công chính, thì làm sao Người phán xét thế gian được? 7 Nhưng
nếu sự giả dối của tôi làm cho thấy rõ hơn Thiên Chúa là Đấng chân thật, và như
vậy càng tôn vinh Người, thì tại sao tôi lại còn bị kết án là kẻ tội lỗi? 8 Thế
thì”Sao ta không cứ làm điều dữ đi, để nhờ đó mà được điều lành?” như có những
kẻ vu cho chúng tôi nói câu đó. Họ có bị kết tội cũng là đích đáng.
Mọi
người đều bị tội lỗi thống trị
9
Vậy
thì sao? Người Do-thái chúng tôi có hơn gì người khác không? Không hơn gì cả!
Quả thế, chúng ta đã chứng minh rằng mọi người, Do-thái cũng như Hy-lạp đều bị
tội lỗi thống trị. 10 Như có lời chép rằng: Không ai là người công
chính, dẫu một người cũng không; 11 chẳng ai có lương tri, chẳng ai
kiếm tìm Thiên Chúa. 12 Người người đã lìa xa chính lộ, chỉ biết
theo nhau làm chuyện suy đồi; chẳng có một ai làm điều thiện, dẫu một người
cũng không. 13 Cửa họng chúng như nấm mồ mở rộng, khéo đẩy đưa ba
tấc lưỡi phỉnh phờ chúng chứa đầy mồm nọc độc hổ mang, 14 miệng độc
dữ điêu ngoa những buông lời nguyền rủa. 15 Chúng nhanh chân đi đổ
máu người ta, 16 đi tới đâu cũng gieo tai rắc hoạ. 17 Chúng
chẳng biết con đường đưa tới bình an, 18 chẳng thấy cần phải kính sợ
Thiên Chúa.
19
Chúng
ta biết rằng: tất cả những gì sách Luật nói là nhằm những người sống dưới Luật
đó. Như vậy ai ai cũng phải câm miệng và mọi người trên thế gian đều đắc tội
trước toà Thiên Chúa. 20 Bởi lẽ trước nhan Chúa, không người phàm
nào được nhìn nhận là công chính vì đã làm những gì Luật dạy. Luật chẳng qua
chỉ làm cho người ta ý thức về tội.
B.
CON NGƯỜI ĐƯỢC NÊN CÔNG CHÍNH NHỜ ĐỨC TIN
Thiên
Chúa cho thấy Người là Đấng Công Chính
21
Nhưng
ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật
Mô-sê. Điều này, sách Luật và các ngôn sứ làm chứng. 22 Quả thế,
người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giê-su
Ki-tô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất luận là ai. 23 Thật
vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, 24 nhưng
họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu
chuộc thực hiện trong Đức Ki-tô Giê-su. 25 Thiên Chúa đã đặt Người
làm nơi xá tội nhờ máu của Người cho những ai có lòng tin. Như vậy, Thiên Chúa
cho thấy Người là Đấng Công Chính. Trước kia, trong thời Thiên Chúa nhẫn nại,
Người đã bỏ qua các tội lỗi người ta phạm. 26 Nhưng bây giờ, Người
muốn cho thấy rằng Người vừa là Đấng Công Chính, vừa làm cho kẻ tin vào Đức
Giê-su được nên công chính.
Vai
trò của đức tin
27
Vậy
thì hãnh diện ở chỗ nào? Chẳng còn gì để hãnh diện! Dựa vào luật nào mà hãnh
diện? Vào việc làm chăng? Không, nhưng dựa vào lòng tin. 28 Thật
vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải
vì làm những gì Luật dạy. 29 Hay là Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của
người Do-thái thôi? Thiên Chúa không là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa sao?
Có chứ! Người cũng là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa, 30 vì chỉ có
một Thiên Chúa, Đấng làm cho người được cắt bì nên công chính vì họ tin, và làm
cho người không được cắt bì nên công chính cũng bởi họ tin. 31 Vậy
có phải là chúng ta dựa vào đức tin mà huỷ bỏ Lề Luật chăng? Không phải thế!
Trái lại, chúng ta củng cố Lề Luật.
C.
GƯƠNG TỔ PHỤ ÁP-RA-HAM
Chương 4
Ông
Áp-ra-ham được nên công chính vì đã tin
1
Vậy
phải nói sao về ông Áp-ra-ham, tổ phụ dân tộc chúng tôi? Ông đã được gì? 2 Giả
như ông Áp-ra-ham được nên công chính vì những việc ông đã làm, thì ông có lý
do để hãnh diện; nhưng không phải là hãnh diện trước mặt Thiên Chúa. 3 Thật
vậy, Kinh Thánh nói gì? Ông Áp-ra-ham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là
người công chính. 4 Người nào làm việc, thì lương trả cho người ấy
không được kể là ân huệ, mà là nợ. 5 Trái lại người nào không dựa
vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính,
thì lòng tin làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính. 6 Đó
là điều vua Đa-vít nói khi ca tụng hạnh phúc của người được Thiên Chúa kể là
công chính mà không xét đến việc làm:
7
Hạnh
phúc thay kẻ lỗi lầm mà được tha thứ,
người
có tội mà được khoan dung!
8
Hạnh
phúc thay người Chúa không kể là có tội!
Không
phải vì chịu phép cắt bì
9
Lời
ca tụng hạnh phúc này chỉ áp dụng cho những người được cắt bì, hay cho cả những
người không được cắt bì nữa? Quả vậy, như chúng ta vừa nói: Ông Áp-ra-ham đã
tin, và vì thế được kể là người công chính. 10 Ông được kể là người
công chính khi nào? Trước hay sau khi ông được cắt bì? Không phải sau, mà là
trước khi ông được cắt bì! 11 Ông nhận được phép cắt bì như dấu hiệu chứng thực
rằng: nhờ tin mà ông được trở nên công chính, trước khi được cắt bì. Như vậy,
ông là cha của mọi kẻ tin mà không được cắt bì, và vì tin nên được kể là công
chính. 12 Ông cũng là cha của những người được cắt bì, nhưng không
phải chỉ được cắt bì, mà còn dõi bước tổ phụ chúng ta là ông Áp-ra-ham, trên
đường đức tin, đức tin ông đã có trước khi được cắt bì.
Không
phải vì giữ Lề Luật
13
Thật
vậy, không phải chiếu theo Lề Luật, mà Thiên Chúa đã hứa cho ông Áp-ra-ham và
dòng dõi ông được thế gian làm gia nghiệp; nhưng ông được lời hứa đó, vì đã trở
nên công chính nhờ lòng tin. 14 Nếu gia nghiệp được dành cho những
kẻ lệ thuộc vào Lề Luật, thì đức tin trở nên vô nghĩa, và lời Thiên Chúa hứa bị
huỷ bỏ. 15 Quả thế, Luật gây nên cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, còn ở
đâu không có Lề Luật, thì cũng không có vi phạm. 16 Bởi vậy, vì tin
mà người ta được thừa hưởng lời Thiên Chúa hứa; như thế lời hứa là ân huệ Thiên
Chúa ban không, và có giá trị cho toàn thể dòng dõi ông Áp-ra-ham, nghĩa là
không phải chỉ cho những ai giữ Lề Luật, mà còn cho những ai có lòng tin như
ông. Ông là tổ phụ chúng ta hết thảy, 17 như có lời chép: Ta đã đặt
ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ông là tổ phụ chúng ta trước mặt Thiên Chúa,
Đấng ông tin tưởng, Đấng làm cho kẻ chết được sống và khiến những gì không có
hoá có.
Lòng
tin của ông Áp-ra-ham và lòng tin của chúng ta
18
Mặc
dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở
thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo
như thế. 19 Ông đã gần một trăm tuổi, nhưng ông vẫn vững tin không
nao núng, khi nghĩ rằng thân xác ông cũng như dạ bà Xa-ra đều đã chết. 20 Ông
đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa; trái lại, nhờ
niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa, 21 vì ông
hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền
năng thực hiện. 22 Bởi thế, ông được kể là người công chính.
23
Nhưng
khi viết ông được kể là người công chính, thì không phải chỉ nói về ông, 24
mà còn nói về cả chúng ta nữa: chúng ta sẽ được kể là công chính, vì tin
vào Đấng đã làm cho Đức Giê-su, Chúa chúng ta, sống lại từ cõi chết; 25 Đức
Giê-su chính là Đấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta và đã được Thiên Chúa
làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính.
Chương 5
2.
THIÊN CHÚA CỨU ĐỘ CON NGƯỜI
Một
khi nên công chính, con người được bảo đảm ơn cứu độ
1
Vậy,
một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên
Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. 2 Vì chúng ta tin, nên
Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng
ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh
quang của Thiên Chúa. 3 Nhưng không phải chỉ có thế; chúng ta còn tự
hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; 4
ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là
trung kiên, thì có quyền trông cậy. 5 Trông cậy như thế, chúng ta sẽ
không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta,
nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. 6 Quả vậy, khi chúng ta
không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức
Ki-tô đã chết vì chúng ta. 7 Hầu như không ai chết vì người công
chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. 8 Thế
mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi;
đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. 9 Phương chi bây
giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra, hẳn chúng ta sẽ
được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. 10 Thật vậy, nếu
ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của
Người phải chết mà cho chúng ta được hoà giải với Người, phương chi bây giờ
chúng ta đã được hoà giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người
Con ấy. 11 Nhưng không phải chỉ có thế, chúng ta còn có Thiên Chúa
là niềm tự hào, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hoà giải chúng
ta với Thiên Chúa.
A.
CHÚNG TA ĐƯỢC GIẢI THOÁT KHỎI TỘI LỖI, SỰ CHẾT VÀ LỀ LUẬT
A-đam
và Đức Ki-tô Giê-su
12
Vì
một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự
chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội.
13 Trước khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian. Nhưng nếu không
có Luật, thì tội không bị kể là tội. 14 Thế mà, từ thời A-đam đến
thời Mô-sê, sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh
Thiên Chúa như A-đam đã phạm. A-đam là hình ảnh Đấng sẽ tới.
15
Nhưng
sự sa ngã của A-đam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật
vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng
của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, còn dồi dào hơn
biết mấy cho muôn người. 16 Ơn Thiên Chúa ban cũng khác với hậu quả
do một người phạm tội đã gây ra. Quả thế, vì một người duy nhất phạm tội, con
người đã bị xét xử để phải mang án, còn sau nhiều lần sa ngã, thì lại được
Thiên Chúa ban ơn cho trở nên công chính. 17 Nếu chỉ vì một người,
một người duy nhất sa ngã, mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua
một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy,
những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ
được sống và được thống trị.
18
Tóm
lại, cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết
án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được
Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống. 19 Thật vậy,
cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người
thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người
cũng sẽ thành người công chính.
20
Lề
Luật đã xen vào, để cho sự sa ngã lan tràn; nhưng ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở
đó ân sủng càng chứa chan gấp bội. 21 Như vậy, nếu tội lỗi đã thống
trị bằng cách làm cho người ta phải chết, thì ân sủng cũng thống trị bằng cách
làm cho người ta nên công chính để được sống đời đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô,
Chúa chúng ta.
Chương 6
Phép
rửa
1
Vậy
phải nói sao? Chúng ta cứ ở mãi trong tội lỗi, để ân sủng càng lan tràn ư? 2
Không phải thế! Chúng ta là những kẻ đã chết đối với tội lỗi, thì làm sao còn
sống mãi trong tội được. 3 Anh em không biết rằng: khi chúng ta được
dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Ki-tô Giê-su, là chúng ta được dìm vào
trong cái chết của Người sao? 4 Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng
ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ
cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một
đời sống mới.
5
Thật
vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã chết, thì
chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại. 6
Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập
giá với Đức Ki-tô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để
chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. 7 Quả thế, ai đã chết,
thì thoát khỏi quyền của tội lỗi.
8
Nếu
chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó
là niềm tin của chúng ta. 9 Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi
Đức Ki-tô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết
chẳng còn quyền chi đối với Người. 10 Người đã chết, là chết đối với
tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. 11 Anh
em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho
Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô Giê-su.
Phục
vụ tội lỗi và phục vụ sự công chính
12
Vậy
tội lỗi đừng có thống trị thân xác phải chết của anh em nữa, khiến anh em phải
nghe theo những dục vọng của thân xác. 13 Anh em đừng dùng chi thể
của anh em như khí cụ để làm điều bất chính, phục vụ cho tội lỗi nữa. Trái lại,
anh em là những người sống đã từ cõi chết trở về, anh em hãy hiến toàn thân cho
Thiên Chúa, và dùng chi thể của anh em như khí cụ để làm điều công chính, phục
vụ Thiên Chúa. 14 Tội lỗi sẽ không còn quyền chi đối với anh em nữa,
vì anh em không còn lệ thuộc vào Lề Luật, nhưng lệ thuộc vào ân sủng.
Người
tín hữu được giải thoát khỏi tội lỗi
15
Vậy
thì sao? Chúng ta cứ phạm tội ư, vì chúng ta không còn lệ thuộc vào Lề Luật,
nhưng lệ thuộc vào ân sủng? Không đời nào! 16 Anh em không biết sao? Khi đem thân
làm nô lệ để vâng phục ai, thì anh em là nô lệ của người mà anh em vâng phục:
hoặc làm nô lệ tội lỗi, thì sẽ phải chết; hoặc làm nô lệ phục vụ Thiên Chúa,
thì sẽ được nên công chính. 17 Tạ ơn Thiên Chúa! Trước kia anh em
làm nô lệ tội lỗi, nhưng nay anh em đã hết lòng vâng theo quy luật đạo lý đã
đào tạo anh em. 18 Anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở
thành nô lệ sự công chính. 19 Ấy là tôi nói theo kiểu người phàm,
hợp với tầm hiểu biết yếu kém của anh em. Trước đây, anh em đã dùng chi thể của
mình mà làm những điều ô uế và sự vô luân, để trở thành vô luân, thì nay anh em
cũng hãy dùng chi thể làm nô lệ sự công chính để trở nên thánh thiện.
Kết
quả của tội lỗi và kết quả của sự công chính
20
Khi
còn là nô lệ tội lỗi, anh em được tự do không phải làm điều công chính. 21
Bấy giờ anh em thu được kết quả nào, bởi làm những việc mà ngày nay anh
em phải xấu hổ? Vì rốt cuộc những việc ấy đưa đến chỗ chết. 22 Nhưng
giờ đây anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở thành nô lệ của Thiên
Chúa; anh em thu được kết quả là được trở nên thánh thiện, và rốt cuộc được
sống đời đời. 23 Thật vậy, lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta,
là cái chết; còn ân huệ Thiên Chúa ban không, là sự sống đời đời trong Đức
Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.
Chương 7
Người
tín hữu được giải thoát khỏi Lề Luật
1
Thưa
anh em,-tôi nói đây là nói với những người biết Luật- anh em không biết điều
này sao: Luật chỉ có hiệu lực đối với người ta, bao lâu người ta còn sống? 2 Tỉ
dụ như người đàn bà có chồng, thì luật buộc theo chồng bao lâu chồng còn sống.
Nhưng nếu chồng chết, thì vợ không còn bị luật ràng buộc với chồng nữa. 3 Vậy
bao lâu chồng còn sống, mà vợ đi lấy người khác, thì sẽ bị gọi là kẻ ngoại
tình. Nhưng nếu chồng chết, thì vợ được tự do không phải giữ luật đó nữa, và có
đi lấy người khác, cũng không phải là ngoại tình. 4 Đối với anh em
cũng thế. Bởi được liên kết với thân thể Đức Ki-tô, anh em đã chết đối với Luật
Mô-sê. Giờ đây, anh em thuộc về một người khác, tức là thuộc về Đấng đã được
Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết, để chúng ta sinh hoa kết quả cho Thiên
Chúa. 5 Vì trước đây, khi chúng ta còn bị tính xác thịt chi phối,
thì các đam mê tội lỗi dùng Lề Luật mà hoạt động nơi các chi thể chúng ta, để
chúng ta sinh hoa kết quả đưa tới cái chết. 6 Nhưng nay, chúng ta không
còn bị Lề Luật ràng buộc nữa, vì chúng ta đã chết đối với cái vẫn giam hãm
chúng ta. Như vậy, chúng ta phục vụ Thiên Chúa theo tinh thần mới, chứ không
theo bản văn cũ của Lề Luật.
Vai
trò của Lề Luật
7
Vậy
phải nói sao? Lề Luật là tội chăng? Không phải thế! Nhưng tôi đã chẳng biết tội
là gì nếu không có Lề Luật. Thật vậy, tôi đã chẳng biết ham muốn là gì, nếu
Luật không dạy: Ngươi không được ham muốn. 8 Tội đã thừa cơ, dùng
điều răn mà làm nảy sinh trong tôi đủ thứ ham muốn. Thật vậy, không có Lề Luật
thì tội đã chết rồi.
9
Xưa
kia, không có Luật thì tôi sống; nhưng từ khi có điều răn thì tội bắt đầu sống,
10 còn tôi thì chết. Thành thử điều răn lẽ ra phải đưa đến sự sống,
lại dẫn tôi đến chỗ chết. 11 Quả thế, tội đã thừa cơ, dùng điều răn
để quyến rũ tôi và cũng dùng điều răn đó để giết tôi.
12
Như
vậy, Lề Luật là thánh, và điều răn cũng là thánh, đúng và tốt. 13 Vậy
phải chăng điều tốt lại đã gây nên cái chết cho tôi? Không phải thế! Nhưng
chính tội đã dùng điều tốt mà gây nên cái chết cho tôi: như vậy, tội để lộ chân
tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó.
Cuộc
chiến đấu nội tâm
14
Vẫn
biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán
làm tôi cho tội lỗi. 15 Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì
điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. 16
Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì tức là tôi đồng ý với Lề Luật và
nhận rằng Lề Luật là tốt. 17 Vậy thật ra không còn phải là chính tôi
làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. 18 Tôi biết rằng sự thiện
không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi
có thể muốn, nhưng làm thì không. 19 Sự thiện tôi muốn thì tôi không
làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. 20 Nếu tôi cứ làm
điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội
vẫn ở trong tôi.
21
Bởi
đó tôi khám phá ra luật này: khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất
hiện ngay. 22 Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của
Thiên Chúa; 23 nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một
luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong
luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.
24
Tôi
thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?
25 Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta!
Như
vậy, nếu theo lý trí, thì tôi làm nô lệ luật của Thiên Chúa; nhưng theo xác
thịt, thì tôi làm nô lệ luật của tội.
B.
NGƯỜI TÍN HỮU SỐNG THEO THẦN KHÍ
Chương 8
Sống
theo Thần Khí
1
Vậy
giờ đây, những ai ở trong Đức Ki-tô Giê-su, thì không còn bị lên án nữa. 2
Thật vậy, luật của Thần Khí ban sự sống trong Đức Ki-tô Giê-su, đã giải
thoát tôi khỏi luật của tội và sự chết. 3 Điều mà Lề Luật không thể
làm được, vì bị tính xác thịt làm cho ra suy yếu, thì Thiên Chúa đã làm: khi
sai chính Con mình đến mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta để đền
tội chúng ta, Thiên Chúa đã lên án tội trong thân xác Con mình. 4 Thiên
Chúa làm như vậy, để sự công chính mà Luật đòi hỏi được hoàn toàn thực hiện nơi
chúng ta, là những người không sống theo tính xác thịt, nhưng theo Thần Khí.
5
Những
ai sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt; còn
những ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí. 6 Hướng
đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình
an. 7 Thật vậy, hướng đi của tính xác thịt là sự phản nghịch cùng
Thiên Chúa, vì tính xác thịt không phục tùng luật của Thiên Chúa, mà cũng không
thể phục tùng được. 8 Những ai bị tính xác thịt chi phối thì không
thể vừa lòng Thiên Chúa. 9 Nhưng anh em không bị tính xác thịt chi
phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh
em. Ai không có Thần Khí của Đức Ki-tô, thì không thuộc về Đức Ki-tô. 10 Nhưng
nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã
phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công
chính. 11 Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng
đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống
lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm
cho thân xác của anh em được sự sống mới.
12
Vậy
thưa anh em, chúng ta mang nợ, không phải mang nợ đối với tính xác thịt, để
phải sống theo tính xác thịt. 13 Vì nếu anh em sống theo tính xác
thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành
vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống.
Nhờ
Thần Khí, chúng ta được làm con Thiên Chúa
14
Quả
vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. 15
Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô
lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ
đó chúng ta được kêu lên: ”Áp-ba! Cha ơi!”16 Chính Thần Khí chứng thực cho thần
trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. 17 Vậy đã là con,
thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế
với Đức Ki-tô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được
hưởng vinh quang với Người.
Vinh
quang dành cho ta
18
Thật
vậy, tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh
quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta. 19 Muôn loài thọ tạo
những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người.
20 Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng
muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy; tuy nhiên, vẫn còn niềm trông cậy 21
là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được
cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang. 22 Thật
vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và
quằn quại như sắp sinh nở. 23 Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng
ta cũng rên siết trong lòng: chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu,
nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc
thân xác chúng ta nữa. 24 Quả thế, chúng ta đã được cứu độ, nhưng
vẫn còn phải trông mong. Thấy được điều mình trông mong, thì không còn phải là
trông mong nữa: vì ai lại trông mong điều mình đã thấy rồi? 25 Nhưng nếu chúng
ta trông mong điều mình chưa thấy, thì đó là chúng ta bền chí đợi chờ.
26
Hơn
nữa, lại có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không
biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp
chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả. 27 Và Thiên Chúa, Đấng
thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp
cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa.
Ý
định cứu độ của Thiên Chúa
28
Chúng
ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến
Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định. 29 Vì
những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình
đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em
đông đúc. 30 Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu
gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai
Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang.
Ca
tụng tình yêu của Thiên Chúa
31
Vậy
còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được
chúng ta? 32 Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao
nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại
chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? 33 Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã
chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? 34 Ai sẽ kết án họ?
Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên
hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?
35
Ai
có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân,
khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? 36 Như có lời chép: Chính vì
Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh.
37
Nhưng
trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.
38
Đúng
thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương
quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, 39 trời
cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được
chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa
chúng ta.
C.
VẤN ĐỀ ÍT-RA-EN KHÔNG TIN
Chương 9
Các
đặc ân dành cho Ít-ra-en
1
Có
Đức Ki-tô chứng giám, tôi xin nói sự thật, tôi không nói dối và lương tâm tôi,
được Thánh Thần hướng dẫn, cũng làm chứng cho tôi rằng: 2 lòng tôi
rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi. 3 Quả vậy, giả như vì
anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức
Ki-tô, thì tôi cũng cam lòng. 4 Họ là người Ít-ra-en, họ đã được
Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước,
lề luật, một nền phụng tự và các lời hứa; 5 họ là con cháu các tổ
phụ; và sau hết, chính Đức Ki-tô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống
với họ. Người là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn
thuở muôn đời. A-men.
Thiên
Chúa không thất tín
6
Nói
thế không có nghĩa là lời Thiên Chúa đã hoá ra vô hiệu. Vì không phải tất cả
con cháu ông Áp-ra-ham đều là dân Ít-ra-en; 7 cũng như không phải vì
họ thuộc dòng dõi ông Áp-ra-ham mà họ đều là con cái ông. Nhưng chính dòng dõi
I-xa-ác mới được mang tên ngươi, 8 nghĩa là không phải hễ là con đẻ
của ông Áp-ra-ham, thì là con cái Thiên Chúa; nhưng con cái sinh ra do lời
Thiên Chúa hứa mới được kể là chính tông. 9 Thật vậy, lời hứa là thế
này: Sang năm, cũng vào thời kỳ này, Ta sẽ trở lại và Xa-ra sẽ có một con trai.
10 Không phải chỉ có thế: bà Rê-bê-ca đã có thai với một người duy
nhất là ông I-xa-ác, tổ tiên chúng ta. 11 Nhưng khi các con bà chưa
sinh ra, và do đó chưa làm gì tốt hay xấu, thì Thiên Chúa đã nói với bà: Thằng
anh sẽ làm tôi thằng em. Như vậy là để giữ vững kế hoạch Thiên Chúa đã tự do
chọn lựa, 12 mà chọn không dựa vào việc người ta làm, nhưng dựa vào
ý muốn của Thiên Chúa là Đấng kêu gọi. 13 Như có lời chép: Ta yêu
Gia-cóp mà ghét Ê-xau.
Thiên
Chúa không bất công
14
Vậy
phải nói sao? Chẳng lẽ Thiên Chúa bất công ư? Không phải thế! 15 Quả vậy, Thiên
Chúa đã phán với ông Mô-sê: Ta muốn thương xót ai thì thương xót, muốn cảm
thương ai thì cảm thương. 16 Vậy người ta được chọn không phải vì
muốn hay chạy vạy, nhưng vì được Thiên Chúa thương xót. 17 Quả thế,
trong Kinh Thánh, Thiên Chúa cũng nói với Pha-ra-ô: Ta đã cất nhắc ngươi lên,
chính là để dùng ngươi làm cớ cho mọi người thấy sức mạnh của Ta, và để cho
danh Ta lẫy lừng trên khắp hoàn cầu. 18 Vậy Thiên Chúa thương xót ai
là tuỳ ý Người, và làm cho ai ra cứng cổ cũng tuỳ ý Người.
19
Hẳn
bạn sẽ nói với tôi: ”Vậy Thiên Chúa còn trách gì nữa? Vì ai cưỡng lại được ý
Người?” 20 Hỡi người, bạn là ai mà dám cãi lại Thiên Chúa? Chẳng lẽ
sản phẩm lại nói với người sản xuất: Sao ông làm ra tôi như thế này? 21 Phải
chăng thợ gốm không có quyền dùng đất sét theo ý mình: từ cùng một nắm đất mà
nắn ra đồ vật khác nhau, cái thì dùng vào việc cao quý, cái thì dùng vào việc
thấp hèn. 22 Thiên Chúa cũng vậy: dù muốn cho thấy cơn thịnh nộ và
cho biết sức mạnh của Người, nhưng Người đã hết lòng kiên nhẫn chịu đựng những
kẻ đáng hứng chịu cơn thịnh nộ và chờ sẵn ngày diệt vong. 23 Thiên
Chúa cũng muốn cho biết vinh quang của Người dồi dào biết mấy đối với những kẻ
được Người thương xót, những kẻ mà Người đã chuẩn bị trước cho họ lãnh nhận
vinh quang đó. 24 Những kẻ ấy là chính chúng ta. Thiên Chúa đã kêu
gọi chúng ta là những người không phải chỉ thuộc dân Do-thái, mà còn thuộc các
dân ngoại nữa.
Cựu
Ước thấy trước Ít-ra-en sẽ thất trung và dân ngoại sẽ được kêu gọi
25
Đó
chính là điều Thiên Chúa phán trong sách Hô-sê: Dân trước đây không phải dân
của Ta, Ta sẽ gọi là Dân của Ta; người chẳng được yêu, Ta sẽ gọi là Người Yêu. 26
Và chính ở nơi đã nói về họ: ”Các ngươi không phải là dân của Ta",
thì ở đó họ sẽ được gọi là con cái của Thiên Chúa hằng sống. 27 Ngôn
sứ I-sai-a đã lớn tiếng nói về dân Ít-ra-en rằng: Dù số con cái Ít-ra-en có
nhiều như cát biển, thì chỉ phần còn sót lại mới được cứu. 28 Quả
thế, Đức Chúa sẽ thực hiện lời Người cách trọn vẹn và mau chóng trên mặt đất. 29
Như ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo: Nếu như Đức Chúa các đạo binh chẳng chừa
lại cho chúng ta kẻ nối dõi, thì chúng ta đã trở nên như thành Xơ-đom, và giống
như thành Gô-mô-ra rồi.
30
Vậy
phải nói sao? Phải nói rằng: các dân ngoại không tìm cách để được nên công
chính, thì được nên công chính, mà được nên công chính là nhờ đức tin. 31 Còn
dân Ít-ra-en tìm một luật làm cho họ nên công chính thì lại không đạt tới Luật
đó. 32 Tại sao thế? Tại vì họ không tìm cách nên công chính nhờ đức
tin, nhưng nhờ việc làm. Họ đã vấp phải hòn đá làm cho vấp, 33 như
có lời chép rằng: Này đây Ta đặt tại Xi-on một hòn đá làm cho vấp, một tảng đá
làm cho ngã; nhưng kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng.
Chương 10
Ít-ra-en
không nhận biết rằngThiên Chúa làm cho con người nên công chính
1
Thưa
anh em, lòng tôi những ước mong và tôi cầu xin cho dân Do-thái được cứu độ. 2
Quả thế, tôi làm chứng cho họ là họ có lòng nhiệt thành đối với Thiên
Chúa, nhưng lòng nhiệt thành đó không được sáng suốt 3 họ không nhận biết rằng
chính Thiên Chúa làm cho người ta nên công chính, và họ tìm cách nên công chính
tự sức mình. Như vậy là họ không tuân theo đường lối Thiên Chúa làm cho người
ta nên công chính. 4 Quả thế, cứu cánh của Lề Luật là Đức Ki-tô,
khiến bất cứ ai tin đều được nên công chính.
Ông
Mô-sê báo trước con người được nên công chính nhờ đức tin
5
Về
việc người ta được nên công chính nhờ Lề Luật, ông Mô-sê có viết: Ai thực hành
những điều Lề Luật dạy, thì nhờ đó sẽ được sống. 6 Còn về việc người
ta được nên công chính nhờ đức tin, thì có lời nói: Đừng tự hỏi: ai sẽ lên
trời? ngụ ý là: để đem Đức Ki-tô xuống. 7 Cũng đừng hỏi: Ai sẽ xuống
âm phủ? ngụ ý là: để đưa Đức Ki-tô lên từ cõi chết. 8 Vậy Kinh Thánh
nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời
đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin. 9 Nếu miệng
bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho
Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. 10 Quả thế, có
tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được
ơn cứu độ. 11 Kinh Thánh nói: Mọi kẻ tin vào Người sẽ không phải
thất vọng. 12 Như vậy, không có sự khác biệt giữa người Do-thái và
người Hy-lạp, vì tất cả đều có cùng một Chúa, là Đấng quảng đại đối với tất cả
những ai kêu cầu Người. 13 Vì: Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa
sẽ được cứu thoát.
Ít-ra-en
không tự bào chữa
14
Thế
nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được
nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? 15 Làm sao mà rao giảng, nếu
không được sai đi? Như có lời chép: Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo
tin mừng! 16 Nhưng không phải mọi người đều đã vâng theo Tin Mừng; chính ngôn
sứ I-sai-a đã nói: Lạy Đức Chúa, ai đã tin khi nghe chúng con giảng? 17 Ấy vậy,
có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Ki-tô.
18
Nhưng
tôi xin hỏi: Phải chăng họ đã không được nghe giảng? Có chứ!
Tiếng
các ngài đã dội khắp hoàn cầu,
và
thông điệp loan đi tới chân trời góc biển.
19
Tôi
xin hỏi thêm: Phải chăng dân Ít-ra-en đã không hiểu? Trước hết, ông Mô-sê nói:
Ta sẽ làm cho các ngươi ganh tị với một dân không đáng gọi là dân, tức giận một
dân ngu đần. 20 Ông I-sai-a còn dám nói:
Những
kẻ không tìm Ta, lại được gặp Ta;
những
kẻ không hỏi Ta,
Ta
đã xuất hiện cho chúng thấy.
21
Còn
về dân Ít-ra-en, ông nói: Suốt ngày Ta dang tay kêu gọi một dân không vâng lời
và ngỗ nghịch.
Chương 11
Phần
còn sót lại của Ít-ra-en
1
Vậy
tôi xin hỏi: Phải chăng Thiên Chúa đã ruồng bỏ dân Người? Không phải thế! Chính
tôi đây cũng là người Ít-ra-en, thuộc dòng dõi Áp-ra-ham, thuộc chi tộc
Ben-gia-min. 2 Thiên Chúa không ruồng bỏ dân Người, dân mà Người đã
biết từ trước. Anh em chẳng biết truyện ông Ê-li-a trong Kinh Thánh sao? Khi
cầu nguyện với Thiên Chúa, ông đã tố cáo dân Ít-ra-en rằng: 3 Lạy
Chúa, các ngôn sứ của Ngài, chúng đã giết chết; bàn thờ của Ngài, chúng đã phá
huỷ. Chỉ còn sót lại một mình con, thế mà chúng cũng đang tìm hại mạng sống con.
4 Thiên Chúa trả lời ông thế nào? Ta chừa lại cho Ta bảy ngàn người,
là những kẻ đã không quỳ gối thờ thần Ba-an. 5 Ngày nay cũng vậy,
còn sót lại một số người được tuyển chọn nhờ ân sủng của Thiên Chúa. 6 Nhưng
nếu được chọn nhờ ân sủng, thì không phải là do việc làm, chẳng vậy ân sủng
không còn là ân sủng nữa.
7
Vậy
thì sao? Điều mà Ít-ra-en tìm kiếm, thì họ đã không đạt được; nhưng những kẻ
được tuyển chọn đã đạt được. Còn những người khác thì đã ra cứng lòng, 8 như
có lời chép: Thiên Chúa đã cho họ một thần khí hôn mê, cho họ mắt để không
thấy, tai để không nghe, mãi cho đến ngày nay. 9 Vua Đa-vít cũng
nói: Ước gì bàn tiệc của chúng nên dò, nên bẫy cho chúng sa vào, và nên cớ vấp
ngã, nên hình phạt đích đáng! 10 Ước gì mắt chúng mù đi không thấy nữa và lưng
sụm xuống đến mãn đời.
Thiên
Chúa sẽ khôi phục Ít-ra-en
11
Vậy
tôi xin hỏi: Phải chăng Ít-ra-en đã vấp đến mức phải ngã quỵ? Không phải thế!
Nhưng vì họ sa ngã mà Thiên Chúa cho các dân ngoại hưởng ơn cứu độ, khiến họ
phải ganh tị. 12 Nếu vì người Do-thái sa ngã mà thế giới được ơn
phúc dồi dào, nếu vì họ suy vi mà các dân ngoại được ơn phúc dồi dào, thì khi
họ trở về đông đủ, tình trạng còn tốt đẹp hơn biết mấy! 13 Tôi xin ngỏ lời với
anh em là những người gốc dân ngoại. Với tư cách là Tông Đồ các dân ngoại, tôi
coi trọng chức vụ của tôi, 14 mong sao nhờ vậy mà tôi làm cho anh em
đồng bào tôi phải ganh tị, và tôi cứu được một số anh em đó. 15 Thật
vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa, thì
việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi
sống?
Cây
ô-liu dại và cây ô-liu tốt
16
Nếu
cái bánh đầu tiên mà thánh thì cả khối bột làm bánh cũng vậy; nếu rễ cây mà
thánh, thì cành cây cũng vậy. 17 Một số cành cây ô-liu đã bị chặt
đi, còn bạn là ô-liu dại đã được tháp vào đó, và cùng được hưởng sự sống dồi
dào từ rễ cây ô-liu chính. 18 Vì thế, bạn đừng có lên mặt khinh dể các
cành khác. Thì bạn cứ lên mặt đi! Đâu phải bạn mang rễ, mà là rễ mang bạn! 19
Có lẽ bạn sẽ nói: ”Một số cành đã bị chặt đi, để tôi được tháp vào.” 20 Đúng
thế! Vì họ không tin mà đã bị chặt đi, còn bạn vì tin mà còn đó. Đừng có tự cao
tự đại, nhưng phải sợ thì hơn. 21 Thật vậy, nếu những cành tự nhiên,
mà Thiên Chúa đã không tha, thì Người cũng sẽ chẳng tha bạn đâu. 22 Bạn
hãy xem Thiên Chúa nhân từ và nghiêm khắc thế nào: Người nghiêm khắc với những
kẻ sa ngã, nhưng nhân từ với bạn, cứ một mực cậy nhờ vào lòng nhân từ đó. Chẳng
vậy, cả bạn nữa cũng sẽ bị chặt đi. 23 Còn người Do-thái, nếu họ từ
bỏ thái độ ngoan cố chẳng chịu tin, thì họ sẽ được tháp vào, vì Thiên Chúa thừa
sức tháp họ một lần nữa. 24 Nếu bạn vốn là cành của cây ô-liu dại,
mà còn được chặt đi và tháp vào cây ô-liu tốt, trái lẽ tự nhiên, thì phương chi
họ vốn là những cành của cây ô-liu chính, họ lại càng có thể được tháp vào cây
cũ.
Ít-ra-en
sẽ trở lại
25
Thưa
anh em, tôi không muốn anh em chẳng hay biết mầu nhiệm này, để anh em đừng tự
cho mình là khôn, đó là: một phần dân Ít-ra-en đã ra cứng lòng, cho đến khi các
dân ngoại gia nhập đông đủ. 26 Như vậy, toàn thể Ít-ra-en sẽ được
cứu độ, như có lời chép: Từ núi Xi-on, vị Cứu Tinh sẽ đến, Người sẽ loại bỏ
những điều vô đạo khỏi nhà Gia-cóp. 27 Đó sẽ là giao ước của Ta với
chúng, khi Ta xoá bỏ tội lỗi chúng.
28
Đối
chiếu với Tin Mừng thì họ là thù địch, điều đó có lợi cho anh em; nhưng theo ơn
tuyển chọn, họ là những người được yêu thương, và đó là nhờ các tổ phụ. 29
Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý.
30
Thật
vậy, trước kia anh em đã không vâng phục Thiên Chúa, nhưng nay anh em đã được
thương xót, vì họ không vâng phục; 31 họ cũng thế: nay họ không vâng
phục Thiên Chúa, vì Người thương xót anh em, nhưng đó là để chính họ cũng được
thương xót. 32 Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội
không vâng phục, để thương xót mọi người.
Ca
tụng thánh ý nhiệm mầu
33
Sự
giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định
của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được! 34 Thật vậy,
ai đã biết tư tưởng của Chúa? Ai đã làm cố vấn cho Người? 35 Ai đã cho Người
trước, để Người phải trả lại sau? 36 Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người
mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời! A-men.
KHUYÊN
NHỦ
Chương 12
Cách
thức xứng hợp để thờ phượng Thiên Chúa
1
Thưa
anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng
thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách
thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. 2 Anh em đừng có rập theo
đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có
thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì
hoàn hảo.
Sống
khiêm nhường và bác ái trong cộng đoàn
3
Dựa
vào ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi xin nói với từng người trong anh em:
đừng đi quá mức khi đánh giá mình, nhưng hãy đánh giá mình cho đúng mức, mỗi
người tuỳ theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho. 4 Cũng như
trong một thân thể, chúng ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận không có cùng một
chức năng, 5 thì chúng ta cũng vậy: tuy nhiều nhưng chỉ là một thân
thể trong Đức Ki-tô, mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận
của một thân thể. 6 Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tuỳ theo
ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ, thì phải nói sao cho
phù hợp với đức tin. 7 Được ơn phục vụ, thì phải phục vụ. Ai dạy
bảo, thì cứ dạy bảo. 8 Ai khuyên răn, thì cứ khuyên răn. Ai phân
phát, thì phải chân thành. Ai chủ toạ, thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác
ái thì vui vẻ mà làm.
9
Lòng
bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với
điều lành; 10 thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác
trọng hơn mình; 11 nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt
sắng mà phục vụ Chúa. 12 Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên
nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. 13 Hãy chia sẻ
với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi
khách đến nhà.
Bác
ái đối với mọi người, kể cả thù địch
14
Hãy
chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: 15
vui với người vui, khóc với người khóc. 16 Hãy đồng tâm nhất
trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng
cho mình là khôn ngoan, 17 đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những
điều mọi người cho là tốt. 18 Hãy làm tất cả những gì anh em có thể
làm được, để sống hoà thuận với mọi người. 19 Anh em thân mến, đừng
tự mình báo oán, nhưng hãy để cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa làm việc đó, vì
có lời chép: Đức Chúa phán: Chính Ta sẽ báo oán, chính Ta sẽ đáp trả. 20 Trái
lại, kẻ thù ngươi có đói, hãy cho nó ăn; có khát, hãy cho nó uống; làm như vậy,
ngươi sẽ chất than hồng lên đầu nó. 21 Đừng để cho sự ác thắng được
mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác.
Chương 13
Phục
tùng chính quyền
1
Mỗi
người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên
Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. 2 Như
vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào
chống lại sẽ chuốc lấy án phạt. 3 Thật thế, làm điều thiện thì không
phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ. Bạn muốn khỏi phải sợ chính
quyền ư? Hãy làm điều thiện, và bạn sẽ được họ khen ngợi, 4 vì chính
quyền là người thừa hành của Thiên Chúa để giúp bạn làm điều thiện. Nhưng nếu
bạn làm điều ác, thì hãy sợ, vì họ mang gươm không phải không có lý do. Thật
vậy, họ là người thừa hành của Thiên Chúa để giáng cơn thịnh nộ của Người xuống
kẻ làm điều ác. 5 Vì lẽ đó, cần thiết phải phục tùng, không những vì
sợ bị phạt, mà còn vì lương tâm. 6 Đó cũng là lý do khiến anh em nộp
thuế: nhân viên thu thuế là những người phục vụ Thiên Chúa, khi chu toàn phận
sự. 7 Anh em nợ ai cái gì, thì hãy trả cho người ta cái đó: nộp sưu
cho người đòi sưu, trả thuế cho người đòi thuế, sợ người phải sợ, kính người
phải kính.
Yêu
thương là chu toàn Lề Luật
8
Anh
em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã
chu toàn Lề Luật. 9 Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được
ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn,
cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người
thân cận như chính mình. 10 Đã yêu thương thì không làm hại người
đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.
Người
tín hữu là con cái ánh sáng
11
Phải
như thế, vì anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em
phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước
kia, khi chúng ta mới tin đạo. 12 Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy
chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để
chiến đấu. 13 Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống
giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi
cọ ghen tương. 14 Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và
đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.
Chương 14
Bác
ái đối với người yếu tin
1
Anh
em hãy đón nhận người yếu đức tin và đừng tranh luận với họ. 2 Có
người tin mình ăn được mọi thứ, có người vì yếu chỉ ăn rau. 3 Người
ăn đừng có khinh kẻ không ăn, còn kẻ không ăn cũng đừng xét đoán người ăn, vì
Thiên Chúa đã đón nhận người ấy. 4 Bạn là ai mà xét đoán người nhà
của kẻ khác? Nó đứng hay nó ngã, đó là việc của chủ nó. Nhưng nó sẽ đứng, vì
Chúa có khả năng làm cho nó đứng. 5 Người thì cho rằng: ngày này
trọng hơn ngày khác; kẻ thì lại nghĩ: ngày nào cũng như nhau. Trong thâm tâm,
mỗi người phải có xác tín. 6 Ai để ý đến ngày này ngày nọ, thì làm
thế để kính Chúa. Người ăn, thì vì Chúa mà ăn, bởi lẽ họ tạ ơn Thiên Chúa. Còn
người không ăn, thì không ăn vì Chúa, họ cũng tạ ơn Thiên Chúa. 7 Thật
vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho
chính mình. 8 Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là
chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa; 9 vì
Đức Ki-tô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết. 10
Thế mà bạn, sao bạn lại xét đoán người anh em? Và bạn nữa, sao bạn khinh
dể người anh em? Quả thế, tất cả chúng ta sẽ phải ra trước toà Thiên Chúa, 11
vì có lời chép rằng: Đức Chúa phán: Ta lấy sự sống Ta mà thề: mọi người
sẽ quỳ gối lạy Ta, và mọi miệng lưỡi phải xưng tụng Thiên Chúa. 12 Như
vậy, mỗi người trong chúng ta sẽ phải trả lời về chính mình trước mặt Thiên
Chúa.
13
Vậy
chúng ta đừng xét đoán nhau nữa. Tốt hơn, anh em hãy xét sao để tránh gây cớ
cho anh em mình phải vấp hay phải ngã. 14 Trong Chúa Giê-su, tôi
biết và xác tín rằng không có gì tự nó là ô uế; có ô uế là chỉ đối với người
cho nó là ô uế. 15 Nếu vì bạn ăn một thức ăn, mà bạn làm phiền lòng
người anh em, thì bạn không còn sống theo đức ái nữa. Đừng vì chuyện ăn uống mà
làm cho người anh em của bạn phải hư mất, vì Đức Ki-tô đã chết cho người ấy.
16
Vậy
đừng để cho thiên hạ chê bai điều mà anh em cho là tốt. 17 Vì Nước
Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an
và hoan lạc trong Thánh Thần. 18 Ai phục vụ Đức Ki-tô như thế, thì
đẹp lòng Thiên Chúa và được người ta quý trọng. 19 Vậy chúng ta hãy
theo đuổi những gì đem lại bình an và những gì xây dựng cho nhau. 20 Đừng
vì một thức ăn mà phá huỷ công trình Thiên Chúa. Đã hẳn, mọi thức ăn đều thanh
sạch; nhưng ăn mà gây cớ vấp ngã, thì là điều xấu. 21 Tốt nhất là
đừng ăn thịt, uống rượu, và tránh những gì có thể gây cớ cho anh em mình vấp
ngã.
22
Bạn
xác tín điều gì, thì cứ giữ lấy cho mình trước mặt Thiên Chúa. Phúc thay ai
không cho mình là có lỗi khi quyết định làm điều gì! 23 Còn ai hồ nghi mà cứ
ăn, thì bị kết án, vì hành động không do xác tín. Hành động nào không do xác
tín đều là tội.
Chương 15
1
Bổn
phận của chúng ta, những người có đức tin vững mạnh, là phải nâng đỡ những
người yếu đuối, không có đức tin vững mạnh, chứ không phải chiều theo sở thích
của mình. 2 Mỗi người chúng ta hãy chiều theo sở thích kẻ khác, vì
lợi ích của họ, và để xây dựng. 3 Thật vậy, Đức Ki-tô đã không chiều
theo sở thích của mình; trái lại, như có lời chép: Lời kẻ thoá mạ Ngài, này
chính con hứng chịu. 4 Quả thế, mọi lời xưa đã chép trong Kinh
Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên
nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy.
5
Xin
Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí
với nhau, như Đức Ki-tô Giê-su đòi hỏi. 6 Nhờ đó, anh em sẽ có thể
hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa
chúng ta.
7
Vậy,
anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Ki-tô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh
Thiên Chúa. 8 Thật vậy, tôi xin quả quyết: Đức Ki-tô có đến phục vụ
những người được cắt bì, để thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên
họ, đó là do lòng trung thành của Thiên Chúa. 9 Còn các dân ngoại có
được tôn vinh Thiên Chúa, thì đó là do lòng thương xót của Người, như có lời
chép: Vì thế giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng
danh thánh Chúa. 10 Chỗ khác lại chép: Hỡi chư dân, hãy vui mừng với
dân Thiên Chúa! 11 Chỗ khác nữa: Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa, ngàn dân ơi,
hãy chúc tụng Người! 12 Ông I-sai-a cũng nói: Từ gốc tổ Gie-sê sẽ xuất hiện một
mầm non, một Đấng sẽ đứng lên lãnh đạo chư dân. Chư dân sẽ hy vọng nơi Người.
13
Xin
Thiên Chúa là nguồn hy vọng, ban cho anh em được chan chứa niềm vui và bình an
nhờ đức tin, để nhờ quyền năng của Thánh Thần, anh em được tràn trề hy vọng.
KẾT
Công
việc phục vụ của thánh Phao-lô
14
Thưa
anh em, chính tôi, tôi tin chắc rằng anh em có đầy thiện chí, thừa hiểu biết và
có khả năng khuyên bảo nhau. 15 Trong thư này, đôi chỗ tôi đã nói
hơi mạnh, chẳng qua là để nhắc lại cho anh em điều anh em đã biết. Tôi viết thế
là dựa vào ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi 16 làm người phục vụ Đức Giê-su
Ki-tô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa,
để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hoá mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng
Thiên Chúa.
17
Vậy,
trong Đức Ki-tô Giê-su, tôi có quyền hãnh diện về công việc phục vụ Thiên Chúa.
18 Thật thế, tôi đâu dám nhắc đến chuyện nào khác, ngoài những gì
Đức Ki-tô đã dùng tôi mà thực hiện để đưa các dân ngoại về phục vụ Thiên Chúa,
thực hiện bằng lời nói việc làm, 19 bằng sức mạnh của những dấu lạ
điềm thiêng, bằng quyền năng của Thánh Thần. Như vậy, từ Giê-ru-sa-lem, đi vòng
đến tận miền I-ly-ri, tôi đã làm tròn sứ mạng loan báo Tin Mừng Đức Ki-tô. 20
Nhưng tôi chỉ có tham vọng là loan báo Tin Mừng ở những nơi người ta chưa
được nghe nói đến danh Đức Ki-tô. Tôi làm thế vì không muốn xây dựng trên nền
móng người khác đã đặt. 21 Trái lại, như có lời chép: Những kẻ đã
không được loan báo về Người, sẽ thấy, những kẻ đã không được nghe nói về
Người, sẽ hiểu.
Dự
định mấy chuyến đi
22
Chính
vì lẽ đó mà đã bao lần tôi bị ngăn trở không thể đến với anh em. 23 Nhưng
bây giờ tôi không còn môi trường hoạt động trong những vùng này nữa; đàng khác,
từ nhiều năm nay, tôi vẫn ước ao đến thăm anh em, 24 khi nào tôi
sang Tây Ban Nha. Tôi hy vọng trên đường đi sẽ ghé thăm anh em, và được anh em
tiễn đưa qua đó, sau khi được thoả mãn phần nào vì đã gặp anh em. 25 Nhưng
bây giờ tôi còn phải đi Giê-ru-sa-lem để phục vụ dân thánh ở đó, 26 vì
miền Ma-kê-đô-ni-a và miền A-khai-a đã có nhã ý đóng góp để giúp những người
nghèo trong số dân thánh ở Giê-ru-sa-lem. 27 Họ đã có nhã ý làm như
vậy, nhưng thực ra họ cũng có bổn phận đối với dân thánh ở đó. Bởi vì các dân
ngoại đã được chia sẻ các phúc lộc thiêng liêng của dân thánh ở Giê-ru-sa-lem,
thì họ cũng có bổn phận dùng của cải vật chất mà giúp đỡ lại. 28 Vậy
khi đã hoàn thành công việc ấy và đã chính thức chuyển giao kết quả cuộc lạc
quyên, tôi sẽ ghé thăm anh em trên đường đi Tây Ban Nha. 29 Tôi biết
rằng, khi đến thăm anh em, tôi sẽ đến với đầy đủ phúc lành của Đức Ki-tô.
30
Thưa
anh em, vì Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, và vì tình yêu của Thánh Thần, tôi
khuyên nhủ anh em cùng chiến đấu với tôi, bằng cách cầu xin Thiên Chúa cho tôi,
31 để tôi thoát khỏi tay những người miền Giu-đê không chịu tin và
để dân thánh vui lòng chấp nhận những gì tôi mang đến Giê-ru-sa-lem phục vụ họ.
32 Như thế, tôi sẽ vui mừng đến với anh em và được nghỉ ngơi giữa
anh em, nếu Thiên Chúa muốn.
33
Xin
Thiên Chúa là nguồn bình an, ở cùng tất cả anh em. A-men.
Chương 16
Giới
thiệu và chào thăm
1
Tôi
xin giới thiệu với anh em chị Phê-bê, người chị em của chúng tôi, là nữ trợ tá
Hội Thánh Ken-khơ-rê. 2 Mong anh em tiếp đón chị trong Chúa cách
xứng đáng, như dân thánh phải đối xử với nhau. Chị có việc gì cần đến anh em,
xin anh em giúp đỡ, vì chính chị cũng đã bảo trợ cho nhiều người, kể cả tôi
nữa.
3
Tôi
xin gửi lời thăm chị Pơ-rít-ca và anh A-qui-la, những người cộng tác với tôi để
phục vụ Đức Ki-tô Giê-su; 4 hai anh chị đã liều mất đầu để cứu mạng
tôi. Không chỉ mình tôi, mà còn các Hội Thánh trong dân ngoại cũng phải mang ơn
anh chị. 5 Tôi cũng xin gửi lời thăm Hội Thánh vẫn họp tại nhà anh
chị ấy.
6
Xin
gửi lời thăm chị Ma-ri-a, người đã vất vả nhiều vì anh em. 7 Xin gửi
lời thăm các anh An-rô-ni-cô và Giu-ni-a, bà con với tôi, và đã từng ngồi tù
với tôi; các anh là những người xuất sắc trong các Tông Đồ, lại còn theo Đức
Ki-tô trước tôi. 8 Xin gửi lời thăm anh Am-li-át, bạn yêu quý của
tôi trong Chúa. 9 Xin gửi lời thăm anh Ua-ban, người cộng tác với
chúng tôi trong Đức Ki-tô, và anh Ta-khy, bạn yêu quý của tôi. 10 Xin
gửi lời thăm anh A-pe-lê, người đã từng được tôi luyện trong Đức Ki-tô. Xin gửi
lời thăm mọi người trong nhà anh A-rít-tô-bu-lô. 11 Xin gửi lời thăm
anh Hê-rô-đi-on, bà con với tôi. Xin gửi lời thăm bà con anh Na-ki-xô, những
người đang ở trong Chúa. 12 Xin gửi lời thăm hai chị Try-phen và
Try-phô-xa, những người đang vất vả vì Chúa. Xin gửi lời thăm chị Péc-xi-đê yêu
quý, người đã vất vả nhiều vì Chúa. 13 Xin gửi lời thăm anh Ru-phô,
người được Chúa chọn, và thăm mẹ của anh, cũng là mẹ của tôi. 14 Xin
gửi lời thăm các anh A-xinh-rít, Phơ-lê-gon, Héc-mê, Pát-rô-ba, Héc-ma và những
anh em ở với các anh ấy. 15 Xin gửi lời thăm anh Phi-lô-lô-gô và chị
Giu-li-a, anh Nê-rê và cô em anh ấy, anh Ô-lim-pa và mọi người trong dân thánh
đang ở với các anh chị ấy. 16 Anh em hãy hôn chào nhau một cách
thánh thiện. Tất cả các Hội Thánh Đức Ki-tô gửi lời chào anh em.
Tái
bút lần thứ nhất: khuyên nhủ coi chừng
17
Thưa
anh em, tôi khuyên nhủ anh em hãy coi chừng những kẻ gây chia rẽ và làm cớ vấp
ngã, vì đi ngược lại với đạo lý anh em đã học hỏi; anh em hãy xa lánh họ. 18
Hạng người đó chẳng phục vụ Đức Ki-tô, Chúa chúng ta, mà phục vụ chính
cái bụng của mình. Họ dùng những lời ngọt ngào nịnh bợ mà quyến rũ những tâm
hồn đơn sơ. 19 Thật vậy, ai ai cũng biết rằng anh em vâng phục Thiên
Chúa; bởi thế tôi lấy làm vui vì anh em. Nhưng tôi muốn cho anh em khôn ngoan
làm điều tốt, trong sạch không làm điều xấu. 20 Thiên Chúa là nguồn
bình an, chẳng bao lâu nữa sẽ đè bẹp Xa-tan, bắt nó phải ở dưới chân anh em.
Nguyện xin Đức Giê-su, Chúa chúng ta, ban ân sủng cho anh em.
Tái
bút lần thứ hai: chào thăm lần cuối
21
Anh
Ti-mô-thê, người cộng tác với tôi, các anh Lu-ki-ô, Gia-xon và Xô-xi-pát-rô, bà
con của tôi, gửi lời thăm anh em. 22 Tôi là Téc-xi-ô, người chép thư
này, xin gửi lời thăm anh em trong Chúa. 23 Anh Gai-ô, người tiếp
rước tôi và tiếp rước cả Hội Thánh trong nhà của anh, gửi lời thăm anh em. Anh
Ê-rát-tô, quản lý kho bạc của thành phố, và anh Qua-tô, người anh em chúng tôi,
gửi lời thăm anh em. 24 Nguyện xin Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta,
ban ân sủng cho toàn thể anh em. A-men.
Vinh
tụng ca
25
Vinh
danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng
tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giê-su Ki-tô. Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm
vốn được giữ kín tự ngàn xưa 26 nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ
trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này
được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. 27 Chỉ
mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang
đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. A-men.
Cô-rin-tô 1
Chương 1
Lời
chào thăm. Lời cảm tạ
1
Tôi
là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, và ông
Xốt-thê-nê là người anh em của chúng tôi, 2 kính gửi Hội Thánh của
Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, những người đã được hiến thánh trong Đức Ki-tô Giê-su,
được kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu
danh Chúa của chúng ta, Đức Giê-su Ki-tô, là Chúa của họ và của chúng ta. 3
Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em
ân sủng và bình an.
4
Tôi
hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi
Đức Ki-tô Giê-su. 5 Quả vậy, trong Đức Ki-tô Giê-su, anh em đã trở
nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe lời Chúa và hiểu biết
mầu nhiệm của Người. 6 Thật thế, lời chứng về Đức Ki-tô đã ăn sâu
vững chắc vào lòng trí anh em, 7 khiến anh em không thiếu một ân huệ
nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh
quang của Người. 8 Chính Người sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến
cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em trong Ngày của Chúa chúng ta
là Đức Giê-su Ki-tô. 9 Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu
gọi anh em đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
I.
CHIA RẼ VÀ GƯƠNG XẤU
1.
CÁC PHE PHÁI TRONG GIÁO ĐOÀN CÔ-RIN-TÔ
Các
tín hữu chia rẽ nhau
10
Thưa
anh em, nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy
nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em,
nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau. 11 Thật vậy, thưa
anh em, người nhà của bà Khơ-lô-e cho tôi hay tin có chuyện bè phái giữa anh em.
12 Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như: ”Tôi thuộc
về ông Phao-lô, tôi thuộc về ông A-pô-lô, tôi thuộc về ông Kê-pha, tôi thuộc về
Đức Ki-tô.” 13 Thế ra Đức Ki-tô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư? Có phải
Phao-lô đã chịu đóng đinh vào khổ giá vì anh em chăng? Hay anh em đã chịu phép
rửa nhân danh Phao-lô sao? 14 Tôi tạ ơn Thiên Chúa, vì tôi đã không làm phép
rửa cho ai, trừ ông Cơ-rít-pô và ông Gai-ô. 15 Như thế, không ai nói
được rằng anh em đã chịu phép rửa nhân danh tôi. 16 À, tôi còn làm
phép rửa cho gia đình Tê-pha-na nữa. Ngoài ra, tôi không biết có làm phép rửa
cho ai khác nữa hay chăng.
Sự
khôn ngoan của thế gian và sự khôn ngoan theo Ki-tô giáo
17
Quả
vậy, Đức Ki-tô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin
Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Ki-tô khỏi
trở nên vô hiệu. 18 Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự
điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những
người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa. 19 Vì có
lời chép rằng: Ta sẽ huỷ diệt sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan, và sẽ vứt bỏ sự
thông thái của người thông thái. 20 Người khôn ngoan đâu? Người học
thức đâu? Người lý sự của thời này đâu? Thiên Chúa lại đã không để cho sự khôn
ngoan của thế gian ra điên rồ đó sao? 21 Thật vậy, thế gian đã không dùng sự
khôn ngoan mà nhận biết Thiên Chúa ở những nơi Thiên Chúa biểu lộ sự khôn ngoan
của Người. Cho nên Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những
người tin. 22 Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu
lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, 23 thì chúng tôi lại
rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục
không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. 24 Nhưng đối với
những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là
Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. 25 Vì cái điên
rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của
Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.
26
Thưa
anh em, anh em thử nghĩ lại xem: khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em
đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy
người quý phái. 27 Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên
Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu
kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; 28 những
gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn
để huỷ diệt những gì hiện có, 29 hầu không một phàm nhân nào dám tự
phụ trước mặt Người. 30 Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa mà anh em
được hiện hữu trong Đức Ki-tô Giê-su, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng
ta, sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên công
chính, đã thánh hoá và cứu chuộc anh em, 31 hợp như lời đã chép
rằng: Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa.
Chương 2
1
Thưa
anh em, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý
cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. 2 Vì hồi còn ở giữa
anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê-su Ki-tô, mà là
Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá. 3 Vì thế, khi đến với
anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. 4 Tôi nói, tôi
giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng
xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. 5 Có vậy, đức tin
của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng
Thiên Chúa.
6
Thế
mà điều chúng tôi giảng dạy cho các tín hữu trưởng thành cũng là một lẽ khôn
ngoan, nhưng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian, cũng không phải của các
thủ lãnh thế gian này, là những kẻ sớm muộn gì cũng phải diệt vong. 7 Trái
lại, chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí
mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta
được vinh hiển. 8 Không một ai trong các thủ lãnh thế gian này đã
được biết lẽ khôn ngoan ấy, vì nếu biết, họ đã chẳng đóng đinh Đức Chúa hiển
vinh vào thập giá. 9 Nhưng, như đã chép: Điều mắt chẳng hề thấy, tai
chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn
sẵn cho những ai mến yêu Người.
10
Còn
chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí. Thật vậy,
Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa. 11 Vậy
ai trong loài người biết được những gì nơi con người, nếu không phải là thần
trí của con người trong con người? Cũng thế, không ai biết được những gì nơi
Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa. 12 Phần chúng
ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát
xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. 13
Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được
nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần
Khí; chúng tôi dùng những lời lẽ Thần Khí linh hứng để diễn tả thực tại thuộc
về Thần Khí. 14 Con người sống theo tính tự nhiên thì không đón nhận
những gì của Thần Khí Thiên Chúa, vì cho đó là sự điên rồ; họ không thể biết
được, bởi vì phải nhờ Thần Khí mới có thể xét đoán. 15 Nhưng con
người sống theo Thần Khí thì xét đoán được mọi sự, mà chẳng có ai xét đoán được
người đó. 16 Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa, để chỉ vẽ cho
Người? Còn chúng tôi, chúng tôi biết được tư tưởng của Đức Ki-tô.
Chương 3
1
Thưa
anh em, về phần tôi, tôi đã không thể nói với anh em như với những con người
sống theo Thần Khí, nhưng như với những con người sống theo tính xác thịt, như
với những trẻ nhỏ trong Đức Ki-tô. 2 Tôi đã cho anh em uống sữa chứ
không cho dùng thức ăn, vì anh em chưa chịu nổi. Nhưng bây giờ anh em cũng vẫn
còn không chịu nổi, 3 vì anh em còn là những con người sống theo
tính xác thịt. Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi cọ, thì anh em chẳng
phải là những con người sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm sao? 4
Khi người này nói: ”Tôi, tôi thuộc về ông Phao-lô", và người khác: ”Tôi,
tôi thuộc về ông A-pô-lô", thì anh em chẳng là người phàm tục sao?
Vai
trò thực sự của người rao giảng
5
Vậy
A-pô-lô là gì? Phao-lô là gì? Đó là những tôi tớ đã giúp cho anh em có đức tin,
mỗi người đã làm theo khả năng Chúa ban. 6 Tôi trồng, anh A-pô-lô
tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. 7 Vì thế, kẻ trồng hay
người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể.
8 Kẻ trồng người tưới đều như nhau, nhưng ai nấy sẽ được thù lao
theo công khó của mình. 9 Thật vậy, chúng tôi là cộng sự viên của
Thiên Chúa. Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên.
10
Theo
ơn Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi đặt nền móng như một kiến trúc sư lành nghề,
còn người khác thì xây trên nền móng đó. Nhưng ai nấy phải coi chừng về cách
mình xây cất. 11 Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền
móng đã đặt sẵn là Đức Giê-su Ki-tô. 12 Người ta có thể dùng vàng,
bạc, đá quý, gỗ, cỏ, rơm mà xây trên nền đó. 13 Nhưng công việc của
mỗi người sẽ được phơi bày ra ánh sáng. Thật thế, Ngày của Chúa sẽ cho thấy
công việc đó, vì Ngày ấy tỏ rạng trong lửa; chính lửa này sẽ thử nghiệm giá trị
công việc của mỗi người. 14 Công việc xây dựng của ai tồn tại trên
nền, thì người ấy sẽ được lĩnh thưởng. 15 Còn công việc của ai bị
thiêu huỷ, thì người ấy sẽ phải thiệt. Tuy nhiên, bản thân người ấy sẽ được
cứu, nhưng như thể băng qua lửa.
16
Nào
anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên
Chúa ngự trong anh em sao? 17 Vậy ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa
sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là
anh em.
Kết
luận
18
Đừng
ai tự lừa dối mình. Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói
đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật. 19 Vì sự
khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như có lời chép rằng:
Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng. 20 Lại có
lời rằng: Tư tưởng kẻ khôn ngoan, Chúa đều biết cả: thật chỉ như cơn gió thoảng
ngoài.
21
Vậy
đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào. Vì tất cả đều thuộc về anh em; 22 dù
là Phao-lô, hay A-pô-lô, hay Kê-pha, dù cả thế gian này, sự sống, sự chết, hiện
tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, 23 mà anh em thuộc về
Đức Ki-tô, và Đức Ki-tô lại thuộc về Thiên Chúa.
Chương 4
1
Vậy
chớ gì thiên hạ coi chúng tôi như những đầy tớ của Đức Ki-tô, những người quản
lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa. 2 Mà người ta chỉ đòi hỏi ở người
quản lý một điều, là phải chứng tỏ lòng trung thành. 3 Đối với tôi,
dù có bị anh em hay toà đời xét xử, tôi cũng chẳng coi là gì. Mà tôi, tôi cũng
chẳng tự xét xử lấy mình. 4 Quả thật, tôi không thấy lương tâm áy
náy điều gì, nhưng đâu phải vì thế mà tôi đã được kể là người công chính. Đấng
xét xử tôi chính là Chúa. 5 Vậy xin anh em đừng vội xét xử điều gì
trước kỳ hạn, trước ngày Chúa đến. Chính Người sẽ đưa ra ánh sáng những gì ẩn
khuất trong bóng tối, và phơi bày những ý định trong thâm tâm con người. Bấy
giờ, mỗi người sẽ được Thiên Chúa khen thưởng đích đáng.
6
Thưa
anh em, tôi đã áp dụng các điều đó cho tôi và anh A-pô-lô, vì lợi ích của anh
em, để anh em theo gương chúng tôi mà học cho biết”đừng có đi ra ngoài những gì
đã viết", kẻo sinh ra kiêu ngạo, theo người này mà chống người khác. 7
Thật vậy, nào có ai coi bạn hơn kẻ khác đâu? Bạn có gì mà bạn đã không
nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?
8 Anh em đã no nê rồi, đã giàu có rồi! Không có chúng tôi, anh em đã làm vua
rồi! Phải chi anh em làm vua, để chúng tôi cũng được làm vua với anh em! 9 Thật
vậy, tôi thiết nghĩ: Thiên Chúa đã đặt chúng tôi làm Tông Đồ hạng chót như
những kẻ bị án tử hình, bởi vì chúng tôi đã nên trò cười cho thế gian, cho
thiên thần và loài người! 10 Chúng tôi điên dại vì Đức Ki-tô, còn anh em thì
khôn ngoan trong Đức Ki-tô; chúng tôi yếu đuối, còn anh em thì mạnh mẽ; anh em
được kính trọng, còn chúng tôi thì bị khinh khi. 11 Cho đến giờ này,
chúng tôi vẫn chịu đói khát, trần truồng, bị hành hạ và lang thang phiêu bạt; 12
chúng tôi phải vất vả tự tay làm lụng. Bị nguyền rủa, chúng tôi chúc
lành; bị bắt bớ, chúng tôi cam chịu; 13 bị vu khống, chúng tôi đem
lời an ủi. Cho đến bây giờ, chúng tôi đã nên như rác rưởi của thế gian, như phế
vật đối với mọi người.
Lời
khiển trách
14
Tôi
viết những lời đó không phải để làm anh em xấu hổ, nhưng là để sửa dạy anh em
như những người con yêu quý của tôi. 15 Thật thế, cho dầu anh em có
ngàn vạn giám thị trong Đức Ki-tô, anh em cũng không có nhiều cha đâu, bởi vì
trong Đức Ki-tô Giê-su, nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em. 16 Vậy
tôi khuyên anh em: hãy bắt chước tôi. 17 Vì lẽ đó, tôi đã phái người
con yêu quý và trung tín của tôi trong Chúa, là anh Ti-mô-thê, đến với anh em.
Anh ấy sẽ nhắc cho anh em những quy tắc hướng dẫn đời sống trong Đức Ki-tô mà
tôi đã đề ra, những quy tắc mà tôi vẫn giảng dạy khắp nơi, trong mọi Hội Thánh.
18
Vì
nghĩ rằng tôi sẽ không đến với anh em, có vài người đã sinh ra kiêu ngạo. 19
Nhưng nếu Chúa muốn, chẳng bao lâu nữa tôi sẽ đến với anh em, và tôi sẽ
được biết, không phải tài ăn nói của những kẻ kiêu ngạo đó, mà là quyền năng
của Thần Khí. 20 Thật vậy, Nước Thiên Chúa không cốt ở tài ăn nói,
nhưng ở quyền năng. 21 Anh em muốn gì? Muốn tôi mang roi vọt hay là
đức bác ái và lòng nhân hậu mà đến với anh em?
Chương 5
2.
TRƯỜNG HỢP LOẠN LUÂN
1
Đi
đâu cũng chỉ nghe nói đến chuyện dâm ô xảy ra giữa anh em, mà là thứ dâm ô
không thấy xảy ra ngay cả nơi dân ngoại: có kẻ ăn ở với vợ kế của cha mình!
2
Thế
mà anh em lại còn kiêu ngạo! Lẽ ra anh em đã phải than khóc và loại trừ kẻ làm
điều ấy ra khỏi cộng đoàn của anh em! 3 Phần tôi, tuy vắng mặt về thân xác,
nhưng về tinh thần vẫn có mặt, tôi đã lên án kẻ có hành vi đó như thể tôi có
mặt tại chỗ. 4 Trong một buổi họp của anh em, ở đó có tôi hiện diện
bằng tinh thần, nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, và với quyền năng
của Người, 5 chúng ta phải nộp con người đó cho Xa-tan, để phần xác
nó bị huỷ diệt, còn phần hồn được cứu thoát trong Ngày của Chúa.
6
Lý
do khiến anh em vênh vang chẳng đẹp đẽ gì! Anh em không biết rằng chỉ một chút
men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? 7 Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở
thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế
làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. 8 Vì thế, chúng ta đừng lấy men
cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền
và chân thật, mà ăn mừng đại lễ.
9
Trong
thư đã gửi cho anh em, tôi có viết là đừng đi lại với những kẻ dâm đãng. 10
Tôi không có ý nói chung về mọi người dâm đãng ở thế gian này, hay về mọi
kẻ tham lam trộm cắp, hoặc mọi kẻ thờ ngẫu tượng, vì nếu vậy, anh em phải ra
khỏi thế gian! 11 Không, khi viết thế, tôi muốn nói với anh em là đừng đi lại
với kẻ nào mang danh là người anh em mà cứ dâm đãng, tham lam, thờ ngẫu tượng,
quen chửi bới, say sưa rượu chè hoặc trộm cắp; anh em cũng phải tránh đừng ăn
uống với con người như thế. 12 Thật vậy, xét xử người ngoài đâu phải
là chuyện của tôi. Còn người trong đạo, anh em không được xét xử hay sao? 13
Người ngoài, chính Thiên Chúa sẽ xét xử. Hãy khử trừ sự gian ác, không cho tồn
tại giữa anh em.
Chương 6
3.
KIỆN NHAU Ở TOÀ ĐỜI
1
Khi
xảy ra tranh chấp với kẻ khác, có người trong anh em dám đi kiện cáo trước mặt
người ngoại mà lại không đến trước mặt những người trong dân thánh! 2 Nào anh
em chẳng biết rằng dân thánh sẽ xét xử thế gian sao? Mà nếu được quyền xét xử
thế gian, anh em lại không xứng đáng xử những việc nhỏ mọn ư? 3 Nào anh em
chẳng biết rằng chúng ta sẽ xét xử các thiên thần sao? Phương chi là những việc
đời này! 4 Thế mà khi phải xét xử những việc đời này, anh em lại đặt những
người mà Hội Thánh coi nhẹ làm quan toà! 5 Tôi nói thế cho anh em phải xấu hổ.
Chẳng lẽ trong anh em lại không có người nào khôn ngoan có thể xử các vụ tranh
chấp giữa anh em mình ư? 6 Đằng này, anh em đã kiện cáo nhau thì chớ, lại còn
đem nhau ra trước toà những người không có đức tin! 7 Dù sao, nguyên việc anh
em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh em rồi. Tại sao anh em chẳng thà
chịu bất công? Tại sao anh em chẳng thà chịu thiệt thòi? 8 Nhưng chính anh em
lại ăn ở bất công và bóc lột, và đã đối xử như thế với anh em mình!
9
Nào
anh em chẳng biết rằng những kẻ bất chính sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ
nghiệp sao? Anh em đừng lầm. Những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu tượng, ngoại tình,
truỵ lạc, kê gian, 10 những kẻ trộm cướp, tham lam, say sưa rượu
chè, quen chửi bới, sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp. 11 Trước
kia, có vài người trong anh em đã là như thế. Nhưng anh em đã được tẩy rửa,
được thánh hoá, được nên công chính nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô và nhờ Thần Khí
của Thiên Chúa chúng ta!
4.
TỘI TÀ DÂM
12 “Tôi được phép làm
mọi sự"; nhưng không phải mọi sự đều có ích.” Tôi được phép làm mọi
sự"; nhưng tôi sẽ không để sự gì làm chủ được tôi. 13 Thức ăn
dành cho bụng, và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ huỷ diệt cả cái này lẫn
cái kia. Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa,
vì Chúa làm chủ thân xác. 14 Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống
lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại.
15
Nào
anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao? Tôi
lại lấy phần thân thể của Đức Ki-tô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao?
Không đời nào! 16 Anh em chẳng biết rằng ăn ở với người kỹ nữ là nên một thân
xác với người ấy sao? Thật thế, có lời chép rằng cả hai sẽ thành một xương một
thịt. 17 Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người.
18
Anh
em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình,
còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình.
19
Hay
anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà
Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh
em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, 20 vì Thiên Chúa đã
trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân
xác anh em.
Chương 7
II.
GIẢI QUYẾT MỘT SỐ VẤN ĐỀ
1.
HÔN NHÂN VÀ ĐỘC THÂN
1
Bây
giờ, tôi đề cập tới những điều anh em đã viết cho tôi: đàn ông không gần đàn bà
là điều tốt. 2 Nhưng để tránh hiểm hoạ dâm ô, thì mỗi người hãy có
vợ có chồng. 3 Chồng hãy làm tròn bổn phận đối với vợ, và vợ đối với
chồng cũng vậy. 4 Vợ không có quyền trên thân xác mình, nhưng là
chồng; cũng vậy, chồng không có quyền trên thân xác mình, nhưng là vợ. 5 Vợ
chồng đừng từ chối nhau, trừ phi hai người đồng ý sống như vậy trong một thời
gian, để chuyên lo cầu nguyện; rồi hai người lại ăn ở với nhau, kẻo vì hai
người không tiết dục nổi mà Xa-tan lợi dụng để cám dỗ. 6 Điều tôi
nói đó là một sự nhân nhượng chứ không phải là một mệnh lệnh. 7 Tôi
ước muốn mọi người đều như tôi; nhưng mỗi người được Thiên Chúa ban cho đặc
sủng riêng, kẻ thế này, người thế khác. 8 Với những người độc thân
và quả phụ, tôi nói thế này: họ cứ ở vậy như tôi thì tốt cho họ. 9 Nếu
không tiết dục được, họ cứ kết hôn, vì thà kết hôn còn hơn là bị thiêu đốt.
10
Còn
với những người đã kết hôn, tôi ra lệnh này, không phải tôi, mà là Chúa: vợ
không được bỏ chồng, 11 mà nếu đã bỏ chồng, thì phải ở độc thân hoặc
phải làm hoà với chồng; và chồng cũng không được rẫy vợ.
12
Còn
với những người khác, thì tôi nói-chính tôi chứ không phải Chúa-: nếu anh em
nào có vợ ngoại đạo mà người này bằng lòng ở với người ấy, thì người ấy đừng
rẫy vợ. 13 Người vợ nào có chồng ngoại đạo mà người này bằng lòng ở
với người ấy, thì người ấy đừng bỏ chồng. 14 Thật vậy, chồng ngoại
đạo được thánh hoá nhờ vợ, và vợ ngoại đạo được thánh hoá nhờ người chồng có
đạo. Chẳng vậy, con cái anh em sẽ là ô uế, trong khi thật ra chúng là thánh. 15
Nếu người ngoại đạo muốn bỏ người kia, thì cứ bỏ; trong trường hợp đó,
chồng hay vợ có đạo không bị luật hôn nhân ràng buộc: Thiên Chúa đã kêu gọi anh
em sống bình an với nhau! 16 Chị là vợ, biết đâu chị chẳng cứu được chồng? Hay
anh là chồng, biết đâu anh chẳng cứu được vợ?
17
Ngoài
ra, như Chúa đã định cho mỗi người làm sao, như Thiên Chúa đã kêu gọi mỗi người
thế nào, thì cứ sống như vậy: đó là điều tôi truyền dạy trong mỗi Hội Thánh. 18
Ai đã cắt bì khi được kêu gọi, thì đừng huỷ bỏ dấu vết cắt bì! Ai chưa
cắt bì khi được kêu gọi, thì đừng cắt bì! 19 Cắt bì chẳng là gì, mà không cắt
bì cũng chẳng là gì cả; điều đáng kể là tuân giữ các điều răn Thiên Chúa. 20
Ai đang ở địa vị nào khi được kêu gọi, thì cứ ở địa vị đó. 21 Bạn
là nô lệ khi được kêu gọi ư? Chớ bận tâm! Ngay cả khi có thể được tự do, tốt
hơn hãy lợi dụng thân phận nô lệ. 22 Thật thế, người đang làm nô lệ
mà được Chúa kêu gọi, thì là người được Chúa giải phóng. Cũng vậy, người đang
tự do mà được kêu gọi, thì là nô lệ của Đức Ki-tô. 23 Thiên Chúa đã
trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Anh em đừng trở nên nô lệ cho người phàm. 24
Thưa anh em, khi được kêu gọi ở địa vị nào, mỗi người cứ ở địa vị đó
trước mặt Thiên Chúa.
25
Về
vấn đề độc thân, tôi không có chỉ thị nào của Chúa, nhưng tôi chỉ khuyên nhủ
anh em với tư cách là người-nhờ Chúa thương- đáng được anh em tín nhiệm. 26
Vậy tôi nghĩ rằng: vì những nỗi thống khổ hiện tại, ở vậy là điều tốt.
Phải, tôi nghĩ rằng đối với người ta, như thế là tốt. 27 Bạn đã kết
hôn với một người đàn bà ư? Đừng tìm cách gỡ ra. Bạn chưa kết hôn với một người
đàn bà ư? Đừng lo kiếm vợ. 28 Nhưng nếu bạn cưới vợ, thì cũng chẳng
có tội gì. Và nếu người con gái lấy chồng, thì cũng chẳng có tội gì. Tuy nhiên,
những người ấy sẽ tự chuốc lấy những nỗi gian truân khốn khổ. Mà tôi, tôi muốn
cho anh em thoát khỏi điều đó.
29
Thưa
anh em, tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ
nay những người có vợ hãy sống như không có; 30 ai khóc lóc, hãy làm
như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không
có gì cả; 31 kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng.
Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi.
32
Tôi
muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì
chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. 33 Còn người có
vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, 34 thế là họ
bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo
việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo
lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng. 35 Tôi nói thế là để
mong tìm ích lợi cho anh chị em, tôi không có ý gài bẫy anh chị em đâu, nhưng
chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em được gắn bó cùng
Chúa mà không bị giằng co.
36
Nếu
ai đang lúc quá dồi dào khí lực mà nghĩ rằng mình khó có thể tôn trọng vị hôn
thê của mình, và cho rằng chuyện thường tình sẽ phải xảy ra, thì người ấy cứ làm
như ý mình muốn, không mắc tội đâu: họ cứ việc lấy nhau. 37 Còn ai
đứng vững, lòng không nao núng, cũng chẳng miễn cưỡng, lại làm chủ được ý chí
của mình, và quyết tâm tôn trọng người trinh nữ, thì người ấy làm một việc tốt.
38 Như thế, ai cưới người trinh nữ của mình, thì làm một việc tốt,
nhưng ai không cưới, thì làm một việc tốt hơn.
39
Người
vợ bị ràng buộc bao lâu chồng còn sống. Nếu chồng chết rồi, thì vợ được tự do,
muốn lấy ai thì lấy, miễn là trong Chúa. 40 Nhưng theo ý kiến tôi,
người ấy có phúc hơn nếu cứ ở vậy. Tôi thiết nghĩ: tôi cũng được Thần Khí của
Thiên Chúa soi sáng.
Chương 8
2.
VẤN ĐỀ THỊT CÚNG
Nguyên
tắc
1
Về
vấn đề thịt cúng, đã rõ là tất cả chúng ta đều hiểu biết. Sự hiểu biết đó sinh
lòng kiêu ngạo, còn lòng bác ái thì xây dựng. 2 Ai tưởng mình hiểu
biết điều gì, thì chưa hẳn là đã hiểu biết như phải hiểu biết. 3 Ai
yêu mến Thiên Chúa, thì được Người biết đến. 4 Vậy, về việc ăn thịt
cúng, chúng ta biết rằng ngẫu tượng chẳng là gì trên thế gian, và cũng chẳng có
thần nào ngoài Thiên Chúa độc nhất. 5 Thật thế, mặc dầu người ta cho
là có những thần ở trên trời hay dưới đất-quả thực, thần cũng lắm mà chúa cũng
nhiều-, 6 nhưng đối với chúng ta, chỉ có một Thiên Chúa là Cha, Đấng
tạo thành vạn vật và là cùng đích của chúng ta; và cũng chỉ có một Chúa là Đức
Giê-su Ki-tô, nhờ Người mà vạn vật được tạo thành, và nhờ Người mà chúng ta
được hiện hữu.
Xét
theo đức ái
7
Nhưng
không phải mọi người đều hiểu biết như vậy đâu! Có một số người từ trước đến
nay đã quen thờ ngẫu tượng, nên khi ăn các thức ấy thì cứ tưởng làm như vậy là
ăn của cúng; và lương tâm yếu đuối của họ đã ra ô uế. 8 Không phải
của ăn làm cho chúng ta được gần Thiên Chúa. Không ăn những thứ đó, chúng ta
chẳng thiệt; mà có ăn, cũng chẳng lợi gì. 9 Nhưng hãy coi chừng kẻo
sự tự do của anh em nên dịp cho những người yếu đuối sa ngã. 10 Thật
vậy, nếu có ai thấy bạn là người hiểu biết mà lại ngồi dự tiệc trong đền trong
miếu, thì lương tâm của người yếu đuối ấy lại chẳng dựa vào đó mà ăn của cúng
sao? 11 Thế là sự hiểu biết của bạn làm hư mất một người yếu đuối, một người
anh em mà Đức Ki-tô đã chịu chết để cứu chuộc! 12 Như vậy, phạm đến anh em và
làm thương tổn lương tâm yếu đuối của họ là phạm đến Đức Ki-tô! 13 Vì thế, nếu
của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa,
để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngã.
Chương 9
Gương
của ông Phao-lô
1
Tôi
không tự do ư? Tôi không phải là tông đồ ư? Tôi đã không thấy Đức Giê-su, Chúa
chúng ta sao? Anh em không phải là công trình của tôi trong Chúa sao? 2 Nếu đối
với những người khác tôi không phải là tông đồ, thì ít ra đối với anh em tôi là
tông đồ, vì ấn tín chứng thực chức vụ tông đồ của tôi trong Chúa chính là anh
em. 3 Đây là lời biện hộ của tôi chống lại những kẻ hạch sách tôi. 4
Phải chăng tôi không có quyền ăn uống, 5 không có quyền đem
theo một người chị em tín hữu như các tông đồ khác, như các anh em của Chúa và
như ông Kê-pha? 6 Phải chăng chỉ có tôi và anh Ba-na-ba không có quyền được
miễn lao động? 7 Có ai đi đánh giặc mà lại phải tự túc bao giờ? Có ai trồng nho
mà lại không được ăn trái? Hay có ai chăn súc vật mà lại không được uống sữa
của súc vật?
8
Phải
chăng tôi nói thế theo kiểu người phàm? Há Lề Luật lại cũng chẳng nói thế sao?
9 Thật vậy, trong luật Mô-sê có chép: Đừng bịt mõm con bò đang đạp lúa. Chẳng
lẽ Thiên Chúa lại bận tâm đến con bò sao? 10 Hay cũng vì chúng ta mà Người phán
như vậy? Phải, chính vì chúng ta mà có lời chép: Khi cày, thợ cày phải mong
được chia phần; và khi đạp lúa, kẻ đạp lúa phải mong được chia phần. 11 Một
khi chúng tôi đã gieo của thiêng liêng cho anh em, nếu chúng tôi gặt của vật
chất nơi anh em, thì đâu có phải là chuyện quá đáng? 12 Nếu những người khác
còn có quyền đòi hỏi anh em, thì huống hồ là chúng tôi! Nhưng chúng tôi đã
không dùng quyền đó. Trái lại, chúng tôi chịu đựng tất cả mọi sự để khỏi gây
trở ngại cho Tin Mừng của Đức Ki-tô. 13 Anh em không biết rằng người
lo các thánh vụ thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được
chia phần của bàn thờ sao? 14 Cũng vậy, Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng
phải sống nhờ Tin Mừng.
15
Nhưng
phần tôi, tôi đã không dùng một quyền nào trong những quyền ấy. Tôi viết các
điều này không phải để cũng được như vậy, vì đối với tôi thà chết còn hơn là. .
. . Niềm tự hào đó, không ai có thể huỷ diệt được! 16 Thật vậy, đối với tôi,
rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt
buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng! 17 Tôi mà tự
ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý, thì đó
là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. 18 Vậy đâu là phần thưởng của
tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền
lợi Tin Mừng dành cho tôi.
19
Phải,
tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của
mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. 20 Với người
Do-thái, tôi đã trở nên Do-thái, để chinh phục người Do-thái. Với những ai sống
theo Lề Luật, tôi đã trở nên người sống theo Lề Luật, dù không còn phải sống
theo Lề Luật nữa, để chinh phục những người sống theo Lề Luật. 21 Đối
với những kẻ sống ngoài Lề Luật, tôi đã trở nên người sống ngoài Lề Luật, dù
tôi không sống ngoài luật Thiên Chúa, nhưng sống trong luật Đức Ki-tô, để chinh
phục những người sống ngoài Lề Luật. 22 Tôi đã trở nên yếu với những
người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người,
để bằng mọi cách cứu được một số người. 23 Vì Tin Mừng, tôi làm tất
cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng.
24
Anh
em chẳng biết sao: trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều
chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải. Anh em hãy chạy thế nào để chiếm cho
được phần thưởng. 25 Phàm là tay đua, thì phải kiêng kỵ đủ điều,
song họ làm như vậy là để đoạt phần thưởng chóng hư; trái lại chúng ta nhằm
phần thưởng không bao giờ hư nát. 26 Vậy tôi đây cũng chạy như thế,
chứ không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không phải đấm vào không
khí. 27 Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao
giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại.
Chương 10
Xét
theo sự thận trọng- Bài học của quá khứ Ít-ra-en
1
Thưa
anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha
ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. 2 Tất
cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Mô-sê. 3
Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, 4 tất cả cùng uống một
thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn
đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Ki-tô. 5 Nhưng phần đông họ
không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc.
6
Những
sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục
vọng xấu xa như cha ông chúng ta. 7 Anh em đừng trở thành những kẻ
thờ ngẫu tượng, như một số trong nhóm họ, theo lời đã chép: Dân đã ngồi xuống
để ăn uống, rồi lại đứng lên chơi đùa. 8 Ta đừng gian dâm, như một
số trong nhóm họ đã gian dâm: nội một ngày, hai mươi ba ngàn người đã ngã gục. 9
Ta đừng thử thách Chúa, như một số trong nhóm họ đã thử thách Người và đã
bị rắn cắn chết. 10 Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong
nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. 11 Những
sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng
ta, là những người đang sống trong thời sau hết này. 12 Bởi vậy, ai
tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã. 13 Không một
thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa
là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để
anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng.
Tiệc
cúng. Không thoả hiệp với việc thờ ngẫu tượng
14
Vì
thế, anh em thân mến, hãy xa lánh việc thờ ngẫu tượng. 15 Tôi nói
với anh em như nói với những người khôn ngoan hiểu biết; anh em hãy tự mình suy
xét điều tôi nói. 16 Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên
Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Ki-tô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh
Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? 17 Bởi vì chỉ có một
tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người,
chúng ta cũng chỉ là một thân thể. 18 Anh em hãy coi Ít-ra-en xét
theo huyết thống. Những ai ăn tế phẩm, há chẳng phải là những kẻ được chia lộc
bàn thờ sao? 19 Thế nghĩa là gì? Thịt cúng là gì? Ngẫu tượng là gì? 20 Tuy
nhiên, đồ cúng là cúng cho ma quỷ, chứ không phải cho Thiên Chúa; mà tôi không
muốn anh em hiệp thông với ma quỷ. 21 Anh em không thể vừa uống chén
của Chúa, vừa uống chén của ma quỷ được; anh em không thể vừa ăn ở bàn tiệc của
Chúa, vừa ăn ở bàn tiệc của ma quỷ được. 22 Hay là ta muốn làm cho
Chúa phải ghen tương? Chẳng lẽ ta mạnh sức hơn Người?
Vấn
đề ăn thịt cúng. Cách giải quyết
23 “Được phép làm mọi
sự"; nhưng không phải mọi sự đều có ích.” Được phép làm mọi sự";
nhưng không phải mọi sự đều có tính cách xây dựng. 24 Đừng ai tìm
ích lợi cho riêng mình, nhưng hãy tìm ích lợi cho người khác. 25 Tất
cả những gì bán ngoài chợ, anh em cứ việc ăn, không cần phải đặt vấn đề lương
tâm, 26 bởi vì trái đất và muôn vật muôn loài trên trái đất đều là
của Chúa. 27 Nếu có người ngoại nào mời anh em và anh em muốn đi,
thì cứ ăn tất cả những gì người ta dọn cho anh em, không cần phải đặt vấn đề
lương tâm. 28 Nhưng nếu có người bảo: ”Đây là của cúng", thì
anh em đừng ăn, vì người ấy-kẻ đã báo trước cho anh em- và vì vấn đề lương tâm.
29 Tôi không có ý nói lương tâm của anh em, nhưng lương tâm của
người khác, bởi vì chẳng lẽ quyền tự do của tôi lại bị lương tâm kẻ khác xét
xử? 30 Nếu tôi vừa tham dự, vừa tạ ơn Thiên Chúa, tại sao tôi lại bị khiển
trách vì của ăn mà tôi tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho?
Kết
luận
31
Vậy,
dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên
Chúa. 32 Anh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai, dù là cho người
Do-thái hay người ngoại, hoặc cho Hội Thánh của Thiên Chúa; 33 cũng
như tôi đây, trong mọi hoàn cảnh, tôi cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm
ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ.
Chương 11
1
Anh
em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô.
3.
TRẬT TỰ TRONG CỘNG ĐOÀN
Trang
phục của phụ nữ
2
Tôi
có lời khen anh em đã nhớ đến tôi trong mọi dịp và nắm giữ các truyền thống tôi
đã để lại cho anh em. 3 Nhưng tôi muốn anh em biết rằng thủ lãnh của
người nam là Đức Ki-tô, thủ lãnh của người nữ là người nam, và thủ lãnh của Đức
Ki-tô là Thiên Chúa. 4 Phàm người nam nào cầu nguyện hoặc nói tiên
tri mà che đầu, thì hạ nhục Đấng làm đầu mình. 5 Phàm người nữ nào
cầu nguyện hoặc nói tiên tri mà lại để đầu trần, thì làm nhục kẻ làm đầu mình,
vì người ấy như thể trọc đầu vậy. 6 Người nữ mà để đầu trần, thì cứ
cắt tóc đi! Nhưng nếu cắt tóc hay trọc đầu là một điều xấu hổ đối với người nữ,
thì hãy che đầu lại! 7 Người nam không được che đầu, bởi vì là hình ảnh và vinh
quang của Thiên Chúa; còn người nữ là vinh quang của người nam. 8 Thật
vậy, không phải người nam tự người nữ mà có, nhưng người nữ tự người nam. 9
Cũng chẳng phải người nam được dựng nên vì người nữ, nhưng người nữ vì
người nam. 10 Bởi thế, người nữ phải mang trên đầu một dấu hiệu phục
tùng, vì có các thiên thần. 11 Tuy nhiên, trong Chúa, không nam thì
chẳng có nữ, và không nữ thì chẳng có nam. 12 Thật thế, như người nữ
tự người nam mà có, thì người nam cũng bởi người nữ mà sinh ra, và mọi sự đều
tự Thiên Chúa mà có.
13
Anh
em hãy tự xét xem: người nữ không che đầu mà cầu nguyện với Thiên Chúa thì có
xứng hợp không? 14 Chính thiên nhiên lại không dạy anh em rằng người nam mà để
tóc dài là điều ô nhục, 15 còn người nữ mà để tóc dài thì lại là
vinh dự cho họ đó sao? Là vì Thiên Chúa ban cho người nữ mái tóc làm khăn che
đầu.
16
Ngoài
ra, nếu có ai nghĩ mình phải cãi lý, thì đó không phải là thói quen của chúng
tôi, cũng như không phải là thói quen trong các Hội Thánh của Thiên Chúa.
Bữa
tiệc của Chúa (Mt 26:26-29; Mc 14:22-25; Lc 22:14-20 )
17
Nhân
lúc đưa ra các chỉ thị này, tôi chẳng khen anh em đâu, vì những buổi họp của
anh em không đem lại lợi ích gì, mà chỉ gây hại. 18 Thật thế, trước
tiên tôi nghe rằng khi họp cộng đoàn, anh em chia rẽ nhau, và tôi tin là điều
ấy có phần nào đúng. 19 Những sự chia rẽ giữa anh em, thế nào cũng
có, nhưng nhờ vậy mới rõ ai là người đạo đức chắc chắn. 20 Khi anh
em họp nhau, thì không phải là để ăn bữa tối của Chúa. 21 Thật vậy,
mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế, kẻ thì đói, người lại say.
22 Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh dể Hội Thánh
của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của? Tôi phải nói gì với anh
em? Chẳng lẽ tôi khen anh em sao? Về điểm này, tôi chẳng khen đâu!
23
Thật
vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong
đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, 24 dâng lời chúc tụng tạ ơn,
rồi bẻ ra và nói: ”Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em;
anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.” 25 Cũng thế,
cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: ”Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập
Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến
Thầy.” 26 Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống
Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết. 27 Vì thế, bất cứ
ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu
Chúa.
28
Ai
nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. 29 Thật vậy,
ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình.
30 Vì lẽ đó, trong anh em, có nhiều người ốm đau suy nhược, và cũng
có lắm người đã chết. 31 Giả như chúng ta tự xét mình, thì chúng ta
đã không bị xét xử. 32 Nhưng khi Chúa xét xử là Người sửa dạy chúng
ta, để chúng ta khỏi bị kết án cùng với thế gian.
33
Cho
nên, thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. 34 Ai
đói, thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến họp mà hoá ra để bị kết án. Về các vấn đề
khác, tôi sẽ liệu khi nào đến thăm anh em.
Chương 12
Ân
huệ của Thần Khí hay đặc sủng
1
Thưa
anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về các ân huệ thiêng liêng. 2
Anh em biết rằng khi còn là người ngoại, anh em bị lôi cuốn mãnh liệt vào
việc thờ cúng các ngẫu tượng câm. 3 Vì thế, tôi nói cho anh em biết:
chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói: ”Giê-su là đồ khốn kiếp!”;
cũng không ai có thể nói rằng: ”Đức Giê-su là Chúa", nếu người ấy không ở
trong Thần Khí.
Đặc
sủng tuy nhiều, nhưng chung một gốc
4
Có
nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. 5 Có nhiều việc
phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. 6 Có nhiều hoạt động khác
nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. 7 Thần
Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. 8 Người thì
được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban
cho ơn hiểu biết để trình bày. 9 Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng
tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa
bệnh. 10 Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên
tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng
lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. 11 Nhưng chính
Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi
cách, tuỳ theo ý của Người.
So
sánh với thân thể
12
Thật
vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ
phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy.
13 Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay
tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một
thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất.
14
Thật
vậy, thân thể gồm nhiều bộ phận, chứ không phải chỉ có một mà thôi. 15 Giả
như chân có nói: ”Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể",
thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. 16 Giả như tai
có nói: ”Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể", thì cũng
chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. 17 Giả như toàn thân chỉ
là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi?
18
Nhưng
Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn. 19
Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể
được? 20 Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một. 21 Vậy
mắt không có thể bảo tay: ”Tao không cần đến mày"; đầu cũng không thể bảo
hai chân: ”Tao không cần chúng mày.”
22
Hơn
nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất; 23 và
những bộ phận ta coi là tầm thường nhất, thì ta lại tôn trọng hơn cả. Những bộ
phận kém trang nhã, thì ta lại mặc cho chúng trang nhã hơn hết. 24 Còn
những bộ phận trang nhã thì không cần gì cả. Nhưng Thiên Chúa đã khéo xếp đặt
các bộ phận trong thân thể, để bộ phận nào kém thì được tôn trọng nhiều hơn. 25
Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo
lắng cho nhau. 26 Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau.
Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.
27
Vậy
anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận. 28 Trong
Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là
các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ,
được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói
các thứ tiếng lạ. 29 Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ? Chẳng lẽ ai cũng
là ngôn sứ, ai cũng là thầy dạy sao? Chẳng lẽ ai cũng được ơn làm phép lạ, 30
ai cũng được ơn chữa bệnh sao? Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng lạ, ai
cũng giải thích được các tiếng lạ sao?
Thứ
bậc các đặc sủng. Bài ca đức mến
31
Trong
các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất.
Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả.
Chương 13
1
Giả
như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa,
mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ
xoang xoảng. 2 Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết
mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi
dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. 3 Giả như
tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu
thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. 4 Đức
mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, 5
không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi
hận thù, 6 không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều
chân thật. 7 Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất
cả, chịu đựng tất cả. 8 Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên
tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết
ư? Rồi cũng chẳng còn. 9 Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói
tiên tri cũng có hạn. 10 Khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có
hạn sẽ biến đi. 11 Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như
trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành
người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con. 12 Bây giờ chúng
ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ
tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết
tôi. 13 Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng
cao trọng hơn cả là đức mến.
Chương 14
Thứ
bậc các đặc sủng để mưu cầu ích chung
1
Anh
em hãy cố đạt cho được đức mến, hãy khao khát những ơn của Thần Khí, nhất là ơn
nói tiên tri. 2 Thật vậy, kẻ nói tiếng lạ thì không nói với người
ta, nhưng là nói với Thiên Chúa, bởi vì chẳng ai hiểu được: nhờ Thần Khí, kẻ ấy
nói ra những điều nhiệm mầu. 3 Còn người nói tiên tri thì nói với
người ta để xây dựng, để khích lệ và an ủi. 4 Kẻ nói tiếng lạ thì tự
xây dựng chính mình; người nói tiên tri thì xây dựng Hội Thánh. 5 Tôi
muốn cho tất cả anh em nói các tiếng lạ, và nhất là tôi muốn cho anh em nói
tiên tri. Người nói tiên tri thì cao trọng hơn người nói các tiếng lạ, trừ phi
người này giải thích để xây dựng Hội Thánh.
6
Thưa
anh em, giờ đây, giả như tôi đến cùng anh em mà chỉ nói các tiếng lạ, giả như
lời nói của tôi không đem lại cho anh em một mặc khải, một sự hiểu biết, hay
không phải là một lời tiên tri, một lời giáo huấn, thì nào có ích gì cho anh
em? 7 Như thế, có khác chi những nhạc cụ không hồn, như sáo như đàn: nếu âm
thanh không rõ, thì làm sao nhận ra được cung nhạc tiếng đàn? 8 Thật vậy, giả
như kèn chỉ phát ra một tiếng vu vơ, thì ai sẽ chuẩn bị chiến đấu? 9 Anh em
cũng thế: nếu miệng lưỡi anh em chẳng nói những lời có thể hiểu được, thì làm
sao người ta biết điều anh em nói? Anh em chỉ nói bông lông thôi! 10 Trong
thiên hạ, có rất nhiều thứ ngôn ngữ, nhưng không có thứ nào là vô nghĩa. 11
Vậy nếu tôi không biết giá trị của ngôn ngữ, thì tôi sẽ là kẻ man dã đối
với người nói, và người nói là kẻ man dã đối với tôi. 12 Anh em cũng
vậy: vì khao khát những ơn của Thần Khí, anh em hãy tìm kiếm để được dồi dào
các ân huệ đó, nhằm xây dựng Hội Thánh.
13
Vì
thế, kẻ nói tiếng lạ thì phải xin cho được ơn giải thích. 14 Thật
vậy, nếu tôi cầu nguyện bằng tiếng lạ thì lòng tôi cầu nguyện, nhưng trí tôi
chẳng thu được kết quả gì. 15 Vậy, phải làm sao? Tôi sẽ cầu nguyện
với tấm lòng, nhưng cũng cầu nguyện với trí khôn nữa. Tôi sẽ ca hát với tấm
lòng, nhưng cũng ca hát với trí khôn nữa. 16 Quả thế, nếu bạn chỉ
chúc tụng với tấm lòng thôi, thì làm sao hạng người ngoài cuộc có thể
thưa”A-men" lúc bạn dâng lời tạ ơn, vì người đó không biết bạn nói gì? 17
Đã hẳn, lời tạ ơn của bạn tốt đẹp thật, nhưng không xây dựng cho người khác. 18
Tôi cảm tạ Thiên Chúa vì tôi nói các tiếng lạ nhiều hơn tất cả anh em, 19
nhưng trong cộng đoàn, thà tôi nói năm ba tiếng có thể hiểu được để dạy
dỗ kẻ khác, còn hơn là nói hàng vạn lời bằng tiếng lạ.
20
Thưa
anh em, về mặt phán đoán thì đừng sống như trẻ con; về đàng dữ, sống như trẻ
con thì được, nhưng về mặt phán đoán thì phải là người trưởng thành. 21 Trong
Lề Luật có chép: Chúa phán rằng: Ta sẽ dùng những người nói tiếng khác lạ và
môi miệng người ngoại quốc mà nói với dân này; dù thế, chúng cũng chẳng nghe Ta.
22 Vì thế, các tiếng lạ được dùng làm dấu hiệu, không phải cho những
người tin, mà cho những kẻ không tin; còn lời ngôn sứ thì không phải là cho
những kẻ không tin, mà cho những người tin. 23 Vậy giả như cả cộng
đoàn họp lại một nơi và mọi người đều nói các tiếng lạ, mà khi đó có người
ngoài cuộc hay người không tin đi vào, thì họ chẳng bảo là anh em điên sao? 24
Còn nếu mọi người đều nói tiên tri, mà có người không tin hoặc người ngoài cuộc
đi vào, người đó sẽ thấy mình bị mọi người khiển trách, mọi người xét xử. 25
Những điều bí ẩn trong lòng người đó sẽ bị lộ, và như thế, người đó sẽ sấp
mình xuống mà thờ lạy Thiên Chúa, tuyên bố rằng: ”Hẳn thật, Thiên Chúa ở giữa
anh em.”
Các
đặc sủng. Quy luật thực tiễn
26
Vậy,
thưa anh em, phải kết luận thế nào? Khi anh em hội họp, người thì hát thánh ca,
người thì giảng dạy, người thì nói lời mặc khải, người thì nói tiếng lạ, người
thì giải nghĩa: tất cả những điều ấy đều phải nhằm xây dựng Hội Thánh. 27 Nếu
có nói tiếng lạ, thì chỉ hai hoặc tối đa ba người nói thôi, mỗi người cứ theo
phiên mà nói, và phải có một người giải thích. 28 Nếu không có người
giải thích, thì phải giữ thinh lặng trong cộng đoàn, mỗi người chỉ nói với mình
và với Thiên Chúa thôi. 29 Về các ngôn sứ, chỉ nên có hai hoặc ba
người lên tiếng thôi, còn những người khác thì phân định. 30 Nếu có
ai ngồi đó được ơn mặc khải, thì người đang nói phải im đi. 31 Mọi
người có thể lần lượt nói tiên tri, để ai nấy đều được học hỏi và khích lệ. 32
Ngôn sứ thì làm chủ những cảm hứng tiên tri của mình, 33 bởi
vì Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa gây hỗn loạn, nhưng là Thiên Chúa tạo
bình an. Như thói quen trong mọi cộng đoàn dân thánh, 34 phụ nữ phải
làm thinh trong các buổi họp, vì họ không được phép lên tiếng; trái lại, họ
phải sống phục tùng như chính Lề Luật dạy. 35 Nếu họ muốn tìm hiểu
điều gì, thì cứ về nhà hỏi chồng, bởi vì phụ nữ mà lên tiếng trong cộng đoàn
thì không còn thể thống gì. 36 Lời Thiên Chúa có phát xuất từ anh em
không? Hay lời ấy chỉ đến với một mình anh em mà thôi? 37 Nếu ai tưởng mình là
ngôn sứ hoặc được Thần Khí linh hứng, thì hãy nhìn nhận rằng các điều tôi viết
đây là mệnh lệnh của Chúa. 38 Ai không nhận biết điều ấy, thì cũng
không được Chúa biết đến.
39
Cho
nên, thưa anh em, anh em hãy khao khát ơn nói tiên tri và đừng ngăn cấm nói các
tiếng lạ. 40 Nhưng hãy làm mọi sự cách trang nghiêm và có trật tự.
Chương 15
III.
KẺ CHẾT SỐNG LẠI
Sự
kiện Phục Sinh
1
Thưa
anh em, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng tôi đã loan báo và anh em đã lãnh
nhận cùng đang nắm vững. 2 Nhờ Tin Mừng đó, anh em được cứu thoát,
nếu anh em giữ đúng như tôi đã loan báo, bằng không thì anh em có tin cũng vô
ích.
3
Trước
hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức
Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, 4 rồi
Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh. 5
Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi với Nhóm Mười Hai. 6 Sau
đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông
hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. 7 Tiếp đến, Người hiện
ra với ông Gia-cô-bê, rồi với tất cả các Tông Đồ. 8 Sau hết, Người
cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non.
9
Thật
vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là
Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. 10 Nhưng tôi có
là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu;
trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi,
mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi.
11
Tóm
lại, dù tôi hay các vị khác rao giảng, thì chúng tôi đều rao giảng như thế, và
anh em đã tin như vậy.
12
Nhưng
nếu chúng tôi rao giảng rằng Đức Ki-tô đã từ cõi chết trỗi dậy, thì sao trong
anh em có người lại nói: không có chuyện kẻ chết sống lại? 13 Nếu kẻ chết không
sống lại, thì Đức Ki-tô đã không trỗi dậy. 14 Mà nếu Đức Ki-tô đã
không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của
anh em cũng trống rỗng. 15 Thế ra chúng tôi là những chứng nhân giả
của Thiên Chúa, bởi vì đã chống lại Thiên Chúa mà làm chứng rằng Người đã cho
Đức Ki-tô trỗi dậy, trong khi thực sự Người đã không cho Đức Ki-tô trỗi dậy,
nếu quả thật kẻ chết không trỗi dậy. 16 Vì nếu kẻ chết không trỗi
dậy, thì Đức Ki-tô cũng đã không trỗi dậy. 17 Mà nếu Đức Ki-tô đã
không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống
trong tội lỗi của anh em. 18 Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ
trong Đức Ki-tô cũng bị tiêu vong. 19 Nếu chúng ta đặt hy vọng vào
Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết
mọi người.
20
Nhưng
không phải thế! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an
giấc ngàn thu. 21 Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì
cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. 22 Quả thế, như mọi
người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức
Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống. 23 Nhưng mỗi người theo thứ tự
của mình: mở đường là Đức Ki-tô, rồi khi Đức Ki-tô quang lâm thì đến lượt những
kẻ thuộc về Người. 24 Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu
diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền
lại cho Thiên Chúa là Cha.
25
Thật
vậy, Đức Ki-tô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch
dưới chân Người. 26 Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, 27
vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Ki-tô. Mà khi nói muôn loài,
thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Ki-tô. 28 Lúc
muôn loài đã quy phục Đức Ki-tô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục
Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên
muôn loài.
29
Chẳng
vậy, những người chịu phép rửa thế cho kẻ chết thì được gì? Nếu tuyệt nhiên kẻ
chết không trỗi dậy, thì tại sao người ta lại chịu phép rửa thế cho kẻ chết? 30
Và chính chúng tôi, tại sao hằng giờ chúng tôi liều mình đương đầu với hiểm
hoạ? 31 Thưa anh em, mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết: tôi có hãnh diện
về anh em trong Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, thì mới quả quyết như vậy. 32
Nếu vì những lý do phàm trần mà tôi đã chiến đấu với thú dữ tại Ê-phê-xô,
thì điều đó nào có ích gì cho tôi? Nếu kẻ chết không trỗi dậy, thì chúng ta cứ
ăn cứ uống đi, vì ngày mai chúng ta sẽ chết. 33 Anh em chớ có lầm:
Chơi với kẻ xấu, người tốt cũng ra xấu. 34 Đừng say sưa nữa mới phải
phép, và chớ phạm tội: một số người quả không biết gì về Thiên Chúa. Tôi nói
như vậy để anh em phải xấu hổ.
Cách
thức kẻ chết sống lại
35
Nhưng
có người sẽ nói: kẻ chết trỗi dậy thế nào? Họ lấy thân thể nào mà trở về? 36 Đồ
ngốc! Ngươi gieo cái gì, cái ấy phải chết mới được sống. 37 Cái
ngươi gieo không phải là hình thể sẽ mọc lên, nhưng là một hạt trơ trụi, chẳng
hạn như hạt lúa hay một thứ nào khác. 38 Rồi Thiên Chúa cho nó một
hình thể như ý Người muốn: giống nào hình thể nấy.
39
Không
phải mọi thể xác đều giống nhau: của loài người thì khác, của loài vật thì khác,
của loài chim thì khác, của loài cá thì khác. 40 Lại có những vật
thể thuộc thiên giới và những vật thể thuộc địa giới. Nhưng vẻ rạng rỡ của
những vật thể thuộc thiên giới thì khác, vẻ rạng rỡ của những vật thể thuộc địa
giới thì khác. 41 Ánh mặt trời thì khác, ánh mặt trăng thì khác, ánh
tinh tú thì khác, bởi vì ánh sáng tinh tú này khác với ánh sáng tinh tú kia. 42
Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì
bất diệt; 43 gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo
xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, 44 gieo xuống là thân
thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí.
45
Như
có lời đã chép: con người đầu tiên là A-đam được dựng nên thành một sinh vật,
còn A-đam cuối cùng là thần khí ban sự sống. 46 Loài xuất hiện trước
không phải là loài có thần khí, nhưng là loài có sinh khí; loài có thần khí chỉ
xuất hiện sau đó. 47 Người thứ nhất bởi đất mà ra thì thuộc về đất;
còn người thứ hai thì từ trời mà đến. 48 Những kẻ thuộc về đất thì
giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ
trời mà đến. 49 Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi
đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến.
50
Thưa
anh em, điều tôi muốn nói là xác thịt và khí huyết không thể thừa hưởng Nước
Thiên Chúa được, cũng như cái hư nát không thể thừa hưởng sự bất diệt được. 51
Đây tôi nói cho anh em biết mầu nhiệm này: không phải tất cả chúng ta sẽ
chết, nhưng tất cả chúng ta sẽ được biến đổi52 trong một giây lát, trong một nháy
mắt, khi tiếng kèn cuối cùng vang lên. Vì tiếng kèn sẽ vang lên, và những kẻ
chết sẽ trỗi dậy mà không còn hư nát; còn chúng ta, chúng ta sẽ được biến đổi.
53Quả vậy, cái thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt; và cái thân phải
chết này sẽ mặc lấy sự bất tử.
Khải
hoàn ca
54
Vậy
khi cái thân phải hư nát này mặc lấy sự bất diệt, khi cái thân phải chết này
mặc lấy sự bất tử, thì bấy giờ sẽ ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Tử thần đã
bị chôn vùi. Đây giờ chiến thắng! 55 Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi?
Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? 56 Tử thần có độc là vì tội lỗi, mà tội
lỗi có mạnh cũng tại có Lề Luật. 57 Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Người
đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
58
Bởi
vậy, anh em thân mến, anh em hãy kiên tâm bền chí, và càng ngày càng tích cực
tham gia vào công việc của Chúa, vì biết rằng: trong Chúa, sự khó nhọc của anh
em sẽ không trở nên vô ích.
Chương 16
KẾT
LUẬN
Những
lời dặn dò, thăm hỏi và lời cầu chúc cuối cùng
1
Về
việc quyên tiền giúp các người thuộc dân thánh, tôi đã truyền dạy cho các Hội
Thánh ở Ga-lát như thế nào, thì anh em cũng làm như vậy. 2 Ngày thứ
nhất trong tuần, mỗi người trong anh em hãy để riêng ra những gì đã may mắn thu
góp được, chứ đừng đợi khi tôi đến rồi mới quyên. 3 Khi tới, tôi sẽ
cử những người được anh em chấp thuận đi Giê-ru-sa-lem, mang thư và quà anh em
đã rộng rãi quyên tặng. 4 Và nếu xét là tôi nên đi, thì họ sẽ cùng
đi với tôi.
5
Tôi
sẽ đến thăm anh em, sau khi ghé Ma-kê-đô-ni-a, bởi vì tôi sẽ đi qua đó. 6 Có
lẽ tôi sẽ ở lại và qua mùa đông với anh em nữa, để anh em đưa tôi đến những nơi
tôi sẽ đến. 7 Thật thế, tôi không muốn chỉ ghé qua thăm anh em mà
thôi, nhưng còn hy vọng ở lại với anh em ít lâu, nếu Chúa cho phép. 8 Tôi
sẽ ở lại Ê-phê-xô cho đến lễ Ngũ Tuần, 9 bởi vì ở đó cửa đã rộng mở
cho tôi, để tôi hoạt động, nhưng đối thủ cũng nhiều.
10
Anh
Ti-mô-thê có đến, thì anh em hãy lo cho anh ấy ở với anh em mà không phải e
ngại gì, vì anh ấy cũng làm việc Chúa như tôi. 11 Vậy đừng có ai
khinh anh ấy. Xin anh em đưa anh ấy trở về an toàn với tôi, vì tôi cùng các anh
em ở đây đang chờ anh ấy. 12 Còn về anh A-pô-lô, tôi đã tha thiết
xin anh ấy đến thăm anh em cùng với các anh em khác. Nhưng lúc này anh ấy nhất
định không chịu đi, anh ấy sẽ đi khi có dịp thuận tiện.
13
Hãy
tỉnh thức, hãy đứng vững trong đức tin, hãy sống cho đáng bậc nam nhi và ăn ở
kiên cường. 14 Hãy làm mọi sự vì đức ái.
15
Thưa
anh em, tôi có một lời khuyên nữa, anh em biết gia đình Tê-pha-na: họ là những
người đầu tiên trở lại đạo tại xứ A-khai-a và đã dấn thân phục vụ dân thánh. 16
Anh em hãy tuân phục những người như thế và những người cùng vất vả cộng
tác với họ. 17 Tôi vui mừng vì có Tê-pha-na, Pho-tu-na-tô và
A-khai-cô đến thăm, bởi vì họ thế cho anh em là những người vắng mặt. 18 Thật
vậy, họ đã làm cho tinh thần của tôi và của anh em được bình an thanh thản. Vậy
anh em hãy biết quý trọng những người như thế.
19
Các
Hội Thánh A-xi-a gửi lời chào anh em. A-qui-la và Pơ-rít-ca cùng với Hội Thánh
họp tại nhà họ gửi lời chào anh em trong Chúa. 20 Tất cả các anh em
ở đây gửi lời chào anh em. Anh em hãy hôn chào nhau một cách thánh thiện.
21
Chính
tôi, Phao-lô, tự tay viết lời chào này.
22
Nếu
ai không yêu mến Chúa thì là đồ khốn kiếp!
"Ma-ra-na
tha!”
23
Cầu
chúc anh em đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su!
24
Tôi
thương mến tất cả anh em trong Đức Ki-tô Giê-su.
Cô-rin-tô 2
Chương 1
Lời
chào thăm. Lời cảm tạ
1
Tôi
là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, và
Ti-mô-thê là người anh em, kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, cùng
với mọi người trong dân thánh trong khắp miền A-khai-a. 2 Xin Thiên
Chúa là Cha chúng ta và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình
an.
3
Chúc
tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu
lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. 4 Người
luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã
được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian
nan khốn khó. 5 Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau
của Đức Ki-tô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi. 6 Chúng
tôi có phải chịu gian nan, thì đó là để anh em được an ủi và được cứu độ. Chúng
tôi có được an ủi, thì cũng là để anh em được an ủi, khiến anh em có sức kiên
trì chịu đựng cùng những nỗi thống khổ mà chính chúng tôi phải chịu. 7 Chúng
tôi lấy làm an tâm về anh em, vì biết rằng anh em thông phần thống khổ với
chúng tôi thế nào, thì cũng sẽ được thông phần an ủi như vậy.
8
Thật
thế, thưa anh em, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về nỗi gian
truân chúng tôi đã gặp bên A-xi-a: chúng tôi đã phải chịu đựng quá mức, quá sức
chúng tôi, đến nỗi chúng tôi không còn hy vọng sống nổi. 9 Nhưng
chúng tôi đã mang án tử nơi chính bản thân rồi, để chúng tôi không tin tưởng
vào chính mình, mà vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ chết trỗi dậy. 10 Chính
Người đã cứu và sẽ còn cứu chúng tôi khỏi một cái chết như thế. Người là Đấng
chúng tôi trông cậy, Người sẽ còn cứu chúng tôi nữa. 11 Còn anh em,
hãy lấy lời cầu nguyện mà trợ giúp chúng tôi. Như vậy, Thiên Chúa sẽ ban ơn cho
chúng tôi nhờ lời cầu thay nguyện giúp của nhiều người; và do đó, nhiều người
sẽ cảm tạ Thiên Chúa vì Người đã thương chúng tôi.
I.
NHẮC LẠI NHỮNG SỰ VIỆC ĐÃ XẢY RA
Lý
do khiến ông Phao-lô thay đổi lộ trình
12
Điều
khiến chúng tôi tự hào là lương tâm chúng tôi làm chứng rằng: chúng tôi lấy sự
thánh thiện và chân thành Thiên Chúa ban mà cư xử với người ta ở đời, đặc biệt
là với anh em. Chúng tôi không cư xử theo lẽ khôn ngoan người đời, nhưng theo
ân sủng của Thiên Chúa. 13 Thật thế, chúng tôi không viết cho anh em
điều gì khác ngoài những điều anh em có thể đọc và hiểu được. Và tôi hy vọng
anh em sẽ hiểu đến nơi đến chốn, 14 như anh em đã hiểu chúng tôi
phần nào: chúng tôi là niềm vinh dự của anh em, cũng như anh em là niềm vinh dự
của chúng tôi trong Ngày của Đức Giê-su, Chúa chúng ta.
15
Với
lòng tin tưởng đó, tôi định đến với anh em trước để anh em được hưởng ân phúc
lần thứ hai; 16 rồi từ nơi anh em, tôi đi Ma-kê-đô-ni-a; sau đó lại
từ Ma-kê-đô-ni-a về với anh em, để anh em đưa tôi đi Giu-đê. 17 Dự
tính như thế, phải chăng tôi đã tỏ ra nhẹ dạ? Hay điều tôi dự tính là dự tính
theo kiểu người phàm, khiến tôi vừa nói”có" lại vừa nói”không"? 18
Xin Thiên Chúa trung thành chứng giám cho chúng tôi! Lời chúng tôi nói với anh
em chẳng phải vừa là “có" vừa là “không". 19 Vì Đức Ki-tô
Giê-su, Con Thiên Chúa, Đấng mà chúng tôi, là Xin-va-nô, Ti-mô-thê và tôi, rao
giảng cho anh em, đã không vừa là “có" vừa là “không", nhưng nơi
Người chỉ toàn là “có". 20 Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa
đều là “có" nơi Người. Vì thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô
lên”A-men" để tôn vinh Thiên Chúa. 21 Đấng củng cố chúng tôi
cùng với anh em trong Đức Ki-tô và đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là Thiên
Chúa. 22 Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần
Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng.
23
Phần
tôi, có Thiên Chúa chứng giám, tôi xin lấy mạng sống mà thề rằng: chính vì nể
anh em mà tôi đã không đến Cô-rin-tô nữa. 24 Không phải là chúng tôi
khống chế đức tin của anh em; trái lại, chúng tôi góp phần tạo niềm vui cho anh
em, bởi vì đức tin của anh em đã vững rồi.
Chương 2
1
Vậy,
tôi đã quyết định không trở lại với anh em trong lúc ưu phiền. 2 Thật
thế, nếu chính tôi gây ưu phiền cho anh em, thì ai là người làm cho tôi vui
được, nếu không phải là kẻ ưu phiền vì tôi? 3 Tôi đã viết trong thư như vậy là
để khi đến, tôi khỏi phải ưu phiền vì chính những người đáng lẽ phải làm cho
tôi vui, bởi vì đối với tất cả anh em, tôi xác tín rằng niềm vui của tôi cũng
là niềm vui của tất cả anh em. 4 Thật thế, tôi đã vô cùng đau khổ,
con tim se thắt, nước mắt chan hoà khi viết cho anh em: tôi viết không phải để
gây ưu phiền, nhưng là để cho anh em biết tôi hết lòng yêu mến anh em.
5
Nếu
có ai đã gây ưu phiền, thì không phải là gây ưu phiền cho tôi, mà cho tất cả
anh em, một phần nào đó- nói thế, kẻo sợ quá lời. 6 Con người đó bị
số đông phạt như thế là đủ rồi. 7 Vì vậy, tốt hơn, anh em phải tha
thứ và an ủi, kẻo người đó bị chìm đắm trong nỗi ưu phiền quá mức chăng. 8
Cho nên, đối với người đó, tôi khuyên anh em hãy đặt tình bác ái lên trên
hết. 9 Thật thế, sở dĩ tôi đã viết thư cho anh em, là để thử anh em,
xem anh em có vâng phục về mọi mặt chăng. 10 Anh em tha thứ cho ai,
thì tôi cũng tha thứ cho người ấy. Và nếu tôi đã tha thứ-trong trường hợp phải
tha thứ-, thì cũng là vì anh em, trước mặt Đức Ki-tô, 11 kẻo chúng
ta bị Xa-tan phỉnh gạt, vì chúng ta không lạ gì ý đồ của nó.
Từ
Trô-a đến Ma-kê-đô-ni-a. Viết ra ngoài đề: về sứ vụ tông đồ
12
Khi
tôi đến Trô-a rao giảng Tin Mừng Đức Ki-tô, dù cửa đã mở cho tôi để làm việc
Chúa, 13 nhưng tôi vẫn không yên lòng, vì không gặp Ti-tô, người anh
em của tôi. Tôi từ giã những người ở đó để đi Ma-kê-đô-ni-a.
14
Tạ
ơn Thiên Chúa, Đấng hằng cho chúng tôi tham dự cuộc khải hoàn trong Đức Ki-tô,
tạ ơn Người là Đấng đã dùng chúng tôi mà làm cho sự nhận biết Đức Ki-tô, như
hương thơm, lan toả khắp nơi. 15 Vì chúng tôi là hương thơm của Đức
Ki-tô dâng kính Thiên Chúa, toả ra giữa những người được cứu độ cũng như những
kẻ bị hư mất. 16 Đối với những người bị hư mất, chúng tôi là mùi tử
khí đưa đến tử vong; nhưng đối với những người được cứu độ, chúng tôi lại là
hương sự sống đưa đến sự sống. Nhưng ai là người có khả năng thực hiện những
điều ấy? 17 Thật thế, chúng tôi không phải như nhiều người, những kẻ xuyên tạc
Lời Chúa, mà với tư cách là những người trung thực, được Thiên Chúa sai đi,
chúng tôi lên tiếng trước mặt Người, trong Đức Ki-tô.
Chương 3
1
Phải
chăng chúng tôi lại bắt đầu tự giới thiệu mình? Hoặc chẳng lẽ, như vài người,
chúng tôi lại cần có thư giới thiệu chúng tôi với anh em, hoặc thư của anh em
giới thiệu chúng tôi? 2 Thư giới thiệu chúng tôi là chính anh em. Thư ấy viết
trong tâm hồn chúng tôi, mọi người đều biết và đã đọc. 3 Rõ ràng anh
em là bức thư của Đức Ki-tô được giao cho chúng tôi chăm sóc, không phải viết
bằng mực đen, nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi trên
những tấm bia bằng đá, nhưng trên những tấm bia bằng thịt, tức là lòng người.
4
Nhờ
Đức Ki-tô, chúng tôi dám tin tưởng vào Thiên Chúa như vậy. 5 Không
phải vì tự chúng tôi, chúng tôi có khả năng để nghĩ rằng mình làm được gì,
nhưng khả năng của chúng tôi là do ơn Thiên Chúa, 6 Đấng ban cho
chúng tôi khả năng phục vụ Giao Ước Mới, không phải Giao Ước căn cứ trên chữ
viết, nhưng dựa vào Thần Khí. Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban
sự sống. 7 Nếu việc phục vụ Lề Luật-thứ Lề Luật chỉ đưa đến sự chết
và được khắc ghi từng chữ trên những bia đá- mà được vinh quang đến nỗi dân
Ít-ra-en không thể nhìn mặt ông Mô-sê được, vì mặt ông chói lọi vinh quang-dù
đó chỉ là vinh quang chóng qua-, 8 thì việc phục vụ Thần Khí lại
không được vinh quang hơn sao? 9 Vì việc phục vụ án chết mà còn được vinh quang
như thế, thì việc phục vụ đức công chính lại chẳng vinh quang hơn lắm sao? 10
So với vinh quang tuyệt vời này, thì vinh quang xưa kia chẳng vinh quang gì. 11
Thật vậy, nếu cái chóng qua mà còn được vinh quang, thì cái còn mãi lại
chẳng vinh quang hơn sao?
12
Vì
có một niềm hy vọng như thế mà chúng ta thật vững dạ an lòng. 13 Chúng
ta không làm như ông Mô-sê lấy màn che để dân Ít-ra-en khỏi thấy khi nào cái
chóng qua kia chấm dứt. 14 Nhưng trí họ đã ra mê muội. Thật vậy, cho
đến ngày nay, khi họ đọc Cựu Ước, tấm màn ấy vẫn còn, chưa được vén lên, vì chỉ
trong Đức Ki-tô, tấm màn ấy mới được vứt bỏ. 15 Phải, cho đến nay,
mỗi khi họ đọc sách ông Mô-sê, tấm màn vẫn che phủ lòng họ. 16 Nhưng
khi người ta quay lại với Chúa, thì tấm màn mới được cất đi. 17 Chúa
là Thần Khí, và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do. 18 Tất
cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một
bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày
càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí.
Chương 4
1
Bởi
thế, vì Thiên Chúa đoái thương giao cho chúng tôi công việc phục vụ, nên chúng
tôi không sờn lòng nản chí. 2 Trái lại, chúng tôi khước từ những
cách hành động ám muội, đáng xấu hổ, và không dùng mưu mô mà xử trí, cũng chẳng
xuyên tạc lời Thiên Chúa; nhưng chúng tôi giãi bày sự thật, và bằng cách đó,
chúng tôi để cho lương tâm mọi người phê phán trước mặt Thiên Chúa. 3 Tin
Mừng chúng tôi rao giảng có bị che khuất, thì chỉ bị che khuất đối với những
người hư mất, 4 đối với những kẻ không tin. Họ không tin, vì tên ác
thần của đời này đã làm cho tâm trí họ ra mù quáng, khiến họ không thấy bừng
sáng lên Tin Mừng nói về vinh quang của Đức Ki-tô, là hình ảnh Thiên Chúa. 5
Bởi chúng tôi không rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Ki-tô
Giê-su là Chúa; còn chúng tôi, chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giê-su.
6 Quả thật, xưa Thiên Chúa đã phán: Ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối
tăm! Người cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bày cho
thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên gương mặt Đức
Ki-tô.
Gian
truân và hy vọng trong công việc tông đồ
7
Nhưng
kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền
năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi. 8 Chúng
tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng;
9 bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị
tiêu diệt. 10 Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của
Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi.
11 Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe doạ vì Đức
Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của
chúng tôi. 12 Như thế, sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống
thì lại hoạt động nơi anh em.
13
Vì
có được cùng một lòng tin, như đã chép: Tôi đã tin, nên tôi mới nói, thì chúng
tôi cũng tin, nên chúng tôi mới nói. 14 Quả thật, chúng tôi biết
rằng Đấng đã làm cho Chúa Giê-su trỗi dậy cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi
dậy với Chúa Giê-su, và đặt chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em. 15 Thật
vậy, tất cả những điều ấy xảy ra là vì anh em. Như thế, ân sủng càng dồi dào,
thì càng có đông người hơn dâng lên Thiên Chúa muôn ngàn lời cảm tạ, để tôn
vinh Người.
16
Cho
nên chúng tôi không chán nản. Trái lại, dù con người bên ngoài của chúng tôi có
tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới. 17 Thật
vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả
một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời. 18 Vì thế, chúng ta mới không
chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy,
những sự vật hữu hình thì chỉ tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại
vĩnh viễn.
Chương 5
1
Quả
thật, chúng ta biết rằng: nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều
này, bị phá huỷ đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi
nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra. 2 Do đó,
chúng ta rên siết là vì những ước mong được thấy ngôi nhà thiên quốc của chúng
ta phủ lên chiếc lều kia, 3 miễn là chúng ta có mặc áo, chứ không
phải trần trụi. 4 Thật thế, bao lâu còn ở trong chiếc lều này, chúng
ta rên siết, khổ tâm vì không muốn cởi bỏ cái này, nhưng lại muốn trùm thêm lên
mình cái kia, để cho cái phải chết tiêu tan trong sự sống. 5 Đấng đã
tạo thành chúng ta vì mục đích ấy chính là Thiên Chúa, Người đã ban Thần Khí
cho chúng ta làm bảo chứng.
6
Vậy
chúng tôi luôn mạnh dạn, và chúng tôi biết rằng: ở lại trong thân xác này là
lưu lạc xa Chúa, 7 vì chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải
nhờ được thấy Chúa. . . 8 Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều
chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa. 9 Nhưng,
dù còn ở trong thân xác hoặc đã lìa bỏ thân xác, chúng tôi chỉ có một tham vọng
là làm đẹp lòng Người. 10Vì tất cả chúng ta đều phải được đưa ra ánh sáng,
trước toà Đức Ki-tô, để mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các việc
tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác.
Thi
hành sứ vụ tông đồ
11
Vậy,
vì biết kính sợ Chúa, chúng tôi cố gắng thuyết phục người ta; còn đối với Thiên
Chúa, thì mọi sự nơi chúng tôi đều lộ trần trước mặt Người. Và tôi hy vọng rằng
mọi sự nơi chúng tôi cũng lộ trần như vậy trước lương tâm của anh em. 12 Chúng
tôi không nói hay cho mình để tự giới thiệu một lần nữa với anh em, nhưng cho
anh em một cơ hội tự hào về chúng tôi, để anh em có thể trả lời cho những ai
chỉ biết kiêu hãnh về những vẻ bề ngoài, chứ không phải về những gì trong tâm
hồn. 13 Thật vậy, chúng tôi có điên, thì cũng là vì Thiên Chúa;
chúng tôi có khôn, thì cũng là vì anh em. 14 Tình yêu Đức Ki-tô thôi
thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi
người, thì mọi người đều chết. 15 Đức Ki-tô đã chết thay cho mọi
người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho
Đấng đã chết và sống lại vì mình.
16
Vì
thế, từ đây chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho
dù chúng tôi đã được biết Đức Ki-tô theo quan điểm loài người, thì giờ đây
chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa. 17 Cho nên, phàm ai ở
trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. 18
Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta
được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải. 19 Thật
vậy, trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người
không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải. 20
Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Ki-tô, như thể chính Thiên Chúa
dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh
em hãy làm hoà với Thiên Chúa. 21 Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì
Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho
chúng ta nên công chính trong Người.
Chương 6
1
Vì
được cộng tác với Thiên Chúa, chúng tôi khuyên nhủ anh em: anh em đã lãnh nhận
ân huệ của Thiên Chúa, thì đừng để trở nên vô hiệu. 2 Quả thế, Chúa
phán rằng: Ta đã nhận lời ngươi vào thời Ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta
cứu độ. Vậy, đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ. 3
Phần chúng tôi, chúng tôi chẳng làm gì gây cớ cho ai vấp phạm, để không
người nào có thể đàm tiếu về công việc phục vụ của chúng tôi. 4 Trái
lại, trong mọi sự, chúng tôi luôn chứng tỏ mình là những thừa tác viên của
Thiên Chúa: gian nan, khốn quẫn, lo âu, 5 đòn vọt, tù tội, loạn ly,
nhọc nhằn, vất vả, mất ăn mất ngủ, chúng tôi đều rất mực kiên trì chịu đựng. 6
Chúng tôi còn chứng tỏ điều đó bằng cách ăn ở trong sạch, khôn khéo, nhẫn
nhục, nhân hậu, bằng một tinh thần thánh thiện, một tình thương không giả dối, 7
bằng lời chân lý, bằng sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng tôi lấy sự công
chính làm vũ khí tấn công và tự vệ, 8 khi vinh cũng như khi nhục,
lúc được tiếng tốt cũng như khi mang tiếng xấu. Bị coi là bịp bợm, nhưng kỳ
thực chúng tôi chân thành; 9 bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ
thực chúng tôi được mọi người biết đến; bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực chúng
tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; 10 coi
như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực chúng tôi luôn vui vẻ; coi như nghèo túng,
nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu có; coi như không có gì,
nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả.
Ông
Phao-lô thố lộ tâm tình và cảnh cáo
11
Thưa
anh em người Cô-rin-tô, chúng tôi đã chân thành ngỏ lời với anh em, chúng tôi
đã mở rộng tấm lòng. 12 Chúng tôi không hẹp hòi với anh em đâu,
nhưng chính lòng dạ anh em hẹp hòi. 13 Vậy anh em hãy đền đáp chúng
tôi; tôi nói với anh em như nói với con cái: anh em cũng hãy mở rộng tấm lòng.
14
Anh
em đừng mang chung một ách với những kẻ không tin. Thật thế, làm sao sự công
chính lại liên kết được với sự bất chính? Làm sao ánh sáng lại dung hoà được
với bóng tối? 15 Làm sao Đức Ki-tô lại hoà hợp được với Bê-li-a? Làm sao người
tin lại chung phần được với người không tin? 16 Làm sao đền thờ Thiên Chúa lại
đi đôi với tà thần được? Vì chính chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống,
như lời Người phán: Ta sẽ đến cư ngụ và đi đi lại lại giữa họ. Ta sẽ là Thiên
Chúa của họ, và họ sẽ là dân riêng của Ta. 17 Vì thế, hãy ra khỏi
dân ấy, hãy rời xa chúng- Chúa phán như vậy. Đừng có đụng tới vật ô uế nào, và
Ta sẽ đón nhận các ngươi. 18 Ta sẽ là Cha các ngươi, và các ngươi sẽ
là con trai, con gái của Ta. Chúa toàn năng phán như vậy.
Chương 7
1
Anh
em thân mến, vì nắm được những lời hứa ấy, nên chúng ta hãy tẩy rửa hồn xác cho
sạch mọi vết nhơ, và đem lòng kính sợ Thiên Chúa mà lo đạt tới mức thánh thiện
hoàn toàn.
2
Anh
em hãy dành cho chúng tôi một chỗ trong lòng anh em. Chúng tôi đã không làm hại
ai, không làm cho ai phải sạt nghiệp, không bóc lột ai. 3 Tôi nói
thế không phải để lên án anh em, vì tôi đã từng nói: anh em hằng ở trong lòng
chúng tôi, sống chết chúng ta đều có nhau. 4 Tôi rất tin tưởng anh
em, tôi rất hãnh diện về anh em. Tâm hồn tôi chứa chan niềm an ủi và tràn ngập
nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó.
Ông
Phao-lô gặp lại ông Ti-tô ở Ma-kê-đô-ni-a
5
Thật
thế, khi đến Ma-kê-đô-ni-a, thân xác chúng tôi chẳng được nghỉ ngơi chút nào;
trái lại, ở đâu cũng gặp gian nan khốn khó: bên ngoài phải chiến đấu, bên trong
phải lo sợ. 6 Nhưng Thiên Chúa, Đấng an ủi những kẻ yếu hèn, đã an
ủi chúng tôi bằng cách sai anh Ti-tô đến. 7 Chúng tôi được an ủi
không những vì anh Ti-tô đến, mà còn vì anh ấy đã được anh em an ủi. Anh ấy đã
cho chúng tôi biết là anh em nóng lòng mong đợi, buồn phiền, nhưng vẫn đầy
nhiệt tình đối với tôi, khiến tôi càng vui mừng hơn nữa.
8
Dù
trong bức thư trước tôi có làm cho anh em phải ưu phiền, tôi cũng không hối
tiếc. Mà giả như có hối tiếc-vì thấy rằng bức thư ấy đã làm cho anh em phải ưu
phiền, tuy chỉ trong chốc lát-, 9 thì nay tôi lại vui mừng, không
phải vì đã làm cho anh em phải ưu phiền, nhưng vì nỗi ưu phiền đó đã làm cho
anh em hối cải. Thật thế, anh em đã phải ưu phiền theo ý Thiên Chúa, nên chúng
tôi không làm thiệt hại gì cho anh em. 10 Quả vậy, nỗi ưu phiền theo
ý Thiên Chúa làm cho chúng ta hối cải để được cứu độ: đó là điều không bao giờ
phải hối tiếc; còn nỗi ưu phiền theo kiểu thế gian thì gây ra sự chết. 11 Hãy
xem nỗi ưu phiền theo ý Thiên Chúa đã đem lại cho anh em những gì: bao nồng
nhiệt, và hơn thế nữa, bao lời xin lỗi, bao ân hận, bao sợ hãi, bao ước mong,
bao nhiệt tình, bao hình phạt; bằng mọi cách, anh em đã chứng tỏ mình vô can
trong vụ này. 12 Vậy, nếu tôi đã viết thư cho anh em, thì không phải
vì kẻ làm nhục hay người bị nhục, nhưng để cho thái độ nồng nhiệt của anh em đối
với chúng tôi được tỏ hiện nơi anh em, trước mặt Thiên Chúa. 13 Đó
là điều an ủi chúng tôi.
14
Nếu
trước mặt anh ấy, tôi đã có đôi chút tự hào về anh em, thì tôi cũng không hổ
thẹn. Trái lại, trong mọi sự, chúng tôi đã nói thật với anh em thế nào, thì thái
độ tự hào của chúng tôi trước mặt anh Ti-tô cũng chân thật như vậy. 15 Lòng
anh ấy càng tha thiết quý mến anh em, khi nhớ lại anh em đã vâng lời, đã kính
sợ và run rẩy đón tiếp anh. 16 Tôi vui mừng vì trong mọi sự tôi có
thể tin cậy anh em.
Chương 8
II.
TỔ CHỨC LẠC QUYÊN
Những
lý do chứng tỏ lòng quảng đại
1
Thưa
anh em, chúng tôi xin báo cho anh em biết ân huệ Thiên Chúa đã ban cho các Hội
Thánh ở Ma-kê-đô-ni-a. 2 Trải qua bao nỗi gian truân, họ vẫn được
chan chứa niềm vui; giữa cảnh khó nghèo cùng cực, họ lại trở nên những người
giàu lòng quảng đại. 3 Họ đã tự nguyện theo sức họ, và tôi xin làm
chứng là quá sức họ nữa; 4 họ khẩn khoản nài xin chúng tôi cho họ
được phúc tham dự vào việc phục vụ các người trong dân thánh. 5 Họ
đã vượt quá điều chúng tôi mong ước là tự hiến mình phụng sự Chúa trước, rồi
phục vụ chúng tôi theo ý Thiên Chúa. 6 Vì vậy chúng tôi đã xin anh
Ti-tô hoàn thành công việc lạc quyên đó nơi anh em, như anh ấy đã bắt đầu làm.
7
Cũng
như anh em từng trổi vượt về mọi mặt: về đức tin, lời giảng, sự hiểu biết, lòng
nhiệt thành trong mọi lãnh vực, và về lòng bác ái mà anh em đã học được nơi
chúng tôi, thì anh em cũng phải trổi vượt về lòng quảng đại trong dịp lạc quyên
này nữa. 8 Tôi nói thế không phải để ra lệnh cho anh em đâu. Nhưng
tôi chỉ nêu lên lòng nhiệt thành của người khác để xem lòng yêu mến của anh em
chân thành đến mức nào. 9 Quả thật, anh em biết Đức Giê-su Ki-tô,
Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý,
nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho
anh em trở nên giàu có. 10 Về điều này, tôi xin đưa ra một ý kiến. Ý
kiến đó thích hợp với anh em, vì anh em là những người đầu tiên, chẳng những đã
thực hiện công cuộc đó, mà còn đã quyết định làm ngay từ năm ngoái. 11 Vậy
nay anh em hãy hoàn thành công cuộc đó, để như anh em đã hăng hái quyết định
thế nào, thì cũng tuỳ khả năng mà hoàn thành như vậy. 12 Vì khi
người ta hăng hái dâng cái mình có, thì Thiên Chúa chấp nhận; còn nếu không có
thì thôi. 13 Vấn đề không phải là bắt anh em sống eo hẹp để cho
người khác bớt nghèo khổ. Điều cần thiết là phải có sự đồng đều. 14 Trong
hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm
cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em
lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng đều, 15 hợp với lời đã
chép: Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu.
Gửi
gắm ông Ti-tô và các bạn đồng hành
16
Cảm
tạ Thiên Chúa đã đặt vào lòng anh Ti-tô một sự nhiệt thành như thế đối với anh
em: 17 anh đã nhận lời yêu cầu của tôi và đã nhiệt thành tự nguyện
tới thăm anh em. 18 Cùng với anh Ti-tô, chúng tôi cử một người anh
em rao giảng Tin Mừng nổi tiếng trong khắp các Hội Thánh. 19 Không
những thế, anh lại được các Hội Thánh chỉ định cùng đi với chúng tôi lo việc
lạc quyên, một việc nghĩa chúng tôi đảm nhận, để tôn vinh Chúa và biểu lộ lòng
hăng hái của chúng tôi. 20 Chúng tôi đề phòng như thế, để không ai
chê trách được chúng tôi về món tiền lớn chúng tôi chịu trách nhiệm. 21 Vì
chúng tôi quan tâm đến điều thiện, không những trước mặt Chúa, mà cả trước mặt
người ta. 22 Chúng tôi lại cử thêm một người anh em nữa của chúng
tôi cùng đi với hai người nói trên. Chúng tôi thường hay có dịp thử lòng nhiệt
thành của anh ấy bằng nhiều cách; và nay anh còn nhiệt thành hơn nữa, vì đầy
lòng tin tưởng vào anh em. 23 Về phần anh Ti-tô, anh vừa là bạn
đường, vừa là người cộng tác với tôi trong việc phục vụ anh em. Còn về hai
người anh em kia của chúng tôi, họ là sứ giả của các Hội Thánh và là vinh quang
của Đức Ki-tô. 24 Vậy, trước mặt các Hội Thánh, anh em hãy tỏ cho
những người đó thấy đức ái của anh em, và cho họ biết là chúng tôi có lý để tự
hào về anh em.
Chương 9
1
Về
việc phục vụ các người trong dân thánh, tôi có viết cho anh em thì kể cũng bằng
thừa, 2 vì tôi biết lòng hăng hái của anh em. Điều đó làm cho tôi tự
hào vì anh em mà khoe với các anh em vùng Ma-kê-đô-ni-a rằng: ”Xứ A-khai-a đã
sẵn sàng từ năm ngoái". Và nhiệt tình của anh em đã khích lệ rất nhiều
người. 3 Tôi cử mấy người anh em đi để niềm tự hào của chúng tôi về
thiện chí của anh em khỏi trở thành hư ảo, và để anh em được sẵn sàng, như tôi
đã nói. 4 Chẳng vậy, lúc anh em Ma-kê-đô-ni-a cùng đến với tôi mà
thấy anh em không sẵn sàng, thì chúng tôi phải xấu hổ vì đã tin cậy như thế,
nếu không muốn nói là cả anh em nữa cũng phải xấu hổ. 5 Vậy, tôi
nghĩ cần phải xin mấy người anh em đến với anh em trước chúng tôi và chuẩn bị
cho anh em quyên góp rộng rãi như đã hứa, để anh em sẵn sàng quyên góp với lòng
quảng đại, chứ không phải theo tính hẹp hòi.
Ích
lợi của cuộc lạc quyên
6
Tôi
xin nói điều này: gieo ít thì gặt ít; gieo nhiều thì gặt nhiều. 7 Mỗi
người hãy cho tuỳ theo quyết định của lòng mình, không buồn phiền, cũng không
miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa yêu thương. 8 Vả
lại, Thiên Chúa có đủ quyền tuôn đổ xuống trên anh em mọi thứ ân huệ, để anh em
vừa được luôn đầy đủ mọi mặt, vừa được dư thừa mà làm mọi việc thiện, 9 theo
như lời đã chép: Kẻ túng nghèo, Người rộng tay làm phúc; đức công chính của
Người tồn tại muôn đời.
10
Đấng
cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, và bánh làm của ăn nuôi dưỡng, tất sẽ cung cấp
dư dật hạt giống cho anh em gieo, và sẽ làm cho đức công chính của anh em sinh
hoa kết quả dồi dào. 11 Anh em sẽ được sung túc mọi bề để làm mọi
việc thiện cách rộng rãi. Những việc chúng ta làm sẽ khiến người ta dâng lời
cảm tạ Thiên Chúa. 12 Thật thế, việc phục vụ cho công ích này không
những đáp ứng nhu cầu của của các người trong dân thánh, mà hơn thế nữa, còn là
nguồn phát sinh bao lời cảm tạ dâng lên Thiên Chúa. 13 Việc phục vụ
này là một bằng cớ cho họ tôn vinh Thiên Chúa, vì thấy anh em vâng phục và
tuyên xưng Tin Mừng của Đức Ki-tô, và vì thấy anh em có lòng quảng đại, sẵn
sàng chia sẻ với họ và với mọi người. 14 Còn họ, họ sẽ cầu nguyện
cho anh em để tỏ lòng quý mến, bởi nhận thấy ân huệ tuyệt vời Thiên Chúa đổ
xuống trên anh em. 15 Xin cảm tạ Thiên Chúa vì phúc lộc khôn tả
Người ban!
Chương 10
III.
ÔNG PHAO-LÔ TỰ BIỆN HỘ
Ông
Phao-lô trả lời những kẻ trách ông nhu nhược
1
Chính
tôi, Phao-lô, một kẻ trước mặt anh em thì khúm núm, mà vắng mặt thì lại ra oai,
tôi xin dựa vào lòng nhân từ và khoan dung của Đức Ki-tô mà khuyên nhủ anh em. 2
Tôi xin anh em chớ bắt buộc tôi, khi có mặt, phải mạnh dạn ra oai mà tính
đến chuyện thẳng tay với những kẻ cho rằng chúng tôi chỉ biết sống theo tính
xác thịt. 3 Quả thế, chúng tôi đang sống trong xác phàm, nhưng không
chiến đấu theo tính xác thịt. 4 Thật vậy, khí giới chúng tôi dùng để
chiến đấu không phải là thứ khí giới thuộc xác thịt, nhưng là những khí giới,
nhờ Thiên Chúa, có sức đánh đổ các đồn luỹ. Chúng tôi đánh đổ các kiểu lý luận5
và mọi thái độ kiêu căng chống lại sự hiểu biết Thiên Chúa. Chúng tôi bắt mọi
tư tưởng phải đầu hàng để đi tới chỗ vâng phục Đức Ki-tô. 6 Chúng
tôi sẵn sàng sửa trị mọi kẻ bất tuân, một khi anh em đã hoàn toàn vâng phục.
7
Anh
em hãy nhìn nhận những gì sờ sờ trước mắt. Nếu có ai tự phụ mình thuộc về Đức
Ki-tô, thì hãy nhận thức một lần nữa điều này: họ thuộc về Đức Ki-tô làm sao,
thì chúng tôi cũng vậy. 8 Vì cho dầu tôi có tự hào quá đáng một đôi
chút về quyền Chúa đã ban cho chúng tôi để xây dựng, chứ không phải để đánh đổ
anh em, thì tôi cũng không lấy làm xấu hổ, 9 kẻo như muốn dùng thư
từ mà làm cho anh em phải khiếp sợ. 10 Có kẻ nói rằng: ”Trong thư
thì nghiêm khắc và hùng hổ; nhưng khi có mặt thì nhu nhược, nói chẳng ra hồn.” 11
Xin họ biết cho rằng: khi vắng mặt, chúng tôi viết thư làm sao, thì khi
có mặt, chúng tôi cũng hành động như vậy.
Ông
Phao-lô trả lời những kẻ trách ông đầy tham vọng
12
Thật
ra, chúng tôi đâu dám cho mình ngang hàng hay so sánh mình với những kẻ tự cao
tự đại kia. Nhưng khi họ lấy mình làm tiêu chuẩn để tự đánh giá và so sánh, thì
họ không được khôn. 13 Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ không tự hào
quá giới hạn. Trái lại, niềm tự hào của chúng tôi giới hạn trong phạm vi Thiên
Chúa đã quy định cho chúng tôi, khi đưa chúng tôi đến với anh em. 14 Vì
anh em ở trong phạm vi đó, nên chúng tôi không vượt quá giới hạn khi đến với
anh em. Thật thế, chúng tôi đã đến với anh em trước, mang theo Tin Mừng của Đức
Ki-tô, 15 chứ không cướp công của người khác mà tự hào quá giới hạn.
Nhưng chúng tôi hy vọng rằng: một khi đức tin của anh em lớn mạnh, công việc
của chúng tôi ngày càng phát triển nơi anh em trong phạm vi đã quy định cho
chúng tôi, 16 thì chúng tôi có thể đem Tin Mừng xa hơn nữa, mà không
tự hào về những thành tựu thuộc phạm vi người khác. 17 Nhưng ai tự
hào thì hãy tự hào trong Chúa! 18 Người được chấp nhận không phải là kẻ tự cao
tự đại, nhưng là người được Chúa đề cao.
Chương 11
Ông
Phao-lô bắt buộc phải tự khen mình
1
Phải
chi anh em chịu đựng được một chút điên rồ của tôi! Mà hẳn anh em chịu đựng
được tôi. 2 Thật thế, vì anh em, tôi ghen cái ghen của Thiên Chúa,
bởi tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Ki-tô, để tiến dâng
anh em cho Người như một trinh nữ thanh khiết. 3 Nhưng tôi sợ rằng
như xưa con rắn đã dùng mưu chước mà lừa dối bà E-và thế nào, thì nay trí lòng
anh em cũng dần dần đâm ra hư hỏng, mất sự đơn sơ đối với Đức Ki-tô như vậy. 4
Quả thật, nếu có ai đến rao giảng một Đức Giê-su khác với Đức Giê-su mà
chúng tôi rao giảng, hay nếu anh em lãnh nhận một Thần Khí nào khác với Thần
Khí anh em đã lãnh nhận, hoặc nếu anh em lãnh nhận một Tin Mừng nào khác với
Tin Mừng anh em đã đón nhận, thì anh em sẵn lòng chịu đựng được ngay. 5 Tôi
nghĩ rằng tôi chẳng có thua gì các Tông Đồ siêu đẳng kia. 6 Giả như
tôi có thua kém về khoa ăn nói, thì về sự hiểu biết, tôi chẳng thua kém đâu!
Trong mọi dịp và trước mặt mọi người, chúng tôi đã tỏ cho anh em thấy điều đó
rồi.
7
Phải
chăng tôi có lỗi, vì đã hạ mình xuống để tôn anh em lên, khi rao giảng không
công cho anh em Tin Mừng của Thiên Chúa? 8 Tôi đã bóc lột các Hội Thánh khác,
ăn lương của họ, để phục vụ anh em. 9 Hồi ở giữa anh em, những khi
lâm cảnh túng thiếu, tôi đã chẳng phiền luỵ ai, bởi vì các anh em từ
Ma-kê-đô-ni-a đến đã cung cấp đầy đủ những gì tôi cần. Trong mọi dịp, tôi đã
tránh không trở nên gánh nặng cho anh em, và tôi cũng sẽ còn tránh như vậy. 10
Nhân danh chân lý của Đức Ki-tô ở trong tôi, tôi xin nói với anh em rằng:
chẳng ai cấm được tôi có niềm vinh dự đó trong các miền xứ A-khai-a. 11 Tại
sao thế? Có phải vì tôi không yêu mến anh em chăng? Có Thiên Chúa biết!
12
Điều
tôi làm, tôi sẽ tiếp tục làm, để những kẻ muốn có cơ hội tự phụ là những người
ngang hàng với chúng tôi, không còn cơ hội đó nữa. 13 Vì những kẻ đó
là tông đồ giả, là thợ gian xảo, đội lốt tông đồ của Đức Ki-tô. 14 Lạ
gì đâu! Vì chính Xa-tan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! 15 Vậy có gì là khác
thường khi kẻ phục vụ nó đội lốt người phục vụ sự công chính. Chung cục, chúng
sẽ lãnh nhận hậu quả công việc chúng đã làm. 16 Tôi xin nói lại:
đừng ai tưởng là tôi điên. Mà có ai tưởng như thế, thì cứ nhận tôi là điên, để
tôi cũng được tự hào đôi chút. 17 Điều tôi đang nói, tôi không nói
theo tinh thần của Chúa, nhưng nói như một người điên, bởi tin chắc rằng mình
có lý để tự hào. 18 Vì có lắm kẻ tự hào theo tính xác thịt, thì tôi
đây, tôi cũng tự hào. 19 Vốn là người khôn, anh em lại sẵn lòng chịu
đựng kẻ điên! 20 Phải rồi, anh em đành chịu người ta áp chế, cấu xé, tước đoạt,
đối xử ngạo ngược và tát vào mặt! 21 Tôi nói thế, thật là nhục nhã, như thể
chúng tôi đã tỏ ra nhu nhược. . .
22
Họ
là người Híp-ri ư? Tôi cũng vậy! Họ là người Ít-ra-en ư? Tôi cũng vậy! Họ là
dòng giống Áp-ra-ham ư? Tôi cũng vậy! 23 Họ là người phục vụ Đức Ki-tô ư? Tôi
nói như người điên: tôi còn hơn họ nữa! Hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở
tù, hơn gấp bội vì chịu đòn, bao lần suýt chết. 24 Năm lần tôi bị
người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; 25 ba lần bị đánh đòn; một
lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! 26
Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên
sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại,
nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả
danh là anh em. 27 Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức
đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. 28 Không
kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho
tất cả các Hội Thánh! 29 Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy mình yếu
đuối? Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng sôi lên?
30
Nếu
phải tự hào, thì tôi sẽ tự hào về những yếu đuối của tôi. 31 Thiên
Chúa, Đấng đáng chúc tụng muôn đời, là Cha của Chúa Giê-su, biết rằng tôi không
nói dối. 32 Tại Đa-mát, tổng đốc của vua A-rê-ta đã cho lính canh
gác thành để bắt tôi. 33 Nhưng người ta đã cho tôi vào một cái
thúng, rồi thòng qua cửa sổ dọc theo tường thành. Thế là tôi thoát khỏi tay ông
ta.
Chương 12
1
Phải
tự hào ư? Nào có ích gì! Dù thế, tôi cũng xin nói về những thị kiến và mặc khải
Chúa đã ban cho tôi. 2 Tôi biết có một người môn đệ Đức Ki-tô, trước
đây mười bốn năm đã được nhắc lên tới tầng trời thứ ba-có ở trong thân xác hay
không, tôi không biết, có ở ngoài thân xác hay không, tôi cũng không biết, chỉ
có Thiên Chúa biết. 3 Tôi biết rằng người ấy đã được nhắc lên tận
thiên đàng-trong thân xác hay ngoài thân xác, tôi không biết, chỉ có Thiên Chúa
biết-, 4 và người ấy đã được nghe những lời khôn tả mà loài người
không được phép nói lại. 5 Về một người như thế, tôi sẽ tự hào; còn
về bản thân tôi, tôi chỉ tự hào về những yếu đuối của tôi. 6 Quả
vậy, nếu muốn tự hào, thì tôi cũng không phải là người điên, vì tôi nói sự
thật. Nhưng tôi không làm thế, kẻo người ta đánh giá tôi quá cao, so với điều
họ thấy nơi tôi hoặc nghe tôi nói.
7
Và
để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân
xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả
mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. 8 Đã ba lần tôi xin Chúa cho
thoát khỏi nỗi khổ này. 9 Nhưng Người quả quyết với tôi: ”Ơn của
Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu
đuối.” Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức
mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. 10 Vì vậy, tôi cảm thấy vui
sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức
Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.
11
Tôi
điên rồi! Chính anh em đã khiến tôi hoá ra như thế. Đáng lẽ anh em phải khen
tôi, vì mặc dầu tôi chẳng là gì, tôi đâu có thua kém các Tông Đồ siêu đẳng kia.
12 Anh em đã thấy thực hiện nơi anh em những dấu chỉ của sứ vụ Tông
Đồ: nào là đức kiên nhẫn hoàn hảo, nào là những dấu lạ điềm thiêng, nào là các
phép lạ. 13 Anh em có thua gì các Hội Thánh khác? Có chăng, chỉ thua
ở chỗ bản thân tôi đã không phiền luỵ anh em! Xin anh em tha cho tôi sự bất
công đó. 14 Đây tôi sẵn sàng đến thăm anh em lần thứ ba. Tôi cũng sẽ
không phiền luỵ anh em đâu, bởi vì điều tôi tìm kiếm không phải là của cải của
anh em, mà là chính anh em. Thật vậy, không phải con cái có nhiệm vụ thu tích
của cải cho cha mẹ, mà là cha mẹ phải thu tích của cải cho con cái. 15 Phần
tôi, tôi rất vui lòng tiêu phí tiền của, và tiêu phí cả sức lực lẫn con người
của tôi vì linh hồn anh em. Phải chăng vì yêu mến anh em nhiều hơn mà tôi được
yêu mến ít hơn?
16
Thế
cũng được! Tôi đã không trở nên gánh nặng cho anh em; nhưng vốn là người xảo
quyệt, tôi đã dùng mưu mà lừa gạt anh em. 17 Phải chăng trong số
những kẻ tôi sai đến, tôi đã dùng người nào đó để bóc lột anh em? 18 Tôi đã xin
anh Ti-tô đi, và đã cử người anh em kia cùng đi với anh. Phải chăng anh Ti-tô
đã bóc lột anh em? Chúng tôi đã không sống theo cùng một tinh thần, cùng một
đường lối sao?
Nỗi
lo âu của ông Phao-lô
19
Đã
từ lâu, anh em tưởng rằng chúng tôi tự biện hộ trước mặt anh em. Thật ra tôi
nói là nói trước mặt Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô. Và thưa anh em thân mến,
chúng tôi nói tất cả những điều ấy cốt để xây dựng anh em. 20 Quả
vậy, tôi sợ rằng khi đến, tôi không thấy anh em được như ý tôi, và anh em thấy
tôi không được như ý anh em. Chớ gì giữa anh em đừng có chia rẽ, ghen tương,
oán ghét, cạnh tranh, vu khống, nói hành, kiêu căng, hỗn loạn. 21 Tôi
sợ rằng lần sau đến thăm anh em, Thiên Chúa của tôi lại để tôi phải nhục vì anh
em, và tôi phải than khóc nhiều người trước đây đã phạm tội, mà nay chẳng chịu
ăn năn hối cải về những việc ô uế, gian dâm và phóng đãng họ đã làm.
Chương 13
1
Đây
sẽ là lần thứ ba tôi đến thăm anh em. Mọi công việc phải được giải quyết nhờ có
ba mặt một lời. 2 Tôi đã nói với những kẻ trước đây đã phạm tội và
mọi người khác, và hôm nay khi vắng mặt, tôi cũng xin nói lại như đã nói khi có
mặt lần thứ hai, là: nếu đến lần nữa, tôi sẽ không nương tay, 3 bởi
vì anh em muốn có một bằng chứng cho thấy Đức Ki-tô nói trong tôi. Người không
nhu nhược đối với anh em đâu, nhưng Người đầy uy quyền giữa anh em. 4 Thật
vậy, Người đã chịu đóng đinh vì mang thân phận yếu hèn, nhưng nay Người đang
sống nhờ quyền năng của Thiên Chúa. Cả chúng tôi nữa, trong Đức Ki-tô, chúng
tôi cũng mang thân phận yếu hèn, nhưng cùng với Người, chúng tôi sống nhờ quyền
năng của Thiên Chúa để xử sự với anh em.
5
Anh
em hãy tự xét xem mình có còn sống trong đức tin hay không. Hãy tự kiểm điểm.
Anh em chẳng nhận thấy là có Đức Giê-su Ki-tô ở trong anh em sao? Trừ phi anh
em đã thua trong cuộc kiểm điểm này. 6 Tôi hy vọng rằng anh em sẽ
nhận thấy là chúng tôi đây không bị thua. 7 Chúng tôi cầu xin Thiên
Chúa cho anh em đừng làm điều gì trái, không phải để tỏ ra chúng tôi thắng,
nhưng để anh em làm điều thiện, cho dù chúng tôi như bị thua. 8 Vì
chúng tôi không thể làm gì chống lại sự thật, nhưng chúng tôi chỉ có thể hoạt
động cho sự thật. 9 Quả thế, chúng tôi vui mừng khi chúng tôi yếu mà
anh em lại mạnh. Điều chúng tôi cầu xin là anh em được nên hoàn thiện. 10 Vì
vậy, khi vắng mặt, tôi viết các điều này, để lúc có mặt, tôi khỏi phải xử
nghiêm khắc, theo quyền hành Chúa đã ban cho tôi để xây dựng, chứ không phải để
phá đổ.
KẾT
LuẬN
Những
lời dặn dò, thăm hỏi và lời cầu chúc cuối cùng
11
Ngoài
ra, thưa anh em, anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích
nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu
thương và bình an, sẽ ở cùng anh em.
12
Anh
em hãy hôn chào nhau cách thánh thiện. Mọi người thuộc dân thánh ở đây gửi lời
chào anh em.
13
Cầu
chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình
thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần. A-men.
Ga-lát
Chương 1
Lời
mở đầu
1
Tôi
là Phao-lô, Tông Đồ không phải do loài người, cũng không phải nhờ một người
nào, nhưng bởi Đức Giê-su Ki-tô và Thiên Chúa là Cha, Đấng đã cho Người từ cõi
chết trỗi dậy, 2 tôi và mọi anh em đang ở với tôi, kính gửi các Hội
Thánh miền Ga-lát. 3 Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa
Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an. 4 Để cứu chúng ta
thoát khỏi cõi đời xấu xa hiện tại, Đức Giê-su Ki-tô đã tự hiến vì tội lỗi
chúng ta, theo ý muốn của Thiên Chúa là Cha chúng ta. 5 Xin tôn vinh
Thiên Chúa đến muôn thuở muôn đời. A-men.
Lời
cảnh cáo
6
Tôi
lấy làm ngạc nhiên, khi thấy anh em trở mặt mau lẹ như thế với Đấng đã kêu gọi
anh em nhờ ân sủng của Đức Ki-tô, để theo một Tin Mừng khác. 7 Không
có Tin Mừng nào khác đâu, mà chỉ có một vài kẻ phá rối anh em, và muốn làm xáo
trộn Tin Mừng của Đức Ki-tô đó thôi. 8 Nhưng nếu có ai, kể cả chúng
tôi, hoặc một thiên thần nào từ trời xuống, loan báo cho anh em Tin Mừng khác
với Tin Mừng chúng tôi đã loan báo cho anh em, thì xin Thiên Chúa loại trừ kẻ
ấy đi! 9 Như tôi đã nói, và nay tôi xin nói lại: nếu có ai loan báo cho anh em
một Tin Mừng khác với Tin Mừng anh em đã lãnh nhận, thì xin Thiên Chúa loại trừ
kẻ ấy đi! 10 Vậy, giờ đây tôi tìm cách lấy lòng người đời, hay lấy lòng Thiên
Chúa? Phải chăng tôi tìm cách làm đẹp lòng người đời? Nếu tôi còn muốn làm đẹp
lòng người đời, thì tôi không phải là tôi tớ của Đức Ki-tô.
I.
LỜI THANH MINH
Ơn
gọi của thánh Phao-lô
11
Thật
vậy, thưa anh em, tôi xin nói cho anh em biết: Tin Mừng tôi loan báo không phải
là do loài người. 12 Vì không có ai trong loài người đã truyền lại
hay dạy cho tôi Tin Mừng ấy, nhưng là chính Đức Giê-su Ki-tô đã mặc khải. 13
Anh em hẳn đã nghe nói tôi đã ăn ở thế nào trước kia trong đạo Do-thái:
tôi đã quá hăng say bắt bớ, và những muốn tiêu diệt Hội Thánh của Thiên Chúa. 14
Trong việc giữ đạo Do-thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi
với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông.
15
Nhưng
Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi
nhờ ân sủng của Người. 16 Người đã đoái thương mặc khải Con của
Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi
đã chẳng thuận theo các lý do tự nhiên, 17 cũng chẳng lên
Giê-ru-sa-lem để gặp các vị đã là Tông Đồ trước tôi, nhưng tức khắc tôi đã sang
xứ Ả-rập, rồi lại trở về Đa-mát. 18 Ba năm sau tôi mới lên
Giê-ru-sa-lem diện kiến ông Kê-pha, và ở lại với ông mười lăm ngày. 19 Tôi
đã không gặp một vị Tông Đồ nào khác ngoài ông Gia-cô-bê, người anh em của Chúa.
20 Viết cho anh em những điều này, tôi cam đoan trước mặt Thiên Chúa
là tôi không nói dối. 21 Sau đó tôi đến miền Xy-ri và miền
Ki-li-ki-a. 22 Nhưng lúc ấy các Hội Thánh Đức Ki-tô tại miền Giu-đê
không biết mặt tôi. 23 Họ chỉ nghe nói rằng: ”Người trước đây bắt bớ
chúng ta, bây giờ lại loan báo đức tin mà xưa kia ông những muốn tiêu
diệt", 24 và vì tôi họ tôn vinh Thiên Chúa.
Chương 2
Đại
hội ở Giê-ru-sa-lem
1
Rồi
sau mười bốn năm, tôi lại lên Giê-ru-sa-lem một lần nữa cùng với ông Ba-na-ba;
tôi cũng đem theo anh Ti-tô đi với tôi. 2 Tôi lên đó vì được Thiên
Chúa mặc khải, và đã trình bày cho người ta Tin Mừng tôi rao giảng cho dân
ngoại,-cách riêng cho các vị có thế giá-, vì sợ rằng tôi ngược xuôi, và đã
ngược xuôi vô ích. 3 Thế mà ngay cả anh Ti-tô, người cùng đi với tôi
và là người Hy-lạp, cũng không bị ép phải chịu cắt bì. 4 Sở dĩ thế
là vì có những tên xâm nhập, những kẻ giả danh giả nghĩa anh em, đã len lỏi vào
dò xét sự tự do của chúng ta, sự tự do chúng ta có được trong Đức Ki-tô Giê-su;
họ làm như vậy là để bắt chúng ta trở thành nô lệ. 5 Nhưng với những
người ấy, chúng tôi đã không chịu nhượng bộ, dù chỉ trong giây lát, để duy trì
cho anh em chân lý của Tin Mừng. 6 Còn về các vị có thế giá-lúc bấy
giờ các vị ấy có là gì đi nữa, điều đó không quan hệ đối với tôi: Thiên Chúa
không thiên vị ai-, các vị có thế giá ấy đã không đưa ra thêm điều gì cho tôi. 7
Trái lại, các ngài thấy rằng tôi đã được uỷ thác nhiệm vụ loan báo Tin
Mừng cho những người không được cắt bì, cũng như ông Phê-rô được uỷ thác nhiệm
vụ loan báo Tin Mừng cho những người được cắt bì. 8 Thật vậy, Đấng
đã hoạt động nơi ông Phê-rô, biến ông thành Tông Đồ của những người được cắt
bì, cũng đã hoạt động biến tôi thành Tông Đồ các dân ngoại. 9 Vậy
khi nhận ra ân huệ Thiên Chúa đã ban cho tôi, các ông Gia-cô-bê, Kê-pha và Gio-an,
những người được coi là cột trụ, đã bắt tay tôi và ông Ba-na-ba để tỏ dấu hiệp
thông: chúng tôi thì lo cho các dân ngoại, còn các vị ấy thì lo cho những người
được cắt bì. 10 Chỉ có điều này là chúng tôi phải nhớ đến những
người túng thiếu, điều mà tôi vẫn gắng làm.
Thánh
Phê-rô và thánh Phao-lô tại An-ti-ô-khi-a
11
Nhưng
khi ông Kê-pha đến An-ti-ô-khi-a, tôi đã cự lại ông ngay trước mặt, vì ông đã
làm điều đáng trách. 12 Thật vậy, ông thường dùng bữa với những
người gốc dân ngoại trước khi có những người của ông Gia-cô-bê đến; nhưng khi
những người này đến, ông lại tránh né và tự tách ra, vì sợ những người được cắt
bì. 13 Những người Do-thái khác cũng theo ông mà giả hình giả bộ,
khiến cả ông Ba-na-ba cũng bị lôi cuốn mà giả hình như họ.
14
Nhưng
khi tôi thấy các ông ấy không đi đúng theo chân lý của Tin Mừng, thì tôi đã nói
với ông Kê-pha trước mặt mọi người: ”Nếu ông là người Do-thái mà còn sống như
người dân ngoại, chứ không như người Do-thái, thì làm sao ông lại ép người dân
ngoại phải xử sự như người Do-thái?”
Tin
Mừng của thánh Phao-lô
15
Chúng
ta bẩm sinh là người Do-thái chứ không phải hạng người tội lỗi xuất thân từ dân
ngoại. 16 Tuy nhiên, vì biết rằng con người được nên công chính
không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giê-su Ki-tô, nên
chúng ta cũng tin vào Đức Ki-tô Giê-su, để được nên công chính, nhờ tin vào Đức
Ki-tô, chứ không phải nhờ làm những gì Luật dạy. Quả thế, không phàm nhân nào
sẽ được nên công chính vì làm những gì Luật dạy. 17 Nhưng nếu khi
tìm cách nên công chính trong Đức Ki-tô mà chúng ta vẫn bị liệt vào hàng tội
lỗi, thì chẳng hoá ra Đức Ki-tô là người phục vụ tội lỗi sao? Không phải thế!
18 Thật vậy, nếu tôi xây lại những gì tôi đã phá, thì tôi tỏ ra mình là kẻ phạm
pháp. 19 Quả thế, tại vì Lề Luật mà tôi đã chết đối với Lề Luật, để
sống cho Thiên Chúa. Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Ki-tô vào thập giá. 20
Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi.
Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu
mến tôi và hiến mạng vì tôi. 21 Tôi không làm cho ân huệ của Thiên
Chúa ra vô hiệu, vì nếu người ta được nên công chính do Lề Luật, thì hoá ra Đức
Ki-tô đã chết vô ích.
Chương 3
II.
PHẦN GIÁO THUYẾT
Kinh
nghiệm của người tín hữu
1
Hỡi
những người Ga-lát ngu xuẩn, ai đã mê hoặc anh em là những người đã được thấy
hình ảnh Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá phơi bày ra trước mắt? 2
Tôi muốn anh em cho tôi biết điều này thôi: anh em đã nhận được Thần Khí vì đã
làm những gì Luật dạy, hay vì đã tin nhờ được nghe? 3 Anh em ngu xuẩn như thế
sao? Anh em đã khởi sự nhờ Thần Khí, nay lại kết thúc nhờ xác thịt sao? 4 Bấy
nhiêu kinh nghiệm anh em đã trải qua, lại uổng công sao? Mà quả thật là uổng
công! 5 Vậy Đấng đã rộng ban Thần Khí cho anh em và thực hiện những phép lạ
giữa anh em, có phải vì anh em làm những gì Luật dạy, hay vì anh em đã tin nhờ
được nghe?
Kinh
Thánh làm chứng: đức tin và Lề Luật
6
Cũng
như ông Áp-ra-ham đã tin Thiên Chúa, và vì thế Thiên Chúa kể ông là người công
chính. 7 Vậy anh em nên biết rằng: những ai dựa vào đức tin, những
người ấy là con cái ông Áp-ra-ham. 8 Đàng khác, Kinh Thánh thấy
trước rằng Thiên Chúa sẽ làm cho dân ngoại nên công chính nhờ đức tin, nên đã
tiên báo cho ông Áp-ra-ham tin mừng này: Nhờ ngươi, muôn dân sẽ được chúc phúc.
9 Như vậy, những kẻ dựa vào đức tin thì được chúc phúc làm một với
ông Áp-ra-ham, người có đức tin.
10
Thật
thế, những ai dựa vào những việc Luật dạy phải làm thì đều chuốc lấy lời nguyền
rủa, vì Kinh Thánh viết: Đáng nguyền rủa thay mọi kẻ không bền chí thi hành tất
cả những gì chép trong sách Luật! 11 Vả lại, không ai được nên công chính trước
mặt Thiên Chúa nhờ Lề Luật, đó là điều hiển nhiên, vì người công chính nhờ đức
tin sẽ được sống. 12 Thế mà Lề Luật không lệ thuộc đức tin, nhưng ai
thực hành những điều Lề Luật dạy, thì nhờ đó sẽ được sống. 13 Đức
Ki-tô đã chuộc chúng ta cho khỏi bị nguyền rủa vì Lề Luật, khi vì chúng ta
chính Người trở nên đồ bị nguyền rủa, vì có lời chép: Đáng nguyền rủa thay mọi
kẻ bị treo trên cây gỗ! 14 Như thế là để nhờ Đức Giê-su Ki-tô, các dân ngoại
cũng được hưởng phúc lành dành cho ông Áp-ra-ham, và để nhờ đức tin, chúng ta
nhận được ơn Thiên Chúa đã hứa tức là Thần Khí.
Lề
Luật không huỷ bỏ lời hứa
15
Thưa
anh em, tôi nói theo kiểu người đời: một chúc thư đúng thể thức, dù chỉ là do
một người phàm, thì cũng không ai được huỷ bỏ hay thêm thắt điều gì. 16 Thế
mà những lời hứa đã được ban cho ông Áp-ra-ham và dòng dõi ông, Kinh Thánh
không nói: và cho những dòng dõi, như thể nói về nhiều, mà chỉ nói về một: và
cho dòng dõi người là Đức Ki-tô. 17 Tôi muốn nói là: một chúc thư
xưa kia đã được Thiên Chúa lập đúng thể thức, thì Lề Luật, mãi bốn trăm ba mươi
năm sau mới có, không phế bỏ chúc thư đó được, và như vậy làm cho lời hứa ra vô
hiệu. 18 Thật thế, nếu nhờ Lề Luật mà người ta được hưởng gia tài,
thì không còn phải là nhờ lời hứa nữa. Thế nhưng Thiên Chúa đã dùng một lời hứa
mà ban ân huệ cho ông Áp-ra-ham.
Vai
trò của Lề Luật
19
Vậy
Lề Luật để làm gì? Chính là để gây ra các sự vi phạm mà Lề Luật đã được đặt
thêm, cho tới khi Đấng là dòng dõi Áp-ra-ham đến, Đấng được hưởng lời hứa. Lề
Luật đã được ban bố nhờ các thiên thần, qua tay một trung gian. 20 Nhưng
không thể có trung gian khi chỉ có một bên, mà Thiên Chúa thì chỉ có một. 21
Vậy thì Lề Luật đi ngược lại với những lời hứa của Thiên Chúa sao? Không
phải thế. Thật vậy, giả như có một luật nào đã được ban cho con người mà lại có
khả năng làm cho sống, thì quả là người ta được nên công chính nhờ Lề Luật. 22
Nhưng Kinh Thánh đã giam hãm mọi sự trong vòng tội lỗi, để nhờ lòng tin
vào Đức Giê-su Ki-tô, điều Thiên Chúa đã hứa được ban cho các kẻ tin.
Thời
của đức tin đã đến
23
Trước
khi đức tin đến, chúng ta bị Lề Luật giam giữ, cho tới khi đức tin được mặc
khải. 24 Như thế Lề Luật đã thành người quản giáo dẫn chúng ta tới
Đức Ki-tô, để chúng ta được nên công chính nhờ đức tin. 25 Nhưng khi
đức tin đến, thì chúng ta không còn ở dưới quyền giám hộ nữa. 26 Thật
vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su
Ki-tô. 27 Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về
Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô. 28 Không còn chuyện phân biệt
Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em
chỉ là một trong Đức Ki-tô. 29 Mà nếu anh em thuộc về Đức Ki-tô, thì
anh em là dòng dõi ông Áp-ra-ham, những người thừa kế theo lời hứa.
Chương 4
Chúng
ta được làm con cái Thiên Chúa
1
Tôi
thiết nghĩ: bao lâu người thừa kế còn là thiếu niên thì không khác gì một nô
lệ, mặc dù là chủ mọi tài sản. 2 Nó phải ở dưới quyền những người
giám hộ và quản lý, cho đến khi mãn hạn người cha đã định. 3 Chúng
ta cũng vậy, khi còn là thiếu niên, chúng ta phải làm nô lệ những yếu tố của vũ
trụ. 4 Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con
mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, 5 để
chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. 6
Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình
đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: ”Áp-ba, Cha ơi!”7 Vậy anh em không còn
phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ
Thiên Chúa.
8
Trước
kia, khi chưa biết Thiên Chúa, anh em làm nô lệ những vật tự bản chất không
phải là thần. 9 Nhưng nay anh em đã biết Thiên Chúa, hay đúng hơn
được Thiên Chúa biết đến, làm sao anh em còn trở lại với những yếu tố bất lực
và nghèo nàn ấy, còn muốn làm nô lệ chúng một lần nữa? 10 Anh em cẩn thận giữ
ngày, giữ tháng, giữ mùa, giữ năm! 11 Anh em làm tôi sợ rằng tôi đã vất vả uổng
công vì anh em!
Nhắc
lại quá khứ
12
Thưa
anh em, tôi van anh em, anh em hãy nên giống như tôi, vì tôi cũng đã nên giống
như anh em. Anh em đã không làm tổn thương gì cho tôi cả. 13 Anh em
biết: nhân khi thân xác bị đau ốm, tôi đã loan báo Tin Mừng cho anh em lần đầu
tiên. 14 Mặc dù thân xác tôi là một dịp thử thách cho anh em, anh em
đã không khinh, không tởm; trái lại anh em đã tiếp đón tôi như một sứ giả của
Thiên Chúa, như Đức Ki-tô Giê-su. 15 Vậy hạnh phúc của anh em lúc
đó, bây giờ đâu rồi? Thật thế, tôi xin làm chứng cho anh em rằng: nếu có thể,
hẳn anh em đã móc mắt hiến cho tôi. 16 Thành thử tôi đã trở nên kẻ
thù của anh em vì nói sự thật cho anh em sao? 17 Họ nhiệt thành với anh em
không phải vì mục đích tốt, mà chỉ vì muốn ly gián anh em với tôi, để anh em
nhiệt thành với họ. 18 Được người ta tỏ lòng nhiệt thành là điều
tốt, miễn là vì mục đích tốt và trong mọi trường hợp, chứ không phải chỉ khi
nào tôi có mặt giữa anh em. 19 Hỡi anh em, những người con bé nhỏ
của tôi, mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa cho đến khi Đức Ki-tô được
thành hình nơi anh em, 20 tôi ước ao được có mặt giữa anh em lúc
này, để lựa lời nói sao cho thích hợp, vì tôi thấy khó xử với anh em quá!
Hai
giao ước: Ha-ga và Xa-ra
21
Hãy
nói cho tôi hay: anh em là những người muốn sống dưới Lề Luật, anh em không
nghe Lề Luật nói gì sao? 22 Thật vậy, có lời chép rằng: ông Áp-ra-ham có hai
người con, mẹ của một người là nô lệ, mẹ của người kia là tự do. 23 Nhưng
con của người mẹ nô lệ thì sinh ra theo luật tự nhiên; còn con của người mẹ tự
do thì sinh ra nhờ lời hứa. 24 Truyện đó ngụ ý thế này: hai người
đàn bà là hai giao ước. Giao ước thứ nhất tại núi Xi-nai, thì sinh ra nô lệ: đó
là Ha-ga. 25 Ha-ga chỉ núi Xi-nai trong miền Ả-rập, và tương đương
với Giê-ru-sa-lem ngày nay, vì thành này cùng với các con đều là nô lệ. 26
Còn Giê-ru-sa-lem thượng giới thì tự do: đó là mẹ chúng ta. 27 Thật
vậy, có lời chép:
Reo
mừng lên,
hỡi
người phụ nữ son sẻ, không sinh con;
hãy
bật tiếng reo hò mừng vui,
hỡi
ai chưa một lần chuyển dạ,
vì
con của phụ nữ bị bỏ rơi
thì
đông hơn con của phụ nữ có chồng!
28
Thưa
anh em, như I-xa-ác, anh em là những người con sinh ra do lời Thiên Chúa hứa. 29
Nhưng cũng như thuở ấy đứa con sinh ra theo luật tự nhiên đã ngược đãi
đứa con sinh ra theo thần khí, thì bây giờ cũng vậy. 30 Thế nhưng
Kinh Thánh nói gì? Kinh Thánh nói: Tống cổ người nô lệ và con của nó đi, vì con
của nô lệ không đời nào được thừa kế gia tài cùng với con của người tự do. 31
Ấy vậy, thưa anh em, chúng ta không phải là con của một người nô lệ,
nhưng là con của người tự do.
Chương 5
III.
PHẦN KHUYÊN NHỦ
Tự
do của người tín hữu
1
Chính
để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta. Vậy, anh em hãy
đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa. 2 Phải, tôi đây,
Phao-lô, tôi nói cho anh em biết: anh em mà chịu phép cắt bì thì Đức Ki-tô sẽ
không có ích gì cho anh em. 3 Một lần nữa, tôi xin khẳng định với
bất cứ ai chịu phép cắt bì là: người ấy buộc phải giữ trọn vẹn Lề Luật. 4 Anh
em mà tìm sự công chính trong Lề Luật, là anh em đoạn tuyệt với Đức Ki-tô và
mất hết ân sủng. 5 Còn chúng tôi thì nhờ Thần Khí và dựa vào đức tin
mà vững lòng chờ đợi được nên công chính như chúng tôi hy vọng. 6 Quả
thật, trong Đức Ki-tô Giê-su, cắt bì hay không cắt bì đều không có giá trị, chỉ
có đức tin hành động nhờ đức ái. 7 Anh em đang chạy ngon trớn như
thế mà ai đã ngăn cản anh em vâng phục chân lý? 8 Lời dụ dỗ ấy không phát xuất
từ Đấng kêu gọi anh em. 9 Một chút men làm cả khối bột dậy men. 10
Đối với anh em, trong Chúa, tôi tin tưởng rằng, anh em sẽ không nghĩ
khác. Còn kẻ phá rối anh em thì phải chuốc lấy án phạt, bất kể người ấy là ai. 11
Về phần tôi, thưa anh em, giả như tôi còn rao giảng phép cắt bì, thì tại
sao tôi lại vẫn bị ngược đãi? Như thế, thập giá đâu còn là chướng ngại nữa! 12
Những kẻ làm cho anh em bị rối loạn, phải chi họ tự thiến cho xong!
Tự
do và bác ái
13
Quả
thế, thưa anh em, anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng
tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau. 14
Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi
phải yêu người thân cận như chính mình. 15 Nhưng nếu anh em cắn xé
nhau, anh em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau đấy!
16
Tôi
xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn
thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa. 17 Vì tính xác thịt thì ước
muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều
trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm
được điều anh em muốn. 18 Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì
anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa. 19 Những việc do tính xác
thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, 20 thờ
quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ,
bè phái, 21 ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như
vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo: những kẻ làm các điều đó
sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa. 22 Còn hoa quả của Thần
Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, 23
hiền hoà, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế. 24
Những ai thuộc về Đức Ki-tô Giê-su thì đã đóng đinh tính xác thịt vào
thập giá cùng với các dục vọng và đam mê.
25
Nếu
chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước. 26 Chúng
ta đừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tỵ nhau.
Chương 6
Đôi
lời khuyên nhủ sống bác ái và nhiệt thành
1
Thưa
anh em, nếu có ai vướng mắc tội nào, thì anh em, những người được Thần Khí thúc
đẩy, hãy lấy tinh thần hiền hoà mà sửa dạy người ấy; phải tự đề phòng kẻo chính
mình cũng bị cám dỗ. 2 Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy
là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô. 3 Thật vậy, ai tưởng mình là gì
mà kỳ thực không là gì hết, thì là lừa gạt chính mình. 4 Mỗi người
hãy xem xét việc làm của chính mình, và bấy giờ sẽ có lý do để hãnh diện vì
chính mình, chứ không phải vì so sánh với người khác. 5 Quả thế, mỗi
người phải mang gánh nặng của riêng mình.
6
Người
được học Lời Chúa, hãy chia sẻ mọi của cải với người dạy dỗ mình.
7
Anh
em đừng có lầm tưởng: Thiên Chúa không để cho người ta nhạo báng đâu! Thật vậy,
ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. 8 Ai theo tính xác thịt mà
gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai
theo Thần Khí mà gieo điều tốt, thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống
đời đời. 9 Khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí, vì đến mùa
chúng ta sẽ được gặt, nếu không sờn lòng. 10 Vậy bao lâu còn thời
giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong
cùng đại gia đình đức tin.
Lời
cuối thư
11
Anh
em thấy những chữ to này: chính tay tôi viết cho anh em đó! 12 Những ai muốn nở
mày nở mặt vì những lý do thuần tuý con người, thì ép anh em phải chịu cắt bì,
chỉ là để khỏi bị ngược đãi vì thập giá Đức Ki-tô. 13 Thật vậy,
chính những kẻ được cắt bì cũng không giữ Lề Luật, nhưng họ muốn anh em phải
cắt bì để tìm được nơi thân xác anh em, một lý do hãnh diện. 14 Ước
chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng
ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và
tôi đối với thế gian. 15 Quả thật, cắt bì hay không cắt bì chẳng là
gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới. 16 Chúc tất cả
những ai sống theo quy tắc ấy, và chúc Ít-ra-en của Thiên Chúa được hưởng bình
an và lòng thương xót của Người.
17
Từ
nay, xin đừng có ai gây phiền toái cho tôi nữa, vì tôi mang trên mình tôi những
dấu tích của Đức Giê-su. 18 Thưa anh em, nguyện xin Đức Giê-su
Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho thần trí anh em được đầy tràn ân sủng. A-men.
Ê-phê-xô
Chương 1
Lời
mở đầu
1
Tôi
là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, kính gửi
dân thánh tại Ê-phê-xô, là những người tin vào Đức Ki-tô Giê-su. 2 Xin
Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và
bình an.
I.
MẦU NHIỆM CỨU ĐỘ: ĐỨC KI-TÔ VÀ HỘI THÁNH
Kế
hoạch cứu độ của Thiên Chúa
3
Chúc
tụng Thiên Chúa
là
Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
Trong
Đức Ki-tô,
từ
cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc
cho
ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần.
4
Trong
Đức Ki-tô,
Người
đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ,
để
trước thánh nhan Người,
ta
trở nên tinh tuyền thánh thiện,
nhờ
tình thương của Người.
5
Theo
ý muốn và lòng nhân ái của Người,
Người
đã tiền định cho ta làm nghĩa tử
nhờ
Đức Giê-su Ki-tô,
6
để
ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời,
ân
sủng Người ban tặng cho ta
trong
Thánh Tử yêu dấu.
7
Trong
Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra
chúng
ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi
theo
lượng ân sủng rất phong phú của Người.
8
Ân
sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta
cùng
với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu.
9
Người
cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu:
thiên
ý này là kế hoạch yêu thương
Người
đã định từ trước trong Đức Ki-tô.
10
Đó
là đưa thời gian tới hồi viên mãn
là
quy tụ muôn loài trong trời đất
dưới
quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô.
Cũng
trong Đức Ki-tô,
11
Thiên
Chúa là Đấng làm nên mọi sự
theo
quyết định và ý muốn của Người,
đã
tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng
theo
kế hoạch của Người,
12
để
chúng tôi là những người đầu tiên
đặt
hy vọng vào Đức Ki-tô,
chúng
tôi ngợi khen vinh quang Người.
13
Trong
Đức Ki-tô, cả anh em nữa
anh
em đã được nghe lời chân lý
là
Tin Mừng cứu độ anh em;
vẫn
trong Đức Ki-tô,
một
khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần,
Đấng
Thiên Chúa đã hứa.
14
Thánh
Thần
là
bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta,
chờ
ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc,
để
ngợi khen vinh quang Thiên Chúa.
Đức
Ki-tô được siêu tôn
15
Bởi
vậy, cả tôi nữa, từ khi được nghe nói về lòng tin của anh em vào Chúa Giê-su,
và về lòng mến của anh em đối với toàn thể dân thánh, 16 tôi không
ngừng tạ ơn Thiên Chúa vì anh em, khi nhắc tới anh em trong những lời cầu
nguyện của tôi. 17 Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của
Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải
cho anh em nhận biết Người. 18 Xin Người soi lòng mở trí cho anh em
thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là
gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, 19 đâu
là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu. Đó
chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, 20 mà Người đã biểu dương
nơi Đức Ki-tô, khi làm cho Đức Ki-tô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu
Người trên trời. 21 Như vậy, Người đã tôn Đức Ki-tô lên trên mọi
quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế
giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. 22 Thiên Chúa đã đặt
tất cả dưới chân Đức Ki-tô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; 23 mà
Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả
được viên mãn.
Chương 2
Chính
do ân sủng mà chúng ta được cứu độ
1
Anh
em đã chết vì những sa ngã và tội lỗi của anh em. 2 Xưa kia anh em
đã sống trong đó, theo trào lưu của thế gian này, theo tên thủ lãnh nắm giữ
quyền lực trên không trung, tên ác thần hiện đang hoạt động trên những kẻ không
vâng phục. 3 Tất cả chúng tôi xưa kia cũng thuộc hạng người đó, khi
chúng tôi buông theo các đam mê của tính xác thịt, thi hành những ước muốn của
tính xác thịt và của trí khôn. Bẩm sinh chúng tôi là những kẻ đáng chịu cơn
thịnh nộ của Thiên Chúa, như những người khác. 4 Nhưng Thiên Chúa
giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, 5 nên dầu chúng ta
đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô.
Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! 6 Người đã cho chúng ta được cùng sống
lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời.
7
Như
thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Ki-tô Giê-su,
để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người.
8 Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ:
đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; 9 cũng
không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. 10 Thật
thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức
Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị
cho chúng ta.
Người
Do-thái và người ngoại được hoà giải với nhau và với Thiên Chúa
11
Vậy
thưa anh em, trước kia anh em là dân ngoại trong thân xác, bị kẻ mệnh danh là “giới
cắt bì"-nhưng cắt bì trong thân xác, do tay người phàm- gọi là “giới không
cắt bì", anh em hãy nhớ lại 12 rằng thuở ấy anh em không có Đấng Ki-tô,
không được hưởng quyền công dân Ít-ra-en, xa lạ với các giao ước dựa trên lời
hứa của Thiên Chúa, không có niềm hy vọng, không có Thiên Chúa ở trần gian này.
13 Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Ki-tô
Giê-su, nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần.
14
Thật
vậy, chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân
Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường
ngăn cách là sự thù ghét; 15 Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều
răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên
thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người. 16 Nhờ thập
giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể
duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. 17 Người đã
đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho
những kẻ ở gần. 18 Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được
liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.
19
Vậy
anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng
hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, 20 bởi
đã được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường
là chính Đức Ki-tô Giê-su. 21 Trong Người, toàn thể công trình xây
dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. 22 Trong
Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi
nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí.
Chương 3
Thánh
Phao-lô là người phục vụ mầu nhiệm Đức Ki-tô
1
Vì
lý do đó, tôi, Phao-lô, người tù của Đức Ki-tô Giê-su vì anh em, những người
dân ngoại. . . 2 Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà
Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. 3 Người đã mặc
khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên
đây. 4 Anh em đọc thì có thể thấy rõ tôi am hiểu mầu nhiệm Đức Ki-tô
thế nào. 5 Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc
các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho
các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người. 6 Mầu nhiệm đó là: trong Đức
Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với
người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.
7 Tôi đã trở nên người phục vụ Tin Mừng đó, nhờ ân sủng đặc biệt
Thiên Chúa ban cho tôi, khi Người thi thố quyền năng của Người. 8 Tôi
là kẻ rốt hết trong toàn thể dân thánh, thế mà Thiên Chúa đã ban cho tôi ân
sủng này là loan báo cho các dân ngoại Tin Mừng về sự phong phú khôn lường của
Đức Ki-tô, 9 và soi sáng cho mọi người được thấy đâu là mầu nhiệm
Thiên Chúa đã an bài. Mầu nhiệm này đã được giữ kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa
là Đấng tạo thành vạn vật, 10 để giờ đây, nhờ Hội Thánh, mọi quyền
năng thượng giới được biết sự khôn ngoan thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. 11
Thiên Chúa đã hành động như thế theo quyết định Người đã có từ muôn thuở
và đã thực hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta. 12 Trong Đức
Ki-tô và nhờ tin vào Người, chúng ta được mạnh dạn và tin tưởng đến gần Thiên
Chúa. 13 Bởi vậy, tôi xin anh em đừng nản chí khi thấy tôi phải gian
truân vì anh em: những gian truân ấy là vinh quang của anh em.
Lời
cầu xin của thánh Phao-lô
14
Vì
lý do đó, tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha, 15 là nguồn gốc mọi gia
tộc trên trời dưới đất. 16 Tôi nguyện xin Chúa Cha, thể theo sự
phong phú của Người là Đấng vinh hiển, ban cho anh em được củng cố mạnh mẽ nhờ
Thần Khí của Người, để con người nội tâm nơi anh em được vững vàng. 17 Xin
cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Ki-tô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được
bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, 18 để cùng toàn thể
dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, 19 và
nhận biết tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như
vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa.
20
Xin
tôn vinh Đấng có thể dùng quyền năng đang hoạt động nơi chúng ta, mà làm gấp
ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới, 21 xin tôn vinh
Người trong Hội Thánh và nơi Đức Ki-tô Giê-su đến muôn thuở muôn đời. A-men.
Chương 4
II.
KHUYÊN NHỦ
Kêu
gọi hiệp nhất
1
Vậy,
tôi là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn
kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. 2 Anh em hãy ăn ở thật
khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. 3
Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách
ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau. 4 Chỉ có một thân thể, một Thần Khí,
cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. 5 Chỉ
có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. 6 Chỉ có một Thiên Chúa,
Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người.
7
Nhưng
mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tuỳ theo mức độ Đức Ki-tô ban cho. 8
Vì thế, có lời Kinh Thánh nói: Người đã lên cao, dẫn theo một đám tù;
Người đã ban ân huệ cho loài người.
9
Người
đã lên nghĩa là gì, nếu không phải là Người đã xuống tận các vùng sâu thẳm dưới
mặt đất? 10 Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để
làm cho vũ trụ được viên mãn. 11 Và chính Người đã ban ơn cho kẻ này
làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác
nữa làm người coi sóc và dạy dỗ. 12 Nhờ đó, dân thánh được chuẩn bị
để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Ki-tô, 13 cho đến
khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết
Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của
Đức Ki-tô.
14
Như
vậy, chúng ta sẽ không còn là những trẻ nhỏ, bị sóng đánh trôi giạt theo mọi
chiều gió đạo lý, giữa trò bịp bợm của những kẻ giảo quyệt khéo dùng mưu ma
chước quỷ để làm cho kẻ khác lầm đường. 15 Nhưng, sống theo sự thật
và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức
Ki-tô vì Người là Đầu. 16 Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp
với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và
mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình. Như thế Người làm cho toàn thân
lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái.
Đời
sống mới trong Đức Ki-tô
17
Vậy
đây là điều tôi nói với anh em, và có Chúa chứng giám, tôi khuyên anh em: đừng
ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ. 18
Tâm trí họ đã ra tối tăm, họ xa lạ với sự sống Thiên Chúa ban, vì lòng
chai dạ đá khiến họ trở nên dốt nát. 19 Họ đã mất ý thức nên đã
buông thả, sống phóng đãng đến mức làm mọi thứ ô uế cách vô độ. 20 Còn
anh em, anh em đã chẳng học biết về Đức Ki-tô như vậy đâu; 21 ấy là
nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giê-su và được dạy dỗ theo tinh thần của
Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giê-su. 22 Vì thế, anh em phải cởi
bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn
lừa dối, 23 anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, 24 và
phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên
Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.
25
Bởi
thế, một khi đã cởi bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói sự thật với
người thân cận, vì chúng ta là phần thân thể của nhau. 26 Anh em nổi
nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn. 27 Đừng
để ma quỷ thừa cơ lợi dụng! 28 Ai quen trộm cắp, đừng trộm cắp nữa, trái lại,
hãy chịu khó dùng đôi tay của mình mà làm ăn lương thiện để có gì chia sẻ với
người túng thiếu. 29 Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa,
nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe.
30 Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính
Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. 31 Đừng bao
giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ
mọi hành vi gian ác. 32 Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có
lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em
trong Đức Ki-tô.
Chương 5
1
Vậy,
anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, 2
và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta, và
vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa
hương thơm ngào ngạt. 3 Chuyện gian dâm, mọi thứ ô uế hay tham lam,
thì dù nói đến, anh em cũng phải tránh, như thế mới xứng đáng là những người
trong dân thánh. 4 Đừng nói lời thô tục, nhảm nhí, cợt nhả: đó là
những điều không nên; trái lại, phải tạ ơn Thiên Chúa thì hơn. 5 Anh
em phải biết rõ điều này: không một kẻ gian dâm, ô uế hay tham lam nào-mà tham
lam cũng là thờ ngẫu tượng- được thừa hưởng cơ nghiệp trong Nước của Đức Ki-tô
và của Thiên Chúa. 6 Đừng để ai lấy lời hão huyền mà lừa dối anh em,
chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống những kẻ
không vâng phục. 7 Vậy anh em đừng thông đồng với họ. 8 Xưa
anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh
em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; 9 mà ánh sáng đem lại tất cả những
gì là lương thiện, công chính và chân thật. 10 Anh em hãy xem điều
gì đẹp lòng Chúa. 11 Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái
bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng. 12 Vì những việc
chúng làm lén lút, thì nói đến đã là nhục rồi. 13 Nhưng tất cả những
gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; 14 mà bất cứ điều gì lộ
ra, thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng:
Tỉnh
giấc đi, hỡi người còn đang ngủ!
Từ
chốn tử vong, trỗi dậy đi nào!
Đức
Ki-tô sẽ chiếu sáng ngươi!
15
Anh
em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng
hãy sống như người khôn ngoan, 16 biết tận dụng thời buổi hiện tại,
vì chúng ta đang sống những ngày đen tối. 17 Vì thế, anh em đừng hoá
ra ngu xuẩn, nhưng hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa. 18 Chớ say sưa rượu
chè, vì rượu chè đưa tới truỵ lạc, nhưng hãy thấm nhuần Thần Khí. 19 Hãy
cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh
hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa. 20 Trong mọi hoàn
cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên
Chúa là Cha.
Gia
đình sống đạo
21
Vì
lòng kính sợ Đức Ki-tô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau. 22 Người làm
vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, 23 vì chồng là đầu của vợ
cũng như Đức Ki-tô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội
Thánh, thân thể của Người. 24 Và như Hội Thánh tùng phục Đức Ki-tô
thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy.
25
Người
làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến
mình vì Hội Thánh; 26 như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội
Thánh bằng nước và lời hằng sống, 27 để trước mặt Người, có một Hội
Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm
nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. 28 Cũng thế, chồng phải yêu vợ
như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. 29 Quả vậy,
có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân
xác mình, cũng như Đức Ki-tô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, 30 vì
chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người. 31 Sách Thánh có lời
chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và
cả hai sẽ thành một xương một thịt. 32 Mầu nhiệm này thật là cao cả.
Tôi muốn nói về Đức Ki-tô và Hội Thánh. 33 Vậy mỗi người trong anh
em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng.
Chương 6
1
Kẻ
làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. 2
Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: 3 để
ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này. 4 Những bậc làm
cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa
bằng cách khuyên răn và sửa dạy.
5
Kẻ
làm nô lệ, hãy vâng lời những người chủ ở đời này với thái độ run rẩy và sợ
sệt, với lòng đơn sơ, như vâng lời Đức Ki-tô. 6 Đừng chỉ vâng lời
trước mặt, như muốn làm đẹp lòng người ta, nhưng như nô lệ của Đức Ki-tô, đem
cả tâm hồn thi hành ý Thiên Chúa. 7 Hãy vui lòng phục vụ, như thể
phục vụ Chúa, chứ không phải người ta. 8 Anh em biết đấy: ai làm
việc tốt, sẽ được Chúa trả công, bất luận nô lệ hay tự do. 9 Người
làm chủ cũng hãy đối xử như thế với nô lệ. Đừng doạ nạt nữa: anh em biết rằng
Chúa của họ cũng là Chúa của anh em, Người ngự trên trời và không thiên vị ai.
Cuộc
chiến đấu thiêng liêng
10
Sau
cùng, anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. 11
Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững
trước những mưu chước của ma quỷ. 12 Vì chúng ta chiến đấu không
phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc
thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. 13
Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa; như
thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững trong ngày đen
tối.
14
Vậy
hãy đứng vững: lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, 15
chân đi giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an; 16 hãy
luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác
thần. 17 Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của
Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa.
18
Theo
Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu
nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin
cho toàn thể dân thánh. 19 Anh em cũng hãy cầu xin cho tôi nữa, để
khi tôi mở miệng nói, thì Thiên Chúa ban lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo
mầu nhiệm của Tin Mừng; 20 tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi
đang bị xiềng xích. Anh em hãy cầu xin cho tôi để khi rao giảng Tin Mừng tôi
nói năng mạnh dạn, như bổn phận tôi phải nói.
Tin
tức. Lời chào cuối thư
21
Anh
Ty-khi-cô, người anh em yêu quý của tôi và là người trung thành phục vụ Chúa,
sẽ cho anh em mọi tin tức, để cả anh em nữa cũng biết tôi ra sao, và tôi đang
làm gì. 22 Tôi phái anh đến với anh em vì mục đích ấy, để anh em
được biết hiện tình của chúng tôi, và để anh khích lệ tâm hồn anh em.
23
Nguyện
xin Thiên Chúa là Cha, và nguyện xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ơn bình an
và lòng mến cùng với lòng tin. 24 Xin Thiên Chúa ban ân sủng cho tất
cả những ai yêu mến Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta bằng một tình yêu bất diệt.
Phi-líp-phê
Chương 1
Lời
chào thăm
1
Chúng
tôi, Phao-lô và Ti-mô-thê, là những tôi tớ của Đức Ki-tô Giê-su, kính gửi mọi
người trong dân thánh kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su ở Phi-líp-phê, cùng kính gửi
các vị giám quản và trợ tá. 2 Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta và Chúa
Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.
Tạ
ơn và cầu nguyện
3
Tôi
cảm tạ Thiên Chúa của tôi, mỗi lần nhớ đến anh em. 4 Tôi luôn vui
sướng mỗi khi cầu nguyện cho anh em hết thảy, 5 vì từ buổi đầu cho
đến nay, anh em đã góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng. 6 Tôi tin
chắc rằng: Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế,
cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Ki-tô Giê-su quang
lâm. 7 Tôi có những tâm tình như thế đối với tất cả anh em, đó là
điều hợp lý, bởi vì tôi mang anh em trong lòng tôi. Khi tôi bị xiềng xích, cũng
như lúc tôi bênh vực và củng cố Tin Mừng, anh em đều thông phần vào ân sủng tôi
đã nhận được. 8 Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi: tôi hết lòng yêu
quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Ki-tô Giê-su. 9 Điều tôi
khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em
được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, 10 để nhận ra cái gì
là tốt hơn. Tôi cũng xin cho anh em được nên tinh tuyền và không làm gì đáng
trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Ki-tô quang lâm. 11 Như thế, anh
em sẽ đem lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính nhờ Đức Giê-su Ki-tô,
để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa.
Hoàn
cảnh của thánh Phao-lô
12
Thưa
anh em, tôi muốn anh em biết là những gì xảy đến cho tôi thật ra đã giúp cho
Tin Mừng được tiến triển, 13 đến nỗi tại dinh vua quan cũng như ở
mọi nơi khác, người ta đều hiểu rõ là chính vì Đức Ki-tô mà tôi mang xiềng xích.
14 Vì thấy tôi bị xiềng xích, phần đông các anh em có lòng tin cậy
vào Chúa đã tỏ ra bạo dạn hơn để rao giảng lời Thiên Chúa mà không chút sợ hãi.
15 Đã hẳn, có những kẻ rao giảng về Đức Ki-tô vì lòng ganh tị và
tranh chấp, song những người khác lại làm công việc đó vì ý ngay lành. 16 Những
người này làm vì bác ái, bởi họ biết rằng tôi được chỉ định để lo bênh vực Tin
Mừng. 17 Còn những người kia thì loan báo Đức Ki-tô vì tính ưa tranh
giành, họ không có lòng ngay, tưởng làm như thế là gây thêm khổ cho tôi, trong
lúc tôi bị xiềng xích. 18 Nhưng không sao đâu! Dù thế nào đi nữa với
ý lành hay ý xấu, cuối cùng Đức Ki-tô được rao giảng là tôi mừng. Và tôi sẽ còn
mừng nữa, 19 bởi vì tôi biết rằng điều ấy sẽ giúp cho tôi đạt được
ơn cứu độ, nhờ lời cầu nguyện của anh em, và nhờ Thần Khí của Đức Giê-su Ki-tô
phù trợ. 20 Đó là điều tôi đợi chờ và hy vọng. Sẽ không có gì làm
cho tôi phải hổ thẹn, trái lại tôi hoàn toàn vững tin. Bây giờ cũng như mọi
lúc, Đức Ki-tô sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi
sống hay tôi chết: 21 vì đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là
một mối lợi. 22 Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi được sinh
hoa kết quả, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. 23 Vì tôi bị
giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều
này tốt hơn bội phần: 24 nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì
anh em. 25 Và tôi biết chắc rằng tôi sẽ ở lại và ở bên cạnh tất cả
anh em để giúp anh em tấn tới và được hưởng niềm vui đức tin mang lại cho anh
em. 26 Như thế, trong Đức Ki-tô Giê-su, anh em càng có lý do để hãnh
diện về tôi, khi tôi lại đến gặp anh em.
Chiến
đấu cho đức tin
27
Chỉ
có một điều là anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Ki-tô.
Như thế, dù tôi có đến thăm anh em hay vắng mặt đi nữa, tôi vẫn muốn được nghe
người ta nói về anh em là anh em luôn đứng vững, cùng chung một tinh thần, một
lòng một dạ cùng nhau chiến đấu vì đức tin mà Tin Mừng mang lại cho anh em. 28
Về bất cứ điều gì, đừng sợ những kẻ chống đối anh em: đó là dấu chỉ cho
thấy họ sẽ bị hư vong, còn đối với anh em, thì lại là dấu chỉ ơn cứu độ. Điều
ấy là ân huệ Thiên Chúa ban. 29 Quả thế, nhờ Đức Ki-tô, anh em đã
được phúc chẳng những là tin vào Người, mà còn được chịu đau khổ vì Người. 30
Nhờ vậy, anh em được tham dự cùng một cuộc chiến mà anh em đã thấy tôi
phải đương đầu trước kia, và nay anh em nghe biết là tôi vẫn còn tiếp tục.
Chương 2
Duy
trì sự hợp nhất trong tinh thần khiêm nhường
1
Nếu
quả thật sự liên kết với Đức Ki-tô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu
tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu
chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, 2 thì xin anh em
hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng
một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. 3 Đừng
làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người
khác hơn mình. 4 Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng
hãy tìm lợi ích cho người khác. 5 Giữa anh em với nhau, anh em hãy
có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su.
6
Đức
Giê-su Ki-tô
vốn
dĩ là Thiên Chúa
mà
không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa
vị ngang hàng với Thiên Chúa,
7
nhưng
đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc
lấy thân nô lệ,
trở
nên giống phàm nhân
sống
như người trần thế.
8
Người
lại còn hạ mình,
vâng
lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết
trên cây thập tự.
9
Chính
vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và
tặng ban danh hiệu
trổi
vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
10
Như
vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su,
cả
trên trời dưới đất
và
trong nơi âm phủ,
muôn
vật phải bái quỳ;
11
và
để tôn vinh Thiên Chúa Cha,
mọi
loài phải mở miệng tuyên xưng rằng:
"Đức
Giê-su Ki-tô là Chúa".
Lo
sao cho được ơn cứu độ
12
Ấy
vậy, anh em thân mến, anh em là những người luôn luôn vâng phục không những khi
tôi có mặt, mà nhất là bây giờ, khi tôi vắng mặt, anh em hãy biết run sợ mà
gắng sức lo sao cho mình được cứu độ. 13 Vì chính Thiên Chúa tác
động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Người. 14
Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản kháng. 15 Như
thế, anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở
nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà, sa đoạ.
Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, 16 là
làm sáng tỏ Lời ban sự sống, để tôi được hiên ngang hãnh diện trong ngày Đức
Ki-tô quang lâm, vì tôi đã không chạy uổng công và đã không lao nhọc vô ích. 17
Nhưng nếu tôi phải đổ máu ra hợp làm một với hy lễ mà anh em lấy đức tin
dâng lên Chúa, thì tôi vui mừng và cùng chia sẻ niềm vui với tất cả anh em. 18
Anh em cũng vậy, anh em hãy vui lên và cùng chia sẻ niềm vui với tôi.
Sứ
mạng của ông Ti-mô-thê và ông Ê-páp-rô-đi-tô
19
Nhờ
Chúa Giê-su, tôi hy vọng có thể sớm cử anh Ti-mô-thê đến với anh em, để chính
tôi cũng được an tâm vì được biết tin tức về anh em. 20 Chẳng có ai
khác cùng chia sẻ một tâm tình với tôi và tận tâm lo lắng cho anh em. 21 Thật
vậy, ai nấy đều tìm lợi ích cho mình, chứ không tìm lợi ích cho Đức Ki-tô
Giê-su. 22 Anh em biết: anh Ti-mô-thê đã chứng tỏ mình là người có
giá trị, bởi vì anh ấy đã cùng với tôi phục vụ Tin Mừng, như con với cha. 23
Vậy, tôi hy vọng sẽ cử anh ấy đi, ngay khi thấy rõ số phận tôi ra sao. 24
Vả lại, nhờ ơn Chúa, tôi tin tưởng sắp được đích thân đến thăm anh em.
25
Tôi
nghĩ cần phải trả anh Ê-páp-rô-đi-tô về cho anh em. Anh ấy đã từng là một người
anh em, một cộng sự viên, một chiến hữu của tôi, người mà anh em đã gửi đến giúp
tôi trong lúc túng cực. 26 Anh ấy rất mong mỏi gặp lại tất cả anh
em, lo âu vì anh em đã biết tin anh lâm bệnh. 27 Thật vậy, anh ấy ốm
nặng gần chết; nhưng Thiên Chúa đã thương xót anh, không những thương xót anh
mà còn thương xót cả tôi nữa, để tôi khỏi buồn phiền vì hết chuyện này đến
chuyện khác. 28 Do đó, tôi vội cho anh ấy trở về, để anh em được vui
khi gặp lại anh, và chính tôi cũng bớt buồn phiền. 29 Vì Chúa, anh
em hãy hết sức vui mừng đón tiếp anh. Anh em hãy quý trọng những người như thế;
30 chính vì làm việc cho Đức Ki-tô mà anh đã suýt chết, đã liều mạng
sống để thay thế anh em, khi anh em không đến giúp tôi được.
Chương 3
Con
đường cứu độ
1
Vả
lại, thưa anh em, anh em hãy vui mừng vì Chúa. Viết đi viết lại cho anh em cũng
bấy nhiêu điều, đối với tôi không phải là một gánh nặng, còn đối với anh em thì
đó lại là một bảo đảm. 2 Anh em hãy coi chừng quân chó má! Hãy coi
chừng bọn thợ xấu! Hãy coi chừng những kẻ giả danh cắt bì! 3 Vì chúng ta mới
thật là những người được cắt bì, những người thờ phượng Thiên Chúa nhờ Thần Khí
của Người, những người hiên ngang hãnh diện vì Đức Ki-tô Giê-su, chứ không cậy
vào xác thịt, 4 mặc dầu tôi đây, tôi có lý do để cậy vào xác thịt.
Nếu ai khác có lý do để cậy vào xác thịt, thì tôi càng có lý do hơn: 5 tôi
chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Ít-ra-en, họ Ben-gia-min, là người
Híp-ri, con của người Híp-ri; giữ luật thì đúng như một người Pha-ri-sêu; 6
nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề
Luật, thì chẳng ai trách được tôi. 7 Nhưng, những gì xưa kia tôi cho
là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. 8 Hơn nữa,
tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức
Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như
rác, để được Đức Ki-tô9 và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ
sự công chính của tôi, sự công chính do luật Mô-sê đem lại, nhưng nhờ sự công
chính do lòng tin vào Đức Ki-tô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa
trên lòng tin. 10 Vấn đề là được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết
Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ
của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, 11
với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết. 12 Nói
thế, không phải là tôi đã đoạt giải, hay đã nên hoàn thiện đâu; nhưng tôi đang
cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt, bởi lẽ chính tôi đã được Đức Ki-tô Giê-su
chiếm đoạt. 13 Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi.
Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía
trước. 14 Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời
cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Ki-tô Giê-su. 15 Vậy
tất cả chúng ta là những người hoàn thiện, chúng ta hãy nghĩ như vậy; và giả
như có điểm nào anh em nghĩ khác, thì Thiên Chúa sẽ mặc khải cho anh em. 16
Song, dù đạt tới đâu đi nữa, chúng ta cũng cứ theo hướng ấy mà đi.
17
Thưa
anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống
theo gương chúng tôi để lại cho anh em. 18 Vì, như tôi đã nói với
anh em nhiều lần, và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối
nghịch với thập giá Đức Ki-tô: 19 chung cục là họ sẽ phải hư vong.
Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn.
Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. 20 Còn chúng ta,
quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô
từ trời đến cứu chúng ta. 21 Người có quyền năng khắc phục muôn
loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên
giống thân xác vinh hiển của Người.
Chương 4
1
Bởi
vậy, hỡi anh em thân mến lòng tôi hằng tưởng nhớ, anh em là niềm vui, là vinh
dự của tôi. Anh em rất thân mến, anh em hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng
như vậy.
Lời
khuyên cuối cùng
2
Tôi
khuyên chị Ê-vô-đi-a và khuyên cả chị Xin-ti-khe nữa: xin hai chị sống hoà
thuận với nhau trong Chúa. 3 Tôi xin cả anh Xi-di-gô nữa, người bạn
chân thành đã đồng lao cộng khổ với tôi, xin anh giúp đỡ các chị ấy. Các chị đã
giúp tôi chiến đấu cho Tin Mừng, cũng như anh Cơ-lê-men-tê và các cộng sự viên
khác mà tên tuổi đã được ghi trong Sổ Trường Sinh.
4
Anh
em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! 5 Sao
cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến. 6 Anh
em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn,
van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh
nguyện. 7 Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu
biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su. 8 Ngoài
ra, thưa anh em, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh
tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức
hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý. 9 Những gì anh em đã học
hỏi, đã lãnh nhận, đã nghe, đã thấy ở nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành, và
Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em.
Cám
ơn vì được cứu trợ
10
Nhờ
Chúa, tôi rất vui mừng vì cuối cùng thấy tình cảm của anh em đối với tôi lại
thắm thiết. Tình cảm đó vẫn sống động, nhưng anh em chỉ thiếu dịp tỏ ra. 11
Không phải vì thiếu thốn mà tôi nói thế, bởi lẽ tôi đã học sống tự lập
trong bất cứ hoàn cảnh nào. 12 Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà
sống dư dật cũng được. Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn,
tôi đã tập quen cả. 13 Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được
hết. 14 Tuy nhiên, anh em đã chia sẻ với tôi, khi tôi gặp cơn quẫn
bách, như thế là phải. 15 Chính anh em, những người thành Phi-líp-phê,
anh em biết là trong giai đoạn tôi bắt đầu rao giảng Tin Mừng, lúc rời khỏi
Ma-kê-đô-ni-a, không một Hội Thánh nào đã đóng góp vào các khoản chi thu của
tôi, chỉ có anh em thôi; 16 bởi vì ngay khi tôi còn ở
Thê-xa-lô-ni-ca, đôi lần anh em đã gửi cho tôi những gì tôi cần dùng. 17 Điều
tôi tìm kiếm không phải là quà tặng, mà là những gì sinh hoa kết quả dồi dào
cho anh em. 18 Tôi có đủ mọi thứ cần dùng, lại còn dư dật nữa là
khác. Tôi rất đầy đủ, kể từ khi nhận được những gì anh em gửi đến tôi qua tay
anh Ê-páp-rô-đi-tô. Quà anh em tặng cho tôi đó, chẳng khác nào hương thơm, lễ
vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận. 19 Thiên Chúa của
tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang
của Người trong Đức Ki-tô Giê-su. 20 Xin tôn vinh Thiên Chúa là Cha
chúng ta, đến muôn thuở muôn đời! A-men.
Những
lời thăm hỏi và cầu chúc cuối cùng
21
Cho
tôi gửi lời chào từng người một thuộc dân thánh trong Đức Ki-tô Giê-su. Các anh
em đang ở với tôi gửi lời chào anh em. 22 Mọi người thuộc dân thánh,
nhất là những người phục vụ trong cung điện hoàng đế Xê-da, cũng gửi lời chào
anh em.
23
Cầu
chúc cho tâm hồn anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô.
Cô-lô-xê
Chương 1
Lời
mở đầu
1
Tôi
là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, và anh
Ti-mô-thê là người anh em, 2 kính gửi dân thánh tại Cô-lô-xê, là
những anh em tín hữu trong Đức Ki-tô. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta ban cho
anh em ân sủng và bình an.
Tạ
ơn và cầu xin
3
Chúng
tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta,
khi cầu nguyện cho anh em. 4 Thật vậy, chúng tôi đã được nghe nói về
lòng tin của anh em vào Đức Ki-tô Giê-su, và về lòng mến của anh em đối với
toàn thể dân thánh; 5 lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông
cậy dành cho anh em trên trời, niềm trông cậy anh em đã được nghe loan báo khi
lời chân lý là Tin Mừng6 đến với anh em; Tin Mừng này đang sinh hoa trái và lớn
lên trên toàn thế giới như thế nào, thì nơi anh em cũng vậy, từ ngày anh em
được nghe nói và nhận biết ân sủng của Thiên Chúa thực sự là gì. 7 Anh
em đã học hỏi điều này với anh Ê-páp-ra là người đồng sự yêu quý của chúng tôi
và là người thay thế chúng tôi với tư cách là người phục vụ trung thành của Đức
Ki-tô. 8 Chính anh đã cho chúng tôi hay về lòng mến mà Thần Khí ban
cho anh em.
9
Vì
thế, từ ngày chúng tôi nghe biết như vậy, chúng tôi cũng không ngừng cầu nguyện
và kêu xin Thiên Chúa cho anh em được am tường thánh ý Người, với tất cả sự
khôn ngoan và hiểu biết mà Thần Khí ban cho. 10 Như vậy, anh em sẽ
sống được như Chúa đòi hỏi, và làm đẹp lòng Người về mọi phương diện, sẽ sinh
hoa trái là mọi thứ việc lành, và mỗi ngày một hiểu biết Thiên Chúa hơn. 11
Nhờ sức mạnh vạn năng của Thiên Chúa vinh quang, anh em sẽ nên mạnh mẽ để
kiên trì chịu đựng tất cả.
12
Anh
em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung
hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng.
13
Người
đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử
chí ái; 14 trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội
lỗi.
I.
PHẦN GIÁO THUYẾT
Đức
Ki-tô đứng hàng đầu
15
Thánh
Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình,
là
trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo,
16
vì
trong Người, muôn vật được tạo thành
trên
trời cùng dưới đất,
hữu
hình với vô hình.
Dẫu
là hàng dũng lực thần thiêng
hay
là bậc quyền năng thượng giới,
tất
cả đều do Thiên Chúa tạo dựng
nhờ
Người và cho Người.
17
Người
có trước muôn loài muôn vật,
tất
cả đều tồn tại trong Người.
18
Người
cũng là đầu của thân thể,
nghĩa
là đầu của Hội Thánh;
Người
là khởi nguyên,
là
trưởng tử
trong
số những người từ cõi chết sống lại,
để
trong mọi sự Người đứng hàng đầu.
19
Vì
Thiên Chúa đã muốn
làm
cho tất cả sự viên mãn
hiện
diện ở nơi Người,
20
cũng
như muốn nhờ Người
mà
làm cho muôn vật
được
hoà giải với mình.
Nhờ
máu Người đổ ra trên thập giá,
Thiên
Chúa đã đem lại bình an
cho
mọi loài dưới đất
và
muôn vật trên trời.
Người
Cô-lô-xê được chung hưởng ơn cứu độ
21
Cả
anh em nữa, xưa kia anh em là những người xa lạ, là thù địch của Thiên Chúa vì
những tư tưởng và hành động xấu xa của anh em. 22 Nhưng nay nhờ Đức
Giê-su là con người bằng xương bằng thịt đã chịu chết, Thiên Chúa cho anh em
được hoà giải với Người, để anh em trở nên thánh thiện tinh tuyền và không có
gì đáng trách trước mặt Người. 23 Anh em chỉ cần giữ vững đức tin,
cần được xây dựng vững chắc, kiên quyết và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hy
vọng anh em đã nhận được khi nghe loan báo Tin Mừng. Tin Mừng này đã được rao
giảng cho khắp thiên hạ, và tôi, Phao-lô, tôi đã được trở nên người phục vụ Tin
Mừng.
Ông
Phao-lô vất vả phục vụ dân ngoại
24
Giờ
đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức
Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân
thể Người là Hội Thánh. 25 Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh,
theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: đó là tôi
phải rao giảng lời của Người cho trọn vẹn, 26 rao giảng mầu nhiệm đã
được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân
thánh của Thiên Chúa. 27 Người đã muốn cho họ được biết mầu nhiệm
này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại: đó là chính Đức Ki-tô
đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang. 28
Chính Người là Đấng chúng tôi rao giảng, khi khuyên bảo mỗi người và dạy
dỗ mỗi người với tất cả sự khôn ngoan, để giúp mỗi người nên hoàn thiện trong
Đức Ki-tô. 29 Chính vì mục đích ấy mà tôi phải vất vả chiến đấu, nhờ
sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi.
Chương 2
Ông
Phao-lô lo lắng cho đức tin của người Cô-lô-xê
1
Quả
thế, tôi muốn anh em biết tôi phải chiến đấu gay go thế nào vì anh em, vì những
người Lao-đi-ki-a, và vì bao người khác chưa thấy tôi tận mắt; 2 như
vậy là để họ được phấn khởi trong tâm hồn, và nhờ được liên kết chặt chẽ với
nhau trong tình thương, họ đạt tới sự thông hiểu phong phú và đầy đủ, khiến họ
nhận biết mầu nhiệm của Thiên Chúa, tức là Đức Ki-tô, 3 trong Người
có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết.
4
Tôi
nói điều đó để đừng có ai dùng lời lẽ hấp dẫn mà mê hoặc anh em. 5 Tuy
xa cách về thể xác, nhưng tôi vẫn ở với anh em về tinh thần, và vui mừng thấy
anh em giữ hàng ngũ và vững tin vào Đức Ki-tô.
II.
ĐỀ PHÒNG GIÁO LÝ SAI LẠC
Sống
theo đức tin chân chính chứ không theo những tư tưởng sai lạc
6
Vậy
như anh em đã nhận Đức Ki-tô Giê-su làm Chúa, thì hãy tiếp tục sống kết hợp với
Người. 7 Anh em hãy bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng là
Đức Ki-tô Giê-su, hãy dựa vào đức tin mà anh em đã được thụ huấn, và để cho
lòng chan chứa niềm tri ân cảm tạ.
8
Hãy
coi chừng chớ để ai gài bẫy anh em bằng mồi triết lý và những tư tưởng giả dối
rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ chứ
không theo Đức Ki-tô.
Đức
Ki-tô, Thủ Lãnh duy nhất của thiên thần và loài người
9
Thật
vậy, nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể, 10
và trong Người, anh em được sung mãn: Người vốn là đầu mọi quyền lực thần
thiêng.
11
Trong
Người, anh em đã được chịu phép cắt bì, không phải phép cắt bì do tay người phàm,
nhưng là phép cắt bì của Đức Ki-tô, có sức lột bỏ con người tội lỗi của anh em.
12 Anh em đã cùng được mai táng với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa, lại
cùng được trỗi dậy với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm
cho Người trỗi dậy từ cõi chết. 13 Trước kia, anh em là những kẻ
chết vì anh em đã sa ngã, và vì thân xác anh em không được cắt bì, nay Thiên
Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Ki-tô: Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ
mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta.
14
Người
đã xoá sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại
chúng ta. Người đã huỷ bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá. 15 Người
đã truất phế các quyền lực thần thiêng, đã công khai bêu xấu chúng, đã điệu
chúng đi trong đám rước khải hoàn của Người.
Đề
phòng lối sống khắc khổ theo thuyết”các quyền lực vũ trụ"
16
Vậy
đừng ai xét đoán anh em về chuyện đồ ăn thức uống, hay về mục ngày lễ, ngày đầu
tháng, ngày sa-bát. 17 Tất cả những cái đó chỉ là hình bóng những
điều sắp tới, nhưng thực tại là thân thể Đức Ki-tô. 18 Đừng ai viện
cớ”khiêm nhường" và “sùng kính các thiên thần" mà làm cho anh em mất
phần thưởng chiến thắng; họ chìm đắm trong những thị kiến của mình, vênh váo vì
những suy tưởng theo lối người phàm. 19 Họ không gắn chặt với Đức
Ki-tô là Đầu; chính Người làm cho toàn thân được nuôi dưỡng, được kết cấu chặt
chẽ nhờ mọi thứ gân mạch và dây chằng, và được lớn lên nhờ sức Thiên Chúa ban.
20
Anh
em đã chết cùng Đức Ki-tô và được giải thoát khỏi các yếu tố của vũ trụ, tại
sao lại rập theo những quy luật, như thể anh em còn sống lệ thuộc vào thế gian?
Chẳng hạn: 21 “Đừng ăn cái này, đừng nếm cái kia, đừng đụng vào cái
nọ", 22 toàn những cấm đoán về những cái dùng đến là hư. Đó chỉ
là những giới luật và giáo huấn của người phàm. 23 Những điều ấy có
vẻ khôn ngoan: nào là “sùng đạo tự ý", nào là “khiêm nhường", nào là
“khổ hạnh", nhưng không có giá trị gì đối với tính xác thịt lăng loàn.
Chương 3
Nguyên
lý của đời sống mới: kết hợp với Đức Ki-tô phục sinh
1
Anh
em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng
giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. 2 Anh em hãy hướng
lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ
giới. 3 Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện
đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa. 4 Khi Đức Ki-tô, nguồn
sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người
hưởng phúc vinh quang.
III.
PHẦN KHUYÊN NHỦ
Chỉ
thị chung cho các tín hữu
5
Vậy
anh em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh em: ấy là
gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam; mà tham lam cũng là thờ ngẫu
tượng. 6 Chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng
xuống trên những kẻ không vâng phục. 7 Chính anh em xưa kia cũng ăn
ở như thế, khi anh em còn sống giữa những người ấy. 8 Nhưng nay, cả
anh em nữa, hãy từ bỏ tất cả những cái đó: nào là giận dữ, nóng nảy, độc ác,
nào là thoá mạ, ăn nói thô tục.
9
Anh
em đừng nói dối nhau, vì anh em đã cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó
rồi, 10 và anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi
mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá, để được ơn thông hiểu. 11 Vậy không
còn phải phân biệt Hy-lạp hay Do-thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ,
nô lệ, tự do, nhưng chỉ có Đức Ki-tô là tất cả và ở trong mọi người.
12
Anh
em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế,
anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. 13
Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì
phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh
em phải tha thứ cho nhau. 14 Trên hết mọi đức tính, anh em phải có
lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. 15 Ước gì ơn bình an
của Đức Ki-tô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em
đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân.
16
Ước
chi lời Đức Ki-tô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú. Anh em hãy dạy dỗ
khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan. Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả
tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do
Thần Khí linh hứng. 17 Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói
nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.
Chỉ
thị riêng cho đời sống gia đình
18
Người
làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. 19
Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. 20 Kẻ
làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. 21 Những
bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng.
22
Kẻ
làm nô lệ hãy vâng lời những người chủ ở đời này trong mọi sự. Đừng chỉ vâng
lời trước mặt, như muốn làm đẹp lòng người ta, nhưng với lòng đơn sơ, vì kính
sợ Chúa. 23 Bất cứ làm việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho
Chúa, chứ không phải cho người đời 24 vì biết rằng anh em sẽ nhận được phần
thưởng Chúa ban, là gia nghiệp dành cho dân Người. Đức Ki-tô là Chủ, anh em hãy
phục vụ Người. 25 Ai ăn ở bất công sẽ được trả theo điều bất công
mình làm; không có chuyện thiên vị.
Chương 4
1
Người
làm chủ hãy đối xử công bằng và đồng đều với các nô lệ, vì biết rằng cả anh em
nữa cũng có một Chủ ở trên trời.
Tinh
thần tông đồ
2
Anh
em hãy siêng năng cầu nguyện; hãy tỉnh thức mà cầu nguyện và tạ ơn. 3 Đồng
thời, cũng hãy cầu nguyện cho chúng tôi nữa, xin Thiên Chúa mở cửa cho chúng
tôi rao giảng lời Người, để chúng tôi loan báo mầu nhiệm Đức Ki-tô; chính vì
mầu nhiệm này mà tôi bị giam giữ. 4 Xin cho tôi biết công bố rõ ràng
mầu nhiệm ấy, như bổn phận tôi phải loan báo.
5
Anh
em hãy ăn ở khôn ngoan với người ngoài; hãy tận dụng thời buổi hiện tại. 6
Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn mà dễ thương, để anh em biết đối
đáp sao cho phải với mỗi người.
Tin
tức
7
Mọi
tin tức về tôi, anh Ty-khi-cô sẽ cho anh em biết; anh là người anh em yêu quý
của tôi, người trung thành phục vụ, và người đồng sự với tôi trong công việc
Chúa. 8 Tôi phái anh đến với anh em vì mục đích ấy, để anh em được
biết hiện tình của chúng tôi, và để anh khích lệ tâm hồn anh em. 9 Cùng
đi có anh Ô-nê-xi-mô, người anh em trung thành và yêu quý của tôi, người đồng
hương với anh em. Cả hai sẽ cho anh em biết tất cả những gì xảy ra ở đây.
Lời
chào và lời chúc cuối thư
10
Anh
A-rít-ta-khô, bạn tù với tôi, gửi lời chào anh em. Anh Mác-cô, em họ ông
Ba-na-ba, cũng gửi lời chào anh em; anh em đã nhận được những chỉ thị về anh
ấy; nếu anh ấy đến với anh em, thì hãy tiếp đón anh ấy. 11 Anh
Giê-su, gọi là Giút-tô, cũng gửi lời chào anh em. Trong số những người cắt bì,
chỉ có ba anh ấy cùng làm việc với tôi cho Nước Thiên Chúa; các anh đã là niềm
an ủi của tôi. 12 Anh Ê-páp-ra, người đồng hương với anh em và là
tôi tớ của Đức Ki-tô Giê-su, gửi lời chào anh em; anh không ngừng chiến đấu cho
anh em bằng lời cầu nguyện, để một khi đã trưởng thành và hoàn toàn vâng theo
thánh ý Thiên Chúa trong mọi sự, anh em được đứng vững. 13 Tôi làm
chứng cho anh rằng anh vất vả nhiều vì anh em, những người ở Lao-đi-ki-a và
Hi-ê-ra-pô-li. 14 Anh Lu-ca, thầy thuốc yêu quý, và anh Đê-ma gửi
lời chào anh em.
15
Xin
cho tôi gửi lời chào các anh em ở Lao-đi-ki-a, chị Nym-pha và Hội Thánh vẫn họp
tại nhà chị ấy. 16 Sau khi anh em đọc thư này, xin liệu sao cho Hội
Thánh Lao-đi-ki-a cũng được đọc nữa. Xin anh em cũng đọc thư của tôi gửi cho
Hội Thánh Lao-đi-ki-a. 17 Sau cùng, xin nhắn với anh Ác-khíp-pô:
”Hãy lưu tâm đến chức vụ Chúa đã giao cho anh, và lo chu toàn.”
18
Lời
chào này do chính tay tôi, Phao-lô, viết. Anh em đừng quên rằng tôi đang phải
mang xiềng xích! Chúc anh em được ân sủng.
Thê-xa-lô-ni-ca
1
Chương 1
Lời
mở đầu
1
Chúng
tôi là Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê, kính gửi Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca ở
trong Thiên Chúa Cha, và trong Chúa Giê-su Ki-tô. Chúc anh em được ân sủng và
bình an.
Tạ
ơn Thiên Chúa và khen ngợi cộng đoàn
2
Chúng
tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa về tất cả anh em. Chúng tôi nhắc đến anh em trong lời
cầu nguyện, 3 và trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, chúng tôi
không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh
em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi
Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô.
4
Thưa
anh em là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên
Chúa đã chọn anh em, 5 vì khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh
em, thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh
Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã
sống thế nào để mưu ích cho anh em; 6 còn anh em, anh em đã bắt
chước chúng tôi và noi gương Chúa, khi đón nhận lời Chúa giữa bao nỗi gian
truân với niềm vui do Thánh Thần ban: 7 bởi vậy anh em đã nên gương
cho mọi tín hữu ở miền Ma-kê-đô-ni-a và miền A-khai-a. 8 Quả thế, từ
nơi anh em, lời Chúa đã vang ra, không những ở Ma-kê-đô-ni-a và A-khai-a, mà
đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa, khiến chúng
tôi không cần phải nói gì thêm nữa. 9 Khi nói về chúng tôi, người ta
kể lại chúng tôi đã được anh em tiếp đón làm sao, và anh em đã từ bỏ ngẫu tượng
mà quay về với Thiên Chúa thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa
thật, 10 và chờ đợi Con của Người từ trời ngự đến, người Con mà
Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, là Đức Giê-su, Đấng cứu chúng ta thoát
cơn thịnh nộ đang đến.
Chương 2
Thái
độ của ông Phao-lô khi ở Thê-xa-lô-ni-ca
1
Thật
vậy, thưa anh em, chính anh em biết rằng việc anh em đón tiếp chúng tôi không
phải vô ích.
2
Như
anh em biết, chúng tôi đã đau khổ và bị làm nhục tại Phi-líp-phê; nhưng vì tin
tưởng vào Thiên Chúa chúng ta mà chúng tôi đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng của
Thiên Chúa cho anh em, qua những cuộc chiến đấu gay go. 3 Lời giảng
của chúng tôi không do sự sai lầm, không có dụng ý xấu, không nhằm lừa dối ai, 4
nhưng vì Thiên Chúa đã thử luyện chúng tôi và giao phó Tin Mừng cho chúng
tôi, thì chúng tôi cứ vậy mà rao giảng, không phải để làm vừa lòng người phàm,
mà để làm đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng thử luyện tâm hồn chúng tôi. 5 Không
bao giờ chúng tôi đã dùng lời xu nịnh, như anh em biết; không bao giờ chúng tôi
đã viện cớ để che đậy lòng tham, có Thiên Chúa chứng giám; 6 không
bao giờ chúng tôi đã tìm cách để được một người phàm nào tôn vinh, dù là anh em
hay người khác, 7 trong khi chúng tôi có thể đòi anh em phải trọng
đãi, với tư cách là Tông Đồ Đức Ki-tô.
8
Chúng
tôi đã quý mến anh em, đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em, không những Tin Mừng
của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa, vì anh em đã trở nên những
người thân yêu của chúng tôi. 9 Thưa anh em, hẳn anh em còn nhớ nỗi
khó nhọc vất vả của chúng tôi: đêm ngày chúng tôi đã làm việc để khỏi thành
gánh nặng cho một người nào trong anh em, suốt thời gian chúng tôi loan báo Tin
Mừng của Thiên Chúa cho anh em. 10 Anh em làm chứng, và Thiên Chúa
cũng chứng giám, rằng với anh em là những tín hữu, chúng tôi đã cư xử một cách
thánh thiện, công minh, không chê trách được. 11 Anh em biết: chúng
tôi đã cư xử với mỗi người trong anh em như cha với con; 12 chúng
tôi đã khuyên nhủ, khích lệ, van nài anh em sống xứng đáng với Thiên Chúa, Đấng
kêu gọi anh em vào Nước của Người và chia sẻ vinh quang với Người.
Đức
tin và lòng kiên nhẫn của người Thê-xa-lô-ni-ca
13
Bởi
thế, về phần chúng tôi, chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, vì khi chúng
tôi nói cho anh em nghe lời Thiên Chúa, anh em đã đón nhận, không phải như lời
người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy. Lời đó tác
động nơi anh em là những tín hữu. 14 Thật vậy, thưa anh em, anh em
đã noi gương các Hội Thánh của Thiên Chúa ở miền Giu-đê là những Hội Thánh của
Đức Ki-tô Giê-su, vì anh em cũng đã phải chịu những nỗi đau khổ do đồng bào của
anh em gây ra, như các Hội Thánh đó đã phải chịu do người Do-thái. 15 Những
người này đã giết Chúa Giê-su và các ngôn sứ, đã bắt bớ chúng tôi, họ không đẹp
lòng Thiên Chúa và chống lại tất cả mọi người; 16 họ ngăn cản khi
chúng tôi rao giảng cho người ngoại để những người này được ơn cứu độ. Như vậy
họ luôn luôn chất đầy thêm tội lỗi; nhưng cuối cùng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa
đã giáng xuống trên họ.
Ông
Phao-lô lo lắng về cộng đoàn
17
Phần
chúng tôi, thưa anh em, phải xa cách anh em một thời gian ngắn, xa mặt chứ
không cách lòng, chúng tôi càng cố gắng hơn để lại thấy mặt anh em, vì chúng
tôi rất ước ao điều đó. 18 Bởi vậy chúng tôi đã muốn đến thăm anh
em-chính tôi, Phao-lô, đã nhiều lần định đi- nhưng Xa-tan đã cản trở chúng tôi.
19 Quả thế, ai là niềm hy vọng, là niềm vui của chúng tôi, ai là
triều thiên làm cho chúng tôi hãnh diện trước nhan Đức Giê-su, Chúa chúng ta,
khi Người quang lâm, nếu không phải là anh em? 20 Phải, chính anh em là vinh
quang và là niềm vui của chúng tôi.
Chương 3
Phái
ông Ti-mô-thê đi Thê-xa-lô-ni-ca
1
Vì
vậy, không chịu nổi nữa, chúng tôi đã quyết định ở lại A-thê-na một mình, 2
và chúng tôi đã phái anh Ti-mô-thê, người anh em của chúng tôi và cộng sự
viên của Thiên Chúa trong việc loan báo Tin Mừng Đức Ki-tô; anh đến để làm cho
anh em được vững mạnh, và khích lệ đức tin của anh em, 3 khiến không
ai bị nao núng vì các nỗi gian truân ấy. Hẳn anh em biết đó là số phận dành cho
chúng ta. 4 Thật thế, khi còn ở với anh em, chúng tôi đã nói trước
cho anh em rằng chúng ta sẽ gặp gian truân, điều đó đã xảy ra như anh em biết. 5
Chính vì vậy mà không chịu nổi nữa, tôi đã sai người đi hỏi cho biết lòng
tin của anh em ra sao, sợ rằng tên cám dỗ đã cám dỗ anh em, và công lao khó
nhọc của chúng tôi trở nên vô ích.
Tạ
ơn Chúa vì các tin tức nhận được
6
Giờ
đây, sau khi thăm anh em, anh Ti-mô-thê đã trở lại với chúng tôi và đưa tin
mừng cho chúng tôi về lòng tin và lòng mến của anh em; anh ấy nói rằng anh em
vẫn luôn luôn giữ kỷ niệm tốt về chúng tôi, và ao ước gặp lại chúng tôi, cũng
như chúng tôi ao ước gặp lại anh em. 7 Như vậy, thưa anh em, vì anh
em có lòng tin, nên khi nghĩ đến anh em, chúng tôi được an ủi giữa mọi thống
khổ gian truân chúng tôi phải chịu. 8 Phải, chúng tôi sống được đến
giờ này là nhờ anh em đứng vững trong Chúa. 9 Chúng tôi biết nói gì
để tạ ơn Thiên Chúa về anh em, vì tất cả niềm vui mà nhờ anh em, tôi có được
trước nhan Thiên Chúa chúng ta? 10 Đêm ngày chúng tôi tha thiết nài xin Chúa
cho được thấy mặt anh em và bổ túc những gì còn thiếu trong đức tin của anh em.
11
Xin
chính Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa chúng ta là Đức Giê-su san phẳng
con đường dẫn chúng tôi đến với anh em. 12 Xin Chúa cho tình thương
của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết,
cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy. 13 Như thế,
Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì
đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giê-su,
Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người.
Chương 4
Khuyên
cộng đoàn sống thánh thiện và bác ái
1
Vả
lại, thưa anh em, anh em đã được chúng tôi dạy phải sống thế nào cho đẹp lòng
Thiên Chúa, và anh em cũng đang sống như thế; vậy nhân danh Chúa Giê-su, chúng
tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em hãy tấn tới nhiều hơn nữa. 2 Hẳn
anh em rõ chúng tôi đã lấy quyền Chúa Giê-su mà ra những chỉ thị nào cho anh
em.
3
Ý
muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh, tức là xa lánh gian dâm, 4 mỗi
người hãy biết lấy cho mình một người vợ để sống cách thánh thiện và trong danh
dự, 5 chứ không buông theo đam mê dục vọng như dân ngoại, là những
người không biết Thiên Chúa. 6 Về điểm này, đừng ai làm tổn thương
hay lừa dối người anh em mình, vì Chúa là Đấng trừng phạt tất cả những cái đó,
như chúng tôi đã từng báo trước và cảnh cáo anh em. 7 Thật vậy,
Thiên Chúa đã không kêu gọi chúng ta sống ô uế, nhưng sống thánh thiện. 8 Vậy
ai khinh thường những lời dạy trên, thì không phải khinh thường một người phàm,
nhưng khinh thường Thiên Chúa; Đấng hằng ban cho anh em Thánh Thần của Người.
9
Còn
về tình huynh đệ, anh em không cần ai viết cho anh em, vì chính anh em đã được
Thiên Chúa dạy phải thương yêu nhau, 10 và anh em cũng đang làm như
vậy cho tất cả các anh em trong toàn miền Ma-kê-đô-ni-a. Nhưng thưa anh em, tôi
khuyên nhủ anh em hãy tiến tới nhiều hơn nữa. 11 Hãy gắng giữ hoà
khí, ai lo việc nấy và lao động bằng chính bàn tay của mình, như chính tôi đã
truyền cho anh em. 12 Như vậy, lối sống của anh em sẽ được người
ngoài cảm phục, và anh em sẽ không cần nhờ đến ai.
Người
sống và kẻ chết trong ngày Chúa quang lâm
13
Thưa
anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng
hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người
không có niềm hy vọng. 14 Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giê-su đã
chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong
Đức Giê-su, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giê-su. 15 Dựa vào
lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này, là chúng ta, những người đang
sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước
những người đã an giấc ngàn thu đâu. 16 Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi
tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa
sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Ki-tô sẽ sống lại trước
tiên; 17 rồi đến chúng ta, là những người đang sống, những người còn
lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên
không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi. 18 Vậy
anh em hãy dùng những lời ấy mà an ủi nhau.
Chương 5
Tỉnh
thức chờ ngày Chúa quang lâm
1
Thưa
anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. 2
Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. 3
Khi người ta nói: ”Bình an biết bao, yên ổn biết bao!”, thì lúc ấy tai
hoạ sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có
thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được.
4
Thưa
anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. 5
Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta
không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. 6 Vậy chúng ta
đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ. 7 Ai
ngủ, thì ngủ ban đêm; ai say sưa, thì say sưa ban đêm. 8 Nhưng chúng
ta, chúng ta thuộc về ban ngày, nên hãy sống tiết độ, mặc áo giáp là đức tin và
đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ. 9 Vì Thiên Chúa đã
không định cho chúng ta phải chịu cơn thịnh nộ, nhưng được hưởng ơn cứu độ, nhờ
Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, 10 Đấng đã chết vì chúng ta, để dầu
thức hay ngủ, chúng ta cũng sống với Người. 11 Vì thế, anh em hãy an
ủi nhau và xây dựng cho nhau, như anh em vẫn làm.
Một
vài đòi hỏi của đời sống cộng đoàn
12
Thưa
anh em, chúng tôi xin anh em hãy quý trọng những ai đang vất vả vì anh em, để
lãnh đạo anh em nhân danh Chúa và khuyên bảo anh em. 13 Hãy lấy tình
bác ái mà hết lòng tôn kính những người ấy, vì công việc họ làm. Hãy sống hoà
thuận với nhau.
14
Thưa
anh em, chúng tôi khuyên nhủ anh em: hãy khuyên bảo người vô kỷ luật, khích lệ
kẻ nhút nhát, nâng đỡ người yếu đuối, và kiên nhẫn với mọi người. 15 Hãy
coi chừng: đừng có ai lấy ác báo ác, nhưng hãy luôn luôn cố gắng làm điều thiện
cho nhau cũng như cho mọi người.
16
Anh
em hãy vui mừng luôn mãi 17 và cầu nguyện không ngừng. 18 Hãy tạ ơn
trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong
Đức Ki-tô Giê-su.
19
Anh
em đừng dập tắt Thần Khí. 20 Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. 21
Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ; 22 còn điều xấu dưới
bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa.
Lời
cầu nguyện và lời chào cuối thư
23
Nguyện
chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em,
để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng
trách, trong ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, quang lâm. 24 Đấng
kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó.
25
Thưa
anh em, xin anh em cũng cầu nguyện cho chúng tôi nữa. 26 Tất cả anh
em hãy hôn chào nhau một cách thánh thiện. 27 Nhân danh Chúa, tôi
yêu cầu đọc thư này cho tất cả các anh em.
28
Chúc
anh em được đầy ân sủng của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
Thê-xa-lô-ni-ca
2
Chương 1
Lời
mở đầu
1
Chúng
tôi là Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê, kính gửi Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca ở
trong Thiên Chúa là Cha chúng ta, và trong Chúa Giê-su Ki-tô. 2 Xin
Thiên Chúa là Cha và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.
Tạ
ơn và khuyến khích. Thiên Chúa thưởng phạt ngày sau hết
3
Thưa
anh em, chúng tôi phải luôn luôn tạ ơn Thiên Chúa về anh em: đó là điều phải
lẽ, vì lòng tin của anh em đang phát triển mạnh, và nơi tất cả anh em, lòng yêu
thương của mỗi người đối với người khác cũng gia tăng. 4 Bởi thế,
chúng tôi hãnh diện về anh em trước mặt các Hội Thánh của Thiên Chúa, vì anh em
kiên nhẫn và có lòng tin mỗi khi bị bắt bớ hay gặp cảnh gian truân. 5 Đó
là dấu cho thấy Thiên Chúa xét xử công minh: anh em sẽ được coi là xứng đáng
tham dự Nước Thiên Chúa, chính vì Nước Thiên Chúa mà anh em chịu đau khổ.
6
Quả
là điều công minh, nếu Thiên Chúa trả báo, nghĩa là bắt những kẻ gây gian truân
cho anh em phải chịu gian truân, 7 và cho anh em, những kẻ gặp gian
truân, được nghỉ ngơi với chúng tôi. Việc ấy sẽ xảy ra, khi Chúa Giê-su từ trời
xuất hiện cùng với các thiên thần hùng mạnh của Người, 8 trong ngọn
lửa cháy bừng, để báo oán những kẻ không chịu nhận biết Thiên Chúa và những kẻ
không vâng theo Tin Mừng của Chúa chúng ta là Đức Giê-su. 9 Những kẻ
ấy sẽ lãnh án diệt vong muôn đời, xa thánh nhan Chúa và quyền năng vinh hiển
của Người, 10 khi Người đến, trong ngày ấy, để được tôn vinh giữa
các thần thánh của Người, và được ngưỡng mộ giữa mọi kẻ đã tin, mà anh em cũng
đã tin lời chứng của chúng tôi.
11
Vì
thế, lúc nào chúng tôi cũng cầu nguyện cho anh em: xin Thiên Chúa chúng ta làm
cho anh em được xứng đáng với ơn gọi, và xin Người dùng quyền năng mà hoàn
thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin. 12
Như vậy, danh của Chúa chúng ta là Đức Giê-su, sẽ được tôn vinh nơi anh
em, và anh em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của Thiên Chúa chúng
ta và của Chúa Giê-su Ki-tô.
Chương 2
Ngày
Chúa quang lâm và những gì xảy ra trước đó
1
Thưa
anh em, về ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, quang lâm và tập hợp chúng ta
về với Người, tôi xin anh em điều này: 2 nếu có ai bảo rằng chúng
tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của
Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ.
3 Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào.
4
Tên
đối thủ tôn mình lên trên tất cả những gì được gọi là thần và được sùng bái,
thậm chí nó còn ngồi trong Đền Thờ Thiên Chúa và tự xưng là Thiên Chúa. 5 Khi
tôi còn ở với anh em, tôi đã từng nói những điều ấy, anh em không nhớ sao? 6
Anh em biết cái gì hiện đang cầm giữ nó, khiến nó sẽ chỉ xuất hiện được vào
thời của nó. 7 Thật vậy, mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành.
Chỉ đợi người cầm giữ nó bị gạt ra một bên, 8 bấy giờ tên gian ác sẽ
xuất hiện, kẻ mà Chúa Giê-su sẽ giết chết bằng hơi thở từ miệng Người, và sẽ
tiêu diệt bằng ánh huy hoàng, khi Người quang lâm.
9
Còn
việc tên gian ác xuất hiện là do tác động của Xa-tan, có kèm theo đủ thứ phép
mầu, dấu lạ, điềm thiêng, 10 và đủ mọi mưu gian chước dối, nhằm hại
những kẻ phải hư mất, vì đã không đón nhận lòng yêu mến chân lý để được cứu độ.
11 Vì thế Thiên Chúa gửi đến một sức mạnh mê hoặc làm cho chúng tin
theo sự dối trá; 12 như vậy, tất cả những kẻ không tin sự thật,
nhưng ưa thích sự gian ác, thì sẽ bị kết án.
Khuyên
nhủ kiên trì
13
Hỡi
anh em là những kẻ được Chúa yêu mến, chúng tôi phải luôn luôn tạ ơn Thiên Chúa
về anh em, vì Thiên Chúa đã chọn anh em ngay từ lúc khởi đầu, để cứu độ anh em
nhờ Thần Khí thánh hoá và nhờ lòng tin vào chân lý. 14 Chính vì thế
mà Người đã dùng Tin Mừng chúng tôi loan báo mà kêu gọi anh em, để anh em được
hưởng vinh quang của Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô. 15 Vậy, thưa
anh em, anh em hãy đứng vững và nắm giữ các truyền thống chúng tôi đã dạy cho
anh em, bằng lời nói hay bằng thư từ. 16 Xin chính Chúa chúng ta là
Đức Giê-su Ki-tô, và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và
đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt
đẹp, 17 xin các Ngài an ủi và cho tâm hồn anh em được vững mạnh, để
làm và nói tất cả những gì tốt lành.
Chương 3
1
Sau
cùng, thưa anh em, xin anh em cầu nguyện cho chúng tôi, để lời Chúa được phổ
biến mau chóng và được tôn vinh, như đã thấy nơi anh em. 2 Xin cũng
cầu nguyện cho chúng tôi được thoát khỏi tay người độc ác xấu xa, bởi vì không
phải ai cũng có đức tin. 3 Nhưng Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ
làm cho anh em được vững mạnh, và bảo vệ anh em khỏi ác thần. 4 Trong
Chúa, chúng tôi tin tưởng vào anh em: anh em đang làm và sẽ làm những gì chúng
tôi truyền. 5 Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn anh em, để anh em biết yêu
mến Thiên Chúa và biết chịu đựng như Đức Ki-tô.
Đề
phòng lối sống vô kỷ luật: cơn sốt quang lâm!
6
Thưa
anh em, nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền cho anh em phải xa lánh
mọi người anh em sống vô kỷ luật, không theo truyền thống anh em đã nhận được
từ nơi tôi.
7
Chính
anh em thừa biết là anh em phải bắt chước chúng tôi thế nào. Khi ở giữa anh em,
chúng tôi đã không sống vô kỷ luật. 8 Chúng tôi đã chẳng ăn bám ai,
trái lại đêm ngày đã làm lụng khó nhọc vất vả, để khỏi nên gánh nặng cho người
nào trong anh em. 9 Không phải là vì chúng tôi không có quyền hưởng
sự giúp đỡ, nhưng là để nêu gương cho anh em bắt chước.
10
Thật
vậy, khi còn ở với anh em, chúng tôi đã chỉ thị cho anh em: ai không chịu làm
thì cũng đừng ăn! 11 Thế mà chúng tôi nghe nói: trong anh em có một số người
sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. 12 Nhân
danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hãy ở
yên mà làm việc, để có của nuôi thân.
13
Phần
anh em, hãy làm việc thiện, đừng sờn lòng nản chí! 14 Nếu có ai không vâng theo
lời chúng tôi nói trong thư này, anh em hãy ghi lấy tên và đừng giao du với
người ấy, để họ biết xấu hổ. 15 Nhưng đừng coi họ như thù địch, trái
lại hãy khuyên bảo như người anh em.
Lời
cầu nguyện và lời chào cuối thư
16
Chúa
là nguồn mạch bình an, xin Người ban cho anh em được bình an mọi lúc và về mọi
phương diện. Xin Chúa ở cùng tất cả anh em.
17
Chính
tôi, Phao-lô, tự tay viết lời chào này. Đó là chữ ký trong tất cả các thư của
tôi. Tôi viết như thế đó. Chúc tất cả anh em được đầy ân sủng của Đức Giê-su
Ki-tô, Chúa chúng ta.
Ti-mô-thê 1
Chương 1
Lời
mở đầu
1
Tôi
là Phao-lô, Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su theo lệnh Thiên Chúa, Đấng cứu độ
chúng ta, và theo lệnh Đức Ki-tô Giê-su, niềm hy vọng của chúng ta, 2 gửi
anh Ti-mô-thê, người con tôi đã sinh ra trong đức tin. Xin Thiên Chúa là Cha và
xin Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, ban cho anh ân sủng, lòng thương xót và sự
bình an.
Đề
phòng giáo lý sai lạc
3
Khi
đi Ma-kê-đô-ni-a, tôi đã khuyên anh ở lại Ê-phê-xô để anh truyền cho một số
người đừng dạy một giáo lý khác, 4 cũng đừng chú ý đến những chuyện
hoang đường và những gia phả dài dòng; những cái đó chỉ gây ra tranh luận, chứ
không đóng góp vào kế hoạch của Thiên Chúa mà đức tin cho chúng ta biết. 5
Lời truyền dạy đó phải nhằm đưa tới đức mến phát xuất từ tâm hồn trong
sạch, lương tâm ngay thẳng và đức tin không giả hình. 6 Vì đi trệch
đường lối ấy, một số người đã sa vào tật nói rỗng tuếch. 7 Họ muốn
làm thầy dạy luật, nhưng lại không hiểu cả điều mình nói lẫn điều mình xác
quyết.
Vai
trò của Lề Luật
8
Chúng
ta biết rằng Lề Luật là tốt, nếu người ta sử dụng cho đúng cách. 9 Thật
vậy, Lề Luật có đó, không phải cho người công chính, mà là cho hạng người sống
ngoài lề luật và bất phục tùng, vô luân và tội lỗi, phạm thánh phạm thượng,
giết cha giết mẹ, sát nhân, 10 dâm dật, kê gian, buôn người, nói
dối, bội thề, và những kẻ sống ngược với giáo lý lành mạnh. 11 Đó là
giáo lý phù hợp với Tin Mừng đã được giao phó cho tôi, Tin Mừng về vinh quang
của Thiên Chúa chí tôn.
Ông
Phao-lô suy nghĩ về ơn gọi của mình
12
Tôi
tạ ơn Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, Đấng đã ban sức mạnh cho tôi, vì Người
đã tín nhiệm mà gọi tôi đến phục vụ Người. 13 Trước kia, tôi là kẻ
nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì
tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin. 14 Đức
Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin
và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người. 15 Đây là lời đáng tin
cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Ki-tô Giê-su đã đến thế gian, để cứu những
người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. 16 Sở dĩ tôi được thương xót,
là vì Đức Giê-su Ki-tô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là
kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống
muôn đời. 17 Kính dâng Vua muôn thuở là Thiên Chúa bất diệt, vô hình
và duy nhất, kính dâng Người danh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời.
A-men.
Trách
nhiệm của ông Ti-mô-thê
18
Anh
Ti-mô-thê, đó là chỉ thị tôi trao cho anh là người con của tôi, chiếu theo các
lời ngôn sứ trước đây đã nói về anh, để anh dựa vào đó mà chiến đấu trong cuộc
chiến cao đẹp này, 19 với đức tin và lương tâm ngay thẳng. Một số
người đã vứt bỏ lương tâm ngay thẳng đó, nên đức tin của họ đã bị chết chìm. 20
Trong số đó có Hy-mê-nê và A-lê-xan-đê; tôi đã trao nộp họ cho Xa-tan để
họ được dạy cho biết đừng nói lộng ngôn nữa.
Chương 2
Lời
kinh phụng vụ
1
Trước
hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả
mọi người, 2 cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng
ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. 3 Đó
là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, 4 Đấng
muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. 5 Thật vậy, chỉ
có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó
là một con người, Đức Ki-tô Giê-su, 6 Đấng đã tự hiến làm giá chuộc
mọi người.
Điều
này đã được chứng thực vào đúng thời đúng buổi.
7
Và
để làm chứng về điều này, tôi được đặt làm người rao giảng và làm Tông Đồ-tôi
nói thật chứ không nói dối- nghĩa là làm thầy dạy các dân ngoại về đức tin và
chân lý. 8 Vậy tôi muốn rằng người đàn ông hãy cầu nguyện ở bất cứ
nơi nào, tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung
khắc.
Khi
họp cộng đoàn, người phụ nữ phải như thế nào?
9
Cũng
thế, tôi muốn người đàn bà phải ăn mặc đoan trang, đồ trang điểm phải kín đáo,
giản dị: không phải là những kiểu tóc cầu kỳ, vàng bạc, ngọc trai hay quần áo
đắt tiền, 10 nhưng là những việc lành; như thế mới thích hợp với
những người đàn bà xưng mình có lòng đạo đức. 11 Khi nghe lời dạy
dỗ, đàn bà phải thinh lặng và hết lòng phục tùng. 12 Tôi không cho
phép đàn bà giảng dạy, hay thống trị đàn ông, trái lại họ phải thinh lặng, 13
vì A-đam được tạo dựng trước, rồi mới đến E-và. 14 Cũng không
phải A-đam đã bị dụ dỗ, nhưng là người đàn bà đã phạm tội, khi bị dụ dỗ. 15
Tuy nhiên, người đàn bà sẽ được cứu nhờ sinh con cái, nếu kiên trì giữ
đức tin, đức mến và sự thánh thiện, với lòng đơn sơ giản dị.
Chương 3
Các
giám quản
1
Đây
là lời đáng tin cậy: ai mong được làm giám quản, người ấy ước muốn một nhiệm vụ
cao đẹp. 2 Vậy giám quản phải là người không ai chê trách được, chỉ
có một đời vợ, tiết độ, chừng mực, nhã nhặn, hiếu khách, có khả năng giảng dạy;
3 người ấy không được nghiện rượu, không được hiếu chiến, nhưng phải
hiền hoà, không hay gây sự, không ham tiền, 4 biết điều khiển tốt
gia đình mình, biết dạy con cái phục tùng cách rất nghiêm chỉnh, 5 vì
ai không biết điều khiển gia đình mình, thì làm sao có thể lo cho Hội Thánh của
Thiên Chúa được? 6 Người ấy không được là tân tòng, kẻo lên mặt kiêu căng mà bị
kết án như ma quỷ. 7 Người ấy còn phải được người ngoài chứng nhận
là tốt, kẻo bị sỉ nhục và sa vào cạm bẫy ma quỷ.
Các
trợ tá
8
Các
trợ tá cũng vậy, phải là người đàng hoàng, biết giữ lời hứa, không rượu chè say
sưa, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn; 9 họ phải bảo toàn mầu nhiệm
đức tin trong một lương tâm trong sạch. 10 Họ phải được thử thách
trước đã, rồi mới được thi hành chức vụ trợ tá, nếu không bị ai khiếu nại. 11
Các bà cũng vậy, phải là người đàng hoàng, không nói xấu, nhưng tiết độ,
đáng tin cậy mọi bề. 12 Các trợ tá phải là người chỉ có một đời vợ,
biết điều khiển con cái và gia đình cho tốt. 13 Những ai thi hành
chức vụ trợ tá cách tốt đẹp, thì được một chỗ danh dự, và được mạnh dạn nhiều
nhờ lòng tin vào Đức Ki-tô Giê-su.
Mầu
nhiệm của đạo thánh
14
Tôi
viết cho anh thư này, dù vẫn hy vọng sớm đến với anh. 15 Nhưng nếu
tôi chậm trễ, thì thư này sẽ cho anh biết phải ăn ở thế nào trong nhà của Thiên
Chúa, tức là Hội Thánh của Thiên Chúa hằng sống, cột trụ và điểm tựa của chân
lý. 16 Phải công nhận rằng: mầu nhiệm của đạo thánh thật là cao cả,
đó là:
Đức
Ki-tô xuất hiện trong thân phận người phàm,
được
Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính;
Người
được các thiên thần chiêm ngưỡng,
và
được loan truyền giữa muôn dân;
Người
được cả hoàn cầu tin kính,
được
siêu thăng cõi trời vinh hiển.
Chương 4
Các
người dạy giáo lý sai lạc
1
Thần
khí phán rõ ràng: vào những thời cuối cùng, một số người sẽ bỏ đức tin mà theo
những thần khí lừa dối và những giáo huấn của ma quỷ; 2 đó là vì trò
giả hình của những tên nói dối mà lương tâm như bị thích dấu sắt nung. 3 Họ
cấm không được kết hôn và bắt phải kiêng một số thức ăn; thật ra, những thức ăn
này là những thứ Thiên Chúa đã tạo dựng để các tín hữu, những kẻ đã nhận biết
chân lý, được dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ. 4 Thật vậy, tất cả
những gì Thiên Chúa tạo dựng đều tốt, và không có gì phải loại bỏ, nếu biết
dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ, 5 vì lời Thiên Chúa và lời cầu
nguyện thánh hoá những thứ đó. 6 Nếu anh trình bày cho anh em những
điều ấy, thì anh sẽ là một người phục vụ tốt của Đức Ki-tô Giê-su, một người
thấm nhuần lời đức tin và giáo lý cao đẹp mà anh đã trung thành noi theo. 7
Còn những chuyện hoang đường nhảm nhí của bà già, thì hãy loại bỏ. Hãy
luyện tập sống đạo đức; 8 vì luyện tập thân thể thì lợi ích chẳng là
bao, còn lòng đạo đức thì lợi ích mọi bề, bởi Chúa hứa ban sự sống hiện tại
cũng như tương lai cho người có lòng đạo đức. 9 Đó là lời đáng tin
cậy và đáng mọi người đón nhận. 10 Thật vậy, chính vì mục đích ấy mà
chúng ta phải vất vả, phải chiến đấu, bởi đã đặt hy vọng vào Thiên Chúa hằng
sống, Đấng cứu độ mọi người, nhất là các tín hữu. 11 Anh hãy truyền,
hãy dạy những điều đó.
12
Chớ
gì đừng có ai coi thường anh vì anh còn trẻ. Trái lại, anh hãy nên gương mẫu
cho các tín hữu về lời ăn tiếng nói, về cách cư xử, về đức ái, đức tin và lòng
trong sạch. 13 Trong khi chờ tôi đến, hãy chuyên cần đọc Sách Thánh
trong các buổi họp, chuyên cần khuyên nhủ và dạy dỗ. 14 Đừng thờ ơ
với đặc sủng đang có nơi anh, đặc sủng Thiên Chúa đã ban cho anh nhờ lời ngôn
sứ, khi hàng kỳ mục đặt tay trên anh. 15 Anh hãy tha thiết với những
điều đó, chuyên chú vào đó, để mọi người nhận thấy những tiến bộ của anh. 16
Anh hãy thận trọng trong cách ăn nết ở và trong lời giảng dạy. Hãy kiên
trì trong việc đó. Vì làm như vậy, anh sẽ cứu được chính mình, lại còn cứu được
những người nghe anh giảng dạy.
Chương 5
Cách
cư xử với các hạng người tín hữu nói chung
1
Đừng
nặng lời với cụ già, nhưng khi khuyên nhủ, hãy coi cụ như cha; hãy coi các thanh
niên như anh em, 2 các cụ bà như mẹ, các thiếu nữ như chị em, với
tấm lòng hoàn toàn trong sạch.
Các
bà goá
3
Anh
hãy kính trọng các bà goá, những bà goá đích thực. 4 Nếu một bà goá
có con có cháu, thì trước tiên con cháu phải học cho biết ăn ở hiếu thảo đối
với gia đình mình, và đền ơn đáp nghĩa các bậc sinh thành. Đó là điều đẹp lòng
Thiên Chúa. 5 Còn các bà goá đích thực, sống một thân một mình, thì
đã đặt hy vọng vào Thiên Chúa và ngày đêm kiên trì đọc kinh cầu nguyện. 6 Trái
lại, bà goá ham vui thì sống cũng như chết. 7 Anh cũng phải truyền
dạy những điều ấy, để không ai chê trách được họ. 8 Ai không chăm
sóc người thân, nhất là người sống trong cùng một nhà, thì đã chối bỏ đức tin,
và còn tệ hơn người không có đức tin.
9
Muốn
được ghi tên vào sổ các bà goá, phải có những điều kiện sau: ít nhất sáu mươi
tuổi, chỉ có một đời chồng, 10 được chứng nhận là đã làm việc thiện,
nghĩa là đã nuôi nấng dạy dỗ con cái, đã tỏ ra hiếu khách, đã rửa chân cho các
người trong dân thánh, giúp đỡ người gặp gian truân, siêng năng làm mọi việc
lành. 11 Còn các bà goá trẻ, anh đừng ghi vào sổ; vì khi dục vọng
làm cho họ xa lìa Đức Ki-tô, thì họ muốn tái giá, 12 và như vậy là
mang lấy án phạt, bởi đã không giữ lời cam kết ban đầu với Đức Ki-tô. 13 Đồng
thời, vì ăn không ngồi rồi, họ học thói la cà hết nhà nọ đến nhà kia. Đâu phải
chỉ ăn không ngồi rồi, họ còn nhiều chuyện, lăng xăng, nói năng bừa bãi. 14
Vậy tôi muốn các bà goá trẻ hãy tái giá, sinh con cái, lo việc cửa nhà;
đừng để cho đối phương có dịp bới móc. 15 Thật vậy, đã có kẻ lạc
đường đi theo Xa-tan. 16 Nếu nữ tín hữu nào có người trong họ hàng
là bà goá, thì hãy giúp đỡ họ, đừng để cho Hội Thánh phải mang gánh nặng, và
như thế Hội Thánh có thể giúp đỡ những bà goá đích thực.
Các
kỳ mục
17
Những
kỳ mục thi hành chức vụ chủ toạ cách tốt đẹp, thì đáng được đãi ngộ gấp đôi,
nhất là những người vất vả phục vụ lời Chúa và giảng dạy. 18 Quả
vậy, Kinh Thánh có nói: Đừng bịt mõm con bò đang đạp lúa, và làm thợ thì đáng
được trả công. 19 Lời tố cáo một kỳ mục, anh đừng chấp nhận, trừ phi
có hai hoặc ba nhân chứng. 20 Những ai phạm tội, anh hãy khiển trách
trước mặt mọi người, để những kẻ khác phải sợ. 21 Trước mặt Thiên
Chúa, trước mặt Đức Ki-tô Giê-su và các thiên thần được tuyển chọn, tôi tha
thiết khuyên anh giữ các điều ấy cách vô tư, không làm gì vì thiên vị. 22 Anh
đừng vội đặt tay trên ai, đừng cộng tác vào tội lỗi của người khác. Hãy giữ
mình trong sạch.
23
Từ
nay anh đừng chỉ uống nước lã, nhưng hãy dùng thêm chút rượu, vì anh đau dạ dày
và ốm yếu luôn.
24
Có
những người thì tội đã rành rành, ngay trước khi xét xử; người khác thì xét xử
rồi mới thấy rõ. 25 Cũng thế, những việc tốt thì đã rành rành; mà cả
những việc không tốt cũng chẳng che giấu được.
Chương 6
Các
nô lệ
1
Những
ai đang ở dưới ách nô lệ, hãy coi chủ mình là đáng kính về mọi mặt, để danh
Thiên Chúa và đạo lý khỏi bị người ta xúc phạm. 2 Còn những ai có
chủ là người tín hữu, thì đừng lấy cớ họ là người anh em mà coi thường; trái
lại phải hầu hạ chủ tốt hơn nữa, bởi lẽ người được mình phục vụ là tín hữu và
là anh em yêu quý.
Người
dạy giáo lý: ai chân chính, ai không
3
Nếu
có ai dạy một giáo lý khác, không theo sát các lời lành mạnh, tức là các lời
của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, và không theo sát giáo lý phù hợp với đạo
thánh, 4 thì người ấy lên mặt kiêu căng, không biết gì cả, nhưng mắc
bệnh ham tranh luận và thích cãi chữ. Do đó sinh ra ganh tị, tranh chấp, lộng
ngôn, nghĩ xấu, 5 đấu khẩu liên miên giữa những người đầu óc lệch
lạc, mất cả chân lý và coi việc giữ đạo là một nguồn lợi. 6 Đã hẳn,
việc giữ đạo là nguồn lợi lớn đối với ai lấy cái mình có làm đủ. 7 Quả
vậy, chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. 8
Vậy nếu có cơm ăn áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ. 9 Còn những
kẻ muốn làm giàu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu
xuẩn độc hại; đó là những thứ làm cho con người chìm đắm trong cảnh huỷ diệt
tiêu vong. 10 Thật thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn
tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và
chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé.
Lời
khuyên nhủ thiết tha
11
Phần
anh, hỡi người của Thiên Chúa, hãy tránh xa những điều đó; hãy gắng trở nên
người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và
hiền hoà. 12 Anh hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin,
giành cho được sự sống đời đời; chính vì sự sống ấy, anh đã được Thiên Chúa kêu
gọi, và anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng. 13
Trước mặt Thiên Chúa là Đấng ban sức sống cho mọi loài, và trước mặt Đức
Ki-tô Giê-su là Đấng đã làm chứng trước toà tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô bằng
một lời tuyên xưng cao đẹp, tôi truyền cho anh: 14 hãy tuân giữ điều
răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày Đức
Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, xuất hiện. 15 Đấng sẽ cho Đức Ki-tô tỏ
hiện vào đúng thời đúng buổi,
là
Chúa Tể vạn phúc vô song,
là
Vua các vua, Chúa các chúa.
16
Chỉ
mình Người là Đấng trường sinh bất tử,
ngự
trong ánh sáng siêu phàm,
Đấng
không một người nào đã thấy hay có thể thấy.
Kính
dâng Người danh dự
và
uy quyền đến muôn đời. A-men.
Lời
khuyên người giàu
17
Những
người giàu ở trần gian này, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, cũng đừng
đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào
mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. 18 Họ phải làm việc thiện và trở nên
giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. 19 Như
vậy họ tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai, để được sự sống
thật.
Lời
nhắn nhủ cuối cùng
20
Anh
Ti-mô-thê, hãy bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho anh, tránh những chuyện
nhảm nhí, trống rỗng, và những vấn đề của tri thức giả hiệu. 21 Có
những kẻ, vì chủ trương cái tri thức đó, nên đã lạc mất đức tin. Chúc anh em
được ân sủng.
Ti-mô-thê 2
Chương 1
Lời
mở đầu và tạ ơn
1
Tôi
là Phao-lô, Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, do ý muốn của Thiên Chúa, chiếu theo
lời Thiên Chúa hứa ban sự sống vốn có trong Đức Ki-tô Giê-su, 2 gửi
anh Ti-mô-thê, người con yêu dấu. Xin Thiên Chúa là Cha và xin Đức Giê-su
Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho anh được ân sủng, lòng thương xót và sự bình an.
3
Tôi
tạ ơn Thiên Chúa, Đấng tôi phụng thờ với lương tâm trong sạch, theo gót tổ
tiên; tôi tạ ơn Người khi tôi không ngừng nhắc nhở đến anh, trong các lời cầu
nguyện của tôi, đêm cũng như ngày. 4 Nhớ đến những giọt nước mắt của
anh, tôi ước ao gặp lại anh để được chan chứa niềm vui. 5 Tôi hồi
tưởng lại lòng tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít, bà
ngoại anh, nơi bà Êu-ni-kê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như
vậy.
Những
ơn ông Ti-mô-thê đã nhận được
6
Vì
lý do đó, tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã
nhận được khi tôi đặt tay trên anh. 7 Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho
chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí
khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ. 8 Vậy
anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi,
người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng
khổ với tôi để loan báo Tin Mừng. 9 Người đã cứu độ và kêu gọi chúng
ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm,
nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng
ta từ muôn thuở trong Đức Ki-tô Giê-su, 10 nhưng giờ đây mới được
biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Ki-tô Giê-su đã xuất hiện. Chính Đức
Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường
sinh bất tử. 11 Thiên Chúa đã đặt tôi làm người rao giảng Tin Mừng
đó, làm tông đồ và thầy dạy.
12
Chính
vì lý do ấy mà tôi phải chịu những đau khổ này; nhưng tôi không hổ thẹn, vì tôi
biết tôi tin vào ai, và xác tín rằng: Người có đủ quyền năng bảo toàn giáo lý
đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới Ngày đó.
13
Với
đức tin và đức mến của một người được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su, anh hãy lấy
làm mẫu mực những lời lành mạnh anh đã nghe tôi dạy. 14 Giáo lý tốt
đẹp đã giao phó cho anh, anh hãy bảo toàn, nhờ có Thánh Thần ngự trong chúng
ta.
15
Anh
biết rằng mọi người ở A-xi-a đã bỏ tôi; Phy-ghê-lô và Héc-mô-ghê-nê cũng ở
trong số ấy. 16 Xin Chúa tỏ lòng thương xót gia đình anh
Ô-nê-xi-phô-rô, vì đã nhiều lần anh làm cho tôi lên tinh thần, và đã không hổ
thẹn vì tôi phải mang xiềng xích; 17 trái lại, vừa đến Rô-ma, anh
vội vã đi tìm và đã thấy tôi. 18 Xin Chúa ban cho anh tìm thấy nơi
Chúa lòng thương xót, trong Ngày đó. Về công việc phục vụ của anh ấy ở
Ê-phê-xô, thì anh đã quá rõ.
Chương 2
Ý
nghĩa các đau khổ của người tông đồ
1
Vậy
hỡi anh, người con của tôi, anh hãy nên mạnh mẽ trong ân sủng của Đức Ki-tô
Giê-su. 2 Những gì anh đã nghe tôi nói trước mặt nhiều nhân chứng,
thì hãy trao lại cho những người tin cẩn, những người sẽ có khả năng dạy cho
người khác.
3
Anh
hãy đồng lao cộng khổ như một người lính giỏi của Đức Ki-tô Giê-su. 4 Trong
nghề binh, không ai vướng mắc vào những việc thuộc đời sống dân sự; có thế mới
đẹp lòng người đã tuyển mộ. 5 Người tham dự điền kinh cũng vậy,
không đoạt giải nếu không thi đấu theo luật lệ. 6 Còn người nông dân
làm việc vất vả, thì phải là người đầu tiên được hưởng phần hoa lợi. 7 Anh
hãy hiểu điều tôi nói, vì Chúa sẽ ban cho anh ơn thông hiểu mọi sự.
8
Anh
hãy nhớ đến Đức Giê-su Ki-tô,
Đấng
đã sống lại từ cõi chết,
Đấng
xuất thân từ dòng dõi Đa-vít,
9
Vì
Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian
phi. Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích! 10 Bởi vậy, tôi cam chịu mọi sự,
để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ
trong Đức Ki-tô Giê-su, và được hưởng vinh quang muôn đời.
11
Đây
là lời đáng tin cậy:
Nếu
ta cùng chết với Người,
ta
sẽ cùng sống với Người.
12
Nếu
ta kiên tâm chịu đựng,
ta
sẽ cùng hiển trị với Người.
Nếu
ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta.
13
Nếu
ta không trung tín,
Người
vẫn một lòng trung tín,
vì
Người không thể nào chối bỏ chính mình.
Chống
lại những người dạy giáo lý sai lạc
14
Anh
hãy nhắc nhở lại những điều đó, trước mặt Thiên Chúa, hãy tha thiết khuyên
người ta đừng cãi chữ: chuyện không có ích lợi gì, chỉ làm cho người nghe phải
diệt vong. 15 Hãy cố gắng ra trước mặt Thiên Chúa như một người đã
được thử luyện, một người thợ không có gì phải xấu hổ, một người thẳng thắn dạy
lời chân lý. 16 Còn những chuyện nhảm nhí, trống rỗng, anh hãy tránh
xa, vì những kẻ nói những chuyện ấy sẽ tiến sâu vào con đường vô luân. 17 Lời
họ như một thứ ung nhọt cứ loét thêm ra. Trong số những người đó có Hy-mê-nê và
Phi-lê-tô. 18 Hai người này đã đi trệch đường chân lý, khi nói rằng
sự phục sinh đã xảy ra rồi và như vậy họ phá đổ đức tin của một số người. 19
Tuy nhiên, nền móng vững chắc Thiên Chúa đã đặt thì tồn tại; trên đó có
ghi tạc lời này: Chúa biết những kẻ thuộc về Người, và Phàm ai kêu cầu danh
Chúa phải tránh xa điều bất chính.
20
Trong
một ngôi nhà lớn, không phải chỉ có những đồ vật bằng vàng bằng bạc, nhưng cũng
có những đồ vật bằng gỗ bằng sành; thứ thì dùng vào việc cao quý, thứ thì dùng
vào việc thấp hèn. 21 Vậy ai thanh tẩy mình cho sạch những điều xấu
nói trên, người đó sẽ là một đồ vật dùng vào việc cao quý, một đồ vật được
thánh hiến, có ích cho chủ, sẵn sàng làm mọi việc lành.
22
Anh
hãy tránh xa các đam mê của tuổi trẻ, cố gắng trở nên người công chính, giàu
lòng tin và lòng mến, ăn ở thuận hoà cùng những ai kêu cầu Chúa với tấm lòng
trong sạch. 23 Còn những tranh luận điên rồ và ngu xuẩn, anh hãy gạt
ra một bên, vì biết rằng những thứ ấy sinh ra cãi cọ. 24 Thế mà
người tôi tớ Chúa thì không được cãi cọ, nhưng phải dịu dàng với mọi người, có
khả năng giảng dạy, biết chịu đựng gian khổ. 25 Người ấy phải lấy
lòng hiền hoà mà giáo dục những kẻ chống đối: biết đâu Thiên Chúa lại chẳng ban
cho họ ơn sám hối để nhận biết chân lý, 26 và họ sẽ tỉnh ngộ, thoát
khỏi cạm bẫy ma quỷ đã dùng để bắt giữ họ và khiến họ làm theo ý nó?
Chương 3
Đề
phòng các nguy hiểm của những thời cuối cùng
1
Anh
hãy biết điều này: vào những ngày sau hết sẽ có những lúc gay go. 2 Quả
thế, người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn,
không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, 3 vô tâm vô
tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, 4 phản
trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa; 5 hình
thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ. Anh hãy
xa lánh cả những người ấy.
6
Thuộc
bọn đó là những kẻ lẻn vào nhà người ta chinh phục thứ đàn bà nhẹ dạ, đầy những
tội lỗi và bị đủ thứ đam mê lôi cuốn, 7 học mãi mà chẳng bao giờ
nhận biết được chân lý. 8 Cũng như Gian-nê và Giam-rê xưa chống lại
ông Mô-sê, thì nay họ cũng chống lại chân lý; họ là hạng người đầu óc lệch lạc,
lòng tin không có gì vững chắc. 9 Nhưng họ sẽ không đi xa hơn được,
vì như trường hợp hai tên kia, mọi người sẽ thấy rõ là họ điên khùng.
10
Phần
anh, anh đã theo sát đạo lý, cách sống, dự định của tôi; anh đã thấy lòng tin,
sự nhẫn nại, lòng yêu mến, sự kiên trì của tôi; 11 anh đã biết những
cơn bắt bớ, những sự đau khổ tôi đã gặp ở An-ti-ô-khi-a, I-cô-ni-ô, Lýt-ra, đã
biết tôi chịu bắt bớ như thế nào. Nhưng Chúa đã giải thoát tôi khỏi tất cả. 12
Vả lại, những ai muốn sống đạo đức trong Đức Ki-tô Giê-su, đều sẽ bị bắt
bớ. 13 Còn hạng người xấu xa và bịp bợm sẽ ngày càng xấu hơn, họ vừa
lừa dối, vừa bị lừa dối.
14
Phần
anh, hãy giữ vững những gì anh đã học được và đã tin chắc. Anh biết anh đã học
với những ai. 15 Và từ thời thơ ấu, anh đã biết Sách Thánh, sách có
thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào Đức Ki-tô
Giê-su. 16 Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa
linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên
công chính. 17 Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được
trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành.
Chương 4
Lời
khuyên nhủ thiết tha
1
Trước
mặt Thiên Chúa và Đức Ki-tô Giê-su, Đấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, Đấng
sẽ xuất hiện và nắm vương quyền, tôi tha thiết khuyên anh: 2 hãy rao
giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện;
hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ. 3
Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh,
nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa
tai muốn nghe. 4 Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng
về những chuyện hoang đường. 5 Phần anh, hãy thận trọng trong mọi
sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu
toàn chức vụ của anh.
Ông
Phao-lô vào cuối đời
6
Còn
tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. 7 Tôi
đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm
tin. 8 Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính;
Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và
không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người
xuất hiện. 9 Anh hãy mau mau đến với tôi, 10 vì anh Đê-ma
đã bỏ tôi, bởi yêu mến thế gian này; anh ta đã đi Thê-xa-lô-ni-ca. Anh
Cơ-rét-xen đã đi sang miền Ga-lát, anh Ti-tô đi sang miền Đan-ma-ti-a. 11 Chỉ
còn một mình anh Lu-ca ở với tôi. Anh hãy đem anh Mác-cô đi với anh, vì anh ấy
rất hữu ích cho công việc phục vụ của tôi. 12 Anh Ty-khi-cô thì tôi
đã sai đi Ê-phê-xô. 13 Cái áo choàng tôi đã để lại nhà anh Các-pô ở
Trô-a, thì khi đến, xin anh đem theo, cũng như các sách vở, nhất là những cuộn
giấy da. 14 A-lê-xan-đê, người thợ rèn, đã gây cho tôi nhiều khốn
khổ; Chúa sẽ cứ việc anh ta làm mà trả báo. 15 Cả anh nữa, cũng hãy
đề phòng anh ta, vì anh ta mạnh mẽ chống lại lời chúng ta rao giảng.
16
Khi
tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã
bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. 17 Nhưng có Chúa đứng bên cạnh,
Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và
tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. 18 Và tôi đã thoát
khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ
cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người vinh hiển
đến muôn thuở muôn đời. A-men.
Lời
chào và lời chúc cuối thư
19
Xin
gửi lời thăm chị Pơ-rít-ca và anh A-qui-la, và gia đình anh Ô-nê-xi-phô-rô. 20
Anh Ê-rát-tô đã ở lại Cô-rin-tô. Còn anh Trô-phi-mô đang đau, tôi đã để
anh ấy ở lại Mi-lê-tô. 21 Anh hãy mau đến trước mùa đông.
Các
anh Êu-bu-lô, Pu-đê, Li-nô, chị Cơ-lau-đi-a và toàn thể anh em gửi lời thăm
anh.
22
Chúa
ở cùng thần trí anh. Chúc anh em được ân sủng.
Ti-tô
Chương 1
Lời
mở đầu và lời chào
1
Tôi
là Phao-lô, tôi tớ của Thiên Chúa và Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô, có nhiệm vụ
đưa những kẻ Thiên Chúa chọn đến đức tin và sự nhận biết chân lý phù hợp với
đạo thánh, 2 với niềm hy vọng được sự sống đời đời mà Thiên Chúa,
Đấng không hề nói dối đã hứa từ thuở đời đời. 3 Vào đúng thời đúng
buổi, Người đã biểu lộ lời Người trong lời rao giảng đã được giao phó cho tôi,
theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta. 4 Tôi gửi lời thăm
anh Ti-tô, người con tôi thực sự sinh ra trong cùng một đức tin chung. Xin
Thiên Chúa là Cha và xin Đức Ki-tô Giê-su, Đấng cứu độ chúng ta, ban cho anh ân
sủng và bình an.
Đặt
các kỳ mục
5
Tôi
đã để anh ở lại đảo Cơ-rê-ta, chính là để anh hoàn thành công việc tổ chức, và
đặt những kỳ mục trong mỗi thành, như tôi đã truyền cho anh. 6 Kỳ
mục phải là người không chê trách được, chỉ có một đời vợ, con cái cũng tin đạo
và không mang tiếng là sống phóng đãng hay bất phục tùng. 7 Thật
vậy, giám quản, với tư cách là quản lý của Thiên Chúa, phải là người không chê
trách được, không ngạo mạn, không nóng tính, không nghiện rượu, không hiếu
chiến, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn; 8 trái lại, phải hiếu khách,
yêu chuộng điều thiện, chừng mực, công chính, thánh thiện, biết tự chủ; 9 người
ấy phải gắn bó với lời đáng tin cậy và đúng đạo lý, để vừa có khả năng dùng
giáo lý lành mạnh mà khuyên nhủ, vừa có khả năng bẻ lại những kẻ chống đối.
Chống
lại những người dạy giáo lý sai lạc
10
Thật
vậy, có nhiều kẻ bất phục tùng, nói năng rỗng tuếch, lường gạt, mà đa số là
những kẻ được cắt bì. 11 Cần phải khoá miệng họ lại. Hạng người đó
làm đảo lộn nhiều gia đình từ trên xuống dưới; vì lợi lộc thấp hèn, họ dạy
những điều không được phép. 12 Một người trong số đó, một ngôn sứ
của chính họ, đã nói: Người Cơ-rê-ta nói dối luôn, họ là thú dữ, ham ăn lại
lười. 13 Lời chứng đó là thật. Vì lý do ấy, anh hãy nghiêm khắc sửa
dạy họ, để họ có một đức tin lành mạnh, 14 không còn chú ý đến những
chuyện hoang đường của người Do-thái và những điều răn dạy của những con người
đã quay lưng lại với chân lý.
15
Mọi
sự đều trong sạch với những người trong sạch. Nhưng với những kẻ nhiễm uế và
không có đức tin, thì không có gì là trong sạch cả; trái lại, trí khôn và lương
tâm của họ đã bị nhiễm uế. 16 Họ tuyên bố là biết Thiên Chúa, nhưng
trong hành động họ lại chối Người. Họ là đồ ghê tởm, không vâng lời, và không
có khả năng làm việc gì tốt.
Chương 2
Bổn
phận của các hạng tín hữu
1
Phần
anh, hãy dạy những gì phù hợp với giáo lý lành mạnh. 2 Hãy khuyên
các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức tin, đức
mến và đức nhẫn nại. 3 Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng là
người thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều
lành.
4
Như
vậy, họ sẽ dạy cho người vợ trẻ biết yêu chồng, thương con, 5 biết
sống chừng mực, trong sạch, chăm lo việc nhà, phục tùng chồng, để lời Thiên
Chúa khỏi bị người ta xúc phạm. 6 Anh cũng hãy khuyên các thanh niên
phải giữ chừng mực trong mọi sự. 7 Chính anh hãy làm gương về mặt
đức hạnh. Khi anh giảng dạy thì đạo lý phải tinh tuyền, thái độ phải đàng hoàng,
8 lời lẽ phải lành mạnh, không ai bắt bẻ được, khiến đối phương phải
bẽ mặt, vì không thể nói xấu chúng ta được điều gì. 9 Các nô lệ phải
phục tùng chủ mình trong mọi sự, làm đẹp lòng chủ và đừng cãi lại, 10 đừng
ăn cắp, nhưng tỏ lòng trung tín hoàn toàn; như vậy là họ làm cho đạo lý của
Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, được rạng rỡ mọi bề.
Nền
tảng thần học của những đòi hỏi trên
11
Quả
thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. 12
Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần
tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. 13 Sở
dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức
Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh
quang. 14 Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho
thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành
Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện.
15
Đó
là những điều anh phải nói, phải khuyên, phải sửa dạy với tất cả uy quyền. Chớ
gì đừng có ai coi thường anh.
Chương 3
Bổn
phận chung của các tín hữu
1
Anh
hãy nhắc nhở cho ai nấy phải phục tùng và tuân lệnh các nhà chức trách, các
người cầm quyền, phải sẵn sàng làm mọi việc tốt, 2 và đừng chửi bới
ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi
người. 3 Thật vậy, cả chúng ta nữa, xưa kia chúng ta cũng ngu xuẩn,
không vâng lời, lầm lạc, làm nô lệ cho đủ thứ đam mê và khoái lạc, sống trong
gian ác và ganh tị, đáng ghét và ghen ghét lẫn nhau.
4
Nhưng
Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương
của Người đối với nhân loại. 5 Không phải vì tự sức mình chúng ta đã
làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu
chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới. 6
Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức
Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ chúng ta. 7 Như vậy, một khi nên công
chính nhờ ân sủng của Đức Ki-tô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như
chúng ta vẫn hy vọng.
Khuyên
riêng ông Ti-tô
8
Đó
là lời đáng tin cậy, và tôi muốn anh đặc biệt nhấn mạnh các điểm ấy, để những
kẻ đã đặt niềm tin vào Thiên Chúa ra sức trổi vượt về những việc tốt đẹp. Đó là
điều tốt đẹp và hữu ích cho người ta.
9
Còn
những cuộc tranh luận điên rồ, những chuyện gia phả, những vụ cãi cọ, xung đột
về Lề Luật, anh hãy tránh xa: những cái đó vô ích và rỗng tuếch. 10 Người
theo bè phái, thì sau khi cảnh cáo lần thứ nhất và lần thứ hai, anh hãy loại đi,
11 vì biết rằng một người như thế đã ra hư đốn, người ấy phạm tội và
tự kết án mình.
Dặn
dò. Lời chào và lời chúc cuối thư
12
Khi
nào tôi sai anh Ác-tê-ma hay anh Ty-khi-cô đến với anh, thì hãy liệu mau đến
với tôi ở Ni-cô-pô-li, vì tôi đã quyết định ở lại đó suốt mùa đông. 13 Anh
hãy lo tiễn đưa luật gia Dê-na và anh A-pô-lô cho chu đáo, đừng để họ phải
thiếu thốn gì. 14 Các anh em của chúng ta cũng phải học cho biết
trổi vượt về những việc tốt đẹp, để đáp ứng những nhu cầu cấp bách; như vậy họ
không phải là không sinh hoa kết quả.
15
Tất
cả những anh em ở với tôi gửi lời thăm anh. Xin gửi lời thăm các bạn hữu cùng
một đức tin như chúng ta. Chúc tất cả anh em được ân sủng.
Phi-lê-mon
Chương 1
Lời
chào thăm
1
Phao-lô,
kẻ bị tù vì Đức Ki-tô Giê-su, cùng với người anh em là Ti-mô-thê, gửi anh
Phi-lê-môn, cộng sự viên thân mến của chúng tôi, 2 cùng chị Áp-phi-a
và anh Ác-khíp-pô, chiến hữu của chúng tôi, đồng thời kính gửi Hội Thánh họp
tại nhà anh. 3 Chúc anh chị em được đầy tràn ân sủng và bình an của
Thiên Chúa, Cha chúng ta, và của Chúa Giê-su Ki-tô.
Tạ
ơn và cầu nguyện
4
Tôi
luôn luôn tạ ơn Thiên Chúa, khi nhớ đến anh trong lời cầu nguyện, 5 bởi
được nghe nói về lòng mến và lòng tin của anh đối với Chúa Giê-su: lòng mến và
lòng tin ấy có ích cho mọi người trong dân thánh. 6 Chớ gì lòng tin
mà anh chia sẻ với chúng tôi trở nên hữu hiệu, giúp anh hiểu biết tất cả những
gì tốt chúng ta có thể làm để phục vụ Đức Ki-tô. 7 Thật thế, tôi rất
vui mừng và lấy làm an ủi, khi thấy đức bác ái của anh, bởi vì, thưa anh, anh
đã làm cho lòng trí các người trong dân thánh được phấn khởi.
Can
thiệp cho Ô-nê-xi-mô
8
Vì
thế, mặc dầu nhờ kết hợp với Đức Ki-tô, tôi có đủ mạnh dạn để truyền cho anh
làm điều anh phải làm. 9 Nhưng tôi thích kêu gọi lòng bác ái của anh
hơn, để xin anh làm điều đó. Tôi, Phao-lô, một người đã già và hơn nữa, một
người đang bị tù vì Đức Ki-tô Giê-su, 10 tôi van xin anh cho đứa con
của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích, đó là Ô-nê-xi-mô, 11
kẻ xưa kia đối với anh là vô dụng, thì nay đã thành người hữu ích cho cả
anh lẫn tôi, 12 tôi xin gửi nó về cho anh; xin anh hãy đón nhận nó
như người ruột thịt của tôi. 13 Phần tôi, tôi cũng muốn giữ nó ở lại
với tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng.
14 Nhưng tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh,
kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không phải tự nguyện. 15 Nó
đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, 16 không
phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một
người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với anh lại càng
thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa. 17
Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó như đón
nhận chính tôi. 18 Nếu nó đã làm thiệt hại anh hoặc mắc nợ anh điều
gì, thì xin để tôi nhận cả. . . 19 Chính tôi, Phao-lô, tự tay viết
điều này: tôi sẽ hoàn trả lại. Tôi khỏi cần nói với anh là anh còn mắc nợ tôi:
món nợ đó là chính anh. 20 Phải, thưa anh, xin anh cho tôi được
hưởng niềm vui đó trong Chúa. Anh hãy làm cho lòng trí tôi được phấn khởi trong
Đức Ki-tô. 21 Tôi viết thư này cho anh với niềm tin tưởng là anh sẽ
nghe theo. Tôi biết rằng anh sẽ còn làm hơn những gì tôi xin nữa.
Những
lời dặn dò, thăm hỏi
22
Đồng
thời, xin anh dọn cho tôi một chỗ ở, bởi vì tôi hy vọng là nhờ lời anh em cầu
nguyện, tôi sẽ được trở về với anh em.
23
Anh
Ê-páp-ra, người bạn tù với tôi trong Đức Ki-tô Giê-su, gửi lời chào anh, 24
cùng với các cộng sự viên của tôi là Mác-cô, A-rít-ta-khô, Đê-ma và
Lu-ca.
25
Cầu
chúc anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô. A-men.
Do Thái
Chương 1
LỜI
TỰA
Địa
vị cao trọng của Con Thiên Chúa làm người
1
Thuở
xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn
sứ; 2 nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta
qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng
thừa hưởng muôn vật muôn loài. 3 Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là
hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng
của mình mà duy trì vạn vật. Sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Người lên ngự bên hữu
Đấng Cao Cả trên trời. 4 Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn
danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu.
I.
CON THIÊN CHÚA CAO TRỌNG HƠN CÁC THIÊN THẦN
Bằng
chứng Kinh Thánh
5
Thật
vậy, có bao giờ Thiên Chúa đã phán cùng vị thiên thần nào: Con là Con của Cha,
ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con hoặc là: Ta sẽ là Cha Người, và chính Người sẽ
là Con Ta. 6 Khi đưa Trưởng Tử vào thế giới loài người, Thiên Chúa
lại nói: Mọi thiên thần của Thiên Chúa, phải thờ lạy Người. 7 Về các
thiên thần, thì có lời chép: Người làm cho thiên thần của Người nên những luồng
gió, và thuộc hạ của Người thành những ngọn lửa. 8 Nhưng về Người
Con, thì Kinh Thánh lại nói: Lạy Thiên Chúa, ngôi báu Ngài sẽ trường tồn vạn
kỷ! Vương trượng Ngài, vương trượng công minh. 9 Ngài ưa điều chính
trực, ghét điều gian ác. Chính vì vậy, Thiên Chúa là Thiên Chúa của Ngài đã tôn
phong Ngài vượt trổi các đồng liêu, mà xức cho dầu thơm hoan lạc. 10 Và
có lời khác: Lạy Chúa, lúc khởi đầu, Chúa đã đặt nền trái đất, chính tay Ngài
tạo tác vòm trời. 11 Chúng tiêu tan, Chúa vẫn còn hoài; chúng đều sẽ
cũ đi như chiếc áo. 12 Chúa sẽ cuốn chúng lại như cuốn áo choàng,
chúng sẽ bị thay như người ta thay áo. Nhưng chính Chúa vẫn tiền hậu y nguyên,
và năm tháng của Ngài sẽ không chấm dứt. 13 Và có bao giờ Thiên Chúa
đã phán với một thiên thần nào rằng: Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi
bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân Con? 14 Nào tất cả các vị đó không
phải là những bậc thiêng liêng chuyên lo phụng thờ Chúa, được sai đi phục vụ để
mưu ích cho những kẻ sẽ được thừa hưởng ơn cứu độ sao?
Chương 2
Lời
khuyên nhủ
1
Vì
thế, chúng ta càng phải chú tâm hơn nữa vào những lời đã nghe, kẻo bị cuốn trôi
đi mất. 2 Quả vậy, nếu lời được các thiên thần loan báo đã có hiệu
lực, và nếu mọi vi phạm cũng như bất tuân đều bị phạt đích đáng, 3 thì
làm sao chúng ta thoát khỏi, nếu chúng ta thờ ơ với ơn cứu độ cao quý như thế?
Ơn cứu độ đó, đầu tiên đã được Chúa rao giảng, rồi được những kẻ nghe cho chúng
ta thấy là có hiệu lực, 4 đồng thời được Thiên Chúa chứng thực bằng
những dấu lạ điềm thiêng, bằng nhiều quyền năng khác nhau và bằng các ân huệ
của Thánh Thần mà Người phân phát tuỳ ý muốn của Người.
Đức
Ki-tô thực hiện công trình cứu chuộc, chứ không phải các thiên thần
5
Thật
vậy, Thiên Chúa đã không trao cho các thiên thần quyền làm chủ thế giới tương
lai, thế giới mà chúng ta đang nói đến. 6 Nhưng trong một đoạn Kinh
Thánh kia, có người đã làm chứng rằng: Phàm nhân là chi mà Chúa cần nhớ đến?
Con người là gì mà Chúa phải thăm nom? 7 Chúa đã làm cho con người thua kém các
thiên thần trong một thời gian ngắn, ban vinh quang, danh dự làm mũ triều thiên,
8 đặt muôn loài, muôn sự dưới chân con người, bắt chúng phải phục
quyền con người. Khi bắt muôn loài muôn sự phải phục quyền con người, Thiên
Chúa không để cho một sự gì không phục quyền con người. Thật ra, hiện nay chúng
ta chưa thấy muôn loài muôn sự phục quyền con người. 9 Nhưng con
người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, thì chúng ta lại
thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì đã cam
chịu tử hình. Con người đó, chính là Đức Giê-su. Thật vậy, Đức Giê-su đã phải
nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa.
10
Quả
thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn
con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giê-su
trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn
cứu độ. 11 Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giê-su, và những ai được
thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em,
12 khi nói: Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả
được hay, và trong đại hội Dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương.
13
Người
lại nói: Phần tôi, tôi sẽ tin cậy Thiên Chúa. Người lại nói: Này tôi đây, cùng
với những con cái mà Thiên Chúa đã ban cho tôi.
14
Như
thế, vì con cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Giê-su đã cùng mang lấy
huyết nhục đó. Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh
chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, 15 và đã giải thoát những ai vì
sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ. 16 Vì những kẻ được
Người giúp đỡ không phải là các thiên thần, mà là con cháu Áp-ra-ham. 17 Bởi
thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một
vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội
cho dân. 18 Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên
Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách.
Chương 3
II.
ĐỨC GIÊ-SU, VỊ THƯỢNG TẾ TRUNG THÀNH VÀ BIẾT CẢM THƯƠNG
Đức
Ki-tô cao trọng hơn ông Mô-sê
1
Do
đó, thưa anh em là những người trong dân thánh, những người được hưởng chung ơn
gọi bởi trời, anh em hãy ngắm nhìn Đức Giê-su là Sứ Giả, là Thượng Tế, là Trung
Gian cho chúng ta tuyên xưng đức tin. 2 Người trung thành với Đấng
đã đặt Người lên chức vụ đó, cũng như ông Mô-sê đã trung thành khi thi hành
chức vụ đối với toàn thể nhà Thiên Chúa. 3 Như người làm nhà đáng
tôn vinh hơn chính ngôi nhà, thì Đức Giê-su cũng được coi là đáng tôn vinh hơn
ông Mô-sê. 4 Quả thật, nhà nào cũng phải có người làm ra, và Đấng
làm ra mọi sự là Thiên Chúa. 5 Ông Mô-sê đã trung thành khi thi hành
chức vụ đối với toàn thể nhà Thiên Chúa, với tư cách là tôi tớ để làm chứng về
các điều Thiên Chúa sẽ phán truyền. 6 Còn Đức Ki-tô thì trung thành
với tư cách là người Con đứng đầu nhà Thiên Chúa. Mà nhà Thiên Chúa là chính
chúng ta, miễn là chúng ta giữ vững đến cùng lòng tin tưởng và thái độ hiên
ngang về niềm hy vọng của chúng ta.
Đức
tin dẫn vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa
7
Vì
thế, như lời Thánh Thần phán: Ngày hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, 8
thì chớ cứng lòng như hồi chúng nổi loạn, như ngày chúng thử thách Ta
trong sa mạc, 9 nơi cha ông các ngươi đã từng dò xét mà thử thách Ta
và đã thấy các việc Ta làm 10 suốt bốn mươi năm. Vì thế, Ta đã nổi giận với
dòng giống này, Ta đã nói: Tâm hồn chúng cứ lầm lạc mãi, chúng nào biết đến
đường lối của Ta. 11 Nên Ta mới thịnh nộ thề rằng: chúng sẽ không
được vào chốn yên nghỉ của Ta! 12 Thưa anh em, hãy đề phòng, đừng để người nào
trong anh em có lòng dạ xấu xa chối bỏ đức tin mà lìa xa Thiên Chúa hằng sống. 13
Trái lại, ngày ngày anh em hãy khuyên bảo nhau bao lâu còn được gọi là
ngày hôm nay, kẻo có ai trong anh em ra cứng lòng vì bị tội lỗi lừa gạt. 14
Quả thế, chúng ta đã được thông phần Đức Ki-tô, miễn là chúng ta cứ giữ
vững cho đến cùng căn bản của lòng tin đã có từ ban đầu. 15 Trong
câu: Ngày hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, thì chớ cứng lòng như hồi
chúng nổi loạn, 16 ai là những kẻ đã nghe tiếng Chúa, rồi nổi loạn?
Chẳng phải là những người đã được ông Mô-sê đưa ra khỏi Ai-cập sao? 17 Thiên
Chúa đã nổi giận với ai suốt bốn mươi năm? Chẳng phải là với những người đã
phạm tội và đã ngã gục, bỏ xác trong sa mạc sao? 18 Nhưng Người thề với ai: Sẽ
không được vào chốn yên nghỉ của Người, nếu không phải là với những kẻ bất
tuân? 19 Và chúng ta thấy rằng họ đã không thể vào được đó, bởi vì họ chối bỏ đức
tin.
Chương 4
1
Vậy
chúng ta phải sợ rằng trong khi lời hứa được vào chốn yên nghỉ của Người vẫn
còn đó, mà có ai trong anh em bị coi đã mất cơ hội. 2 Quả thế, chúng
ta đã được nghe loan báo Tin Mừng như những người kia. Nhưng lời họ đã nghe
không sinh ích gì cho họ, bởi vì những kẻ đã nghe không lấy đức tin đáp lại lời
giảng. 3 Còn chúng ta là những người tin, chúng ta đang vào chốn yên
nghỉ đó, như lời Thiên Chúa đã phán: Nên Ta mới thịnh nộ thề rằng: chúng sẽ
không được vào chốn yên nghỉ của Ta. Công việc của Thiên Chúa đã hoàn thành từ
tạo thiên lập địa, 4 như có chỗ Thiên Chúa phán về ngày thứ bảy
rằng: Khi đã làm xong mọi công việc, thì ngày thứ bảy Thiên Chúa nghỉ. 5 Trong
đoạn thánh vịnh nói trên, lại cũng có lời chép rằng: Chúng sẽ không được vào chốn
yên nghỉ của Ta. 6 Vậy vì phải có một số người được vào chốn yên
nghỉ, và vì những người đầu tiên được nghe loan báo Tin Mừng đã không được vào
bởi họ bất tuân, 7 nên Thiên Chúa lại ấn định một ngày khác, tức là
ngày hôm nay, khi Người dùng vua Đa-vít mà phán, sau một thời gian rất lâu dài,
như đã nói ở trên: Ngày hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, thì chớ cứng
lòng. 8 Thật vậy, nếu ông Giô-suê đã cho họ được yên nghỉ, thì sau
đó, Thiên Chúa đã chẳng nói đến một ngày khác nữa. 9 Như thế, Dân
Thiên Chúa còn có thể được nghỉ như Thiên Chúa nghỉ ngày thứ bảy, 10 vì
ai đã vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa, thì cũng đã nghỉ sau khi làm xong công
việc của mình, như Thiên Chúa đã nghỉ sau khi làm xong công việc của Người. 11
Vậy, chúng ta hãy cố gắng vào chốn yên nghỉ này, kẻo có ai cũng theo
gương bất tuân đó mà sa ngã. 12 Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu
hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh,
cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. 13
Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất
cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ.
Đức
Giê-su, vị Thượng Tế biết cảm thương
14
Chúng
ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giê-su, Con
Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. 15 Vị
Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu
hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng
không phạm tội. 16 Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên
Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.
Chương 5
1
Quả
vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên
làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng
lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. 2 Vị ấy có khả năng cảm thông với
những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; 3
mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng
phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy. 4 Không ai tự gán cho
mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông A-ha-ron đã được gọi. 5
Cũng vậy, không phải Đức Ki-tô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là
Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, 6
như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo
phẩm trật Men-ki-xê-đê. 7 Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã
lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền
năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. 8 Dầu
là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là
vâng phục; 9 và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở
nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, 10 vì
Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.
III.
ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ, VỊ THƯỢNG TẾ ĐÍCH THỰC
Đời
sống Ki-tô hữu và vấn đề đạo lý
11
Về
vấn đề này, chúng tôi còn có nhiều điều phải nói, nhưng khó mà cắt nghĩa, vì
anh em đã trở nên uể oải không muốn nghe. 12 Quả thật, với thời
gian, đáng lẽ anh em đã phải là những bậc thầy, thế mà anh em lại cần phải để
cho người ta dạy anh em những điều sơ đẳng về các sấm ngôn của Thiên Chúa: thay
vì thức ăn đặc, anh em lại phải cần dùng sữa. 13 Thật vậy, phàm ai
còn phải dùng đến sữa, thì không hiểu gì về đạo lý liên quan đến sự công chính,
vì người ấy vẫn là trẻ con. 14 Thức ăn đặc thì dành cho những người
đã trưởng thành, những người nhờ thực hành mà rèn luyện được khả năng phân biệt
điều lành điều dữ.
Chương 6
Ý
định của tác giả
1
Vì
thế, gác một bên giáo huấn sơ đẳng về Đức Ki-tô, chúng ta hãy vươn tới trình độ
giáo huấn trưởng thành mà không trở lại những điều căn bản, là lòng sám hối ăn
năn vì những việc đưa tới sự chết, là niềm tin vào Thiên Chúa, 2 là
giáo lý về mấy loại phép rửa; là nghi thức đặt tay, là vấn đề kẻ chết sống lại
và cuộc phán xét cuối cùng. 3 Đó là điều chúng ta sắp làm, nếu Thiên
Chúa cho phép.
4
Quả
thật, những kẻ đã một lần được chiếu sáng, đã được nếm thử ân huệ bởi trời, đã
được thông chia Thánh Thần, 5 đã được thưởng thức Lời tốt đẹp của
Thiên Chúa và được cảm nghiệm những sức mạnh của thế giới tương lai, 6 những
kẻ ấy mà sa ngã, thì không thể được đổi mới một lần nữa để sám hối ăn năn, vì
họ đã tự tay đóng đinh Con Thiên Chúa vào thập giá một lần nữa và đã công khai
sỉ nhục Người. 7 Khi mảnh đất nào được thấm mưa thường xuyên đổ
xuống và sinh ra những loại cây có ích cho người canh tác, thì mảnh đất ấy nhận
được phúc lành của Thiên Chúa. 8 Nhưng nếu chỉ sinh ra những gai
cùng góc, thì đó là mảnh đất bỏ đi, bị nguyền rủa đến nơi rồi, và rốt cuộc sẽ
bị đốt cháy.
Lời
mang lại hy vọng và khích lệ
9
Anh
em thân mến, mặc dầu nói như thế, chúng tôi tin chắc rằng anh em ở trong một
tình trạng tốt đẹp hơn và thuận lợi để được ơn cứu độ. 10 Quả thế,
Thiên Chúa không bất công đến nỗi quên việc anh em đã làm và lòng yêu mến anh
em đã tỏ ra đối với danh Người, khi trước đấy anh em phục vụ các người trong
dân thánh, và hiện nay vẫn còn đang phục vụ. 11 Nhưng chúng tôi ao
ước cho mỗi người trong anh em cũng tỏ ra nhiệt thành như thế, để niềm hy vọng
của anh em được thực hiện đầy đủ cho đến cùng. 12 Anh em đừng trở
nên uể oải, nhưng hãy bắt chước những người nhờ có đức tin và lòng kiên nhẫn mà
được thừa hưởng các lời hứa.
13
Quả
thế, khi Thiên Chúa hứa với ông Áp-ra-ham, Người đã không thể lấy danh ai cao
trọng hơn mình mà thề, nên đã lấy chính danh mình mà thề 14 rằng: Ta sẽ ban
phúc dư dật cho ngươi và sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông vô số. 15 Như
thế, vì nhẫn nại đợi chờ, ông Áp-ra-ham đã nhận được lời hứa. 16 Người
ta thường lấy danh một người cao trọng hơn mình mà thề, và lời thề là một bảo
đảm chấm dứt mọi tranh chấp giữa người ta với nhau. 17 Do đó, vì
Thiên Chúa muốn chứng minh rõ hơn cho những người thừa hưởng lời hứa được biết
về ý định bất di bất dịch của Người, nên Người đã dùng lời thề mà bảo đảm điều
Người đã hứa. 18 Như vậy, cả lời hứa lẫn lời thề đều bất di bất
dịch, và khi thề hứa, Thiên Chúa không thể nói dối được. Do đó, chúng ta là
những kẻ ẩn náu bên Thiên Chúa, chúng ta được mạnh mẽ khuyến khích nắm giữ niềm
hy vọng dành cho chúng ta. 19 Chúng ta có niềm hy vọng đó cũng tựa
như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn, chìm sâu vào bên trong bức màn
cung thánh. 20 Đó là nơi Đức Giê-su đã vào như người tiền phong mở
đường cho chúng ta, sau khi trở thành vị Thượng Tế đời đời theo phẩm trật
Men-ki-xê-đê.
Chương 7
1.
ĐỨC KI-TÔ CAO TRỌNG HƠN CÁC TƯ TẾ LÊ-VI
Ông
Men-ki-xê-đê
1
Quả
vậy, ông Men-ki-xê-đê là vua Sa-lem, là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao, đã đón
gặp và chúc lành cho ông Áp-ra-ham, lúc ông này đang trên đường về sau khi đánh
bại các vua. 2 Ông Áp-ra-ham đã chia cho ông Men-ki-xê-đê một phần
mười chiến lợi phẩm. Trước hết, ông tên là Men-ki-xê-đê, nghĩa là “vua công
chính"; rồi ông lại là vua Sa-lem, nghĩa là “vua bình an". 3 Ông
không có cha, không có mẹ, không có gia phả, cuộc đời không có khởi đầu, cũng
không có kết thúc. Như thế là ông giống Con Thiên Chúa: mãi mãi ông vẫn là tư
tế.
Ông
Men-ki-xê-đê nhận một phần mười chiến lợi phẩm của ông Áp-ra-ham
4
Anh
em hãy coi xem: ông Men-ki-xê-đê cao trọng biết bao! Ông Áp-ra-ham là tổ phụ,
mà cũng đã dâng cho ông một phần mười chiến lợi phẩm tốt nhất. 5 Trong
hàng con cháu ông Lê-vi, những ai lãnh chức tư tế, thì theo Lề Luật, được lệnh
thu một phần mười hoa lợi của dân, tức là của anh em mình, mặc dù những người
này cũng từ lòng ông Áp-ra-ham mà sinh ra. 6 Còn ông Men-ki-xê-đê,
tuy không thuộc dòng tộc Lê-vi, lại thu một phần mười chiến lợi phẩm của ông
Áp-ra-ham và chúc lành cho ông là người đã nhận được lời hứa. 7 Điều
không ai chối cãi được là chỉ người dưới mới nhận lời chúc lành của người trên.
8 Hơn nữa, một đàng các tư tế Lê-vi thu một phần mười hoa lợi là
những người phàm phải chết; một đàng ông Men-ki-xê-đê, người thu một phần mười
chiến lợi phẩm, lại là nhân vật đang sống, như lời Kinh Thánh chứng nhận. 9
Có thể nói rằng: chính ông Lê-vi, người thu một phần mười hoa lợi, cũng
đã nộp một phần mười chiến lợi phẩm qua ông Áp-ra-ham, 10 vì ông còn
ở trong lòng ông tổ Áp-ra-ham, khi ông Men-ki-xê-đê ra đón gặp ông này.
Từ
chức tư tế Lê-vi đến chức tư tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê
11
Chức
vụ tư tế Lê-vi là nền tảng của Lề Luật Thiên Chúa đã ban cho Dân. Vậy giả như
người ta đạt được sự hoàn thiện nhờ chức vụ tư tế đó rồi, thì còn cần chi phải
đặt lên một tư tế khác theo phẩm trật Men-ki-xê-đê, thay vì theo phẩm trật
A-ha-ron? 12 Quả thế, một khi chức tư tế thay đổi, thì nhất thiết phải thay đổi
Lề Luật. 13 Thật ra những điều nói trên nhắm đến một người thuộc một
chi tộc khác, chi tộc này chưa hề có ai đã phục vụ bàn thờ. 14 Hiển
nhiên là Chúa chúng ta đã xuất thân từ chi tộc Giu-đa, một chi tộc không được
ông Mô-sê nói gì đến, khi bàn về các tư tế.
Bãi
bỏ Lề Luật cũ
15
Điều
ấy lại còn hiển nhiên hơn nữa, khi một vị tư tế khác tương tự như ông
Men-ki-xê-đê xuất hiện; 16 vị này đã trở nên tư tế không phải do Lề
Luật quy định việc cha truyền con nối, nhưng do sức mạnh của một đời sống bất
diệt. 17 Quả thật, có lời chứng nhận rằng: Muôn thuở, Con là Thượng
Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê. 18 Như vậy, một đàng, quy luật cũ đã
bị bãi bỏ, vì có nhược điểm và vô ích, 19-thật thế, Lề Luật đã chẳng làm cho
cái gì nên hoàn hảo-; đàng khác, một niềm hy vọng tốt đẹp hơn đã được đưa vào
thay thế, nhờ đó chúng ta đến gần Thiên Chúa.
Đức
Ki-tô là Thượng Tế đời đời
20
Hơn
nữa, điều ấy đã xảy ra không phải là không có lời thề. Một đàng, các tư tế
Lê-vi đã trở nên tư tế mà không có lời thề; 21 còn Đức Giê-su khi
trở nên tư tế, thì lại có lời thề của Đấng nói với Người: Đức Chúa đã thề ước,
Người sẽ chẳng rút lời, rằng: Muôn thuở, Con là Thượng Tế. 22 Do đó,
Đức Giê-su đã trở nên Đấng bảo đảm cho một giao ước tốt đẹp hơn. 23 Lại
nữa, trong dòng tộc Lê-vi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ
phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó. 24 Còn Đức Giê-su, chính vì
Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi. 25 Do
đó, Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần
Thiên Chúa. Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ.
Vị
Thượng Tế thập toàn
26
Phải,
đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn
toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời. 27
Đức Giê-su không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy
sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Người,
Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. 28 Vì Luật Mô-sê
thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có
sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời.
Chương 8
2.
PHỤNG TỰ, THÁNH ĐIỆN VÀ ĐỊA VỊ TRUNG GIAN CỦA ĐỨC KI-TÔ CAO TRỌNG HƠN
Chức
tư tế mới và thánh điện mới
1
Điểm
chủ yếu trong những điều đang nói ở đây là điểm này: chúng ta có một vị Thượng
Tế cao cả như thế ngự bên hữu ngai Đấng uy linh ở trên trời. 2 Vị đó
lo việc tế tự trong cung thánh, trong lều trại thật, do Thiên Chúa chứ không
phải do người phàm dựng lên. 3 Quả vậy, bất cứ ai được phong làm
thượng tế cũng là để dâng lễ vật và tế phẩm; vì thế, vị này cũng cần phải có
cái gì để dâng. 4 Vậy, giả như Đức Giê-su ở dưới thế, thì Người
chẳng phải là tư tế, bởi vì đã có những người dâng lễ vật như Luật truyền. 5
Những người này lo việc phụng tự trong một thánh điện, mà thánh điện này
chỉ là hình ảnh lu mờ mô phỏng thánh điện trên trời. Quả vậy, khi ông Mô-sê sắp
dựng lều trại, thì ông được Thiên Chúa phán dạy rằng: Hãy nhìn xem và làm tất
cả theo mẫu đã chỉ cho ngươi trên núi.
Đức
Ki-tô, trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn
6
Nhưng
hiện nay, Đức Giê-su được một tác vụ cao trọng hơn, bởi vì Người là trung gian
của một giao ước tốt đẹp hơn; giao ước này căn cứ vào những lời hứa tốt đẹp hơn.
7 Thật vậy, giả như giao ước thứ nhất đã hoàn hảo rồi, thì chẳng cần
phải tìm giao ước thứ hai để thay thế. 8 Quả thật, Thiên Chúa khiển
trách Dân rằng: Đức Chúa phán: Này sắp đến những ngày Ta hoàn thành một Giao
Ước Mới với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa. 9 Giao ước đó sẽ không như
giao ước Ta đã thiết lập với cha ông của chúng, trong ngày Ta cầm tay dẫn chúng
ra khỏi Ai-cập. Bởi vì chúng đã không trung thành với giao ước của Ta, nên Ta
cũng đã bỏ mặc chúng, Đức Chúa phán: 10 Đây là giao ước Ta sẽ lập
với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó, Đức Chúa phán: Ta sẽ ghi vào lòng trí
chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của Ta; Ta sẽ là Thiên Chúa của
chúng, còn chúng sẽ là Dân của Ta. 11 Không ai còn phải dạy đồng bào
mình, không ai còn phải dạy anh em mình rằng: ”Hãy học cho biết Đức Chúa",
vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta. 12 Ta sẽ
dung thứ những điều gian ác chúng làm, sẽ không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng
nữa.
13
Khi
Thiên Chúa nói đến Giao Ước Mới, Người làm cho giao ước thứ nhất hoá ra giao
ước cũ; và cái gì cũ kỹ, lỗi thời, thì sắp tan biến đi.
Chương 9
Đức
Ki-tô tiến vào thánh điện trên trời
1
Vậy,
giao ước thứ nhất đã có những quy luật phụng tự và có thánh điện dưới đất. 2
Quả thật, một cái lều, cái lều thứ nhất, đã được dựng lên; lều này được
gọi là Nơi Thánh, có cây đèn bảy ngọn, có bàn và bánh dâng tiến. 3 Đằng
sau bức màn thứ hai, có một cái lều gọi là Nơi Cực Thánh. 4 Trong
đó, có hương án bằng vàng và Hòm Bia Giao Ước hoàn toàn bọc vàng; Hòm Bia này
chứa bình vàng đựng man-na, cây gậy trổ hoa của ông A-ha-ron và các tấm bia
Giao Ước. 5 Trên Hòm Bia, có hai tượng kê-ru-bim rạng ngời vinh
quang Thiên Chúa, dang cánh che phủ nắp xá tội. Bây giờ không phải là lúc nói
tỉ mỉ về các điều đó.
6
Mọi
sự xếp đặt như thế rồi, các tư tế thường xuyên vào lều thứ nhất để cử hành việc
phụng tự. 7 Còn lều thứ hai, thì chỉ một mình vị thượng tế mới được
vào mỗi năm một lần, đem theo máu để dâng làm của lễ đền tội cho chính mình và
cho dân. 8 Như thế, Thánh Thần tỏ cho biết là lối vào Nơi Cực Thánh
chưa được mở, bao lâu lều thứ nhất vẫn còn đó. 9 Điều ấy là hình ảnh
ám chỉ thời hiện tại, cho thấy những lễ vật và hy lễ dâng tiến Thiên Chúa không
thể làm cho lương tâm người cử hành việc phụng tự trở nên hoàn thiện. 10 Những
cái đó chỉ liên quan đến của ăn thức uống cùng các loại nghi thức tẩy rửa, và
là những quy luật chỉ có hiệu lực bên ngoài, buộc phải giữ cho đến thời Thiên
Chúa chấn chỉnh mọi sự.
11
Nhưng
Đức Ki-tô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung
thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay
con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo này. 12 Người
đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu
của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn
cho chúng ta. 13 Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của
xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là
cho thân xác họ trở nên trong sạch, 14 thì máu của Đức Ki-tô càng
hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Ki-tô đã tự hiến
tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm
chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên
Chúa hằng sống.
Đức
Ki-tô lấy máu mình lập Giao Ước Mới
15
Bởi
vậy, Người là trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc
tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được
Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa. 16
Ở đâu có chúc thư, thì cần phải chứng minh rằng người làm chúc thư đã
chết. 17 Thật vậy, chúc thư chỉ có giá trị khi người làm chúc thư đã
chết, bởi vì chúc thư không bao giờ có hiệu lực bao lâu người làm chúc thư còn
sống. 18 Do đó, nếu không có máu, thì đã không khai mạc giao ước thứ
nhất. 19 Quả thế, sau khi ông Mô-sê công bố cho toàn dân mọi điều
răn như đã ghi chép trong Sách Luật, thì ông lấy máu các con bê, con dê hoà lẫn
với nước, rồi dùng len đỏ thắm và cành hương thảo mà rảy trên chính cuốn Sách
Luật cũng như trên toàn dân và 20 nói: Đây là máu giao ước, Thiên Chúa đã
truyền cho anh em tuân giữ. 21 Rồi, cũng theo cách thức đó, ông rảy
máu vào lều thánh và mọi đồ phụng tự. 22 Chiếu theo Lề Luật, hầu hết
mọi sự đều được thanh tẩy bằng máu. Không có máu đổ ra, thì không có ơn tha thứ.
23 Vậy, nếu các hình ảnh mô phỏng những thực tại trên trời còn cần
phải được thanh tẩy như thế, thì chính những thực tại trên trời đó lại càng
phải được thanh tẩy bằng những hy lễ cao trọng hơn biết mấy. 24 Quả
thế, Đức Ki-tô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung
thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Người đã vào chính cõi
trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta. 25 Người
vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế
mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh. 26 Chẳng
vậy, Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành.
Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu
diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình. 27 Phận con người là phải
chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét. 28 Cũng vậy, Đức Ki-tô đã tự
hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ
hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông
đợi Người.
Chương 10
TÓM
LƯỢC: HY LỄ CỦA ĐỨC KI-TÔ CAO TRỌNG HƠN HY LỄ THEO LuẬT MÔ-SÊ
Hy
lễ theo luật cũ thì vô hiệu
1
Lề
Luật chỉ phác hoạ lờ mờ những phúc lộc của thế giới tương lai, chứ không phản
ánh chính xác những thực tại đó. Cho nên, Lề Luật không bao giờ có thể làm cho
những người tiến lại gần Thiên Chúa được nên hoàn thiện, nhờ những ngần ấy thứ
hy lễ người ta cứ dâng mãi năm này qua năm khác. 2 Chẳng vậy, người
ta đã thôi không còn dâng hy lễ, vì giả như những kẻ làm việc thờ phượng đã
được thanh tẩy dứt khoát rồi, thì họ đâu còn ý thức mình có tội nữa? 3 Trái lại,
năm này qua năm khác, chính những hy lễ đó nhắc cho người ta nhớ mình có tội. 4
Thật thế, máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. 5 Vì
vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng
đã tạo cho con một thân thể. 6 Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu
và lễ xá tội. 7 Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây,
con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.
8
Trước
hết, Đức Ki-tô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng
ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật
truyền. 9 Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài.
Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. 10 Theo ý
đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ
tế, chỉ một lần là đủ.
Hy
lễ của Đức Ki-tô thì hữu hiệu
11
Vị
tư tế nào cũng phải đứng trong Đền Thờ lo việc phụng tự mỗi ngày và dâng đi
dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; mà những lễ tế đó chẳng bao giờ xoá bỏ được
tội lỗi. 12 Còn Đức Ki-tô, sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền tội
cho nhân loại, Người đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời. 13 Và
từ khi đó, Người chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân. 14 Quả
thật, Người chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã
thánh hoá được nên hoàn hảo. 15 Điều đó cả Thánh Thần cũng làm chứng
cho chúng ta thấy. Quả thật, sau khi phán: 16 Đây là giao ước Ta sẽ
lập với chúng sau những ngày đó, thì Đức Chúa phán: Ta sẽ ghi vào tâm khảm
chúng, sẽ khắc vào lòng trí chúng lề luật của Ta. 17 Ta sẽ không còn
nhớ đến lỗi lầm và việc gian ác của chúng nữa. 18 Mà nơi nào đã có
ơn tha tội, thì đâu cần lễ đền tội nữa.
IV.
ĐỨC TIN KIÊN TRÌ
Chuyển
tiếp
19
Vậy,
thưa anh em, nhờ máu Đức Giê-su đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung
thánh. 20 Người đã mở cho chúng ta một con đường mới và sống động
qua bức màn, tức là chính thân xác của Người. 21 Chúng ta lại có một
vị tư tế cao trọng đứng đầu nhà Thiên Chúa. 22 Vì thế, chúng ta hãy
tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì
trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác thì đã
được tắm rửa bằng nước tinh tuyền. 23 Chúng ta hãy tiếp tục tuyên
xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín.
24 Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người này thúc đẩy người
kia sống yêu thương và làm những việc tốt. 25 Chúng ta đừng bỏ các
buổi hội họp, như vài người quen làm; trái lại, phải khuyến khích nhau, nhất là
khi anh em thấy Ngày Chúa đến đã gần.
Nguy
cơ chối đạo
26
Thật
vậy, nếu chúng ta cố tình phạm tội sau khi đã học biết sự thật, thì không còn
hy lễ nào đền tội được nữa, 27 mà chỉ còn phải sợ hãi đợi chờ cuộc
phán xét và ngọn lửa nóng bừng thiêu huỷ các đối tượng của Thiên Chúa. 28 Ai
khinh thường luật Mô-sê, theo lời chứng của hai hay ba người, thì sẽ bị xử tử
thẳng tay. 29 Phương chi kẻ đã chà đạp Con Thiên Chúa, đã xúc phạm
đến Máu Giao Ước đã thánh hiến mình và nhục mạ Thần Khí ban ân sủng, thì anh em
thử nghĩ xem, kẻ ấy đáng chịu hình phạt ghê gớm hơn biết mấy! 30 Vì chúng ta
biết Đấng đã nói: Chính Ta sẽ báo oán, chính Ta sẽ đáp trả. Lại có lời rằng:
Chúa sẽ xét xử Dân Người. 31 Thật là khủng khiếp, khi phải rơi vào
tay Thiên Chúa hằng sống!
Lý
do để kiên trì
32
Xin
anh em nhớ lại những ngày đầu: lúc vừa được ơn chiếu sáng, anh em đã phải đối
phó với bao nỗi đau khổ dồn dập. 33 Khi thì anh em bị sỉ nhục và
hành hạ trước mặt mọi người, khi thì phải liên đới với những người cùng cảnh
ngộ. 34 Quả thật, anh em đã thông phần đau khổ với những người bị tù
tội, và đã vui mừng để cho người ta tước đoạt của cải, bởi biết rằng mình có
những của vừa quý giá hơn lại vừa bền vững. 35 Vậy, anh em đừng đánh
mất lòng tin tưởng mạnh dạn của anh em; lòng tin tưởng đó sẽ mang lại một phần
thưởng lớn lao. 36 Anh em cần phải kiên nhẫn, để sau khi thi hành ý
Thiên Chúa, anh em được hưởng điều Người đã hứa. 37 Vì chỉ còn ít
lâu nữa, một ít thôi, Đấng phải đến sẽ đến, Người sẽ không trì hoãn. 38 Người
công chính của Ta nhờ lòng tin sẽ được sống; nhưng nếu người ấy bỏ cuộc, thì Ta
không hài lòng về người ấy.
39
Phần
chúng ta, chúng ta không phải là những người bỏ cuộc để phải hư vong, nhưng là
những người có lòng tin để bảo toàn sự sống.
Chương 11
Đức
tin gương mẫu của các tổ phụ
1
Đức
tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không
thấy. 2 Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám.
3
Nhờ
đức tin, chúng ta hiểu rằng vũ trụ đã được hình thành bởi lời của Thiên Chúa;
vì thế, những cái hữu hình là do những cái vô hình mà có. 4 Nhờ đức
tin, ông A-ben đã dâng lên Thiên Chúa một hy lễ cao quý hơn hy lễ của ông
Ca-in: nhờ tin như vậy, ông A-ben đã được chứng nhận là người công chính, bởi
vì Thiên Chúa đã chấp nhận những lễ phẩm ông dâng. Và cũng nhờ tin như thế, mà tuy
đã chết rồi, ông vẫn còn lên tiếng.
5
Nhờ
đức tin, ông Kha-nốc được đem đi nơi khác để khỏi chết, và người ta không tìm
thấy ông nữa, bởi vì Thiên Chúa đã đem ông đi. Quả thật, Kinh Thánh chứng nhận
rằng: trước khi được đem đi, ông đã làm đẹp lòng Thiên Chúa. 6 Mà
không có đức tin, thì không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa, vì ai đến gần Thiên
Chúa, thì phải tin là có Thiên Chúa và tin Người là Đấng ban phần thưởng cho
những ai tìm kiếm Người.
7
Nhờ
đức tin, ông Nô-ê được Thiên Chúa báo cho biết những gì người ta chưa thấy; vì
có lòng kính sợ Thiên Chúa, ông đã đóng một chiếc tàu để cứu gia đình ông. Tin
như thế là ông đã lên án thế gian, và được phần gia nghiệp là sự công chính nhờ
đức tin.
8
Nhờ
đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ
được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. 9
Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách, ông
sống trong lều cũng như ông I-xa-ác và ông Gia-cóp là những người đồng thừa kế
cũng một lời hứa, 10 vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính
Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng. 11 Nhờ đức tin, cả bà Xa-ra vốn hiếm
muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà
tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín. 12 Vì thế, do một người duy
nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời
cát biển, không tài nào đếm được. 13 Tất cả các ngài đã chết, lúc
vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ
xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều, là
lữ khách trên mặt đất. 14 Những người nói như vậy cho thấy là họ
đang đi tìm một quê hương. 15 Và nếu quả thật họ còn nhớ tới quê
hương mình đã bỏ ra đi, thì họ vẫn có cơ hội trở về. 16 Nhưng thực
ra các ngài mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi
vậy, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các
ngài, vì Người đã chuẩn bị một thành cho các ngài.
17
Nhờ
đức tin, khi bị thử thách, ông Áp-ra-ham đã hiến tế I-xa-ác; dù đã nhận được
lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một. 18 Về người con này, Thiên
Chúa đã phán bảo: Chính do I-xa-ác mà sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. 19
Quả thật, ông Áp-ra-ham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết
trỗi dậy. Rốt cuộc, ông đã nhận lại người con ấy như là một biểu tượng.
20
Nhờ
đức tin, khi nhìn về tương lai, ông I-xa-ác đã chúc phúc cho Gia-cóp và Ê-xau. 21
Nhờ đức tin, ông Gia-cóp, khi sắp chết, đã chúc phúc cho mỗi người con
ông Giu-se; ông dựa vào đầu gậy, cúi mình xuống sụp lạy. 22 Nhờ đức
tin, ông Giu-se, khi sắp lìa đời, đã nhắc lại cuộc xuất hành của con cái
Ít-ra-en và ra chỉ thị liên quan đến hài cốt của ông.
23
Nhờ
đức tin, lúc chào đời, ông Mô-sê đã được cha mẹ giấu đi ba tháng, bởi vì ông bà
thấy đứa trẻ khôi ngô, và không sợ sắc chỉ nhà vua. 24 Nhờ đức tin,
ông Mô-sê, khi lớn lên đã từ chối không chịu cho người ta gọi là con của công
chúa Pha-ra-ô; 25 ông thà cùng chịu ngược đãi với Dân Thiên Chúa còn
hơn là được hưởng cái sung sướng chóng qua do tội lỗi mang lại; 26 ông
coi sự ô nhục của người được xức dầu là của cải quý báu hơn các kho tàng của
người Ai-cập, vì mắt ông vẫn đăm đăm nhìn phần thưởng mai sau. 27 Nhờ
đức tin, ông bỏ Ai-cập mà không sợ cơn thịnh nộ của nhà vua; ông vững vàng không
nao núng, như thể xem thấy Đấng vô hình. 28 Nhờ đức tin, ông đã cử
hành lễ Vượt Qua và rảy máu để Thần tiêu diệt khỏi đụng đến các con đầu lòng. 29
Nhờ đức tin, người Do-thái đã băng qua Biển Đỏ như đi trên đất khô, còn
người Ai-cập lại bị chết chìm trong khi tìm cách rượt theo.
30
Nhờ
đức tin, tường thành Giê-ri-khô đã sụp đổ, sau khi dân Ít-ra-en đi vòng quanh
trong bảy ngày. 31 Nhờ đức tin, cô kỹ nữ Ra-kháp đã không phải chết
cùng với quân phản nghịch, vì cô đã hoà nhã tiếp đón những người do thám.
32
Tôi
còn phải nói gì nữa đây? Tôi sợ không có đủ thời giờ để kể truyện các ông
Ghít-ôn, Ba-rắc, Sam-sôn, Gíp-tác, Đa-vít, Sa-mu-en và các ngôn sứ. 33 Nhờ
đức tin, các vị này đã chinh phục các nước, thực hành công lý, đạt được những
gì Thiên Chúa đã hứa; các ngài đã khoá miệng sư tử, 34 dập tắt lửa
hồng mãnh liệt, thoát khỏi lưỡi gươm. Các ngài đã lướt thắng bệnh tật mà trở
nên mạnh mẽ, đã tỏ ra dũng cảm tại chiến trường, và đẩy lui được quân ngoại xâm.
35 Có những phụ nữ đã thấy thân phận mình chết nay sống lại. Có
những người bị tra tấn mà không muốn được giải thoát, để được hưởng một sự sống
lại tốt đẹp hơn. 36 Có những người phải chịu nhạo cười và roi vọt,
hơn nữa còn bị xiềng xích và bỏ tù; 37 họ bị ném đá, bị cưa đôi, bị
chết vì gươm; họ phải lưu lạc, mặc áo da cừu da dê, chịu thiếu thốn, bị áp bức
và hành hạ. 38 Thế gian chẳng xứng với họ! Họ đi lang thang trong
hoang địa, trên núi đồi, trong hang hốc và hầm hố. 39 Nhờ đức tin,
tất cả các nhân vật đó đã được chứng giám, thế mà họ không đạt được những điều
Thiên Chúa đã hứa. 40 Quả thật, Thiên Chúa đã trù liệu cho chúng ta
một phần phúc tốt hơn, nên không muốn cho họ đạt tới hạnh phúc trọn vẹn mà
không có chúng ta.
Chương 12
Gương
sáng của Đức Ki-tô
1
Như
thế, phần chúng ta, được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh,
chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên
trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, 2 mắt hướng về Đức Giê-su là
Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho
mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên
hữu ngai Thiên Chúa. 3 Anh em hãy tưởng nhớ Đấng đã cam chịu để cho
những người tội lỗi chống đối mình như thế, để anh em khỏi sờn lòng nản chí. 4
Quả thật, trong cuộc chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa chống trả đến mức
đổ máu đâu.
Thiên
Chúa lấy tình cha mà giáo dục
5
Anh
em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi,
đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. 6 Vì
Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho
roi cho vọt. 7 Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người
đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người
cha không sửa dạy? 8 Nếu anh em không được sửa dạy như tất cả mọi người, thì
khi đó anh em là con ngoại hôn, chứ không phải là con chính thức. 9 Vả
lại, chúng ta có cha trần thế sửa dạy mà chúng ta vẫn tôn kính, thì chúng ta
lại càng phải tùng phục Cha trên trời để được sống. 10 Cha trần thế
sửa dạy chúng ta trong một thời gian ngắn, và theo sở thích của mình; còn Thiên
Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta, để chúng ta được thông phần vào sự
thánh thiện của Người. 11 Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm
vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như
thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính. 12 Bởi vậy, hãy
làm cho những bàn tay bủn rủn, những đầu gối rã rời, nên mạnh mẽ. 13 Hãy
sửa đường cho thẳng mà đi, để người què khỏi trật bước và hơn nữa, còn được
chữa lành.
Trừng
phạt tội bất trung
14
Anh
em phải cố ăn ở hoà thuận với mọi người, phải gắng trở nên thánh thiện; vì
không có sự thánh thiện, thì không ai sẽ được thấy Chúa. 15 Anh em
phải coi chừng, kẻo có ai lừng khừng mà mất ân sủng của Thiên Chúa, kẻo có ai
trở nên rễ đắng nảy mầm, gây xáo trộn và do đó làm hư hỏng nhiều người. 16
Đừng có ai gian dâm hoặc phàm tục như Ê-xau, kẻ đã vì một món ăn mà bán
quyền trưởng nam. 17 Anh em quá biết: sau này, cho dù muốn được thừa
hưởng lời chúc phúc, anh ta cũng không thể làm thay đổi tình thế, mặc dù đã
khóc lóc van xin.
Hai
giao ước
18
Anh
em đã chẳng tới một quả núi sờ thấy được, có lửa đang cháy, mây mù, bóng tối và
giông tố, 19 có tiếng kèn vang dậy, và tiếng nói thét gầm, khiến
những kẻ nghe phải van xin đừng để lời ấy thốt ra với họ nữa, 20 vì
họ không chịu nổi mệnh lệnh sau đây: Ngay cả thú vật đụng đến núi, cũng phải bị
ném đá. 21 Cảnh tượng hãi hùng đến mức ông Mô-sê phải nói: Tôi kinh
hoàng và run rẩy! 22 Nhưng anh em đã tới núi Xi-on, tới thành đô Thiên Chúa
hằng sống, là Giê-ru-sa-lem trên trời, với con số muôn vàn thiên sứ. Anh em đã
tới dự hội vui, 23 dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa,
là những kẻ đã được ghi tên trên trời. Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét
xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện. 24
Anh em đã tới cùng vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giê-su và được máu
của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu A-ben. 25
Anh em phải coi chừng, chớ từ chối không nghe Đấng phán dạy. Quả thật,
những ai từ chối không nghe Đấng tuyên sấm ở dưới đất đã không thoát khỏi hình
phạt; huống hồ là chúng ta, làm sao chúng ta thoát được, nếu chúng ta quay lưng
lại không chịu nghe Đấng tuyên sấm từ trời! 26 Xưa tiếng Người phán đã làm cho
đất rung chuyển, thì nay Người lại đưa ra lời hứa sau đây: Một lần nữa, Ta sẽ
lay chuyển không những trái đất, mà cả các tầng trời! 27 Những tiếng một lần
nữa cho thấy rằng những sự vật bị rung chuyển sẽ phải thay đổi, bởi vì đã được
làm ra, để những gì không bị rung chuyển được tồn tại. 28 Cho nên,
bởi vì chúng ta được lãnh nhận một vương quốc vững bền không lay chuyển, chúng
ta phải biết ơn Thiên Chúa. Với lòng biết ơn đó, chúng ta hãy kính sợ mà phụng
thờ Thiên Chúa cho đẹp lòng Người. 29 Quả thật, Thiên Chúa chúng ta
là một ngọn lửa thiêu.
Chương 13
DẶN
BẢO THÊM
Lời
nhắn nhủ cuối cùng
1
Anh
em hãy giữ mãi tình huynh đệ. 2 Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách,
vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết. 3
Anh em hãy nhớ đến các người bị xiềng xích, chẳng khác gì anh em cũng bị
xiềng xích với họ; anh em hãy nhớ đến những người bị hành hạ, chẳng khác gì
mình với họ chỉ là một thân thể. 4 Ai nấy phải tôn trọng hôn nhân,
chớ làm cho loan phòng ra ô uế, vì Thiên Chúa sẽ xét xử các kẻ gian dâm và
ngoại tình. 5 Trong cách ăn nết ở, anh em đừng có ham tiền, hãy coi
những gì mình đang có là đủ, vì Thiên Chúa đã phán: Ta sẽ không bỏ rơi ngươi,
Ta sẽ không ruồng bỏ ngươi!, 6 đến nỗi chúng ta có thể tin tưởng mà
nói: Có Chúa ở cùng tôi mà bênh đỡ, tôi chẳng sợ gì. Hỏi người đời làm chi tôi
được?
Về
lòng trung thành
7
Anh
em hãy nhớ đến những người lãnh đạo đã giảng lời Chúa cho anh em. Hãy nhìn xem
cuộc đời họ kết thúc thế nào mà noi theo lòng tin của họ. 8 Đức
Giê-su Ki-tô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời.
9 Đừng để cho đủ thứ học thuyết xa lạ mê hoặc anh em. Điều tốt là
củng cố tâm hồn bằng ân sủng, chứ không phải bằng đồ ăn thức uống, là những thứ
chẳng sinh ích gì cho những người giữ luật Mô-sê về chuyện ăn uống. 10 Chúng
ta có một bàn thờ; những gì dâng trên đó, các người lo việc phụng tự trong Lều
không có quyền ăn. 11 Vị thượng tế mang máu thú vật vào cung thánh
để dâng làm của lễ đền tội; nhưng thây các thú vật đó đều bị thiêu ở ngoài trại.
12 Vì thế, Đức Giê-su đã chịu khổ hình ngoài cửa thành, lấy máu mình
mà thánh hoá toàn dân. 13 Vậy ta hãy ra khỏi trại mà đến với Người,
cam lòng gánh vác nỗi khổ nhục Người đã chịu. 14 Vì trên đời này,
chúng ta không có thành trì bền vững, nhưng đang tìm kiếm thành trì tương lai. 15
Vậy nhờ Người, chúng ta hãy luôn luôn dùng lời ngợi khen làm lễ tế dâng
lên Thiên Chúa, tức là dùng miệng lưỡi mà ca tụng Danh Thánh. 16 Anh
em chớ quên làm việc từ thiện, giúp đỡ lẫn nhau, vì Thiên Chúa ưa thích những
hy lễ như thế.
Vâng
phục các vị lãnh đạo tinh thần
17
Anh
em hãy vâng lời những người lãnh đạo anh em và hãy phục tùng họ, vì họ chăm sóc
linh hồn anh em như những người sẽ phải trả lẽ với Thiên Chúa. Như thế, họ sẽ
vui vẻ thi hành phận sự của mình mà không than thở, bởi vì điều đó chẳng ích gì
cho anh em. 18 Xin anh em cầu nguyện cho chúng tôi. Chúng tôi tin
rằng chúng tôi có lương tâm ngay lành, muốn ăn ở tốt trong mọi hoàn cảnh. 19
Tôi tha thiết khuyên anh em làm như thế, để tôi được sớm trở về với anh
em.
Tin
tức. Lời chào cuối thư
20
Thiên
Chúa là nguồn mạch bình an đã đưa Đức Giê-su, Chúa chúng ta ra khỏi cái chết.
Đức Giê-su là vị Mục Tử cao cả của đoàn chiên, là Đấng đã đổ máu mình ra để
thiết lập giao ước vĩnh cửu. 21 Xin Thiên Chúa ban cho anh em mọi ơn
lành để có sức thi hành thánh ý Người. Xin Người thực hiện nơi anh em điều đẹp
lòng Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. Kính dâng Đức Ki-tô vinh quang đến muôn thuở
muôn đời. A-men.
22
Thưa
anh em, tôi xin anh em chịu khó nghe lời khuyên này. Vả lại, tôi chỉ viết cho
anh em vắn tắt thôi. 23 Xin báo cho anh em biết: Ti-mô-thê, người
anh em của chúng ta, đã được thả rồi. Nếu anh ấy đến đây sớm, thì tôi sẽ cùng
với anh đến gặp anh em. 24 Xin gửi lời chào các vị lãnh đạo anh em
và mọi người trong dân thánh. Những người từ I-ta-li-a gửi lời chào anh em. 25
Chúc tất cả anh em được đầy tràn ân sủng của Thiên Chúa!
Gia-cô-bê
Chương 1
Lời
chào thăm
1
Tôi
là Gia-cô-bê, tôi tớ của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô, kính gửi mười hai
chi tộc đang sống tản mác khắp nơi. Chúc anh em được an vui mạnh khoẻ!
Ích
lợi của thử thách
2
Thưa
anh em, anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách
trăm chiều. 3 Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới
sinh ra lòng kiên nhẫn. 4 Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó
ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách,
không thiếu sót điều gì.
Cầu
xin với lòng tin
5
Nếu
ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban
cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách. 6 Nhưng
người ấy phải cầu xin với lòng tin không chút do dự, vì kẻ do dự thì giống như
sóng biển bị gió đẩy lên vật xuống. 7 Người ấy đừng tưởng mình sẽ
nhận được cái gì của Chúa: 8 họ là kẻ hai lòng, hay thay đổi trong
mọi việc họ làm.
Số
phận người giàu
9
Người
anh em phận hèn hãy tự hào khi được Chúa nâng lên; 10 còn người giàu
có hãy tự hào khi bị Chúa hạ xuống, vì họ sẽ qua đi như hoa cỏ. 11 Quả
thế, mặt trời mọc lên toả ra sức nóng làm cho cỏ khô, khiến hoa rụng xuống, vẻ
đẹp tiêu tan. Người giàu có cũng sẽ héo tàn như vậy trong các việc họ làm.
Thử
thách
12
Phúc
thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện,
họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người.
13
Khi
bị cám dỗ, đừng ai nói: ”Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ", vì Thiên Chúa không
thể bị cám dỗ làm điều xấu, và chính Người cũng không cám dỗ ai. 14 Nhưng
mỗi người có bị cám dỗ, là do dục vọng của mình lôi cuốn và dùng mồi mà bắt. 15
Rồi một khi dục vọng đã cưu mang thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi,
thì sinh ra cái chết.
Lãnh
nhận và thực hành Lời Chúa
16
Anh
em thân mến của tôi, anh em đừng có lầm lẫn. 17 Mọi ơn lành và mọi
phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn
tinh tú; nơi Người không hề có sự thay đổi, cũng không hề có sự chuyển vần khi
tối khi sáng. 18 Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta,
để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người.
19
Anh
em thân mến của tôi, anh em nên biết rằng: mỗi người phải mau nghe, đừng vội
nói, và khoan giận, 20 vì khi nóng giận, con người không thực thi
đường lối công chính của Thiên Chúa. 21 Vì vậy, anh em hãy giũ sạch
mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan tràn; hãy khiêm tốn đón nhận lời đã
được gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em.
22
Anh
em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. 23
Thật vậy, ai lắng nghe Lời Chúa mà không thực hành, thì giống như người
soi gương thấy khuôn mặt tự nhiên của mình. 24 Người ấy soi gương
rồi đi, và quên ngay không nhớ mặt mình thế nào. 25 Ai thiết tha và
trung thành tuân giữ luật trọn hảo-luật mang lại tự do-, ai thi hành luật Chúa,
chứ không nghe qua rồi bỏ, thì sẽ tìm được hạnh phúc trong mọi việc mình làm.
26
Ai
cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ
là thứ đạo đức hão. 27 Có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố
trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và
giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian.
Chương 2
Phải
kính trọng người nghèo
1
Thưa
anh em, anh em đã tin vào Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang,
thì đừng đối xử thiên tư. 2 Quả vậy, giả như có một người bước vào
nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người
nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, 3 mà anh em kính cẩn nhìn
người ăn mặc lộng lẫy và nói: ”Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này", còn
với người nghèo, anh em lại nói: ”Đứng đó!” hoặc: ”Ngồi dưới bệ chân tôi đây!”,
4 thì anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy
tà tâm đó sao?
5
Anh
em thân mến của tôi, anh em hãy nghe đây: nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ
nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng
vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao? 6 Thế mà anh em,
anh em lại khinh dể người nghèo! Chẳng phải những người giàu áp bức anh em đó
sao? Chẳng phải họ lôi anh em ra toà đó sao? 7 Chẳng phải họ nói xúc phạm đến
Danh Thánh cao đẹp mà anh em được mang đó sao? 8 Đã hẳn, anh em làm điều tốt,
nếu anh em chu toàn luật Kinh Thánh đưa lên hàng đầu: Ngươi phải yêu người thân
cận như chính mình. 9 Nhưng nếu anh em đối xử thiên tư, thì anh em
phạm một tội và bị Lề Luật kết án là kẻ vi phạm.
10
Quả
thế, ai tuân giữ tất cả Lề Luật, mà chỉ sa ngã về một điểm thôi, thì cũng thành
người có tội về hết mọi điểm. 11 Thật vậy, Đấng đã phán: Ngươi không
được ngoại tình, cũng đã phán: Ngươi không được giết người. Vậy nếu bạn không
ngoại tình, nhưng lại giết người, thì bạn cũng thành kẻ vi phạm Lề Luật. 12
Anh em hãy nói năng và hành động như những người sẽ bị xét xử theo luật
tự do. 13 Vì Thiên Chúa không thương xót khi xét xử kẻ không biết
thương xót. Còn ai thương xót, thì chẳng quan tâm đến việc xét xử.
Đức
tin và hành động
14
Thưa
anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có
ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? 15 Giả như có người anh em
hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, 16 mà
có ai trong anh em lại nói với họ: ”Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho
no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích
lợi gì?
17
Cũng
vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. 18 Đàng
khác, có người sẽ bảo: ”Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử
cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để
cho bạn thấy thế nào là tin. 19 Bạn tin rằng chỉ có một Thiên Chúa
duy nhất. Bạn làm phải. Cả ma quỷ cũng tin như thế, và chúng run sợ.” 20 Hỡi
người đầu óc rỗng tuếch, bạn có muốn biết rằng đức tin không có hành động là vô
dụng không? 21 Ông Áp-ra-ham tổ phụ chúng ta, đã chẳng được nên công chính nhờ
hành động, khi ông hiến dâng con mình là I-xa-ác trên bàn thờ đó sao? 22 Bạn
thấy đó: đức tin hợp tác với hành động của ông, và nhờ hành động mà đức tin nên
hoàn hảo. 23 Như thế ứng nghiệm lời Kinh Thánh đã chép: Ông
Áp-ra-ham tin Thiên Chúa, và vì thế Thiên Chúa kể ông là người công chính và
ông được gọi là bạn của Thiên Chúa.
24
Anh
em thấy đó, nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ
nhờ đức tin mà thôi. 25 Ra-kháp, cô gái điếm cũng vậy: há chẳng phải
nhờ hành động mà đã được nên công chính, vì đã đón tiếp các sứ giả và đưa họ đi
lối khác sao? 26 Thật thế, một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng
vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.
Chương 3
Kiềm
chế miệng lưỡi
1
Thưa
anh em, đừng có nhiều người trong anh em ham làm thầy thiên hạ, vì anh em biết
rằng chúng ta sẽ bị xét xử nghiêm khắc hơn. 2 Thật vậy, tất cả chúng
ta thường hay vấp ngã.
3
Nếu
ta tra hàm thiếc vào miệng ngựa để bắt chúng vâng lời, thì ta điều khiển được
toàn thân chúng. 4 Anh em cũng hãy nhìn xem tàu bè: dù nó có to lớn,
và có bị cuồng phong đẩy mạnh thế nào đi nữa, thì cũng chỉ cần một bánh lái rất
nhỏ để điều khiển theo ý của người lái. 5 Cái lưỡi cũng vậy: nó là
một bộ phận nhỏ bé của thân thể, mà lại huênh hoang làm được những chuyện to
lớn. Cứ xem tia lửa nhỏ bé dường nào, mà làm bốc cháy đám rừng to lớn biết bao!
6 Cái lưỡi cũng là một ngọn lửa, là cả một thế giới của sự ác. Cái lưỡi có một
vị trí giữa các bộ phận của thân thể chúng ta, nó làm cho toàn thân bị ô nhiễm,
đốt cháy bánh xe cuộc đời, vì chính nó bị lửa hoả ngục đốt cháy. 7 Thật
thế, mọi loài thú vật và chim chóc, loài bò sát và cá biển, thì loài người đều
có thể chế ngự và đã chế ngự được. 8 Nhưng cái lưỡi thì không ai chế
ngự được: nó là một sự dữ không bao giờ ở yên, vì nó chứa đầy nọc độc giết
người. 9 Ta dùng lưỡi mà chúc tụng Chúa là Cha chúng ta, ta cũng
dùng lưỡi mà nguyền rủa những con người đã được làm ra theo hình ảnh Thiên Chúa.
10 Từ cùng một cái miệng, phát xuất lời chúc tụng và lời nguyền rủa.
Thưa anh em, như vậy thì không được. 11 Chẳng lẽ một mạch nước lại
có thể phun ra, từ một nguồn, cả nước ngọt lẫn nước chua sao? 12 Thưa anh em,
làm sao cây vả lại có thể sinh ra trái ô-liu, hoặc cây nho sinh trái vả? Nước
mặn cũng không thể sinh ra nước ngọt.
Khôn
ngoan thật và khôn ngoan giả
13
Trong
anh em, ai là người khôn ngoan hiểu biết? Người ấy hãy dùng lối sống tốt đẹp mà
chứng tỏ rằng: những hành động của họ phát xuất từ lòng hiền hậu và đức khôn
ngoan. 14 Nhưng nếu trong lòng anh em có sự ghen tương, chua chát và
tranh chấp, thì anh em đừng có tự cao tự đại mà nói dối, trái với sự thật. 15
Sự khôn ngoan đó không phải từ trời cao ban xuống, nhưng là sự khôn ngoan
của thế gian, của con người tự nhiên, của ma quỷ. 16 Thật vậy, ở đâu
có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa. 17
Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết,
sau là hiếu hoà, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái
tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình. 18 Người xây dựng hoà bình
thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, là cuộc đời công chính.
Chương 4
Tránh
những mối bất hoà
1
Bởi
đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính
những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? 2 Thật
vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng
chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau. Anh em không
có, là vì anh em không xin; 3 anh em xin mà không được, là vì anh em
xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc.
4
Hỡi
những kẻ ngoại tình, các người không biết rằng: yêu thế gian là ghét Thiên Chúa
sao? Vậy ai muốn là bạn của thế gian thì tự coi mình là thù địch của Thiên Chúa.
5 Hay các người nghĩ rằng lời Kinh Thánh sau đây là vô nghĩa: Thần
Khí mà Thiên Chúa đã đặt trong chúng ta, ước muốn đến phát ghen lên? 6 Nhưng ân
sủng Người ban còn mạnh hơn; vì thế, có lời Kinh Thánh nói: Thiên Chúa chống
lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường. 7 Anh em hãy
phục tùng Thiên Chúa. Hãy chống lại ma quỷ; chúng sẽ chạy xa anh em. 8 Hãy
đến gần Thiên Chúa, Người sẽ đến gần anh em. Hỡi tội nhân, hãy rửa tay cho
sạch; hỡi kẻ hai lòng, hãy tẩy luyện tâm can. 9 Hãy cảm cho thấu nỗi
khốn cùng của anh em, hãy khóc lóc than van. Chớ gì tiếng cười của anh em biến
thành tiếng khóc, niềm vui của anh em đổi ra nỗi buồn. 10 Anh em hãy
hạ mình xuống trước mặt Chúa và Người sẽ cất nhắc anh em lên.
11
Thưa
anh em, anh em đừng nói xấu nhau. Ai nói xấu hoặc xét đoán anh em mình là nói
xấu và xét đoán Lề Luật. Nếu anh xét đoán Lề Luật, thì anh không còn là kẻ vâng
giữ, mà là kẻ xét đoán Lề Luật. 12 Chỉ có một Đấng ra Lề Luật và xét
xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn anh là ai mà dám xét đoán
người thân cận?
Cảnh
cáo người giàu
13
Bây
giờ, hãy nghe tôi, những kẻ nói: ”Hôm nay hoặc ngày mai, chúng ta sẽ đi đến
thành nọ thành kia, sẽ ở lại đó một năm và buôn bán kiếm lời". 14 Trong
khi các người không biết cuộc đời mình ngày mai sẽ ra sao. Thật vậy, các người
chỉ là hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi. 15 Thay
vì nói: ”Nếu Chúa muốn, chúng ta sẽ sống và làm điều nọ điều kia", 16
thì các người lại tự phụ vì những chuyện khoác lác của mình. Mọi thứ tự
phụ như thế đều xấu. 17 Vậy kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu
làm thì mắc tội.
Chương 5
1
Giờ
đây, hỡi những kẻ giàu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai hoạ sắp
đổ xuống trên đầu các người. 2 Tài sản của các người đã hư nát, quần
áo của các người đã bị mối ăn. 3 Vàng bạc của các người đã bị rỉ
sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người; nó sẽ như lửa thiêu
huỷ xác thịt các người. Các người đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này. 4
Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa
trong ruộng của các người. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người,
và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh. 5 Trên
cõi đất này, các người đã sống xa hoa, đã buông theo khoái lạc, lòng các người
đã được no đầy thoả mãn trong ngày sát hại. 6 Các người đã kết án,
đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các người.
Ngày
Chúa quang lâm
7
Thưa
anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông,
họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu
mùa lẫn mưa cuối mùa. 8 Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm
vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới. 9 Thưa anh em, anh em
đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng
ngoài cửa. 10 Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh
em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa. 11 Kìa
xem: chúng ta tuyên bố: phúc thay những kẻ đã có lòng kiên trì! Anh em đã nghe
nói đến lòng kiên trì của ông Gióp và đã thấy mục đích Chúa nhắm, vì Chúa là
Đấng từ bi nhân hậu.
Những
lời khuyên cuối cùng
12
Nhưng,
thưa anh em, trước hết, đừng có thề, dù là lấy trời, lấy đất, hay lấy cái gì
khác mà thề. Nhưng hễ”có" thì phải nói”có",”không" thì phải
nói”không", như thế, anh em sẽ không bị xét xử.
13
Ai
trong anh em đau khổ ư? Người ấy hãy cầu nguyện. Ai vui vẻ chăng? Người ấy hãy
hát thánh ca. 14 Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ
mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh
Chúa. 15 Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được
Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha. 16 Anh
em hãy thú tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để được cứu thoát. Vì lời cầu
xin tha thiết của người công chính rất có hiệu lực. 17 Ông Ê-li-a
xưa cũng là người cùng chung một thân phận như chúng ta; ông đã tha thiết cầu
xin cho đừng có mưa, thì đã không có mưa xuống trên mặt đất suốt ba năm sáu
tháng. 18 Rồi ông lại cầu xin, thì trời liền mưa xuống và đất đã trổ
sinh hoa trái.
19
Thưa
anh em, nếu có người nào trong anh em lạc xa chân lý và có ai đưa người ấy trở
về, 20 thì anh em hãy biết rằng: kẻ nào làm cho một tội nhân bỏ
đường lầm lạc mà trở về, thì cứu được linh hồn ấy khỏi chết và che lấp được
muôn vàn tội lỗi của mình.
Phê-rô 1
Chương 1
Lời
mở đầu và lời chào
1
Tôi
là Phê-rô, Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô, kính gửi những người được Thiên Chúa
kén chọn, những khách lữ hành đang sống tản mác trong các xứ: Pon-tô, Ga-lát,
Cáp-pa-đô-ki-a, A-xi-a và Bi-thy-ni-a, 2 những người được Thiên Chúa
Cha biết trước và kén chọn, những người được Thần Khí thánh hoá để vâng phục
Đức Giê-su Ki-tô và được máu Người tưới rảy. Chúc anh em được đầy tràn ân sủng
và bình an.
Nhập
đề. Gia tài Thiên Chúa ban
3
Chúc
tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà,
Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức
Giê-su Ki-tô đã từ cõi chết sống lại, 4 để được hưởng gia tài không
thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. Gia tài này dành ở trên trời cho
anh em, 5 là những người, nhờ lòng tin, được Thiên Chúa quyền năng
gìn giữ, hầu được hưởng ơn cứu độ Người đã dành sẵn, và sẽ bày tỏ ra trong thời
sau hết.
Tình
thương và lòng trung tín đối với Đức Ki-tô
6
Trong
thời ấy, anh em sẽ được hân hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu
giữa trăm chiều thử thách. 7 Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức
tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội,- vàng là của phù vân, mà còn phải
chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện
đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự. 8 Tuy
không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính
tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, 9
bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người.
Thần
Khí dùng ngôn sứ mà mặc khải
10
Các
ngôn sứ đã nghiên cứu tìm hiểu ơn cứu độ này, và đã tuyên sấm về ân sủng dành
cho anh em. 11 Thần Khí Đức Ki-tô ở nơi các ngài, đã báo trước những
đau khổ dành cho Đức Ki-tô, và vinh quang đến sau những đau khổ đó, nên các
ngài đã tìm hiểu xem Thần Khí muốn cho thấy việc đó xảy ra vào thời nào, trong
hoàn cảnh nào. 12 Thiên Chúa đã mặc khải cho các ngài biết là các
ngài có phận sự truyền đạt thông điệp ấy, không phải cho chính mình, mà là cho
anh em. Đó là thông điệp mà nay các người giảng Tin Mừng đã loan báo cho anh
em, nhờ tác động của Thánh Thần là Đấng đã được cử đến từ trời. Chính các thiên
thần cũng ước mong được tìm hiểu kỹ lưỡng thông điệp ấy.
Những
đòi hỏi của đời sống mới. Sự thánh thiện của người tân tòng
13
Vì
thế, anh em hãy chuẩn bị lòng trí, hãy tỉnh thức, hãy hoàn toàn đặt niềm trông
cậy vào ân sủng sẽ được mang đến cho anh em trong ngày Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện.
14 Như những người con biết vâng phục, anh em đừng chiều theo những
đam mê trước kia, lúc anh em còn mê muội. 15 Anh em hãy sống thánh
thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, 16 vì
có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh.
17
Thiên
Chúa là Đấng không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử. Vậy
nếu anh em gọi Người là Cha, thì anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời
lữ khách này. 18 Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng
hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do
cha ông anh em truyền lại. 19 Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu
huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Ki-tô. 20 Người là
Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã
xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này. 21 Nhờ Người, anh em
tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người
được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa.
Anh
em được tái sinh nhờ Lời Chúa
22
Nhờ
vâng phục sự thật, anh em đã thanh luyện tâm hồn để thực thi tình huynh đệ chân
thành. Anh em hãy tha thiết yêu mến nhau với tất cả tâm hồn. 23 Vì
anh em đã được tái sinh, không phải do hạt giống mục nát, mà do hạt giống bất
diệt, nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi, 24 vì mọi
phàm nhân đều như cỏ và tất cả vinh quang của họ cũng đều như hoa cỏ; cỏ thì
khô, hoa thì rụng; 25 Lời Chúa vẫn tồn tại đến muôn thuở muôn đời.
Đó chính là Lời đã được loan báo cho anh em như một Tin Mừng.
Chương 2
1
Vậy,
anh em hãy từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả hình và ghen tương cùng
mọi lời nói xấu gièm pha. 2 Như trẻ sơ sinh, anh em hãy khao khát
sữa tinh tuyền là Lời Chúa, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ, 3
nếu anh em đã nghiệm thấy Chúa tốt lành.
Hàng
tư tế mới
4
Anh
em hãy tiến lại gần Đức Ki-tô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã
được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá. 5 Hãy để Thiên Chúa dùng
anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy
để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng
đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. 6 Quả thật, có lời Kinh Thánh
chép: Này đây Ta đặt tại Xi-on một viên đá quý được lựa chọn, làm đá tảng góc
tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng.
7
Vậy
vinh dự cho anh em là những người tin, còn đối với những kẻ không tin, thì viên
đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, 8 và cũng là viên
đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa.
Số phận của họ là như vậy.
9
Còn
anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân
thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã
gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền. 10 Xưa
anh em chưa phải là một dân, nay anh em đã là Dân của Thiên Chúa; xưa anh em
chưa được hưởng lòng thương xót, nay anh em đã được xót thương.
Nhiệm
vụ của tín hữu Chúa Ki-tô. Cách đối xử với dân ngoại
11
Anh
em thân mến, anh em là khách lạ và lữ hành, tôi khuyên anh em hãy tránh xa
những đam mê xác thịt, vốn gây chiến với linh hồn. 12 Anh em hãy ăn
ở ngay lành giữa dân ngoại, để ngay cả khi họ vu khống, coi anh em là người
gian ác, họ cũng thấy các việc lành anh em làm mà tôn vinh Thiên Chúa trong
ngày Người đến viếng thăm.
Bổn
phận đối với các nhà hữu trách
13
Vì
Chúa, anh em hãy tuân phục mọi thể chế do loài người đặt ra: dù là vua, người
nắm quyền tối cao, 14 dù là quan, sứ giả của nhà vua để trừng phạt
kẻ làm điều ác và khen thưởng người làm điều thiện, 15 vì ý muốn của
Thiên Chúa là anh em hãy làm điều thiện để bịt miệng những kẻ ngu xuẩn vô tri. 16
Anh em hãy hành động như những người tự do, không phải như những người
lấy sự tự do làm màn che sự gian ác, nhưng như những tôi tớ của Thiên Chúa. 17
Hãy tôn trọng mọi người, hãy yêu thương anh em, hãy kính sợ Thiên Chúa,
hãy tôn trọng nhà vua.
Bổn
phận đối với chủ
18
Là
gia nhân, anh em hãy tuân phục chủ với tất cả lòng kính sợ, không phải chỉ
những người chủ tốt lành và khoan dung, mà cả những người chủ khắc nghiệt. 19
Thật vậy, chấp nhận những nỗi khổ phải chịu một cách bất công vì lòng tôn
kính Thiên Chúa, thì đó là một ân huệ. 20 Vì nếu có tội mà anh em bị
đánh đập và đành chịu, thì nào có vẻ vang gì? Nếu làm việc lành và phải khổ mà
anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, thì đó là ơn Thiên Chúa ban. 21 Anh
em được Thiên Chúa gọi để sống như thế. Thật vậy, Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì
anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. 22 Người
không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. 23 Bị
nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng
một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình. 24 Tội lỗi của chúng ta,
chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết
đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết
thương mà anh em đã được chữa lành. 25 Quả thật, trước kia anh em
chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng
chăm sóc linh hồn anh em.
Chương 3
Bổn
phận trong đời sống hôn nhân
1
Chị
em là những người vợ, chị em hãy phục tùng chồng, như vậy, dù có những người
chồng không tin Lời Chúa, thì họ cũng sẽ được chinh phục nhờ cách ăn nết ở của
chị em mà không cần chị em phải nói lời nào, 2 vì họ thấy cách ăn
nết ở trinh tiết và cung kính của chị em. 3 Ước chi vẻ duyên dáng
của chị em không hệ tại cái mã bên ngoài như kết tóc, đeo vòng vàng, hay ăn mặc
xa hoa; 4 nhưng là con người nội tâm thầm kín, với đồ trang sức
không bao giờ hư hỏng là tính thuỳ mị, hiền hoà: đó chính là điều quý giá trước
mặt Thiên Chúa. 5 Xưa kia, các phụ nữ thánh thiện là những người
trông cậy vào Thiên Chúa, cũng đã trang điểm như thế; họ đã phục tùng chồng. 6
Như bà Xa-ra, bà đã vâng phục ông Áp-ra-ham, và gọi ông là “ông
chủ". Chị em là con cái của bà, nếu chị em làm điều thiện và không sợ hãi
trước bất cứ nỗi kinh hoàng nào.
7
Cũng
vậy, anh em là những người chồng, trong cuộc sống chung, anh em nên hiểu rằng
đàn bà thuộc phái yếu; hãy tỏ lòng quý trọng vì họ cũng được hưởng sự sống là
hồng ân Chúa ban. Như thế, việc cầu nguyện của anh chị em sẽ không bị ngăn trở.
Bổn
phận của anh em đối với nhau
8
Sau
hết, tất cả anh chị em hãy đồng tâm nhất trí, thông cảm với nhau, hãy yêu
thương nhau như anh em, hãy ăn ở nhân hậu và khiêm tốn. 9 Đừng lấy
ác báo ác, đừng lấy lời nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa, nhưng trái lại, hãy
chúc phúc, vì anh chị em được Thiên Chúa kêu gọi chính là để thừa hưởng lời
chúc phúc. 10 Thật thế, ai là người thiết tha được sống và ước ao
hưởng chuỗi ngày hạnh phúc, thì phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác
điêu ngoa; 11 người ấy phải làm lành lánh dữ, tìm kiếm và theo đuổi
bình an, 12 vì Chúa để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe
tiếng họ kêu xin, nhưng Người ngoảnh mặt đi, không nhìn kẻ làm điều ác.
Bổn
phận của các tín hữu trong cơn bách hại
13
Ai
làm hại được anh em, nếu anh em nhiệt thành làm điều thiện? 14 Mà nếu anh em
chịu khổ vì sống công chính, thì anh em thật có phúc! Đừng sợ những kẻ làm hại anh
em và đừng xao xuyến. 15 Đức Ki-tô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm
Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai
chất vấn về niềm hy vọng của anh em. 16 Nhưng phải trả lời cách hiền
hoà và với sự kính trọng. Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng
anh em vì anh em ăn ở ngay thẳng trong Đức Ki-tô, thì chính họ phải xấu hổ vì
những điều họ vu khống, 17 bởi lẽ thà chịu khổ vì làm việc lành, nếu
đó là ý của Thiên Chúa, còn hơn là vì làm điều ác.
Đức
Ki-tô sống lại và xuống âm phủ
18
Chính
Đức Ki-tô đã chịu chết một lần vì tội lỗi-Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất
lương- hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết
chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh. 19 Người đã đến
rao giảng cho các vong linh bị giam cầm, 20 tức là những người xưa
đã không vâng phục Thiên Chúa, trong thời Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi, nghĩa
là thời ông Nô-ê đóng tàu. Trong con tàu ấy, một số ít, cả thảy là tám người,
được cứu thoát nhờ nước. 21 Nước đó là hình bóng phép rửa nay cứu
thoát anh em. Lãnh nhận phép rửa, không phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác,
mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của
Đức Giê-su Ki-tô, 22 Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên
trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền.
Chương 4
Đoạn
tuyệt với tội lỗi
1
Vậy,
chính vì Đức Ki-tô đã chịu đau khổ trong thân xác, nên anh em cũng phải lấy tư
tưởng này làm khí giới: ai chịu đau khổ trong thân xác thì đoạn tuyệt với tội
lỗi, 2 để bao lâu còn sống trong thân xác, người ấy không theo những
đam mê của con người nữa, mà theo ý muốn của Thiên Chúa. 3 Thật thế,
trong quá khứ anh em đã sống theo sở thích dân ngoại: dâm ô, mê đắm, nhậu nhẹt,
say sưa, chè chén, tin vơ thờ quấy, như vậy là quá đủ rồi. 4 Về điều
đó, họ kinh ngạc vì thấy anh em không cùng chạy ùa theo cuộc sống truỵ lạc ồ ạt
như dòng thác lũ, và họ nói xấu anh em. 5 Họ sẽ phải trả lẽ với Đấng
sắp sửa phán xét người sống và kẻ chết. 6 Quả thật, chính vì thế mà
Tin Mừng đã được loan báo ngay cho cả những kẻ chết, để tuy bị phán xét về phần
xác theo cách nhìn của loài người, họ được sống về phần hồn theo ý định của
Thiên Chúa.
Đợi
chờ ngày Đức Ki-tô quang lâm
7
Thời
cùng tận của vạn vật gần đến rồi. Anh em hãy sống chừng mực và tiết độ để có
thể cầu nguyện được. 8 Trước hết, anh em hãy hết tình yêu thương
nhau, vì lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi. 9 Hãy tiếp đón
nhau mà không lẩm bẩm kêu ca. 10 Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi
người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những
người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. 11 Ai
có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên
Chúa ban. Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su
Ki-tô. Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. A-men.
Phúc
thay ai cùng chịu đau khổ với Đức Ki-tô
12
Anh
em thân mến, anh em đang bị lửa thử thách: đừng ngạc nhiên mà coi đó như một
cái gì khác thường xảy đến cho anh em. 13 Được chia sẻ những đau khổ
của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người
tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ. 14 Nếu bị sỉ nhục vì
danh Đức Ki-tô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là
Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em. 15 Đừng có ai trong anh em
phải chịu khổ vì tội giết người, trộm cắp, làm điều gian ác hoặc dây mình vào
việc người khác; 16 mà nếu có ai phải chịu khổ vì danh hiệu Ki-tô
hữu, thì đừng xấu hổ, nhưng hãy tôn vinh Thiên Chúa vì được mang danh hiệu đó. 17
Bởi lẽ thời phán xét đã đến, bắt đầu từ nhà của Thiên Chúa. Nếu việc đó
bắt đầu từ chúng ta, thì cuối cùng số phận của những kẻ từ chối không chịu tin
vào Tin Mừng của Thiên Chúa sẽ ra sao? 18 Nếu người công chính còn khó được cứu
độ, thì người vô đạo, kẻ tội lỗi sẽ ở đâu? 19 Vì vậy, những ai chịu khổ theo ý
của Thiên Chúa, hãy phó mạng sống mình cho Đấng Tạo Hoá trung thành, và cứ làm
điều thiện.
Chương 5
Những
lời khuyên nhủ bậc kỳ mục
1
Cùng
các bậc kỳ mục trong anh em, tôi xin có mấy lời khuyên nhủ, vì tôi cũng thuộc
hàng kỳ mục, lại là chứng nhân những đau khổ của Đức Ki-tô và được dự phần vinh
quang sắp tỏ hiện trong tương lai. 2 Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên
mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng,
nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc
thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tuỵ. 3 Đừng lấy quyền mà
thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương
sáng cho đoàn chiên. 4 Như thế, khi Vị Mục Tử tối cao xuất hiện, anh
em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát.
Những
lời khuyên nhủ các tín hữu
5
Cũng
vậy, những người trẻ hãy vâng phục các kỳ mục: anh em hãy lấy đức khiêm nhường
mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ
khiêm nhường. 6 Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền
của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định. 7 Mọi
âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em. 8 Anh em hãy
sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét,
rảo quanh tìm mồi cắn xé. 9 Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà
chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một
loại thống khổ như thế. 10 Thiên Chúa là nguồn mọi ân sủng, cũng là
Đấng đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của Người trong Đức Ki-tô. Phần
anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được
nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường. 11 Kính dâng Người
vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. A-men.
Lời
khuyên cuối cùng. Lời chào
12
Nhờ
tay anh Xin-va-nô mà tôi coi là một người anh em trung tín, tôi viết ít lời để
khuyên nhủ anh em và làm chứng rằng đó thật là ân sủng của Thiên Chúa: anh em
hãy sống vững vàng trong ân sủng đó.
13
Hội
Thánh ở Ba-by-lon, cũng được chọn như anh em, và Mác-cô, con tôi, gửi lời chào
anh em.
14
Anh
em hãy hôn chào nhau trong tình yêu thương.
Chúc
tất cả anh em, những người đang sống trong Đức Ki-tô, được bình an.
Phê-rô 3
Chương 1
Lời
mở đầu
1
Tôi
là Si-mê-ôn Phê-rô, tôi tớ và Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô, kính gửi những
người, nhờ sự công chính của Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ
chúng ta, cũng đã lãnh nhận một đức tin quý giá như chúng tôi. 2 Chúc
anh em được đầy tràn ân sủng và bình an, nhờ được biết Thiên Chúa và Đức
Giê-su, Chúa chúng ta.
Lòng
rộng rãi của Thiên Chúa
3
Thật
vậy, Đức Ki-tô đã lấy thần lực của Người mà ban tặng chúng ta tất cả những gì
giúp chúng ta được sống và sống đạo đức, khi Người cho chúng ta biết Đấng đã
dùng vinh quang và sức mạnh của mình mà kêu gọi chúng ta. 4 Nhờ vinh
quang và sức mạnh ấy, Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và
trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa,
sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian.
5
Chính
vì thế, anh em hãy đem tất cả nhiệt tình, làm sao để khi đã có lòng tin thì có
thêm đức độ, có đức độ lại thêm hiểu biết, 6 có hiểu biết lại thêm
tiết độ, có tiết độ lại thêm kiên nhẫn, có kiên nhẫn lại thêm đạo đức, 7 có
đạo đức lại thêm tình huynh đệ, có tình huynh đệ lại thêm bác ái. 8 Thật
vậy, nếu anh em có những đức tính ấy và có dồi dào, thì anh em sẽ không trở nên
những người chẳng làm gì và chẳng làm gì được để biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa
chúng ta. 9 Ai không có những đức tính ấy thì là người đui mù, người
cận thị: kẻ ấy quên rằng mình đã được tẩy sạch các tội xưa đã phạm. 10 Vì
vậy, thưa anh em, anh em đã được Thiên Chúa tuyển chọn và mời gọi, thì hãy cố
gắng hết mình, để làm cho các ơn đó nên vững mạnh. Có thế, anh em sẽ không bao
giờ vấp ngã, 11 và nhờ đó, con đường rộng mở để đón nhận anh em vào
Nước vĩnh cửu của Đức Giê-su Ki-tô là Chúa và là Đấng cứu độ chúng ta.
Lời
chứng của các Tông Đồ
12
Vì
thế, tôi sẽ luôn nhắc cho anh em nhớ lại những điều trên, mặc dầu anh em đã
biết rồi và đang sống vững vàng theo sự thật anh em hiện nắm giữ. 13 Tôi
thiết nghĩ: bao lâu tôi còn sống cuộc đời chóng qua này, tôi phải nhắc nhở để
thức tỉnh anh em, đó là điều phải lẽ, 14 vì biết rằng sắp đến thời
tôi phải bỏ lều này, như Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, cũng đã tỏ cho tôi
biết. 15 Nhưng tôi sẽ cố gắng, để trong mọi trường hợp, sau khi tôi
ra đi, anh em có thể nhớ lại các điều ấy.
16
Thật
vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức
Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện
hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy
phong lẫm liệt của Người. 17 Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha
ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán
với Người: ”Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến". 18 Tiếng
đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi
thánh với Người.
Lời
ngôn sứ
19
Như
vậy chúng tôi lại càng thêm tin tưởng vào lời các ngôn sứ. Anh em chú tâm vào
đó là phải, vì lời ấy như chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối tăm, cho đến khi ngày
bừng sáng và sao mai mọc lên soi chiếu tâm hồn anh em. 20 Nhất là
anh em phải biết điều này: không ai được tự tiện giải thích một lời ngôn sứ nào
trong Sách Thánh. 21 Quả vậy, lời ngôn sứ không bao giờ lại do ý
muốn người phàm, nhưng chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có những người đã nói
theo lệnh của Thiên Chúa.
Chương 2
Các
thầy dạy giả hiệu
1
Trong
dân cũng đã từng xuất hiện những ngôn sứ giả; giữa anh em cũng vậy, sẽ có những
thầy dạy giả hiệu, đó là những kẻ sẽ lén lút đưa vào những tà thuyết dẫn tới
diệt vong. Vì chối bỏ vị Chúa Tể đã chuộc họ về, họ sẽ mau chóng chuốc lấy hoạ
diệt vong. 2 Nhiều người sẽ học đòi các trò dâm đãng của họ, và vì
họ, con đường sự thật sẽ bị phỉ báng. 3 Vì tham lam, họ dùng lời lẽ
gạt gẫm anh em để trục lợi. Án phạt họ đã sẵn sàng từ lâu, và hoạ diệt vong đã
gần kề.
Bài
học của quá khứ
4
Thật
vậy, Thiên Chúa không dung thứ cho các thiên thần có tội, nhưng đã đẩy họ vào
hố Địa Ngục tối tăm, giữ họ để chờ cuộc phán xét. 5 Người không dung
thứ cho thế giới cũ, nhưng khi trút hồng thủy xuống trên thế giới của những kẻ
vô luân, Người đã cứu sống tám mạng, trong số đó có ông Nô-ê, kẻ rao giảng sự
công chính. 6 Người thiêu ra tro các thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra, lên
án huỷ diệt hai thành đó để làm gương cho những kẻ vô luân thời sau; 7 Người
cứu ông Lót, kẻ công chính, đang phải ưu phiền vì nếp sống dâm đãng của những
người phạm pháp. 8 Quả vậy, người công chính đó sống ở giữa họ, mắt
thấy tai nghe những hành vi phi pháp ngày ngày xâu xé tâm hồn công chính của
ông. 9 Như thế Chúa biết cứu những người đạo đức khỏi cơn thử thách,
và giữ những kẻ bất chính để trừng phạt vào ngày phán xét, 10 nhất
là những kẻ vì ham muốn những điều ô uế mà sống theo xác thịt, những kẻ khinh
dể chủ quyền của Chúa.
Hình
phạt tương lai
11
trong
khi các thiên thần, tuy mạnh mẽ và quyền thế hơn, cũng không đưa ra một phán
quyết nào phạm đến các vị đó trước toà Chúa. 12 Còn họ, khác nào
loài vật vô tri vốn sinh ra để bị săn bắt và tiêu diệt, lại nói phạm đến những
điều họ không biết; những loài vật kia bị tiêu diệt làm sao, thì họ cũng sẽ bị
tiêu diệt như vậy: 13 họ đã ăn ở bất chính thì được trả công bằng sự
bất chính. Họ coi việc sống phóng đãng giữa ban ngày như một khoái lạc, họ là
những người đầy khuyết điểm và tỳ ố, thích thú vì những chuyện lừa gạt của
mình, trong lúc vui vẻ với anh em. 14 Nhìn thấy phụ nữ là họ ao ước
ngoại tình, họ phạm tội mãi không chán; họ nhử mồi các tâm hồn nông nổi; lòng
họ đã quen thói tham lam. Thật là những kẻ đáng bị nguyền rủa! 15 Bỏ đường ngay
nẻo chính, họ đã lạc bước theo đường của con ông Bo-xo là Bi-lơ-am, kẻ ưa thích
tiền công bất chính. 16 Nhưng Bi-lơ-am đã bị khiển trách vì hành
động sai trái của mình: một thú vật chở đồ, không biết nói, đã lên tiếng như
người, để ngăn cản cách xử sự điên rồ của ngôn sứ ấy. 17 Họ là suối
không có nước, là mây bị bão cuốn đi; u ám tối tăm là nơi dành cho họ. 18 Miệng
nói những lời huyênh hoang rỗng tuếch, họ dùng những ham muốn xác thịt dâm ô mà
nhử những người vừa thoát tay các kẻ sống trong lầm lạc. 19 Họ hứa
cho những kẻ đó được tự do, nhưng chính họ lại làm nô lệ cho lối sống dẫn đến
hư vong, vì đã thua ai thì phải làm nô lệ người ấy. 20 Thật vậy,
những kẻ đã thoát khỏi những vết nhơ của thế gian, nhờ được biết Chúa Giê-su
Ki-tô, Đấng Cứu Độ, mà lại vướng mắc vào đó một lần nữa và bị thua, thì tình
trạng sau này của họ còn tệ hơn trước. 21 Quả thật, thà họ không
biết đường công chính, còn hơn là khi đã biết rồi, lại lìa bỏ điều răn thánh đã
được truyền cho họ. 22 Điều xảy ra cho họ thật đúng với câu ngạn ngữ
sau đây: Chó mửa ra, chó liền ăn lại; heo tắm xong, heo nhảy vào bùn.
Chương 3
Ngày
của Chúa: các ngôn sứ và Tông Đồ
1
Anh
em thân mến, đây đã là thư thứ hai tôi viết cho anh em; trong cả hai thư, tôi
đều nhắc nhở anh em để gợi lên nơi anh em sự hiểu biết chân thành. 2 Anh
em hãy nhớ lại những điều các thánh ngôn sứ đã nói trước kia, và điều răn của
Chúa, Đấng Cứu Độ, mà các Tông Đồ của anh em đã truyền lại.
Các
thầy dạy giả hiệu
3
Trước
tiên, anh em hãy biết điều này: trong những ngày sau hết, sẽ xuất hiện những kẻ
nhạo báng chê cười, sống theo những đam mê riêng của họ. 4 Họ nói:
”Đâu rồi lời Người hứa sẽ quang lâm? Vì từ ngày các bậc cha ông an nghỉ, mọi sự
vẫn y nguyên như khi trời đất mới được tạo thành.” 5 Thật vậy, họ
không muốn biết rằng từ lâu đã có trời và đất, và đất từ nước mà ra và nhờ nước
mà đứng vững do lời của Thiên Chúa. 6 Cũng vì các nguyên cớ ấy, thế
gian thời đó đã tiêu vong trong cơn hồng thuỷ. 7 Còn trời và đất
hiện nay, cũng chính lời ấy giữ lại, dành cho lửa trong ngày phán xét, ngày
những kẻ vô luân phải diệt vong.
8
Anh
em thân mến, một điều duy nhất, xin anh em đừng quên: đối với Chúa, một ngày ví
thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. 9 Chúa không chậm trễ thực
hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với
anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi
tới chỗ ăn năn hối cải. 10 Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm.
Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và
các công trình trên đó sẽ bị thiêu huỷ.
Lời
kêu gọi sống thánh thiện. Vinh tụng ca
11
Muôn
vật phải tiêu tan như thế, thì anh em phải là những người tốt dường nào, phải
sống đạo đức và thánh thiện biết bao, 12 trong khi mong đợi ngày của
Thiên Chúa và làm cho ngày đó mau đến, ngày mà các tầng trời sẽ bị thiêu huỷ và
ngũ hành sẽ chảy tan ra trong lửa hồng. 13 Nhưng, theo lời Thiên
Chúa hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị.
14
Vì
thế, anh em thân mến, trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho
Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an. 15 Và
anh em hãy biết rằng Chúa chúng ta tỏ lòng kiên nhẫn chính là để anh em được
cứu độ, như ông Phao-lô, người anh em thân mến của chúng ta, đã viết cho anh
em, theo ơn khôn ngoan Thiên Chúa đã ban cho ông. 16 Ông cũng nói
như vậy trong tất cả các thư của ông, khi bàn đến các vấn đề này. Trong các thư
ấy, có những chỗ khó hiểu; những chỗ ấy cũng như những chỗ khác trong Kinh
Thánh, bị những kẻ vô học và nông nổi xuyên tạc, khiến chúng phải chuốc lấy hoạ
diệt vong.
17
Vậy,
anh em thân mến, biết trước như thế, anh em hãy coi chừng kẻo bị những kẻ phạm
pháp và lầm lạc lôi cuốn, mà không còn đứng vững nữa chăng. 18 Nhưng
anh em hãy lớn lên trong ân sủng và trong sự hiểu biết Đức Giê-su Ki-tô là Chúa
và là Đấng Cứu Độ chúng ta. Xin kính dâng Người vinh quang, bây giờ và cho đến
muôn đời. A-men.
Gio-an 1
Chương 1
LỜI
DẪN NHẬP
Ngôi
Lời nhập thể và sự hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con
1
Điều
vẫn có ngay từ lúc khởi đầu,
điều
chúng tôi đã nghe,
điều
chúng tôi đã thấy tận mắt,
điều
chúng tôi đã chiêm ngưỡng,
và
tay chúng tôi đã chạm đến,
đó
là Lời sự sống.
2
Quả
vậy, sự sống đã được tỏ bày,
chúng
tôi đã thấy và làm chứng,
chúng
tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời:
sự
sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha
và
nay đã được tỏ bày cho chúng tôi.
3
Điều
chúng tôi đã thấy và đã nghe,
chúng
tôi loan báo cho cả anh em nữa,
để
chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi,
mà
chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha
và
với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người.
4
Những
điều này, chúng tôi viết ra
để
niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn.
I.
BƯỚC ĐI TRONG ÁNH SÁNG
5
Đây
là lời loan báo của Đức Giê-su Ki-tô mà chúng tôi đã nghe,
và
nay chúng tôi loan báo cho anh em: Thiên Chúa là ánh sáng;
nơi
Người, không có một chút bóng tối nào.
6
Nếu
chúng ta nói là chúng ta hiệp thông với Người
mà
lại đi trong bóng tối, thì chúng ta nói dối
và
không hành động theo sự thật.
7
Nhưng
nếu chúng ta đi trong ánh sáng
cũng
như Thiên Chúa hằng ngự trong ánh sáng,
thì
chúng ta được hiệp thông với nhau,
và
máu Đức Giê-su, Con của Người,
thanh
tẩy chúng ta sạch hết mọi tội lỗi.
Điều
kiện thứ nhất: đoạn tuyệt với tội lỗi
8
Nếu
chúng ta nói là chúng ta không có tội,
chúng
ta tự lừa dối mình,
và
sự thật không ở trong chúng ta.
9
Nếu
chúng ta thú nhận tội lỗi,
Thiên
Chúa là Đấng trung thành và công chính
sẽ
tha tội cho chúng ta,
và
sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính.
10
Nếu
chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội,
thì
chúng ta coi Người là kẻ nói dối,
và
lời của Người không ở trong chúng ta.
Chương 2
1
Hỡi
anh em là những người con bé nhỏ của tôi,
tôi
viết cho anh em những điều này,
để
anh em đừng phạm tội.
Nhưng
nếu ai phạm tội,
thì
chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha:
đó
là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính.
2
Chính
Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta,
không
những tội lỗi chúng ta mà thôi,
nhưng
còn tội lỗi cả thế gian nữa.
Điều
kiện thứ hai: tuân giữ các điều răn, nhất là điều răn bác ái
3
Căn
cứ vào điều này,
chúng
ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa:
là
chúng ta tuân giữ các điều răn của Người.
4
Ai
nói rằng mình biết Người
mà
không tuân giữ các điều răn của Người,
đó
là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy.
5
Còn
hễ ai giữ lời Người dạy,
nơi
kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo.
Căn
cứ vào đó,
chúng
ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa.
6
Ai
nói rằng mình ở lại trong Người,
thì
phải đi trên con đường Đức Giê-su đã đi.
7
Anh
em thân mến, đây không phải là một điều răn mới
tôi
viết cho anh em, nhưng là một điều răn cũ
mà
anh em đã có ngay từ lúc khởi đầu.
Điều
răn cũ ấy là lời mà anh em đã nghe.
8
Nhưng
đó cũng là một điều răn mới
tôi
viết cho anh em,-điều ấy thật là thế
nơi
Đức Giê-su và nơi anh em-,
bởi
vì bóng tối đang qua đi và ánh sáng thật đã tỏ rạng.
9
Ai
nói rằng mình ở trong ánh sáng
mà
lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối.
10
Ai
yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng,
và
nơi người ấy không có gì nên cớ vấp phạm.
11
Nhưng
ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối
và
đi trong bóng tối mà chẳng biết mình đi đâu,
vì
bóng tối đã làm cho mắt người ấy ra mù quáng.
Điều
kiện thứ ba: coi chừng thế gian
12
Hỡi
anh em là những người con bé nhỏ,
tôi
viết cho anh em:
anh
em đã được tha tội nhờ danh Đức Giê-su Ki-tô.
13
Hỡi
các bậc phụ huynh, tôi viết cho anh em:
anh
em biết Đấng vẫn có từ lúc khởi đầu.
Hỡi
các bạn trẻ, tôi viết cho anh em:
anh
em đã thắng ác thần.
14
Hỡi
anh em là những người con thơ bé,
tôi
đã viết cho anh em: anh em biết Chúa Cha.
Hỡi
các bậc phụ huynh, tôi đã viết cho anh em:
anh
em biết Đấng vẫn có từ lúc khởi đầu.
Hỡi
các bạn trẻ, tôi đã viết cho anh em:
anh
em là những người mạnh mẽ;
lời
Thiên Chúa ở lại trong anh em
và
anh em đã thắng ác thần.
15
Anh
em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian.
Kẻ
nào yêu thế gian
thì
nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha,
16
vì
mọi sự trong thế gian: như dục vọng của tính xác thịt,
dục
vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của,
tất
cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha,
nhưng
phát xuất từ thế gian;
17mà
thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó.
Còn
ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi.
Điều
kiện thứ bốn: đề phòng những kẻ Phản Ki-tô
18
Hỡi
anh em là những người con thơ bé,
đây
là giờ cuối cùng.
Anh
em đã nghe biết là tên Phản Ki-tô sẽ đến;
thế
mà giờ đây nhiều tên Phản Ki-tô đã xuất hiện.
Do
đó, chúng ta biết được rằng đây là giờ cuối cùng.
19
Chúng
xuất thân từ hàng ngũ chúng ta,
nhưng
không phải là người của chúng ta;
vì
nếu là người của chúng ta, chúng đã ở lại với chúng ta.
Nhưng
như thế mới rõ:
không
phải ai ai cũng là người của chúng ta.
20
Phần
anh em, anh em nhận được dầu, do tự Đấng Thánh,
và
tất cả anh em đều được ơn hiểu biết.
21
Tôi
đã viết cho anh em,
không
phải vì anh em không biết sự thật,
nhưng
vì anh em biết sự thật,
và
vì không có sự dối trá nào phát xuất từ sự thật.
22
Ai
là kẻ dối trá, nếu không phải là kẻ chối rằng
Đức
Giê-su là Đấng Ki-tô?
Kẻ
ấy là tên Phản Ki-tô,
là
kẻ chối Chúa Cha và Chúa Con.
23
Ai
chối Chúa Con thì cũng không có Chúa Cha;
kẻ
tuyên xưng Chúa Con thì cũng có Chúa Cha.
24
Phần
anh em,
ước
chi điều anh em đã nghe từ lúc khởi đầu
ở
lại trong anh em.
Nếu
điều anh em đã nghe từ lúc khởi đầu
ở
lại trong anh em,
thì
chính anh em sẽ ở lại trong Chúa Con và Chúa Cha.
25
Và
đây là điều
mà
chính Đức Ki-tô đã hứa ban cho chúng ta:
sự
sống đời đời.
26
Tôi
viết cho anh em những điều ấy
để
nói về những kẻ tìm cách
làm
cho anh em đi lạc đường.
27
Phần
anh em,
dầu
mà anh em đã lãnh nhận từ Đức Ki-tô
ở
lại trong anh em,
và
anh em chẳng cần ai dạy dỗ nữa.
Nhưng
vì dầu của Người dạy dỗ anh em mọi sự
-mà
dầu ấy dạy sự thật chứ không phải sự dối trá-,
thì
theo như dầu ấy đã dạy anh em,
anh
em hãy ở lại trong Người.
28
Giờ
đây, hỡi anh em là những người con bé nhỏ,
anh
em hãy ở lại trong Người,
để
khi Người xuất hiện,
chúng
ta được mạnh dạn, chứ không bị xấu hổ,
vì
phải xa cách Người trong ngày Người quang lâm.
II.
SỐNG XỨNG ĐÁNG LÀ CON CÁI THIÊN CHÚA
29
Nếu
anh em biết Thiên Chúa là Đấng Công Chính,
anh
em cũng phải biết rằng: phàm ai sống công chính
thì
đã được Thiên Chúa sinh ra.
Chương 3
1
Anh
em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào:
Người
yêu đến nỗi
cho
chúng ta được gọi là con Thiên Chúa
-mà
thực sự chúng ta là con Thiên Chúa.
Sở
dĩ thế gian không nhận biết chúng ta,
là
vì thế gian đã không biết Người.
2
Anh
em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa;
nhưng
chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ.
Chúng
ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện,
chúng
ta sẽ nên giống như Người,
vì
Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.
Điều
kiện thứ nhất: đoạn tuyệt với tội lỗi
3
Phàm
ai đặt hy vọng như thế vào Đức Ki-tô
thì
làm cho mình nên thanh sạch
như
Người là Đấng thanh sạch.
4
Phàm
ai phạm tội thì cũng chống lại luật Thiên Chúa,
vì
tội lỗi chống lại luật Thiên Chúa.
5
Thế
mà anh em biết: Đức Giê-su đã xuất hiện
để
xoá bỏ tội lỗi, và nơi Người không có tội lỗi.
6
Phàm
ai ở lại trong Người thì không phạm tội.
Còn
ai phạm tội
thì
đã không thấy Người, và cũng chẳng biết Người.
7
Hỡi
anh em là những người con bé nhỏ,
đừng
để ai làm cho anh em đi lạc đường.
Ai
sống công chính, kẻ ấy là người công chính,
như
Đức Giê-su là Đấng Công Chính.
8
Ai
phạm tội, kẻ ấy là người của ma quỷ,
vì
ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu.
Sở
dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện,
là
để phá huỷ công việc của ma quỷ.
9
Phàm
ai đã được Thiên Chúa sinh ra thì không phạm tội,
vì
mầm sống của Thiên Chúa ở lại trong người ấy,
và
người ấy không thể phạm tội,
vì
đã được Thiên Chúa sinh ra.
10
Căn
cứ vào điều này mà người ta phân biệt
con
cái Thiên Chúa với con cái ma quỷ:
phàm
ai không sống công chính
thì
không thuộc về Thiên Chúa;
ai
không yêu thương anh em mình, thì cũng vậy.
Điều
kiện thứ hai: tuân giữ các điều răn, nhất là điều răn bác ái
11
Quả
thế, đây là lời loan báo
anh
em đã nghe từ lúc khởi đầu:
chúng
ta hãy yêu thương nhau;
12
chúng
ta đừng bắt chước Ca-in:
nó
là người của Ác thần, nên đã giết em mình.
Tại
sao nó đã giết em?
Bởi
vì các việc nó làm thì xấu xa,
còn
các việc em nó làm thì công chính.
13
Thưa
anh em, anh em đừng ngạc nhiên,
nếu
thế gian ghét anh em.
14
Chúng
ta biết rằng:
chúng
ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống,
vì
chúng ta yêu thương anh em.
Kẻ
không yêu thương, thì ở lại trong sự chết.
15
Phàm
ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân.
Và
anh em biết: không kẻ sát nhân nào
có
sự sống đời đời ở lại trong nó.
16
Căn
cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì:
đó
là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta.
Như
vậy, cả chúng ta nữa,
chúng
ta cũng phải thí mạng vì anh em.
17
Nếu
ai có của cải thế gian
và
thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu,
mà
chẳng động lòng thương,
thì
làm sao tình yêu Thiên Chúa
ở
lại trong người ấy được?
18
Hỡi
anh em là những người con bé nhỏ,
chúng
ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi,
nhưng
phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.
19
Căn
cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng
chúng
ta đứng về phía sự thật,
và
chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa.
20
Vì
nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta,
Thiên
Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta,
và
Người biết hết mọi sự.
21
Anh
em thân mến,
nếu
lòng chúng ta không cáo tội chúng ta,
chúng
ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa.
22
Và
bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Người ban cho,
bởi
vì chúng ta tuân giữ các điều răn của Người
và
làm những gì đẹp ý Người.
23
Đây
là điều răn của Người: chúng ta phải tin
vào
danh Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người,
và
phải yêu thương nhau,
theo
điều răn Người đã ban cho chúng ta.
24
Ai
tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa
thì
ở lại trong Thiên Chúa
và
Thiên Chúa ở lại trong người ấy.
Căn
cứ vào điều này, chúng ta biết được
Thiên
Chúa ở lại trong chúng ta,
đó
là nhờ Thần Khí,
Thần
Khí Người đã ban cho chúng ta.
Chương 4
Điều
kiện thứ ba: đề phòng thế gian và những ngôn sứ giả
1
Anh
em thân mến, anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin,
nhưng
hãy cân nhắc các thần khí
xem
có phải bởi Thiên Chúa hay không,
vì
đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian.
2
Căn
cứ vào điều này,
anh
em nhận ra thần khí của Thiên Chúa:
thần
khí nào tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô
là
Đấng đã đến và trở nên người phàm,
thì
thần khí ấy bởi Thiên Chúa;
3
còn
thần khí nào không tuyên xưng Đức Giê-su,
thì
không bởi Thiên Chúa;
đó
là thần khí của tên phản Ki-tô.
Anh
em đã nghe nói là nó đang tới,
và
hiện nay nó ở trong thế gian rồi.
4
Hỡi
anh em là những người con bé nhỏ,
anh
em thuộc về Thiên Chúa,
và
anh em đã thắng được các ngôn sứ giả đó,
vì
Đấng ở trong anh em mạnh hơn kẻ ở trong thế gian.
5
Các
ngôn sứ giả đó thuộc về thế gian;
vì
thế, chúng nói theo thế gian, và thế gian nghe chúng.
6
Còn
chúng ta, chúng ta thuộc về Thiên Chúa.
Ai
biết Thiên Chúa thì nghe chúng ta.
Ai
không thuộc về Thiên Chúa thì không nghe chúng ta.
Chúng
ta cứ dựa vào đó mà nhận ra
thần
khí dẫn đến sự thật và thần khí làm cho sai lầm.
III.
NGUỒN MẠCH ĐỨC ÁI VÀ ĐỨC TIN
Nguồn
mạch đức ái
7
Anh
em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau,
vì
tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa.
Phàm
ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra,
và
người ấy biết Thiên Chúa.
8
Ai
không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa,
vì
Thiên Chúa là tình yêu.
9
Tình
yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta
được
biểu lộ như thế này:
Thiên
Chúa đã sai Con Một đến thế gian
để
nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống.
10
Tình
yêu cốt ở điều này:
không
phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa,
nhưng
chính Người đã yêu thương chúng ta,
và
sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.
11
Anh
em thân mến,
nếu
Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế,
chúng
ta cũng phải yêu thương nhau.
12
Thiên
Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ.
Nếu
chúng ta yêu thương nhau,
thì
Thiên Chúa ở lại trong chúng ta,
và
tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo.
13
Căn
cứ vào điều này, chúng ta biết được rằng
chúng
ta ở lại trong Người và Người ở lại trong chúng ta:
đó
là Người đã ban Thần Khí của Người cho chúng ta.
14
Phần
chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng
và
làm chứng rằng: Chúa Cha đã sai Con của Người đến
làm
Đấng cứu độ thế gian.
15
Hễ
ai tuyên xưng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa,
thì
Thiên Chúa ở lại trong người ấy
và
người ấy ở lại trong Thiên Chúa.
16
Còn
chúng ta, chúng ta đã biết
tình
yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó.
Thiên
Chúa là tình yêu:
ai
ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa,
và
Thiên Chúa ở lại trong người ấy.
17
Căn
cứ vào điều này
mà
tình yêu đã nên hoàn hảo với chúng ta:
đó
là chúng ta được mạnh dạn trong ngày phán xét,
vì
Đức Giê-su thế nào
thì
chúng ta cũng như vậy ở thế gian này.
18
Tình
yêu không biết đến sợ hãi;
trái
lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi,
vì
sợ hãi gắn liền với hình phạt
và
ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo.
19
Phần
chúng ta, chúng ta hãy yêu thương,
vì
Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước.
20
Nếu
ai nói: ”Tôi yêu mến Thiên Chúa"
mà
lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối;
vì
ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên
Chúa mà họ không trông thấy.
21
Đây
là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người:
ai
yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình.
Chương 5
1
Phàm
ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô,
kẻ
ấy đã được Thiên Chúa sinh ra.
Và
ai yêu mến Đấng sinh thành,
thì
cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra.
2
Căn
cứ vào điều này, chúng ta biết được
mình
yêu thương con cái Thiên Chúa:
đó
là chúng ta yêu mến Thiên Chúa
và
thi hành các điều răn của Người.
3
Quả
thật, yêu mến Thiên Chúa
là
tuân giữ các điều răn của Người.
Mà
các điều răn của Người có nặng nề gì đâu,
4vì
mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian.
Và
điều làm cho chúng ta thắng được thế gian,
đó
là lòng tin của chúng ta.
Nguồn
mạch đức tin
5
Ai
là kẻ thắng được thế gian,
nếu
không phải là người tin rằng
Đức
Giê-su là Con Thiên Chúa?
6
Chính
Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu;
không
phải chỉ trong nước mà thôi,
nhưng
trong nước và trong máu.
Chính
Thần Khí là chứng nhân,
và
Thần Khí là sự thật.
7
Có
ba chứng nhân:
8
Thần
Khí, nước và máu.
Cả
ba cùng làm chứng một điều.
9
Chúng
ta vẫn nhận lời chứng của người phàm,
thế
mà lời chứng của Thiên Chúa còn cao trọng hơn,
vì
đó là lời chứng của Thiên Chúa,
lời
Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người.
10
Ai
tin vào Con Thiên Chúa,
người
đó có lời chứng ấy nơi mình.
Ai
không tin Thiên Chúa,
thì
coi Thiên Chúa là kẻ nói dối,
vì
kẻ ấy không tin vào lời Thiên Chúa
đã
làm chứng về Con của Người.
11
Lời
chứng đó là thế này:
Thiên
Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời,
và
sự sống ấy ở trong Con của Người.
12
Ai
có Chúa Con thì có sự sống;
ai
không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống.
13
Tôi
đã viết những điều đó cho anh em
là
những người tin vào danh Con Thiên Chúa,
để
anh em biết rằng anh em có sự sống đời đời.
BỔ
TÚC
Cầu
nguyện cho người tội lỗi
14
Lý
do khiến chúng ta được mạnh dạn
trước
mặt Thiên Chúa, đó là:
Người
nhậm lời chúng ta, khi chúng ta xin điều gì hợp ý Người.
15
Nếu
chúng ta biết rằng Người nhậm mọi lời chúng ta xin,
thì
chúng ta cũng biết rằng
chúng
ta sẽ được những gì chúng ta đã xin Người.
16
Nếu
ai biết anh em mình phạm thứ tội
không
đưa đến cái chết, thì hãy cầu xin,
và
Thiên Chúa sẽ ban sự sống cho người anh em ấy;
đó
là nói về những ai phạm thứ tội không đưa đến cái chết.
Có
một thứ tội đưa đến cái chết,
tôi
không bảo phải cầu xin cho thứ tội ấy.
17
Mọi
điều bất chính đều là tội,
nhưng
có một thứ tội không đưa đến cái chết.
Tóm
lược bức thư
18
Chúng
ta biết rằng phàm ai đã được Thiên Chúa sinh ra,
người
đó không phạm tội;
nhưng
có Đấng Thiên Chúa đã sinh ra giữ gìn người ấy,
và
Ác thần không đụng đến người ấy được.
19
Chúng
ta biết rằng chúng ta thuộc về Thiên Chúa,
còn
tất cả thế gian đều nằm dưới ách thống trị của Ác thần.
20
Chúng
ta biết rằng Con Thiên Chúa đã đến
và
ban cho chúng ta trí khôn để biết Thiên Chúa thật.
Chúng
ta ở trong Thiên Chúa thật,
ở
trong Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô.
Đức
Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa thật và là sự sống đời đời.
21
Hỡi
anh em là những người con bé nhỏ,
hãy
tránh xa các tà thần!
Gio-an 2
Chương 1
Lời
chào
1
Tôi
là kỳ mục, kính gửi Bà đã được Thiên Chúa tuyển chọn, và con cái Bà là những
người mà tôi thực sự quý mến; không phải chỉ một mình tôi, mà là tất cả những
ai đã biết sự thật cũng đều quý mến, 2 bởi vì sự thật ở lại trong
chúng ta và sẽ ở với chúng ta mãi mãi. 3 Thiên Chúa là Cha và Đức
Giê-su Ki-tô là Con Chúa Cha sẽ cho chúng ta được hưởng ân sủng, lòng thương
xót và bình an, trong sự thật và tình thương.
Điều
răn yêu thương
4
Tôi
rất vui mừng vì đã gặp thấy trong số con cái của Bà, những người sống trong sự
thật, đúng như điều răn chúng ta đã nhận được từ Chúa Cha. 5 Thưa
Bà, bây giờ tôi xin Bà điều này-đây không phải là một điều răn mới tôi viết ra,
nhưng là điều răn chúng ta đã có từ lúc khởi đầu- đó là: chúng ta phải yêu
thương nhau. 6 Yêu thương là sống theo các điều răn của Thiên Chúa.
Như anh em đã được nghe từ lúc khởi đầu, điều răn này là: anh em phải sống
trong tình thương.
Những
kẻ phản Ki-tô
7
Vì
có nhiều người mê hoặc đã lan tràn khắp thế gian, họ là những kẻ không tuyên
xưng Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến và trở nên người phàm. Đó là kẻ mê hoặc và
là tên Phản Ki-tô. 8 Anh em phải coi chừng để khỏi đánh mất những gì
anh em đã làm được, nhưng để lãnh đầy đủ phần thưởng. 9 Phàm ai đi
quá xa, không ở lại trong giáo huấn của Đức Ki-tô, thì không có Thiên Chúa. Còn
ai ở lại trong giáo huấn, thì người ấy có Chúa Cha và Chúa Con. 10 Nếu
ai đến với anh em mà không đem theo giáo huấn ấy, anh em đừng đón vào nhà và
cũng đừng chào hỏi người ấy. 11 Quả thật, ai chào hỏi là cộng tác
vào những việc xấu xa của người ấy.
Kết
luận
12
Tôi
còn có nhiều điều phải viết cho anh em, tôi không muốn dùng giấy mực. Nhưng tôi
hy vọng có thể đến với anh em và nói chuyện trực tiếp, để niềm vui của chúng ta
được nên trọn vẹn. 13 Các con của người chị em Bà, người chị em đã
được Thiên Chúa tuyển chọn, gửi lời kính chào Bà.
Gio-an 3
Chương 1
Lời
chào
1
Tôi
là kỳ mục, gửi anh Gai-ô thân mến, người mà tôi thực sự quý mến. 2 Anh
thân mến, tôi cầu chúc anh được mọi bề thịnh đạt: thể xác mạnh khoẻ và tinh
thần phấn chấn.
Ca
tụng ông Gai-ô
3
Quả
thật, tôi rất vui mừng bởi có những anh em đến đây và làm chứng là anh gắn bó
với sự thật, như anh vẫn sống trong sự thật. 4 Không có gì làm tôi
vui sướng bằng khi nghe biết con cái tôi sống sự thật.
5
Anh
thân mến, anh hành động theo đức tin trong mọi việc anh làm cho các người anh
em, dù họ là những người xa lạ. 6 Họ đã làm chứng về đức bác ái của
anh trước mặt Hội Thánh. Anh sẽ làm một việc nghĩa, nếu anh giúp đỡ cho chuyến
đi của họ cách xứng đáng trước mặt Thiên Chúa. 7 Quả thật, chính vì
danh Chúa, họ đã ra đi mà không nhận gì của người ngoại. 8 Vậy,
chúng ta phải tiếp đón những con người như thế, để cộng tác vào việc truyền bá
sự thật.
Hành
vi của ông Đi-ốt-rê-phét
9
Tôi
viết đôi lời cho Hội Thánh, nhưng Đi-ốt-rê-phét, một con người thích ăn trên
ngồi trước, không chịu nhận quyền của chúng tôi. 10 Vì thế, nếu tôi
đến, tôi sẽ nhắc lại cho anh ta những việc anh ta đã làm: anh ta cứ rêu rao
những lời độc địa chống chúng tôi. Chưa lấy thế làm đủ, anh ta còn không tiếp
đón các người anh em, và ai muốn tiếp đón thì anh ta ngăn cản và trục xuất khỏi
Hội Thánh. 11 Anh thân mến, anh đừng bắt chước làm điều dữ, nhưng
hãy bắt chước làm điều lành. Ai làm điều lành thì thuộc về Thiên Chúa; kẻ làm
điều dữ thì đã không thấy Thiên Chúa.
Làm
chứng cho ông Đê-mết-ri-ô
12
Mọi
người đều làm chứng tốt cho anh Đê-mết-ri-ô, và chính sự thật cũng làm chứng
như vậy. Cả chúng tôi nữa, chúng tôi cũng làm chứng cho anh ấy, và anh biết
rằng lời chứng của chúng tôi là xác thực.
Lời
kết thúc
13
Tôi
còn có nhiều điều đáng lẽ phải viết cho anh, nhưng tôi không muốn dùng bút mực
mà viết cho anh. 14 Tôi hy vọng sắp được gặp anh, và chúng ta sẽ nói
chuyện trực tiếp. 15 Chúc anh được bình an! Các bạn hữu gửi lời chào
anh. Cho tôi gửi lời chào các bạn hữu, đích danh từng người một.
Giu-đa
Chương 1
Lời
mở đầu
1
Tôi
là Giu-đa, tôi tớ của Đức Giê-su Ki-tô, anh em với ông Gia-cô-bê, xin gửi lời
thăm những người được kêu gọi, được Thiên Chúa là Cha yêu mến, và được dành
riêng cho Đức Giê-su Ki-tô. 2 Chúc anh em được đầy tràn lòng thương
xót, sự bình an và tình thương.
Lý
do viết thư
3
Anh
em thân mến, tôi vẫn ước mong viết thư cho anh em về ơn cứu độ chung của chúng
ta, thì nay lại bó buộc phải viết cho anh em, để khuyên nhủ anh em chiến đấu
cho đức tin đã được truyền lại cho dân thánh chỉ một lần là đủ. 4 Thật
vậy, có những người đã len lỏi vào, những người từ lâu đã bị ghi trước vào danh
sách những kẻ bị lên án, những kẻ vô luân này đã biến ân sủng của Thiên Chúa
chúng ta thành lý do biện minh cho lối sống dâm ô, họ chối bỏ Chúa chúng ta là
Đức Giê-su Ki-tô, vị Chúa Tể duy nhất.
Các
thầy dạy giả hiệu. Hình phạt dành cho họ
5
Cho
dù anh em đã biết mọi sự chỉ một lần là đủ, tôi cũng muốn nhắc cho anh em nhớ
lại rằng: Chúa đã cứu dân ra khỏi đất Ai-cập, sau đó lại tiêu diệt những kẻ
không chịu tin. 6 Những thiên thần đã không giữ địa vị của mình,
nhưng rời bỏ nơi mình ở, thì Người dùng xiềng xích mà giam giữ họ đời đời trong
nơi tối tăm, để chờ phán xét trong Ngày lớn lao. 7 Còn Xơ-đôm,
Gô-mô-ra và các thành lân cận làm chuyện gian dâm như họ và chạy theo những thú
vui xác thịt trái tự nhiên, thì đã phải chịu lửa đời đời làm hình phạt để nêu
gương.
Họ
nói lộng ngôn
8
Cả
những người mê sảng kia cũng vậy, họ làm cho thân xác ra ô uế, khinh dể chủ
quyền của Chúa, nói phạm đến các Bậc uy linh. 9 Khi bàn cãi và tranh
luận với quỷ về thi hài ông Mô-sê, ngay cả tổng lãnh thiên thần Mi-ca-en cũng
không dám đưa ra một phán quyết nào phạm đến nó, mà chỉ nói: Xin Chúa trừng
phạt ngươi! 10 Nhưng họ, họ lại nói phạm đến những điều họ không biết; còn
những điều họ biết được một cách tự nhiên như loài vật vô tri, thì chỉ làm cho
họ phải tiêu diệt.
Họ
là những kẻ gian tà
11
Khốn
cho họ, bởi họ đi vào con đường của Ca-in; vì chút tiền công, họ đã ngã theo sự
lầm lạc của Bi-lơ-am, và bị diệt vong vì làm loạn như Cô-rắc. 12 Họ
làm cho những bữa tiệc thân ái của anh em ra nhơ nhuốc; họ chè chén mà không
biết xấu hổ, họ chỉ lo cho chính mình. Họ là mây không có nước, cuốn theo chiều
gió. Họ là cây cuối mùa thu, không trái, chết hai lần, bị nhổ tận rễ. 13 Họ
là sóng biển hung dữ, tung bọt là những hành vi bỉ ổi của họ. Họ là những vì
sao lạc, u ám tối tăm là nơi dành cho họ đến muôn đời. 14 Ông
Kha-nốc, tổ phụ thứ bảy sau ông A-đam đã tuyên sấm về họ rằng: Này Chúa đến
giữa muôn vàn thần thánh của Người, 15 để xét xử mọi người, và kết
án mọi kẻ vô luân về tất cả các việc vô luân của họ, về tất cả những lời hỗn
xược quân tội lỗi vô luân đã nói phạm đến Người. 16 Họ là những
người hay lẩm bẩm, phàn nàn, đi theo các dục vọng của mình, miệng nói lời huênh
hoang, tâng bốc người ta để trục lợi.
Lời
khuyên nhủ các tín hữu. Giáo huấn của các Tông Đồ
17
Anh
em thân mến, phần anh em hãy nhớ lại những lời các Tông Đồ của Đức Giê-su
Ki-tô, Chúa chúng ta, đã nói trước kia. 18 Các ngài đã nói với anh
em: ”Vào thời cuối cùng sẽ có những kẻ nhạo báng, sống theo những dục vọng vô
luân của mình.” 19 Họ là những kẻ gây chia rẽ, sống theo tính tự
nhiên, không có Thần Khí.
Nhiệm
vụ của đức bác ái
20
Nhưng
anh em, hỡi anh em thân mến, hãy xây dựng đời mình trên nền tảng đức tin rất
thánh của anh em, hãy cầu nguyện nhờ Thánh Thần, 21 hãy cố gắng sống
mãi trong tình thương của Thiên Chúa, hãy chờ đợi lòng thương xót của Đức
Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, để được sống đời đời. 22 Những người do
dự thì anh em phải thương xót; 23 hãy lo cứu họ, kéo họ ra khỏi lửa
thiêu. Còn những người khác, thì anh em phải vừa thương xót, vừa sợ hãi, gớm
ghét ngay cả chiếc áo đã bị thân xác họ làm cho ra ô uế.
Vinh
tụng ca
24
Xin
kính dâng Đấng có quyền phép gìn giữ anh em khỏi sa ngã và cho anh em đứng
vững, tinh tuyền, trước vinh quang của Người, trong niềm hoan lạc, 25 xin
kính dâng Thiên Chúa duy nhất, Đấng Cứu Độ chúng ta, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa
chúng ta, kính dâng Người vinh quang, oai phong, sức mạnh và quyền năng, trước
mọi thời, bây giờ và cho đến muôn đời! A-men.
Khải Huyền
Chương 1
Lời
tựa
1
Mặc
khải của Đức Giê-su Ki-tô, mặc khải mà Thiên Chúa đã ban cho Người, để Người tỏ
cho các tôi tớ Người biết những việc sắp phải xảy đến. Người đã sai thiên thần
của Người đến báo cho ông Gio-an là tôi tớ của Người biết mặc khải đó. 2 Ông
Gio-an đã làm chứng về lời của Thiên Chúa và về lời chứng của Đức Giê-su Ki-tô,
về những gì ông đã thấy. 3 Phúc thay người đọc, phúc thay những ai
nghe những sấm ngôn đó và tuân giữ các điều chép trong đó, vì thời giờ đã gần
đến!
I.
THƯ GỬI CÁC HỘI THÁNH A-XI-A
Lời
mở đầu
4
Tôi
là Gio-an kính gửi bảy Hội Thánh A-xi-a. Xin Đấng hiện có, đã có và đang đến,
xin bảy thần khí hiện diện trước ngai của Người, 5 xin Đức Giê-su
Ki-tô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi
chết chỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian, ban cho anh em ân sủng và
bình an. Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, 6
làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên
Chúa là Cha của Người: kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở
muôn đời. A-men! 7 Kìa, Người ngự đến giữa đám mây. Ai nấy sẽ thấy Người, cả
những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy
Người. Đúng thế! A-men!
8
Đức
Chúa là Thiên Chúa phán: ”Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đấng hiện có, đã có và
đang đến, là Đấng Toàn Năng.”
Thị
kiến mở đầu
9
Tôi
là Gio-an, một người anh em của anh em, tôi cùng chia sẻ nỗi gian truân, cùng
hưởng vương quốc và cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong Đức Giê-su. Lúc
ấy, tôi đang ở đảo gọi là Pát-mô, vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và lời chứng
của Đức Giê-su. 10 Tôi đã xuất thần vào ngày của Chúa và nghe đằng
sau tôi có một tiếng lớn như thể tiếng kèn 11 nói rằng: ”Điều ngươi thấy, hãy
ghi vào sách và gửi cho bảy Hội Thánh: Ê-phê-xô, Xi-miếc-na, Péc-ga-mô,
Thy-a-ti-ra, Xác-đê, Phi-la-đen-phi-a và Lao-đi-ki-a.” 12 Tôi quay
lại để xem tiếng ai nói với tôi. Khi quay lại, tôi thấy bảy cây đèn vàng. 13
Ở giữa các cây đèn, có ai giống như Con Người mình mặc áo chùng và ngang
ngực có thắt đai bằng vàng. 14 Đầu Người tóc trắng như len trắng,
như tuyết; mắt Người như ngọn lửa hồng; 15 chân Người giống như đồng
đỏ được tôi luyện trong lò; và tiếng Người như tiếng nước lũ. 16
17
Lúc
thấy Người, tôi ngã vật xuống dưới chân Người, như chết vậy. Người đặt tay hữu
lên tôi và nói: ”Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. 18 Ta là Đấng Hằng
Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của
Tử thần và Âm phủ. 19 Vậy ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì
đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này. 20 Đây là ý nghĩa mầu
nhiệm của bảy ngôi sao ngươi đã thấy trên tay hữu Ta, và của bảy cây đèn vàng:
bảy ngôi sao là các thiên thần của bảy Hội Thánh, và bảy cây đèn là bảy Hội
Thánh.
Chương 2
I.
Ê-phê-xô
1
Hãy
viết cho thiên thần của Hội Thánh Ê-phê-xô: Đây là lời của Đấng cầm trong tay
hữu bảy vì sao, Đấng đi giữa bảy cây đèn vàng: 2 Ta biết các việc
ngươi làm, nỗi vất vả và lòng kiên nhẫn của ngươi; Ta biết ngươi không thể chịu
đựng kẻ ác. Ngươi đã thử thách những kẻ xưng mình là tông đồ, mà thực ra không
phải, và ngươi đã thấy rằng chúng là những kẻ nói dối. 3 Ngươi có
lòng kiên nhẫn và đã chịu khổ vì danh Ta mà không mệt mỏi. 4 Nhưng
Ta trách ngươi điều này: ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu. 5 Vậy
hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy hối cải và làm những việc ngươi
đã làm thuở ban đầu. Bằng không, Ta đến với ngươi, và Ta sẽ đem cây đèn của ngươi
ra khỏi chỗ của nó, nếu ngươi không hối cải. 6 Nhưng ngươi được điều
này: ngươi ghét các việc của bè Ni-cô-la, như chính Ta cũng ghét. 7 Ai
có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh: Ai thắng, Ta sẽ cho
ăn quả cây sự sống trồng nơi ngự uyển của Thiên Chúa.
II.
Xi-miếc-na
8
Hãy
viết cho thiên thần của Hội Thánh Xi-miếc-na: Đây là lời của Đấng là Đầu và là
Cuối, Đấng đã chết và đã sống lại: 9 Ta biết nỗi gian truân, và cảnh
nghèo khó của ngươi- nhưng thực ra ngươi giàu có- cũng như Ta biết lời vu khống
của những kẻ xưng mình là Do-thái, mà thực ra không phải: chúng chỉ là thành
viên thuộc hội đường của Xa-tan. 10 Đừng sợ các nỗi đau khổ ngươi
sắp phải chịu: này ma quỷ sắp tống một số người trong các ngươi vào ngục để thử
thách các ngươi; các ngươi sẽ phải lâm cảnh gian truân trong vòng mười ngày.
Hãy trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống. 11
Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh: Ai thắng sẽ
không hề bị cái chết thứ hai làm hại.
III.
Péc-ga-mô
12
Hãy
viết cho thiên thần của Hội Thánh Péc-ga-mô: Đây là lời của Đấng mang thanh
gươm hai lưỡi sắc bén: 13 Ta biết ngươi ở đâu: ở nơi đặt ngai của
Xa-tan. Nhưng ngươi gắn bó với danh Ta và không chối bỏ lòng tin vào Ta, ngay
cả trong thời An-ti-pa. Ông này là chứng nhân trung thành của Ta, ông đã bị
giết trong thành của các ngươi, nơi Xa-tan ở. 14 Nhưng Ta có ít điều
trách ngươi: ở đó ngươi có những kẻ nắm giữ đạo lý của Bi-lơ-am. Ông này đã dạy
Ba-lác gây cớ vấp ngã cho con cái Ít-ra-en, khiến chúng ăn đồ cúng và làm
chuyện gian dâm. 15 Cả ngươi nữa, ngươi cũng có những kẻ nắm giữ đạo
lý bè Ni-cô-la. 16 Vậy hãy hối cải; bằng không, Ta đến với ngươi
ngay tức khắc và sẽ dùng lưỡi gươm từ miệng Ta mà giao chiến với chúng. 17
Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh: Ai thắng, Ta
sẽ ban cho man-na đã được giấu kỹ; Ta cũng sẽ ban cho nó một viên sỏi trắng,
trên sỏi đó có khắc một tên mới; chẳng ai biết được tên ấy, ngoài kẻ lãnh nhận.
IV.
Thy-a-ti-ra
18
Hãy
viết cho thiên thần của Hội Thánh Thy-a-ti-ra: Đây là lời của Con Thiên Chúa,
Đấng có mắt như ngọn lửa hồng và chân giống như đồng đỏ: 19 Ta biết
các việc ngươi làm, biết đức ái, đức tin, công việc phục vụ và lòng kiên nhẫn
của ngươi; Ta cũng biết rằng những việc của ngươi bây giờ thì nhiều hơn trước
kia. 20 Nhưng Ta trách ngươi điều này: ngươi dung túng I-de-ven,
người đàn bà xưng mình là nữ ngôn sứ; nó mê hoặc các tôi tớ của Ta, dạy chúng
làm chuyện gian dâm và ăn đồ cúng. 21 Ta đã cho nó có thời giờ hối
cải, nhưng nó không muốn hối cải mà từ bỏ thói gian dâm. 22 Này đây,
Ta bắt nó phải liệt giường, và làm cho những kẻ ngoại tình với nó phải lâm cảnh
gian truân khốn khổ, nếu chúng không hối cải mà từ bỏ những việc chúng làm. 23
Ta sẽ giết chết con cái của nó. Tất cả các Hội Thánh sẽ biết rằng Ta là
Đấng dò thấu lòng dạ, và Ta sẽ tuỳ theo việc các ngươi làm mà thưởng phạt mỗi
người. 24 Còn các ngươi, những người khác ở Thy-a-ti-ra, những kẻ
không theo đạo lý ấy, không biết đến cái mà chúng gọi là “các bí mật thâm sâu
của Xa-tan", thì Ta bảo các ngươi: Ta không bắt các ngươi phải mang gánh
nặng nào khác. 25 Nhưng cái gì các ngươi đang có, hãy nắm chắc cho
tới khi Ta đến. 26 Ai thắng và giữ cho đến cùng các việc Ta truyền,
Ta sẽ ban cho người ấy quyền cai trị các dân: 27 Người ấy sẽ dùng
trượng sắt mà chăn dắt chúng, sẽ nghiền nát chúng như đồ sành đồ gốm. 28 Đó
là quyền mà chính Ta đã được Cha Ta trao cho. Ta sẽ ban Sao Mai cho người ấy. 29
Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh.
Chương 3
V.
Xác-đê
1
Hãy
viết cho thiên thần của Hội Thánh Xác-đê. Đây là lời của Đấng có bảy Thần Khí
Thiên Chúa và bảy ngôi sao: Ta biết các việc ngươi làm, biết ngươi được tiếng
là đang sống, mà thực ra đã chết. 2 Hãy tỉnh thức! Hãy củng cố chút
sức còn lại đang suy tàn, vì Ta nhận thấy các việc của ngươi không được hoàn
hảo trước mặt Thiên Chúa của Ta. 3 Vậy hãy nhớ lại: ngươi đã lãnh
nhận và nghe Lời Chúa thế nào; hãy tuân giữ và hối cải! Vậy nếu ngươi không
tỉnh thức, thì Ta sẽ đến như kẻ trộm, ngươi chẳng biết giờ nào Ta sẽ đến bắt
chợt ngươi. 4 Nhưng tại Xác-đê, ngươi có một ít người đã không làm
nhơ bẩn áo mình; họ sẽ mặc áo trắng cùng đi với Ta, vì họ xứng đáng. 5 Như
thế, ai thắng sẽ được mặc áo trắng; Ta sẽ không xoá tên người ấy khỏi Sổ Trường
Sinh; Ta sẽ nhận người ấy trước mặt Cha Ta và trước mặt các thiên thần của
Người. 6 Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội
Thánh.
VI.
Phi-la-đen-phi-a
7
Hãy
viết cho thiên thần của Hội Thánh Phi-la-đen-phi-a: Đây là lời của Đấng Thánh,
Đấng Chân Thật, Đấng giữ chìa khoá vua Đa-vít, Người mở ra thì không ai đóng
lại được, Người đóng lại thì không ai mở ra được. 8 Ta biết các việc
ngươi làm: này Ta để một cửa mở trước mặt ngươi, không ai có thể đóng lại được,
bởi vì tuy ngươi ít thế lực, ngươi cũng đã giữ lời Ta và đã không chối bỏ danh
Ta. 9 Này Ta sẽ ban cho ngươi một số người thuộc hội đường của
Xa-tan, những kẻ xưng mình là Do-thái, mà thực ra không phải, vì chúng nói dối.
Này Ta sẽ bắt chúng đến phủ phục dưới chân ngươi và nhận biết rằng Ta đã yêu
mến ngươi. 10 Vì ngươi đã giữ lời Ta dạy phải kiên nhẫn chịu đựng,
nên Ta cũng giữ gìn ngươi cho khỏi giờ thử thách sắp xảy đến trên toàn cõi địa
cầu, để thử thách những người sống trên mặt đất. 11 Chẳng bao lâu
nữa Ta sẽ đến; cái gì ngươi đang có, hãy nắm chắc, đừng để ai lấy mất triều thiên
dành cho ngươi. 12 Ai thắng, Ta sẽ cho làm cột trụ trong Đền Thờ
Thiên Chúa của Ta, người ấy sẽ không hề ra khỏi đó nữa. Ta sẽ ghi trên người ấy
danh thánh Thiên Chúa của Ta, và tên thành đô Thiên Chúa của Ta, là
Giê-ru-sa-lem mới từ trời, từ nơi Thiên Chúa của Ta mà xuống. Ta cũng sẽ ghi
trên người ấy tên mới của Ta. 13 Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần
Khí nói với các Hội Thánh.
VII.
Lao-đi-ki-a
14
Hãy
viết cho thiên thần của Hội Thánh Lao-đi-ki-a: Đây là lời của Đấng A-men, là
Chứng Nhân trung thành và chân thật, là Khởi Nguyên của mọi loài Thiên Chúa tạo
dựng. 15 Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng
nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! 16 Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng
nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta. 17 Ngươi
nói: ”Tôi giàu có, tôi đã làm giàu, tôi chẳng thiếu thốn chi"; nhưng ngươi
không biết rằng ngươi là kẻ khốn nạn, đáng thương, nghèo khổ, đui mù và trần
truồng. 18 Vì thế, Ta khuyên ngươi đến với Ta mà mua vàng đã thử lửa
để làm giàu, mua áo trắng để mặc khiến ngươi khỏi xấu hổ vì để lộ thân thể trần
truồng, mua thuốc để xức mắt cho ngươi nhìn thấy được. 19 Phần Ta,
mọi kẻ Ta yêu mến, thì Ta răn bảo dạy dỗ. Vậy hãy nhiệt thành và hối cải ăn
năn! 20 Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ
vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta. 21
Ai thắng, Ta sẽ cho ngự bên Ta trên ngai của Ta, cũng như Ta đã thắng và
ngự bên Cha Ta trên ngai của Người. 22 Ai có tai, thì hãy nghe điều
Thần Khí nói với các Hội Thánh.”
Chương 4
II.
CÁC THỊ KIẾN
1.
CHUẨN BỊ”NGÀY LỚN LAO" CỦA THIÊN CHÚA
Thiên
Chúa trao vận mệnh thế giới cho Con Chiên
1
Sau
đó, tôi được một thị kiến. Kìa một cái cửa mở ra ở trên trời, và tiếng mà trước
đây tôi nghe nói với tôi như thể tiếng kèn, bảo tôi rằng: ”Lên đây, Ta sẽ chỉ
cho ngươi thấy những điều phải xảy ra sau đó.” 2 Lập tức tôi xuất
thần. Kìa một cái ngai đặt ở trên trời và có một Đấng ngự trên ngai. 3 Đấng
ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não. Chung quanh ngai có cầu vồng
trông giống như bích ngọc. 4 Chung quanh ngai có hai mươi bốn ngai
khác, và trên những ngai đó có hai mươi bốn vị Kỳ Mục; các vị đang ngồi, mình
mặc áo trắng, đầu đội triều thiên vàng. 5 Từ ngai phát ra ánh chớp,
tiếng sấm tiếng sét. Bảy ngọn đuốc, tức là bảy thần khí của Thiên Chúa cháy
sáng trước ngai. 6 Trước ngai có cái gì như biển trong vắt tựa pha
lê. Ở giữa ngai và chung quanh ngai có bốn Con Vật, đằng trước và đằng sau đầy
những mắt. 7 Con Vật thứ nhất giống như sư tử, Con Vật thứ hai giống
như bò tơ, Con Vật thứ ba có mặt như mặt người, Con Vật thứ bốn giống như đại
bàng đang bay. 8 Bốn Con Vật ấy, mỗi con có sáu cánh, chung quanh và
bên trong đầy những mắt. Ngày đêm chúng không ngừng hô lên rằng:
Thánh!
Thánh! Chí Thánh!
Đức
Chúa, Thiên Chúa toàn năng,
Đấng
đã có, hiện có và đang đến!
9
Mỗi
khi những Con Vật ấy kính dâng vinh quang, danh dự và lời tạ ơn lên Đấng ngự
trên ngai, Đấng hằng sống đến muôn thuở muôn đời, 10 thì hai mươi
bốn vị Kỳ Mục phủ phục xuống trước mặt Đấng ngự trên ngai mà thờ lạy Người,
Đấng hằng sống đến muôn thuở muôn đời, rồi đặt triều thiên của mình xuống trước
ngai mà nói:
11 “Lạy Chúa là Thiên
Chúa chúng con,
Ngài
xứng đáng lãnh nhận
vinh
quang, danh dự và uy quyền,
vì
Ngài đã dựng nên muôn vật,
và
do ý Ngài muốn,
mọi
loài liền có và được dựng nên.”
Chương 5
1
Tôi
thấy trong tay hữu Đấng ngự trên ngai một cuốn sách viết cả trong lẫn ngoài,
niêm bảy ấn. 2 Rồi tôi thấy một thiên thần dũng mãnh lớn tiếng công
bố: ”Ai xứng đáng mở cuốn sách và tháo ấn niêm phong?” 3 Nhưng không
ai ở trên trời, dưới đất hay trong lòng đất, có thể mở cuốn sách và nhìn vào đó.
4 Tôi khóc nức nở, vì không ai được coi là xứng đáng mở cuốn sách và
nhìn vào đó. 5 Một trong các vị Kỳ Mục bảo tôi: ”Đừng khóc nữa! Này
đây, Sư Tử xuất thân từ chi tộc Giu-đa, Chồi Non của Đa-vít đã chiến thắng,
Người sẽ mở cuốn sách và bảy ấn niêm phong.”
6
Bấy
giờ tôi thấy đứng ở giữa ngai và bốn Con Vật, giữa các vị Kỳ Mục, một Con
Chiên, trông như thể đã bị giết; Chiên đó có bảy sừng và bảy mắt, tức là bảy
thần khí của Thiên Chúa đã được sai đi khắp mặt đất. 7 Con Chiên đến
lãnh cuốn sách từ tay hữu Đấng ngự trên ngai. 8 Khi Con Chiên đã
lãnh cuốn sách, thì bốn Con Vật và hai mươi bốn vị Kỳ Mục phủ phục xuống trước
mặt Con Chiên, mỗi vị tay cầm đàn, tay nâng chén vàng đầy hương thơm, tức là
những lời cầu nguyện của dân thánh. 9 Các vị hát một bài ca mới
rằng:
"Ngài
xứng đáng lãnh nhận cuốn sách
và
mở ấn niêm phong, vì Ngài đã bị giết
và
đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa
muôn
người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ,
thuộc
mọi nước, mọi dân.
10
Ngài
cũng làm cho họ
thành
một vương quốc, thành những tư tế,
để
phụng thờ Thiên Chúa chúng ta,
và
họ sẽ làm chủ mặt đất này.”
11
Tôi
thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và
các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu. 12 Các vị
lớn tiếng hô:
"Con
Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận
phú
quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh,
danh
dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc.”
13
Tôi
lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi
và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô:
"Xin
kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên
lời
chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng
đến
muôn thuở muôn đời!”
14
Bốn
Con Vật thưa: ”A-men.” Và các Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy.
Chương 6
Con
Chiên mở ấn
1
Tôi
lại thấy: khi Con Chiên mở ấn thứ nhất trong bảy ấn, thì tôi nghe một trong bốn
Con Vật hô lên, tiếng vang như sấm: ”Hãy đến!”2 Tôi thấy: kìa một con ngựa
trắng, và người cỡi ngựa mang cung. Người ấy được tặng một triều thiên và ra đi
như người thắng trận, để chiến thắng.
3
Khi
Con Chiên mở ấn thứ hai, thì tôi nghe Con Vật thứ hai hô: ”Hãy đến!”4 Một con
ngựa khác đi ra, đỏ như lửa, người cỡi ngựa nhận được quyền cất hoà bình khỏi
mặt đất, để cho người ta giết nhau; người ấy được ban một thanh gươm lớn.
5
Khi
Con Chiên mở ấn thứ ba, thì tôi nghe Con Vật thứ ba hô: ”Hãy đến!” Tôi thấy:
kìa một con ngựa ô, và người cỡi ngựa cầm cân trong tay. 6 Tôi lại
nghe như có tiếng nói từ giữa bốn Con Vật vang lên: ”Một cân lúa mì, một quan
tiền! Ba cân lúa mạch, một quan tiền! Còn dầu và rượu, thì chớ đụng đến!”
7
Khi
Con Chiên mở ấn thứ bốn, thì tôi nghe tiếng Con Vật thứ bốn hô: ”Hãy đến!”8 Tôi
thấy: kìa một con ngựa xanh nhạt, và người cỡi ngựa mang tên là Tử thần, có Âm
phủ theo sau.
Chúng
nhận được quyền hành trên một phần tư mặt đất, để giết bằng gươm giáo, đói kém,
ôn dịch và thú dữ sống trên đất.
9
Khi
Con Chiên mở ấn thứ năm, thì tôi thấy dưới bàn thờ, linh hồn của những người đã
bị giết vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và đã làm chứng. 10 Họ lớn
tiếng kêu: ”Lạy Chúa chí thánh và chân thật, cho đến bao giờ Ngài còn trì hoãn,
không xét xử và không bắt những người sống trên mặt đất phải đền nợ máu chúng
con?” 11 Bấy giờ mỗi người trong số họ được lãnh một áo trắng; và có
lời phán bảo họ cứ nghỉ yên một thời gian ngắn nữa, chờ cho đủ số những người
cũng là tôi tớ Thiên Chúa và là anh em của họ, sắp bị giết như họ.
12
Tôi
thấy: khi Con Chiên mở ấn thứ sáu, có động đất mạnh. Mặt trời tối đen như vải
thợ dệt bằng lông, mặt trăng hoàn toàn ra như máu. 13 Sao trên trời
sa xuống đất, tựa những trái vả xanh rụng xuống từ cây vả bị gió lớn lay mạnh. 14
Trời bị cuốn đi như một cuốn sách cuộn lại, mọi núi non và hải đảo bị dời
đi nơi khác. 15 Vua chúa trần gian, vương hầu khanh tướng, người
giàu sang, kẻ quyền thế, và mọi người, nô lệ hay tự do, tất cả đều phải trốn
vào hang hốc và núi đá. 16 Họ bảo núi và đá: ”Đổ xuống đè ta đi và
che giấu ta cho khuất mắt Đấng ngự trên ngai, cho khỏi cơn thịnh nộ của Con
Chiên; 17 vì Ngày lớn lao, Ngày thịnh nộ của các Ngài đã tới, và ai
có thể đứng vững được?”
Chương 7
Các
tôi tớ Thiên Chúa sẽ được bảo vệ
1
Sau
đó, tôi thấy có bốn thiên thần đứng ở bốn phương của mặt đất, giữ bốn ngọn gió
của đất lại, không cho ngọn gió nào thổi trên đất liền, trên biển cả cũng như
trên mọi cây cối. 2 Tôi lại thấy một thiên thần khác, mang ấn của
Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên. Thiên thần ấy lớn tiếng bảo
bốn thiên thần khác, là những vị được quyền phá hại đất liền và biển cả, 3
rằng: ”Xin đừng phá hại đất liền, biển cả và cây cối, trước khi chúng tôi
đóng ấn trên trán các tôi tớ của Thiên Chúa chúng ta". 4 Rồi
tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn
người được đóng ấn, thuộc mọi chi tộc con cái Ít-ra-en.
5
Chi
tộc Giu-đa có mười hai ngàn người được đóng ấn; chi tộc Rưu-vên: mười hai ngàn;
chi tộc Gát: mười hai ngàn; 6 chi tộc A-se: mười hai ngàn; chi tộc
Náp-ta-li: mười hai ngàn; chi tộc Mơ-na-se: mười hai ngàn; 7 chi tộc
Si-mê-ôn: mười hai ngàn; chi tộc Lê-vi: mười hai ngàn; chi tộc Ít-xa-kha: mười
hai ngàn; 8 chi tộc Dơ-vu-lun: mười hai ngàn; chi tộc Giu-se: mười
hai ngàn; chi tộc Ben-gia-min có mười hai ngàn người được đóng ấn.
Cuộc
khải hoàn trên thiên quốc
9
Sau
đó, tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi
dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con
Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. 10 Họ lớn
tiếng tung hô: ”Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con
Chiên đã cứu độ chúng ta.” 11 Tất cả các thiên thần đều đứng chung
quanh ngai, chung quanh các Kỳ Mục và bốn Con Vật. Họ đều sấp mặt xuống, phủ
phục trước ngai và thờ lạy Thiên Chúa mà tung hô 12 rằng:
"A-men!
Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta
lời
chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn,
danh
dự, uy quyền và sức mạnh,
đến
muôn thuở muôn đời! A-men!”
13
Một
trong các Kỳ Mục lên tiếng hỏi tôi: ”Những người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ
từ đâu đến?” 14 Tôi trả lời: ”Thưa Ngài, Ngài biết đó.” Vị ấy bảo
tôi: ”Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã
giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. 15 Vì thế, họ
được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người;
Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. 16 Họ sẽ
không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí
nóng hành hạ nữa. 17 Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt
và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt
họ.”
Chương 8
Mở
ấn thứ bảy
1
Khi
Con Chiên mở ấn thứ bảy, thì cả trời yên lặng chừng nửa giờ. . .
Lời
cầu nguyện của dân thánh
2
Rồi
tôi thấy bảy thiên thần đứng chầu trước nhan Thiên Chúa; các vị ấy lãnh nhận
bảy chiếc kèn. 3 Một thiên thần khác đến đứng trước bàn thờ, tay cầm
bình hương vàng. Thiên thần lãnh nhận nhiều hương thơm, để dâng trên bàn thờ
bằng vàng trước ngai Thiên Chúa, cùng với những lời cầu nguyện của toàn thể dân
thánh. 4 Từ tay thiên thần, khói hương quyện theo lời cầu nguyện của
dân thánh, bay lên trước nhan Thiên Chúa. 5 Rồi thiên thần cầm bình
hương, lấy lửa trên bàn thờ bỏ đầy vào và ném xuống đất. Liền có tiếng sấm,
tiếng sét, ánh chớp và động đất.
Bốn
tiếng kèn đầu tiên
6
Bảy
thiên thần cầm bảy kèn sửa soạn thổi. 7 Tiếng kèn của vị thứ nhất nổi
lên. Mưa đá và lửa, hoà với máu, trút xuống đất. Một phần ba mặt đất bị thiêu
huỷ, một phần ba cây cối bị thiêu huỷ, và tất cả cỏ xanh bị thiêu huỷ.
8
Tiếng
kèn của thiên thần thứ hai nổi lên. Có cái gì như quả núi lớn rực lửa bị ném
xuống biển. Một phần ba biển hoá thành máu. 9 Một phần ba các loài
thụ tạo sống dưới biển bị chết, và một phần ba tàu bè bị phá huỷ.
10
Tiếng
kèn của thiên thần thứ ba nổi lên. Từ trời rơi xuống một ngôi sao lớn cháy như
đuốc. Sao rơi xuống một phần ba sông ngòi và xuống các nguồn nước. 11 Tên
ngôi sao là Ngải Đắng. Một phần ba nước hoá thành ngải đắng, và có nhiều người
chết vì thứ nước đã hoá đắng ấy.
12
Tiếng
kèn của thiên thần thứ bốn nổi lên. Một phần ba mặt trời, một phần ba mặt trăng
và một phần ba các ngôi sao bị đánh trúng, khiến chúng tối đi một phần ba, ngày
mất sáng một phần ba và đêm cũng thế.
13
Tôi
thấy, và tôi nghe một con đại bàng bay trên đỉnh vòm trời, kêu lớn tiếng: ”Khốn
thay! Khốn thay! Khốn thay những người sống trên mặt đất, vì sắp nổi lên những
tiếng kèn còn lại của ba thiên thần!”
Chương 9
Tiếng
kèn thứ năm
1
Tiếng
kèn của thiên thần thứ năm nổi lên. Tôi thấy một ngôi sao từ trời sa xuống đất;
ngôi sao ấy nhận được chìa khoá của giếng vực thẳm. 2 Ngôi sao mở
giếng vực thẳm, và một đám khói từ giếng bốc lên, giống như khói một cái lò
lớn, khiến mặt trời và không khí tối sầm lại vì khói của giếng ấy. 3 Từ
đám khói ấy, châu chấu bay ra khắp mặt đất. Chúng nhận được quyền phép như
quyền phép của bọ cạp trên mặt đất. 4 Chúng bị cấm không được phá
hại cỏ trên mặt đất, mọi loài xanh tươi và mọi cây cối, mà chỉ được phá hại
những người không mang ấn của Thiên Chúa trên trán. 5 Chúng không
được phép giết họ, mà chỉ được gây khổ hình cho họ trong vòng năm tháng. Khổ
hình chúng gây ra không khác gì khổ hình của người bị bọ cạp đốt. 6 Trong
những ngày ấy, người ta sẽ tìm cái chết mà không thấy, họ mong chết mà cái chết
lại trốn họ.
7
Hình
dạng châu chấu giống như ngựa sẵn sàng vào trận; trên đầu chúng có cái gì như
thể triều thiên bằng vàng, còn mặt chúng thì như mặt người. 8 Chúng
có tóc như tóc đàn bà, có răng tựa răng sư tử. 9 Ngực chúng khác nào
áo giáp sắt, và tiếng cánh chúng đập, như tiếng xe nhiều ngựa kéo đang xông vào
trận. 10 Chúng có đuôi như đuôi bọ cạp, mang nọc; đuôi chúng có
quyền phép làm hại người ta trong vòng năm tháng. 11 Vua cai trị
chúng là thần sứ của vực thẳm, tên Híp-ri là “A-vát-đôn", còn tên Hy-lạp là
“A-pô-ly-on".
12
Cái
Khốn thứ nhất đã qua, nhưng này còn hai cái Khốn nữa theo sau.
Tiếng
kèn thứ sáu
13
Tiếng
kèn của thiên thần thứ sáu nổi lên. Tôi nghe có một tiếng phát ra từ bốn sừng
của bàn thờ bằng vàng ở trước nhan Thiên Chúa. 14 Tiếng ấy bảo thiên
thần thứ sáu đang cầm kèn: ”Hãy thả bốn vị thiên thần đang bị trói ở sông cả
Êu-phơ-rát.” 15 Bốn thiên thần được thả ra, các vị sẵn sàng để đúng
vào năm, tháng, ngày, giờ ấy thì giết một phần ba loài người. 16 Số
các đạo quân là hai trăm triệu kỵ binh; tôi được nghe biết con số ấy. 17 Trong
thị kiến, tôi thấy ngựa và người cỡi ngựa như thế này: chúng mặc áo giáp màu
lửa, màu huỳnh ngọc và diêm sinh; đầu ngựa như đầu sư tử, và mõm chúng phun ra
lửa, khói và diêm sinh. 18 Một phần ba loài người bị ba tai ương ấy
giết, tức là lửa, khói và diêm sinh từ mõm ngựa phun ra. 19 Quả thế,
quyền phép của ngựa thì ở mõm và ở đuôi chúng, vì đuôi chúng như rắn, có đầu,
và chúng dùng đầu ấy mà làm hại. 20 Những người còn lại, những người
không bị các tai ương ấy giết, vẫn không chịu hối cải mà từ bỏ các sản phẩm tay
chúng làm ra, vẫn cứ thờ lạy ma quỷ và các tượng thần bằng vàng, bạc, đồng, đá,
gỗ, là những tượng không thấy, không nghe và không đi được. 21 Họ
không chịu hối cải mà từ bỏ những tội giết người, phù phép, gian dâm, trộm cắp
của họ.
Chương 10
Hình
phạt cuối cùng đang tới
1
Sau
đó, tôi thấy một thiên thần dũng mãnh khác từ trời xuống, có mây bao phủ, có
hào quang trên đầu; mặt thiên thần tựa mặt trời, còn chân thì như những cột lửa.
2 Người cầm trong tay một cuốn sách nhỏ mở sẵn, Người đặt chân phải
lên biển, chân trái lên đất, 3 và kêu lớn tiếng như sư tử gầm. Người
kêu xong, thì bảy hồi sấm lên tiếng nói. 4 Bảy hồi sấm nói xong, tôi
sắp sửa viết thì nghe tiếng từ trời phán: ”Hãy niêm phong lại những gì bảy hồi
sấm đã nói, đừng có viết.” 5 Bấy giờ thiên thần tôi đã thấy đứng
trên biển và đất, giơ tay hữu lên trời6 mà thề nhân danh Đấng Hằng Sống đến muôn
thuở muôn đời, Đấng đã sáng tạo trời và muôn vật trên trời, đất và muôn vật
dưới đất, biển và muôn vật trong biển. Người thề: ”Sẽ không trì hoãn nữa! 7
Nhưng trong những ngày tiếng kèn của thiên thần thứ bảy bắt đầu nổi lên, thì
mầu nhiệm của Thiên Chúa sẽ hoàn tất, như Người đã loan báo cho các tôi tớ của
Người là các ngôn sứ.”
Nuốt
cuốn sách nhỏ
8
Rồi
tiếng tôi đã nghe từ trời, lại nói với tôi và bảo: ”Hãy đi lấy cuốn sách mở sẵn
trong tay thiên thần đang đứng trên biển và đất.” 9 Tôi đến gặp
thiên thần và xin người cho tôi cuốn sách nhỏ. Người bảo tôi: ”Cầm lấy mà nuốt
đi! Nó sẽ làm cho bụng dạ ông phải cay đắng, nhưng trong miệng ông, nó sẽ ngọt
ngào như mật ong.” 10 Tôi cầm lấy cuốn sách nhỏ từ tay thiên thần và
nuốt đi. Trong miệng tôi nó ngọt ngào như mật ong, nhưng khi tôi nuốt rồi, thì
bụng dạ tôi cay đắng. 11 Và có tiếng bảo tôi: ”Một lần nữa, ông phải
tuyên sấm về nhiều nước, nhiều dân, nhiều ngôn ngữ và vua chúa.”
Chương 11
Hai
chứng nhân
1
Bấy
giờ tôi nhận được một cây sậy, giống như một cái gậy, và nghe bảo: ”Hãy đứng
dậy mà đo Đền Thờ Thiên Chúa và bàn thờ cùng với những người đang thờ phượng
trong đó. 2 Nhưng tiền đình phía ngoài của Đền Thờ, thì bỏ đi, đừng
đo, vì chỗ ấy đã được phó mặc cho dân ngoại, chúng sẽ chà đạp Thành Thánh trong
vòng bốn mươi hai tháng. 3 Trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi
ngày ấy, Ta sẽ cho hai chứng nhân của Ta đến tuyên sấm, mình mặc áo vải thô.” 4
Đó là hai cây ô-liu và hai cây đèn đứng trước nhan Chúa Tể cõi đất. 5
Nếu ai muốn làm hại các ngài, thì lửa sẽ từ miệng các ngài phát ra và
thiêu huỷ thù địch của các ngài. Ai muốn làm hại các ngài, sẽ bị giết như thế. 6
Các ngài có quyền đóng cửa trời lại, khiến mưa không rơi xuống trong
những ngày các ngài làm ngôn sứ. Các ngài cũng có quyền biến nước thành máu và
gieo tai giáng hoạ xuống mặt đất, bao nhiêu lần tuỳ ý. 7 Khi các
ngài đã hoàn thành nhiệm vụ làm chứng, thì Con Thú từ vực thẳm sẽ lên tấn công
các ngài, nó sẽ thắng và giết các ngài. 8 Thi hài của các ngài sẽ
nằm ở quảng trường của thành phố vĩ đại; thành phố ấy mang tên tượng trưng là
Xơ-đôm và Ai-cập, ở chính nơi Chúa của các ngài đã chịu đóng đinh vào thập giá.
9 Từ các dân, các nước, các ngôn ngữ và các chi tộc, người ta sẽ đến
nhìn xem thi hài các ngài trong ba ngày rưỡi và không cho phép chôn các ngài trong
mộ. 10 Những người sống trên mặt đất hân hoan vì các ngài đã chết,
họ sẽ ăn mừng và tặng quà nhau, vì hai ngôn sứ này đã làm khổ họ. 11 Sau
ba ngày rưỡi, sinh khí từ Thiên Chúa đến nhập vào các ngài, và các ngài đứng
dậy được. Những kẻ đang nhìn các ngài đều kinh hãi. 12 Rồi các ngài
nghe một tiếng lớn từ trời bảo: ”Hãy lên đây!” Và các ngài lên trời trong đám
mây, trước mắt thù địch của các ngài. 13 Ngay giờ ấy, xảy ra một
trận động đất mạnh; một phần mười thành phố bị sụp đổ và bảy ngàn người bị giết
trong cơn động đất. Những người còn lại thì sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa trên
trời.
Tiếng
kèn thứ bảy
14
Cái
Khốn thứ hai đã qua, thì này cái Khốn thứ ba lại sắp đến.
15
Tiếng
kèn của thiên thần thứ bảy nổi lên. Trên trời có những tiếng lớn nói rằng: ”Vương
quyền trên thế gian nay đã thuộc về Chúa chúng ta và Đức Ki-tô của Người; Người
sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn đời.” 16 Hai mươi bốn vị Kỳ Mục ngồi
trên ngai trước nhan Thiên Chúa, liền sấp mặt xuống, phủ phục mà thờ lạy Thiên
Chúa. 17 Các vị ấy nói:
"Lạy
Chúa là Thiên Chúa toàn năng
Đấng
hiện có và đã có,
chúng
con xin cảm tạ Ngài
đã
sử dụng quyền năng mạnh mẽ
và
lên ngôi hiển trị.
18
Chư
dân đã nổi trận lôi đình,
nhưng
cơn lôi đình Ngài ập tới,
và
đã đến thời xét xử các vong nhân,
thời
ân thưởng các ngôn sứ, bề tôi của Chúa,
cũng
như muôn kẻ thuộc về Ngài,
và
những ai lớn nhỏ hằng kính sợ Thánh Danh;
đã
đến thời huỷ diệt những kẻ nào huỷ hoại mặt đất.”
19
Đền
Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và Hòm Bia Giao Ước xuất hiện trong Đền Thờ.
Và có ánh chớp, tiếng sấm tiếng sét, động đất và mưa đá lớn.
Chương 12
Người
Phụ Nữ và Con Mãng Xà
1
Rồi
có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân
đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. 2 Bà có
thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con. 3 Lại có
điềm khác xuất hiện trên trời: đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và
mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. 4 Đuôi nó quét hết một
phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực
sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay
con bà. 5 Bà đã sinh được một người con, một người con trai, người
con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên Thiên
Chúa, lên tận ngai của Người. 6 Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa
mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó,
trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày.
7
Bấy
giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Mi-ca-en và các thiên thần của người
giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao
chiến. 8 Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không còn chỗ
trên trời nữa. 9 Con Mãng Xà bị tống ra, đó là Con Rắn xưa, mà người
ta gọi là ma quỷ hay Xa-tan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ; nó bị tống
xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó. 10 Và
tôi nghe có tiếng hô to trên trời:
"Thiên
Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ,
giờ
đây biểu dương uy lực với vương quyền,
và
Đức Ki-tô của Người
giờ
đây cũng biểu dương quyền bính,
vì
kẻ tố cáo anh em của ta,
ngày
đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa,
nay
bị tống ra ngoài.
11
Họ
đã thắng được nó nhờ máu Con Chiên
và
nhờ lời họ làm chứng về Đức Ki-tô:
họ
coi thường tính mạng, sẵn sàng chịu chết.
12
Nào
thiên quốc cùng chư vị ở chốn thiên đình,
hãy
vì đó mà mừng vui hoan hỷ!
Khốn
cho đất và biển, vì ma quỷ đã xuống với các ngươi,
nó
giận điên lên vì biết rằng nó chỉ còn một ít thời gian.”
13
Khi
Con Mãng Xà thấy mình đã bị tống xuống đất, nó liền đuổi bắt người Phụ Nữ đã
sinh con trai. 14 Bà được ban cho đôi cánh đại bàng, để bay vào sa
mạc, vào nơi dành cho bà, tại đó bà được nuôi dưỡng một thời, hai thời và nửa
thời, ở xa Con Rắn. 15 Từ miệng, Con Rắn phun nước ra đằng sau bà
như một dòng sông, để cuốn bà đi. 16 Nhưng đất cứu giúp bà: đất há
miệng ra uống cạn dòng sông từ miệng Con Mãng Xà phun ra. 17 Con
Mãng Xà nổi giận với người Phụ Nữ và đi giao chiến với những người còn lại
trong dòng dõi bà, là những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và giữ
lời chứng của Đức Giê-su. 18 Rồi nó đứng trên bãi cát ngoài biển.
Chương 13
Con
Mãng Xà ban quyền cho Con Thú
1
Bấy
giờ tôi thấy một Con Thú từ dưới biển đi lên; nó có mười sừng và bảy đầu; trên
mười sừng đều có vương miện, và trên các đầu có danh hiệu xúc phạm đến Thiên
Chúa. 2 Con Thú tôi trông thấy thì giống như con báo, chân nó như
chân gấu, mõm như mõm sư tử. Con Mãng Xà ban cho nó quyền năng và ngai báu của
mình cũng như một quyền hành lớn lao. 3 Một trong các đầu của nó
dường như đã bị giết chết, nhưng vết tử thương của nó đã được chữa lành. Bấy
giờ toàn thể cõi đất thán phục đi theo Con Thú. 4 Họ thờ lạy Con
Mãng Xà vì nó đã ban quyền hành cho Con Thú, và họ cũng thờ lạy Con Thú mà
rằng: ”Ai sánh được với Con Thú và ai có thể giao chiến với Con Thú?” 5 Nó
đã được ban cho một cái mồm ăn nói huênh hoang và phạm thượng, và được ban cho
quyền hành động trong vòng bốn mươi hai tháng. 6 Nó mở miệng nói
phạm đến Thiên Chúa, đến danh Người, đến lều thánh của Người, và những đấng ở
trên trời. 7 Nó được phép giao chiến với dân thánh và thắng họ, và
nó được ban quyền trên mọi chi tộc, mọi nước, mọi ngôn ngữ và mọi dân. 8 Mọi
người sống trên mặt đất sẽ thờ lạy nó; đó là những người từ thuở tạo thiên lập
địa không được ghi tên trong Sổ Trường Sinh của Con Chiên đã bị giết. 9 Ai
có tai thì hãy nghe. 10 Ai phải đi đày thì đi đày, ai phải chết vì
gươm thì sẽ chết vì gươm. Đây là lúc dân thánh cần phải có lòng kiên nhẫn và
đức tin.
Ngôn
sứ giả phục vụ Con Thú
11
Tôi
thấy một Con Thú khác từ đất đi lên. Nó có hai sừng giống như sừng chiên, và
nói năng như một Con Mãng Xà. 12 Nó thi hành tất cả quyền bính của
Con Thú thứ nhất, trước mặt Con Thú ấy, và làm cho đất, cũng như những người
sống trên mặt đất, thờ lạy Con Thú thứ nhất, mà vết tử thương đã được chữa lành.
13 Nó làm những dấu lạ lớn lao, khiến cho ngay cả lửa từ trời cũng
rơi xuống đất trước mặt người ta. 14 Nhờ các dấu lạ mà nó được quyền
làm trước mặt Con Thú, nó mê hoặc những người sống trên mặt đất, bảo họ tạc
tượng thờ Con Thú mang vết thương gươm đâm mà nay đã hồi sinh. 15 Nó
được quyền thổi thần khí vào tượng Con Thú, khiến tượng Con Thú cũng nói được
và ra lệnh giết những ai không thờ lạy mình. 16 Nó bắt mọi người,
không phân biệt lớn nhỏ, giàu nghèo, tự do hay nô lệ, phải thích dấu trên tay
hữu hoặc trên trán. 17 Không ai có thể mua bán, nếu không mang dấu
thích đó, tức là tên Con Thú hoặc con số tương đương với tên nó.
18
Đây
là lúc cần phải có sự khôn ngoan. Ai có trí thông minh hãy tính ra số của tên
Con Thú, vì đó là số của tên một người, và số của tên người ấy là sáu trăm sáu
mươi sáu.
Chương 14
Các
người tháp tùng Con Chiên
1
Tôi
thấy: kìa Con Chiên đứng trên núi Xi-on; cùng với Con Chiên, có một trăm bốn
mươi bốn ngàn người, mang danh của Con Chiên và của Cha Con Chiên ghi trên trán.
2 Và tôi nghe thấy tiếng từ trời như tiếng nước lũ, như tiếng sấm
lớn. Tiếng tôi nghe thấy tựa hồ tiếng những nhạc sĩ vừa gảy đàn vừa hát. 3
Họ hát một bài ca mới trước ngai Thiên Chúa, trước bốn Con Vật và các vị
Kỳ Mục. Không ai có thể học được bài ca này, ngoài một trăm bốn mươi bốn ngàn
người ấy, là những người đã được chuộc về từ mặt đất. 4 Những người
ấy đã không ra ô uế bởi phụ nữ, vì họ còn tân. Con Chiên đi đâu, họ cũng đi
theo đó. Họ đã được chuộc về từ giữa loài người, làm của đầu mùa dâng lên Thiên
Chúa và Con Chiên. 5 Chẳng ai thấy miệng họ nói dối: không ai chê
trách họ được.
Ba
thiên thần báo giờ phán xét
6
Rồi
tôi thấy một thiên thần khác bay trên đỉnh vòm trời, mang một tin mừng vĩnh cửu
để loan báo cho các người ở trên mặt đất, cho mọi dân, mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ
và mọi nước. 7 Người lớn tiếng hô: ”Hãy kính sợ Thiên Chúa và tôn
vinh Người, vì đã đến giờ Người phán xét. Hãy thờ lạy Đấng đã tạo thành trời
đất, biển khơi và mọi nguồn nước.” 8 Một thiên thần khác, vị thứ
hai, theo sau và nói: ”Sụp đổ rồi, sụp đổ rồi, thành Ba-by-lon vĩ đại, thành đã
từng cho mọi nước uống thứ rượu là sự gian dâm cuồng loạn của nó.” 9 Một
thiên thần khác, vị thứ ba, theo sau hai vị kia và lớn tiếng nói: ”Ai thờ lạy
Con Thú và tượng của nó, và chịu thích dấu của nó trên trán hoặc trên tay, 10
thì người ấy sẽ phải uống thứ rượu, là cơn lôi đình của Thiên Chúa, rượu
nguyên chất rót vào chén thịnh nộ của Người; người ấy sẽ bị làm khổ trong lửa
và diêm sinh trước mặt các thánh thiên thần và trước mặt Con Chiên. 11 Khói
từ chốn khổ hình của chúng cứ bốc lên đời đời kiếp kiếp. Kẻ nào thờ lạy Con Thú
và tượng của nó, và nhận dấu thích tên nó, thì ngày đêm không được nghỉ ngơi.” 12
Đây là lúc dân thánh, là những người tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa
và sống theo niềm tin vào Đức Giê-su, cần phải có lòng kiên nhẫn. 13 Và
tôi nghe có tiếng từ trời phán rằng: ”Ngươi hãy viết: Ngay từ bây giờ, phúc
thay những người đã chết, mà được chết trong Chúa!” Thần Khí phán: ”Phải, họ sẽ
được nghỉ ngơi, không còn vất vả nhọc nhằn nữa, vì các việc họ làm vẫn theo
họ.”
Mùa
gặt cánh chung
14
Tôi
thấy: kìa một đám mây trắng, và có Đấng ngự trên mây, giống như một Con Người,
đầu đội triều thiên vàng và tay cầm liềm sắc bén. 15 Một thiên thần
khác từ Đền Thờ đi ra, lớn tiếng thưa với Đấng ngự trên mây: ”Xin tra liềm của
Ngài mà gặt, vì đã đến giờ gặt: mùa màng trên đất đã chín rồi!”16 Đấng ngự trên
mây quăng liềm của mình xuống đất và đất bị gặt.
17
Rồi
một thiên thần khác từ Đền Thờ ở trên trời đi ra, cũng cầm liềm sắc bén. 18
Một thiên thần khác từ bàn thờ đi ra, vị này có quyền trên lửa, lớn tiếng
nói với vị cầm liềm sắc: ”Xin tra liềm sắc bén của ngài mà hái các chùm nho
trong vườn nho dưới đất, vì các trái nho của đất đã chín rồi!”19 Thiên thần kia
quăng liềm của mình xuống đất mà hái nho trong vườn nho dưới đất, rồi đổ cả vào
bồn đạp nho lớn, tức là cơn lôi đình của Thiên Chúa. 20 Người ta đạp
nho trong bồn đặt ở ngoài thành, máu tự bồn trào ra ngập đến hàm thiếc ngựa và
lan đến một ngàn sáu trăm dặm.
Chương 15
Bài
ca của ông Mô-sê và của Con Chiên
1
Rồi
tôi thấy một điềm khác trên trời, một điềm lớn lao và kỳ diệu: bảy thiên thần
mang bảy tai ương, đó là những tai ương cuối cùng, vì với những tai ương này,
cơn lôi đình của Thiên Chúa đã hoàn tất. 2 Tôi thấy có cái gì như
biển trong vắt pha ánh lửa, và những người thắng Con Thú, thắng tượng của nó và
con số tương đương với tên nó; tôi thấy họ đứng trên biển trong vắt ấy, họ cầm
những cây đàn của Thiên Chúa 3 và hát bài ca của ông Mô-sê, tôi tớ Thiên Chúa,
và bài ca của Con Chiên; họ hát rằng:
"Lạy
Chúa là Thiên Chúa toàn năng,
sự
nghiệp Ngài thật lớn lao kỳ diệu!
Lạy
Đức Vua trị vì muôn nước,
đường
lối Ngài quả chân thật công minh!
4
Lạy
Chúa, nào có ai không kính sợ Chúa?
Ai
mà chẳng tôn vinh danh Ngài?
Vì
chỉ có Ngài chí thánh chí tôn.
Người
muôn nước sẽ về phủ phục trước Tôn Nhan,
vì
ai ai cũng đều thấy rõ
những
phán quyết công minh của Ngài.”
Bảy
chén tai ương
5
Sau
đó tôi thấy Đền Thờ là Lều Chứng Ước mở ra ở trên trời. 6 Bảy thiên
thần mang bảy tai ương từ Đền Thờ đi ra, mình mặc áo vải gai tinh khiết sáng chói,
ngang ngực có thắt đai bằng vàng. 7 Một trong bốn Con Vật đưa cho
bảy thiên thần bảy chén vàng, đầy cơn lôi đình của Thiên Chúa, Đấng hằng sống
đến muôn thuở muôn đời. 8 Đền Thờ đầy khói từ vinh quang Thiên Chúa
và từ quyền năng của Người toả ra. Không ai có thể vào trong Đền Thờ, bao lâu
bảy tai ương do bảy thiên thần mang đến chưa hoàn tất.
Chương 16
1
Bấy
giờ tôi nghe một tiếng lớn từ Đền Thờ bảo bảy thiên thần: ”Hãy đi trút bảy chén
lôi đình của Thiên Chúa xuống mặt đất.” 2 Vị thứ nhất đi trút chén của
mình xuống mặt đất. Những người mang dấu thích của Con Thú và thờ lạy tượng nó
liền bị một ung nhọt ác tính và đau đớn.
3
Vị
thứ hai trút chén của mình xuống biển. Biển liền hoá ra máu như máu người chết,
và mọi sinh vật dưới biển đều chết.
4
Vị
thứ ba trút chén của mình xuống sông ngòi và các nguồn nước. Nước liền hoá ra
máu. 5 Tôi nghe thiên thần có quyền trên nước nói: ”Lạy Đức Thánh,
Đấng hiện có và đã có, Ngài thật công minh vì đã xét xử như vậy. 6 Chúng
đã đổ máu dân thánh và các ngôn sứ, nên Ngài đã cho chúng uống máu: thật là
đích đáng!”7 Tôi lại nghe bàn thờ nói: ”Vâng, lạy Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng,
những lời Ngài phán quyết đều chân thật công minh!”
8
Vị
thứ tư trút chén của mình xuống mặt trời. Mặt trời liền được phép dùng lửa mà
thiêu đốt người ta. 9 Người ta bị khí nóng dữ dội thiêu đốt, họ nói
phạm đến danh Thiên Chúa, Đấng có quyền trên các tai ương đó, nhưng họ không
chịu hối cải mà tôn vinh Người.
10
Vị
thứ năm trút chén của mình xuống ngai Con Thú. Vương quốc của nó liền ra tối
tăm; người ta cắn lưỡi vì đau đớn; 11 họ nói phạm đến Thiên Chúa
trên trời, vì quá đau đớn và bị ung nhọt, nhưng họ không chịu hối cải mà từ bỏ
các việc mình làm.
12
Vị
thứ sáu trút chén của mình xuống sông cả Êu-phơ-rát. Nước sông ấy liền khô cạn,
để dọn đường cho các vua từ phương Đông tới. 13 Bấy giờ từ miệng Con
Mãng Xà, từ miệng Con Thú và từ miệng ngôn sứ giả, tôi thấy ba thần ô uế nhảy
ra như những con ếch. 14 Chúng quả là những thần khí của ma quỷ,
chúng làm những dấu lạ và đi đến với vua chúa trên khắp cả thiên hạ, nhằm tập
hợp họ lại để giao chiến trong Ngày lớn lao của Thiên Chúa Toàn Năng. -15
“Đây, Ta đến như kẻ trộm. Phúc thay kẻ canh thức và giữ áo mình, kẻo phải đi
đứng trần truồng và bị người ta nhìn thấy sự loã lồ của mình!”-16 Chúng quy tụ
họ tại một nơi, tiếng Híp-ri gọi là Hác-mơ-ghít-đô.
17
Vị
thứ bảy trút chén của mình xuống không khí. Từ Đền Thờ, từ ngai liền có tiếng
lớn phát ra: ”Xong cả rồi!”18 Lúc ấy có ánh chớp, tiếng sấm tiếng sét và động
đất lớn như chưa hề có động đất lớn như vậy bao giờ, từ khi con người xuất hiện
trên mặt đất. 19 Thành vĩ đại vỡ ra làm ba phần và các thành thị của
các nước bị sụp đổ. Thiên Chúa đã nhớ đến thành Ba-by-lon vĩ đại mà cho nó uống
chén rượu là cơn lôi đình thịnh nộ của Người. 20 Mọi hải đảo biến
đi, núi non không còn nữa. 21 Những hạt mưa đá lớn, nặng chừng nửa
tạ, từ trời giáng xuống người ta, và người ta nói phạm đến Thiên Chúa vì bị tai
ương mưa đá, bởi lẽ tai ương đó lớn quá chừng.
Chương 17
2.
BA-BY-LON BỊ TRỪNG PHẠT
Con
Điếm khét tiếng
1
Bấy
giờ, trong số bảy thiên thần mang bảy chén, một vị đến bảo tôi: ”Lại đây, tôi
sẽ chỉ cho ông thấy Con Điếm khét tiếng, đang ngồi bên những làn nước mênh
mông, bị xét xử như thế nào. 2 Vua chúa trần gian đã làm chuyện gian
dâm với nó, và những người sống trên mặt đất đã say vì thứ rượu là sự gian dâm
của nó.” 3 Rồi đang khi tôi xuất thần thì thiên thần đem tôi vào sa
mạc. Ở đó tôi thấy một người đàn bà, ngồi trên một Con Thú đỏ thẫm, con Thú ấy
mang đầy những danh hiệu xúc phạm đến Thiên Chúa, và có bảy đầu mười sừng. 4
Người đàn bà mặc áo đỏ tía và đỏ thẫm, trang sức toàn bằng vàng, đá quý
và ngọc trai, tay cầm một chén vàng đầy những thứ ghê tởm và ô uế, tức là sự
gian dâm của nó. 5 Trên trán nó, có viết một tên mang ý nghĩa huyền
bí: ”Ba-by-lon vĩ đại, mẹ đẻ ra các gái điếm và các thứ ghê tởm trên trần gian.”
6 Tôi thấy người đàn bà ấy say máu dân thánh và máu các chứng nhân
của Đức Giê-su. Thấy nó, tôi rất đỗi ngạc nhiên.
Ý
nghĩa tượng trưng của Con Thú và Con Điếm
7
Bấy
giờ thiên thần bảo tôi: ”Sao lại ngạc nhiên? Tôi sẽ nói cho ông hay ý nghĩa
huyền bí của người đàn bà và của Con Thú nó đang cỡi, là Con Thú bảy đầu mười
sừng. 8 Con Thú ông vừa thấy, nó đã có nhưng không còn nữa. Nó sắp
từ Vực thẳm đi lên và đang tới chỗ diệt vong. Các người sống trên mặt đất, mà
từ thuở tạo thiên lập địa không được ghi tên trong Sổ Trường Sinh, sẽ ngạc
nhiên khi thấy Con Thú, vì nó đã có, nó không còn nữa, nhưng sẽ trở lại. 9
Đây là lúc cần phải có trí thông minh cùng với sự khôn ngoan. Bảy đầu là
bảy quả núi trên đó người đàn bà ngồi.
10
năm
vua đã đổ, một vua hiện còn, một vua khác chưa đến, và khi vua này đến thì phải
ở lại ít thời gian thôi. 11 Còn Con Thú đã có và không còn nữa, nó
là vua thứ tám, nó cũng thuộc số bảy vua và đang tới chỗ diệt vong. 12 Mười
sừng ông đã thấy, là mười vua; chúng chưa nhận được vương quyền, và sẽ nhận
được quyền làm vua với Con Thú, trong vòng một giờ. 13 Chúng chỉ có
một ý định duy nhất là trao thế lực và quyền bính của mình cho Con Thú. 14
Chúng sẽ giao chiến với Con Chiên, và Con Chiên sẽ thắng chúng, vì Con
Chiên là Chúa các chúa, Vua các vua; những kẻ đi theo Người, tức là những kẻ
được kêu gọi, được tuyển chọn, và luôn trung thành, cũng sẽ thắng.”
15
Thiên
thần lại nói với tôi: ”Những làn nước ông đã thấy, nơi Con Điếm ngồi, là những
dân, những đám đông, những nước và những ngôn ngữ. 16 Mười sừng ông
đã thấy và Con Thú, chúng sẽ ghét Con Điếm, sẽ bắt nó phải đơn độc và trần
truồng, sẽ ăn thịt nó và dùng lửa thiêu huỷ nó. 17 Quả vậy, Thiên
Chúa đã khiến chúng quyết tâm thực hiện ý định của Người, thực hiện một ý định
duy nhất là trao vương quyền của chúng cho Con Thú, cho đến khi các lời Thiên
Chúa được hoàn tất. 18 Người đàn bà ông đã thấy, là Thành vĩ đại nắm
vương quyền thống trị vua chúa trần gian.”
Chương 18
Thiên
thần báo tin Ba-by-lon sụp đổ
1
Sau
đó, tôi thấy một thiên thần khác từ trời xuống, với quyền hành rộng lớn, và
vinh quang người làm cho mặt đất rực sáng. 2 Người lên tiếng hô mạnh
mẽ: ”Sụp đổ rồi, sụp đổ rồi, thành Ba-by-lon vĩ đại! Nó đã trở nên sào huyệt
của ma quỷ, hang ổ của mọi thứ thần ô uế, hang ổ của mọi thứ chim chóc ô uế và
đáng ghét, 3 bởi vì mọi nước đã uống thứ rượu là sự gian dâm cuồng
loạn của nó, vua chúa trần gian đã làm chuyện gian dâm với nó, và các con buôn
trên trần gian đã làm giàu nhờ sự xa hoa vô độ của nó!”
Dân
Thiên Chúa phải lánh đi
4
Rồi
tôi nghe một tiếng khác từ trời bảo: ”Hỡi dân Ta, hãy ra khỏi thành ấy đi, để
khỏi thông đồng với tội lỗi của nó và hứng lấy những tai ương dành cho nó! 5
Thật vậy, tội lỗi của nó đã chồng chất lên đến tận trời, và Thiên Chúa đã nhớ
đến các việc gian ác của nó. 6 Nó đã xử làm sao, hãy xử lại với nó
như vậy. Hãy trả lại cho nó gấp đôi những việc nó làm. Chén rượu nó đã rót, hãy
rót trả gấp đôi. 7 Nó đã phô trương vinh quang và sống xa hoa bao
nhiêu, thì hãy giáng khổ hình và tang tóc cho nó bấy nhiêu. Nó đã tự nhủ: ”Ta
ngự trên ngai nữ hoàng, ta không goá bụa, và ta sẽ không hề lâm cảnh tang tóc!
8 Vì thế, nội trong một ngày, những tai ương dành cho nó sẽ ập đến: nào là ôn
dịch, nào là tang tóc, nào là đói kém; nó sẽ bị lửa thiêu huỷ, vì Đức Chúa,
Thiên Chúa, Đấng đã xét xử nó, là Đấng oai hùng!
Than
khóc Ba-by-lon
9
Vua
chúa trần gian đã làm chuyện gian dâm và sống xa hoa với nó, sẽ đấm ngực khóc
than nó, khi thấy khói từ đám cháy thiêu huỷ nó. 10 Vì sợ khổ hình
của nó, chúng sẽ đứng xa xa mà than rằng:
"Khốn
thay! Khốn thay! Hỡi thành vĩ đại,
hỡi
Ba-by-lon, thành phố hùng cường,
vì
nội trong một giờ, ngươi đã bị xét xử!”
11
Các
con buôn trên mặt đất khóc lóc để tang nó, vì không còn ai mua hàng hoá của
chúng nữa. 12 Hàng hoá đó là: vàng, bạc, đá quý, ngọc trai; vải gai
mịn, vải đỏ tía, tơ lụa, vải đỏ thẫm; gỗ trầm, đồ bằng ngà, đồ bằng gỗ quý,
bằng đồng, bằng sắt, bằng cẩm thạch; 13 quế, sa nhân, hương thơm,
mộc dược, nhũ hương; rượu, dầu, tinh bột, lúa mì, súc vật, chiên cừu, ngựa, xe,
thân xác, và cả linh hồn người ta nữa.
14
Hoa
quả lòng ngươi ao ước đã biến xa ngươi; mọi thứ loè loẹt, hào nhoáng, ngươi
không còn nữa, và người ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy nữa!
15
Những
kẻ buôn các hàng hoá ấy, những kẻ đã nhờ thành ấy mà làm giàu, sẽ đứng xa xa vì
sợ khổ hình của nó, sẽ khóc lóc, để tang và than rằng:
16 “Khốn thay! Khốn
thay! Thành vĩ đại
đã
mặc vải gai mịn, vải đỏ tía và đỏ thẫm,
trang
sức toàn bằng vàng, đá quý và ngọc trai,
17
vì
nội trong một giờ, bấy nhiêu của cải đã bị phá tan hoang!”
18
và
khi thấy khói từ đám cháy thiêu huỷ nó, họ kêu lên: ”Thành nào sánh được với
thành vĩ đại?” 19 Chúng rắc tro bụi lên đầu, kêu la, khóc lóc, để
tang và than rằng:
"Khốn
thay! Khốn thay! Thành vĩ đại
đã
lấy sự phong phú của mình
mà
làm giàu cho các chủ tàu biển,
vì
nội trong một giờ, nó đã bị phá tan hoang!”
20
Hỡi
thiên quốc, hãy mừng vui hoan hỷ, vì nó đã bị phá tan hoang. Hỡi dân thánh, các
tông đồ và các ngôn sứ, hãy mừng vui hoan hỷ, vì Thiên Chúa đã xử công minh cho
các ngươi, khi lên án nó! 21 Bấy giờ một thiên thần dũng mãnh nhắc một tảng đá
to như chiếc cối xay lớn mà ném xuống biển và nói:
"Ba-by-lon,
thành vĩ đại, sẽ bị thẳng tay ném đi như thế đó,
và
người ta sẽ chẳng bao giờ còn tìm thấy nó nữa!
22
Trong
thành ngươi, sẽ chẳng bao giờ còn nghe
tiếng
nhạc sĩ gảy đàn, ca hát, thổi sáo và thổi kèn.
Trong
thành ngươi, sẽ chẳng bao giờ còn thấy
thợ
thủ công thuộc mọi ngành nghề.
Trong
thành ngươi, sẽ chẳng bao giờ còn nghe
tiếng
cối xay bột nữa.
23
Trong
thành ngươi, sẽ chẳng bao giờ còn thấy
ánh
sáng đèn chiếu rọi.
Trong
thành ngươi, sẽ chẳng bao giờ còn nghe
tiếng
cô dâu chú rể.
Bởi
vì các con buôn của ngươi
từng
là kẻ quyền thế trên mặt đất,
bởi
vì ngươi đã dùng phù phép
mà
làm cho muôn nước mê hoặc,
24
và
trong thành ngươi,
đã
tìm thấy máu của các ngôn sứ, của dân thánh
và
của mọi người đã bị giết trên mặt đất.”
Chương 19
Khải
hoàn ca trên thiên quốc
1
Sau
đó, tôi nghe như có tiếng hô lớn của đoàn người đông đảo ở trên trời vang lên:
"Ha-lê-lui-a!
Thiên
Chúa ta thờ là Đấng cứu độ,
Đấng
vinh hiển uy quyền!
2
Những
lời Người phán quyết
đều
chân thật công minh!
Vì
Người đã xét xử Con Điếm khét tiếng
từng
dùng chuyện gian dâm
mà
làm cho mặt đất ra hư hỏng,
và
Người đã bắt nó
phải
đền nợ máu các tôi tớ của Người
mà
chính tay nó đã giết.”
3
Lần
thứ hai họ lại hô: ”Ha-lê-lui-a! Khói lửa thiêu nó cứ bốc lên đời đời kiếp
kiếp!”4 Bấy giờ, hai mươi bốn vị Kỳ Mục và bốn Con Vật phủ phục xuống thờ lạy
Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai, mà tung hô: ”A-men! Ha-lê-lui-a!”
5
Rồi
từ ngai có tiếng phát ra:
"Nào
ca ngợi Thiên Chúa chúng ta,
hỡi
tất cả tôi trung của Chúa,
hỡi
những ai lớn nhỏ hằng kính sợ Người!”
6
Tôi
lại nghe như có tiếng hô của đoàn người đông đảo, nghe như tiếng nước lũ, như
tiếng sấm vang dữ dội:
"Ha-lê-lui-a!
Đức
Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng
đã
lên ngôi hiển trị.
7
Nào
ta hãy vui mừng hoan hỷ
dâng
Chúa lời tôn vinh,
8
vì
nay đã tới ngày cử hành hôn lễ Con Chiên,
và
Hiền Thê của Người đã trang điểm sẵn sàng,
nàng
đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền.”
9
Thiên
thần bảo tôi: ”Hãy viết: Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới Con
Chiên!” Người lại bảo tôi: ”Đó là những lời chân thật của chính Thiên Chúa.” 10
Tôi phủ phục xuống dưới chân người mà thờ lạy, nhưng người nói: ”Đừng,
đừng! Tôi cũng là một tôi tớ như ông và như các anh em của ông, những người giữ
lời chứng của Đức Giê-su. Hãy thờ lạy Thiên Chúa.” Lời chứng của Đức Giê-su, là
thần khí linh hứng cho ngôn sứ.
3.
CÁC DÂN NGOẠI BỊ TIÊU DIỆT
Cuộc
chiến cánh chung thứ nhất
11
Bấy
giờ tôi thấy trời rộng mở: kìa một con ngựa trắng, và người cỡi ngựa mang tên là
“Trung thành và Chân thật", Người theo công lý mà xét xử và giao chiến. 12
Mắt Người như ngọn lửa hồng, đầu Người đội nhiều vương miện, Người mang
một danh hiệu viết trên mình, mà ngoài Người ra chẳng ai biết được. 13 Người
khoác một áo choàng đẫm máu, và danh hiệu của Người là: ”Lời của Thiên Chúa.” 14
Các đạo quân thiên quốc đi theo Người, họ cỡi ngựa trắng, mặc áo vải gai
mịn trắng tinh. 15 Từ miệng Người phóng ra một thanh gươm sắc bén để
chém muôn nước. Chính Người sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt chúng. Người đạp
trong bồn đạp nho chứa thứ rượu là cơn lôi đình thịnh nộ của Thiên Chúa Toàn
Năng. 16 Người mang một danh hiệu viết trên áo choàng và trên vế:
”Vua các vua, Chúa các chúa.”
17
Rồi
tôi thấy một thiên thần đứng trên mặt trời; người lớn tiếng bảo mọi loài chim
đang bay trên đỉnh vòm trời: ”Đến đây, tề tựu cả về mà dự đại tiệc của Thiên
Chúa, 18 để ăn thịt vua chúa, thịt dũng tướng hùng binh, thịt chiến
mã và kỵ binh, thịt mọi người, tự do cũng như nô lệ, trẻ nhỏ cũng như người
lớn!”
19
Tôi
lại thấy Con Thú và vua chúa trên mặt đất, cùng với các đạo quân của chúng, tụ
tập lại để giao chiến với Đấng cỡi ngựa và đạo quân của Người. 20 Con
Thú bị bắt, cùng với tên ngôn sứ giả từng dùng các dấu lạ hắn làm trước mặt nó,
mà mê hoặc những kẻ nhận dấu thích của nó và những kẻ thờ lạy tượng của nó. Cả
hai bị quăng sống vào hồ lửa có diêm sinh đang cháy ngùn ngụt. 21 Những
người còn lại bị thanh gươm phóng ra từ miệng Đấng cỡi ngựa giết chết, và mọi
loài chim được ăn no thịt của chúng.
Chương 20
Triều
đại một ngàn năm
1
Bấy
giờ tôi thấy một thiên thần từ trời xuống, tay cầm chìa khoá vực thẳm và một
dây xích lớn. 2 Người bắt lấy Con Mãng Xà, tức là Con Rắn xưa, cũng
là ma quỷ hay Xa-tan, và xích nó lại một ngàn năm. 3 Người quăng nó
vào Vực thẳm, rồi đóng cửa và niêm phong lại, để nó không còn mê hoặc các nước,
cho đến khi hết một ngàn năm ấy. Sau đó, nó phải được thả ra trong một thời
gian ngắn.
4
Rồi
tôi thấy những chiếc ngai, có người ngồi trên đó, và họ được ban quyền xét xử.
Tôi cũng thấy linh hồn những người đã bị chém đầu vì đã rao giảng lời chứng của
Đức Giê-su và lời của Thiên Chúa; họ là những kẻ đã không thờ lạy Con Thú và
tượng của nó, và không nhận thích dấu của nó trên trán và trên tay. Họ sống lại
và hiển trị với Đức Ki-tô một ngàn năm. 5 Những người khác trong số
kẻ chết thì không được sống lại trước khi hết một ngàn năm ấy. Đó là lần phục
sinh thứ nhất. 6 Hạnh phúc thay và thánh thiện dường nào kẻ được dự
phần vào cuộc phục sinh thứ nhất này! Cái chết thứ hai không có quyền gì trên
họ; nhưng họ sẽ là tư tế của Thiên Chúa và của Đức Ki-tô, họ sẽ hiển trị với
Đức Ki-tô một ngàn năm ấy.
Cuộc
chiến cánh chung thứ hai
7
Hết
một ngàn năm ấy, Xa-tan sẽ được thả ra khỏi ngục. 8 Nó sẽ ra đi mê
hoặc các nước ở khắp bốn phương thiên hạ là Gốc và Ma-gốc, và tập hợp chúng lại
để giao chiến; số chúng nhiều như cát biển. 9 Chúng tiến lên lan
tràn khắp mặt đất, bao vây doanh trại dân thánh và Thành Đô được Thiên Chúa yêu
chuộng. Nhưng có lửa từ trời rơi xuống thiêu huỷ chúng. 10 Ma quỷ,
tên mê hoặc chúng, bị quăng vào hồ lửa và diêm sinh, ở đó đã có Con Thú và tên
ngôn sứ giả; và chúng sẽ bị làm khổ ngày đêm đời đời kiếp kiếp.
Các
dân bị xét xử
11
Bấy
giờ tôi thấy một ngai lớn màu trắng và thấy Đấng ngự trên đó. Đất và trời biến mất
trước mặt Người, không để lại dấu vết. 12 Rồi tôi thấy những người
chết, lớn cũng như nhỏ, đứng trước ngai. Sổ sách đã mở sẵn; rồi một cuốn khác
cũng đã mở ra: đó là Sổ Trường Sinh. Các người chết được xét xử tuỳ theo việc
họ đã làm, chiếu theo những gì đã được ghi chép trong sổ sách.
13
Biển
trả lại những người chết nó đang giữ; Tử thần và Âm phủ trả lại những người
chết chúng đang giữ, và mỗi người chịu xét xử tuỳ theo các việc đã làm. 14
Tử thần và Âm phủ bị quăng vào hồ lửa. Hồ lửa này là cái chết thứ hai. 15
Ai không có tên ghi trong Sổ trường sinh thì bị quăng vào hồ lửa.
Chương 21
4.
GIÊ-RU-SA-LEM TƯƠNG LAI
Trời
mới đất mới
1
Bấy
giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng
không còn nữa. 2 Và tôi thấy Thành Thánh là Giê-ru-sa-lem mới, từ
trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân
lang. 3 Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: ”Đây là nhà tạm
Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của
Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. 4 Thiên Chúa sẽ
lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than
và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.”
5
Đấng
ngự trên ngai phán: ”Này đây Ta đổi mới mọi sự.” Rồi Người phán: ”Ngươi hãy
viết: Đây là những lời đáng tin cậy và chân thật.” 6 Người lại phán
với tôi: ”Xong cả rồi! Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Khởi Nguyên và Tận Cùng.
Chính Ta sẽ ban cho ai khát được uống nơi nguồn nước trường sinh, mà không phải
trả tiền. 7 Ai thắng sẽ được thừa hưởng hồng ân đó. Ta sẽ là Thiên
Chúa của người ấy, và người ấy sẽ là con của Ta. 8 Còn những kẻ hèn
nhát, bất trung, đáng ghê tởm, sát nhân, gian dâm, làm phù phép, thờ ngẫu
tượng, và mọi kẻ nói dối, thì phần dành cho chúng là hồ lửa và diêm sinh cháy
ngùn ngụt: đó là cái chết thứ hai.”
Giê-ru-sa-lem
mới
9
Bấy
giờ, trong số bảy thiên thần mang bảy chén đầy bảy tai ương cuối cùng, một vị
đến bảo tôi: ”Lại đây, tôi sẽ chỉ cho ông thấy Tân Nương, Hiền Thê của Con
Chiên.” 10 Rồi đang khi tôi xuất thần, thì người đem tôi lên một
ngọn núi cao hùng vĩ, và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh, là Giê-ru-sa-lem, từ
trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, 11 chói lọi vinh quang Thiên Chúa.
Thành rực sáng tựa đá quý tuyệt vời, như ngọc thạch trong suốt tựa pha lê. 12
Thành có tường rộng và cao, với mười hai cửa do mười hai thiên thần canh
giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc con cái Ít-ra-en. 13 Phía
đông có ba cửa, phía bắc ba cửa, phía nam ba cửa và phía tây ba cửa. 14 Tường
thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con
Chiên.
15
Thiên
thần đang nói với tôi cầm cái thước đo là một cây sậy bằng vàng, để đo thành,
các cửa và tường thành. 16 Thành hình vuông: chiều dài cũng bằng
chiều rộng. Rồi người lấy cây sậy đo thành, được mười hai ngàn dặm: chiều dài,
chiều rộng và chiều cao đều bằng nhau. 17 Người đo tường thành được
một trăm bốn mươi bốn thước, theo thước đo của loài người cũng là của vị thiên
thần. 18 Tường xây bằng ngọc thạch, thành thì bằng vàng y, giống như
thủy tinh trong sáng. 19 Nền móng tường thành được trang trí bằng
mọi thứ đá quý. Nền móng thứ nhất bằng ngọc thạch, nền móng thứ hai bằng lam
ngọc, nền móng thứ ba bằng lục ngọc, nền móng thứ tư bằng bích ngọc, 20 nền
móng thứ năm bằng mã não, nền móng thứ sáu bằng xích não, nền móng thứ bảy bằng
kim châu, nền móng thứ tám bằng lục châu, nền móng thứ chín bằng hoàng ngọc,
nền móng thứ mười bằng kim lục, nền móng thứ mười một bằng huỳnh ngọc, nền móng
thứ mười hai bằng tử ngọc. 21 Mười hai cửa là mười hai khối ngọc
trai; mỗi cửa là một khối ngọc duy nhất.”Quảng trường của thành bằng vàng y như
thủy tinh trong suốt.” 22 Trong thành, tôi không thấy có Đền Thờ, vì
Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành. 23 Thành
chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa toả
rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi. 24 Các dân ngoại sẽ tiến
bước theo ánh sáng của thành, và vua chúa trần gian đem kho tàng vinh quang tới
đó. 25 Ngày nọ qua ngày kia, cửa thành không bao giờ đóng, vì ở đấy
sẽ chẳng có đêm. 26 Thiên hạ sẽ đem tới đó kho tàng vinh quang và sự
giàu sang của các dân ngoại. 27 Tất cả những gì ô uế cũng như bất cứ
ai làm điều ghê tởm và ăn gian nói dối, đều không được vào thành, mà chỉ có
những người có tên ghi trong Sổ trường sinh của Con Chiên mới được vào.
Chương 22
1
Rồi
thiên thần chỉ cho tôi thấy một con sông có nước trường sinh, sáng chói như pha
lê, chảy ra từ ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên. 2 Ở giữa quảng
trường của thành, giữa hai nhánh sông, có cây Sự Sống sinh trái mười hai lần,
mỗi tháng một lần; lá cây dùng làm thuốc chữa lành các dân ngoại.
3
Sẽ
không còn lời nguyền rủa nào nữa. Ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên sẽ đặt
trong thành, và các tôi tớ Người sẽ thờ phượng Người. 4 Họ sẽ được
nhìn thấy tôn nhan Người, và thánh danh Người ghi trên trán họ. 5 Sẽ
không còn đêm tối nữa, họ sẽ không cần ánh sáng của đèn, cũng chẳng cần ánh
sáng mặt trời, vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên họ, và họ sẽ hiển
trị đến muôn thuở muôn đời.
6
Thiên
thần nói với tôi: ”Đây là những lời đáng tin cậy và chân thật; và Đức Chúa là
Thiên Chúa ban Thần Khí linh hứng cho các ngôn sứ, đã sai thiên thần của Người
đến tỏ cho các tôi tớ Người biết những việc sắp phải xảy đến.” 7-”Đây, chẳng
bao lâu nữa Ta sẽ đến! Phúc thay kẻ tuân giữ các sấm ngôn trong sách này!”-8
Tôi là Gio-an, đã được nghe và thấy những điều đó. Nghe và thấy xong, tôi phủ
phục xuống dưới chân vị thiên thần đã chỉ cho tôi thấy các điều ấy, mà thờ lạy
người. 9 Nhưng người nói: ”Đừng, đừng! Tôi cũng là một tôi tớ như
ông và như các anh em của ông là các ngôn sứ và những người tuân giữ các lời
trong sách này. Hãy thờ lạy Thiên Chúa.”
10
Rồi
người bảo tôi: ”Đừng niêm phong những sấm ngôn trong sách này, vì thời giờ đã
gần đến. 11 Kẻ gian ác cứ làm điều gian ác nữa đi, kẻ ô uế cứ ra ô
uế nữa đi, người công chính cứ hành động công chính nữa đi, và người thánh
thiện cứ sống thánh thiện nữa đi!”12-”Đây, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến, và Ta
đem theo lương bổng để trả cho mỗi người tuỳ theo việc mình làm. 13 Ta
là An-pha và Ô-mê-ga, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng. 14 Phúc
thay những kẻ giặt sạch áo mình, để được quyền hưởng dùng cây Sự Sống và qua
cửa mà vào Thành! 15 Những quân chó má, làm phù phép, gian dâm, sát nhân, thờ
ngẫu tượng, cùng với mọi kẻ thích điều gian dối và ăn gian nói dối, hãy xéo ra
ngoài.
KẾT
16 “Ta là Giê-su, Ta đã
sai thiên thần của Ta đến với các ngươi để làm chứng về những điều trên đây,
liên quan đến các Hội Thánh. Chính Ta là Chồi Non và Dòng Dõi Đa-vít, là Sao
Mai sáng ngời.”
17
Thần
Khí và Tân Nương nói: ”Xin Ngài ngự đến!” Ai nghe, hãy nói: ”Xin Ngài ngự đến!”
Ai khát, hãy đến; ai muốn, hãy đến lãnh nước trường sinh mà không phải trả
tiền.
18
Với
bất cứ ai nghe những sấm ngôn trong sách này, tôi xin chứng thực: ”Ai mà thêm
điều gì vào đó, thì Thiên Chúa sẽ thêm cho người ấy những tai ương mô tả trong
sách này! 19 Ai mà bớt điều gì trong các lời của sách sấm ngôn này, thì Thiên
Chúa sẽ bớt phần người ấy được hưởng nơi cây Sự Sống và Thành Thánh, là cây và
thành mô tả trong sách này!”
20
Đấng
làm chứng về những điều đó phán rằng: ”Phải, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến.”
A-men,
lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến!
21
Chúc
mọi người được đầy ân sủng của Chúa Giê-su.
Ngũ Thư
Sáng Thế Ký
Chương 01
I.
Nguồn Gốc Vũ Trụ Và Nhân Loại
1.
Thiên Chúa Sáng Tạo. Con Người Sa Ngã
Thiên
Chúa sáng tạo trời đất
1
Lúc
khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. 2 Ðất còn trống rỗng, chưa
có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên
mặt nước.
3
Thiên
Chúa phán: "Phải có ánh sáng." Liền có ánh sáng. 4 Thiên
Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối. 5
Thiên Chúa gọi ánh sáng là "ngày", bóng tối là "đêm".
Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất.
6
Thiên
Chúa phán: "Phải có một cái vòm ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với
nước.” 7 Thiên Chúa làm ra cái vòm đó và phân rẽ nước phía dưới vòm
với nước phía trên. Liền có như vậy. 8 Thiên Chúa gọi vòm đó là
"trời". Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ hai.
9
Thiên
Chúa phán: "Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ
ra." Liền có như vậy. 10 Thiên Chúa gọi chỗ cạn là
"đất", khối nước tụ lại là "biển". Thiên Chúa thấy thế là
tốt đẹp.
11
Thiên
Chúa phán: "Ðất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây
trên mặt đất có trái, ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt giống." Liền có
như vậy. 12 Ðất trổ sinh thảo mộc, cỏ mang hạt giống tuỳ theo loại,
và cây ra trái, trong trái có hạt giống tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là
tốt đẹp. 13 Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ ba.
14
Thiên
Chúa phán: "Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với
đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. 15 Ðó sẽ là
những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất." Liền có như vậy. 16
Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển
ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao. 17
Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, 18 để
điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối. Thiên Chúa thấy
thế là tốt đẹp. 19 Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày
thứ tư.
20
Thiên
Chúa phán: "Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài
chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời.” 21 Thiên Chúa sáng
tạo các thủy quái khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ
theo loại, và mọi giống chim bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
22 Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: "Hãy sinh sôi nảy nở
thật nhiều, cho đầy biển; và chim phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất.” 23
Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ năm.
24
Thiên
Chúa phán: "Ðất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc, loài bò
sát và dã thú tuỳ theo loại." Liền có như vậy. 25 Thiên Chúa
làm ra dã thú tuỳ theo loại, gia súc tuỳ theo loại và loài bò sát dưới đất tuỳ
theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
26
Thiên
Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống
như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất
cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất."
27
Thiên
Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình,
Thiên
Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa,
Thiên
Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.
28
Thiên
Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: "Hãy sinh sôi nảy nở
thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim
trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.” 29 Thiên Chúa phán:
"Ðây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và
mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. 30 Còn
đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban
cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực. Liền có như vậy.” 31 Thiên
Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp! Qua một buổi chiều và một
buổi sáng: đó là ngày thứ sáu.
Chương 02
1 Thế là trời đất cùng với mọi
thành phần đã hoàn tất. 2 Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành
công việc Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên
Chúa nghỉ ngơi.
3
Thiên
Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã
nghỉ, ngưng làm mọi công việc sáng tạo của Người.
4
Ðó
là gốc tích trời đất khi được sáng tạo.
Vườn
địa đàng. Thử thách.
5
Ngày
Ðức Chúa là Thiên Chúa làm ra đất và trời, chưa có bụi cây ngoài đồng nào trên
mặt đất, chưa có đám cỏ ngoài đồng nào mọc lên, vì Ðức Chúa là Thiên Chúa chưa
cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất đai. 6 Nhưng có
một dòng nước từ đất trào lên và tưới khắp mặt đất. 7 Ðức Chúa là
Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con
người trở nên một sinh vật. 8 Rồi Ðức Chúa là Thiên Chúa trồng một
vườn cây ở Ê-đen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra.
9
Ðức
Chúa là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì
ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác. 10
Một con sông từ Ê-đen chảy ra tưới khu vườn, và từ đó chia thành bốn
nhánh.11 Tên nhánh thứ nhất là Pi-sôn, nó bao quanh tất cả đất Kha-vi-la là nơi
có vàng; 12 vàng ở đất này tốt, tại đó có nhũ hương và đá ngọc. 13
Tên nhánh thứ hai là Ghi-khôn; nhánh này bao quanh tất cả đất Cút. 14
Tên nhánh thứ ba là Tích-ra; nhánh này chảy ở phía đông Át-sua. Còn nhánh
thứ bốn là Êu-phơ-rát. 15 Ðức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt
vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai. 16 Ðức Chúa là Thiên
Chúa truyền lệnh cho con người rằng: "Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi
cứ ăn; 17 nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi
không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết."
18
Ðức
Chúa là Thiên Chúa phán: "Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm
cho nó một trợ tá tương xứng với nó. 19 Ðức Chúa là Thiên Chúa lấy
đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người
gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế. 20
Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con
người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng. 21 Ðức Chúa là
Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi.
Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. 22 Ðức
Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một
người đàn bà và dẫn đến với con người.
23
Con
người nói:
"Phen
này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!
Nàng
sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra."
24
Bởi
thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương
một thịt.
25
Con
người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau.
Chương 03
Sa
ngã
1
Rắn
là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà Ðức Chúa là Thiên
Chúa đã làm ra. Nó nói với người đàn bà: "Có thật Thiên Chúa bảo:
"Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không? 2 Người đàn bà
nói với con rắn: "Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. 3 Còn
trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: "Các ngươi không được ăn,
không được động tới, kẻo phải chết.” 4 Rắn nói với người đàn bà:
"Chẳng chết chóc gì đâu! 5 Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái
cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện
điều ác.” 6 Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp
mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn,
rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn. 7 Bấy giờ mắt
hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che
thân.
8
Nghe
thấy tiếng Ðức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày,
con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Ðức
Chúa là Thiên Chúa. 9 Ðức Chúa là Thiên Chúa gọi con người và hỏi:
"Ngươi ở đâu? “ 10 Con người thưa: "Con nghe thấy tiếng
Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn.” 11 Ðức
Chúa là Thiên Chúa hỏi: "Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có
phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không? “ 12 Con
người thưa: "Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên
con ăn.” 13 Ðức Chúa là Thiên Chúa hỏi người đàn bà: "Ngươi đã
làm gì thế? " Người đàn bà thưa: "Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn.”
14 Ðức Chúa là Thiên Chúa phán với con rắn:
"Mi
đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất
trong
mọi loài súc vật và mọi loài dã thú.
Mi
phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi.
15
Ta
sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,
giữa
dòng giống mi và dòng giống người ấy;
dòng
giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó."
16
Với
người đàn bà, Chúa phán:
"Ta
sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén;
ngươi
sẽ phải cực nhọc lúc sinh con.
Ngươi
sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi."
17
Với
con người, Chúa phán: "Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã
truyền cho ngươi rằng: "Ngươi đừng ăn nó",
nên
đất đai bị nguyền rủa vì ngươi;
ngươi
sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi,
mới
kiếm được miếng ăn từ đất mà ra.
18
Ðất
đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng.
19
Ngươi
sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn,
cho
đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra.
Ngươi
là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất."
20
Con
người đặt tên cho vợ là E-và, vì bà là mẹ của chúng sinh. 21 Ðức
Chúa là Thiên Chúa làm cho con người và vợ con người những chiếc áo bằng da và
mặc cho họ. 22 Ðức Chúa là Thiên Chúa nói: "Này con người đã
trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ, đừng để
nó giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi.” 23 Ðức
Chúa là Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Ê-đen để cày cấy đất đai, từ đó
con người đã được lấy ra. 24 Người trục xuất con người, và ở phía
đông vườn Ê-đen, Người đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ
đường đến cây trường sinh.
Chương 04
Ca-in
và A-ben
1
Con
người ăn ở với E-và, vợ mình. Bà thụ thai và sinh ra Ca-in. Bà nói: "Nhờ
Ðức Chúa, tôi đã được một người.” 2 Bà lại sinh ra A-ben, em ông.
A-ben làm nghề chăn chiên, còn Ca-in làm nghề cày cấy đất đai. 3 Sau
một thời gian, Ca-in lấy hoa màu của đất đai làm lễ vật dâng lên Ðức Chúa. 4
A-ben cũng dâng những con đầu lòng của bầy chiên cùng với mỡ của chúng.
Ðức Chúa đoái nhìn đến A-ben và lễ vật của ông, 5 nhưng Ca-in và lễ
vật của ông thì Người không đoái nhìn. Ca-in giận lắm, sa sầm nét mặt. 6 Ðức
Chúa phán với Ca-in: "Tại sao ngươi giận dữ? Tại sao ngươi sa sầm nét mặt?
7 Nếu ngươi hành động tốt, có phải là ngươi sẽ ngẩng mặt lên không? Nếu ngươi
hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn ngươi; nhưng
ngươi phải chế ngự nó.” 8 Ca-in nói với em là A-ben: "Chúng
mình ra ngoài đồng đi! " Và khi hai người đang ở ngoài đồng thì Ca-in xông
đến giết A-ben, em mình.
9
Ðức
Chúa phán với Ca-in: "A-ben em ngươi đâu rồi? " Ca-in thưa: "Con
không biết. Con là người giữ em con hay sao? “ 10 Ðức Chúa phán:
"Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta!
11 Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em
ngươi, do tay ngươi đổ ra. 12 Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng
không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa. Ngươi sẽ lang thang phiêu bạt trên mặt
đất.” 13 Ca-in thưa với Ðức Chúa: "Hình phạt dành cho con quá
nặng không thể mang nổi. 14 Ðây, hôm nay Ngài xua đuổi con khỏi mặt
đất. Con sẽ phải trốn tránh để khỏi giáp mặt Ngài, sẽ phải lang thang phiêu bạt
trên mặt đất, và bất cứ ai gặp con sẽ giết con.” 15 Ðức Chúa phán
với ông: "Không đâu! Bất cứ ai giết Ca-in sẽ bị trả thù gấp bảy." Ðức
Chúa ghi dấu trên Ca-in, để bất cứ ai gặp ông khỏi giết ông. 16 Ông
Ca-in đi xa khuất mặt Ðức Chúa và ở tại xứ Nốt, về phía đông Ê-đen.
Dòng
dõi ông Ca-in
17
Ông
Ca-in ăn ở với vợ. Bà thụ thai và sinh ra Kha-nốc. Ông xây một thành, và lấy
tên con mình là Kha-nốc mà đặt cho thành ấy. 18 Kha-nốc sinh I-rát;
I-rát sinh Mơ-khu-gia-ên; Mơ-khu-gia-ên sinh Mơ-thu-sa-ên; Mơ-thu-sa-ên sinh
La-méc. 19 La-méc lấy hai vợ, một bà tên là A-đa, bà thứ hai tên là
Xi-la. 20 Bà A-đa sinh Gia-van; ông này là ông tổ các người ở lều và
nuôi súc vật. 21 Em ông này tên là Giu-van; ông này là ông tổ các
người chơi đàn thổi sáo. 22 Còn bà Xi-la thì sinh Tu-van Ca-in; ông này
là ông tổ các người thợ rèn đồng và sắt. Em gái Tu-van Ca-in là Na-a-ma.
23
Ông
La-méc nói với các bà vợ:
"A-đa
và Xi-la, hãy nghe tiếng ta!
Thê
thiếp của La-méc, hãy lắng tai nghe lời ta!
Vì
một vết thương, ta đã giết một người,
vì
một chút sây sát, ta đã giết một đứa trẻ.
24
Ca-in
sẽ được báo thù gấp bảy,
nhưng
La-méc thì gấp bảy mươi bảy!"
Ông
Sết và dòng dõi
25
Ông
A-đam lại ăn ở với vợ. Bà sinh một con trai và đặt tên là Sết; bà nói:
"Thiên Chúa đã sắp đặt cho tôi một dòng dõi khác thay cho A-ben, vì Ca-in
đã giết nó.” 26 Ông Sết cũng sinh được một con trai và đặt tên là
E-nốt. Bấy giờ, người ta bắt đầu kêu cầu danh Ðức Chúa.
Chương 05
Các
tổ phụ trước Hồng Thuỷ (1 Sb 1:1-4)
1
Ðây
là gia phả ông A-đam: Ngày Thiên Chúa sáng tạo con người, Chúa làm ra con người
giống như Thiên Chúa. 2 Chúa sáng tạo con người có nam có nữ, Chúa
ban phúc lành cho họ và đặt tên cho họ là "người", ngày họ được sáng
tạo.
3
Khi
ông A-đam được một trăm ba mươi tuổi, thì ông sinh ra một người con trai giống
như ông, theo hình ảnh ông, và đặt tên là Sết. 4 Sau khi sinh ông
Sết, ông A-đam sống tám trăm năm và sinh ra con trai con gái. 5 Tổng
cộng ông A-đam sống được chín trăm ba mươi năm, rồi qua đời.
6
Khi
ông Sết được một trăm lẻ năm tuổi, thì sinh ra E-nốt. 7 Sau khi sinh
E-nốt, ông Sết sống tám trăm lẻ bảy năm và sinh ra con trai con gái. 8 Tổng
cộng ông Sết sống được chín trăm mười hai năm, rồi qua đời.
9
Khi
ông E-nốt được chín mươi tuổi, thì sinh ra Kê-nan. 10 Sau khi sinh
Kê-nan, ông E-nốt sống tám trăm mười lăm năm và sinh ra con trai con gái. 11
Tổng cộng ông E-nốt sống được chín trăm lẻ năm năm, rồi qua đời.
12
Khi
ông Kê-nan được bảy mươi tuổi, thì sinh ra Ma-ha-lan-ên. 13 Sau khi
sinh Ma-ha-lan-ên, ông Kê-nan sống tám trăm bốn mươi năm và sinh ra con trai
con gái. 14 Tổng cộng ông Kê-nan sống được chín trăm mười năm, rồi
qua đời.
15
Khi
ông Ma-ha-lan-ên được sáu mươi lăm tuổi, thì sinh ra Gie-rét. 16 Sau
khi sinh Gie-rét, ông Ma-ha-lan-ên sống tám trăm ba mươi năm và sinh ra con
trai con gái. 17 Tổng cộng ông Ma-ha-lan-ên sống được tám trăm chín
mươi lăm năm, rồi qua đời.
18
Khi
ông Gie-rét được một trăm sáu mươi hai tuổi, thì sinh ra Kha-nốc. 19 Sau
khi sinh Kha-nốc, ông Gie-rét sống tám trăm năm và sinh ra con trai con gái. 20
Tổng cộng ông Gie-rét sống được chín trăm sáu mươi hai năm, rồi qua đời.
21
Khi
ông Kha-nốc được sáu mươi lăm tuổi, thì sinh ra Mơ-thu-se-lác. 22 Sau
khi sinh Mơ-thu-se-lác, ông Kha-nốc đi với Thiên Chúa ba trăm năm và sinh ra
con trai con gái. 23 Tổng cộng ông Kha-nốc sống được ba trăm sáu
mươi lăm năm. 24 Sau khi đi với Thiên Chúa, ông không còn nữa, vì
Thiên Chúa đã đem ông đi.
25
Khi
ông Mơ-thu-se-lác được một trăm tám mươi bảy tuổi, thì sinh ra La-méc. 26 Sau
khi sinh La-méc, ông Mơ-thu-se-lác sống bảy trăm tám mươi hai năm và sinh ra
con trai con gái. 27 Tổng cộng ông Mơ-thu-se-lác sống được chín trăm
sáu mươi chín năm, rồi qua đời.
28
Khi
ông La-méc sống được một trăm tám mươi hai tuổi, thì sinh ra một người con trai.
29 Ông đặt tên cho con là Nô-ê; ông nói: "Khi tay chúng ta phải
làm lụng cực nhọc, thì trẻ này sẽ đem lại cho chúng ta niềm an ủi phát xuất từ
đất đai Ðức Chúa đã nguyền rủa.” 30 Sau khi sinh ông Nô-ê, ông
La-méc sống năm trăm chín mươi lăm năm và sinh ra con trai con gái. 31 Tổng
cộng ông La-méc sống được bảy trăm bảy mươi bảy năm, rồi qua đời.
32
Khi
ông Nô-ê được năm trăm tuổi, thì sinh ra Sêm, Kham và Gia-phét.
Chương 06
Con
trai Thiên Chúa và con gái loài người
1
Vậy
khi loài người bắt đầu thêm đông trên mặt đất, và sinh ra những con gái, 2
thì các con trai Thiên Chúa thấy con gái loài người xinh đẹp; những cô họ
ưng ý thì họ lấy làm vợ. 3 Ðức Chúa phán: "Thần khí của Ta sẽ
không ở lại mãi mãi trong con người, vì con người chỉ là xác phàm, tuổi đời của
nó sẽ là một trăm hai mươi năm.” 4 Có những người khổng lồ trên mặt
đất vào thời bấy giờ và cả sau đó nữa, khi các con trai Thiên Chúa đi lại với
con gái loài người, và các cô này sinh cho họ những người con. Ðó là những anh
hùng thuở xưa, những người có tên tuổi.
2.
Hồng Thủy
Loài
người sa đọa
5
Ðức
Chúa thấy rằng sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất, và lòng nó
chỉ toan tính những ý định xấu suốt ngày. 6 Ðức Chúa hối hận vì đã
làm ra con người trên mặt đất, và Người buồn rầu trong lòng. 7 Ðức
Chúa phán: "Ta sẽ xoá bỏ khỏi mặt đất con người mà Ta đã sáng tạo, từ con
người cho đến gia súc, giống vật bò dưới đất và chim trời, vì Ta hối hận đã làm
ra chúng.” 8 Nhưng ông Nô-ê được đẹp lòng Ðức Chúa.
9
Ðây
là gia đình ông Nô-ê: Ông Nô-ê là người công chính, hoàn hảo giữa những người
đồng thời, và ông đi với Thiên Chúa. 10 Ông Nô-ê sinh ba con trai là
Sêm, Kham và Gia-phét. 11 Ðất đã ra hư hỏng trước nhan Thiên Chúa và
đầy bạo lực. 12 Thiên Chúa nhìn đất và thấy nó đã ra hư hỏng, vì mọi
xác phàm đã theo nếp sống hư hỏng trên mặt đất.
Chuẩn
bị
13
Thiên
Chúa phán với ông Nô-ê: "Ta đã quyết định giờ tận số của mọi xác phàm, vì
tại chúng mà đất đầy bạo lực: này Ta sắp tiêu diệt chúng cùng với đất. 14 Ngươi
hãy làm cho mình một chiếc tàu bằng gỗ bách. Ngươi sẽ làm tàu có những ngăn và
lấy nhựa đen mà trám cả trong lẫn ngoài. 15 Ngươi sẽ làm tàu thế
này: chiều dài một trăm năm mươi thước, chiều rộng hai mươi lăm thước, chiều
cao mười lăm thước. 16 Ngươi sẽ làm một cái mui che tàu, và đặt mui
cách phía trên tàu nửa thước. Cửa tàu, ngươi sẽ đặt ở bên hông; ngươi sẽ làm
tầng dưới, tầng giữa rồi tầng trên. 17 Phần Ta, Ta sắp cho hồng
thuỷ, nghĩa là nước lụt, xuống trên đất, để tiêu diệt mọi xác phàm có sinh khí
dưới gầm trời; mọi loài trên mặt đất sẽ tắt thở. 18 Nhưng Ta sẽ lập
giao ước của Ta với ngươi; ngươi hãy vào tàu, ngươi cùng với các con trai
ngươi, vợ ngươi và vợ của các con trai ngươi. 19 Trong mọi sinh vật,
mọi xác phàm, ngươi sẽ đưa vào tàu mỗi loại một đôi, để giữ cho chúng sống với
ngươi; phải có một con đực và một con cái. 20 Trong mỗi loại chim,
mỗi loại gia súc, mỗi loại vật bò dưới đất, mỗi loại một đôi sẽ đến với ngươi,
để ngươi giữ cho chúng sống. 21 Phần ngươi, hãy lấy mọi thứ ăn được
và tích trữ cho mình; đó sẽ là lương thực của ngươi và của chúng.” 22 Ông
Nô-ê đã làm như vậy; ông làm đúng như Thiên Chúa đã truyền cho ông.
Chương 07
1
Ðức
Chúa phán bảo ông Nô-ê: "Ngươi hãy vào tàu, ngươi và cả nhà ngươi, vì Ta
chỉ thấy ngươi là người công chính trước nhan Ta trong thế hệ này. 2 Trong
mọi loài vật thanh sạch, ngươi sẽ lấy bảy đôi, con đực và con cái, còn trong
các loài vật không thanh sạch, thì một đôi, con đực và con cái, 3 trong
các loài chim trời cũng lấy bảy đôi, trống và mái, để giữ giống trên khắp mặt
đất. 4 Vì bảy ngày nữa Ta sẽ đổ mưa xuống đất trong vòng bốn mươi
ngày bốn mươi đêm, và Ta sẽ xoá bỏ khỏi mặt đất mọi loài Ta đã làm ra.” 5 Ông
Nô-ê làm đúng như Ðức Chúa đã truyền.
6
Ông
Nô-ê được sáu trăm tuổi khi hồng thuỷ, nghĩa là nước lụt, xảy đến trên mặt đất.
7
Ðể
tránh nước hồng thuỷ, ông Nô-ê vào tàu cùng với các con trai ông, vợ ông và vợ
của các con trai ông. 8 Trong các loài vật thanh sạch và các loài
vật không thanh sạch, trong các loài chim và mọi loài vật bò dưới đất, 9 cứ
từng đôi, đực và cái, đến với ông Nô-ê mà vào tàu, như Thiên Chúa đã truyền cho
ông Nô-ê. 10 Bảy ngày sau, nước hồng thủy tràn trên mặt đất.
11
Năm
sáu trăm đời ông Nô-ê, tháng hai, ngày mười bảy tháng ấy, vào ngày đó, tất cả
các mạch nước của vực thẳm vĩ đại bật tung, các cống trời mở toang. 12 Mưa
đổ xuống đất bốn mươi ngày bốn mươi đêm.
13
Chính
ngày đó, ông Nô-ê vào tàu với các con trai ông là Sêm, Kham, Gia-phét, cùng với
họ có vợ ông và ba người vợ của các con trai ông, 14 cũng như mọi
loài vật, mọi loài gia súc, mọi loài vật bò dưới đất, mọi loài chim chóc, mọi
vật có cánh. 15 Chúng đến với ông Nô-ê trên tàu, cứ từng đôi một,
thuộc mọi xác phàm có sinh khí. 16 Chúng đi vào, một đực một cái
thuộc mọi xác phàm; chúng đi vào, theo như Thiên Chúa đã truyền cho ông Nô-ê.
Rồi Ðức Chúa đóng cửa lại sau khi ông vào.
17
Cơn
hồng thủy kéo dài bốn mươi ngày trên mặt đất. Nước tăng thêm và nâng tàu lên,
khiến tàu ở cao hơn mặt đất. 18 Nước dâng và tăng thêm nhiều trên
mặt đất, và tàu lênh đênh trên mặt nước. 19 Nước dâng lên ngày càng
nhiều trên mặt đất, và mọi núi cao khắp nơi dưới gầm trời đều bị phủ lấp. 20
Nước dâng lên cao hơn núi bảy thước khiến núi bị phủ lấp. 21 Mỗi
xác phàm di động trên mặt đất đều tắt thở: chim chóc, gia súc, thú vật, mọi vật
lúc nhúc trên mặt đất, và mọi người. 22 Mọi loài có sinh khí trong
lỗ mũi, mọi loài ở trên cạn đều chết hết. 23 Ðức Chúa xoá bỏ mọi
loài có trên mặt đất, từ con người cho đến gia súc, giống vật bò dưới đất và
chim trời; chúng bị xoá bỏ khỏi mặt đất, chỉ còn lại ông Nô-ê và những gì ở
trong tàu với ông. 24 Nước dâng lên trên mặt đất suốt một trăm năm
mươi ngày.
Chương 08
Nước
rút
1
Thiên
Chúa nhớ đến ông Nô-ê, mọi thú vật và mọi gia súc ở trong tàu với ông. Thiên
Chúa cho gió thổi ngang qua đất, và nước hạ xuống. 2 Các mạch nước
của vực thẳm và các cống trời đóng lại; trời tạnh mưa. 3 Nước từ từ
rút khỏi mặt đất; hết một trăm năm mươi ngày thì nước xuống. 4 Vào
tháng bảy, ngày mười bảy tháng ấy, tàu đậu lại trên vùng núi A-ra-rát. 5 Nước
tiếp tục xuống cho đến tháng mười; và ngày mồng một tháng mười, các đỉnh núi
xuất hiện.
6
Hết
bốn mươi ngày, ông Nô-ê mở cửa sổ ông đã làm trên tàu, 7 và ông thả
con quạ ra. Nó bay ra, lượn đi lượn lại cho đến khi nước khô trên mặt đất. 8
Rồi từ trong tàu ông lại thả con bồ câu, để xem nước đã giảm trên mặt đất
chưa. 9 Nhưng con bồ câu không tìm được chỗ đậu chân, nên trở về tàu
với ông, vì còn nước trên khắp mặt đất. Ông bèn giơ tay bắt lấy nó mà đưa vào
trong tàu với ông. 10 Ông đợi thêm bảy ngày, rồi thả con bồ câu ra
khỏi tàu một lần nữa. 11 Vào buổi chiều, con bồ câu trở về với ông,
và kìa trong mỏ nó có một nhành lá ô-liu tươi! Ông Nô-ê biết là nước đã giảm
trên mặt đất. 12 Ông lại đợi thêm bảy ngày, rồi thả con bồ câu ra,
nhưng nó không trở về với ông nữa.
13
Năm
sáu trăm lẻ một đời ông Nô-ê, tháng giêng, ngày mồng một tháng ấy, nước đã khô
ráo trên mặt đất. Ông Nô-ê dỡ mái tàu ra và thấy mặt đất đã khô ráo. 14 Tháng
hai, ngày hai mươi bảy tháng ấy, đất đã khô.
Ra
khỏi tàu
15
Thiên
Chúa phán với ông Nô-ê rằng: 16 "Ngươi hãy ra khỏi tàu cùng với
vợ ngươi, các con trai ngươi và vợ của các con trai ngươi. 17 Mọi
loài vật ở với ngươi, tất cả những gì là xác phàm: chim chóc, gia súc, mọi
giống vật bò dưới đất, ngươi hãy đưa chúng ra với ngươi; chúng phải lúc nhúc
trên mặt đất, phải sinh sôi nảy nở thật nhiều trên mặt đất.” 18 Ông
Nô-ê ra khỏi tàu cùng với các con trai ông, vợ ông và vợ của các con trai ông. 19
Mọi loài vật, mọi gia súc, mọi chim chóc, mọi vật bò dưới đất ra khỏi
tàu, theo từng giống.
20
Ông
Nô-ê dựng một bàn thờ để kính Ðức Chúa. Ông đã lấy một số trong các gia súc
thanh sạch và các loài chim thanh sạch mà dâng làm lễ toàn thiêu trên bàn thờ. 21
Ðức Chúa ngửi mùi thơm ngon, và Ðức Chúa tự nhủ: "Ta sẽ không bao
giờ nguyền rủa đất đai vì con người nữa. Lòng con người toan tính điều xấu từ
khi còn trẻ, nhưng Ta sẽ không bao giờ còn sát hại mọi sinh vật như Ta đã làm!
22
Bao
lâu đất này còn, thì mùa gieo mùa gặt,
trời
lạnh và trời nóng, tiết hạ và tiết đông,
ban
ngày và ban đêm, sẽ không ngừng đắp đổi."
Chương 09
Trật
tự mới của thế giới
1
Thiên
Chúa ban phúc lành cho ông Nô-ê và các con ông, và Người phán với họ: "Hãy
sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất. 2 Mọi dã thú, mọi chim
trời, mọi giống vật bò dưới đất, và mọi cá biển sẽ phải kinh hãi khiếp sợ các
ngươi: chúng được trao vào tay các ngươi. 3 Mọi loài di động và có
sự sống sẽ là lương thực cho các ngươi; Ta ban cho các ngươi tất cả những thứ
đó, cũng như đã ban cỏ xanh tươi. 4 Tuy nhiên các ngươi không được
ăn thịt với mạng sống của nó, tức là máu. 5 Nhưng Ta sẽ đòi mỗi con
vật phải đền nợ máu các ngươi, tức là mạng sống của các ngươi; Ta sẽ đòi con
người phải đền nợ máu, Ta sẽ đòi mỗi người phải đền mạng sống của người anh em
mình.
6
Ai
đổ máu con người, thì máu nó sẽ bị con người đổ ra,
vì
Thiên Chúa đã làm ra con người theo hình ảnh Thiên Chúa.
7
Về
phần các ngươi, hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, hãy lan tràn và nảy nở thật
nhiều trên mặt đất."
8
Thiên
Chúa phán với ông Nô-ê và các con ông đang ở với ông rằng: 9 "Ðây
Ta lập giao ước của Ta với các ngươi, với dòng dõi các ngươi sau này, 10 và
tất cả mọi sinh vật ở với các ngươi: chim chóc, gia súc, dã thú ở với các
ngươi, nghĩa là mọi vật ở trong tàu đi ra, kể cả dã thú. 11 Ta lập
giao ước của Ta với các ngươi: mọi xác phàm sẽ không còn bị nước hồng thủy huỷ
diệt, và cũng sẽ không còn có hồng thủy để tàn phá mặt đất nữa."
12
Thiên
Chúa phán: "Ðây là dấu hiệu giao ước Ta đặt giữa Ta với các ngươi, và với
mọi sinh vật ở với các ngươi, cho đến muôn thế hệ mai sau: 13 Ta gác
cây cung của Ta lên mây, và đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với cõi đất.14
Khi Ta cho mây kéo đến trên mặt đất và cây cung xuất hiện trong mây, 15 Ta
sẽ nhớ lại giao ước giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật, nghĩa là với
mọi xác phàm; và nước sẽ không còn trở thành hồng thủy để tiêu diệt mọi xác
phàm nữa. 16 Cây cung sẽ ở trong mây. Ta sẽ nhìn nó để nhớ lại giao
ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa với mọi sinh vật, nghĩa là với mọi xác phàm ở trên
mặt đất."
17
Thiên
Chúa phán với ông Nô-ê: "Ðó là dấu của giao ước Ta đã lập giữa Ta với mọi
xác phàm ở trên mặt đất."
3.
Từ Hồng Thủy Ðến Ông Áp-Ram
Ông
Nô-ê và các con
18
Các
con trai ông Nô-ê ra khỏi tàu là: Sêm, Kham và Gia-phét; ông Kham là cha của
ông Ca-na-an. 19 Ba ông này là con trai ông Nô-ê, và con cháu họ
phân tán ra khắp mặt đất.
20
Ông
Nô-ê làm nghề nông, ông là người thứ nhất trồng nho. 21 Ông uống
rượu say và nằm trần truồng giữa lều. 22 Ông Kham, cha ông Ca-na-an,
thấy chỗ kín của cha mình và báo cho hai anh ở ngoài biết. 23 Ông
Sêm và ông Gia-phét lấy cái áo choàng, cả hai đặt áo lên vai mình, rồi đi giật
lùi mà che chỗ kín của cha. Mặt họ quay về phía sau, nên họ không trông thấy
chỗ kín của cha. 24 Khi tỉnh rượu, ông Nô-ê hay biết điều mà đứa con
nhỏ nhất của ông đã làm đối với ông; 25 ông liền nói:
"Ca-na-an
đáng bị nguyền rủa!
Nó
phải là đầy tớ các đầy tớ của các anh em nó! "
26
Rồi
ông nói:
"Chúc
tụng Ðức Chúa, là Thiên Chúa của Sêm;
Ca-na-an
phải là đầy tớ nó!
27
Xin
Thiên Chúa mở rộng Gia-phét,
nó
hãy ở trong lều của Sêm, và Ca-na-an phải là đầy tớ nó!"
28
Sau
hồng thuỷ, ông Nô-ê sống được ba trăm năm mươi năm. 29 Tổng cộng ông
Nô-ê sống được chín trăm năm mươi năm, rồi ông qua đời.
Chương 10
Các
dân trên mặt đất (1 Sb 1:5-23)
1
Ðây
là gia đình các con trai ông Nô-ê là Sêm, Kham và Gia-phét; sau hồng thuỷ, họ
đã sinh được những người con.
2
Con
của ông Gia-phét là: Gô-me, Ma-gốc, Mê-đi, Gia-van, Tu-van, Me-séc, Ti-rát. 3
Con của ông Gô-me là:
6
Con
của ông Kham là: Cút, Mít-ra-gim, Pút, Ca-na-an. 7 Con của ông Cút
là: Xơ-va, Kha-vi-la, Xáp-ta, Ra-ơ-ma, Xáp-tơ-kha. Con của ông Ra-ơ-ma là:
Sơ-va, Ðơ-đan.
8
Ông
Cút sinh ra ông Nim-rốt; ông này là người anh hùng đầu tiên trên mặt đất. 9
Ông là thợ săn dũng cảm trước mặt Ðức Chúa. Vì thế có câu: "Như
Nim-rốt, thợ săn anh hùng trước mặt Ðức Chúa.” 10 Khởi điểm vương
quốc ông là Ba-ben, E-réc, Ác-cát, Can-nê, trong đất Sin-a. 11 Từ
đất ấy, ông rời đến Át-sua và xây các thành Ni-ni-vê, Rơ-khô-vốt, Ia, Ca-lác, 12
và Re-xen, giữa Ni-ni-vê và Ca-lác, thành phố lớn. 13 Mít-ra-gim
sinh ra các người ở Lút, A-nam, Lơ-háp, Náp-tu-khin, 14 Pát-rốt,
Cát-lúc và Cáp-to; từ dân này mới có dân Phi-li-tinh.
15
Ca-na-an
sinh ra Xi-đôn, là con đầu lòng, rồi sinh Khết, 16 người Giơ-vút,
E-mô-ri, Ghia-ga-si, 17 Khi-vi, Ác-ki, Xi-ni, 18 Ác-vát,
Xơ-ma-ri, Kha-mát; sau đó các dòng họ người Ca-na-an phân tán đi. 19 Biên
giới của người Ca-na-an đi từ Xi-đôn, về phía Gơ-ra thì đến tận Ga-da, về phía
Xơ-đôm, Gô-mô-ra, Át-ma và Xơ-vô-gim thì đến Le-sa.
20
Ðó
là các con ông Kham, theo dòng họ, tiếng nói, theo đất nước, dân tộc của họ.
21
Cả
ông Sêm cũng sinh được những người con, ông là ông tổ của mọi người con của ông
Ê-ve và là anh cả của ông Gia-phét.
22
Con
của ông Sêm là: Ê-lam, Át-sua, Ác-pắc-sát, Lút, A-ram. 23 Con của
ông A-ram là Út, Khun, Ghe-the, Ma-sơ.
24
Ác-pắc-sát
sinh Se-lác, Se-lác sinh Ê-ve. 25 Ê-ve sinh được hai con trai; người
thứ nhất tên là Pe-léc, vì thời ông đất được phân chia, người em tên là
Gióc-tan. 26 Gióc-tan sinh An-mô-đát, Se-lép, Kha-xa-ma-vét, Gie-rác,
27 Ha-đô-ram, U-dan, Ðích-la, 28 Ô-van, A-vi-ma-ên, Sơ-va,
29 Ô-phia, Kha-vi-la, Giô-váp. Tất cả những người đó là con ông
Gióc-tan. 30 Vùng họ ở trải rộng từ Mê-sa cho đến Xơ-pha, ngọn núi
phía đông.
31
Ðó
là các con ông Sêm, theo dòng họ, tiếng nói, theo đất nước, dân tộc của họ.
32
Ðó
là các dòng họ của con cái ông Nô-ê, theo gia đình, theo dân tộc của họ. Con
cháu họ đã phân tán thành các dân tộc trên mặt đất, sau hồng thuỷ.
Chương 11
Tháp
Ba-ben
1
Thuở
ấy, mọi người đều nói một thứ tiếng và dùng những từ như nhau. 2 Trong
khi di chuyển ở phía đông, họ tìm thấy một đồng bằng ở đất Sin-a và định cư tại
đó. 3 Họ bảo nhau: "Nào! Ta đúc gạch và lấy lửa mà nung!"
Họ dùng gạch thay vì đá và lấy nhựa đen làm hồ. 4 Họ nói: "Nào!
Ta hãy xây cho mình một thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời. Ta phải
làm cho danh ta lẫy lừng, để khỏi bị phân tán trên khắp mặt đất."
5
Ðức
Chúa xuống xem thành và tháp con cái loài người đang xây. 6 Ðức Chúa
phán: "Ðây, tất cả chúng nó họp thành một dân, nói một thứ tiếng. Chúng
mới khởi công mà đã như thế thì từ nay, chẳng có gì chúng định làm mà không làm
được. 7 Nào! Ta xuống và làm cho tiếng nói của chúng phải xáo trộn,
khiến chúng không ai hiểu ai nữa.” 8 Thế là Ðức Chúa phân tán họ từ
chỗ đó ra khắp nơi trên mặt đất, và họ phải thôi không xây thành phố nữa. 9
Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Ba-ben, vì tại đó, Ðức Chúa đã
làm xáo trộn tiếng nói của mọi người trên mặt đất, và cũng từ chỗ đó, Ðức Chúa
đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất.
Các
tổ phụ sau Hồng Thuỷ (1 Sb 1:24 -27 )
10
Ðây
là gia đình ông Sêm: Khi ông Sêm được một trăm tuổi, thì ông sinh ra
Ác-pắc-sát, hai năm sau hồng thuỷ. 11 Sau khi sinh Ác-pắc-sát, ông
Sêm sống năm trăm năm và sinh ra con trai con gái.
12
Khi
ông Ác-pắc-sát được ba mươi lăm tuổi, thì sinh ra Se-lác. 13 Sau khi
sinh Se-lác, ông Ác-pắc-sát sống bốn trăm lẻ ba năm và sinh ra con trai con
gái.
14
Khi
ông Se-lác được ba mươi tuổi, thì sinh ra Ê-ve. 15 Sau khi sinh ra
Ê-ve, ông Se-lác sống bốn trăm lẻ ba năm và sinh ra con trai con gái.
16
Khi
ông Ê-ve được ba mươi bốn tuổi, thì sinh ra Pe-léc. 17 Sau khi sinh
Pe-léc, ông Ê-ve sống bốn trăm ba mươi năm và sinh ra con trai con gái.
18
Khi
ông Pe-léc được ba mươi tuổi, thì sinh ra Rơ-u. 19 Sau khi sinh
Rơ-u, ông Pe-léc sống hai trăm lẻ chín năm và sinh ra con trai con gái.
20
Khi
ông Rơ-u được ba mươi hai tuổi, thì sinh Xơ-rúc. 21 Sau khi sinh
Xơ-rúc, ông Rơ-u sống hai trăm lẻ bảy năm và sinh ra con trai con gái.
22
Khi
ông Xơ-rúc được ba mươi tuổi, thì sinh ra Na-kho. 23 Sau khi sinh
Na-kho, ông Xơ-rúc sống hai trăm năm và sinh ra con trai con gái.
24
Khi
ông Na-kho được hai mươi chín tuổi, thì sinh ra Te-ra. 25 Sau khi
sinh Te-ra, ông Na-kho sống một trăm mười chín năm và sinh ra con trai con gái.
26
Khi
ông Te-ra được bảy mươi tuổi, thì sinh ra Áp-ram, Na-kho và Ha-ran.
Dòng
dõi ông Te-ra
27
Ðây
là gia đình ông Te-ra: Ông Te-ra sinh ra Áp-ram, Na-kho và Ha-ran. Ha-ran sinh
ra Lót. 28 Ha-ran chết trước mặt cha mình là Te-ra, tại thành Ua của
người Can-đê, quê hương ông. 29 Ông Áp-ram và ông Na-kho lấy vợ; vợ
ông Áp-ram tên là Xa-rai, vợ ông Na-kho tên là Min-ca, con gái ông Ha-ran; ông
này là cha của bà Min-ca và bà Gít-ca. 30 Bà Xa-rai hiếm hoi, không
có con.
31
Ông
Te-ra đem theo con trai là Áp-ram, cháu nội là Lót, con ông Ha-ran, con dâu là
Xa-rai, vợ ông Áp-ram, con của ông; họ cùng với ông ra khỏi Ua của người
Can-đê, để đi tới đất Ca-na-an. Họ đến Kha-ran và ở lại đó.
32
Ông
Te-ra sống được hai trăm lẻ năm năm, rồi qua đời tại Kha-ran.
Chương 12
II.-
Sự Tích Ông Áp-Ra-Ham
Thiên
Chúa gọi ông Áp-ram
1
Ðức
Chúa phán với ông Áp-ram: "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà
đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. 2 Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân
lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi
sẽ là một mối phúc lành.
3
Ta
sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi;
Ai
nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa.
Nhờ
ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc."
4
Ông
Áp-ram ra đi, như Ðức Chúa đã phán với ông. Ông Áp-ram được bảy mươi lăm tuổi
khi ông rời Kha-ran. 5 Ông Áp-ram đem theo vợ là bà Xa-rai, cháu là
ông Lót, và mọi tài sản họ đã gầy dựng được, cùng với gia nhân họ đã có tại
Kha-ran. Họ ra đi về phía đất Ca-na-an và đã tới đất đó.
6
Ông
Áp-ram đi qua đất ấy, đến nơi gọi là Si-khem, đến cây Sồi Mô-re. Thời bấy giờ, người
Ca-na-an đang ở trong đất ấy. 7 Ðức Chúa hiện ra với ông Áp-ram và
phán: "Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi." Tại đây ông dựng một
bàn thờ để kính Ðức Chúa, Ðấng đã hiện ra với ông. 8 Từ chỗ ấy, ông
sang miền núi, ở phía đông Bết Ên. Ông cắm lều giữa Bết Ên ở phía tây và Ai ở
phía đông. Tại đây ông dựng một bàn thờ để kính Ðức Chúa và ông kêu cầu danh
Ðức Chúa. 9 Rồi ông đi từ chặng nọ qua chặng kia đến miền Ne-ghép.
Ông
Áp-ram ở bên Ai-cập
10
Một
nạn đói xảy ra trong xứ ấy, và ông Áp-ram xuống trú ngụ ở Ai-cập, vì nạn đói
hoành hành trong xứ. 11 Vậy khi gần vào Ai-cập, ông nói với vợ là bà
Xa-rai: "Bà coi, tôi biết bà là một người phụ nữ có nhan sắc. 12 Khi
người Ai-cập thấy bà, họ sẽ nói: "Vợ hắn đấy!", họ sẽ giết tôi và để
cho bà sống. 13 Vậy xin bà cứ nói bà là em tôi, để vì bà, người ta
xử tốt với tôi, và nhờ bà, tôi được sống.” 14 Khi ông Áp-ram đến
Ai-cập, người Ai-cập thấy vợ ông rất xinh đẹp. 15 Quan lại của
Pha-ra-ô thấy bà thì ca tụng bà trước mặt Pha-ra-ô, và bà bị đưa vào đền
Pha-ra-ô. 16 Vì bà, người ta xử tốt với ông Áp-ram; ông được chiên,
dê, bò, lừa, tôi trai tớ gái, lừa cái, lạc đà. 17 Tại vì bà Xa-rai,
vợ ông Áp-ram, Ðức Chúa giáng những tai ương lớn xuống Pha-ra-ô và gia đình vua.
18 Pha-ra-ô bèn cho gọi ông Áp-ram đến và nói: "Ngươi làm gì ta
thế? Tại sao ngươi đã không khai với ta rằng: nàng là vợ ngươi? 19 Tại sao
ngươi lại nói với ta: "Nàng là em tôi", khiến ta đã lấy nàng làm vợ?
Bây giờ, vợ ngươi đấy, hãy nhận lấy và đi đi!” 20 Pha-ra-ô ra lệnh
cho người của vua tống ông Áp-ram đi, cùng với vợ ông và tất cả những gì ông
có.
Chương 13
Ông
Áp-ram và ông Lót chia tay
1
Ông
Áp-ram từ Ai-cập lên miền Ne-ghép, cùng với vợ và tất cả những gì ông có; ông
Lót cũng đi với ông. 2 Ông Áp-ram rất giàu, ông có nhiều súc vật và
vàng bạc. 3 Ông đi từng chặng từ miền Ne-ghép đến Bết Ên, đến nơi
lần trước ông đã cắm lều giữa Bết Ên và Ai. 4 Ở nơi có bàn thờ ông
đã làm trước kia, ông Áp-ram kêu cầu danh Ðức Chúa.
5
Ông
Lót, người cùng đi với ông Áp-ram, cũng có chiên bò và những chiếc lều. 6 Ðất
ấy không đủ chỗ cho họ ở chung: họ có quá nhiều tài sản nên không thể ở chung
với nhau được. 7 Một cuộc tranh chấp xảy ra giữa những người chăn
súc vật của ông Áp-ram và những người chăn súc vật của ông Lót. Thời bấy giờ
người Ca-na-an và người Pơ-rít-di đang ở trong miền ấy. 8 Ông Áp-ram
bảo ông Lót: "Sao cho đừng có chuyện tranh chấp giữa bác và cháu, giữa
người chăn súc vật của bác và người chăn súc vật của cháu. Vì chúng ta là anh
em họ hàng với nhau! 9 Tất cả xứ chẳng ở trước mặt cháu đó sao? Cháu hãy xa bác
đi. Nếu cháu đi về bên trái thì bác sẽ đi về bên phải; nếu cháu đi về bên phải
thì bác sẽ đi về bên trái."
10
Ông
Lót ngước mắt lên và nhìn cả Vùng sông Gio-đan: chỗ nào cũng có nước. Trước khi
Ðức Chúa tiêu diệt thành Xơ-đôm và thành Gô-mô-ra, thì vùng đó, cho đến tận
Xô-a, giống như vườn của Ðức Chúa, giống như đất Ai-cập. 11 Ông Lót
chọn cho mình cả Vùng sông Gio-đan và đi về hướng đông. Thế là họ xa nhau. 12
Ông Áp-ram ở đất Ca-na-an, còn ông Lót ở trong các thành Vùng sông
Gio-đan, và di chuyển lều đến tận Xơ-đôm. 13 Người Xơ-đôm xấu xa và
mắc tội nặng đối với Ðức Chúa.
14
Ðức
Chúa phán với ông Áp-ram sau khi ông Lót xa ông: "Ngước mắt lên, từ chỗ
ngươi đang đứng, hãy nhìn về phía bắc, phía nam, phía đông, phía tây, 15 vì
tất cả miền đất ngươi đang thấy đó, Ta sẽ ban cho ngươi và cho dòng dõi ngươi
mãi mãi. 16 Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi nhiều như bụi trên mặt đất;
nếu người ta đếm được bụi trên mặt đất, thì mới đếm được dòng dõi ngươi! 17
Ðứng lên! Hãy đi ngang dọc khắp miền đất này, vì Ta sẽ ban nó cho ngươi.” 18
Ông di chuyển lều và đến ở cụm sồi Mam-rê, tại Khép-rôn. Tại đây, ông
dựng một bàn thờ để kính Ðức Chúa.
Chương 14
Cuộc
viễn chinh của bốn vua
1
Thời
Am-ra-phen làm vua Sin-a, A-ri-ốc làm vua En-la-xa, Cơ-đo-la-ô-me làm vua Ê-lam
và Tít-an làm vua Gô-gim, 2 các vua này đánh nhau với Be-ra vua
Xơ-đôm, Bia-sa vua Gô-mô-ra, Sin-áp vua Át-ma, Sem-ê-ve vua Xơ-vô-gim, và vua
thành Be-la, tức là thành Xô-a.
3
Tất
cả các vua vừa nói tập trung về thung lũng Xít-đim, tức là Biển Muối. 4 Trong
vòng mười hai năm, họ đã làm tôi vua Cơ-đo-la-ô-me, nhưng đến năm thứ mười ba
thì họ nổi loạn. 5 Năm thứ mười bốn, vua Cơ-đo-la-ô-me đến, cùng với
các vua về phe ông. Họ đánh bại người Ra-pha tại Át-ta-rốt Các-na-gim, người
Du-dim tại Ham, người Ê-mim tại Sa-vê Kia-gia-tha-gim 6 và người Khô-ri ở vùng
núi của họ tại Xê-ia, đến tận En Pa-ran, gần sa mạc. 7 Rồi họ quay
lại, đến Ên Mít-pát, tức là Ca-đê, và tàn phá toàn thể lãnh thổ người A-ma-lếch
và cả người E-mô-ri lập cư ở Khát-xôn Ta-ma. 8 Bấy giờ vua Xơ-đôm,
vua Gô-mô-ra, vua Át-ma, vua Xơ-vô-gim và vua Be-la, tức là Xô-a, tiến ra và
dàn trận tại thung lũng Xít-đim chống lại các vua kia: 9 Cơ-đo-la-ô-me
vua Ê-lam, Tít-an vua Gô-gim, Am-ra-phen vua Sin-a và A-ri-ốc vua En-la-xa, bốn
vua chống lại năm vua. 10 Thung lũng Xít-đim đầy những giếng nhựa
đen; trong khi chạy trốn, vua Xơ-đôm và vua Gô-mô-ra rơi xuống đó, những người
còn lại thì trốn lên núi. 11 Những kẻ thắng trận chiếm đoạt tất cả
tài sản của Xơ-đôm và Gô-mô-ra, cũng như tất cả lương thực của họ, rồi đi.
12
Họ
bắt ông Lót, cháu ông Áp-ram, cùng với tài sản của ông, rồi đi; bấy giờ ông Lót
đang ở Xơ-đôm. 13 Một người thoát được đến báo tin cho ông Áp-ram,
người Híp-ri, bấy giờ đang ở cụm sồi của ông Mam-rê, người E-mô-ri, anh em của
ông Ét-côn và ông A-ne; họ là đồng minh của ông Áp-ram. 14 Khi nghe
tin người anh em họ hàng của mình bị bắt, ông Áp-ram liền huy động những người
đã được tập luyện, là các tôi tớ sinh ra trong nhà ông, đến ba trăm mười tám
người, và đuổi theo đến tận Ðan. 15 Ông và các tôi tớ của ông chia
nhau ra tấn công họ vào ban đêm, đánh bại họ và đuổi theo đến tận Khô-va ở phía
bắc Ða-mát. 16 Ông đưa tất cả tài sản về; ông đưa cả ông Lót, người
anh em họ hàng của ông, và tài sản của ông ấy về, cũng như các phụ nữ và dân
chúng.
Ông
Men-ki-xê-đê
17
Sau
khi đánh bại vua Cơ-đo-la-ô-me và các vua cùng phe, ông Áp-ram trở về. Bấy giờ
vua thành Xơ-đôm ra đón ông tại thung lũng Sa-vê, tức là thung lũng Nhà Vua. 18
Ông Men-ki-xê-đê, vua thành Sa-lem, mang bánh và rượu ra; ông là tư tế
của Thiên Chúa Tối Cao. 19 Ông chúc phúc cho ông Áp-ram và nói:
"Xin
Thiên Chúa Tối Cao, Ðấng dựng nên trời đất,
chúc
phúc cho Áp-ram!
20
Chúc
tụng Thiên Chúa Tối Cao,
Ðấng
đã trao vào tay ông những thù địch của ông! "
Rồi
ông Áp-ram biếu ông Men-ki-xê-đê một phần mười tất cả chiến lợi phẩm.
21
Vua
Xơ-đôm nói với ông Áp-ram: "Người, thì xin ông cho lại tôi; còn tài sản,
ông cứ lấy.” 22 Ông Áp-ram nói với vua Xơ-đôm: "Tôi xin giơ tay
lên Ðức Chúa, Thiên Chúa Tối Cao, Ðấng dựng nên trời đất, mà thề: 23 "Dù
một sợi chỉ, dù một quai dép, bất cứ cái gì của ông, tôi cũng không lấy. Ông sẽ
không có thể nói: "Tôi đã làm giàu cho ông Áp-ram.” 24 Tôi
không lấy gì cả, chỉ trừ những gì các người trai tráng của tôi đã ăn. Còn những
người đã đi với tôi, là A-ne, Ét-côn và Mam-rê, họ sẽ lấy phần của họ."
Chương 15
Lời
hứa và giao ước của Thiên Chúa
1
Sau
các việc đó, có lời Ðức Chúa phán với ông Áp-ram trong một thị kiến rằng:
"Hỡi Áp-ram, đừng sợ, Ta là khiên che thuẫn đỡ cho ngươi; phần thưởng của
ngươi sẽ rất lớn.” 2 Ông Áp-ram thưa: "Lạy Ðức Chúa là Chúa
Thượng, Chúa sẽ ban cho con cái gì? Con ra đi mà không con cái, và người thừa
tự gia đình con là Ê-li-e-de, một người Ða-mát.” 3 Ông Áp-ram thưa:
"Chúa coi, Chúa không ban cho con một dòng dõi, và một gia nhân của con sẽ
thừa kế con.” 4 Và đây có lời Ðức Chúa phán với ông rằng: "Kẻ
đó sẽ không thừa kế ngươi, nhưng một kẻ do chính ngươi sinh ra mới thừa kế
ngươi.” 5 Rồi Người đưa ông ra ngoài và phán: "Hãy ngước mắt
lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không." Người lại phán:
"Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó! “ 6 Ông tin Ðức Chúa, và vì thế,
Ðức Chúa kể ông là người công chính.
7
Người
phán với ông: "Ta là Ðức Chúa, Ðấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của
người Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu.” 8 Ông thưa:
"Lạy Ðức Chúa, làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu?” 9 Người
phán với ông: "Ði kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba
tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non.” 10 Ông
kiếm cho Người tất cả những con vật ấy, xẻ đôi ra, và đặt nửa này đối diện với
nửa kia; còn chim thì ông không xẻ. 11 Mãnh cầm sà xuống trên các
con vật bị giết, nhưng ông Áp-ram đuổi chúng đi.
12
Lúc
mặt trời gần lặn, thì một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Áp-ram; một nỗi kinh
hoàng, một bóng tối dày đặc bỗng ập xuống trên ông. 13 Người phán
với ông: "Ngươi phải biết rằng: dòng dõi ngươi sẽ trú ngụ trong một đất
không phải của chúng. Chúng sẽ làm tôi người ta và người ta sẽ hành hạ chúng
bốn trăm năm. 14 Nhưng Ta sẽ xét xử dân tộc chúng phải làm tôi, và
sau đó chúng sẽ ra đi với nhiều tài sản. 15 Còn ngươi sẽ về với cha
ông ngươi bình an, và sẽ được chôn cất sau khi hưởng tuổi già hạnh phúc. 16
Ðến đời thứ bốn, chúng sẽ trở về đây, vì sự gian ác của người E-mô-ri
chưa đủ mức."
17
Khi
mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, thì bỗng có một lò nghi ngút khói và một
ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi. 18 Hôm đó,
Ðức Chúa lập giao ước với ông Áp-ram như sau:
"Ta
ban cho dòng dõi ngươi đất này,
từ
sông Ai-cập đến Sông Cả, tức sông Êu-phơ-rát,
19
đất
của những người Kê-ni, Cơ-nát, Cát-môn, 20 Khết, Pơ-rít-di, Ra-pha, 21
E-mô-ri, Ca-na-an, Ghia-ga-si và Giơ-vút.
Chương 16
Ông
Ít-ma-ên chào đời
1
Bà
Xa-rai, vợ ông Áp-ram, đã không sinh được cho ông một người con nào. Bà có một
người nữ tỳ Ai-cập, tên là Ha-ga. 2 Bà Xa-rai nói với ông Áp-ram:
"Ông coi: Ðức Chúa đã không cho phép tôi sinh con. Vậy xin ông đi lại với
nữ tỳ của tôi; may ra nhờ nó mà tôi sẽ có con." Ông Áp-ram nghe lời bà
Xa-rai.
3
Mười
năm sau khi ông Áp-ram lập nghiệp tại đất Ca-na-an, bà Xa-rai, vợ ông, đem nữ
tỳ của bà là Ha-ga, người Ai-cập, hiến cho ông Áp-ram, chồng bà, để nàng làm vợ
ông. 4 Ông đi lại với Ha-ga và nàng có thai. Khi thấy mình có thai,
thì nàng coi khinh bà chủ. 5 Bà Xa-rai nói với ông Áp-ram: "Tôi
bị sỉ nhục là tại ông đấy! Chính tôi đã đặt nữ tỳ của tôi vào lòng ông. Thế mà
từ khi nó thấy mình có thai, nó coi khinh tôi. Xin Ðức Chúa phân xử giữa ông và
tôi.” 6 Ông Áp-ram nói với bà Xa-rai: "Nữ tỳ của bà ở trong tay
bà đấy; đối với nó, cái gì tốt cho bà thì bà cứ làm!" Bà Xa-rai hành hạ
Ha-ga khiến nàng phải trốn bà.
7
Sứ
thần của Ðức Chúa gặp thấy nàng gần một suối nước trong sa mạc, suối ở trên
đường đi Sua. 8 Người hỏi: "Ha-ga, nữ tỳ của Xa-rai, ngươi từ
đâu đến và đi đâu?" Nàng đáp: "Con đang trốn bà Xa-rai, chủ con.” 9
Sứ thần của Ðức Chúa bảo nàng: "Cứ về với bà chủ ngươi, và chịu luỵ
bà ấy."10 Sứ thần của Ðức Chúa nói với nàng: "Ta sẽ làm cho dòng dõi
ngươi ra thật nhiều đến mức không thể đếm được vì quá đông.” 11 Sứ
thần của Ðức Chúa nói với nàng:
"Này
đây ngươi đang có thai, sắp sinh hạ con trai
và
sẽ đặt tên là Ít-ma-ên,
vì
Ðức Chúa đã nghe thấu nỗi khổ của ngươi.
12
Con
người đó đúng là một con lừa hoang,
nó
giơ tay chống mọi người, mọi người giơ tay chống nó,
nó
sẽ luôn đối đầu với tất cả anh em nó."
13
Nàng
gọi tên Ðức Chúa, Ðấng phán với nàng, là: "Ngài là Thiên Chúa, Ðấng thấy
tôi", vì nàng nói: "Phải chăng nơi đây tôi đã nhìn thấy, sau khi
Người nhìn thấy tôi?” 14 Vì vậy người ta gọi giếng đó là giếng
La-khai Rô-i. Giếng ấy ở giữa Ca-đê và Be-rét.
15
Ha-ga
sinh cho ông Áp-ram một con trai; ông đặt tên cho đứa con mà Ha-ga đã sinh cho
ông là Ít-ma-ên. 16 Ông Áp-ram được tám mươi sáu tuổi khi Ha-ga sinh
Ít-ma-ên cho ông.
Chương 17
Giao
ước và phép cắt bì
1
Khi
ông Áp-ram được chín mươi chín tuổi, Ðức Chúa hiện ra với ông và phán: "Ta
là Thiên Chúa Toàn Năng. Ngươi hãy bước đi trước mặt Ta và hãy sống hoàn hảo. 2
Ta sẽ đặt giao ước của Ta giữa Ta với ngươi, và Ta sẽ cho ngươi trở nên
đông, thật đông.” 3 Ông Áp-ram cúi rạp xuống.
Thiên
Chúa phán với ông rằng:
4
"Phần
Ta, đây là giao ước của Ta với ngươi: ngươi sẽ làm cha của vô số dân tộc. 5
Người ta sẽ không còn gọi tên ngươi là Áp-ram nữa, nhưng là Áp-ra-ham, vì
Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc. 6 Ta sẽ cho ngươi sinh ra
nhiều, thật nhiều: Ta sẽ làm cho ngươi thành những dân tộc, và vua chúa sẽ phát
xuất từ ngươi. 7 Ta sẽ lập giao ước của Ta giữa Ta với ngươi và với
dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Ðây sẽ là giao ước vĩnh
cửu, do đó Ta sẽ là Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi sau này. 8 Ta
sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi sau này miền đất ngươi đang trú ngụ, tức là
tất cả đất Ca-na-an, làm sở hữu vĩnh viễn; và Ta sẽ là Thiên Chúa của
chúng."
9
Thiên
Chúa phán với ông Áp-ra-ham: "Phần ngươi, hãy giữ giao ước của Ta, ngươi và
dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ này qua thế hệ khác. 10 Ðây là
giao ước của Ta mà các ngươi phải giữ, giao ước giữa Ta với các ngươi, với dòng
dõi ngươi sau này: mọi đàn ông con trai của các ngươi sẽ phải chịu cắt bì. 11
Các ngươi phải chịu cắt bì nơi bao quy đầu: đó sẽ là dấu hiệu giao ước
giữa Ta với các ngươi. 12 Sinh được tám ngày, mọi con trai của các
ngươi sẽ phải chịu cắt bì, từ thế hệ này qua thế hệ khác, kể cả nô lệ sinh
trong nhà, hay nô lệ các ngươi dùng bạc mà mua của bất cứ người ngoại bang nào
không thuộc dòng dõi các ngươi. 13 Buộc phải cắt bì nô lệ sinh trong
nhà cũng như nô lệ mua bằng bạc. Giao ước của Ta ghi dấu trong xác thịt các
ngươi, sẽ thành giao ước vĩnh cửu. 14 Kẻ không được cắt bì, người
đàn ông con trai không được cắt bì nơi bao quy đầu, sẽ bị khai trừ khỏi dòng
họ: nó đã phá vỡ giao ước của Ta."
15
Thiên
Chúa phán với ông Áp-ra-ham: "Xa-rai, vợ ngươi, ngươi không được gọi tên
là Xa-rai nữa, nhưng tên nó sẽ là Xa-ra. 16 Ta sẽ chúc phúc cho nó,
Ta còn cho nó sinh cho ngươi một con trai. Ta sẽ chúc phúc cho nó, nó sẽ trở
thành những dân tộc; vua chúa các dân sẽ phát xuất từ nó. 17 Ông
Áp-ra-ham cúi rạp xuống; ông cười và nghĩ bụng: "Ðàn ông trăm tuổi mà có
con được sao? Còn bà Xa-ra đã chín mươi tuổi mà sinh đẻ được sao? “ 18 Ông
Áp-ra-ham thưa với Thiên Chúa: "Ước chi Ít-ma-ên được sống trước nhan
Ngài! “ 19 Nhưng Thiên Chúa phán: "Không đâu! Chính Xa-ra, vợ
ngươi, sắp sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ đặt tên cho nó là I-xa-ác.
Ta sẽ lập giao ước của Ta với nó; đây sẽ là giao ước vĩnh cửu cho dòng dõi nó
sau này. 20 Còn về Ít-ma-ên, Ta nghe lời ngươi xin: Này Ta chúc phúc
cho nó, Ta sẽ cho nó sinh sôi nảy nở ra nhiều, thật nhiều. Nó sẽ sinh ra mười
hai đầu mục, Ta sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn. 21 Nhưng giao
ước của Ta thì Ta lập với I-xa-ác, đứa con mà Xa-ra sẽ sinh cho ngươi vào độ
này sang năm.” 22 Sau khi phán với ông Áp-ra-ham, Thiên Chúa từ giã
ông mà đi lên.
23
Ông
Áp-ra-ham dẫn Ít-ma-ên con ông, mọi nô lệ sinh trong nhà ông và nô lệ mua bằng
bạc, mọi đàn ông con trai trong số người nhà của ông, đem đi cắt bì nơi bao quy
đầu của họ trong chính ngày ấy, như Thiên Chúa đã phán với ông. 24 Ông
Áp-ra-ham được chín mươi chín tuổi khi chịu cắt bì nơi bao quy đầu. 25 Ít-ma-ên,
con ông, được mười ba tuổi khi chịu cắt bì nơi bao quy đầu. 26 Trong
chính ngày ấy, ông Áp-ra-ham và Ít-ma-ên, con ông, chịu cắt bì; 27 mọi
người nhà của ông, những nô lệ sinh trong nhà hoặc nô lệ ông dùng bạc mà mua
của người ngoại bang, đều chịu cắt bì với ông.
Chương 18
Thiên
Chúa hiện ra tại Mam-rê
1
Ðức
Chúa hiện ra với ông Áp-ra-ham tại cụm sồi Mam-rê, khi ông đang ngồi ở cửa lều,
vào lúc nóng nực nhất trong ngày. 2 Ông ngước mắt lên thì thấy có ba
người đứng gần ông. Vừa thấy, ông liền từ cửa lều chạy ra đón khách, sụp xuống
đất lạy 3 và nói: "Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài
đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài. 4 Ðể tôi cho lấy chút
nước, mời các ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. 5 Tôi xin đi
lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài
đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây!" Khách trả lời: "Xin cứ làm như ông
vừa nói!"
6
Ông
Áp-ra-ham vội vã vào lều tìm bà Xa-ra mà bảo: "Bà mau mau lấy ba thúng
tinh bột mà nhồi, rồi làm bánh.” 7 Ông chạy lại đàn vật, bắt một con
bê mềm và ngon, giao cho người đầy tớ, và anh này vội vã làm thịt. 8 Ông
lấy sữa chua, sữa tươi và thịt bê đã làm, mà đãi khách; rồi ông đứng hầu dưới
gốc cây, đang khi khách dùng bữa.
9
Khách
nói với ông: "Bà Xa-ra vợ ông đâu?" Ông đáp: "Thưa nhà tôi ở
trong lều.” 10 Người nói: "Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông,
và khi đó bà Xa-ra vợ ông sẽ có một con trai." Bà Xa-ra bấy giờ đang nghe
ở cửa lều, phía sau. 11 Ông Áp-ra-ham và bà Xa-ra đã già nua tuổi
tác, và bà Xa-ra không còn điều thường xảy đến cho đàn bà. 12 Bà
Xa-ra cười thầm tự bảo: "Mình đã cằn cỗi rồi, còn hưởng được vui thú nữa
sao? Ông nhà mình lại là một ông lão!” 13 Ðức Chúa phán với ông
Áp-ra-ham: "Tại sao Xa-ra lại cười và nói: "Có thật tôi già thế này
mà còn sinh đẻ được chăng? 14 Nào có điều gì kỳ diệu vượt sức Ðức Chúa? Vào độ
này sang năm, Ta sẽ trở lại thăm ngươi, và Xa-ra sẽ có một con trai.” 15 Bà
Xa-ra chối và nói: "Con đâu có cười! " Vì bà sợ. Nhưng Người bảo:
"Có, ngươi đã cười!"
Ông
Áp-ra-ham can thiệp cho thành Xơ-đôm
16
Từ
nơi đó ba người kia đứng dậy và nhìn xuống phía Xơ-đôm. Ông Áp-ra-ham cùng đi
để tiễn khách. 17 Ðức Chúa phán: "Ta có nên giấu Áp-ra-ham điều
Ta sắp làm chăng? 18 Áp-ra-ham sẽ trở thành một dân tộc lớn mạnh và mọi dân tộc
sẽ được chúc phúc nhờ nó. 19 Thật vậy, Ta đã chọn nó, để nó truyền
cho con cái nó và gia tộc nó sau này phải giữ đường lối của Ðức Chúa mà thực
hiện điều công minh chính trực; như thế Ðức Chúa sẽ làm cho Áp-ra-ham điều
Người đã phán về nó.” 20 Ðức Chúa phán: "Tiếng kêu trách Xơ-đôm
và Gô-mô-ra thật quá lớn! Tội lỗi của chúng quá nặng nề! 21 Ta phải xuống xem
thật sự chúng có làm như tiếng kêu trách đã thấu đến Ta không. Có hay không, Ta
sẽ biết."
22
Hai
người kia bỏ nơi đó mà đi về phía Xơ-đôm, nhưng Ðức Chúa còn đứng lại với ông
Áp-ra-ham. 23 Ông lại gần và thưa: "Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt
người lành một trật với kẻ dữ sao? 24 Giả như trong thành có năm mươi người
lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho
thành đó, vì năm mươi người lành trong đó sao? 25 Ngài làm như vậy, chắc không
được đâu! Giết chết người lành một trật với kẻ dữ, coi người lành cũng như kẻ
dữ, chắc không được đâu! Ðấng xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh
sao? “ 26 Ðức Chúa đáp: "Nếu Ta tìm được trong thành Xơ-đôm năm
mươi người lành, thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho tất cả thành đó."
27
Ông
Áp-ra-ham lại nói: "Mặc dầu con chỉ là thân tro bụi, con cũng xin mạn phép
thưa với Chúa: 28 Giả như trong số năm mươi người lành lại thiếu mất
năm, vì năm người đó, Ngài sẽ phá huỷ cả thành sao?" Chúa đáp:
"Không! Ta sẽ không phá huỷ, nếu Ta tìm được bốn mươi lăm người.” 29 Ông
lại thưa một lần nữa: "Giả như trong thành tìm được bốn mươi người thì
sao?" Chúa đáp: "Vì bốn mươi người đó, Ta sẽ không làm."
30
Ông
nói: "Xin Chúa đừng giận, cho con nói tiếp: Giả như ở đó có ba mươi người
thì sao?" Chúa đáp: "Nếu Ta tìm được ba mươi người, Ta sẽ không làm.”
31 Ông nói: Con xin mạn phép thưa với Chúa: "Giả như tìm được
hai mươi người thì sao?" Chúa đáp: "Vì hai mươi người đó, Ta sẽ không
phá huỷ.” 32 Ông nói: "Xin Chúa đừng giận, cho con nói một lần
này nữa thôi: Giả như tìm được mười người thì sao?" Chúa đáp: "Vì
mười người đó, Ta sẽ không phá huỷ Xơ-đôm."
33
Sau
khi phán với ông Áp-ra-ham, Ðức Chúa đi, còn ông Áp-ra-ham thì trở về nhà.
Chương 19
Thành
Xơ-đôm bị phá huỷ
1
Hai
sứ thần đến thành Xơ-đôm vào buổi chiều; ông Lót lúc ấy đang ngồi ở cửa thành
Xơ-đôm. Vừa thấy các ngài, ông Lót đứng lên ra đón các ngài và cúi sấp mặt
xuống đất. 2 Ông nói: "Thưa các ngài, kính xin các ngài ghé lại
nhà tôi tớ các ngài đây để nghỉ đêm và rửa chân, rồi sớm mai các ngài tiếp tục
đi đường." Họ đáp: "Không! Chúng tôi sẽ nghỉ đêm ngoài đường phố.” 3
Nhưng ông nài nỉ các ngài mãi nên các ngài ghé lại và vào nhà ông. Ông
làm tiệc đãi các ngài, nướng bánh không men, và các ngài đã dùng bữa. 4 Các
ngài chưa đi nằm thì dân trong thành, tức là người Xơ-đôm, bao vây nhà, từ trẻ
đến già, toàn dân không trừ ai. 5 Chúng gọi ông Lót và bảo:
"Những người vào nhà ông đêm nay đâu rồi? Hãy đưa họ ra cho chúng tôi
chơi."
6
Ông
Lót ra trước cửa gặp chúng, đóng cửa lại sau lưng, 7 rồi nói:
"Thưa anh em, tôi van anh em đừng làm bậy. 8 Ðây tôi có hai đứa
con gái chưa ăn ở với đàn ông, tôi sẽ đưa chúng ra cho anh em; anh em muốn làm
gì chúng thì làm, nhưng còn hai người này, xin anh em đừng làm gì họ, vì họ đã
vào trọ dưới mái nhà tôi.” 9 Chúng đáp: "Xê ra! Tên này là một
ngoại kiều đến đây trú ngụ mà lại đòi xét xử à! Chúng tao sẽ làm dữ với mày hơn
là với những tên kia!" Họ xô mạnh ông Lót và xông vào để phá cửa. 10 Nhưng
hai người khách đưa tay kéo ông Lót vào nhà với mình, rồi đóng cửa lại. 11
Còn những người đứng ngoài cửa, thì các ngài làm cho chúng ra mù, từ
người nhỏ nhất đến người lớn nhất, khiến chúng không sao tìm ra cửa.
12
Hai
người khách nói với ông Lót: "Ông còn ai ở đây nữa không? Con rể, con
trai, con gái, và tất cả những gì ông có trong thành, hãy đưa ra khỏi nơi này.”
13 Chúng tôi sắp phá huỷ nơi này, vì tiếng kêu trách dân thành quá
lớn trước nhan Ðức Chúa, và Ðức Chúa đã sai chúng tôi đến huỷ diệt chúng.” 14
Ông Lót đi ra nói với các con rể, tức là những người sắp cưới các con gái
ông: "Ðứng lên! Ra khỏi nơi đây, vì Ðức Chúa sắp phá huỷ thành này."
Nhưng các con rể ông cho là ông nói đùa.
15
Khi
hừng đông ló rạng, các sứ thần giục ông Lót rằng: "Ðứng lên! Ðưa vợ và hai
con gái ông đang ở đây đi đi, kẻo ông phải chết lây khi thành bị phạt.” 16
Ông còn đang chần chừ thì hai người khách nắm lấy tay ông, tay vợ ông và
tay hai người con gái ông, vì Ðức Chúa muốn cứu ông; các ngài đưa ông ra và để
bên ngoài thành.
17
Khi
đưa ông ra ngoài rồi, một vị nói: "Ông hãy trốn đi để cứu mạng sống mình!
Ðừng ngoái lại đằng sau, đừng dừng lại chỗ nào cả trong cả Vùng. Hãy trốn lên
núi kẻo bị chết lây.” 18 Ông Lót nói với hai người khách: "Thưa
ngài, xin miễn cho! 19 Này, tôi tớ ngài đây đã được đẹp lòng ngài, và ngài đã
tỏ lòng thương lớn lao của ngài đối với tôi khi để cho tôi sống. Nhưng tôi
không trốn lên núi được đâu, tai ương sẽ đuổi kịp, và tôi chết mất! 20 Kìa, có
một thành khá gần, có thể trốn vào đấy được, thành ấy lại nhỏ. Xin cho tôi trốn
vào đó - thành đó nhỏ mà - để tôi được sống.” 21 Người nói với ông:
"Ðược, vì nể ông một lần nữa, tôi sẽ không phá đổ thành mà ông nói. 22
Ông hãy mau trốn vào đó, vì tôi không thể làm gì trước khi ông vào
đó." Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Xô-a.
23
Khi
mặt trời mọc lên trên mặt đất thì ông Lót vào Xô-a. 24 Ðức Chúa làm
mưa diêm sinh và lửa từ Ðức Chúa, từ trời, xuống Xơ-đôm và Gô-mô-ra. 25 Người
phá đổ các thành ấy và cả Vùng, cùng với toàn thể dân cư các thành ấy và cây cỏ
trên đất. 26 Bà vợ ông Lót ngoái lại đằng sau và hoá thành cột muối.
27
Sáng
hôm sau ông Áp-ra-ham dậy sớm, đến chỗ ông đã đứng trước mặt Ðức Chúa. 28 Ông
nhìn xuống phía Xơ-đôm, Gô-mô-ra và cả Vùng, ông thấy khói từ đất bốc lên như
khói một lò lửa!
29
Như
vậy, khi Thiên Chúa phá huỷ các thành trong cả Vùng, Thiên Chúa đã nhớ đến ông
Áp-ra-ham và đã cứu ông Lót khỏi cuộc tàn phá, khi Người phá đổ các thành nơi
ông Lót ở.
Nguồn
gốc người Mô-áp và người Am-mon
30
Ông
Lót bỏ Xô-a, lên ở trên núi cùng với hai con gái ông, vì ông sợ không dám ở
Xô-a. Ông ở trong một cái hang cùng với hai con gái. 31 Cô chị bảo
cô em: "Cha đã già; trong miền lại không có người đàn ông nào để đến với
chúng mình theo thói thường trong thiên hạ. 32 Nào! Chúng mình hãy
cho cha uống rượu và nằm với cha; như thế, chúng mình sẽ bảo tồn dòng giống cho
cha.” 33 Ðêm ấy, các cô cho cha mình uống rượu, rồi cô chị đến nằm
với cha, mà ông không hay biết khi nào cô nằm, khi nào cô dậy. 34 Hôm
sau, cô chị bảo cô em: "Ðấy, đêm qua chị đã nằm với cha. Ðêm nay nữa,
chúng mình lại cho cha uống rượu, rồi em đến nằm với cha; như thế, chúng mình
sẽ bảo tồn dòng giống cho cha.” 35 Ðêm ấy nữa, hai cô lại cho cha
uống rượu, rồi cô em đứng dậy đến nằm với cha, mà ông không hay biết khi nào cô
nằm, khi nào cô dậy. 36 Thế là hai cô con gái ông Lót đã có thai với
cha mình. 37 Cô chị sinh một con trai và đặt tên là Mô-áp; đó là ông
tổ người Mô-áp ngày nay. 38 Cô em cũng sinh một con trai và đặt tên
là Ben Am-mi; đó là ông tổ người Am-mon ngày nay.
Chương 20
Ông
Áp-ra-ham tại Gơ-ra
1
Ông
Áp-ra-ham rời chỗ đó, đến miền Ne-ghép. Ông ở giữa Can-đê và Sua, rồi ông trú
ngụ tại Gơ-ra. 2 Ông Áp-ra-ham nói về bà Xa-ra, vợ ông: "Nàng
là em tôi", và A-vi-me-léc, vua Gơ-ra, đã sai người đến bắt bà Xa-ra. 3
Nhưng ban đêm Thiên Chúa đến báo mộng cho vua A-vi-me-léc rằng: "Này
ngươi sắp phải chết vì người đàn bà mà ngươi đã bắt, bởi người ấy có chồng.” 4
Vua A-vi-me-léc đã không gần gũi bà ấy, vua thưa: "Lạy Chúa, một dân
công chính mà Ngài cũng giết sao? 5 Ông ấy đã chẳng bảo tôi rằng: "Nàng là
em tôi" đó sao? Và ngay cả bà ấy cũng đã nói rằng: "Ông ấy là anh
tôi. Tôi đã làm điều đó với tấm lòng thuần khiết và bàn tay vô tội.” 6 Thiên
Chúa báo mộng cho vua rằng: "Ta cũng biết là ngươi đã làm điều đó với tấm
lòng thuần khiết, và cũng chính Ta đã ngăn cản ngươi khỏi mắc tội đối với Ta.
Vì thế, Ta đã không để cho ngươi động đến người ấy. 7 Bây giờ hãy
trả vợ của người ấy về, vì người ấy là một ngôn sứ: người ấy sẽ cầu nguyện cho
ngươi và ngươi sẽ được sống. Còn nếu ngươi không trả về, thì hãy biết rằng chắc
chắn ngươi phải chết, ngươi cũng như mọi kẻ thuộc về ngươi."
8
Sáng
hôm sau, vua A-vi-me-léc dậy sớm, gọi tất cả các đầy tớ đến và thuật lại cho họ
nghe tất cả những điều ấy; những người này sợ lắm! 9 Vua A-vi-me-léc cho gọi
ông Áp-ra-ham đến và nói với ông: "Ông đã làm gì chúng tôi thế? Tôi mắc
tội gì đối với ông, mà ông lại làm cho tôi và nước tôi phải vương vào một tội
lớn như thế? Ông đã làm cho tôi những điều không nên làm! “ 10 Vua
A-vi-me-léc nói với ông Áp-ra-ham: "Ông nhắm mục đích gì khi làm điều ấy? “
11 Ông Áp-ra-ham trả lời: "Tôi nghĩ bụng: "Ở nơi này người
ta chẳng kính sợ gì Thiên Chúa, và vì vợ tôi họ sẽ giết tôi.” 12 Vả
lại, nàng đúng là em gái tôi, con cùng cha khác mẹ, và nàng đã trở thành vợ tôi.
13 Khi Thiên Chúa bắt tôi đi lang thang xa nhà cha tôi, thì tôi đã bảo
nàng: "Xin bà làm cho tôi ơn này là bất cứ nơi nào chúng ta đến, bà cứ
nói: "Ông ấy là anh tôi."
14
Vua
A-vi-me-léc lấy chiên bò, tôi trai tớ gái tặng ông Áp-ra-ham và trả lại cho ông
bà Xa-ra, vợ ông. 15 Vua A-vi-me-léc nói với ông Áp-ra-ham:
"Này đất của tôi ở trước mặt ông; ông muốn ở đâu tuỳ thích.” 16 Rồi
vua nói với bà Xa-ra: "Ðây tôi cho anh bà một ngàn đồng tiền bạc. Ðối với
bà, đó sẽ là bức màn che mắt mọi người ở với bà, và bà sẽ được hoàn toàn minh
oan.” 17 Ông Áp-ra-ham cầu nguyện với Thiên Chúa và Thiên Chúa chữa
lành vua A-vi-me-léc, vợ vua và các nữ tỳ của vua, cho họ có thể sinh con, 18
bởi trước đấy Ðức Chúa đã làm cho mọi phụ nữ trong gia đình vua
A-vi-me-léc không sinh đẻ được, vì chuyện bà Xa-ra, vợ ông Áp-ra-ham.
Chương 21
Ông
I-xa-ác chào đời
1
Ðức
Chúa viếng thăm bà Xa-ra như Người đã phán, và Người đã làm cho bà như Người đã
hứa. 2 Bà Xa-ra có thai và sinh cho ông Áp-ra-ham một con trai khi
ông đã già, vào thời kỳ Thiên Chúa đã hứa. 3 Ông Áp-ra-ham đặt tên
cho đứa con sinh ra cho ông là I-xa-ác, đứa con mà bà Xa-ra sinh ra cho ông. 4
Ông Áp-ra-ham cắt bì cho I-xa-ác, con ông, lúc nó được tám ngày, như
Thiên Chúa đã truyền cho ông. 5 Ông Áp-ra-ham được một trăm tuổi khi
sinh được người con là I-xa-ác. 6 Bà Xa-ra nói:
"Thiên
Chúa đã làm cho tôi cười;
tất
cả những ai nghe biết sẽ cười tôi."
7
Bà
còn nói:
"Ai
dám báo trước cho ông Áp-ra-ham rằng Xa-ra sẽ cho con bú?
Thế
mà tôi đã sinh cho ông một con trai, khi ông đã về già!"
Ha-ga
và Ít-ma-ên bị đuổi
8
Ðứa
trẻ lớn lên và cai sữa. Ông Áp-ra-ham làm tiệc lớn ngày I-xa-ác cai sữa. 9
Bà Xa-ra thấy đứa con mà Ha-ga, người Ai-cập, đã sinh ra cho ông
Áp-ra-ham, đang cười giỡn, 10 liền nói với ông Áp-ra-ham: "Ông
hãy đuổi hai mẹ con đứa nữ tỳ này đi, vì con trai đứa nữ tỳ không được thừa kế
cùng với I-xa-ác, con trai tôi.” 11 Ông Áp-ra-ham rất bực mình vì
lời ấy, bởi đó là con ông. 12 Nhưng Thiên Chúa phán với ông
Áp-ra-ham: "Ðừng bực mình vì chuyện đứa trẻ và người nữ tỳ của ngươi. Tất
cả những gì Xa-ra nói với ngươi, cứ nghe, bởi vì chính nhờ I-xa-ác mà ngươi sẽ
có một dòng dõi mang tên ngươi. 13 Còn con trai của người nữ tỳ, Ta
cũng sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn, vì nó là dòng dõi ngươi.” 14 Sáng
hôm sau, ông Áp-ra-ham dậy sớm, lấy bánh và một bầu da đựng nước đưa cho Ha-ga.
Ông đặt đứa bé lên vai nàng và bắt nàng phải đi.
15
Khi
nước trong bầu da đã cạn, nàng vất đứa bé dưới một bụi cây, 16 rồi
đi ngồi đối diện, cách xa khoảng tầm cung bắn. Nàng nói: "Sao cho tôi đừng
nhìn thấy đứa bé chết!" Nàng ngồi đối diện và bật tiếng khóc. 17 Thiên
Chúa nghe thấy tiếng đứa trẻ và từ trời sứ thần Thiên Chúa gọi Ha-ga và nói:
"Sao thế, Ha-ga? Ðừng sợ, vì Thiên Chúa đã nghe thấy tiếng đứa trẻ, ở chỗ
nó nằm. 18 Ðứng lên! Ðỡ đứa trẻ dậy và ôm nó trong tay, vì Ta sẽ làm
cho nó thành một dân tộc lớn.” 19 Thiên Chúa mở mắt cho nàng, và
nàng thấy một giếng nước. Nàng đi đổ nước đầy bầu da, rồi cho đứa trẻ uống. 20
Thiên Chúa ở với đứa trẻ, nó lớn lên, sống trong sa mạc, và trở thành
người bắn cung. 21 Nó sống trong sa mạc Pa-ran, và mẹ nó cưới cho nó
một cô vợ người đất Ai-cập.
Ông
Áp-ra-ham và vua A-vi-me-léc ở Bơ-e Se-va
22
Thời
ấy, vua A-vi-me-léc cùng với ông Pi-khôn, tướng chỉ huy quân đội của vua, đến
nói với ông Áp-ra-ham: "Thiên Chúa ở với ông trong tất cả những gì ông làm.
23 Vậy bây giờ ông hãy lấy Thiên Chúa mà thề tại đây với tôi là ông
sẽ không lừa dối tôi và con cái cháu chắt tôi; tôi đã lấy tình mà đối xử với
ông thế nào, thì ông cũng phải đối xử với tôi và với đất ông đang trú ngụ như
vậy."
24
Ông
Áp-ra-ham nói: "Tôi xin thề."
25
Ông
Áp-ra-ham trách vua A-vi-me-léc về chuyện giếng nước mà những đầy tớ vua
A-vi-me-léc đã chiếm đoạt. 26 Vua A-vi-me-léc nói: "Tôi không
biết ai đã làm điều đó. Chính ông đã không thông báo cho tôi; và chính tôi mãi
tới hôm nay cũng chẳng nghe biết gì.” 27 Ông Áp-ra-ham lấy chiên bò
biếu vua A-vi-me-léc, và cả hai lập một giao ước. 28 Ông Áp-ra-ham
tách riêng bảy con chiên cái còn non trong đàn ra. 29 Vua
A-vi-me-léc nói với ông Áp-ra-ham: "Bảy con chiên cái còn non ông tách
riêng ra đó là để làm gì?” 30 Ông trả lời: "Bảy chiên cái còn
non ấy, xin ông nhận từ tay tôi; đó sẽ là bằng chứng tỏ ra chính tôi đã đào cái
giếng ấy.” 31 Bởi vậy, người ta gọi nơi ấy là Bơ-e Se-va, vì tại đó
hai người đã thề.
32
Họ
đã lập giao ước tại Bơ-e Se-va, rồi vua A-vi-me-léc đứng dậy cùng với ông
Pi-khôn, người chỉ huy quân đội của vua, và trở về đất người Phi-li-tinh. 33
Ông Áp-ra-ham trồng một cây liễu bách tại Bơ-e Se-va, ở đó ông kêu cầu
danh Ðức Chúa, Thiên Chúa vĩnh cửu. 34 Ông Áp-ra-ham trú ngụ lâu dài
trong đất người Phi-li-tinh.
Chương 22
Ông
Áp-ra-ham dâng I-xa-ác làm lễ tế
1
Sau
các việc đó, Thiên Chúa thử lòng ông Áp-ra-ham. Người gọi ông:
"Áp-ra-ham!" Ông thưa: "Dạ, con đây!” 2 Người phán:
"Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là I-xa-ác, hãy đi
đến xứ Mô-ri-gia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ
chỉ cho."
3
Sáng
hôm sau, ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là
I-xa-ác, ông bổ củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, rồi lên đường đi tới nơi Thiên
Chúa bảo. 4 Sang ngày thứ ba, ông Áp-ra-ham ngước mắt lên, thấy nơi
đó ở đàng xa. 5 Ông Áp-ra-ham bảo đầy tớ: "Các anh ở lại đây
với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia; chúng tôi làm việc thờ
phượng, rồi sẽ trở lại với các anh."
6
Ông
Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông
cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi. 7 I-xa-ác thưa với cha
là ông Áp-ra-ham: "Cha!” 8 Ông Áp-ra-ham đáp: "Cha đây
con!" Cậu nói: "Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu
đâu?" Ông Áp-ra-ham đáp: "Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa
sẽ liệu, con ạ." Rồi cả hai cùng đi.
9
Tới
nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Áp-ra-ham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói
I-xa-ác con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. 10 Rồi ông
Áp-ra-ham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình.
11
Nhưng
sứ thần của Ðức Chúa từ trời gọi ông: "Áp-ra-ham! Áp-ra-ham!" Ông
thưa: "Dạ, con đây!” 12 Người nói: "Ðừng giơ tay hại đứa
trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với
Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!” 13 Ông
Áp-ra-ham ngước mắt lên nhìn, thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng
trong bụi cây. Ông Áp-ra-ham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu
thay cho con mình. 14 Ông Áp-ra-ham đặt tên cho nơi này là "Ðức
Chúa sẽ liệu." Bởi đó, bây giờ có câu: "Trên núi Ðức Chúa sẽ
liệu."
15
Sứ
thần của Ðức Chúa từ trời gọi ông Áp-ra-ham một lần nữa16 và nói: "Ðây là
sấm ngôn của Ðức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều
đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, 17 nên Ta sẽ thi
ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao
trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì
của địch. 18 Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc
như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta."
19
Ông
Áp-ra-ham trở lại với các đầy tớ của ông; họ đứng dậy và cùng nhau đi đến Bơ-e
Se-va. Ông Áp-ra-ham sống ở Bơ-e Se-va.
Dòng
dõi ông Na-kho
20
Sau
các việc đó, người ta báo cho ông Áp-ra-ham rằng: "Này cả bà Min-ca cũng
đã sinh cho ông Na-kho, em ông, những người con trai, đó là: 21 Út,
con cả, Bút, con thứ, Cơ-mu-ên, cha của A-ram, 22 Ke-xét, Kha-dô,
Pin-đát, Gít-láp, Bơ-thu-ên.” 23 Ông Bơ-thu-ên sinh bà Rê-bê-ca. Ðó
là tám người bà Min-ca đã sinh cho ông Na-kho, em ông Áp-ra-ham. 24 Vợ
lẽ của ông Na-kho tên là Rưu-ma, cũng sinh con là
Chương 23
Mồ
mả của các tổ phụ
1
Bà
Xa-ra sống được một trăm hai mươi bảy tuổi: đó là những năm bà Xa-ra đã sống. 2
Bà Xa-ra qua đời tại Kia-giát Ác-ba, tức là Khép-rôn, trong đất Ca-na-an.
Ông Áp-ra-ham đến làm lễ chôn cất bà và than khóc bà.
3
Ông
đứng dậy, để người chết đó và nói với con cái ông Khết rằng: 4 "Tôi
là ngoại kiều và là người khách ở giữa các ông. Xin các ông nhượng cho tôi một
miếng đất riêng làm phần mộ ở giữa các ông, để tôi đem người chết của tôi đi
chôn.” 5 Ðáp lời ông Áp-ra-ham, con cái ông Khết nói rằng: 6 "Thưa
ngài, xin nghe chúng tôi nói. Ngài là một vị đầu mục của Thiên Chúa ở giữa chúng
tôi, xin cứ chôn người chết của ngài trong ngôi mộ tốt nhất của chúng tôi.
Không ai trong chúng tôi sẽ từ chối không cho ngài chôn người chết của ngài
trong mộ của chúng tôi đâu!” 7 Ông Áp-ra-ham đứng lên, sụp xuống lạy
dân trong đất ấy, tức là con cái ông Khết, 8 và nói với họ rằng:
"Nếu quả thật các ông đồng ý cho tôi đem người chết của tôi đi chôn, thì
xin nghe tôi nói và can thiệp với ông Ép-rôn, con ông Xô-kha cho tôi, 9 để
ông ấy nhượng cho tôi cái hang Mác-pê-la của ông, ở đầu cánh đồng của ông. Xin
ông ấy nhượng lại cho tôi theo đúng giá, để tôi có một miếng đất riêng làm phần
mộ ở giữa các ông.” 10 Ông Ép-rôn, người Khết, bấy giờ đang ngồi
giữa con cái ông Khết, trả lời cho ông Áp-ra-ham, có con cái ông Khết, tức là
tất cả những người đến họp ở cửa thành ông ấy, đều nghe; ông nói: 11 "Không,
thưa ngài, xin nghe tôi nói: cánh đồng ấy, tôi xin tặng ngài; cái hang ở đó,
tôi cũng xin tặng ngài. Trước mặt con cái dân tôi, tôi xin tặng ngài; ngài cứ
chôn người chết của ngài."
12
Ông
Áp-ra-ham sụp xuống lạy dân trong đất ấy 13 và nói với ông Ép-rôn, có dân trong
xứ nghe thấy: "Xin ông vui lòng nghe tôi nói: tôi trả ông giá tiền cánh
đồng, xin ông nhận lấy cho tôi, để tôi chôn người chết của tôi ở đó.” 14 Ông
Ép-rôn trả lời ông Áp-ra-ham rằng: 15 "Thưa ngài, xin nghe tôi
nói: một thửa đất giá bốn ký bạc, giữa tôi và ngài có là gì đâu? Người chết của
ngài, xin ngài cứ chôn!” 16 Ông Áp-ra-ham nghe ông Ép-rôn; ông
Áp-ra-ham cân cho ông Ép-rôn số bạc mà con cái ông Khết đã nghe thấy ông này
nói, là bốn ký bạc đang lưu hành trong giới con buôn.
17
Thế
là cánh đồng của ông Ép-rôn tại Mác-pê-la, đối diện với Mam-rê, cánh đồng và
cái hang ở đó, mọi cây cối trong cánh đồng, đã trở thành 18 sở hữu của ông
Áp-ra-ham, có con cái ông Khết, tức là mọi kẻ đến họp ở cửa thành ông ấy, chứng
kiến. 19 Sau đó, ông Áp-ra-ham chôn bà Xa-ra, vợ ông, trong hang của
cánh đồng Mác-pê-la, đối diện với Mam-rê, tức là Khép-rôn, tại đất Ca-na-an. 20
Thế là cánh đồng của con cái ông Khết, và cái hang ở đó đã trở thành
miếng đất riêng của ông Áp-ra-ham để làm phần mộ.
Chương 24
Ông
I-xa-ác lấy bà Rê-bê-ca
1
Ông
Áp-ra-ham đã già nua tuổi tác, và Ðức Chúa đã chúc phúc cho ông Áp-ra-ham trong
mọi sự. 2 Ông Áp-ra-ham bảo người lão bộc sống lâu năm nhất trong
nhà ông, và cũng là người quản lý mọi tài sản của ông: "Chú hãy đặt tay
dưới đùi tôi, 3 và tôi xin chú nhân danh Ðức Chúa là Chúa trời đất,
mà thề rằng chú sẽ không cưới cho con trai tôi một người vợ trong số con gái xứ
Ca-na-an, nơi tôi đang sống. 4 Nhưng chú sẽ về quê tôi, đến với họ
hàng tôi, mà cưới vợ cho con tôi là I-xa-ác.” 5 Người lão bộc thưa
với ông: "Có thể người đàn bà ấy không chịu đi theo tôi về đất này; vậy
tôi có phải đưa cậu con trai ông về đất mà từ đó ông đã ra đi không?” 6 Ông
Áp-ra-ham bảo người ấy: "Coi chừng, đừng có đưa con trai tôi về đó! 7 Ðức
Chúa là Chúa Trời, Ðấng đã đưa tôi ra khỏi nhà cha tôi, khỏi quê hương tôi,
Ðấng đã phán với tôi và thề với tôi rằng: "Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi
đất này", chính Người sẽ sai sứ thần Người đi trước mặt chú, để từ nơi đó
chú cưới vợ về cho con tôi. 8 Nếu người đàn bà không chịu đi theo
chú, thì chú không còn buộc phải giữ lời thề với tôi nữa. Nhưng dù sao, cũng
đừng đưa con tôi về đó.” 9 Người lão bộc đặt tay dưới đùi ông
Áp-ra-ham, chủ mình, và thề với ông điều ấy.
10
Người
lão bộc lấy mười con lạc đà trong số lạc đà của chủ và ra đi. Ông lên đường đi
về miền A-ram Na-ha-ra-gim, về thành của ông Na-kho, đem theo tất cả những gì
quý báu của chủ, mà lên đường đi đến A-ram Na-ha-ra-im, đến thành Na-khor.
11
Ông
cho lạc đà nằm phục ở ngoài thành, gần giếng nước, vào buổi chiều lúc đàn bà
con gái ra múc nước. 12 Ông khấn: "Lạy Ðức Chúa là Thiên Chúa
của ông Áp-ra-ham, chủ con, xin cho con hôm nay gặp được may mắn, và xin tỏ
tình thương đối với ông Áp-ra-ham, chủ con. 13 Ðây con đứng gần suối
nước, con gái của người trong thành đang ra múc nước. 14 Cô nào con
nói: "Cô làm ơn nghiêng vò cho tôi uống", mà cô ấy trả lời: "Xin
mời ông, con sẽ cho cả lạc đà của ông uống nữa", thì đó là người Chúa đã
xe duyên cho tôi tớ Chúa là I-xa-ác; cứ đó, con sẽ biết rằng Chúa đã tỏ tình
thương đối với chủ con."
15
Ông
chưa khấn xong, thì này cô Rê-bê-ca vai mang vò đi ra; cô là con gái ông
Bơ-thu-ên, ông này là con trai bà Min-ca, vợ ông Na-kho; ông Na-kho là em ông
Áp-ra-ham. 16 Cô gái nhan sắc tuyệt vời; cô còn trinh, chưa người
đàn ông nào ăn ở với cô. Cô xuống suối, múc đầy nước, rồi đi lên. 17 Người
lão bộc chạy lại đón cô và nói: "Cô làm ơn cho tôi uống chút nước trong vò
của cô.” 18 Cô thưa: "Thưa ngài, mời ngài uống", rồi cô
vội vã hạ vò xuống tay và mời ông uống. 19 Mời ông uống xong, cô
nói: "Con cũng sẽ múc cho lạc đà của ngài nữa, cho đến khi chúng uống
xong.” 20 Cô vội đổ hết vò vào máng, lại chạy đến giếng để múc, và
múc cho tất cả lạc đà của ông. 21 Ðang khi đó, ông già cứ lặng lẽ
ngắm cô, tự hỏi xem Ðức Chúa có cho chuyến đi của mình thành công hay không.
22
Vậy
khi lạc đà uống xong, ông lấy một chiếc khuyên vàng hai chỉ và một đôi xuyến
vàng ba lượng đeo vào tay cô. 23 Rồi ông hỏi: "Cô là con ai?
Xin làm ơn cho biết. Nhà cha cô có chỗ cho chúng tôi trọ đêm không?” 24 Cô
trả lời ông: "Con là con gái ông Bơ-thu-ên, ông Bơ-thu-ên là người con
trai mà bà Min-ca đã sinh cho ông Na-kho.” 25 Cô tiếp: "Nhà con
có nhiều rơm, nhiều cỏ, có cả chỗ trọ đêm nữa.” 26 Ông già phủ phục
xuống thờ lạy Ðức Chúa 27 và nói: "Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa của
ông Áp-ra-ham, chủ tôi, đã không ngừng tỏ tình thương và lòng thành tín của
Người đối với chủ tôi; còn tôi, Ðức Chúa đã dẫn dắt tôi trên đường đến nhà anh
em họ hàng của chủ tôi."
28
Cô
gái chạy về nhà mẹ cô, báo cho biết những việc ấy. 29 Cô Rê-bê-ca có
một người anh tên là La-ban. Ông La-ban chạy ra ngoài, đến với ông già, ở bên
suối. 30 Khi ông thấy chiếc khuyên và đôi xuyến ở tay em gái, và khi
nghe những lời của cô Rê-bê-ca, em gái ông, nói rằng: "Người ấy đã nói với
em như thế!", thì ông đến gặp ông già, lúc đó đang đứng cạnh các con lạc
đà, ở bên suối. 31 Ông nói: "Xin mời ông vào, hỡi người được
Ðức Chúa chúc phúc, sao lại đứng ở ngoài? Tôi đã dọn dẹp nhà cửa và cả chỗ cho
lạc đà.” 32 Ông già vào nhà. Người ta tháo yên cho lạc đà, lấy rơm
và cỏ cho lạc đà ăn, và đem nước cho ông già và những người cùng đi với ông rửa
chân.
33
Người
ta dọn cho ông ăn, nhưng ông nói: "Tôi sẽ không ăn gì trước khi nói những
điều tôi cần phải nói." Ông La-ban thưa: "Xin ông cứ nói.” 34 Ông
nói: "Tôi là đầy tớ ông Áp-ra-ham. 35 Ðức Chúa đã đổ muôn vàn
phúc lộc xuống cho chủ tôi. Ông đã trở nên một phú hào; Ðức Chúa đã ban cho ông
chiên bò, bạc vàng, tôi trai tớ gái, lạc đà và lừa. 36 Bà Xa-ra, vợ
của chủ tôi, lúc tuổi già đã sinh cho ông một con trai. Ông đã cho cậu mọi tài
sản của ông. 37 Chủ tôi đã bắt tôi thề, ông nói: "Chú sẽ không
cưới cho con trai tôi một người vợ trong số con gái xứ Ca-na-an, nơi tôi đang
sống. 38 Nhưng chú sẽ đi về nhà cha tôi, về gia tộc tôi, cưới vợ cho
con trai tôi.” 39 Tôi thưa với chủ tôi: "Có thể người đàn bà ấy
sẽ không đi theo tôi.” 40 Ông nói: "Tôi đã bước đi trước tôn
nhan Ðức Chúa, thì chính Người sẽ sai sứ thần của Người ở với chú và Người sẽ
cho chuyến đi của chú thành công. Chú sẽ cưới cho con trai tôi một người vợ
thuộc gia tộc tôi và nhà cha tôi. 41 Chú sẽ không còn buộc phải giữ
lời tôi đã bắt chú thề, nếu chú đến với gia tộc tôi; nếu họ không chịu gả, thì
chú sẽ không còn buộc phải giữ lời tôi đã bắt chú thề.” 42 Vậy hôm
nay tôi đã đến suối và khấn: "Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham,
chủ con, nếu Ngài thương cho chuyến đi con đang thực hiện được thành công, 43
thì này con đứng gần suối nước: hễ thiếu nữ nào ra múc nước và con nói
với cô ấy: Cô làm ơn cho tôi uống chút nước, 44 mà cô ấy trả lời:
Xin mời ông cứ uống, con sẽ múc cho cả lạc đà của ông nữa, thì đó là người vợ
mà Ðức Chúa đã xe duyên cho con trai chủ con.” 45 Tôi thầm khấn chưa
xong, thì này cô Rê-bê-ca vai mang vò đi ra. Cô xuống suối và múc nước. Tôi nói
với cô: "Cô làm ơn cho tôi uống.” 46 Cô vội vã hạ vò xuống, và
nói: "Xin mời ông, con sẽ cho cả lạc đà của ông uống nữa." Tôi uống
và cô cho cả lạc đà uống nữa. 47 Tôi hỏi cô rằng: "Cô là con
ai? " Cô trả lời: "Con là con gái ông Bơ-thu-ên; ông Bơ-thu-ên là con
trai ông Na-kho mà bà Min-kha đã sinh cho ông ấy." Tôi đã xỏ khuyên vào
mũi và đeo xuyến vào tay cô ấy. 48 Tôi đã phủ phục xuống thờ lạy Ðức
Chúa và đã chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham, chủ tôi, đã dẫn
dắt tôi đi đúng đường, để cưới con gái người anh em họ hàng của chủ tôi cho con
trai ông ấy. 49 Vậy bây giờ, nếu quý ông muốn tỏ ra có tình có nghĩa
với chủ tôi, thì xin cho tôi biết. Bằng không, thì xin cũng cho tôi biết để tôi
còn liệu cách này cách khác."
50
Ông
La-ban và ông Bơ-thu-ên trả lời: "Việc này Ðức Chúa đã xe định, chúng tôi
không thể nói thuận hay nghịch nữa. 51 Rê-bê-ca đang ở trước mặt ông
đây: Ông cứ đưa nó về. Nó sẽ thành vợ của con trai chủ ông, như Ðức Chúa đã
phán.” 52 Khi người lão bộc của ông Áp-ra-ham nghe những lời họ nói,
thì phủ phục xuống đất thờ lạy Ðức Chúa. 53 Rồi người lão bộc đưa ra
những đồ bạc, đồ vàng và quần áo tặng cô Rê-bê-ca, và biếu anh và mẹ cô những
món quà quý giá. 54 Ông và những người đi với ông ăn uống rồi nghỉ
đêm.
55
Anh
và mẹ cô trả lời: "Xin cho con bé ở lại với chúng tôi ít bữa, khoảng mươi
ngày thôi, sau đó nó sẽ đi.” 56 Ông nói với họ: "Xin đừng giữ
tôi lại. Ðức Chúa đã cho chuyến đi của tôi thành công, xin cho tôi đi, để tôi
trở về với chủ tôi.” 57 Họ đáp: "Chúng ta hãy gọi con bé ra và
hỏi xem ý nó thế nào.” 58 Họ gọi cô Rê-bê-ca ra và hỏi:
"Rê-bê-ca, có muốn đi với ông này không?" Cô trả lời: "Có.” 59
Thế rồi họ tiễn cô Rê-bê-ca, người em của họ, đi cùng với người vú nuôi
của cô, người lão bộc của ông Áp-ra-ham và những người đi theo ông. 60 Họ
chúc phúc cho cô Rê-bê-ca rằng:
"Chúc
em sinh vạn sinh ngàn.
Giống
dòng chiếm cứ cửa thành địch quân."
61
Cô
Rê-bê-ca cùng với các tớ gái đứng dậy, cỡi lên lạc đà mà đi theo người lão bộc.
Ông nhận cô Rê-bê-ca và ra đi.
62
Khi
ấy cậu I-xa-ác đã bỏ vùng giếng La-khai Rô-i, và đang ở trong miền Ne-ghép. 63
Cậu I-xa-ác ra ngoài đồng dạo mát lúc chiều tà. 64 Ngước mắt
lên, cậu thấy một bầy lạc đà đang tiến đến. Ngước mắt lên, cô Rê-bê-ca thấy cậu
I-xa-ác, cô bèn từ trên lưng lạc đà nhảy xuống 65 và hỏi người lão bộc:
"Người đang đi ngoài đồng tiến về phía chúng ta là ai đó?" Người lão
bộc trả lời: "Chủ tôi đấy!" Cô bèn lấy chiếc khăn che mặt.
66
Người
lão bộc thưa lại với cậu I-xa-ác tất cả những gì ông đã làm. 67 Cậu
I-xa-ác đưa cô Rê-bê-ca vào lều của bà Xa-ra mẹ cậu; cậu lấy cô làm vợ, cậu yêu
thương cô và khuây khoả được nỗi buồn mất mẹ.
Chương 25
Dòng
dõi bà Cơ-tu-ra (1 Sb 1:32 -33)
1
Ông
Áp-ra-ham lấy thêm một bà vợ nữa, tên là Cơ-tu-ra. 2 Bà sinh cho
ông: Dim-ran, Gióc-san, Mơ-đan, Ma-đi-an, Gít-bắc và Su-ác. 3 Ông
Gióc-san sinh Sơ-va và Ðơ-đan; các con của ông Ðơ-đan là người Át-su-ri,
Lơ-tu-sim và Lơ-um-mim. 4 Các con của ông Ma-đi-an là: Ê-pha, Ê-phe,
Kha-nốc, A-vi-đa, En-đa-a. Tất cả những người ấy là con cháu bà Cơ-tu-ra.
5
Ông
Áp-ra-ham đã cho ông I-xa-ác tất cả những gì ông có. 6 Còn những
người con của các bà vợ lẽ ông, thì ông Áp-ra-ham đã tặng họ quà, và ngay khi
còn sống, ông cho họ đi xa ông I-xa-ác, con ông, về hướng đông, về đất Phương
Ðông.
Ông
Áp-ra-ham qua đời
7
Ông
Áp-ra-ham sống thọ một trăm bảy mươi lăm tuổi 8 rồi tắt thở. Ông qua đời khi đã
cao niên, đã sống tuổi già hạnh phúc và được mãn nguyện; và ông được về sum họp
với gia tiên. 9 Các con ông I-xa-ác và Ít-ma-ên chôn cất ông trong
hang Mác-pê-la, trong cánh đồng của ông Ép-rôn, con ông Xô-kha, người Khết, đối
diện với Mam-rê. 10 Ðó là cánh đồng ông Áp-ra-ham đã tậu của con cái
ông Khết. Ông Áp-ra-ham được chôn ở đó, cũng như bà Xa-ra, vợ ông. 11 Sau
khi ông Áp-ra-ham qua đời, Thiên Chúa chúc phúc cho ông I-xa-ác, con ông. Ông
I-xa-ác ở gần giếng La-khai Rô-i.
Dòng
dõi ông Ít-ma-ên (1 Sb 1:28 -31)
12
Ðây
là gia đình ông Ít-ma-ên, con ông Áp-ra-ham, mà bà Ha-ga, người Ai-cập, nữ tỳ
của bà Xa-ra, đã sinh cho ông Áp-ra-ham. 13 Ðây là tên các con trai
ông Ít-ma-ên, tên xếp theo gia đình của họ: Nơ-va-giốt, con đầu lòng của ông
Ít-ma-ên, rồi đến Kê-đa, Át-bơ-ên, Mít-xam, 14 Mít-ma, Ðu-ma, Ma-xa,
15 Kha-đát, Tê-ma, Giơ-tua, Na-phít, Kết-ma. 16 Ðó là các
con ông Ít-ma-ên, và đó là tên của họ, theo các làng và trại của họ: mười hai
đầu mục cho bấy nhiêu bộ lạc.
17
Ðây
là số năm ông Ít-ma-ên đã sống: một trăm ba mươi bảy năm. Rồi ông tắt thở, qua
đời và được về sum họp với gia tiên. 18 Ông đã ở từ Kha-vi-la đến
Sua, đối diện với Ai-cập, về phía Át-sua. Ông định cư đối diện với tất cả anh
em của ông.
III.
Sự Tích Ông I-Xa-Ác Và Ông Gia-Cóp
Ông
Ê-xau và ông Gia-cóp chào đời
19
Ðây
là gia đình ông I-xa-ác, con ông Áp-ra-ham. Ông Áp-ra-ham sinh ra ông I-xa-ác. 20
Ông I-xa-ác được bốn mươi tuổi, khi ông lấy bà Rê-bê-ca làm vợ; bà này là
con ông Bơ-thu-ên, người A-ram ở Pát-đan A-ram, và là em ông La-ban, người
A-ram. 21 Ông I-xa-ác khẩn cầu Ðức Chúa cho vợ ông, vì bà hiếm hoi.
Ðức Chúa nhậm lời ông, và bà Rê-bê-ca vợ ông có thai. 22 Các đứa con
đụng nhau trong lòng bà, nên bà kêu lên: "Nếu vậy thì tại sao tôi thế
này?" Bà thỉnh ý Ðức Chúa. 23 Ðức Chúa phán với bà:
"Có
hai dân tộc trong lòng ngươi,
hai
dân từ dạ ngươi sinh ra và sẽ chia rẽ nhau.
Dân
này sẽ mạnh hơn dân kia, đứa lớn sẽ làm tôi đứa bé."
24
Khi
đến ngày sinh nở thì quả là bà đã mang hai đứa con trong lòng. 25 Ðứa
ra trước đỏ hoe, toàn thân như một chiếc áo choàng bằng lông: người ta đặt tên
cho nó là Ê-xau. 26 Sau đó, đứa em ra, tay nắm gót chân của Ê-xau:
người ta đặt tên cho nó là Gia-cóp. Ông I-xa-ác được sáu mươi tuổi khi chúng
sinh ra.
27
Hai
đứa trẻ lớn lên. Ê-xau là người thạo nghề săn bắn, chuyên rong ruổi ngoài đồng;
còn Gia-cóp thì trầm tĩnh, chỉ sống ở lều. 28 Ông I-xa-ác thương
Ê-xau vì ông thích ăn thịt rừng, còn bà Rê-bê-ca thì thương Gia-cóp.
Ông
Ê-xau nhượng quyền trưởng nam
29
Lần
kia, Gia-cóp đang nấu cháo, thì Ê-xau từ ngoài đồng về, mệt lả. 30 Ê-xau
nói với Gia-cóp: "Cho anh ăn món đo đỏ kia với, vì anh đang mệt lả."
Vì thế người ta đặt tên cho nó là Ê-đôm. 31 Gia-cóp nói: "Anh
hãy bán quyền trưởng nam của anh cho em trước đã!” 32 Ê-xau nói:
"Anh đang sắp chết, thì quyền trưởng nam có ích gì cho anh?” 33 Gia-cóp
nói: "Vậy anh thề ngay với em đi." Ê-xau liền thề và bán quyền trưởng
nam của mình cho Gia-cóp. 34 Bấy giờ Gia-cóp cho Ê-xau bánh và cháo
đậu. Ê-xau ăn uống, rồi đứng dậy đi. Ê-xau đã coi thường quyền trưởng nam.
Chương 26
Ông
I-xa-ác tại Gơ-ra
1
Bấy
giờ trong xứ xảy ra một nạn đói, không phải nạn đói đã xảy ra trước kia thời
ông Áp-ra-ham. Ông I-xa-ác đi Gơ-ra, đến với A-vi-me-léc, vua người Phi-li-tinh.
2 Ðức Chúa hiện ra với ông và phán: "Ðừng xuống Ai-cập, hãy ở
trong đất Ta sẽ chỉ cho. 3 Hãy trú ngụ trong đất này; Ta sẽ ở với
ngươi và sẽ chúc phúc cho ngươi, vì Ta sẽ ban tất cả những miền đất này cho
ngươi và dòng dõi ngươi, và Ta sẽ giữ lời Ta đã thề với Áp-ra-ham, cha ngươi. 4
Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi ra nhiều như sao trên trời, sẽ ban cho dòng
dõi ngươi tất cả những miền đất này; và nhờ dòng dõi ngươi, mọi dân tộc trên
mặt đất sẽ được chúc phúc, 5 bởi vì Áp-ra-ham đã vâng lời Ta, đã giữ
điều Ta truyền, cũng như các mệnh lệnh, thánh chỉ và luật điều của Ta.” 6 Vậy
ông I-xa-ác sống ở Gơ-ra.
7
Người
địa phương hỏi về vợ ông, thì ông trả lời: "Nàng là em tôi." Ông
không dám nói: "Nàng là vợ tôi", sợ người địa phương giết ông vì bà
Rê-bê-ca, bởi lẽ bà có nhan sắc. 8 Khi ông đã ở đó lâu ngày, thì
A-vi-me-léc, vua người Phi-li-tinh, nhìn xuống qua cửa sổ thì thấy ông I-xa-ác
đang cười giỡn với bà Rê-bê-ca, vợ ông. 9 Vua A-vi-me-léc cho gọi
ông I-xa-ác đến và nói: "Ðúng là vợ ông! Sao ông lại nói: Nàng là em
tôi?" Ông I-xa-ác trả lời vua: "Tôi đã nói như thế vì sợ phải chết vì
nàng."10 Vua A-vi-me-léc nói: "Ông đã làm gì chúng tôi thế? Thiếu
chút nữa là một người trong dân sẽ nằm với vợ ông, và ông làm cho chúng tôi
phải vương vào một tội!” 11 Vua A-vi-me-léc truyền cho toàn dân
rằng: "Ai mà động đến ông này và vợ ông, sẽ bị xử tử."
12
Ông
I-xa-ác đã gieo vãi trong đất ấy, và năm đó ông thu hoạch gấp trăm lần. Ðức
Chúa chúc phúc cho ông 13 và ông trở nên giàu có, mỗi ngày một giàu thêm, giàu
vô kể. 14 Ông có những đàn chiên, đàn bò, có nhiều đầy tớ, khiến
người Phi-li-tinh phải ghen.
Những
giếng nước giữa Gơ-ra và Bơ-e Se-va
15
Tất
cả những giếng mà đầy tớ của cha ông đã đào dưới thời ông Áp-ra-ham, cha ông,
thì người Phi-li-tinh đã bít lại và lấp đầy đất. 16 Vua A-vi-me-léc
nói với ông I-xa-ác: "Ông hãy đi khỏi xứ chúng tôi, vì ông đã trở nên quá
mạnh so với chúng tôi.” 17 Ông I-xa-ác đi khỏi đó, cắm lều trong
thung lũng Gơ-ra và ở lại đây. 18 Ông I-xa-ác đào lại những giếng
nước mà người ta đã đào thời ông Áp-ra-ham, cha ông, và người Phi-li-tinh đã
bít đi sau khi ông Áp-ra-ham qua đời. Ông lấy chính những tên cha ông đã đặt mà
đặt cho các giếng ấy.
19
Ðầy
tớ ông I-xa-ác đào trong thung lũng và tìm thấy ở đó một giếng nước mạch. 20
Những người chăn súc vật ở Gơ-ra tranh chấp với những người chăn súc vật
của ông I-xa-ác, chúng nói: "Nước của chúng tôi!" Ông đã đặt tên
giếng là Ê-xéc, bởi vì chúng đã gây gỗ với ông. 21 Họ đào một giếng
khác và người ta lại tranh chấp về giếng đó; ông đặt tên giếng là Xít-na. 22
Ông bỏ chỗ ấy ra đi đào một giếng khác; người ta không tranh chấp về
giếng này, và ông đặt tên giếng là Rơ-khô-vốt; ông nói: "Vì giờ đây Ðức
Chúa đã cho chúng ta được thênh thang, và chúng ta sẽ sinh sôi trong đất
này."
23
Từ
chỗ ấy, ông lên Bơ-e Se-va. 24 Ðêm ấy, Ðức Chúa hiện ra với ông và
phán:
"Ta
là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, cha ngươi.
Ðừng
sợ, vì Ta ở với ngươi.
Vì
Áp-ra-ham, tôi tớ của Ta, Ta sẽ chúc phúc cho ngươi,
sẽ
làm cho dòng dõi ngươi ra nhiều."
25
Tại
đây ông dựng một bàn thờ và kêu cầu danh Ðức Chúa. Cũng tại đây ông cắm lều, và
các đầy tớ ông I-xa-ác đã khơi một cái giếng.
Giao
ước với vua A-vi-me-léc
26
Từ
Gơ-ra, vua A-vi-me-léc cùng với ông A-khu-dát, bạn của vua, và ông Pi-khôn,
người chỉ huy quân đội của vua, đến gặp ông I-xa-ác. 27 Ông I-xa-ác
nói với họ: "Các ông ghét tôi và đã đuổi tôi đi khỏi xứ các ông, thì các
ông còn đến gặp tôi làm gì?” 28 Họ trả lời: "Chúng tôi đã thấy
rõ là Ðức Chúa ở với ông và chúng tôi nói: phải có một lời thề nguyền giữa
chúng ta, giữa chúng tôi và ông. Chúng tôi muốn lập giao ước với ông: 29 Ông
sẽ không làm hại chúng tôi, cũng như chúng tôi đã không động đến ông, mà đã chỉ
làm điều tốt cho ông và đã để cho ông đi bình an. Giờ đây ông là người được Ðức
Chúa chúc phúc.” 30 Ông làm tiệc đãi họ, và họ ăn uống.
31
Sáng
hôm sau, họ dậy sớm, hai bên thề với nhau, rồi ông I-xa-ác để họ đi và họ từ
giã ông ra đi bình an. 32 Chính ngày hôm ấy, các đầy tớ ông I-xa-ác
đến báo tin cho ông về cái giếng họ đã đào; họ nói với ông: "Chúng tôi đã
tìm thấy nước.” 33 Ông gọi giếng ấy là Síp-a; vì thế tên thành ấy là
Bơ-e Se-va; cho đến ngày nay.
Các
bà vợ người Khết của ông Ê-xau
34
Khi
Ê-xau được bốn mươi tuổi thì lấy hai người vợ là Giu-đi-tha, con gái ông
Bơ-ê-ri người Khết, và Ba-xơ-mát, con gái ông Ê-lôn người Khết. 35 Hai
người phụ nữ này làm cho ông I-xa-ác và bà Rê-bê-ca phải cay đắng trong lòng.
Chương 27
Ông
Gia-cóp đoạt lời chúc phúc của ông I-xa-ác
1
Ông
I-xa-ác đã già, mắt ông loà không trông thấy nữa. Ông bèn gọi Ê-xau, con trai
lớn của ông, ông nói: "Con ơi! " Cậu thưa: "Dạ, con đây.” 2
Ông nói: "Con thấy không, cha già rồi, không biết chết ngày nào. 3
Bây giờ con hãy lấy khí giới của con, ống tên và cây cung của con, ra
đồng săn thú cho cha. 4 Con hãy làm cho cha một món ăn ngon như cha
thích, rồi đem đến cho cha ăn, để cha đích thân chúc phúc cho con trước khi
chết.” 5 Ðang khi ông I-xa-ác nói với Ê-xau, con trai ông, thì bà
Rê-bê-ca nghe được. Ê-xau đi ra đồng để săn thú mang về.
6
Bà
Rê-bê-ca nói với ông Gia-cóp, con trai bà: "Này, mẹ vừa nghe cha con nói
với anh con rằng: 7 "Con hãy đem thịt rừng về cho cha và làm
cho cha một món ăn ngon, để cha ăn và chúc phúc cho con trước mặt Ðức Chúa,
trước khi cha chết.” 8 Giờ đây, con ơi, hãy nghe lời mẹ mà làm như
mẹ dạy con. 9 Con đến bầy súc vật bắt cho mẹ hai con dê đực non và
mập; mẹ sẽ làm thành một món ăn ngon cho cha con như cha con thích. 10 Con
sẽ đem đến cho cha con và cha con sẽ ăn, để người chúc phúc cho con trước khi
chết."
11
Gia-cóp
nói với mẹ: "Mẹ coi, anh Ê-xau con thì lông lá, còn con thì nhẵn nhụi. 12
Biết đâu cha con sẽ rờ con; con sẽ bị cha coi như một tên lừa gạt, và sẽ
phải chuốc lấy lời nguyền rủa, thay vì được chúc phúc.” 13 Mẹ cậu
bảo: "Con ơi, nếu con bị nguyền rủa, mẹ sẽ gánh cho; cứ nghe lời mẹ và đi
bắt dê cho mẹ.” 14 Cậu đi bắt, đem lại cho mẹ, và mẹ cậu đã làm
thành món ăn ngon như cha cậu thích. 15 Bà Rê-bê-ca lấy áo của
Ê-xau, con trai lớn của bà, áo sang nhất mà bà có ở nhà, và mặc cho Gia-cóp,
con trai nhỏ của bà. 16 Bà lấy da dê non mà bọc lấy tay và phần cổ
nhẵn nhụi của cậu. 17 Rồi bà đặt món ăn ngon và bánh đã làm vào tay
Gia-cóp, con bà.
18
Cậu
vào với cha và thưa: "Cha ơi!" Ông đáp: "Cha đây! Con là đứa nào
đấy con?” 19 Gia-cóp thưa với cha: "Con là Ê-xau, con trưởng
của cha; con đã làm như cha bảo. Mời cha ngồi dậy xơi món thịt rừng của con, để
cha đích thân chúc phúc cho con.” 20 Ông I-xa-ác hỏi con: "Con
ơi! sao con tìm được mau thế?" Cậu thưa: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của
cha, đã cho con gặp được may mắn.” 21 Ông I-xa-ác bảo Gia-cóp:
"Con ơi, lại gần đây, để cha rờ con, xem con có đúng là Ê-xau, con cha,
hay không.” 22 Gia-cóp lại gần ông I-xa-ác, cha ông; ông rờ cậu và
nói: "Tiếng thì tiếng Gia-cóp, mà tay là tay Ê-xau.” 23 Ông
không nhận ra cậu, vì tay cậu lông lá như tay Ê-xau, anh cậu; thế là ông chúc
lành cho cậu. 24 Ông hỏi: "Con có đúng là Ê-xau, con cha
không?" Cậu thưa: "Vâng, chính con.” 25 Ông nói: "Con
ơi, bưng lại cho cha ăn món thịt rừng, để cha đích thân chúc phúc cho
con." Cậu bưng lại cho ông, ông ăn; rồi cậu đem rượu đến, ông uống.26 Ông
I-xa-ác, cha cậu, bảo: "Con ơi, lại gần đây và hôn cha đi!” 27 Cậu
lại gần và hôn ông. Ông hít mùi áo cậu và chúc phúc cho cậu rằng:
"Kìa,
mùi thơm con tôi
như
mùi thơm cánh đồng Ðức Chúa đã chúc phúc.
28
Xin
Thiên Chúa ban cho con,
sương
trời với đất đai màu mỡ, và lúa mì rượu mới dồi dào.
29
Các
dân phải làm tôi con, các nước phải sụp xuống lạy con.
Con
hãy làm chủ các anh em con,
và
các con của mẹ con phải sụp xuống lạy con.
Kẻ
nguyền rủa con sẽ bị nguyền rủa,
kẻ
chúc phúc cho con sẽ được chúc phúc."
30
Khi
ông I-xa-ác chúc phúc cho Gia-cóp xong, và Gia-cóp vừa từ chỗ cha cậu là ông
I-xa-ác mà đi ra, thì Ê-xau, anh cậu, đi săn về. 31 Ê-xau cũng làm
một món ăn ngon, đem lại cho cha và thưa với cha: "Mời cha dậy xơi món
thịt rừng của con cha, để cha đích thân chúc phúc cho con.” 32 Ông
I-xa-ác, cha cậu, nói với cậu: "Con là đứa nào đây?" Cậu thưa:
"Con là Ê-xau, con trai cha, con trưởng của cha!” 33 Ông
I-xa-ác run lên, run bắn người lên và hỏi: "Vậy ai là người đã săn thịt
rừng và đem lại cho cha? Cha đã ăn tất cả trước khi con vào. Cha đã chúc phúc
cho nó, và dù sao nó vẫn được chúc phúc.” 34 Khi Ê-xau nghe những
lời của cha, cậu kêu lên một tiếng lớn và cay đắng vô cùng. Cậu thưa với cha:
"Cha ơi, xin cha chúc phúc cho cả con nữa.” 35 Ông nói:
"Em con đã dùng mưu gian mà đến, và đoạt lời chúc của con.” 36 Cậu
nói: "Có phải vì nó tên là Gia-cóp, mà nó đã hất cẳng con đến hai lần? Nó
đã đoạt quyền trưởng nam của con, bây giờ đây nó lại đoạt lời chúc phúc của
con!" Rồi cậu thêm: "Cha chẳng dành cho con một lời chúc phúc sao?” 37
Ông I-xa-ác đáp lại Ê-xau: "Con xem, cha đã đặt nó làm chủ con và đã
khiến tất cả các anh em nó làm tôi nó. Cha đã liệu cho nó có lúa mì rượu mới.
Vậy cha làm gì được cho con, con ơi!” 38 Ê-xau thưa với cha:
"Cha chỉ có một lời chúc phúc ấy thôi sao? Xin cha cũng chúc phúc cho cả con
nữa, cha ơi!" Rồi Ê-xau oà lên khóc. 39 Bấy giờ, ông I-xa-ác,
cha cậu, lên tiếng nói:
"Kìa,
nơi ở của con sẽ cách xa đất đai màu mỡ
và
không được sương từ trời cao gieo xuống.
40
Con
sẽ sống nhờ thanh gươm của con, sẽ làm tôi em con.
Nhưng
khi còn nay đây mai đó,
con
sẽ giũ được ách em con ra khỏi cổ con."
41
Ê-xau
hận với Gia-cóp vì lời chúc phúc cậu này đã được cha ban cho. Ê-xau tự nhủ:
"Sắp đến ngày lo đám tang cho cha ta rồi; bấy giờ ta sẽ giết Gia-cóp, em
ta!” 42 Người ta báo cho bà Rê-bê-ca biết những lời của Ê-xau, con
trai lớn của bà. Bà liền cho gọi Gia-cóp, con trai nhỏ của bà đến và bảo:
"Ê-xau, anh con, đang muốn giết con để trả thù. 43 Giờ đây, con
ơi, hãy nghe lời mẹ, đứng lên và trốn sang bên bác La-ban, anh của mẹ ở
Kha-ran.44 Con sẽ ở với bác một thời gian, cho đến khi anh con nguôi giận. 45
Chừng nào anh con không còn giận con nữa và quên đi điều con đã làm cho
anh, thì mẹ sẽ sai người đưa con từ đó về. Lẽ nào trong một ngày mẹ phải mất cả
hai con?"
Ông
I-xa-ác sai ông Gia-cóp đến nhà ông La-ban
46
Bà
Rê-bê-ca nói với ông I-xa-ác: "Tôi chán không muốn sống nữa, vì các con
gái ông Khết. Nếu Gia-cóp cưới ai trong số con gái ông Khết như những cô này,
đám con gái xứ này, thì tôi còn sống làm gì nữa?"
Chương 28
1
Ông
I-xa-ác gọi ông Gia-cóp đến, chúc phúc cho cậu và truyền rằng: "Con không
được cưới ai trong số con gái Ca-na-an. 2 Ðứng lên! Ði về Pát-đan
A-ram, đến nhà ông Bơ-thu-ên, ông ngoại con, và ở đó con lấy con gái ông
La-ban, bác con, làm vợ. 3 Xin Thiên Chúa toàn năng chúc phúc cho con,
xin Người làm cho con sinh sôi nảy nở thật nhiều, để con trở nên một cộng đồng
nhiều dân nước. 4 Xin Người ban cho con và dòng dõi con phúc lành
của ông Áp-ra-ham, để con chiếm hữu miền đất con đang trú ngụ, là miền đất
Thiên Chúa đã ban cho ông Áp-ra-ham.” 5 Ông I-xa-ác sai ông Gia-cóp
đi về Pát-đan A-ram, đến nhà ông La-ban là con trai ông Bơ-thu-ên, người A-ram,
và là anh bà Rê-bê-ca, mẹ của Gia-cóp và Ê-xau.
Ông
Ê-xau lấy vợ lần nữa
6
Ê-xau
thấy rằng ông I-xa-ác đã chúc phúc cho Gia-cóp và sai về Pát-đan A-ram để lấy
vợ ở đó, và thấy rằng khi Gia-cóp đi, thì ông đã truyền: "Con không được
cưới ai trong số con gái Ca-na-an.” 7 Gia-cóp vâng lời cha mẹ mà đi
Pát-đan A-ram. 8 Ê-xau thấy rằng những người con gái Ca-na-an không
vừa ý ông I-xa-ác, cha cậu. 9 Vậy Ê-xau đến nhà ông Ít-ma-ên, và
ngoài những người vợ đã có, cậu lại cưới thêm cô Ma-kha-lát là con gái ông
Ít-ma-ên, con ông Áp-ra-ham, và là em gái ông Nơ-va-giốt.
Giấc
mộng của ông Gia-cóp
10
Gia-cóp
ra khỏi Bơ-e Se-va và đi về Kha-ran. 11 Cậu đến một nơi kia và nghỉ
đêm tại đó vì mặt trời đã lặn. Cậu lấy một hòn đá ở nơi đó để gối đầu và nằm
ngủ ở đó. 12 Cậu chiêm bao thấy một chiếc thang dựng dưới đất, đầu
thang chạm tới trời, trên đó có các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống.
13 Và kìa Ðức Chúa đứng bên trên thang mà phán: "Ta là Ðức
Chúa, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, tổ phụ ngươi, và là Thiên Chúa của I-xa-ác. Ðất
ngươi đang nằm, Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi. 14 Dòng dõi
ngươi sẽ nhiều như bụi trên đất; ngươi sẽ lan tràn ra khắp đông tây nam bắc.
Nhờ ngươi và dòng dõi ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc. 15
Này Ta ở với ngươi; ngươi đi bất cứ nơi nào, Ta sẽ giữ gìn ngươi, và Ta
sẽ đưa ngươi về đất này, vì Ta sẽ không bỏ ngươi cho đến khi Ta hoàn thành điều
Ta đã phán với ngươi.” 16 Gia-cóp tỉnh giấc và nói: "Quả thật,
có Ðức Chúa ở nơi này mà tôi không biết!” 17 Cậu phát sợ và nói:
"Nơi này đáng sợ thay! Ðây là nhà của Thiên Chúa, là cửa trời, chứ không
phải là gì khác.” 18 Sáng hôm sau, Gia-cóp dậy sớm, lấy hòn đá cậu
đã gối đầu, dựng lên làm trụ và đổ dầu lên đầu trụ. 19 Cậu đặt tên
cho nơi đó là Bết Ên; trước đó, tên thành ấy là Lút.
20
Gia-cóp
khấn rằng: "Nếu Thiên Chúa ở với tôi và giữ gìn tôi trong chuyến đi tôi
đang thực hiện, nếu Người ban cho tôi bánh ăn áo mặc, 21 nếu tôi
được trở về nhà cha tôi bình an, thì Ðức Chúa sẽ là Thiên Chúa của tôi, 22
hòn đá này là hòn đá tôi đã dựng lên làm trụ sẽ là nhà của Thiên Chúa, và
lạy Chúa, mọi sự Ngài ban cho con, con sẽ dâng cho Ngài một phần mười."
Chương 29
Gia-cóp
đến nhà ông La-ban
1
Gia-cóp
cất bước đi về đất con cái Phương Ðông. 2 Cậu nhìn và thấy một cái
giếng ở ngoài đồng. Ở đó có ba đàn chiên đang nằm gần giếng, vì người ta cho
các đàn vật uống nước giếng này. Trên miệng giếng, có một tảng đá lớn. 3 Khi
các đàn vật đã tụ tập đông đủ, thì người ta lăn tảng đá ra khỏi miệng giếng và
cho chiên uống, rồi lại đưa tảng đá về chỗ cũ trên miệng giếng. 4 Gia-cóp
hỏi họ: "Anh em ở đâu đến?" Họ đáp: "Chúng tôi từ Kha-ran đến.” 5
Cậu hỏi: "Anh em có biết ông La-ban, con cháu ông Na-kho
không?" Họ trả lời: "Chúng tôi biết.” 6 Cậu lại hỏi:
"Ông ấy có được bình an không?" Họ trả lời: "Ông ấy được bình
an; cô Ra-khen, con gái ông ấy, đang đến cùng với chiên dê kia kìa.” 7 Cậu
nói: "Trời còn sáng thế này, chưa phải là lúc tụ tập đàn vật, anh em cho
chiên dê uống rồi đi chăn đi!” 8 Họ đáp: "Chúng tôi không được
làm như vậy, trước khi các đàn vật tụ tập đông đủ; bấy giờ người ta mới lăn
tảng đá khỏi miệng giếng, và chúng tôi sẽ cho chiên dê uống."
9
Ông
còn đang nói chuyện với họ, thì cô Ra-khen đến cùng với chiên dê của cha cô, vì
cô là người chăn súc vật. 10 Gia-cóp vừa nhìn thấy cô Ra-khen, con
gái ông La-ban, anh của mẹ cậu, và chiên dê của ông La-ban, anh của mẹ cậu, thì
cậu lăn tảng đá ra khỏi miệng giếng, và cho chiên dê của ông La-ban, anh của mẹ
cậu, uống. 11 Gia-cóp hôn cô Ra-khen rồi oà lên khóc. 12 Gia-cóp
nói cho cô Ra-khen biết cậu là anh em họ hàng với cha cô và là con trai bà
Rê-bê-ca; cô liền chạy về báo tin cho cha. 13 Ông La-ban vừa nghe
nói đến Gia-cóp, con của em gái ông, liền chạy ra đón, ôm cậu mà hôn, rồi đưa
vào nhà. Cậu kể lại cho ông La-ban hết mọi việc. 14 Ông La-ban nói:
"Cháu đúng là cốt nhục của bác." Cậu ở lại với ông trọn một tháng.
Ông
Gia-cóp lấy hai vợ
15
Ông
La-ban nói với Gia-cóp: "Vì cháu là anh em họ hàng với bác, mà cháu phục
vụ bác không công hay sao? Cháu cứ cho bác biết công xá của cháu thế nào.” 16
Ông La-ban có hai con gái, cô chị tên là Lê-a, cô em tên là Ra-khen. 17
Cô Lê-a mắt lờ đờ, còn cô Ra-khen thì duyên dáng và có nhan sắc. 18 Gia-cóp
yêu cô Ra-khen, nên cậu nói: "Cháu sẽ phục vụ bác bảy năm để được Ra-khen,
con gái út của bác.” 19 Ông La-ban nói: "Bác gả nó cho cháu thì
hơn là gả cho người khác. Cháu cứ ở lại với bác.” 20 Vì cô Ra-khen,
Gia-cóp đã phục vụ bảy năm, nhưng đối với cậu chỉ như vài ngày vì cậu quá yêu
cô. 21 Gia-cóp nói với ông La-ban: "Xin bác giao vợ cháu cho
cháu, vì cháu đã mãn hạn, và cháu muốn lui tới với nàng.” 22 Ông
La-ban mời mọi người nơi ấy đến và làm tiệc. 23 Chiều tối, ông dẫn
cô Lê-a, con gái ông, đến cho cậu, và cậu ăn nằm với cô. 24 Ông
La-ban cho con gái ông là Lê-a, người nữ tỳ của ông là Din-pa, để làm nữ tỳ cho
cô. 25 Sáng ngày ra, mới thấy là cô Lê-a! Cậu nói với ông La-ban:
"Cha đã làm gì con thế? Con đã chẳng phục vụ cha để được Ra-khen sao? Sao
cha lại đánh lừa con?” 26 Ông La-ban trả lời cậu: "Trong miền
chúng tôi không có lệ gả em trước khi gả chị. 27 Con cứ qua trọn
tuần lễ cưới với đứa này đã, rồi cha sẽ gả cho con cả đứa kia, để bù lại công
con phục vụ ở nhà cha thêm bảy năm nữa.” 28 Gia-cóp đã làm như vậy:
cậu đã qua trọn tuần lễ cưới với cô Lê-a, rồi ông gả cho cậu cô Ra-khen, con
gái ông, làm vợ. 29 Ông La-ban cho con gái ông là Ra-khen, người nữ
tỳ của ông là Bin-ha, để làm nữ tỳ cho cô. 30 Gia-cóp cũng ăn nằm
với cô Ra-khen, cậu còn yêu cô Ra-khen hơn cô Lê-a, và cậu phục vụ ở nhà ông
La-ban thêm bảy năm nữa.
Các
con ông Gia-cóp
31
Ðức
Chúa thấy rằng bà Lê-a không được yêu, nên Người cho bà sinh đẻ, còn bà Ra-khen
thì hiếm hoi. 32 Bà Lê-a có thai, sinh con trai và đặt tên cho nó là
Rưu-vên, vì bà nói: "Ðức Chúa đã thấy cảnh khổ cực của tôi, bây giờ chồng
tôi sẽ yêu tôi.” 33 Bà lại có thai và sinh con trai. Bà nói:
"Ðức Chúa đã nghe biết là tôi không được yêu, và Người đã cho tôi đứa này
nữa", và bà đặt tên cho nó là Si-mê-ôn. 34 Bà lại có thai và
sinh con trai. Bà nói: "Phen này, chồng tôi sẽ gắn bó với tôi, vì tôi đã
sinh cho ông ba đứa con trai", vì thế bà đặt tên cho nó là Lê-vi. 35 Bà
lại có thai và sinh con trai. Bà nói: "Phen này, tôi sẽ tạ ơn Ðức
Chúa", vì thế bà đặt tên cho nó là Giu-đa. Rồi bà thôi không sinh đẻ nữa.
Chương 30
1
Khi
bà Ra-khen thấy mình không sinh con cho ông Gia-cóp, thì ghen với chị và nói
với ông Gia-cóp: "Cho tôi có con đi, không thì tôi chết mất!” 2 Ông
Gia-cóp nổi nóng với bà Ra-khen và nói: "Tôi đâu có thay quyền Thiên Chúa
là Ðấng đã không cho bà sinh đẻ!” 3 Bà nói: "Ðây Bin-ha, nữ tỳ
của tôi, ông hãy đi lại với nó, để nó sinh con trên đầu gối tôi, và nhờ nó mà
cả tôi nữa, cũng có con.” 4 Bà hiến nữ tỳ của bà là Bin-ha cho ông,
để nàng làm vợ ông, và ông Gia-cóp đi lại với nàng. 5 Bin-ha có thai
và sinh cho ông Gia-cóp một đứa con trai. 6 Bà Ra-khen nói:
"Thiên Chúa đã xét xử cho tôi; Người cũng đã nghe tiếng tôi và đã cho tôi
một đứa con trai"; vì thế bà đặt tên cho nó là Ðan. 7 Bin-ha,
nữ tỳ của bà Ra-khen, lại có thai và sinh một người con trai thứ hai cho ông
Gia-cóp. 8 Bà Ra-khen nói: "Tôi đã chiến đấu với chị tôi những
cuộc chiến thần thánh, và tôi đã thắng"; và bà đặt tên cho nó là
Náp-ta-li.
9
Khi
bà Lê-a thấy mình thôi không sinh đẻ nữa, thì bà đem nữ tỳ của bà là Din-pa
hiến cho ông Gia-cóp, để nàng làm vợ ông. 10 Din-pa, nữ tỳ của bà
Lê-a, sinh cho ông Gia-cóp một đứa con trai. 11 Bà Lê-a nói:
"May quá!"; và bà đặt tên cho nó là Gát. 12 Din-pa, nữ tỳ
của bà Lê-a, sinh một người con trai thứ hai cho ông Gia-cóp. 13 Bà
Lê-a nói: "Tôi hạnh phúc biết bao! Vì các cô gái sẽ khen ngợi tôi có
phúc"; và bà đặt tên cho nó là A-se.
14
Vào
mùa gặt lúa mì, Rưu-vên đi ra, tìm thấy ở ngoài đồng những quả ngải sâm, và
mang về cho bà Lê-a, mẹ mình. Bà Ra-khen nói với bà Lê-a: "Xin chị cho em
mấy quả ngải sâm của con chị.” 15 Bà Lê-a nói với em: "Ðoạt
chồng của tôi, đối với cô còn chưa đủ hay sao, mà cô lại muốn lấy cả quả ngải
sâm của con tôi nữa?" Bà Ra-khen nói: "Thế thì ông ấy cứ nằm với chị
đêm nay, để đổi lấy mấy quả ngải sâm của con chị.” 16 Ðến chiều, khi
ông Gia-cóp từ ngoài đồng về, bà Lê-a ra đón ông và bảo: "Ông phải đến với
tôi, vì tôi đã bỏ ra mấy quả ngải sâm của con tôi để đổi lấy ông." Và ông
đã nằm với bà đêm ấy. 17 Thiên Chúa đã nhận lời bà Lê-a. Bà có thai
và sinh một người con trai thứ năm cho ông Gia-cóp. 18 Bà Lê-a nói:
"Thiên Chúa đã trả công cho tôi, vì tôi đã hiến nữ tỳ của tôi cho chồng
tôi"; và bà đặt tên cho nó là Ít-xa-kha. 19 Bà Lê-a lại có thai
và sinh một người con trai thứ sáu cho ông Gia-cóp. 20 Bà Lê-a nói:
"Thiên Chúa đã tặng tôi một món quà quý. Phen này, chồng tôi sẽ ở với tôi,
vì tôi đã sinh cho ông sáu đứa con trai"; và bà đặt tên cho nó là
Dơ-vu-lun. 21 Sau đó, bà sinh một đứa con gái và đặt tên cho nó là
Ði-na.
22
Thiên
Chúa đã nhớ đến bà Ra-khen, Thiên Chúa đã nhận lời bà và đã cho bà sinh đẻ được.
23 Bà có thai và sinh một đứa con trai. Bà nói: "Thiên Chúa đã
cất nỗi hổ nhục của tôi"; 24 và bà đặt tên cho nó là Giu-se, bà
nói: "Xin Ðức Chúa thêm cho tôi một đứa con trai khác."
Ông
Gia-cóp làm giàu
25
Khi
bà Ra-khen sinh được Giu-se, thì ông Gia-cóp nói với ông La-ban: "Xin cho
con đi, để con về quê hương xứ sở của con. 26 Xin cho con vợ con của
con; vì những người vợ ấy, con đã phục vụ cha. Xin để con đi. Cha biết con đã
làm lụng thế nào để phục vụ cha. 27 Ông La-ban nói với ông:
"Nếu cha được đẹp lòng con... nhờ bói toán, cha biết được là ÐỨC CHÚA đã
vì con mà chúc phúc cho cha.” 28 Rồi ông nói: "Con hãy ấn định
cho cha mức công xá của con, và cha sẽ trả.” 29 Ông Gia-cóp nói với
ông: "Cha biết con đã phục vụ cha thế nào, và nhờ con mà đàn súc vật của
cha đã ra sao. 30 Trước khi con đến, tài sản cha chẳng có bao nhiêu,
mà nay đã tăng lên rất nhiều. Con bước đi tới đâu là Ðức Chúa chúc phúc cho cha
tới đó. Bây giờ, khi nào con mới được lo cho gia đình con?” 31 Ông
nói: "Cha phải trả cho con cái gì đây?" Ông Gia-cóp thưa: "Cha
không phải trả gì cho con cả. Nếu cha làm cho con điều sau đây, thì con sẽ lại
chăn giữ đàn chiên dê của cha.
32
Hôm
nay con sẽ đi qua tất cả đàn chiên dê của cha, cha hãy để riêng ra mọi chiên
con lốm đốm và lấm chấm, mọi chiên con đen tuyền trong số chiên, và con nào lấm
chấm và lốm đốm trong số dê cái: đó sẽ là công xá của con. 33 Mai
ngày, khi cha đến kiểm soát công xá của con, thì sự lương thiện của con sẽ làm
chứng cho con: Tất cả những con dê không lấm chấm và lốm đốm, những con chiên
không đen tuyền trong đàn vật của con, sẽ là của ăn cắp. 34 Ông
La-ban nói: "Ðược, thì cứ như con nói!” 35 Ngày hôm ấy, ông để
riêng ra các dê đực vằn và lấm chấm, mọi dê cái lốm đốm và lấm chấm, mọi con
vật có vệt trắng, và mọi con chiên đen tuyền; và ông giao chúng cho các con
trai ông. 36 Rồi ông để khoảng cách ba ngày đường giữa ông và ông
Gia-cóp. Ông Gia-cóp thì chăn những chiên dê còn lại của ông La-ban. 37 Ông
Gia-cóp kiếm những cành cây bạch dương, hạnh đào và tiêu huyền còn tươi. Ông
bóc vỏ cho lộ ra phần lõi trắng trên cành, để làm thành những vệt trắng. 38
Rồi ông đặt các cành cây đã bóc vỏ vào các máng uống nước, nơi chiên dê
đến uống, cho chúng thấy; chúng động đực khi đến uống. 39 Các con
vật giao nhau trước các cành cây và đẻ ra những con vằn, lốm đốm và lấm chấm. 40
Còn những con chiên thì ông Gia-cóp tách riêng ra, và cho chúng quay về
những con vằn và tất cả những con lốm đốm trong đàn vật của ông La-ban. Bằng
cách đó, ông gây cho mình những đàn vật riêng và không đặt chung với đàn vật
của ông La-ban. 41 Mỗi khi các con vật khoẻ giao nhau, thì ông
Gia-cóp đặt các cành vào trong máng, trước mắt chúng, để chúng giao nhau trước
các cành đó. 42 Nếu là các con vật yếu thì ông không đặt, thành ra
các con yếu thuộc về ông La-ban, còn những con khoẻ thuộc về ông Gia-cóp. 43
Thế là ông trở nên giàu, thật giàu; ông có chiên dê đầy đàn, có tôi trai
tớ gái, lạc đà và lừa.
Chương 31
Ông
Gia-cóp trốn đi
1
Ông
Gia-cóp nghe được những lời của các con trai ông La-ban nói rằng: "Gia-cóp
đã lấy tất cả tài sản của cha chúng ta, và nhờ tài sản của cha chúng ta mà làm
nên cơ đồ ấy.” 2 Ông Gia-cóp nhìn nét mặt ông La-ban và thấy rằng,
đối với mình, cha không còn như xưa nữa. 3 Ðức Chúa phán với ông Gia-cóp:
"Hãy trở về quê cha đất tổ, về với họ hàng ngươi: Ta sẽ ở với ngươi.” 4
Ông Gia-cóp sai người đi gọi bà Ra-khen và bà Lê-a ra ngoài đồng, đến chỗ
đàn chiên dê của ông. 5 Ông nói với họ: "Tôi thấy rằng nét mặt
của cha các bà đối với tôi không còn như xưa nữa; nhưng Thiên Chúa của cha tôi
đã ở với tôi. 6 Chính các bà biết rằng tôi đã phục vụ cha các bà
bằng tất cả sức lực của tôi. 7 Cha các bà đã đánh lừa tôi, và đã đổi
công xá của tôi mười lần, nhưng Thiên Chúa đã không để cho ông ấy làm hại tôi. 8
Mỗi khi ông nói: "Những con lốm đốm sẽ là công xá của con", thì
tất cả chiên dê đẻ ra những con lốm đốm; mỗi khi ông nói: "Những con vằn
sẽ là công xá của con", thì tất cả chiên dê đẻ ra những con vằn. 9 Thiên
Chúa đã lấy đàn vật của cha các bà mà cho tôi. 10 Vào thời chiên dê
giao nhau, tôi ngước mắt lên và chiêm bao thấy rằng: những con dê đực phủ những
con cái thì vằn, lốm đốm và khoang. 11 Sứ thần của Thiên Chúa nói
với tôi trong giấc chiêm bao: "Gia-cóp!" Tôi thưa: "Dạ, con đây!”
12 Người phán: "Ngước mắt lên mà nhìn: mọi con dê đực phủ những
con cái thì vằn, lốm đốm và khoang, vì La-ban đối xử với ngươi thế nào, Ta đã
thấy hết. 13 Ta là Thiên Chúa, Ðấng đã hiện ra với ngươi ở Bết Ên,
nơi ngươi đã xức dầu một trụ đá, nơi ngươi đã khấn hứa với Ta. Giờ đây, đứng
lên! Ra khỏi đất này mà trở về quê hương ngươi."
14
Bà
Ra-khen và Lê-a trả lời ông rằng: "Nào chúng tôi còn được chung phần và
hưởng cơ nghiệp trong nhà cha chúng tôi nữa đâu? 15 Chúng tôi chẳng bị cha coi
là người xa lạ đó sao? Vì cha đã bán chúng tôi đi, lại còn nuốt ngon tiền bạc
của chúng tôi. 16 Vâng, tất cả tài sản Thiên Chúa đã lấy của cha
chúng tôi thì thuộc về chúng ta và con cái chúng ta. Giờ đây mọi điều Thiên
Chúa đã phán với ông, ông cứ làm."
17
Ông
Gia-cóp đứng lên, đưa các con và các bà vợ lên lạc đà. 18 Ông đưa
tất cả đàn vật và mọi tài sản ông đã gây được, đàn vật riêng của ông mà ông đã
gây được ở Pát-đan A-ram, để đi về với ông I-xa-ác, cha ông, ở đất Ca-na-an. 19
Trong lúc ông La-ban đi xén lông chiên, thì bà Ra-khen lấy trộm các tượng
thần của cha bà. 20 Ông Gia-cóp đánh lừa ông La-ban, người A-ram,
không cho ông ấy biết mình đi trốn. 21 Ông trốn đi với tất cả những
gì thuộc về ông; ông đứng lên, sang Sông Cả và hướng thẳng về núi Ga-la-át.
Ông
La-ban đuổi theo ông Gia-cóp
22
Sang
ngày thứ ba, người ta báo cho ông La-ban biết ông Gia-cóp đã trốn đi. 23 Ông
đem anh em họ hàng đi với mình, rượt theo ông Gia-cóp bảy ngày đường, và đuổi
kịp ông này ở núi Ga-la-át. 24 Ban đêm Thiên Chúa đến báo mộng cho
ông La-ban, người A-ram, rằng: "Coi chừng, đừng nói bất cứ điều gì với
Gia-cóp.” 25 Ông La-ban theo kịp ông Gia-cóp. Ông Gia-cóp đã cắm lều
trên núi; ông La-ban với các anh em họ hàng cũng cắm lều trên núi Ga-la-át.
26
Ông
La-ban nói với ông Gia-cóp: "Con đã làm gì thế? Con đã đánh lừa cha mà đem
các con gái cha đi như thể tù chiến tranh. 27 Tại sao con đã lén lút
trốn đi và đã lừa cha, không cho cha biết, để cha còn tiễn đưa con trong niềm
vui tiếng hát, trong tiếng trống tiếng đàn? 28 Con đã không để cho cha hôn con
hôn cháu cha. Thật con đã hành động ngu xuẩn! 29 Cha có đủ khả năng làm hại các
con, nhưng đêm qua Thiên Chúa của cha các con đã phán với cha rằng: "Coi
chừng, đừng nói bất cứ điều gì với Gia-cóp.” 30 Bây giờ thì con đi
vì quá nhớ nhà cha con, nhưng tại sao con lại lấy trộm các thần của cha?” 31
Ông Gia-cóp đáp lại ông La-ban: "Vì con sợ, và con tự bảo: có khi
cha sẽ dùng sức mạnh mà đoạt lại các con gái của cha. 32 Còn nếu cha
tìm được các thần của cha nơi người nào, thì người ấy không được sống nữa. Có
anh em họ hàng của cha con ta chứng kiến, xin cha nhận ra cái gì là của cha
trong những thứ con có ở đây, và cứ lấy lại." Ông Gia-cóp không biết rằng
bà Ra-khen đã lấy trộm các tượng ấy. 33 Ông La-ban vào lều ông
Gia-cóp, rồi vào lều bà Lê-a và lều hai người nữ tỳ, nhưng không tìm thấy gì.
Ông ra khỏi lều bà Lê-a và vào lều bà Ra-khen. 34 Bà Ra-khen đã lấy
các tượng thần, để trong yên lạc đà rồi ngồi lên trên. Ông La-ban lục lọi khắp
cả lều mà không tìm thấy. 35 Bà thưa với cha: "Xin ngài đừng
nổi nóng nếu con không thể đứng lên trước mặt ngài, vì con đang có điều thường
xảy đến cho đàn bà." Ông tìm tòi nhưng không thấy các tượng thần.
36
Bấy
giờ ông Gia-cóp nổi nóng và trách móc ông La-ban; ông lên tiếng nói với ông
La-ban: "Con có tội có lỗi gì mà cha cứ theo con gắt gao như vậy? 37 Lục
lọi tất cả đồ đạc của con, cha có tìm được đồ đạc gì của nhà cha không? Cha cứ
đưa ra đây trước mặt anh em họ hàng của con và anh em họ hàng của cha, để họ
phân xử cho đôi bên. 38 Suốt hai mươi năm con đã ở với cha, chiên
cái dê cái của cha không hề sẩy thai, con không hề ăn con chiên đực nào trong
đàn vật của cha. 39 Con vật bị cắn xé, con không đưa về cho cha,
chính con chịu đền; con bị mất trộm con nào ban ngày hay ban đêm, cha đều đòi
con phải trả. 40 Ban ngày con bị nắng thiêu, ban đêm con bị lạnh
buốt, không sao chợp mắt ngủ được. 41 Con ở nhà cha đã được hai mươi
năm, con đã phục vụ cha được mười bốn năm để được hai cô con gái của cha, sáu
năm để được chiên của cha, cha đã đổi công xá của con mười lần. 42 Giả
như Thiên Chúa của cha con, là Thiên Chúa ông Áp-ra-ham thờ và là Ðấng ông
I-xa-ác khiếp sợ, đã không ở với con, thì bây giờ hẳn cha đã để con về tay
không. Thiên Chúa đã thấy cảnh khổ cực và công lao vất vả của con, và đêm qua
Người đã phân xử."
Thoả
hiệp giữa ông Gia-cóp và ông La-ban
43
Ông
La-ban đáp lại ông Gia-cóp: "Các cô này là con gái của cha, các cháu này
là cháu của cha, chiên dê này là chiên dê của cha, tất cả những gì con thấy đều
là của cha. Hôm nay cha có thể làm gì cho các con gái của cha, hoặc cho những
đứa con chúng đã sinh ra? 44 Bây giờ, nào cha con ta hãy lập giao ước, giao ước
đó sẽ làm chứng giữa cha con ta."
45
Ông
Gia-cóp lấy một tảng đá dựng lên làm trụ. 46 Ông Gia-cóp nói với anh
em họ hàng mình: "Hãy nhặt đá." Họ lấy đá làm thành một đống. Họ ăn
tại đó, trên đống đá ấy. 47 Ông La-ban gọi chỗ đó là Giơ-ga
Xa-ha-đu-tha, còn ông Gia-cóp thì gọi là Ga-lơ-ét. 48 Ông La-ban
nói: "Ðống đá này hôm nay làm chứng giữa cha con ta." Vì thế người ta
gọi nó là Ga-lơ-ét 49 và cũng gọi là Mít-pa, vì ông nói: "Xin Ðức Chúa
canh giữ giữa cha con ta, khi chúng ta khuất mặt nhau. 50 Nếu con
hành hạ các con gái cha, và nếu ngoài các con gái cha, con còn lấy thêm vợ
khác, thì dù không có ai ở với chúng ta, con hãy coi chừng: Thiên Chúa làm
chứng giữa cha con ta.” 51 Ông La-ban nói với ông Gia-cóp: "Ðây
đống đá này, và đây trụ đá cha đã đặt giữa cha và con. 52 Ðống đá
này làm chứng và trụ đá này cũng làm chứng rằng cha không được vượt qua đống đá
này sang bên con, và con cũng không được vượt qua đống đá này và trụ đá này
sang bên cha với ý đồ xấu. 53 Xin Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham và
Thiên Chúa của ông Na-kho -Thiên Chúa của cha các ngài- xét xử giữa chúng
ta." Ông Gia-cóp đã thề nhân danh Ðấng mà cha ông là I-xa-ác khiếp sợ. 54
Ông dâng lễ tế trên núi và mời anh em họ hàng đến dùng bữa. Họ dùng bữa
và nghỉ đêm trên núi.
Chương 32
1
Sáng
hôm sau, ông La-ban dậy sớm, hôn các con gái và các cháu ông, chúc phúc cho
chúng, rồi lên đường về nhà. 2 Ông Gia-cóp đang đi đường thì có
những sứ thần của Thiên Chúa gặp ông. 3 Vừa thấy các sứ thần, ông
Gia-cóp nói: "Ðây là trại của Thiên Chúa", và ông đặt tên cho nơi ấy
là Ma-kha-na-gim.
Ông
Gia-cóp chuẩn bị gặp ông Ê-xau
4
Ông
Gia-cóp sai sứ giả đi trước ông đến với ông Ê-xau tại đất Xê-ia, trong lãnh thổ
Ê-đôm. 5 Ông ra lệnh cho họ rằng: "Các anh sẽ nói với ông
Ê-xau, chủ tôi, thế này: "Tôi tớ ngài là ông Gia-cóp nói như sau: Tôi đã
trú ngụ tại nhà ông La-ban và đã ở lại mãi đến bây giờ. 6 Tôi có bò
lừa, chiên dê, tôi trai tớ gái, và tôi sai người báo tin cho ngài để được đẹp
lòng ngài."
7
Sứ
giả trở về với ông Gia-cóp và nói: "Chúng tôi đã đến với ông Ê-xau, anh
ông. Ông ấy cũng đang tiến về phía ông, và có bốn trăm người đi cùng."
8
Ông
Gia-cóp sợ hãi kinh hoàng. Ông chia những người đi với ông, cũng như chiên dê,
bò và lạc đà, đóng ở hai trại. 9 Ông tự nhủ: "Nếu ông Ê-xau đến
đánh phá một trại, thì trại còn lại có thể thoát.” 10 Ông Gia-cóp
cầu nguyện: "Lạy Thiên Chúa của tổ phụ con là ông Áp-ra-ham, Thiên Chúa
của cha con là ông I-xa-ác, lạy Ðức Chúa, Ðấng đã phán bảo con: "Hãy trở
về xứ sở, về với họ hàng ngươi, và Ta sẽ đối xử nhân hậu với ngươi", 11
con bé nhỏ, đâu xứng với tất cả mọi ân huệ và tất cả lòng thành tín mà
Ngài đã tỏ cho tôi tớ Ngài đây. Thật vậy, khi qua sông Gio-đan, con chỉ có cây
gậy, thế mà giờ đây đã thành ra hai trại. 12 Xin giải thoát con khỏi
tay anh con, khỏi tay anh Ê-xau, vì con sợ anh ấy, sợ anh ấy đến đánh chúng
con, đánh cả mẹ lẫn con. 13 Chính Ngài đã phán với con: "Ta sẽ
đối xử rất nhân hậu với ngươi, và sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên nhiều như cát
ngoài biển, không thể đếm được vì quá đông.” 14 Ông nghỉ đêm tại đó.
15
hai
trăm dê cái và hai mươi dê đực, hai trăm chiên cái và hai mươi chiên đực 16 ba
mươi lạc đà cái đang cho bú và con của chúng, bốn mươi bò cái và mười bò đực,
hai mươi lừa cái và mười lừa con. 17 Ông giao từng đàn vật riêng rẽ
cho các đầy tớ và bảo họ: "Các anh hãy đi trước tôi và để một khoảng cách
giữa mỗi đàn vật.” 18 Ông truyền cho người đầy tớ thứ nhất rằng:
"Khi ông Ê-xau, anh tôi, gặp anh và hỏi: "Anh là người của ai? Anh đi
đâu? Ðàn vật đi trước anh là của ai?” 19 thì anh trả lời: "Của
tôi tớ ngài là ông Gia-cóp. Ðây là tặng phẩm ông ấy gửi biếu ngài Ê-xau, còn
chính ông thì đang đi đàng sau chúng tôi.” 20 Ông cũng truyền cho
người thứ hai, người thứ ba, rồi cho tất cả những người đi sau các đàn vật,
rằng: "Các anh hãy dùng những lời lẽ ấy mà thưa với ông Ê-xau, khi các anh
gặp ông; 21 các anh hãy nói: "Tôi tớ ngài là ông Gia-cóp cũng
đi đàng sau chúng tôi." Thật vậy, ông tự nhủ: "Ta cho tặng phẩm này
đi trước để làm cho anh ấy nguôi giận; sau đó ta sẽ giáp mặt anh ấy và may ra
anh ấy sẽ nể ta.” 22 Tặng phẩm đi trước, còn chính ông nghỉ lại đêm
ấy trong trại.
Vật
lộn với Thiên Chúa
23
Ðêm
đó, ông Gia-cóp dậy, đem theo hai bà vợ, hai người nữ tỳ và mười một đứa con,
và ông lội qua sông Giáp-bốc.24 Ông đem họ theo, đưa họ qua sông, rồi đưa tài
sản của ông qua.25 Ông Gia-cóp ở lại một mình.
26
Thấy
không thắng được ông, người đó bèn đánh vào khớp xương hông của ông, và khớp
xương hông của ông Gia-cóp bị trật đang khi ông vật lộn với người đó.27 Người
đó nói: "Buông ta ra, vì đã rạng đông rồi." Nhưng ông đáp: "Tôi
sẽ không buông ngài ra, nếu ngài không chúc phúc cho tôi."28 Người đó hỏi
ông: "Tên ngươi là gì? " Ông đáp: "Tên tôi là Gia-cóp."29
Người đó nói: "Người ta sẽ không gọi tên ngươi là Gia-cóp nữa, nhưng là
Ít-ra-en, vì ngươi đã đấu với Thiên Chúa và với người ta, và ngươi đã
thắng."30 Ông Gia-cóp hỏi: "Xin cho tôi biết tên ngài." Người đó
nói: "Sao ngươi lại hỏi tên ta? " Và người đó chúc phúc cho ông tại
đấy.
31
Ông
Gia-cóp đặt tên cho nơi đó là Pơ-nu-ên, "vì -ông nói- tôi đã thấy Thiên
Chúa mặt đối mặt, mà tôi đã được tha mạng."32 Khi mặt trời mọc, ông đi qua
Pơ-nu-ên; ông đi khập khiễng vì bị trật xương hông.33 Bởi thế, con cái
Ít-ra-en, cho đến nay, không ăn cái gân đùi ở khớp xương hông, vì người đó đã
đánh vào khớp xương hông của ông Gia-cóp, vào gân đùi.
Chương 33
Ông
Gia-cóp gặp ông Ê-xau
1
Ông
Gia-cóp ngước mắt lên, thấy ông Ê-xau đang tiến đến, có bốn trăm người đi cùng.
Ông Gia-cóp bèn chia các con cho bà Lê-a, bà Ra-khen và hai người nữ tỳ. 2
Ông xếp các nữ tỳ với con của họ đi đầu, bà Lê-a với con bà đi sau, bà
Ra-khen với Giu-se đi sau chót. 3 Còn ông thì vượt lên phía trước họ
và sụp xuống đất lạy bảy lần trước khi đến gần anh mình. 4 Ông Ê-xau
chạy lại đón em, ôm chầm lấy, bá cổ mà hôn, rồi cả hai cùng khóc. 5 Ngước
mắt lên, ông Ê-xau thấy đám đàn bà con trẻ thì hỏi: "Những người kia là ai
đối với chú?" Ông Gia-cóp trả lời: "Ðó là những đứa con Thiên Chúa đã
thương ban cho tôi tớ ngài.” 6 Bấy giờ hai người nữ tỳ cùng với các
con của họ đến gần và sụp xuống lạy. 7 Ðến lượt bà Lê-a cùng với các
con của bà đến gần và sụp xuống lạy. Sau đó Giu-se và bà Ra-khen cũng đến gần
và sụp xuống lạy.
8
Ông
Ê-xau hỏi: "Tất cả trại tôi vừa gặp kia, chú tính để làm gì đó?" Ông
Gia-cóp trả lời: "Là để tôi được đẹp lòng ngài.” 9 Ông Ê-xau
nói: "Tôi có nhiều rồi, chú ạ! Cái gì của chú, chú cứ giữ lấy.” 10 Ông
Gia-cóp nói: "Không đâu! Nếu tôi được đẹp lòng ngài, thì xin ngài nhận
tặng phẩm tự tay tôi biếu. Thật vậy, tôi đã nhìn thấy mặt ngài như nhìn thấy
mặt Thiên Chúa, và ngài đã tỏ lòng thương đối với tôi. 11 Xin ngài
nhận lấy món quà đưa đến để cầu phúc cho ngài, vì Thiên Chúa đã thương ban cho
tôi và tôi có đủ mọi sự." Ông nài ép, và ông Ê-xau đã nhận.
Ông
Gia-cóp và ông Ê-xau chia tay
12
Ông
Ê-xau nói: "Nào chúng ta lên đường, tôi sẽ đi trước chú.” 13 Ông
Gia-cóp trả lời: "Ngài biết là lũ trẻ thì yếu ớt, còn tôi phải lo cho đám
chiên và bò đang cho con bú; nếu hối thúc chúng, dù một ngày thôi, thì chiên dê
sẽ chết hết. 14 Vậy xin ngài cứ vượt lên phía trước tôi tớ ngài;
phần tôi, tôi sẽ đi chậm chậm, theo chân đàn vật đi trước và theo chân lũ trẻ,
cho tới khi đến với ngài tại Xê-ia.” 15 Ông Ê-xau nói: "Tôi
muốn để ít người trong số người đi với tôi ở lại với chú." Ông Gia-cóp trả
lời: "Như thế để làm gì? Tôi chỉ mong được đẹp lòng ngài thôi!” 16 Ngày
đó, ông Ê-xau trở về Xê-ia. 17 Phần ông Gia-cóp thì lên đường đi
Xúc-cốt. Ở đó ông dựng nhà và làm những lều bằng cành cây cho súc vật, bởi thế,
ông đặt tên cho nơi này là Xúc-cốt.
Ông
Gia-cóp đi Si-khem
18
Khi
ở Pát-đan A-ram về, ông Gia-cóp đến thành Si-khem, trong đất Ca-na-an, bình an
vô sự, và ông cắm trại đối diện với thành. 19 Ông tậu của con cái
ông Kha-mo, cha của Si-khem, một thửa đất, nơi ông đã căng lều, với giá một
trăm đồng bạc. 20 Tại đây, ông dựng một bàn thờ mà ông gọi là
"En, Thiên Chúa của Ít-ra-en."
Vật
lộn với Thiên Chúa
23
Ðêm
đó, ông Gia-cóp dậy, đem theo hai bà vợ, hai người nữ tỳ và mười một đứa con,
và ông lội qua sông Giáp-bốc. 24 Ông đem họ theo, đưa họ qua sông,
rồi đưa tài sản của ông qua. 25 Ông Gia-cóp ở lại một mình.
26
Thấy
không thắng được ông, người đó bèn đánh vào khớp xương hông của ông, và khớp
xương hông của ông Gia-cóp bị trật đang khi ông vật lộn với người đó. 27 Người
đó nói: "Buông ta ra, vì đã rạng đông rồi." Nhưng ông đáp: "Tôi
sẽ không buông ngài ra, nếu ngài không chúc phúc cho tôi.” 28 Người
đó hỏi ông: "Tên ngươi là gì?" Ông đáp: "Tên tôi là Gia-cóp.” 29
Người đó nói: "Người ta sẽ không gọi tên ngươi là Gia-cóp nữa, nhưng
là Ít-ra-en, vì ngươi đã đấu với Thiên Chúa và với người ta, và ngươi đã thắng.”
30 Ông Gia-cóp hỏi: "Xin cho tôi biết tên ngài." Người đó
nói: "Sao ngươi lại hỏi tên ta?" Và người đó chúc phúc cho ông tại
đấy.
31
Ông
Gia-cóp đặt tên cho nơi đó là Pơ-nu-ên, "vì - ông nói - tôi đã thấy Thiên
Chúa mặt đối mặt, mà tôi đã được tha mạng.” 32 Khi mặt trời mọc, ông
đi qua Pơ-nu-ên; ông đi khập khiễng vì bị trật xương hông. 33 Bởi
thế, con cái Ít-ra-en, cho đến nay, không ăn cái gân đùi ở khớp xương hông, vì
người đó đã đánh vào khớp xương hông của ông Gia-cóp, vào gân đùi.
Chương 34
Cô
Ði-na bị làm nhục
1
Ði-na,
người con gái bà Lê-a đã sinh cho ông Gia-cóp, đi ra xem các con gái xứ ấy. 2
Si-khem, con trai ông Kha-mo, người Khi-vi, đầu mục xứ ấy, trông thấy thì
bắt cô, rồi cưỡng ép cô ăn nằm với mình. 3 Rồi lòng cậu quyến luyến
Ði-na, con gái ông Gia-cóp; cậu yêu cô gái và âu yếm dỗ dành cô. 4 Si-khem
thưa với ông Kha-mo, cha cậu, rằng: "Xin cha cưới cô bé ấy cho con.” 5
Ông Gia-cóp nghe biết Si-khem đã xâm phạm tiết hạnh của Ði-na, con gái
ông, nhưng vì các con trai ông còn đang ở ngoài đồng với đàn vật của ông, nên
ông làm thinh cho đến lúc họ về.
Thoả
thuận về hôn nhân với dân thành Si-khem
6
Ông
Kha-mo, cha của Si-khem, ra gặp ông Gia-cóp để nói chuyện với ông. 7 Các
con trai ông Gia-cóp ở ngoài đồng về. Vừa nghe biết chuyện, những người này bực
tức và giận dữ lắm, vì Si-khem đã làm điều đồi bại trong Ít-ra-en, khi ăn nằm
với con gái ông Gia-cóp, một điều không được phép làm. 8 Ông Kha-mo
nói với họ rằng: "Si-khem, con trai tôi, phải lòng con gái các ông, xin
các ông gả cô ấy cho nó. 9 Các ông hãy kết nghĩa thông gia với chúng
tôi: các ông sẽ gả các con gái của các ông cho chúng tôi và sẽ cưới các con gái
của chúng tôi về. 10 Các ông sẽ ở với chúng tôi, và xứ này sẽ mở ra
trước mặt các ông: các ông cứ ở đây, đi lại buôn bán ở đây và tậu đất đai ở đây
làm sở hữu.” 11 Si-khem nói với cha và anh em cô gái: "Cháu chỉ
mong được đẹp lòng bác và các anh, rồi bác và các anh đòi gì, cháu cũng xin nộp.
12 Bác và các anh thách sính lễ quà cáp bao nhiêu, cháu cũng xin nộp
như bác và các anh đòi, chỉ xin gả cô gái cho cháu."
13
Khi
trả lời cho Si-khem và ông Kha-mo, cha cậu, các con trai ông Gia-cóp đã dùng
mưu mà nói, vì cậu đã xâm phạm tiết hạnh của Ði-na, em gái họ. 14 Họ
nói với những người kia: "Chúng tôi không thể làm điều này là gả em gái
chúng tôi cho một người không được cắt bì, vì đối với chúng tôi, đó là một điều
sỉ nhục. 15 Chúng tôi chỉ đồng ý với điều kiện là các ông trở nên
như chúng tôi, nghĩa là cắt bì mọi đàn ông con trai. 16 Bấy giờ
chúng tôi sẽ gả các con gái của chúng tôi cho các ông và sẽ cưới các con gái
của các ông về, chúng tôi sẽ ở với các ông và chúng ta sẽ thành một dân duy
nhất. 17 Còn nếu các ông không nghe chúng tôi mà chịu cắt bì, thì
chúng tôi sẽ bắt con gái chúng tôi về, và chúng tôi sẽ ra đi.” 18 Lời
lẽ của họ vừa lòng ông Kha-mo và Si-khem, con ông Kha-mo. 19 Chàng
trai làm ngay điều đó, không chậm trễ, vì cậu mê con gái ông Gia-cóp; cậu lại
là người có uy tín nhất trong gia đình.
20
Ông
Kha-mo và ông Si-khem, con ông, ra cửa thành nói với dân rằng: 21 "Những
người ấy hiền hoà với chúng ta. Cứ để họ ở trong xứ, đi lại buôn bán ở đây; xứ
này có đủ chỗ cho họ. Chúng ta sẽ cưới các con gái của họ về, và sẽ gả các con
gái của chúng ta cho họ. 22 Nhưng những người ấy chỉ đồng ý ở với
chúng ta để thành một dân duy nhất, với điều kiện là mọi đàn ông con trai của
chúng ta phải chịu cắt bì như họ. 23 Các đàn vật của họ, tài sản của
họ, gia súc của họ sẽ chẳng thuộc về chúng ta sao? Chúng ta chỉ cần đồng ý với
họ là họ sẽ ở với chúng ta.” 24 Tất cả những người ra họp ở cửa
thành ông Kha-mo đều nghe lời ông và Si-khem, con trai ông; mọi đàn ông con
trai, mọi người ra họp ở cửa thành đều chịu cắt bì.
Ông
Si-mê-ôn và ông Lê-vi bội ước và báo thù
25
Sang
ngày thứ ba, khi họ còn đang đau, thì hai con trai ông Gia-cóp là Si-mê-ôn và
Lê-vi, anh của Ði-na, mỗi người xách một thanh gươm, vào thành lúc không ai
ngờ, và giết mọi đàn ông con trai. 26 Các cậu đã dùng gươm giết ông
Kha-mo và Si-khem, con trai ông Kha-mo, đem Ði-na ra khỏi nhà Si-khem, rồi đi. 27
Các con trai ông Gia-cóp còn đạp lên các xác chết và cướp phá thành, bởi
vì người ta đã xâm phạm tiết hạnh em gái các cậu. 28 Chiên dê, bò
lừa của họ, những gì ở trong thành và ngoài đồng, các cậu đều lấy đi. 29 Các
cậu mang theo mọi tài sản cũng như mọi đàn bà con trẻ của họ, và cướp phá mọi
thứ trong nhà.
30
Ông
Gia-cóp nói với Si-mê-ôn và Lê-vi: "Các con đã mang hoạ đến cho cha, làm
cho cha trở nên đáng ghét đối với dân cư xứ này, tức là người Ca-na-an và người
Pơ-rít-di. Cha chỉ có một dúm người, chúng sẽ hợp nhau lại chống cha và sẽ đánh
cha, cha và gia đình sẽ bị tiêu diệt.” 31 Họ đáp: "Chẳng lẽ nó
được phép xử với em gái chúng con như với một gái điếm sao?"
Chương 35
Ông
Gia-cóp tại Bết Ên
1
Thiên
Chúa phán bảo ông Gia-cóp: "Ðứng dậy! Hãy lên Bết Ên và ở đó. Hãy làm ở đó
một bàn thờ để kính Thiên Chúa, Ðấng đã hiện ra với ngươi khi ngươi đang trốn
Ê-xau, anh ngươi.” 2 Ông Gia-cóp bảo gia đình ông và tất cả những
người cùng đi với ông: "Hãy loại bỏ các thần ngoại bang ở giữa các người,
hãy tẩy uế mình và thay áo. 3 Nào ta hãy đứng dậy và lên Bết Ên! Tại
đó tôi sẽ làm một bàn thờ để kính Thiên Chúa, Ðấng đã đáp lời tôi ngày tôi gặp
bước gian truân, và đã ở với tôi trong chuyến đi tôi đã thực hiện.” 4 Họ
nộp cho ông Gia-cóp hết các thần ngoại bang họ đang giữ và các khuyên họ đeo ở
tai, và ông Gia-cóp chôn những thứ ấy dưới gốc cây vân hương ở gần Si-khem. 5
Họ lên đường, và Thiên Chúa gieo kinh hãi xuống các thành chung quanh,
khiến người ta không đuổi theo con cái ông Gia-cóp.
6
Ông
Gia-cóp đến Lút, tức là Bết Ên, trong đất Ca-na-an, ông và những người cùng đi
với ông. 7 Tại đây, ông dựng một bàn thờ và đặt tên cho nơi ấy là Ên
Bết Ên, vì tại đây thần minh đã tỏ mình ra cho ông, đang khi ông trốn anh. 8
Bấy giờ bà Ðơ-vô-ra, vú nuôi bà Rê-bê-ca, qua đời và được chôn ở phía
dưới Bết Ên, dưới gốc cây sồi, và ông Gia-cóp đặt tên cho cây ấy là Cây Sồi
Than Khóc.
9
Thiên
Chúa lại hiện ra với ông Gia-cóp khi ông từ Pát-đan A-ram về, và Người chúc
phúc cho ông. 10 Thiên Chúa phán với ông: "Tên ngươi là Gia-cóp
nhưng người ta sẽ không gọi ngươi là Gia-cóp nữa, mà tên ngươi sẽ là
Ít-ra-en." Và Người đặt tên cho ông là Ít-ra-en.
11
Thiên
Chúa phán với ông: "Ta là Thiên Chúa toàn năng. Ngươi hãy sinh sôi nảy nở
thật nhiều. Một dân tộc và một cộng đồng nhiều dân tộc sẽ từ ngươi mà ra, và
vua chúa sẽ phát xuất từ lòng ngươi. 12 Ðất Ta đã ban cho Áp-ra-ham
và I-xa-ác, thì Ta sẽ ban cho ngươi; Ta sẽ ban đất ấy cho dòng dõi ngươi sau
này.” 13 Rồi Thiên Chúa từ giã ông mà đi lên, từ chỗ Người đã phán
với ông.
14
Ông
Gia-cóp dựng một cái trụ tại chỗ Thiên Chúa đã phán với ông, một trụ đá; ông
rưới rượu và đổ dầu lên đó. 15 Ông Gia-cóp đặt tên cho nơi Thiên
Chúa đã phán với ông là Bết Ên.
Ông
Ben-gia-min chào đời. Bà Ra-khen từ trần.
16
Cả
đoàn rời Bết Ên lên đường. Khi họ còn cách Ép-ra-tha một quãng đường, thì bà
Ra-khen đến ngày sinh, nhưng lại gặp khó khăn. 17 Trong lúc bà khó
sinh, cô đỡ nói với bà: "Bà đừng sợ, bà lại được một con trai nữa!” 18
Khi bà thở hắt ra, vì đang hấp hối, thì đặt tên cho con là Ben Ô-ni,
nhưng cha nó lại đặt tên là Ben-gia-min. 19 Bà Ra-khen qua đời và
được chôn trên con đường đi Ép-ra-tha, tức là Bê-lem. 20 Ông Gia-cóp
dựng một bia đá trên mộ bà, đó là bia mộ bà Ra-khen, vẫn còn cho đến ngày nay.
Ông
Rưu-vên loạn luân
21
Ông
Ít-ra-en lên đường và cắm lều ở xa hơn Mích-đan Ê-đe. 22 Trong khi
ông Ít-ra-en ở xứ ấy, thì Rưu-vên đến nằm với Bin-ha, vợ lẽ của cha cậu, và ông
Ít-ra-en nghe biết chuyện này.
23
Con
trai bà Lê-a: Rưu-vên, con đầu lòng của ông Gia-cóp, rồi đến Si-mê-ôn, Lê-vi,
Giu-đa, Ít-xa-kha và Dơ-vu-lun. 24 Con trai bà Ra-khen: Giu-se và
Ben-gia-min. 25 Con trai bà Bin-ha, nữ tỳ của bà Ra-khen: Ðan và
Náp-ta-li. 26 Con trai bà Din-pa, nữ tỳ của bà Lê-a: Gát và A-se. Ðó
là những con trai ông Gia-cóp sinh được tại Pát-đan A-ram.
Ông
I-xa-ác qua đời
27
Ông
Gia-cóp về với ông I-xa-ác, cha ông, ở Mam-rê, tại Kia-giát Ác-ba, tức là
Khép-rôn, nơi ông Áp-ra-ham và ông I-xa-ác đã từng trú ngụ. 28 Ông
I-xa-ác sống được một trăm tám mươi năm. 29 Rồi ông I-xa-ác tắt thở.
Ông qua đời và được về sum họp với gia tiên, khi đã cao niên và no đầy tuổi
tác. Các con ông là Ê-xau và Gia-cóp chôn cất ông.
Chương 36
Ông
Ê-xau tại Ê-đôm
1
Sau
đây là gia đình ông Ê-xau, tức là ông Ê-đôm. 2 Ông Ê-xau cưới vợ
trong số con gái Ca-na-an, đó là: A-đa, con gái ông Ê-lôn, người Khết;
O-ho-li-va-ma, con gái ông A-na, ông này là con trai ông Xíp-ôn, người Khi-vi; 3
và Ba-xơ-mát, con gái ông Ít-ma-ên, em gái ông Nơ-va-giốt. 4 Bà
A-đa sinh Ê-li-phát cho ông Ê-xau, bà Ba-xơ-mát sinh Rơ-u-ên. 5 Bà
O-ho-li-va-ma sinh Giơ-út, Gia-lam và Cô-rắc. Ðó là những con trai ông Ê-xau
sinh được tại đất Ca-na-an.
Ông
Ê-xau di cư
6
Ông
Ê-xau đem các bà vợ, các con trai con gái, mọi người nhà, tất cả đàn vật, gia
súc và tất cả của cải ông đã gây được tại đất Ca-na-an, và đi đến một xứ, cách
xa ông Gia-cóp, em ông. 7 Thật vậy, họ quá nhiều tài sản không ở
chung được, và đất họ đang trú ngụ không thể đủ chỗ cho họ chăn những đàn vật
của họ. 8 Ông Ê-xau sống ở vùng núi Xê-ia. Ông Ê-xau chính là ông
Ê-đôm.
Dòng
dõi ông Ê-xau tại Xê-ia (1 Sb 1:35 -37)
9
Sau
đây là gia đình ông Ê-xau, cha dân Ê-đôm, ở vùng núi Xê-ia.
10
Ðây
là tên các con trai ông Ê-xau: Ê-li-phát, con trai bà A-đa, vợ ông Ê-xau, và
Rơ-u-ên, con trai bà Ba-xơ-mát, vợ ông Ê-xau.
11
Các
con trai ông Ê-li-phát là: Tê-man, Ô-ma, Xơ-phô, Ga-ơ-tam và Cơ-nát. 12 Bà
Tim-na là vợ lẽ ông Ê-li-phát, con trai ông Ê-xau; bà sinh A-ma-lếch cho ông
Ê-li-phát. Ðó là các con cháu bà A-đa, vợ ông Ê-xau.
13
Sau
đây là các con trai ông Rơ-u-ên: Na-khắt, De-rác, Sam-ma và Mít-da. Ðó là các
con cháu bà Ba-xơ-mát, vợ ông Ê-xau.
14
Còn
đây là các con trai của vợ ông Ê-xau là bà O-ho-li-va-ma, con gái ông A-na; ông
A-na là con trai ông Xíp-ôn: bà sinh Giơ-út, Gia-lam và Cô-rắc cho ông Ê-xau.
Các
tộc trưởng dân Ê-đôm
15
Sau
đây là các tộc trưởng của con cái Ê-xau. Các con trai ông Ê-li-phát, con đầu
lòng của ông Ê-xau, là: tộc trưởng Tê-man, tộc trưởng Ô-ma, tộc trưởng Xơ-phô,
tộc trưởng Cơ-nát, 16 tộc trưởng Cô-rắc, tộc trưởng Ga-ơ-tam, tộc
trưởng A-ma-lếch. Ðó là các tộc trưởng phát xuất từ ông Ê-li-phát ở đất Ê-đôm,
đó là các con cháu bà A-đa.
17
Sau
đây là các con trai ông Rơ-u-ên, con trai ông Ê-xau: tộc trưởng Na-khắt, tộc
trưởng De-rác, tộc trưởng Sam-ma, tộc trưởng Mít-da. Ðó là các tộc trưởng phát
xuất từ ông Rơ-u-ên ở đất Ê-đôm, đó là các con cháu bà Ba-xơ-mát, vợ ông Ê-xau.
18
Sau
đây là các con trai bà O-ho-li-va-ma, vợ ông Ê-xau: tộc trưởng Giơ-út, tộc
trưởng Gia-lam, tộc trưởng Cô-rắc. Ðó là các tộc trưởng phát xuất từ bà
O-ho-li-va-ma, con gái ông A-na, vợ ông Ê-xau.
19
Ðó
là các con trai ông Ê-xau, đó là các tộc trưởng của họ. Ðó là Ê-đôm.
Dòng
dõi ông Xê-ia, người Khô-ri (1 Sb 1:38 -42)
20
Sau
đây là các con trai ông Xê-ia, người Khô-ri, là dân bản xứ: Lô-tan, Sô-van,
Xíp-ôn, A-na, 21 Ði-sôn, Ê-xe, Ði-san. Ðó là các tộc trưởng người
Khô-ri, là các con trai ông Xê-ia, ở đất Ê-đôm. 22 Các con trai ông
Lô-tan là: Khô-ri và Hê-mam; em gái ông Lô-tan là Tim-na. 23 Ðây là
các con trai ông Sô-van: An-van, Ma-na-khát, Ê-van, Sơ-phô và Ô-nam. 24 Ðây
là các con trai ông Xíp-ôn: Ai-gia và A-na. Ông A-na này là người đã tìm thấy
suối nước nóng trong sa mạc khi chăn lừa cho cha mình là ông Xíp-ôn. 25 Ðây
là các con ông A-na: Ði-sôn và O-ho-li-va-ma, con gái ông A-na. 26 Ðây
là các con trai ông Ði-sôn: Khem-đan, Ét-ban, Gít-ran và Cơ-ran. 27 Ðây
là các con trai ông Ê-xe: Bin-han, Da-a-van và A-can. 28 Ðây là các
con trai ông Ði-san: Út và A-ran.
29
Sau
đây là các tộc trưởng người Khô-ri: tộc trưởng Lô-tan, tộc trưởng Sô-van, tộc
trưởng Xíp-ôn, tộc trưởng A-na, 30 tộc trưởng Ði-sôn, tộc trưởng
Ê-xe, tộc trưởng Ði-san. Ðó là các tộc trưởng người Khô-ri theo các thị tộc của
họ, ở đất Xê-ia.
Các
vua Ê-đôm (1 Sb 1:43 -50)
31
Sau
đây là các vua đã trị vì đất Ê-đôm trước khi có một vua trị vì con cái Ít-ra-en.
32 Vua Be-la, con ông Bơ-o, trị vì Ê-đôm; thành của vua tên là
Ðin-ha-va. 33 Vua Be-la qua đời, ông Giô-váp, con ông De-rác, người
thành Bót-ra, lên kế vị. 34 Vua Giô-váp qua đời, ông Khu-sam, người
gốc xứ Tê-man, lên kế vị. 35 Vua Khu-sam qua đời, ông Ha-đát, con
ông Bơ-đát, lên kế vị. Vua này đánh bại người Ma-đi-an trong cánh đồng Mô-áp;
thành của vua tên là A-vít. 36 Vua Ha-đát qua đời, ông Xam-la, người
thành Mát-rê-ca, lên kế vị. 37 Vua Xam-la qua đời, vua Sa-un, người
thành Rơ-khô-vốt Ha Na-ha lên kế vị. 38 Vua Sa-un qua đời, ông Ba-an
Kha-nan, con ông Ác-bo, lên kế vị. 39 Vua Ba-an Kha-nan, con ông
Ác-bo, qua đời, ông Ha-đa lên kế vị; thành của vua tên là Pa-u, vợ vua tên là
Mơ-hê-táp-ên, con gái ông Mát-rết, người thành Mê Da-háp.
Lại
nói về các tộc trưởng Ê-đôm (1 Sb 1:51 -54)
40
Sau
đây là tên các tộc trưởng phát xuất từ ông Ê-xau, theo dòng họ và địa phương
của họ, theo tên của họ: tộc trưởng Tim-ma, tộc trưởng An-va, tộc trưởng
Giơ-thết, 41 tộc trưởng O-ho-li-va-ma, tộc trưởng Ê-la, tộc trưởng
Pi-nôn, 42 tộc trưởng Cơ-nát, tộc trưởng Tê-man, tộc trưởng Míp-xa, 43
tộc trưởng Mác-đi-ên, tộc trưởng I-ram. Ðó là các tộc trưởng Ê-đôm, theo
nơi ở của họ trong đất thuộc quyền sở hữu của họ. Chính ông Ê-xau là cha của
dân Ê-đôm.
Chương 37
1
Ông
Gia-cóp sống trong đất mà cha của ông đã trú ngụ, là đất Ca-an-an.
IV.-
Sự Tích Ông Giu-Se
Ông
Giu-se và các anh
2
Sau
đây là gia đình ông Gia-cóp. Giu-se được mười bảy tuổi thì đi chăn chiên dê với
các anh. Khi ấy cậu còn trẻ, cậu đi với các con trai bà Bin-ha và các con trai
bà Din-pa, là các bà vợ của cha cậu. Cậu mách cha tiếng đồn không hay về họ.
3
Ông
Ít-ra-en yêu Giu-se hơn tất cả các con, vì ông đã già mới sinh được cậu, và ông
may cho cậu một áo chùng dài tay. 4 Các anh cậu thấy cha yêu cậu hơn
tất cả các anh, thì sinh lòng ghét cậu và không thể nói năng tử tế với cậu.
5
Giu-se
chiêm bao, cậu thuật lại cho các anh, khiến họ càng ghét cậu thêm. 6 Cậu
nói với họ: "Xin nghe em kể giấc chiêm bao của em. 7 Em thấy
chúng ta đang bó những bó lúa ở giữa đồng, thì bó lúa của em vươn dậy, đứng
thẳng lên, còn những bó lúa của các anh bao quanh và sụp xuống lạy bó lúa của
em.” 8 Các anh bảo cậu: "Mày muốn làm vua làm chúa thống trị
chúng tao sao?" Và họ càng ghét cậu thêm vì những chiêm bao và những lời
nói của cậu. 9 Một lần khác cậu lại chiêm bao và kể cho các anh. Cậu
nói: "Em lại chiêm bao. Em thấy mặt trời, mặt trăng và mười một ngôi sao
đang sụp xuống lạy em.” 10 Cậu kể lại cho cha và các anh, nhưng cha
cậu mắng cậu và nói: "Giấc chiêm bao mày đã thấy là gì? Tao, mẹ mày và các
anh mày lại phải đến sụp xuống đất lạy mày sao?” 11 Các anh ghen với
cậu, còn cha cậu thì ghi nhớ điều ấy.
Ông
Giu-se bị các anh bán
12
Các
anh cậu đã đi chăn chiên dê của cha họ ở Si-khem. 13 Ông Ít-ra-en
bảo Giu-se: "Các anh con đang chăn chiên dê ở Si-khem phải không? Lại đây,
cha sai con đến với các anh." Cậu thưa: "Dạ, con đây!” 14 Ông
bảo cậu: "Con hãy đi xem các anh con có được yên lành không, xem chiên dê
có được yên lành không, rồi đem tin về cho cha." Rồi ông sai cậu đi từ
thung lũng Khép-rôn, và cậu đến Si-khem.
15
Có
người gặp thấy cậu đi lang thang ngoài đồng; người đó hỏi cậu rằng: "Anh
tìm gì đấy?” 16 Cậu đáp: "Tôi đang tìm các anh tôi. Xin làm ơn
chỉ cho tôi biết họ đang chăn ở đâu.” 17 Người đó nói: "Họ đã
lên đường đi khỏi đây, vì tôi có nghe họ nói: "Chúng ta đi Ðô-than
nào!" Giu-se theo các anh và tìm thấy họ ở Ðô-than.
18
Họ
thấy cậu từ xa, và trước khi cậu tới gần họ thì họ lập mưu giết chết cậu. 19
Họ bảo nhau: "Thằng tướng chiêm bao đang đến kia! 20 Bây giờ, nào ta
giết và ném nó xuống một cái giếng. Ta sẽ nói là một thú dữ đã ăn thịt nó. Rồi
ta sẽ thấy các chiêm bao của nó đi tới đâu!"
21
Nghe
thấy thế, Rưu-vên tìm cách cứu em khỏi tay họ; cậu nói: "Ta đừng đụng tới
mạng sống nó.” 22 Rưu-vên bảo họ: "Ðừng đổ máu! Cứ ném nó xuống
cái giếng kia trong sa mạc, nhưng đừng giơ tay hại nó." Cậu có ý cứu em
khỏi tay họ và đưa về cho cha. 23 Vậy khi Giu-se đến chỗ các anh,
thì họ lột áo chùng của cậu, chiếc áo chùng dài tay cậu đang mặc. 24 Họ
túm lấy cậu và ném xuống cái giếng; giếng đó cạn, không có nước. 25 Rồi
họ ngồi xuống dùng bữa.
26
Giu-đa
nói với các anh em: "Ta giết em và phủ lấp máu nó, nào có ích lợi gì? 27
Thôi, ta hãy bán nó cho người Ít-ma-ên, nhưng đừng động tay tới nó, vì nó là em
ta, là ruột thịt của ta." Các anh em nghe cậu.
28
Những
lái buôn người Ma-đi-an đi qua đó kéo Giu-se lên khỏi giếng, rồi bán cậu cho
người Ít-ma-ên hai mươi đồng bạc. Những người này đưa Giu-se sang Ai-cập. 29
Khi Rưu-vên trở lại giếng thì thấy Giu-se không còn ở dưới giếng nữa. Cậu
liền xé áo mình ra. 30 Cậu đến nói với các em: "Thằng bé không
còn nữa! Còn tôi, tôi biết đi đâu bây giờ!"
31
Họ
lấy áo chùng của Giu-se, giết một con dê đực, rồi nhúng áo chùng vào máu. 32
Họ gửi người mang cái áo chùng dài tay về cho cha họ và nói: "Chúng
con đã thấy cái này. Xin cha nhận ra xem có phải là áo của con cha hay không.” 33
Ông nhận ra cái áo và kêu lên: "Áo chùng của con tôi đây! Thú dữ đã
ăn thịt nó! Giu-se đã bị xé xác rồi!” 34 Ông Gia-cóp xé áo mình ra,
quấn áo vải thô ngang lưng và để tang Giu-se lâu ngày. 35 Tất cả các
con trai con gái ông đến an ủi ông, nhưng ông không chịu cho người ta an ủi;
ông nói: "Cha sẽ để tang mà xuống với con cha ở âm phủ." Và cha cậu
khóc thương cậu.
36
Người
Ma-đi-an đem bán cậu tại Ai-cập cho ông Pô-ti-pha là thái giám của Pha-ra-ô và
là chỉ huy thị vệ.
Chương 38
Ông
Giu-đa và bà Ta-ma
1
Thời
ấy, ông Giu-đa rời bỏ anh em, xuống thăm một người thành A-đu-lam tên là Khi-ra.
2 Tại đó ông Giu-đa thấy con gái một người Ca-na-an, tên ông này là
Su-a. Ông lấy nàng và ăn ở với nàng. 3 Nàng có thai, sinh con trai,
và ông đặt tên cho nó là Er. 4 Nàng lại có thai, sinh con trai, và
ông đặt tên cho nó là Ô-nan. 5 Một lần nữa, nàng lại sinh con trai,
và ông đặt tên cho nó là Sê-la. Ông đang ở Cơ-díp khi nàng sinh nó.
6
Ông
Giu-đa cưới cho Er, con trai đầu lòng của ông, một người vợ tên là Ta-ma. 7
Er, con đầu lòng ông Giu-đa, làm mất lòng Ðức Chúa, nên Ðức Chúa khiến
cậu chết. 8 Ông Giu-đa bảo Ô-nan: "Con hãy ăn ở với chị dâu
con, hãy chu toàn nhiệm vụ của một người em chồng, và làm cho anh con có người
nối dõi.” 9 Ô-nan biết rằng dòng dõi sinh ra sẽ không phải là của
mình, nên khi ăn ở với chị dâu, thì cậu lại cho tinh rơi xuống đất, để không
cho anh cậu có người nối dõi. 10 Hành động của cậu không đẹp lòng
Ðức Chúa, nên Người cũng khiến cậu chết. 11 Ông Giu-đa nói với
Ta-ma, con dâu ông: "Con cứ ở goá bên nhà cha con, chờ khi Sê-la, con cha,
lớn đã." Thật vậy, ông tự nhủ: "Lỡ ra cả thằng này nữa cũng phải chết
như các anh nó!" Vậy Ta-ma về ở bên nhà cha mình.
12
Ngày
tháng trôi qua, người con gái ông Su-a, là vợ ông Giu-đa, qua đời. Mãn tang vợ,
ông Giu-đa, cùng với bạn là ông Khi-ra, người A-đu-lam, lên Tim-na gặp các thợ
xén lông chiên của ông. 13 Người ta báo cho Ta-ma hay rằng:
"Này, cha chồng của chị đang lên Tim-na xén lông chiên của ông ấy!” 14
Nàng liền bỏ áo bà goá, lấy khăn trùm lên, phủ kín mình, rồi ngồi ở lối
vào Ê-na-gim, một thành nằm trên đường đi Tim-na. Nàng làm thế vì thấy rằng
Sê-la đã lớn mà người ta không cho nàng làm vợ cậu.
15
Ông
Giu-đa trông thấy nàng, tưởng là một gái điếm, vì nàng đã che mặt. 16 Ông
rẽ qua phía nàng bên lề đường và nói: "Cho tôi đến với cô." Ông không
biết nàng là con dâu ông. Nàng hỏi: "Ông cho em gì để đến với em?” 17
Ông đáp: "Tôi sẽ bắt một con dê con trong đàn gửi đến cho cô."
Nàng lại nói: "Vậy xin ông cho em một vật làm tin, cho tới khi ông gửi
đến.” 18 Ông hỏi: "Tôi phải cho cô vật gì làm tin?" Nàng
đáp: "Chiếc ấn của ông, sợi dây đeo ấn và cây gậy ông cầm ở tay." Ông
đưa cho nàng những thứ đó, rồi đến với nàng, và nàng có thai với ông. 19 Nàng
đứng lên, đi khỏi, bỏ khăn trùm và mặc lại áo bà goá.
20
Ông
Giu-đa nhờ người bạn ở A-đu-lam mang dê con đến, để lấy lại vật làm tin từ tay
người đàn bà, nhưng ông này không tìm thấy nàng. 21 Ông này hỏi
người địa phương: "Cô điếm thần ở Ê-na-gim, vẫn ngồi trên đường, đâu
rồi?" Họ đã trả lời: "Ở đây chẳng hề có điếm thần.” 22 Ông
về nói với ông Giu-đa: "Tôi không tìm thấy cô ta. Người địa phương còn nói
là ở đấy chẳng hề có điếm thần.” 23 Ông Giu-đa nói: "Cô ta cứ
việc giữ những thứ ấy! Miễn sao chúng ta đừng bị chê cười. Tôi quả đã gửi con
dê con này, còn anh lại không tìm thấy cô ấy!"
24
Khoảng
ba tháng sau, người ta báo cho ông Giu-đa rằng: "Ta-ma, con dâu ông, đã đi
làm điếm; nó còn có thai vì làm điếm nữa!" Ông Giu-đa nói: "Lôi nó ra
mà thiêu sống!” 25 Khi bị lôi ra, nàng nhờ người nói với cha chồng
rằng: "Chính chủ những vật này đã làm cho con có thai!" Nàng còn nói:
"Xin cha nhận ra xem chiếc ấn, sợi dây đeo ấn và cây gậy này là của ai.” 26
Ông Giu-đa nhận ra và nói: "Nó công chính hơn tôi. Quả thực tôi đã
không cho nó làm vợ Sê-la, con trai tôi." Rồi ông không ăn ở với nàng nữa.
27
Ðến
ngày sinh, nàng sinh đôi. 28 Khi nàng sinh thì một đứa thò tay ra,
bà đỡ cầm lấy tay, buộc sợi chỉ đỏ vào và nói: "Ðứa này ra trước.” 29
Rồi nó rụt tay vào, và đứa kia ra. Bà đỡ nói: "Thật mày đã xé
rào!" Người ta bèn đặt tên cho nó là Pe-rét. 30 Sau đó, đứa
trước mới ra, có sợi chỉ đỏ ở tay; người ta đặt tên cho nó là De-rác.
Chương 39
Thời
đầu của ông Giu-se bên Ai-cập
1
Giu-se
bị đưa xuống Ai-cập. Ông Pô-ti-pha thái giám của Pha-ra-ô và chỉ huy thị vệ,
một người Ai-cập, đã mua cậu từ tay người Ít-ma-ên là những người đã đưa cậu
xuống đó. 2 Ðức Chúa ở với Giu-se và cậu là một con người thành
công; cậu ở trong nhà chủ cậu, người Ai-cập. 3 Chủ cậu thấy rằng Ðức
Chúa ở với cậu và mọi việc cậu làm thì Ðức Chúa cho thành công. 4 Giu-se
được đẹp lòng chủ, cậu là người phụ tá cho ông. Ông đặt cậu làm quản gia và
giao phó cho cậu mọi tài sản của ông. 5 Từ khi ông đặt cậu làm quản
gia coi sóc mọi tài sản của ông, thì vì Giu-se, Ðức Chúa chúc phúc cho nhà
người Ai-cập; phúc lành của Ðức Chúa xuống trên mọi tài sản của ông, trong nhà
cũng như ngoài đồng. 6 Tài sản của ông, ông phó mặc tất cả trong tay
Giu-se, và có Giu-se thì ông không còn lo gì cả, chỉ biết đến bữa là ăn.
Giu-se
lại có duyên và đẹp trai.
Ông
Giu-se bị quyến rũ
7
Sau
các việc đó, bà vợ ông chủ để mắt tới Giu-se; bà nói với cậu: "Nằm với tôi
đi!"
8
Nhưng
cậu từ chối và nói với bà vợ ông chủ: "Bà coi, có tôi thì ông chủ tôi
không còn phải lo gì đến việc nhà. Tài sản của ông, ông đã giao phó tất cả
trong tay tôi. 9 Trong nhà này, chính ông cũng không lớn hơn tôi, và
ông không giữ lại thứ gì mà không trao cho tôi, trừ bà ra, vì bà là vợ ông. Vậy
sao tôi có thể làm điều ác tày đình như thế và phạm đến Thiên Chúa?” 10 Ngày
ngày bà cứ nói với Giu-se, nhưng cậu không chịu nghe mà nằm cạnh bà để ngủ với
bà.
11
Một
ngày kia, cậu vào trong nhà để làm phận sự và không có gia nhân nào trong nhà, 12
thì bà níu áo cậu mà nói: "Nằm với tôi đi!" Cậu bỏ áo lại trong
tay bà, chạy trốn và ra ngoài. 13 Khi bà thấy rằng cậu đã bỏ áo lại
trong tay bà và chạy trốn ra ngoài, 14 thì bà gọi người nhà và nói
với họ: "Các người xem đấy: người ta đã đưa về cho chúng ta một tên Híp-ri
để đú đởn với chúng ta. Hắn đã đến với tôi để nằm với tôi, nhưng tôi đã lớn
tiếng kêu. 15 Khi nghe tôi cất tiếng kêu, thì hắn bỏ áo lại bên cạnh
tôi, chạy trốn và ra ngoài."
16
Bà
để áo cậu bên cạnh mình cho đến khi ông chủ của cậu về nhà. 17 Bà
cũng dùng những lời lẽ như trên và nói với ông: "Tên nô lệ Híp-ri ông đã
đưa về cho chúng ta, đã đến với tôi để đú đởn với tôi. 18 Khi tôi
cất tiếng kêu, thì hắn bỏ áo lại bên cạnh tôi và chạy trốn ra ngoài.” 19 Khi
ông chủ của cậu nghe những lời bà vợ nói với ông: "Tên nô lệ của ông đối
xử với tôi như thế đó!" thì ông đùng đùng nổi giận. 20 Ông chủ
của Giu-se bắt cậu và tống vào nhà tù, nơi các tù nhân của nhà vua bị giam giữ.
Ông
Giu-se trong tù
21
Nhưng
có Ðức Chúa ở với ông. Người tỏ lòng yêu thương ông và cho ông được cảm tình
của viên quản đốc nhà tù. 22 Viên quản đốc nhà tù giao phó cho
Giu-se hết mọi tù nhân trong nhà tù, và tất cả những gì họ làm, đều do cậu cho
làm. 23 Viên quản đốc nhà tù chẳng ngó ngàng chi đến tất cả những
việc đã giao phó cho Giu-se, vì Ðức Chúa ở với cậu, và điều gì cậu làm, thì Ðức
Chúa cho thành công.
Chương 40
Ông
Giu-se giải mộng cho các quan của Pha-ra-ô
1
Sau
các việc đó, quan chước tửu và quan ngự thiện của vua Ai-cập lỗi phạm cùng chủ
mình là vua Ai-cập. 2 Nhà vua nổi giận với hai viên thái giám của
mình, là quan chánh chước tửu và quan chánh ngự thiện. 3 Vua cho
giam họ trong nhà viên chỉ huy thị vệ, trong nhà tù nơi Giu-se đang bị giữ. 4
Viên chỉ huy thị vệ cắt đặt Giu-se ở với họ và phục vụ họ. Họ bị giam giữ
một thời gian. 5 Cả hai người, quan chước tửu và quan ngự thiện của
vua Ai-cập đang bị giam giữ tại nhà tù, đều cùng chiêm bao trong một đêm; mỗi
người có giấc chiêm bao riêng, và mỗi giấc chiêm bao có một ý nghĩa khác. 6
Sáng ngày ra, Giu-se đến với họ và thấy họ ủ rũ. 7 Cậu hỏi hai
viên thái giám của Pha-ra-ô đang bị giam giữ tại nhà của chủ cậu rằng:
"Tại sao hôm nay mặt mày các ông buồn bã thế?” 8 Họ trả lời
cậu: "Chúng tôi đã chiêm bao, mà không có ai giải thích cả!" Giu-se
nói với họ: "Giải thích chẳng phải là việc của Thiên Chúa sao? Nhưng xin
hai ông cứ kể lại cho tôi.” 9 Quan chánh chước tửu kể lại giấc chiêm
bao của mình cho Giu-se, ông nói: "Trong giấc chiêm bao, tôi thấy trước
mặt tôi có một cây nho, 10 trên cây nho có ba ngành. Khi cây đâm
chồi thì hoa nở ra và các chùm nho chín. 11 Trong tay tôi có chén
của Pha-ra-ô. Tôi hái nho, ép nước đổ vào chén của Pha-ra-ô, rồi đặt chén vào
lòng bàn tay Pha-ra-ô.” 12 Giu-se nói với ông ấy: "Ðây là lời
giải thích giấc chiêm bao. Ba ngành là ba ngày. 13 Còn ba ngày nữa,
Pha-ra-ô sẽ nâng đầu ông lên. Vua sẽ phục hồi chức vụ cho ông, và ông sẽ đặt
chén của Pha-ra-ô vào tay vua, như ông quen làm trước đây, khi còn là quan
chước tửu của vua. 14 Nhưng nếu ông nhớ tôi đã ở với ông, thì khi
người ta xử tốt với ông, xin ông tỏ tình thương đối với tôi và tâu với Pha-ra-ô
về tôi, để vua đưa tôi ra khỏi nhà này. 15 Thật vậy, tôi đã bị bắt
cóc đưa ra khỏi đất người Híp-ri, và ngay ở đây, tôi cũng không làm gì để người
ta giam tôi trong hầm."
16
Quan
chánh ngự thiện thấy Giu-se đã giải thích theo chiều hướng thuận lợi, nên nói
với ông: "Cả tôi nữa, trong giấc chiêm bao, tôi thấy ba giỏ bánh trên đầu
tôi. 17 Trong giỏ trên cùng, có đủ thứ bánh ngọt để cho Pha-ra-ô ăn.
Chim chóc rỉa những thứ đó trong cái giỏ trên đầu tôi.” 18 Giu-se
trả lời rằng: "Ðây là lời giải thích giấc chiêm bao. Ba giỏ là ba ngày. 19
Còn ba ngày nữa, Pha-ra-ô sẽ nâng đầu ông lên khỏi thân ông. Vua sẽ treo
ông lên cây, và chim chóc sẽ rỉa thịt ông."
20
Sang
ngày thứ ba, là ngày sinh nhật của Pha-ra-ô, vua mở tiệc thết đãi triều thần và
nâng đầu quan chánh chước tửu và quan chánh ngự thiện lên giữa triều thần. 21
Vua phục hồi chức vụ cho quan chánh chước tửu, và ông đặt chén vào lòng
bàn tay Pha-ra-ô. 22 Còn quan chánh ngự thiện, thì vua treo lên, như
Giu-se đã giải thích cho họ. 23 Nhưng quan chánh chước tửu không nhớ
đến Giu-se, ông đã quên mất cậu.
Chương 41
Các
giấc chiêm bao của Pha-ra-ô
1
Hai
năm sau, Pha-ra-ô chiêm bao. Vua thấy mình đang đứng trên bờ sông Nin, 2 và
từ sông Nin có bảy con bò cái đi lên, hình dáng đẹp đẽ và da thịt béo tốt;
chúng gặm cỏ trong đám sậy. 3 Rồi sau những con ấy, có bảy con bò
cái khác từ sông Nin đi lên, hình dáng xấu xí và da thịt gầy còm, chúng đứng
bên cạnh những con bò kia, trên bờ sông Nin. 4 Bảy con bò cái hình
dáng xấu xí và da thịt gầy còm ăn thịt bảy con bò cái hình dáng đẹp đẽ và béo
tốt. Bấy giờ Pha-ra-ô tỉnh dậy.
5
Vua
ngủ lại và chiêm bao một lần thứ hai; vua thấy bảy bông lúa đâm lên trên cùng
một cọng, mẩy và tốt. 6 Rồi có bảy bông lúa lép và nám cháy vì gió
đông, mọc lên sau chúng. 7 Bảy bông lúa lép nuốt chửng bảy bông lúa
mẩy và chắc. Bấy giờ Pha-ra-ô tỉnh dậy, thì thấy rằng đó là một giấc chiêm bao!
8
Sáng
ngày ra, tâm thần vua xao xuyến, vua vời tất cả các phù thủy và hiền sĩ Ai-cập
đến: Pha-ra-ô kể lại cho họ các giấc chiêm bao của mình, nhưng không có ai giải
thích được cho vua. 9 Bấy giờ quan chánh chước tửu mới thưa Pha-ra-ô
rằng: "Hôm nay tôi xin nhắc lại những lầm lỗi của tôi. 10 Pha-ra-ô
đã nổi giận với bề tôi mình và cho giam tôi trong nhà viên chỉ huy thị vệ, tôi
và quan chánh ngự thiện. 11 Tôi và ông ấy, chúng tôi chiêm bao trong
cùng một đêm; chúng tôi chiêm bao, và mỗi giấc chiêm bao có một ý nghĩa khác. 12
Cùng ở với chúng tôi có một thanh niên Híp-ri, nô lệ của viên chỉ huy thị
vệ. Chúng tôi đã kể lại cho anh ta, và anh ta đã giải thích cho chúng tôi các
chiêm bao của chúng tôi; anh ta giải thích chiêm bao của mỗi người. 13 Sự
việc đã xảy ra như anh ta đã giải thích cho chúng tôi: tôi thì được phục hồi
chức vụ, còn ông kia thì bị treo cổ."
14
Pha-ra-ô
vời ông Giu-se đến. Người ta vội đưa cậu ra khỏi hầm. Cậu cạo râu cắt tóc, thay
quần áo và vào chầu Pha-ra-ô. 15 Pha-ra-ô nói với Giu-se: "Ta đã
chiêm bao mà không ai có thể giải thích. Ta đã nghe nói rằng ngươi chỉ cần nghe
kể lại chiêm bao là giải thích được.” 16 Giu-se thưa Pha-ra-ô rằng:
"Không phải tôi, mà là Thiên Chúa sẽ cho câu trả lời đem lại bình an cho
Pha-ra-ô."
17
Pha-ra-ô
nói với Giu-se: "Trong chiêm bao của ta, ta thấy mình đang đứng trên bờ
sông Nin. 18 Từ sông có bảy con bò cái đi lên, da thịt béo tốt, thân
hình đẹp đẽ; chúng gặm cỏ trong đám sậy. 19 Rồi sau những con ấy, có
bảy con bò cái khác đi lên, gầy guộc, thân hình rất xấu xí, da thịt ốm nhom; ta
chưa thấy bò nào xấu như chúng trong toàn cõi Ai-cập. 20 Các con bò
cái ốm nhom và xấu xí ăn thịt bảy con bò cái trước, những con béo tốt. 21 Các
con béo tốt vào bụng các con ốm nhom, mà người ta không biết rằng chúng đã vào
bụng các con ốm nhom, vì hình dáng các con này vẫn xấu xí như trước. Bấy giờ ta
tỉnh dậy. 22 Ta lại thấy trong chiêm bao của ta có bảy bông lúa đâm
lên trên cùng một cọng, chắc và tốt. 23 Rồi có bảy bông lúa đẹt, lép
và nám cháy vì gió đông, mọc lên sau chúng. 24 Bảy bông lúa lép nuốt
chửng bảy bông lúa tốt. Ta đã nói cho các phù thuỷ, nhưng không ai có thể cắt
nghĩa cho ta."
25
Giu-se
thưa Pha-ra-ô: "Giấc chiêm bao của Pha-ra-ô chỉ là một. Ðiều Thiên Chúa
sắp làm thì Người đã báo cho Pha-ra-ô biết. 26 Bảy con bò cái tốt là
bảy năm, bảy bông lúa tốt là bảy năm: đó là một chiêm bao duy nhất. 27 Bảy
con bò cái ốm nhom và xấu xí đi lên sau chúng là bảy năm, và bảy bông lúa còi
và nám cháy vì gió đông là bảy năm đói kém. 28 Ðó là điều tôi đã
thưa với Pha-ra-ô: "Ðiều Thiên Chúa sắp làm thì Người đã cho Pha-ra-ô
thấy.” 29 Sắp tới là bảy năm rất sung túc trong toàn cõi Ai-cập. 30
Tiếp sau những năm đó là bảy năm đói kém; trong xứ Ai-cập người ta sẽ
quên đi tất cả sự sung túc, và nạn đói sẽ làm cho xứ kiệt quệ. 31 Trong
xứ người ta sẽ không còn biết sự sung túc là gì, do nạn đói tiếp theo đó, một
nạn đói trầm trọng. 32 Giấc chiêm bao của Pha-ra-ô được lặp lại hai
lần, nghĩa là sự việc đã được Thiên Chúa quyết định và Thiên Chúa sẽ mau thực
hiện.
33
Vậy
bây giờ xin Pha-ra-ô xem có người nào thông minh và khôn ngoan, thì đặt người
ấy cai quản xứ Ai-cập. 34 Xin Pha-ra-ô hành động và đặt những quản
đốc lo việc trong xứ, và vua sẽ đánh thuế một phần năm trên thóc lúa xứ Ai-cập
trong bảy năm sung túc. 35 Họ sẽ thu mọi lương thực của những năm
được mùa sắp tới này. Họ sẽ chất chứa lúa mì làm lương thực trong các thành, và
sẽ giữ lại, để Pha-ra-ô tuỳ quyền sử dụng. 36 Số lương thực ấy sẽ là
dự trữ trong xứ, phòng bảy năm đói kém sẽ xảy đến trong xứ Ai-cập, và xứ sẽ
không bị huỷ diệt vì nạn đói."
Ông
Giu-se làm quan
37
Lời
đó vừa lòng Pha-ra-ô và triều thần. 38 Vua nói với triều thần:
"Chúng ta tìm đâu được một người như người này, một người có Thần Khí
Thiên Chúa?” 39 Pha-ra-ô nói với ông Giu-se: "Sau khi Thiên
Chúa đã cho ông biết tất cả những điều ấy, không ai thông minh và khôn ngoan
như ông. 40 Ông sẽ là tể tướng triều đình của ta, toàn thể dân ta sẽ
phục tùng mệnh lệnh của ông; ta lớn hơn ông chỉ vì ngai vua mà thôi.” 41 Pha-ra-ô
nói với ông Giu-se: "Coi đây, ta đặt ông cai quản toàn cõi Ai-cập.” 42
Pha-ra-ô rút nhẫn ra khỏi tay mình và xỏ vào tay ông Giu-se, mặc cho ông
y phục vải gai mịn, và đeo vào cổ ông chiếc vòng vàng. 43 Vua cho
ông lên xa giá thứ hai của vua, và người ta hô trước mặt ông: "Quỳ
xuống!" Như vậy, vua đặt ông cai quản toàn cõi Ai-cập.
44
Pha-ra-ô
nói với ông Giu-se: "Ta là Pha-ra-ô. Không có lệnh của ông, không ai được
cử động tay chân trong toàn cõi Ai-cập.” 45 Pha-ra-ô đặt tên cho ông
Giu-se là Xóp-nát Pa-nê-ác và gả cô Át-nát cho ông, cô là con gái ông Pô-ti Phê-ra,
tư tế thành Ôn. Ông Giu-se đi kinh lý xứ Ai-cập.
46
Ông
Giu-se được ba mươi tuổi khi ra trình diện Pha-ra-ô, vua Ai-cập. Ông cáo biệt
Pha-ra-ô và rảo qua khắp xứ Ai-cập. 47 Trong bảy năm sung túc, đất
đã sinh ra mùa màng dư dật. 48 Ông thu tất cả lương thực của bảy năm
liên tiếp trong xứ Ai-cập và chứa trong các thành; ông chứa trong mỗi thành
lương thực sản xuất trong đồng ruộng chung quanh thành đó. 49 Ông
Giu-se chất chứa lúa mì rất nhiều, như cát biển, đến mức ông thôi không đong
lường nữa, vì không thể đong lường được.
Các
con ông Giu-se
50
Ông
Giu-se được hai con trai sinh ra trước năm đói; đó là hai người con mà bà
Át-nát, con gái ông Pô-ti Phê-ra, tư tế thành Ôn, đã sinh cho ông. 51 Ông
Giu-se đặt tên cho con đầu lòng là Mơ-na-se, ông nói: "Vì Thiên Chúa đã
làm cho tôi quên đi mọi gian khổ của tôi và tất cả nhà cha tôi.” 52 Ông
đặt tên cho con thứ hai là Ép-ra-im, ông nói: "Vì Thiên Chúa đã cho tôi
sinh sôi nảy nở trong xứ tôi phải chịu khổ cực."
53
Khi
bảy năm sung túc tại xứ Ai-cập chấm dứt, 54 thì bảy năm đói kém bắt
đầu, như ông Giu-se đã nói. Mọi xứ khác đều bị đói kém, nhưng trong toàn xứ
Ai-cập thì có bánh ăn. 55 Rồi toàn xứ Ai-cập bị đói và dân chúng kêu
lên Pha-ra-ô xin bánh ăn. Pha-ra-ô nói với mọi người Ai-cập: "Cứ đến với
ông Giu-se; ông bảo gì, các ngươi hãy làm theo.” 56 Khắp nơi trong
xứ bị đói kém. Ông Giu-se mở hết các kho lúa mì và bán cho người Ai-cập. Nạn
đói hoành hành trong đất Ai-cập. 57 Từ mọi xứ, người ta đến Ai-cập
để mua lúa mì của ông Giu-se, vì nạn đói hoành hành trên khắp mặt đất."
Chương 42
Ông
Giu-se gặp các anh lần đầu tiên
1
Ông
Gia-cóp thấy bên Ai-cập có lúa bán, liền nói với các con trai: "Sao các
con cứ ngồi nhìn nhau?” 2 Rồi ông nói: "Cha nghe nói bên Ai-cập
có lúa bán; các con hãy xuống đó mua lúa về, để chúng ta sống chứ không phải
chết.” 3 Mười người anh ông Giu-se bèn xuống mua lúa mì ở Ai-cập. 4
Nhưng Ben-gia-min, em của ông Giu-se, thì ông Gia-cóp không sai đi với
các anh, vì ông nói: "Lỡ ra nó gặp tai hoạ."
5
Giữa
đám người đến mua lúa, cũng có mặt các con ông Ít-ra-en, vì đất Ca-na-an bị đói
kém. 6 Ông Giu-se bấy giờ có toàn quyền trong xứ, và ông bán lúa cho
toàn dân trong xứ. Các anh ông Giu-se đến và cúi sấp mặt xuống đất lạy ông. 7
Vừa nhìn thấy các anh mình, ông Giu-se nhận ra họ, nhưng làm như người xa
lạ đối với họ, và nói với họ cách cứng cỏi. Ông hỏi họ: "Các người từ đâu
đến?" Họ đáp: "Thưa từ đất Ca-na-an, để mua lương thực."
8
Ông
Giu-se nhận ra các anh, nhưng họ không nhận ra ông. 9 Ông Giu-se nhớ
lại những giấc chiêm bao của ông liên quan đến họ, nên nói với họ: "Các
người là bọn do thám. Các người đến để dò xét những chỗ sơ hở của xứ này.” 10
Họ nói: "Thưa ngài, không phải đâu! Các tôi tớ ngài đến để mua lương
thực. 11 Chúng tôi đều là con cùng một cha, chúng tôi là người lương
thiện; các tôi tớ ngài không phải là bọn do thám.” 12 Ông nói với
họ: "Không! Các người đến để dò xét những chỗ sơ hở của xứ này.” 13 Họ
nói: "Các tôi tớ ngài là mười hai anh em, chúng tôi là con cùng một cha, ở
đất Ca-na-an. Ðứa út hiện đang ở với cha chúng tôi, còn một đứa thì không còn
nữa.” 14 Ông Giu-se bảo họ: "Ðúng như ta đã nói với các người:
các người là bọn do thám! 15 Ta sẽ thử thách các người như thế này: Ta lấy mạng
sống Pha-ra-ô mà thề rằng: các người sẽ không được ra khỏi đây, trước khi đứa
em út của các người đến. 16 Hãy cho một anh em về tìm đứa em, còn
các người thì phải ở tù. Ta sẽ thử xem lời các người nói có đúng sự thật hay
không. Bằng không, ta lấy mạng sống Pha-ra-ô mà thề rằng: các người là bọn do
thám.” 17 Rồi ông giam giữ họ ba ngày.
18
Ðến
ngày thứ ba, ông Giu-se bảo họ: "Các người muốn sống thì hãy làm thế này,
vì ta kính sợ Thiên Chúa. 19 Nếu các người là những kẻ lương thiện,
thì một anh em cứ phải chịu giam trong nhà tù này, còn các người khác thì hãy
ra đi, đem lúa về cho gia đình khỏi đói. 20 Rồi các người hãy đem
đứa em út đến cho ta. Bấy giờ sẽ rõ là các người nói đúng, và các người sẽ
không phải chết." Họ đã làm như vậy. 21 Họ bảo nhau: "Than
ôi! Chúng ta có lỗi với em chúng ta: chúng ta đã thấy nó phải ngặt nghèo. Nó đã
năn nỉ chúng ta, nhưng chúng ta chẳng nghe. Chính vì thế mà chúng ta gặp cảnh
ngặt nghèo này.” 22 Ông Rưu-vên trả lời họ rằng: "Tôi đã chẳng
bảo các chú thế này sao: "Ðừng phạm tội hại đến thằng bé!" nhưng các
chú đã không chịu nghe. Bây giờ thì phải đền nợ máu nó!” 23 Họ không
biết rằng ông Giu-se hiểu được, vì giữa ông và họ có người phiên dịch. 24 Bấy
giờ ông lánh ra chỗ khác mà khóc, sau đó mới trở lại nói chuyện với họ. Trong
số họ, ông bắt ông Si-mê-ôn và cho trói trước mặt họ.
Các
con ông Gia-cóp trở về xứ Ca-na-an
25
Rồi
ông Giu-se truyền đổ đầy lúa mì vào bao bị của họ, và truyền trả lại bạc: của
ai thì để vào bao người ấy, đồng thời cho họ lương thực ăn đường. Ông đã xử sự
với họ như thế. 26 Họ chất lúa của mình lên lưng lừa và đi khỏi đó. 27
Tại nơi họ dừng lại nghỉ đêm, một người trong bọn họ mở bao của mình để
cho lừa ăn, thì thấy bạc của mình: bạc ấy ở miệng bao lúa mì. 28 Người
ấy nói với anh em mình: "Người ta đã trả lại bạc của tôi! Nó ở trong bao
lúa mì của tôi đây này!" Họ hết hồn hết vía, kinh hoàng nói với nhau:
"Thiên Chúa làm gì cho chúng ta thế này!"
29
Khi
trở về với ông Gia-cóp, cha họ, ở đất Ca-na-an, họ thuật lại cho ông mọi việc
đã xảy đến với họ; họ nói: 30 "Ông chúa xứ ấy đã ăn nói với
chúng con cách cứng cỏi, và coi chúng con là bọn người đến do thám xứ ấy. 31
Chúng con nói với ông ta: "Chúng tôi là người lương thiện, không
phải là bọn do thám. 32 Chúng tôi là mười hai anh em, con cùng một
cha. Một đứa không còn nữa, đứa út thì hiện đang ở với cha chúng tôi tại đất
Ca-na-an.” 33 Nhưng ông chúa xứ ấy bảo chúng con: "Căn cứ vào
điều này, ta sẽ biết các người là những kẻ lương thiện: các người hãy để một
anh em ở lại với ta, hãy lãnh phần lương thực cứu đói cho gia đình và ra đi. 34
Các người hãy đem đứa em út đến cho ta; như vậy ta sẽ biết các người
không phải là bọn do thám, nhưng là người lương thiện. Ta sẽ trả lại người anh
em kia, và các người sẽ có thể đi lại mua bán trong xứ."
35
Khi
họ đổ bao ra, thì mỗi người thấy trong bao có túi bạc của mình. Thấy những túi
bạc, họ và cha họ phát sợ. 36 Ông Gia-cóp, cha họ, bảo: "Chúng
mày cướp con tao! Giu-se không còn nữa, Si-mê-ôn không còn nữa, mà Ben-gia-min,
chúng mày cũng muốn bắt đem đi! Mọi chuyện đổ lên đầu tao!” 37 Ông
Rưu-vên nói với cha: "Cha cứ giết hai đứa con trai của con đi, nếu con
không đưa em về cho cha! Cha cứ giao em cho con, và chính con sẽ đem nó về cho
cha.” 38 Nhưng ông đáp: "Con tao sẽ không xuống đó với chúng
mày, vì anh nó đã chết, chỉ còn lại một mình nó thôi. Nó mà gặp tai hoạ trong
chuyến đi chúng mày sắp thực hiện, thì chúng mày sẽ làm cho kẻ bạc đầu này phải
buồn sầu mà xuống âm phủ."
Chương 43
Các
con ông Gia-cóp đem Ben-gia-min đi theo
1
Nạn
đói trong xứ trở nên trầm trọng. 2 Khi họ ăn hết lúa đưa từ Ai-cập
về, thì cha họ bảo: "Hãy trở lại mua ít lương thực về.” 3 Ông
Giu-đa thưa với cha: "Ông ấy đã tuyên bố rõ với chúng con: "Các người
sẽ không được gặp mặt ta, nếu em các người không cùng đến với các người.” 4
Nếu cha sai em đi với chúng con, thì chúng con mới xuống mua lương thực
cho cha được; 5 còn nếu cha không sai nó đi, thì chúng con sẽ không
xuống, vì ông ấy đã bảo chúng con: "Các người sẽ không được gặp mặt ta,
nếu em các người không cùng đến với các người.” 6 Ông Ít-ra-en nói:
"Sao các con lại làm hại cha mà đi khai với ông ấy rằng các con còn một
đứa em?” 7 Họ trả lời: "Ông ấy hỏi đi hỏi lại về chúng con và
họ hàng chúng con; ông ấy nói: "Cha các người còn sống không? Các người có
em không?" Chúng con cứ theo các câu hỏi ấy mà khai với ông ta. Có ngờ đâu
là ông ấy sẽ bảo chúng con: "Ðưa em các người xuống đây!” 8 Ông
Giu-đa thưa với ông Ít-ra-en, cha mình: "Xin cha sai thằng bé đi với con;
chúng con sẽ chỗi dậy lên đường, và chúng ta sẽ sống chứ không chết cả đám, cha
cũng như chúng con và lũ trẻ. 9 Chính con xin bảo lãnh cho nó; cha
cứ bắt con chịu trách nhiệm; nếu con không đưa nó về cho cha và đặt nó trước
mặt cha, thì con sẽ đắc tội với cha suốt đời. 10 Giả như không chần
chừ thế này, thì bây giờ chúng con đã đi được hai chuyến rồi!"
11
Ông
Ít-ra-en, cha họ, bảo: "Nếu vậy thì các con cứ làm thế này: hãy đem trong
bao bị một số đặc sản địa phương và đưa xuống làm quà cho ông ấy: ít nhũ hương,
ít mật ong, nhựa thơm và mộc dược, đào lạc và hạnh nhân. 12 Hãy đem
theo số bạc gấp đôi, vì chúng con phải giao lại số bạc mà có khi vì lầm lẫn
người ta đã đặt lại vào miệng bao. 13 Hãy đưa em các con đi theo và
lên đường trở lại với ông ấy. 14 Xin Thiên Chúa toàn năng làm cho
ông ấy chạnh lòng thương các con, mà để cho người anh em kia và Ben-gia-min
cùng về với các con. Còn cha, nếu phải mất con, thì cha đành chịu mất
vậy!"
Cuộc
gặp gỡ tại nhà ông Giu-se
15
Những
người này lấy những món quà đó, mang theo số bạc gấp đôi, và đem Ben-gia-min
theo. Họ đứng lên, xuống Ai-cập và vào trình diện ông Giu-se. 16 Khi
ông Giu-se thấy Ben-gia-min cùng đến với họ, thì nói với người quản gia của
ông: "Anh đưa những người này về nhà, giết một con vật, và làm các món ăn,
vì những người này sẽ dùng bữa với tôi trưa nay.” 17 Người này làm
như ông Giu-se truyền, ông ta đưa họ về nhà ông Giu-se.
18
Họ
sợ hãi khi bị đưa về nhà ông Giu-se, họ nói: "Chúng ta bị đưa đi vì chuyện
số bạc đã được trả lại trong bao lúa của chúng ta lần trước. Người ta sắp xông
tới, nhảy bổ vào chúng ta, bắt chúng ta làm nô lệ, và lấy lừa của chúng ta.” 19
Họ lại gần người quản gia của ông Giu-se và nói với ông ở lối vào nhà: 20
"Thưa ngài, xin xá lỗi, lần trước chúng tôi đã xuống mua lương thực.
21 Nhưng khi chúng tôi tới nơi dừng lại nghỉ đêm và mở các bao lúa
của chúng tôi, thì mỗi người thấy số bạc của mình ở miệng bao lúa của mình,
chính số bạc chúng tôi đã cân; chúng tôi lại đem đến đây. 22 Chúng
tôi cũng đem theo số bạc khác xuống để mua lương thực. Chúng tôi không biết ai
đã để số bạc của chúng tôi vào bao lúa chúng tôi.” 23 Người quản gia
nói: "Các ông cứ an tâm, đừng sợ. Chính Thiên Chúa của các ông, Thiên Chúa
của cha các ông, đã đặt cho các ông một kho tàng trong các bao lúa của các ông.
Số bạc của các ông đã đến tay tôi rồi." Sau đó ông dẫn ông Si-mê-ôn ra cho
họ.
24
Ông
đưa họ vào nhà ông Giu-se, đem nước cho họ rửa chân và lấy cỏ cho lừa của họ ăn.
25 Họ bày quà ra, trong khi chờ ông Giu-se về vào buổi trưa, vì họ
nghe rằng họ sẽ dùng bữa ở đó.
26
Khi
ông Giu-se vào nhà, họ dâng ông quà họ đã mang theo vào nhà đó, và sụp xuống
đất lạy ông. 27 Ông vấn an họ và nói: "Các người đã nói đến cha
già của các người, ông cụ có được bình an không? Ông cụ còn sống không?” 28
Họ đáp: "Tôi tớ ngài, là cha của chúng tôi, vẫn được bình an, người
vẫn còn sống." Rồi họ quỳ sụp xuống lạy. 29 Ngước mắt lên, ông
thấy Ben-gia-min, người em cùng mẹ với ông, ông liền hỏi: "Ðây là đứa em út
mà các người đã nói với ta, có phải không?", đoạn ông nói: "Con ơi,
xin Thiên Chúa đoái thương con.” 30 Trông thấy em, ông xúc động
nghẹn ngào, rồi đi vội vào phòng riêng mà khóc. 31 Sau đó, ông rửa
mặt và đi ra; ông cầm lòng mà nói: "Dọn bữa lên!” 32 Người ta
dọn riêng cho ông, riêng cho họ và riêng cho những người Ai-cập cùng ăn với
ông, vì người Ai-cập không thể dùng bữa với người Híp-ri: đó là điều ghê tởm
đối với người Ai-cập. 33 Các anh em ngồi đối diện với ông, anh cả
ngồi vào chỗ anh cả, em út ngồi vào chỗ em út, và họ nhìn nhau kinh ngạc. 34
Ông truyền đem cho họ những phần thức ăn dọn trước mặt ông, nhưng phần
của Ben-gia-min thì nhiều gấp năm phần của tất cả những người khác. Họ cùng với
ông ăn uống say sưa.
Chương 44
Chén
bạc của ông Giu-se trong bao của ông Ben-gia-min
1
Ông
Giu-se truyền cho người quản gia của ông: "Anh hãy đổ đầy bao lúa của mấy
người này; họ mang được bao nhiêu thì đổ cho họ bấy nhiêu, rồi bạc của người
nào thì đặt vào miệng bao của người ấy. 2 Chén của tôi cái chén bạc,
thì anh đặt vào miệng bao lúa của đứa út, cùng với số bạc mua lúa của nó."
Người quản gia làm như lời ông dặn.
3
Khi
trời sáng, người ta để cho các anh em ra đi, cùng với lừa của họ. 4 Họ
vừa ra khỏi thành, chưa được bao xa, thì ông Giu-se bảo người quản gia của ông:
"Ðứng lên! hãy rượt theo những người kia, và khi đuổi kịp thì bảo họ:
"Sao các ông lại lấy oán đền ơn? 5 Ðó chẳng phải là đồ vật chủ tôi dùng để
uống và để bói toán sao? Các ông làm như vậy là xấu!"
6
Người
ấy đuổi kịp họ và nói với họ những lời trên. 7 Họ đáp: "Sao
ngài lại nói những lời lẽ như vậy? Không đời nào các tôi tớ ngài lại làm một
chuyện như thế! 8 Ngài coi: số bạc chúng tôi đã tìm thấy ở miệng các bao lúa
của chúng tôi, chúng tôi đã đem từ đất Ca-na-an đến trả lại cho ngài. Làm sao
chúng tôi lại có thể lấy trộm bạc hay vàng trong nhà ông chủ ngài được? 9 Hễ
tìm thấy đồ vật đó nơi ai, thì người ấy phải chết; còn chúng tôi sẽ làm nô lệ
cho ngài.” 10 Người quản gia nói: "Thôi được, cứ như lời các
ông. Hễ tìm thấy đồ vật đó nơi ai, thì người ấy phải làm nô lệ cho tôi còn các
ông sẽ vô can.” 11 Ai nấy vội vàng hạ bao lúa của mình xuống đất,
rồi mở bao ra. 12 Người quản gia lục soát, bắt đầu từ người anh cả
và kết thúc nơi người em út. Cái chén được tìm thấy trong bao lúa của
Ben-gia-min. 13 Họ xé áo mình ra, rồi mỗi người chất đồ lên lưng lừa
của mình và trở về thành.
14
Khi
ông Giu-đa và các anh em vào nhà ông Giu-se, thì ông còn đang ở đó, và họ cúi
rạp xuống đất, trước mặt ông. 15 Ông Giu-se nói với họ: "Các
người làm gì vậy? Các người không biết rằng một người như ta phải có tài bói
toán sao?” 16 Ông Giu-đa nói: "Chúng tôi biết thưa gì với ngài,
nói năng làm sao, tự biện hộ thế nào? Thiên Chúa đã phơi bày tội của các tôi tớ
ngài ra. Chúng tôi xin làm nô lệ cho ngài, cả chúng tôi lẫn người bị tìm thấy
đang giữ cái chén.” 17 Ông Giu-se nói: "Không đời nào ta làm
điều ấy! Người bị tìm thấy đang giữ cái chén, thì sẽ phải làm nô lệ cho ta, còn
các người thì cứ về bình an với cha các người."
Ông
Giu-đa can thiệp
18
Bấy
giờ, ông Giu-đa lại gần ông và nói: "Thưa ngài, xin xá lỗi. Xin cho tôi tớ
ngài được nói một lời thấu đến tai ngài. Xin ngài đừng trút cơn thịnh nộ xuống
tôi tớ ngài: quả thật, ngài ngang hàng với Pha-ra-ô. 19 Ngài đã hỏi
các tôi tớ ngài rằng: "Các người còn cha hay anh em nào không?” 20 Chúng
tôi đã thưa với ngài: "Chúng tôi có cha già và một đứa em út, sinh ra lúc
người đã già; thằng anh cùng mẹ với nó đã chết, chỉ còn lại mình nó, nên người
thương nó. 21 Ngài đã bảo các tôi tớ ngài: "Các người đưa nó
xuống cho ta, để ta nhìn thấy nó tận mắt.” 22 Chúng tôi đã thưa với
ngài: "Thằng bé không thể rời cha, nếu nó rời cha, thì người sẽ chết mất!”
23 Nhưng ngài đã bảo các tôi tớ ngài: "Nếu em út các người
không cùng xuống với các người, thì các người sẽ không được gặp mặt ta nữa.” 24
Vậy khi chúng tôi về với tôi tớ ngài, là cha của tôi, thì chúng tôi đã
nói lại với người những lời của ngài. 25 Cha chúng tôi bảo:
"Hãy trở lại mua ít lương thực về.” 26 Chúng tôi trả lời:
"Chúng con không thể xuống đó được. Nếu có em út cùng đi với chúng con, thì
chúng con mới xuống; vì chúng con không thể gặp mặt ông ấy, nếu em út không
cùng đi với chúng con.” 27 Tôi tớ ngài, là cha của tôi, nói với
chúng tôi: "Các con biết rằng vợ của cha đã sinh cho cha hai đứa. 28 Một
đứa đã lìa cha, và cha đã nói: Ðúng là nó đã bị xé xác, và cho đến nay cha
chẳng được nhìn lại nó. 29 Nếu các con đem cả đứa này đi xa cha, và
nó gặp tai hoạ, thì các con sẽ làm cho kẻ bạc đầu này phải đau khổ mà xuống âm
phủ.” 30 Vậy bây giờ nếu tôi về với tôi tớ ngài, là cha của tôi, mà
không có thằng bé cùng về với chúng tôi, bởi vì người chỉ sống khi nó sống, 31
thì khi thấy là không có thằng bé, người sẽ chết mất. Các tôi tớ ngài sẽ
làm cho kẻ bạc đầu, là tôi tớ ngài và là cha của chúng tôi, phải buồn sầu mà
xuống âm phủ. 32 Trước mặt cha tôi, tôi tớ ngài đã bảo lãnh cho
thằng bé và nói: "Nếu con không đưa nó về cho cha, thì con sẽ đắc tội với
cha suốt đời.” 33 Vậy bây giờ, tôi tớ ngài xin ở lại làm nô lệ ngài
thế cho thằng bé, còn thằng bé thì xin cho về với các anh nó. 34 Thật
vậy, tôi về với cha tôi thế nào được, nếu thằng bé không cùng đi với tôi? Tôi
không thể nào chứng kiến tai hoạ sẽ giáng xuống cha tôi!"
Chương 45
Ông
Giu-se tỏ cho anh em nhận ra mình
1
Ông
Giu-se không thể cầm lòng trước mặt tất cả những người đứng bên ông, nên ông kêu
lên: "Bảo mọi người ra khỏi đây!" Khi không còn người nào ở với ông,
ông Giu-se mới tỏ cho anh em nhận ra mình. 2 Ông oà lên khóc và
người Ai-cập nghe được, triều đình Pha-ra-ô cũng nghe thấy.
3
Ông
Giu-se nói với anh em: "Tôi là Giu-se đây! Cha tôi còn sống không?"
Nhưng anh em không thể trả lời: thấy mình đối diện với ông, họ bàng hoàng. 4
Ông Giu-se nói với anh em: "Hãy lại gần tôi." Họ lại gần. Ông
nói: "Tôi là Giu-se, đứa em mà các anh đã bán sang Ai-cập. 5 Nhưng
bây giờ, các anh đừng buồn phiền, đừng hối hận vì đã bán tôi sang đây: chính là
để duy trì sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em. 6 Thật
vậy, đây là năm thứ hai có nạn đói trong xứ, và sẽ còn năm năm nữa không cày
không gặt. 7 Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em, để giữ cho anh em
một số người sống sót trong xứ, và để cứu sống anh em, nhằm thực hiện cuộc giải
thoát vĩ đại. 8 Vậy không phải các anh đã gửi tôi đến đây, nhưng là
Thiên Chúa. Người đã đặt tôi làm cha của Pha-ra-ô, làm chúa tất cả triều đình,
và làm tể tướng trên khắp cõi Ai-cập.
9
"Anh
em hãy mau về với cha tôi và thưa người rằng: "Con trai cha là Giu-se nói
thế này: Thiên Chúa đã đặt con làm chúa toàn cõi Ai-cập; xin cha xuống đây với
con, đừng trì hoãn. 10 Cha sẽ ở đất Gô-sen và sẽ ở gần con, cha và
các con cháu, chiên bò và tất cả những gì cha có. 11 Tại đó con sẽ
cấp dưỡng cho cha, để cha khỏi bị thiếu thốn, cha, gia đình cha và mọi người
thuộc về cha, vì còn năm năm đói kém nữa. 12 Các anh và em tôi là
Ben-gia-min cũng thấy tận mắt là chính tôi đang mở miệng nói với anh em. 13
Các anh hãy kể lại cho cha tôi biết tất cả vinh hoa của tôi ở Ai-cập, và
tất cả những gì các anh đã thấy; rồi mau đưa cha xuống đây."
14
Bấy
giờ, ông bá cổ Ben-gia-min, em ông, mà khóc; Ben-gia-min cũng gục vào cổ ông mà
khóc. 15 Rồi ông hôn tất cả các anh và ôm họ mà khóc, sau đó anh em
ông nói chuyện với ông.
Pha-ra-ô
mời gia đình ông Gia-cóp sang Ai-cập
16
Tiếng
đồn lan ra trong triều đình Pha-ra-ô rằng: "Anh em ông Giu-se đã
đến!" Ðiều đó làm hài lòng Pha-ra-ô cũng như triều thần. 17 Pha-ra-ô
nói với ông Giu-se: "Ông hãy nói với anh em ông: Các ông làm thế này: Hãy
chất đồ lên lưng súc vật của các ông và đi về đất Ca-na-an. 18 Hãy
đón cha các ông và gia đình các ông đến với ta. Ta sẽ cho các ông cái gì tốt
nhất trong xứ Ai-cập, và các ông sẽ được hưởng màu mỡ của xứ này. 19 Còn
ông, hãy chuyển lệnh này cho họ: Các ông làm thế này: Hãy đem xe từ Ai-cập về
chở đàn bà con trẻ của các ông, rước cha các ông, và đến đây. 20 Các
ông đừng luyến tiếc những đồ đạc các ông bỏ lại, bởi vì những gì tốt nhất của
toàn xứ Ai-cập sẽ thuộc về các ông."
Anh
em ông Giu-se trở về đất Ca-na-an
21
Các
con trai ông Ít-ra-en đã làm như thế. Theo lệnh Pha-ra-ô, ông Giu-se đã cấp cho
họ những chiếc xe; ông cũng cho họ lương thực ăn đường. 22 Ông tặng
mỗi người một bộ quần áo, còn Ben-gia-min thì ông tặng ba trăm đồng tiền bạc và
năm bộ quần áo. 23 Cũng vậy, ông gửi cho cha ông mười con lừa chở
những thứ tốt nhất của Ai-cập, và mười con lừa cái chở lúa mì, bánh và lương
thực để cha dùng khi đi đường. 24 Rồi ông tiễn anh em đi và họ lên
đường; ông bảo họ: "Ðừng cãi cọ dọc đường."
25
Họ
từ Ai-cập lên và về với ông Gia-cóp, cha họ, ở đất Ca-na-an. 26 Họ
báo cho ông: "Giu-se còn sống, và hiện làm tể tướng trên khắp cõi
Ai-cập!" Nhưng lòng ông không hề xúc động, vì ông không tin họ. 27 Khi
họ thưa lại với ông tất cả những lời ông Giu-se đã nói với họ, và ông thấy xe
cộ ông Giu-se đã cho về rước ông, thì tâm thần ông Gia-cóp, cha họ, mới hồi
sinh. 28 Ông Ít-ra-en nói: "Thế là đủ! Giu-se, con cha, vẫn còn
sống! Cha sẽ đi để nhìn thấy nó trước khi chết!"
Chương 46
Ông
Gia-cóp lên đường đi Ai-cập
1
Ông
Ít-ra-en lên đường, đem theo tất cả những gì ông có. Ông đến Bơ-e Se-va và ông
dâng những lễ tế lên Thiên Chúa của cha ông là I-xa-ác. 2 Thiên Chúa
phán với ông Ít-ra-en trong thị kiến ban đêm, Người phán: "Gia-cóp!
Gia-cóp!" Ông thưa: "Dạ, con đây!” 3 Người phán: "Ta
là En, Thiên Chúa của cha ngươi. Ðừng sợ xuống Ai-cập, vì ở đó Ta sẽ làm cho
ngươi thành một dân lớn. 4 Chính Ta sẽ xuống Ai-cập với ngươi và
chính Ta cũng sẽ đưa ngươi lên. Giu-se sẽ vuốt mắt cho ngươi.” 5 Ông
Gia-cóp rời Bơ-e Se-va. Các con trai ông Ít-ra-en đã chở ông Gia-cóp, cha họ,
và đàn bà con trẻ của họ trên những chiếc xe Pha-ra-ô đã gửi đến để rước ông
đi.
6
Họ
đem theo các đàn vật của họ và các tài sản họ đã gây được ở đất Ca-na-an, và họ
đến Ai-cập, ông Gia-cóp và tất cả dòng dõi ông cùng với ông: 7 các
con trai, cháu nội trai, con gái, cháu nội gái của ông. Ông đưa tất cả dòng dõi
ông vào Ai-cập với ông.
Gia
đình ông Gia-cóp
8
Sau
đây là tên con cái Ít-ra-en đã đến Ai-cập: Ông Gia-cóp và các con trai ông. Con
đầu lòng của ông Gia-cóp: Rưu-vên. 9 Các con trai ông Rưu-vên:
16
Các
con trai ông Gát: Xíp-giôn, Khác-ghi, Su-ni, Ét-bôn, Ê-ri, A-rô-đi, Ác-ê-li. 17
Các con trai ông A-se: Gim-na, Gít-va, Gít-vi, Bơ-ri-a, và em gái họ là
Xe-rác. Các con trai ông Bơ-ri-a: Khe-ve, Man-ki-ên. 18 Ðó là các
con trai bà Din-pa, người mà ông La-ban đã cho bà Lê-a, con gái ông. Bà đã sinh
cho ông Gia-cóp những người ấy: mười sáu người.
19
Các
con trai bà Ra-khen, vợ ông Gia-cóp: Giu-se và Ben-gia-min. 20 Ở xứ
Ai-cập, ông Giu-se có thêm Mơ-na-se và Ép-ra-im, mà bà Át-nát, con gái ông
Pô-ti Phê-ra, tư tế thành Ôn, đã sinh cho ông. 21 Các con trai ông
Ben-gia-min: Be-la, Be-khe, Át-bên, Ghê-ra, Na-a-man, Ê-khi, Rốt, Múp-pim,
Khúp-pim, Ác-đơ. 22 Ðó là các con trai mà bà Ra-khen đã sinh cho ông
Gia-cóp, tổng cộng là mười bốn người.
23
Con
trai ông Ðan: Khu-sim. 24 Các con trai ông Náp-ta-li: Giác-xơ-ên,
Gu-ni, Giê-xe, Si-lêm. 25 Ðó là các con trai bà Bin-ha, người mà ông
La-ban đã cho bà Ra-khen, con gái ông. Bà đã sinh cho ông Gia-cóp những người
ấy: tổng cộng là bảy người.
26
Tất
cả những người thuộc về ông Gia-cóp, tức là dòng giống của ông, đã đến Ai-cập,
không kể các con dâu ông Gia-cóp, tổng cộng là sáu mươi sáu người. 27 Con
trai ông Giu-se sinh được tại Ai-cập: hai người. Những người thuộc gia đình ông
Gia-cóp đã đến Ai-cập: tổng cộng là bảy mươi người.
Ông
Giu-se đón tiếp cha
28
Ông
Gia-cóp đã sai ông Giu-đa đi trước, đến với ông Giu-se, để ông Giu-se tới
Gô-sen gặp ông. Khi họ đến đất Gô-sen, 29 thì ông Giu-se cho thắng
xe riêng và lên Gô-sen đón ông Ít-ra-en, cha ông. Khi hai cha con vừa thấy
nhau, thì ông Giu-se bá cổ cha và gục đầu vào cổ cha mà khóc hồi lâu. 30 Ông
Ít-ra-en nói với ông Giu-se: "Phen này, cha chết cũng được, sau khi đã
thấy mặt con, và thấy con còn sống."
31
Ông
Giu-se nói với anh em ông và gia đình cha ông: "Tôi sẽ lên báo tin cho
Pha-ra-ô và tâu vua rằng: "Anh em tôi và gia đình cha tôi ở đất Ca-na-an
đã đến với tôi. 32 Những người này làm nghề chăn chiên, vì họ chuyên
nuôi súc vật; họ đã đem chiên bò và tất cả những gì họ có đến đây.” 33 Vậy
khi Pha-ra-ô triệu anh em đến và hỏi: "Các ông làm nghề gì?", 34
anh em sẽ thưa: "Từ thuở bé đến giờ, các tôi tớ ngài chuyên nuôi súc
vật, chúng tôi cũng như cha ông chúng tôi." Như vậy anh em sẽ có thể ở đất
Gô-sen; bởi vì người Ai-cập ghê tởm mọi người làm nghề chăn chiên."
Chương 47
Vào
chầu Pha-ra-ô
1
Ông
Giu-se vào báo tin cho Pha-ra-ô, ông nói: "Cha tôi, anh em tôi, cùng với
chiên bò và tất cả những gì họ có, đã từ đất Ca-na-an đến, và họ đang ở đất
Gô-sen.” 2 Ông chọn năm người trong số các anh em và dẫn vào yết
kiến Pha-ra-ô. 3 Pha-ra-ô hỏi anh em ông: "Các ông làm nghề
gì?" Họ thưa với Pha-ra-ô: "Các tôi tớ ngài làm nghề chăn chiên,
chúng tôi cũng như cha ông chúng tôi.” 4 Họ thưa với Pha-ra-ô:
"Chúng tôi đến trú ngụ trong đất này, vì ở đất Ca-na-an không còn cỏ ngoài
đồng cho chiên dê của các tôi tớ ngài ăn, và nạn đói trở nên trầm trọng. Vậy
bây giờ, xin cho các tôi tớ ngài được ở đất Gô-sen."
5
Pha-ra-ô
nói với ông Giu-se rằng: "Cha và anh em ông đã đến với ông. 6 Ðất
Ai-cập mở ra trước mặt ông, ông hãy cho cha và anh em ông ở chỗ tốt nhất trong
xứ. Họ cứ việc ở đất Gô-sen. Nếu ông biết trong số những người ấy có ai tài
giỏi, thì ông hãy đặt họ làm người trông coi những đàn vật của ta."
7
Ông
Giu-se đưa ông Gia-cóp, cha ông, vào trình diện Pha-ra-ô. Ông Gia-cóp chúc phúc
cho Pha-ra-ô. 8 Pha-ra-ô hỏi ông Gia-cóp: "Cụ được bao nhiêu
tuổi rồi?” 9 Ông Gia-cóp trả lời Pha-ra-ô: "Cuộc đời phiêu bạt
của tôi mới được một trăm ba mươi năm, đó là những năm tháng ngắn ngủi và khổ
cực, không được như cuộc đời của cha ông tôi, những người cũng sống phiêu bạt.”
10 Ông Gia-cóp chúc phúc cho Pha-ra-ô và cáo biệt Pha-ra-ô. 11 Ông
Giu-se cho cha và anh em ông định cư, cấp cho họ đất đai làm sở hữu trong xứ
Ai-cập, ở chỗ tốt nhất trong xứ, tại đất Ram-xết, như Pha-ra-ô đã truyền.
12
Ông
Giu-se cấp dưỡng cho cha ông, anh em ông và tất cả gia đình cha ông, ít nhiều
tuỳ theo số con cái họ.
Chính
sách điền địa của ông Giu-se
13
Trong
khắp xứ không còn bánh ăn, vì nạn đói trở nên rất trầm trọng. Xứ Ai-cập và xứ
Ca-na-an bị nạn đói làm cho kiệt quệ. 14 Ông Giu-se thu tất cả bạc có
ở xứ Ai-cập và xứ Ca-na-an, tức là bạc người ta dùng để mua lúa, và ông đưa vào
triều đình Pha-ra-ô.
15
Khi
xứ Ai-cập và xứ Ca-na-an hết bạc, thì mọi người Ai-cập đến nói với ông Giu-se
rằng: "Xin ngài cho chúng tôi bánh ăn! Sao chúng tôi lại phải chết trước
mặt ngài vì không còn bạc?” 16 Ông Giu-se đáp: "Nếu không còn
bạc, thì các người hãy nộp các đàn vật của các người, và ta sẽ cho các người
bánh, đổi lấy đàn vật của các người.” 17 Vậy họ đưa các đàn vật của
họ đến cho ông Giu-se, và ông đã cho họ bánh, đổi lấy ngựa, lấy đàn chiên dê,
đàn bò và lấy lừa. Năm đó, ông cung cấp bánh cho họ, đổi lấy tất cả những đàn
vật của họ.
18
Năm
ấy qua đi, năm sau họ lại đến với ông và nói: "Thưa ngài, chúng tôi chẳng
dám giấu gì ngài: bạc đã hết, và đàn gia súc đã thuộc về ngài. Trước mặt ngài
chỉ còn thân xác chúng tôi và đất đai chúng tôi. 19 Lẽ nào chúng tôi
phải chết trước mặt ngài, cả chúng tôi, cả đất đai chúng tôi? Xin ngài lấy bánh
mà mua chúng tôi và đất đai chúng tôi; chúng tôi cùng với đất đai chúng tôi sẽ
làm nô lệ cho Pha-ra-ô. Xin ngài cho chúng tôi hạt giống, để chúng tôi sống chứ
không phải chết, và đất đai khỏi bị bỏ hoang."
20
Ông
Giu-se đã mua cho Pha-ra-ô tất cả đất đai của Ai-cập: mọi người Ai-cập bán thửa
đất của mình, vì bị nạn đói thúc bách. Và đất về tay Pha-ra-ô. 21 Còn
dân thì ông đưa vào các thành, từ đầu đến cuối lãnh thổ Ai-cập. 22 Chỉ
có đất của các tư tế là ông không mua, vì các tư tế được trợ cấp nhất định của
Pha-ra-ô, và họ sống nhờ trợ cấp nhất định Pha-ra-ô ban; do đó họ không phải bán
đất đai của họ.
23
Ông
Giu-se bảo dân: "Hôm nay tôi đã mua các người và đất các người cho
Pha-ra-ô. Ðây là hạt giống cho các người, để các người gieo xuống đất. 24 Nhưng
đến mùa, các người sẽ nộp một phần năm cho Pha-ra-ô, còn bốn phần kia sẽ là của
các người, để làm hạt giống gieo vào đồng ruộng, để làm lương thực cho các
người, cho những người trong nhà và cho trẻ nhỏ.” 25 Họ nói:
"Ngài đã cứu sống chúng tôi. Chúng tôi mong được đẹp lòng ngài, và sẽ làm
nô lệ cho Pha-ra-ô.” 26 Ông Giu-se đặt điều ấy thành luật vẫn còn
giá trị cho đến ngày nay đối với đất đai của Ai-cập, là phải nộp một phần năm
cho Pha-ra-ô. Chỉ có đất đai của các tư tế là không thuộc về Pha-ra-ô.
Những
lời trối trăng của ông Gia-cóp
27
Ông
Ít-ra-en ở xứ Ai-cập, trong đất Gô-sen. Con cháu ông tậu đất đai ở đó làm sở
hữu, họ sinh sôi nảy nở thật nhiều. 28 Ông Gia-cóp sống ở xứ Ai-cập
mười bảy năm. Tuổi đời của ông là một trăm bốn mươi bảy năm. 29 Khi
gần đến ngày ông Ít-ra-en qua đời, ông gọi con là Giu-se đến và bảo: "Nếu
cha được đẹp lòng con, thì con hãy đặt tay dưới đùi cha và hãy tỏ ra có tình có
nghĩa với cha: đừng chôn cha tại Ai-cập. 30 Khi cha đã nằm xuống với
cha ông, con hãy đưa cha ra khỏi Ai-cập và chôn cha trong phần mộ của các
ngài." Ông Giu-se thưa: "Con sẽ làm như lời cha dạy.” 31 Ông
Ít-ra-en nói: "Con thề với cha đi!" Ông Giu-se thề với cha và ông
Ít-ra-en sụp xuống lạy ở đầu giường.
Chương 48
Ông
Gia-cóp nhận hai người con ông Giu-se làm con và chúc phúc cho chúng
1
Sau
các việc đó, người ta nói với ông Giu-se: "Cha ông bị bệnh." Ông đưa
hai con trai là Mơ-na-se và Ép-ra-im đến. 2 Người ta báo cho ông
Gia-cóp rằng: "Có ông Giu-se, con cụ, đến thăm cụ." Ông Ít-ra-en cố
gượng dậy ngồi trên giường. 3 Ông Gia-cóp nói với ông Giu-se:
"Thiên Chúa toàn năng đã hiện ra với cha ở Lút trong đất Ca-na-an và chúc
phúc cho cha. 4 Người đã phán với cha: "Ðây Ta làm cho ngươi
sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ làm cho ngươi thành một cộng đồng nhiều dân
nước, và sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi về sau làm sở hữu vĩnh viễn. 5 Bây
giờ hai đứa con trai con đã sinh được tại xứ Ai-cập trước khi cha đến Ai-cập
với con, sẽ là của cha: Ép-ra-im và Mơ-na-se sẽ là của cha như Rưu-vên và
Si-mê-ôn. 6 Còn những đứa con mà con sinh ra sau hai đứa ấy sẽ là
của con; chúng sẽ được gọi bằng tên hai anh chúng để được hưởng gia tài.
7
"Phần
cha, khi từ Pát-đan về, cha đã mất bà Ra-khen, trong đất Ca-na-an, khi còn cách
Ép-ra-tha một quãng đường; cha đã chôn người tại đó, trên đường đi Ép-ra-tha,
tức là Bê-lem."
8
Khi
ông Ít-ra-en thấy các con trai ông Giu-se, thì hỏi: "Những đứa này là ai?”
9 Ông Giu-se thưa cha: "Chúng là những con trai mà Thiên Chúa
đã ban cho con ở đây." Ông Ít-ra-en nói tiếp: "Ðem chúng đến cho cha,
để cha chúc phúc cho chúng.” 10 Mắt ông Ít-ra-en đã mờ vì tuổi già,
ông không thể nhìn thấy nữa. Ông Giu-se đưa chúng lại gần ông, ông hôn và ôm
chúng. 11 Ông Ít-ra-en nói với ông Giu-se: "Cha không nghĩ rằng
lại nhìn thấy mặt con, thế mà Thiên Chúa lại cho cha nhìn thấy cả dòng dõi con
nữa!” 12 Ông Giu-se kéo chúng ra khỏi đầu gối ông Ít-ra-en và cúi
sấp mặt xuống đất.
13
Ông
Giu-se nắm lấy cả hai đứa, Ép-ra-im ở tay phải ông, tức là tay trái ông
Ít-ra-en, Mơ-na-se ở tay trái ông, tức là tay phải ông Ít-ra-en, và đưa chúng
đến gần ông Ít-ra-en. 14 Ông Ít-ra-en đưa tay phải ra, đặt lên đầu
Ép-ra-im là em, và đặt tay trái lên đầu Mơ-na-se; ông bắt tréo tay, vì Mơ-na-se
là con cả. 15 Ông chúc phúc cho ông Giu-se rằng:
16
"Xin
Sứ thần là Ðấng đã giải thoát cha khỏi mọi tai hoạ, chúc phúc cho những đứa trẻ
này.
Ước
gì nhờ chúng, tên tuổi của cha và của cha ông cha là Áp-ra-ham và I-xa-ác được
nhắc tới, và ước gì chúng lan tràn khắp xứ!"
17
Ông
Giu-se thấy cha đặt tay phải lên đầu Ép-ra-im thì không bằng lòng, nên ông cầm
tay cha kéo ra khỏi đầu Ép-ra-im mà đưa lên đầu Mơ-na-se. 18 Ông
Giu-se nói với cha: "Thưa cha, xin đừng làm thế, vì thằng này mới là con
đầu lòng, xin cha đặt tay phải lên đầu nó.” 19 Nhưng cha ông từ chối
và nói: "Cha biết, con ơi, cha biết: nó cũng sẽ trở thành một dân, và nó
cũng sẽ lớn. Nhưng em nó sẽ lớn hơn nó và dòng dõi của em nó sẽ thành rất nhiều
dân tộc."
20
Ngày
đó, ông chúc phúc cho chúng rằng: "Ước gì Ít-ra-en lấy tên con mà chúc
phúc và nói: Xin Thiên Chúa làm cho bạn nên như Ép-ra-im và như Mơ-na-se!"
21
Rồi
ông Ít-ra-en nói với ông Giu-se: "Này cha sắp chết, nhưng Thiên Chúa sẽ ở
với các con và sẽ đưa các con về quê cha đất tổ. 22 Còn cha, cha cho
con thêm một phần hơn các anh em con, là thành Si-khem cha đã dùng gươm và cung
của cha mà chiếm được từ tay người E-mô-ri."
Chương 49
Những
lời chúc phúc của ông Gia-cóp
1
Ông
Gia-cóp gọi các con trai lại và nói: "Hãy tập họp lại để cha báo cho các
con điều sẽ xảy đến cho các con sau này.
2
Hỡi
các con của Gia-cóp, hãy tụ tập lại mà nghe,
hãy
nghe Ít-ra-en, cha các con.
3
Rưu-vên,
con là con đầu lòng của cha,
là
sức mạnh của cha, là tinh hoa của sinh lực cha,
địa
vị con trổi vượt, thế lực con trổi vượt.
4
Dù
mạnh như nước cuốn, con sẽ không trổi vượt,
vì
con đã trèo lên chỗ cha con nằm,
khi
ấy con đã xúc phạm đến nơi chăn gối của cha con.
5
Si-mê-ôn
và Lê-vi là hai anh em;
chúng
đã dùng gươm mà bạo động.
6
Tôi
sẽ không đồng lòng với phe nhóm chúng,
không
nhất trí với bè lũ chúng,
vì
trong cơn giận, chúng đã giết người,
trong
lúc hung hăng, chúng đã cắt gân bò mộng.
7
Ðáng
nguyền rủa thay cơn giận dữ của chúng, vì nó vũ phu,
đáng
nguyền rủa thay cơn lôi đình của chúng, vì nó tàn bạo!
Tôi
sẽ phân tán chúng trong nhà Gia-cóp,
sẽ
làm chúng tản mác trong dân Ít-ra-en.
8
Giu-đa,
con sẽ được anh em con ca tụng,
tay
con sẽ đặt trên ót các địch thù,
anh
em cùng cha với con sẽ sụp xuống lạy con.
9
Giu-đa
là sư tử con. Con ơi, săn mồi xong con lại trở về.
Nó
quỳ xuống, nằm phục như sư tử
và
như sư tử cái: ai sẽ làm cho nó đứng dậy?
10
Vương
trượng sẽ không rời khỏi Giu-đa,
gậy
chỉ huy sẽ không lìa đầu gối nó,
cho
tới khi người làm chủ vương trượng đến,
người
mà muôn dân phải vâng phục.
11
Người
buộc con lừa của mình vào gốc nho,
buộc
lừa con của mình vào cây nho quý.
Người
lấy rượu giặt áo, lấy máu trái nho giặt áo choàng.
12
Mắt
người sẫm hơn rượu, răng người trắng hơn sữa.
13
Dơ-vu-lun
ở trên bờ biển, nơi tàu bè ghé bến,
sườn
của nó đụng tới Xi-đôn.
14
Ít-xa-kha
là con lừa xương cốt mạnh mẽ,
nằm
giữa chuồng súc vật:
15
Nó
thấy rằng nghỉ ngơi là tốt, và xứ sở tươi xinh.
Nó
khòm lưng chở nặng, nó phải làm việc khổ sai như tôi đòi.
16
Ðan
xét xử dân nó, như một trong các chi tộc Ít-ra-en.
17
Ước
gì Ðan là một con rắn trên đường, một con rắn lục ở lối đi,
cắn
gót chân ngựa, khiến người cưỡi phải ngã ngửa.
18
Lạy
Ðức Chúa, con trông chờ ơn Ngài cứu độ!
19
Gát
bị một bọn cướp cướp nó, nhưng nó đuổi theo cướp lại.
20
A-se
làm bánh có nhiều chất béo,
nó
cung cấp cao lương mỹ vị cho vua.
21
Náp-ta-li
là nai cái thả rong,
đẻ
ra những nai con xinh đẹp.
22
Giu-se
là cây sai quả, cây sai quả bên suối;
các
cành nó vượt qua tường.
23
Những
người bắn cung đã khiêu khích,
đã
bắn tên và tấn công nó.
24
Nhưng
cây cung của nó vẫn vững vàng,
và
những cánh tay của nó vẫn lanh lẹ,
nhờ
tay Ðấng Vạn Năng của Gia-cóp,
nhờ
danh Vị Mục Tử, Tảng đá của Ít-ra-en.
25
Xin
Thiên Chúa của cha con phù trợ con,
Xin
Thiên Chúa toàn năng chúc phúc cho con!
Phúc
lành của trời ở trên cao,
phúc
lành của vực thẳm ở phía dưới,
phúc
lành của nhũ hoa và tử cung!
26
Phúc
lành của cha con trổi vượt,
hơn
cả phúc lành của núi non vạn đại,
và
ước nguyện của gò nổng thiên thu.
Ước
chi những phúc lành ấy xuống trên đầu Giu-se,
trên
đỉnh đầu người được thánh hiến giữa anh em mình.
27
Ben-gia-min
là chó sói hay cắn xé,
buổi
sáng nó ăn mồi, buổi chiều nó chia phần cướp được."
28
Ðó
là tất cả mười hai chi tộc Ít-ra-en, và đó là điều mà cha họ đã nói với họ; ông
chúc phúc cho họ, chúc cho mỗi người một lời chúc phúc riêng.
Ông
Gia-cóp qua đời
29
Ông
truyền cho họ rằng: "Cha sắp được về sum họp với gia tiên. Hãy chôn cất
cha bên cạnh cha ông của cha, trong cái hang ở cánh đồng của ông Ép-rôn, người
Khết, 30 trong cái hang ở cánh đồng Mác-pê-la, đối diện với Mam-rê,
tại đất Ca-na-an, cánh đồng ông Áp-ra-ham đã tậu của ông Ép-rôn, người Khết,
làm miếng đất riêng dành cho phần mộ. 31 Ở đó đã chôn ông Áp-ra-ham
và vợ ông là bà Xa-ra; ở đó đã chôn ông I-xa-ác và vợ ông là bà Rê-bê-ca; ở đó
cha đã chôn bà Lê-a. 32 Cánh đồng và cái hang ở đó đã tậu của con
cái ông Khết."
33
Khi
truyền lệnh cho các con trai ông xong, thì ông Gia-cóp rút chân lên giường; ông
tắt thở và được về sum họp với gia tiên.
Chương 50
Ðám
tang ông Gia-cóp
1
Ông
Giu-se gục vào mặt cha mà khóc và hôn cha. 2 Rồi ông Giu-se truyền
cho các thầy thuốc vẫn giúp việc ông, ướp xác cha ông. Các thầy thuốc ướp xác
ông Ít-ra-en. 3 Việc đó kéo dài bốn mươi ngày, vì việc ướp xác phải
kéo dài bấy nhiêu ngày.
4
Khi
thời gian khóc ông đã qua, ông Giu-se nói với triều đình Pha-ra-ô rằng:
"Nếu tôi được đẹp lòng các ông, thì xin các ông nói thấu tai Pha-ra-ô như
sau: 5 "Cha tôi đã bắt tôi thề, người nói: Này cha sắp chết.
Trong ngôi mộ cha đã đào cho cha ở đất Ca-na-an, con hãy chôn cất cha ở
đó." Bây giờ tôi xin được lên đó chôn cất cha tôi, rồi tôi sẽ trở lại.” 6
Pha-ra-ô nói: "Cứ lên mà chôn cất cha ông, như cụ đã bắt ông
thề."
7
Ông
Giu-se lên chôn cất cha. Toàn thể triều thần Pha-ra-ô, các quan lớn trong triều
đình, và toàn thể kỳ mục xứ Ai-cập cùng lên với ông, 8 cũng như gia
đình ông Giu-se, các anh em ông và gia đình cha ông. Họ chỉ để lại ở đất Gô-sen
trẻ con và chiên bò của họ. 9 Cùng lên với ông có cả chiến xa và kỵ
binh: đó là một đoàn người đông đảo.
10
Khi
đến Gô-ren Ha-a-tát ở bên kia sông Gio-đan, họ cử hành tang lễ lớn và rất long
trọng. Ông Giu-se làm lễ chôn cất cha trong bảy ngày. 11 Dân bản xứ,
tức là người Ca-na-an, thấy đám ma ở Gô-ren Ha-a-tát thì nói: "Ðó là một
đám ma long trọng của người Ai-cập." Vì vậy người ta đặt tên cho nơi ấy là
A-vên Mít-ra-gim, một nơi ở bên kia sông Gio-đan.
12
Các
con trai ông Gia-cóp làm cho ông như ông đã truyền cho họ. 13 Các
con trai ông đưa ông về đất Ca-na-an và chôn cất ông trong cái hang ở cánh đồng
Mác-pê-la, cánh đồng ông Áp-ra-ham đã tậu của ông Ép-rôn, người Khết, làm miếng
đất riêng dành cho phần mộ, đối diện với Mam-rê.
14
Sau
khi chôn cất cha, ông Giu-se trở lại Ai-cập, ông, các anh em ông và tất cả
những người đã cùng lên với ông để chôn cất cha ông.
Từ
khi ông Gia-cóp qua đời đến khi ông Giu-se qua đời
15
Các
anh ông Giu-se thấy cha mình đã chết thì bảo nhau: "Không khéo Giu-se còn
hận chúng ta và trả lại cho chúng ta tất cả điều ác chúng ta đã gây ra cho nó!”
16 Họ sai người đến nói với ông: "Cha của chú trước khi chết đã
truyền rằng: 17 Các con hãy nói thế này với Giu-se: "Thôi! Xin
con tha tội tha lỗi cho các anh con, vì họ đã gây ra điều ác cho con." Bây
giờ xin chú tha tội cho các kẻ làm tôi Thiên Chúa của cha chú!" Ông Giu-se
khóc, khi họ nói với ông như thế.
18
Các
anh ông đích thân đến cúi rạp xuống trước mặt ông và nói: "Này chúng tôi
là nô lệ của chú.” 19 Ông Giu-se nói với họ: "Ðừng sợ! Tôi đâu
có thay quyền Thiên Chúa! 20 Các anh đã định làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên
Chúa lại định cho nó thành điều tốt, để thực hiện điều xảy ra hôm nay, là cứu
sống một dân đông đảo. 21 Bây giờ các anh đừng sợ, tôi sẽ cấp dưỡng
cho các anh và con cái các anh." Ông an ủi và chuyện trò thân mật với họ.
22
Ông
Giu-se, ông và gia đình cha ông ở bên Ai-cập. Ông Giu-se sống được một trăm
mười tuổi. 23 Ông được thấy con cháu của Ép-ra-im đến ba đời. Cả các
con của Ma-khia - ông này là con của Mơ-na-se -, cũng sinh ra trên đầu gối ông
Giu-se. 24 Ông Giu-se nói với các anh em: "Tôi sắp chết, nhưng
thế nào Thiên Chúa cũng sẽ viếng thăm anh em và đưa anh em từ đất này lên đất
mà Người đã thề hứa với ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp.” 25 Ông
Giu-se bắt con cái Ít-ra-en thề, ông nói: "Thế nào Thiên Chúa cũng sẽ
viếng thăm anh em, bấy giờ anh em sẽ đưa hài cốt tôi lên khỏi đây."
26
Ông
Giu-se qua đời, thọ một trăm mười tuổi. Người ta ướp xác ông và đặt ông vào một
quan tài ở Ai-cập.
Xuất Hành
Chương 01
I.
Công Cuộc Giải Thoát Khỏi Ai-Cập
1.
Dân Ít-Ra-En Bên Ai-Cập
Cảnh
sống thịnh vượng của người Híp-ri ở Ai-cập
1
Sau
đây là tên những con cái Ít-ra-en đã đến Ai-cập với ông Gia-cóp, mỗi người đem
theo gia đình mình: 2 Rưu-vên, Si-mê-ôn, Lê-vi và Giu-đa, 3 Ít-xa-kha,
Dơ-vu-lun và Ben-gia-min, 4 Ðan và Náp-ta-li, Gát và A-se. 5 Dòng
giống ông Gia-cóp tính tất cả là bảy mươi người; ông Giu-se thì đang ở bên
Ai-cập. 6 Rồi ông Giu-se qua đời, cũng như anh em ông và tất cả thế
hệ đó. 7 Con cái Ít-ra-en sinh sôi nảy nở, nên đông đúc và ngày càng
hùng mạnh: họ lan tràn khắp xứ.
Dân
Híp-ri bị áp bức
8
Thời
ấy có một vua mới lên trị vì nước Ai-cập, vua này không biết ông Giu-se. 9
Vua nói với dân mình: "Này đám dân con cái Ít-ra-en đông đúc và hùng
mạnh hơn chúng ta. 10 Chúng ta hãy dùng những biện pháp khôn ngoan
đối với dân đó, đừng để chúng nên đông đúc, kẻo khi có chiến tranh, chúng hùa
với địch mà đánh lại chúng ta, rồi ra khỏi xứ.” 11 Người ta bèn đặt
lên đầu lên cổ họ những viên đốc công, để hành hạ họ bằng những việc khổ sai;
họ phải xây cho Pha-ra-ô các thành làm kho lương thực là Pi-thôm và Ram-xết. 12
Nhưng chúng càng hành hạ họ, thì họ càng nên đông đúc và lan tràn, khiến
chúng đâm ra sợ con cái Ít-ra-en. 13 Người Ai-cập cưỡng bách con cái
Ít-ra-en lao động cực nhọc. 14 Chúng làm cho đời sống họ ra cay đắng
vì phải lao động cực nhọc: phải trộn hồ làm gạch, phải làm đủ thứ công việc
đồng áng; tóm lại, tất cả những việc lao động cực nhọc, chúng đều cưỡng bách họ
làm.
15
Vua
Ai-cập nói với những bà đỡ đi giúp sản phụ Híp-ri, một bà tên là Síp-ra, một bà
tên là Pu-a: 16 "Khi đỡ cho sản phụ Híp-ri, các người hãy xem
đứa trẻ là trai hay gái. Nếu là trai thì giết đi, nếu là gái thì để cho sống.” 17
Nhưng các bà đỡ có lòng kính sợ Thiên Chúa, nên không làm như vua Ai-cập
đã truyền, và cứ để cho con trai sống. 18 Vua Ai-cập bèn gọi các bà
đỡ đến và hỏi: "Tại sao các ngươi làm thế và cứ để cho con trai sống?” 19
Các bà đỡ thưa với Pha-ra-ô: "Ðàn bà Híp-ri không như đàn bà Ai-cập,
họ khoẻ lắm: bà đỡ chưa kịp đến thì họ đã sinh rồi.” 20 Thiên Chúa
ban ơn lành cho các bà đỡ; còn dân thì trở nên đông đúc và rất hùng mạnh. 21
Vậy, vì các bà đỡ có lòng kính sợ Thiên Chúa, nên Người đã cho họ có con
để nối dòng.
22
Pha-ra-ô
ra lệnh cho toàn dân của mình: "Mọi con trai Híp-ri sinh ra, hãy ném xuống
sông Nin; mọi con gái thì để cho sống."
Chương 02
2.
Thời Niên Thiếu Và Ơn Gọi Của Ông Mô-Sê
Ông
Mô-sê chào đời
1
Có
một người thuộc dòng họ Lê-vi đi lấy một người con gái cũng thuộc họ Lê-vi. 2
Người đàn bà ấy thụ thai và sinh một con trai. Thấy đứa bé kháu khỉnh,
nàng giấu nó ba tháng trời. 3 Khi không thể giấu lâu hơn được nữa,
nàng lấy một cái thúng cói, trét hắc ín và nhựa chai, bỏ đứa bé vào, rồi đặt
thúng trong đám sậy ở bờ sông Nin. 4 Chị đứa bé đứng đàng xa để xem
cho biết cái gì sẽ xảy ra cho em nó. 5 Có nàng công chúa của
Pha-ra-ô xuống tắm dưới sông, trong khi các thị nữ đi đi lại lại trên bờ. Nàng
thấy chiếc thúng ở giữa đám sậy, thì sai con hầu đi lấy. 6 Mở thúng
ra, nàng thấy đứa trẻ: thì ra là một bé trai đang khóc. Nàng động lòng thương
nó và nói: "Thằng này là một trong những đứa trẻ Híp-ri.” 7 Chị
đứa bé thưa với công chúa của Pha-ra-ô: "Bà có muốn con đi gọi cho bà một
vú nuôi người Híp-ri, để nuôi đứa bé cho bà không?” 8 Công chúa của
Pha-ra-ô trả lời: "Cứ đi đi!" Người con gái liền đi gọi mẹ đứa bé. 9
Công chúa của Pha-ra-ô bảo bà ấy: "Chị đem đứa bé này về nuôi cho
tôi. Chính tôi sẽ trả công cho chị." Người đàn bà mang ngay đứa bé về nuôi.
10 Khi đứa bé lớn lên, bà đưa nó đến cho công chúa của Pha-ra-ô.
Nàng coi nó như con và đặt tên là Mô-sê; nàng nói: "Ðó là vì ta đã vớt nó
lên khỏi nước."
Ông
Mô-sê trốn sang Ma-đi-an
11
Hồi
đó, ông Mô-sê đã lớn, ông ra ngoài thăm anh em đồng bào và thấy những việc khổ
sai họ phải làm. Ông thấy một người Ai-cập đang đánh một người Híp-ri, anh em
đồng bào của ông. 12 Nhìn trước nhìn sau không thấy có ai, ông liền
giết người Ai-cập, rồi vùi dưới cát. 13 Hôm sau, ông lại đi ra, gặp
hai người Híp-ri đang xô xát nhau, ông nói với người có lỗi: "Tại sao anh
lại đánh người đồng chủng?” 14 Người đó trả lời: "Ai đã đặt ông
lên làm người lãnh đạo và xét xử chúng tôi? Hay là ông tính giết tôi như đã
giết tên Ai-cập?" Ông Mô-sê phát sợ và tự bảo: "Vậy ra người ta đã
biết chuyện rồi!” 15 Nghe biết chuyện này, Pha-ra-ô tìm cách giết
ông Mô-sê. Ông Mô-sê liền đi trốn Pha-ra-ô và ở lại miền Ma-đi-an. Ông ngồi bên
bờ giếng.
16
Thầy
tư tế Ma-đi-an có bảy người con gái. Các cô đến múc nước và đổ đầy máng cho
chiên của cha mình uống. 17 Bấy giờ, có những người chăn chiên đến
và đuổi các cô đi. Ông Mô-sê liền đứng lên bênh vực các cô và cho chiên uống. 18
Các cô về với cha là ông Rơ-u-ên. Ông hỏi: "Sao hôm nay các con về
sớm thế?” 19 Các cô thưa: "Có một người Ai-cập đã cứu chúng con
khỏi tay bọn chăn chiên, lại còn múc nước giùm chúng con và cho chiên uống nữa.”
20 Người cha hỏi các con: "Thế người đó đâu rồi? Sao lại bỏ
người ta ở đấy? Mời người ta đến dùng bữa đi!” 21 Ông Mô-sê bằng
lòng ở lại với thầy tư tế, và ông này gả con gái là Xíp-pô-ra cho ông. 22 Nàng
sinh một con trai và ông đặt tên cho nó là Ghéc-sôm, vì ông nói: "Tôi là
ngoại kiều nơi đất khách quê người."
Thiên
Chúa nhớ tới dân Ít-ra-en
23
Sau
những năm dài ấy, vua Ai-cập qua đời. Con cái Ít-ra-en rên siết trong cảnh nô
lệ. Họ ta thán, và tiếng họ kêu từ cảnh nô lệ đã thấu tới Thiên Chúa. 24 Thiên
Chúa đã nghe tiếng họ than van và Thiên Chúa nhớ lại giao ước của Người với các
tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. 25 Thiên Chúa đã nhìn thấy con
cái Ít-ra-en và Thiên Chúa đã biết.
Chương 03
Thiên
Chúa gọi ông Mô-sê từ bụi cây bốc cháy
1
Bấy
giờ ông Mô-sê đang chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô, tư tế Ma-đi-an. Ông dẫn đàn
chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khô-rếp. 2 Thiên
sứ của Ðức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Mô-sê nhìn
thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. 3 Ông
tự bảo: "Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây
lại không cháy rụi?” 4 Ðức Chúa thấy ông lại xem, thì từ giữa bụi
cây Thiên Chúa gọi ông: "Mô-sê! Mô-sê!" Ông thưa: "Dạ, tôi đây!”
5 Người phán: "Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi
đang đứng là đất thánh.” 6 Người lại phán: "Ta là Thiên Chúa
của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của
Gia-cóp." Ông Mô-sê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa.
Sứ
mạng của ông Mô-sê
7
Ðức
Chúa phán: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe
tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của
chúng. 8 Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa
chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và
mật, xứ sở của người Ca-na-an, Khết, E-mô-ri, Pơ-rít-di, Khi-vi và Giơ-vút. 9
Giờ đây, tiếng rên siết của con cái Ít-ra-en đã thấu tới Ta; Ta cũng đã
thấy cảnh áp bức chúng phải chịu vì người Ai-cập. 10 Bây giờ, ngươi
hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi
Ai-cập."
11
Ông
Mô-sê thưa với Thiên Chúa: "Con là ai mà dám đến với Pha-ra-ô và đưa con
cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập?” 12 Người phán: "Ta sẽ ở với
ngươi. Và đây là dấu cho ngươi biết là Ta đã sai ngươi: khi ngươi đưa dân ra
khỏi Ai-cập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này."
Mặc
khải danh Thiên Chúa
13
Ông
Mô-sê thưa với Thiên Chúa: "Bây giờ, con đến gặp con cái Ít-ra-en và nói
với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi
con: Tên Ðấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?” 14 Thiên
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ta là Ðấng Hiện Hữu." Người phán:
"Ngươi nói với con cái Ít-ra-en thế này: "Ðấng Hiện Hữu sai tôi đến
với anh em.” 15 Thiên Chúa lại phán với ông Mô-sê: "Ngươi sẽ
nói với con cái Ít-ra-en thế này: Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em,
Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp, sai
tôi đến với anh em. Ðó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi
sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia."
Chỉ
thị về sứ mạng của ông Mô-sê
16
"Ngươi
hãy đi triệu tập các kỳ mục Ít-ra-en và nói với họ: Ðức Chúa, Thiên Chúa của
cha ông anh em, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, của I-xa-ác, của Gia-cóp, đã hiện ra
với tôi và phán: Ta đã thật sự quan tâm đến các ngươi và cách người ta đối xử
với các ngươi bên Ai-cập. 17 Ta đã phán: Ta sẽ cho các ngươi thoát
cảnh khổ cực bên Ai-cập mà lên miền đất người Ca-na-an, Khết, E-mô-ri,
Pơ-rít-di, Khi-vi và Giơ-vút, lên miền đất tràn trề sữa và mật. 18 Họ
sẽ nghe tiếng ngươi, rồi ngươi sẽ đi với các kỳ mục Ít-ra-en đến cùng vua
Ai-cập, các ngươi sẽ nói với vua ấy rằng: Ðức Chúa, Thiên Chúa của người
Híp-ri, đã cho chúng tôi được gặp Người. Giờ đây, xin cho chúng tôi đi ba ngày
đường vào sa mạc để tế lễ Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi. 19 Ta thừa
biết rằng vua Ai-cập sẽ không cho các ngươi đi, trừ phi là có một bàn tay mạnh
mẽ can thiệp. 20 Ta sẽ ra tay, sẽ làm mọi thứ phép lạ giữa dân
Ai-cập để đánh nó, và sau đó vua ấy sẽ cho các ngươi đi.
Tước
đoạt của cải người Ai-cập
21
"Ta
sẽ cho dân này được lòng người Ai-cập; nên khi ra đi, các ngươi sẽ chẳng ra đi
tay không. 22 Mỗi người đàn bà sẽ xin đàn bà láng giềng và người ở
chung một nhà những đồ bạc, đồ vàng, và áo xống. Các ngươi sẽ cho con trai con
gái các ngươi mang những thứ đó. Như vậy là các ngươi tước đoạt của cải người
Ai-cập."
Chương 04
Ông
Mô-sê làm dấu lạ
1
Ông
Mô-sê đáp: "Họ sẽ không tin con đâu, họ sẽ không nghe lời con, vì họ sẽ
nói: Ðức Chúa chẳng có hiện ra với ông.” 2 Ðức Chúa phán với ông:
"
6
Ðức
Chúa còn phán với ông: "Hãy luồn tay vào ngực ngươi!" Ông luồn tay
vào ngực, rồi rút tay ra. Và này tay ông bị phong cùi, trắng như tuyết. 7 Người
phán: "Hãy lại cho tay vào ngực ngươi!" - Ông lại cho tay vào ngực,
rồi rút ra khỏi ngực. Thì này tay ông trở lại như da thịt của ông. - 8
"Như thế, nếu họ không tin ngươi và không hiểu ý nghĩa của dấu thứ nhất,
thì họ sẽ tin dấu thứ hai. 9 Mà nếu họ cũng không tin cả hai dấu ấy
và không nghe tiếng ngươi, thì ngươi sẽ lấy nước sông Nin mà đổ trên đất khô.
Nước ngươi đã lấy dưới sông Nin sẽ hoá thành máu trên đất khô."
Ông
A-ha-ron, phát ngôn viên của ông Mô-sê
10
Ông
Mô-sê thưa với Ðức Chúa: "Lạy Chúa, xin xá lỗi cho con, từ hồi nào đến
giờ, ngay cả từ lúc Chúa ban lời cho tôi tớ Ngài, con không phải là kẻ có tài
ăn nói, vì con cứng miệng cứng lưỡi.” 11 Ðức Chúa phán: "Ai cho
con người có mồm có miệng? Ai làm cho nó phải câm phải điếc, cho mắt nó sáng
hay phải mù loà? Há chẳng phải là Ta, Ðức Chúa, đó sao? 12 Vậy bây giờ ngươi
hãy đi, chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi, và Ta sẽ chỉ cho ngươi phải nói những
gì."
13
Ông
thưa: "Lạy Chúa, xin xá lỗi cho con, xin Chúa sai ai làm môi giới thì sai.”
14 Ðức Chúa nổi giận với ông Mô-sê; Người phán: "Nào chẳng có
A-ha-ron, anh ngươi, là người Lê-vi đó sao? Ta biết: nó ăn nói được lắm; hơn
nữa, kìa nó ra đón ngươi, và khi thấy ngươi, lòng nó sẽ hoan hỷ. 15 Ngươi
sẽ nói với anh ngươi và đặt lời lẽ vào miệng nó. Chính Ta sẽ ngự nơi miệng
ngươi và nơi miệng nó. Ta sẽ chỉ cho các ngươi những gì các ngươi phải làm. 16
Chính anh ngươi sẽ thay ngươi mà nói với dân. Chính nó sẽ là miệng của
ngươi; còn ngươi, ngươi sẽ là một vị thần đối với nó. 17 Cây gậy này,
ngươi hãy cầm lấy trong tay; ngươi sẽ dùng nó mà làm các dấu lạ."
Ông
Mô-sê rời Ma-đi-an trở về Ai-cập
18
Ông
Mô-sê ra đi, trở về với bố vợ là ông Gít-rô và nói: "Xin để con đi về với
anh em con bên Ai-cập xem họ còn sống hay không." Ông Gít-rô trả lời ông
Mô-sê: "Anh đi bình an!"
19
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê ở Ma-đi-an: "Ði đi, hãy trở về Ai-cập, bởi vì mọi
kẻ tìm cách làm hại mạng sống ngươi đã chết cả rồi.” 20 Ông Mô-sê
đem vợ và con cái đi theo, cho họ cỡi lừa và trở về đất Ai-cập. Ông Mô-sê cầm cây
gậy của Thiên Chúa trong tay. 21 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê:
"Khi ngươi ra đi để trở về Ai-cập, ngươi hãy nhìn xem: mọi điều lạ lùng Ta
đã ban cho ngươi có quyền làm, thì ngươi sẽ làm trước mặt Pha-ra-ô. Nhưng Ta,
Ta sẽ làm cho nó cứng lòng và nó sẽ không thả cho dân đi!” 22 Bấy
giờ, ngươi sẽ nói với Pha-ra-ô: "Ðức Chúa phán thế này: Con đầu lòng của
Ta là Ít-ra-en. 23 Ta đã phán với ngươi: Hãy thả con Ta ra để nó đi
thờ phượng Ta. Nhưng ngươi đã từ chối không thả nó đi, thì này chính Ta sẽ giết
chết con đầu lòng của ngươi."
Con
ông Mô-sê được cắt bì
24
Vậy
dọc đường, tại nơi ông dừng lại nghỉ đêm, Ðức Chúa bắt gặp ông và tìm cách giết
ông. 25 Bấy giờ, bà Xíp-pô-ra lấy mảnh đá sắc cắt bì cho con, đụng
vào chân ông, rồi nói: "Nhờ máu, ông đã kết nghĩa vợ chồng với tôi.” 26
Và Ðức Chúa tha cho ông. Bà nói: "Nhờ máu, ông đã kết nghĩa vợ chồng
với tôi" là vì phép cắt bì.
Ông
Mô-sê gặp ông A-ha-ron
27
Ðức
Chúa phán với ông A-ha-ron: "Ngươi hãy đi vào sa mạc đón Mô-sê." Ông
đi và gặp ông Mô-sê trên núi của Thiên Chúa; ông đã ôm hôn ông Mô-sê. 28 Ông
Mô-sê cho ông A-ha-ron biết mọi lời Ðức Chúa đã sai ông nói, và mọi dấu lạ
Người đã truyền cho ông làm. 29 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron đi triệu
tập mọi kỳ mục của con cái Ít-ra-en. 30 Ông A-ha-ron nói tất cả
những lời Ðức Chúa đã ngỏ cùng ông Mô-sê và làm những dấu lạ trước mắt dân. 31
Và dân đã tin. Họ đã hiểu là Ðức Chúa đến viếng thăm con cái Ít-ra-en và
nhìn thấy cảnh khổ cực của họ. Và họ đã phủ phục mà thờ lạy.
Chương 05
Cuộc
hội kiến đầu tiên với Pha-ra-ô
1
Sau
đó, ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến nói với Pha-ra-ô: "Ðức Chúa, Thiên Chúa
của Ít-ra-en, phán thế này: Hãy thả cho dân Ta đi, để chúng mở lễ kính Ta trong
sa mạc.” 2 Pha-ra-ô đáp: "Ðức Chúa là ai, khiến ta phải nghe
lời mà thả cho Ít-ra-en đi? Ta chẳng biết Ðức Chúa, cũng sẽ không thả cho
Ít-ra-en đi.” 3 Hai ông nói: "Thiên Chúa của người Híp-ri đã
hiện ra với chúng tôi. Xin cho chúng tôi đi ba ngày đường vào sa mạc để tế lễ
Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi; nếu không, Người sẽ dùng dịch hạch hay gươm
giáo mà giết chết chúng tôi.” 4 Vua Ai-cập nói với các ông:
"Mô-sê và A-ha-ron, sao các ngươi lại muốn xúi dân bỏ việc? Ði lao động
đi!” 5 Pha-ra-ô nói: "Bây giờ dân trong nước thì đông, mà các
ngươi lại muốn cho chúng nghỉ lao động!"
Chỉ
thị cho các ông cai
6
Ngày
hôm đó, Pha-ra-ô ra lệnh cho các ông cai và ký lục: 7 "Ðừng
cung cấp rơm cho dân để làm gạch như trước nữa. Chúng phải tự mình đi lượm rơm
mà làm. 8 Cứ bắt chúng phải nộp đủ số gạch như chúng vẫn làm trước
đây, đừng giảm bớt chi cả. Chúng là quân lười biếng, vì thế mà chúng hô lên:
Nào chúng ta đi tế lễ Thiên Chúa chúng ta! 9 Phải giao cho bọn người ấy những
công việc thật nặng nhọc để chúng lo làm, mà khỏi chú ý vào những lời dối
trá."
10
Các
ông cai và ký lục ra ngoài nói với dân: "Pha-ra-ô phán thế này: Ta không
cung cấp rơm cho các ngươi nữa. 11 Các ngươi thấy rơm ở đâu thì phải
tự mình đi kiếm lấy. Nhưng công việc thì không được giảm bớt chút nào.” 12
Dân liền đi tản mác khắp nước Ai-cập, để lượm rạ thay rơm. 13 Các
ông cai thúc họ: "Làm cho xong việc đi! Mỗi ngày phải đủ số, y như khi có
rơm!” 14 Người ta đánh đập và hạch sách các ký lục của con cái
Ít-ra-en, mà các ông cai của Pha-ra-ô đã đặt lên trông coi dân: "Tại sao
hôm qua và hôm nay, các anh đã không làm đủ số gạch ấn định như trước
kia?"
Các
ký lục của người Ít-ra-en than phiền
15
Các
ký lục của con cái Ít-ra-en đến kêu với Pha-ra-ô: "Tại sao bệ hạ lại xử
với các bề tôi như thế? 16 Rơm thì người ta không cung cấp cho bề tôi nữa, mà
lại bảo: Sản xuất gạch đi! Bệ hạ coi: người ta đánh bề tôi, như thể dân của bệ
hạ đây có lỗi.” 17 Vua đáp: "Các ngươi là quân lười biếng, quân
lười biếng! Vì thế, các ngươi mới nói: chúng ta hãy đi tế lễ Ðức Chúa. 18 Bây
giờ đi làm việc đi! Sẽ không cung cấp rơm cho các ngươi nữa, nhưng gạch thì các
ngươi vẫn phải nộp cho đủ số."
Dân
than trách. Ông Mô-sê kêu cầu.
19
Các
ký lục của con cái Ít-ra-en thấy mình ở trong hoàn cảnh khó xử, khi người ta
bảo họ: "Không được bớt số gạch phải làm. Ngày nào phải đủ số ngày đó!” 20
Ra khỏi đền Pha-ra-ô, họ gặp ngay ông Mô-sê và ông A-ha-ron đang đứng chờ
họ. 21 Họ nói với hai ông: "Xin Ðức Chúa chứng giám và xét xử
cho: các ông đã làm cho chúng tôi trở nên đáng ghét trước mắt Pha-ra-ô và bề
tôi của vua; thật các ông đã trao gươm vào tay họ để giết chúng tôi.” 22 Ông
Mô-sê hướng về Ðức Chúa và thưa: "Lạy Chúa, tại sao Ngài đã làm khổ dân
này? Tại sao Ngài đã sai con đi? 23 Từ khi con đến với Pha-ra-ô để nhân danh
Ngài mà nói, thì vua ấy làm khổ dân này, và Ngài chẳng giải thoát dân Ngài gì
cả!"
Chương 06
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Giờ đây ngươi sắp thấy điều Ta làm cho Pha-ra-ô:
Bị áp lực của một bàn tay mạnh mẽ, vua ấy sẽ phải thả cho họ đi; bị áp lực của
một bàn tay mạnh mẽ, vua ấy sẽ đuổi họ ra khỏi nước."
Trình
thuật khác về việc Thiên Chúa gọi ông Mô-sê
2
Thiên
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ta là Ðức Chúa. 3 Ta đã hiện ra với
Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp với tư cách là Thiên Chúa Toàn Năng, nhưng Ta đã
không cho họ biết danh của Ta là Ðức Chúa. 4 Ta lại còn lập giao ước
của Ta với họ để ban cho họ đất Ca-na-an, là đất khách quê người, nơi họ sống
như những khách lạ. 5 Chính Ta đã nghe thấy tiếng rên siết của con
cái Ít-ra-en đang bị người Ai-cập bắt làm nô lệ, và Ta đã nhớ lại giao ước của
Ta. 6 Vì vậy, ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en: Ta là Ðức Chúa. Ta
sẽ cứu các ngươi khỏi phải làm việc khổ sai cho người Ai-cập, sẽ giải thoát các
ngươi khỏi làm nô lệ chúng. Ta sẽ giơ cánh tay, dùng uy quyền mà chuộc các
ngươi lại. 7 Ta sẽ nhận các ngươi làm dân riêng của Ta, và đối với
các ngươi, Ta sẽ là Thiên Chúa. Các ngươi sẽ biết rằng Ta, Ðức Chúa, là Thiên
Chúa các ngươi, Ðấng cứu các ngươi khỏi phải làm việc khổ sai cho người Ai-cập.
8 Ta sẽ đưa các ngươi vào miền đất mà Ta đã giơ tay thề sẽ ban cho
Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Ta sẽ ban đất ấy cho các ngươi làm sở hữu. Ta là
Ðức Chúa.” 9 Ông Mô-sê nói thế với con cái Ít-ra-en, nhưng họ không
nghe ông Mô-sê, vì ách nô lệ quá nặng nề làm cho họ kiệt sức.
10
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 11 "Hãy đi nói với Pha-ra-ô, vua
Ai-cập, để vua ấy thả con cái Ít-ra-en ra khỏi nước.” 12 Nhưng ông
Mô-sê thưa trước nhan Ðức Chúa: "Chúa coi: con cái Ít-ra-en đã không nghe
con; làm sao Pha-ra-ô lại nghe con, một người ăn nói không được dễ dàng?” 13
Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron, truyền cho hai ông đến gặp
con cái Ít-ra-en và gặp Pha-ra-ô, vua Ai-cập, để đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi
nước Ai-cập.
Gia
phả ông Mô-sê và ông A-ha-ron
14
Ðây
là những người làm đầu các gia tộc của họ: con cái ông Rưu-vên, trưởng nam của
Ít-ra-en:
15
Con
cái ông Si-mê-ôn: Giơ-mu-ên, Gia-min, Ô-hát, Gia-khin, Xô-kha, Sa-un, con của
người đàn bà Ca-na-an. Ðó là các thị tộc của ông Si-mê-ôn.
16
Ðây
là tên con cái ông Lê-vi, theo thứ tự trước sau: Ghéc-sôn, Cơ-hát, Mơ-ra-ri.
Ông Lê-vi sống được một trăm ba mươi bảy tuổi. 17 Con cái của
Ghéc-sôn: Líp-ni và Sim-y, với các thị tộc của họ.
18
Con
cái ông Cơ-hát: Am-ram, Gít-ha, Khép-rôn và Út-di-ên. Ông Cơ-hát sống được một
trăm ba mươi ba tuổi.
19
Con
cái ông Mơ-ra-ri: Mác-li và Mu-si. Ðó là các thị tộc của ông Lê-vi theo thứ tự
trước sau.
20
Ông
Am-ram lấy cô mình là bà Giô-khe-vét làm vợ. Bà đã sinh được cho ông hai người
con là ông A-ha-ron và ông Mô-sê. Ông Am-ram sống được một trăm ba mươi bảy
tuổi.
21
Con
cái ông Gít-ha: Cô-rắc, Ne-phéc và Dích-ri.
22
Con
cái ông Út-di-ên: Mi-sa-ên, En-xa-phan và Xít-ri.
23
Ông
A-ha-ron lấy bà Ê-li-se-va làm vợ. Bà là con gái ông Am-mi-na-đáp và là em gái
của ông Nác-sôn. Bà đã sinh được cho ông mấy người con: Na-đáp, A-vi-hu,
E-la-da và I-tha-ma.
24
Con
cái ông Cô-rắc: Át-xia, En-ca-na, A-vi-a-xáp. Ðó là các thị tộc của dòng họ
Cô-rắc.
25
Ông
E-la-da, con ông A-ha-ron, lấy một trong những người con gái của ông Pu-ti-ên
làm vợ. Bà đã sinh được cho ông một người con là Pin-khát.
Ðó
là những người làm đầu các gia tộc Lê-vi, với các thị tộc của họ.
26
Chính
các ông A-ha-ron và Mô-sê đã được nghe Ðức Chúa phán bảo: "Hãy đem con cái
Ít-ra-en ra khỏi đất Ai-cập theo binh ngũ của chúng.” 27 Chính các
ông Mô-sê và A-ha-ron đã nói với Pha-ra-ô, vua Ai-cập, để đem con cái Ít-ra-en
ra khỏi Ai-cập.
Trình
thuật tiếp về việc Thiên Chúa gọi ông Mô-sê
28
Vào
ngày Ðức Chúa phán với ông Mô-sê ở đất Ai-cập, 29 Ðức Chúa phán với
ông Mô-sê: "Ta là Ðức Chúa. Ngươi hãy nói lại với Pha-ra-ô, vua Ai-cập,
tất cả những gì Ta nói với ngươi.” 30 Ông Mô-sê thưa trước nhan Ðức
Chúa: "Chúa coi: con là người ăn nói không được dễ dàng, làm sao vua
Pha-ra-ô nghe con?"
Chương 07
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Coi này, Ta làm cho ngươi nên một vị thần đối
với Pha-ra-ô, còn A-ha-ron, anh ngươi, sẽ là ngôn sứ của ngươi. 2 Chính
ngươi sẽ nói tất cả những gì Ta truyền cho ngươi, và A-ha-ron, anh ngươi, sẽ
nói lại với Pha-ra-ô để vua ấy thả con cái Ít-ra-en ra khỏi nước của vua. 3
Nhưng Ta, Ta sẽ làm cho Pha-ra-ô ra cứng lòng. Ta sẽ tăng thêm nhiều dấu
lạ điềm thiêng tại nước Ai-cập. 4 Pha-ra-ô sẽ không nghe các ngươi
đâu. Ta sẽ ra tay giáng phạt Ai-cập và sẽ dùng uy quyền mà đưa các binh ngũ của
Ta, là dân Ta, con cái Ít-ra-en, ra khỏi nước Ai-cập. 5 Bấy giờ
người Ai-cập sẽ biết rằng Ta là Ðức Chúa, khi Ta giương cánh tay chống lại
người Ai-cập và đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi nước chúng."
6
Ông
Mô-sê và ông A-ha-ron làm như Ðức Chúa đã truyền cho các ông; các ông đã làm
như vậy. 7 Ông Mô-sê được tám mươi tuổi, còn ông A-ha-ron tám mươi
ba, khi các ông đến nói với Pha-ra-ô.
3.
Các Tai Ướng Ở Ai-Cập. Lễ Vượt Qua.
Cây
gậy biến thành con rắn
8
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: 9 "Nếu Pha-ra-ô bảo
các ngươi: Hãy làm một phép lạ xem, thì ngươi hãy nói với A-ha-ron: Anh cầm cây
gậy của anh, ném xuống trước mặt Pha-ra-ô, và gậy sẽ hoá thành một con rắn to.”
10 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron liền đến với Pha-ra-ô và làm như Ðức
Chúa đã truyền. Ông A-ha-ron ném cây gậy của mình xuống trước mặt Pha-ra-ô và
bề tôi của vua: gậy hoá thành một con rắn to. 11 Pha-ra-ô cũng triệu
các hiền sĩ và pháp sư đến; và các phù thủy Ai-cập cũng dùng phù phép của mình
mà làm như vậy: 12 mỗi người ném cây gậy của mình và gậy hoá thành
một con rắn to. Nhưng gậy của ông A-ha-ron nuốt gậy của họ. 13 Dù
vậy, Pha-ra-ô vẫn cứng lòng, không nghe ông Mô-sê và ông A-ha-ron, như Ðức Chúa
đã nói trước.
(1)
Nước biến thành máu
14
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Lòng Pha-ra-ô nặng nề cứng cỏi, vua không chịu
thả cho dân đi. 15 Ngươi hãy đến nói với Pha-ra-ô lúc sáng sớm, khi
nhà vua ra mé nước. Hãy đứng chờ để đón vua ở bên bờ sông Nin. Hãy cầm trong
tay cây gậy đã biến thành rắn. 16 Ngươi sẽ nói với vua ấy: Ðức Chúa,
Thiên Chúa của người Híp-ri, đã sai tôi nói với bệ hạ: Hãy thả dân Ta ra, để
chúng đi thờ phượng Ta trong sa mạc. Nhưng cho đến bây giờ bệ hạ đã không nghe.
17 Ðức Chúa phán thế này: Cứ dấu này các ngươi sẽ biết Ta là Ðức
Chúa. Tôi sẽ dùng cây gậy đang cầm trong tay mà đập nước sông, và nước sẽ hoá
thành máu. 18 Cá dưới sông sẽ chết, sông sẽ ra hôi thối, và người
Ai-cập sẽ không thể uống nước sông được nữa."
19
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy nói với A-ha-ron: Anh cầm lấy gậy của anh và
giơ tay trên mặt nước của Ai-cập, trên các sông ngòi, kinh rạch, hồ ao của nó,
trên tất cả những chỗ có nước, và nước sẽ hoá thành máu; trong cả nước Ai-cập
chỗ nào cũng có máu, trong thùng gỗ cũng như vại đá.” 20 Ông Mô-sê
và ông A-ha-ron làm như Ðức Chúa đã truyền. Ông A-ha-ron giơ gậy lên và đập
nước sông, trước mặt Pha-ra-ô và bề tôi của nhà vua. Tất cả nước sông liền biến
thành máu. 21 Cá dưới sông bị chết, sông ra hôi thối, và người
Ai-cập không thể uống nước sông được nữa; trong cả nước Ai-cập, chỗ nào cũng có
máu.
22
Nhưng
các phù thủy Ai-cập cũng dùng phù phép của mình mà làm như vậy. Lòng Pha-ra-ô
vẫn chai đá, vua không nghe hai ông, như Ðức Chúa đã nói trước. 23 Pha-ra-ô
trở về cung điện và cả đến chuyện đó vua cũng không thèm bận tâm. 24 Tất
cả người Ai-cập đào đất ở gần sông để tìm nước uống, vì không thể uống nước
sông. 25 Bảy ngày đã trôi qua sau khi Ðức Chúa giáng hoạ trên sông
Nin.
(2)
Ếch nhái
26
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đến gặp Pha-ra-ô và nói với vua ấy: Ðức Chúa
phán thế này: Hãy thả dân Ta ra, để họ đi thờ phượng Ta. 27 Nếu
ngươi không chịu thả cho họ đi, thì này Ta sẽ dùng nạn ếch nhái mà đánh phạt
toàn thể lãnh thổ ngươi. 28 Sông Nin sẽ nhung nhúc ếch nhái; chúng
sẽ ngoi lên, nhảy vào cung điện ngươi, vào phòng ngủ của ngươi, nhảy lên giường
ngươi, vào nhà bề tôi của ngươi và nhà dân ngươi, nhảy vào lò, vào cối nhồi bột
của ngươi. 29 Ếch nhái sẽ leo lên thân thể ngươi, thân thể dân ngươi
và mọi bề tôi của ngươi."
Chương 08
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy nói với A-ha-ron: Anh hãy cầm gậy giơ tay
trên sông ngòi và hồ ao, làm cho ếch nhái ngoi lên trên đất Ai-cập.” 2 Ông
A-ha-ron giơ tay trên mặt nước của Ai-cập và ếch nhái ngoi lên, lan tràn khắp
đất Ai-cập. 3 Các phù thủy dùng phù phép của mình cũng làm được như
thế: họ làm cho ếch nhái ngoi lên trên đất Ai-cập.
4
Pha-ra-ô
mới triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và bảo: "Hãy cầu xin Ðức Chúa đuổi
ếch nhái đi xa ta và dân ta, rồi ta sẽ thả dân ra để chúng đi tế lễ Ðức Chúa.” 5
Ông Mô-sê thưa với Pha-ra-ô: "Xin cho tôi được hân hạnh biết khi nào
tôi phải cầu xin cho bệ hạ, cho bề tôi và dân của bệ hạ, để ếch nhái rời khỏi
bệ hạ và cung điện, mà chỉ còn ở lại trong sông Nin.” 6 Vua trả lời:
"Ngày mai." Ông Mô-sê nói: "Sẽ xảy ra như lời bệ hạ xin, để bệ
hạ biết là chẳng có ai bằng Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi. 7 Ếch
nhái sẽ đi xa bệ hạ và cung điện, xa bề tôi và dân của bệ hạ, và sẽ chỉ còn ở
lại trong sông Nin.” 8 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron ra khỏi cung điện
vua Pha-ra-ô. Ông Mô-sê kêu lên Ðức Chúa về nạn ếch nhái Người đã gây ra để hại
Pha-ra-ô. 9 Ðức Chúa đã làm như lời ông Mô-sê xin, và ếch nhái chết
trong nhà, ngoài sân và ngoài đồng. 10 Người ta thu lại từng đống và
cả xứ nặc mùi hôi thối. 11 Thấy tạm yên, lòng Pha-ra-ô lại ra nặng
nề cứng cỏi, vua không nghe lời các ông, như Ðức Chúa đã nói trước.
(3)
Muỗi
12
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy nói với A-ha-ron: Anh hãy giơ gậy lên, rồi
đập xuống bụi dưới đất cho nó biến thành muỗi trong khắp đất Ai-cập.” 13 Hai
ông đã làm như thế: ông A-ha-ron giơ tay cầm gậy lên, rồi đập xuống bụi dưới
đất; liền có muỗi trên thân thể người ta và thú vật; tất cả bụi dưới đất biến
thành muỗi trong khắp đất Ai-cập. 14 Các phù thủy dùng phù phép của
mình cũng làm như thế để bắt muỗi phải ra khỏi đất Ai-cập, nhưng không được.
Muỗi cứ ở lại trên thân thể người ta và thú vật. 15 Các phù thủy
thưa với Pha-ra-ô: "Ðó là ngón tay của Thiên Chúa!" Nhưng lòng
Pha-ra-ô vẫn chai đá và vua không nghe hai ông, như Ðức Chúa đã nói trước.
(4)
Ruồi nhặng
16
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Sáng mai, hãy dậy sớm và đến đứng trước mặt
Pha-ra-ô; này vua ấy sẽ ra mé nước. Ngươi sẽ nói với vua: Ðức Chúa phán thế
này: Hãy thả dân Ta ra, để chúng đi thờ phượng Ta. 17 Nếu ngươi không
thả cho dân Ta đi, thì này Ta sẽ thả ruồi nhặng xuống trên ngươi và bề tôi
ngươi, trên dân và cung điện của ngươi. Nhà cửa Ai-cập sẽ đầy ruồi nhặng, ngay
cả đất đai nơi chúng ở cũng thế. 18 Nhưng trong ngày ấy, Ta sẽ chừa
ra đất Gô-sen là nơi dân Ta đang ở, để nơi đó không có ruồi nhặng, và để ngươi
biết rằng Ta là Ðức Chúa, Ta ngự giữa đất này. 19 Ta sẽ phân biệt
dân của Ta với dân của ngươi, nội ngày mai sẽ có dấu lạ đó.” 20 Và
Ðức Chúa đã làm như thế: một đám ruồi nhặng đen nghịt kéo vào cung điện Pha-ra-ô,
vào nhà cửa bề tôi của vua và toàn cõi đất Ai-cập; cả đất ấy bị ruồi nhặng tàn
phá.
21
Pha-ra-ô
liền triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và bảo: "Các ngươi cứ việc đi tế
lễ Thiên Chúa của các ngươi ngay trong đất này!” 22 Ông Mô-sê trả
lời: "Không nên làm như thế: những gì chúng tôi tế dâng Ðức Chúa, Thiên
Chúa chúng tôi, đều ghê tởm đối với người Ai-cập. Vậy nếu chúng tôi tế dâng
trước mắt người Ai-cập những gì là ghê tởm trước mắt họ, thì làm sao họ lại
không ném đá chúng tôi được? 23 Chúng tôi sẽ đi ba ngày đường để vào sa mạc tế
lễ Ðức Chúa là Thiên Chúa của chúng tôi, như Người phán với chúng tôi.” 24
Pha-ra-ô nói: "Ta, ta sẽ thả các ngươi ra, để các ngươi đi tế lễ Ðức
Chúa là Thiên Chúa của các ngươi, trong sa mạc; chỉ có điều là không được đi xa
quá. Các ngươi hãy cầu cho ta.” 25 Ông Mô-sê thưa: "Khi ra khỏi
nơi đây, tôi sẽ cầu Ðức Chúa. Ngày mai, ruồi nhặng sẽ rời khỏi bệ hạ, khỏi bề
tôi và dân của bệ hạ. Có điều là xin bệ hạ đừng phỉnh gạt hoài, không chịu thả
dân ra để họ đi tế lễ Ðức Chúa.” 26 Ông Mô-sê ra khỏi cung điện
Pha-ra-ô và khẩn cầu Ðức Chúa. 27 Ðức Chúa đã làm theo lời ông Mô-sê
xin: Người khiến ruồi nhặng rời khỏi Pha-ra-ô, khỏi bề tôi và dân của vua,
không sót lại con nào. 28 Nhưng cả lần này nữa, lòng Pha-ra-ô vẫn
nặng nề cứng cỏi; vua không thả cho dân đi.
Chương 09
(5)
Ôn dịch
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đến với Pha-ra-ô và nói với vua: Ðức Chúa,
Thiên Chúa của người Híp-ri, phán thế này: Hãy thả dân Ta ra, để chúng đi thờ
phượng Ta. 2 Nếu ngươi không chịu thả cho chúng đi, mà cứ cầm giữ
lại, 3 thì này tay của Ðức Chúa sẽ giáng ôn dịch rất nặng xuống trên
súc vật của ngươi ở ngoài đồng, trên ngựa, lừa, lạc đà, bò bê và chiên cừu. 4
Ðức Chúa sẽ đối xử với súc vật của Ít-ra-en khác súc vật của Ai-cập, và
không có gì thuộc về con cái Ít-ra-en sẽ phải chết.” 5 Và Ðức Chúa
ấn định thời gian, Người phán: "Ngày mai, Ðức Chúa sẽ làm điều ấy trong
xứ.” 6 Ngay hôm sau, Ðức Chúa làm điều ấy: tất cả súc vật của người
Ai-cập đều chết, còn trong đàn súc vật của con cái Ít-ra-en, thì không con nào
chết cả. 7 Pha-ra-ô sai người đi xem, thì này trong đàn súc vật của
Ít-ra-en, không con nào chết cả. Nhưng lòng Pha-ra-ô đã ra nặng nề cứng cỏi;
vua không thả cho dân đi.
(6)
Ung nhọt
8
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: "Hãy bốc hai nắm mồ hóng trong
lò, rồi Mô-sê hãy tung lên trời trước mắt Pha-ra-ô. 9 Mồ hóng đó sẽ
biến thành bụi trên khắp đất Ai-cập; trên khắp đất Ai-cập, nơi thân thể người
ta và thú vật, sẽ có ung nhọt mọc lên và mưng mủ.” 10 Các ông lấy mồ
hóng trong lò, rồi đến đứng trước mặt Pha-ra-ô. Ông Mô-sê tung lên trời và mồ
hóng biến thành ung nhọt rồi mưng mủ nơi thân thể người ta và thú vật. 11 Các
phù thủy không đứng nổi trước mặt ông Mô-sê được, vì ung nhọt mọc đầy mình các
phù thủy cũng như mọi người Ai-cập. 12 Nhưng Ðức Chúa làm cho lòng
Pha-ra-ô ra chai đá, nên vua ấy không nghe lời các ông như Ðức Chúa đã nói
trước với ông Mô-sê.
(7)
Mưa đá
13
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Sáng mai, ngươi hãy dậy sớm, và đến đứng trước
mặt Pha-ra-ô. Ngươi sẽ nói với vua ấy: Ðức Chúa, Thiên Chúa của người Híp-ri,
phán thế này: Hãy thả dân Ta ra để chúng đi thờ phượng Ta. 14 Vì lần
này chính Ta sẽ giáng mọi tai ương xuống trên ngươi, trên bề tôi và dân ngươi,
để ngươi biết rằng trên khắp mặt đất không có ai bằng Ta. 15 Nếu bây
giờ Ta ra tay, dùng dịch hạch mà đánh phạt ngươi và dân ngươi, thì dân ngươi sẽ
biến khỏi mặt đất. 16 Nhưng sở dĩ Ta còn cho ngươi sống, là để ngươi
nhìn thấy sức mạnh của Ta, và để thiên hạ loan truyền danh Ta trên khắp mặt đất.
17 Nếu ngươi cứ chống lại dân Ta, không thả cho chúng đi, 18 thì
đây, ngày mai, vào giờ này, Ta sẽ cho mưa đá rất nặng, như chưa từng có ở
Ai-cập từ ngày dựng nước cho đến bây giờ. 19 Vậy ngay bây giờ, ngươi
hãy sai người dẫn vào nơi trú ẩn: súc vật của ngươi và tất cả những gì thuộc về
ngươi đang ở ngoài đồng. Bất cứ người hay thú vật nào ở ngoài đồng mà không đem
vào nhà, thì mưa đá rơi xuống, người ấy, vật ấy sẽ chết.” 20 Trong
số các bề tôi của Pha-ra-ô, ai kính sợ lời Ðức Chúa thì đưa tôi tớ và súc vật
vào nhà để trú ẩn; 21 còn kẻ không quan tâm đến lời Ðức Chúa, thì để
tôi tớ và súc vật ở lại ngoài đồng.
22
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy giơ tay lên trời và làm cho mưa đá rơi xuống
trên khắp đất Ai-cập, trên người ta, trên thú vật và mọi cỏ cây ngoài đồng tại
đất Ai-cập.” 23 Ông Mô-sê giơ gậy lên trời, và Ðức Chúa làm cho sấm
vang lên và mưa đá rơi xuống; sét đánh xuống mặt đất, và Ðức Chúa làm cho mưa
đá rơi xuống trên đất Ai-cập. 24 Ðã có mưa đá và lửa loé ra giữa mưa
đá; mưa đá rất nặng, như chưa từng có trên khắp đất Ai-cập, kể từ khi chúng
thành một dân. 25 Trên khắp đất Ai-cập, mưa đá đã tàn phá tất cả
những gì đang ở ngoài đồng, từ người cho đến thú vật; mưa đá cũng tàn phá mọi
cỏ cây ngoài đồng và bẻ gãy mọi cây cối ngoài đồng. 26 Chỉ có đất
Gô-sen, nơi con cái Ít-ra-en ở, là không có mưa đá.
27
Pha-ra-ô
sai người triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và nói với các ông: "Lần
này, chính ta có tội. Ðức Chúa là Ðấng công chính, còn ta và dân ta đều lầm lỗi.
28 Hãy khẩn cầu Ðức Chúa đi! Sấm sét và mưa đá như thế đủ rồi! Ta sẽ
thả các ngươi ra và các ngươi sẽ không còn phải ở lại lâu hơn nữa.” 29 Ông
Mô-sê nói với vua: "Khi ra khỏi thành, tôi sẽ giơ tay lên khẩn cầu Ðức
Chúa. Sấm sẽ ngưng và mưa đá sẽ tạnh, để bệ hạ biết là cõi đất thuộc về Ðức
Chúa. 30 Nhưng tôi biết rằng cả bệ hạ lẫn bề tôi của bệ hạ vẫn chưa
kính sợ Ðức Chúa là Thiên Chúa.” 31 Cây gai, lúa mạch bị tàn phá, vì
lúa mạch đã lên gié, cây gai đã trổ bông. 32 Còn lúa mì, lúa miến
không bị tàn phá vì mọc muộn hơn.
33
Ông
Mô-sê ra khỏi cung điện Pha-ra-ô và rời bỏ thành. Ông giơ tay lên khẩn cầu Ðức
Chúa; sấm và mưa đá ngưng, còn mưa cũng đã tạnh trên mặt đất. 34 Pha-ra-ô
thấy mưa đã tạnh và mưa đá cũng như sấm đã ngưng, thì lại phạm tội: lòng vua và
lòng bề tôi của vua lại ra nặng nề cứng cỏi. 35 Lòng Pha-ra-ô vẫn
chai đá và vua không thả cho con cái Ít-ra-en đi, như Ðức Chúa đã dùng ông
Mô-sê mà nói trước.
Chương 10
(8)
Châu chấu
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đến với Pha-ra-ô, vì chính Ta đã làm cho
lòng vua ấy và lòng bề tôi của vua ấy ra nặng nề cứng cỏi, để Ta thực hiện các
dấu lạ này giữa dân, 2 và để ngươi thuật lại cho con cháu ngươi nghe
Ta đã giáng hoạ xuống Ai-cập làm sao, và Ta đã thực hiện những dấu lạ nào giữa
họ, khiến các ngươi biết Ta đây là Ðức Chúa.” 3 Ông Mô-sê và ông
A-ha-ron đến với Pha-ra-ô và nói với vua: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của người
Híp-ri, phán thế này: cho đến bao giờ ngươi vẫn không chịu hạ mình xuống trước
nhan Ta? Hãy thả dân Ta ra, để chúng đi thờ phượng Ta. 4 Nếu ngươi
không chịu thả cho dân Ta đi, thì đây ngày mai Ta sẽ cho châu chấu vào lãnh thổ
ngươi. 5 Chúng sẽ che kín cả mặt đất, khiến người ta không thể thấy
mặt đất nữa. Chúng sẽ ăn sạch những gì còn lại sau khi thoát tai ương, những gì
trận mưa đá còn để sót lại cho các ngươi: chúng sẽ ăn sạch mọi cây cối của các
ngươi mọc ngoài đồng. 6 Cung điện của ngươi, nhà của mọi bề tôi
ngươi, nhà của mọi người Ai-cập sẽ tràn ngập châu chấu; đó là điều mà cha ông
ngươi, cũng như cha ông của cha ông ngươi chưa từng thấy từ ngày có họ trên mặt
đất cho đến ngày hôm nay." Rồi ông Mô-sê quay gót, ra khỏi cung điện
Pha-ra-ô. 7 Bề tôi Pha-ra-ô thưa với vua: "Tên ấy còn gieo hoạ
cho chúng ta đến bao giờ nữa đây? Xin bệ hạ thả bọn người ấy ra, để họ đi thờ
phượng Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ. Bệ hạ chưa biết Ai-cập đang đi tới chỗ diệt
vong hay sao?"
8
Người
ta bảo ông Mô-sê và ông A-ha-ron trở lại với Pha-ra-ô, và vua nói với các ông:
"Các ngươi hãy đi thờ phượng Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi. Nhưng ai
sẽ đi?” 9 Ông Mô-sê trả lời: "Chúng tôi sẽ cùng đi với người
trẻ, người già, chúng tôi sẽ cùng đi với con trai, con gái chúng tôi, với chiên
cừu, bò bê của chúng tôi, bởi vì đối với chúng tôi, đây là một lễ kính Ðức
Chúa.” 10 Vua nói với các ông: "Thì Ðức Chúa cứ việc ở với các
ngươi, xem ta có thả các ngươi và con cái các ngươi đi không! Các ngươi coi:
các ngươi có những ý định xấu xa! 11 Không như thế được đâu! Bọn đàn ông các
ngươi hãy đi mà thờ phượng Ðức Chúa, vì đó chính là điều các ngươi yêu
cầu." Rồi người ta đuổi các ông đi cho khuất mắt Pha-ra-ô.
12
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy giơ tay lên trên đất Ai-cập cho châu chấu
kéo đến: chúng sẽ bay lên trên đất Ai-cập mà ăn sạch cỏ cây trong xứ, tất cả
những gì trận mưa đá còn để sót lại.” 13 Ông Mô-sê giơ gậy lên trên
đất Ai-cập, và Ðức Chúa cho một luồng gió đông thổi vào đất này suốt ngày hôm
đó và suốt đêm; đến sáng, thì gió đông đã đưa châu chấu vào rồi.
14
Châu
chấu bay lên trên khắp đất Ai-cập; chúng đậu trên khắp cả lãnh thổ Ai-cập, đông
vô kể. Trước kia chưa bao giờ có nhiều châu chấu như thế, và sau này cũng chẳng
có như vậy. 15 Chúng che kín cả mặt đất, làm đen nghịt cả mặt đất.
Châu chấu ăn sạch cỏ cây trong xứ và mọi trái cây mà mưa đá còn để sót lại;
không còn một chút xanh tươi nào trên cây, trên cỏ ngoài đồng, trong khắp đất
Ai-cập.
16
Pha-ra-ô
vội triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và nói: "Ta đắc tội với Ðức Chúa,
Thiên Chúa của các ngươi, và với các ngươi. 17 Vậy giờ đây, xin xá
tội cho ta lần này nữa thôi, và hãy khẩn nài Ðức Chúa, Thiên Chúa của các
ngươi, ít ra là đẩy xa ta cái tai hoạ chết người này.” 18 Ông Mô-sê
ra khỏi cung điện Pha-ra-ô và khẩn nài Ðức Chúa. 19 Ðức Chúa cho gió
biển nổi lên rất mạnh, cuốn châu chấu đi và đẩy xuống Biển Sậy; không còn sót
một con châu chấu nào trên toàn lãnh thổ Ai-cập nữa. 20 Nhưng Ðức
Chúa làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá, và vua không thả cho con cái Ít-ra-en
đi.
(9)
Cảnh tối tăm
21
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy giơ tay lên trời, cho bóng tối bao trùm đất
Ai-cập, bóng tối như sờ thấy được.” 22 Ông Mô-sê giơ tay lên trời,
và bóng tối dày đặc bao trùm cả đất Ai-cập trong ba ngày. 23 Trong
ba ngày, người ta không nhìn thấy nhau và không ai rời chỗ mình được. Nhưng tất
cả con cái Ít-ra-en đều có ánh sáng tại nơi họ ở.
24
Pha-ra-ô
triệu ông Mô-sê đến và bảo: "Các ngươi hãy đi thờ phượng Ðức Chúa; chỉ có
chiên cừu, bò dê của các ngươi phải ở lại, còn trẻ con có thể cùng đi với các
ngươi.” 25 Ông Mô-sê nói: "Vậy xin bệ hạ cấp cho chúng tôi
những tế phẩm và của lễ toàn thiêu để chúng tôi dâng lên Ðức Chúa, Thiên Chúa
chúng tôi. 26 Cả những đàn súc vật của chúng tôi cũng sẽ đi với
chúng tôi, không để sót lại một móng chân nào, vì chúng tôi phải lấy một số
trong những con vật đó mà dùng vào việc thờ phượng Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng
tôi. Chính chúng tôi cũng không biết phải dâng gì cho Ðức Chúa, bao lâu chưa
đến đó."
27
Nhưng
Ðức Chúa làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá và vua không chịu thả cho họ đi. 28
Pha-ra-ô nói với ông Mô-sê: "Ra khỏi đây! Liệu hồn, đừng có đến
trước mặt ta nữa, vì ngày nào ngươi đến trước mặt ta thì ngươi sẽ phải chết!” 29
Ông Mô-sê đáp: "Ðúng như bệ hạ nói! Tôi sẽ không bao giờ đến trước
mặt bệ hạ nữa!"
Chương 11
Báo
tin các con đầu lòng sẽ phải chết
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ta sẽ giáng một tai ương nữa xuống Pha-ra-ô và
Ai-cập. Sau đó, vua ấy sẽ thả các ngươi ra khỏi đây. Hơn nữa, thay vì thả các
ngươi, vua ấy lại còn đuổi hẳn các ngươi đi là đàng khác. 2 Vậy
ngươi hãy nói cho dân nghe: Ðàn ông thì hỏi anh hàng xóm, đàn bà thì hỏi chị
láng giềng, lấy những đồ bạc và đồ vàng.” 3 Ðức Chúa cho dân được
cảm tình của người Ai-cập. Hơn nữa, trong đất Ai-cập, chính ông Mô-sê là một
nhân vật rất quan trọng đối với các bề tôi của Pha-ra-ô và đối với dân.
4
Ông
Mô-sê nói: "Ðức Chúa phán thế này: vào quãng nửa đêm, Ta sẽ rảo khắp
Ai-cập. 5 Mọi con đầu lòng trong đất Ai-cập sẽ phải chết, từ con đầu
lòng của vị Pha-ra-ô đang ngồi trên ngai báu, đến con đầu lòng của đứa đầy tớ
gái ngồi sau cối xay, đến mọi con đầu lòng của loài vật. 6 Trong
khắp đất Ai-cập, sẽ vang lên tiếng kêu la như chưa từng có và không bao giờ có
nữa. 7 Còn nơi mọi con cái Ít-ra-en, sẽ không có một con chó nào sủa,
dù sủa người hay sủa thú vật; như thế, các ngươi sẽ biết rằng Ðức Chúa phân
biệt Ít-ra-en với Ai-cập. 8 Bấy giờ tất cả các bề tôi của bệ hạ sẽ
xuống tìm tôi, phục xuống lạy tôi và thưa: xin ông và toàn dân theo ông ra khỏi
nước cho. Sau đó tôi sẽ đi ra." Ông Mô-sê nổi giận bừng bừng, ra khỏi cung
điện Pha-ra-ô.
9
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Pha-ra-ô sẽ không nghe các ngươi, là để Ta làm
thêm nhiều phép lạ trong đất Ai-cập.” 10 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron
làm mọi phép lạ đó trước mặt Pha-ra-ô; nhưng Ðức Chúa làm cho lòng Pha-ra-ô ra
chai đá, và vua không thả con cái Ít-ra-en ra khỏi đất ấy.
Chương 12
Lễ
Vượt Qua
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron trên đất Ai-cập: 2 "Tháng
này, các ngươi phải kể là tháng đứng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm. 3
Hãy nói với toàn thể cộng đồng Ít-ra-en: Mồng mười tháng này, ai nấy phải
bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con. 4 Nếu nhà ít
người, không ăn hết một con, thì chung với người hàng xóm gần nhà mình nhất,
tuỳ theo số người. Các ngươi sẽ tuỳ theo sức mỗi người ăn được bao nhiêu mà
chọn con chiên. 5 Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không
quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được. 6 Phải nhốt nó
cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem
sát tế vào lúc xế chiều, 7 lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn
thịt chiên. 8 Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh
không men và rau đắng. 9 Các ngươi không được ăn sống hay luộc,
nhưng chỉ được ăn nướng, với cả đầu, chân và lòng. 10 Không được để
lại gì đến sáng; cái gì còn lại đến sáng, phải đốt đi. 11 Các ngươi
phải ăn thế này: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Các ngươi phải ăn vội
vã: đó là lễ Vượt Qua mừng Ðức Chúa. 12 Ðêm ấy Ta sẽ rảo khắp đất
Ai-cập, sẽ sát hại các con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ loài người cho đến
loài thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai-cập: vì Ta là Ðức Chúa. 13 Còn
vết máu trên nhà các ngươi sẽ là dấu hiệu cho biết có các ngươi ở đó. Thấy máu,
Ta sẽ vượt qua, và các ngươi sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Ta giáng hoạ
trên đất Ai-cập. 14 Các ngươi phải lấy ngày đó làm ngày tưởng niệm,
ngày đại lễ mừng Ðức Chúa. Qua mọi thế hệ, các ngươi phải mừng ngày lễ này: đó
là luật quy định cho đến muôn đời.
Lễ
Bánh Không Men
15
"Trong
bảy ngày, các ngươi phải ăn Bánh Không Men. Ngay từ ngày thứ nhất, các ngươi
phải loại men ra khỏi nhà, vì phàm ai ăn bánh có men, từ ngày thứ nhất đến ngày
thứ bảy, người đó sẽ bị khai trừ khỏi Ít-ra-en. 16 Ngày thứ nhất,
các ngươi phải họp nhau thờ phượng Ta, ngày thứ bảy cũng họp nhau thờ phượng
Ta. Những ngày đó không được làm công việc nào cả, chỉ được dọn bữa cho ai nấy
ăn mà thôi. 17 Các ngươi sẽ giữ tục lệ mừng lễ Bánh Không Men, vì
vào chính ngày đó, Ta đã đưa các đạo binh của các ngươi ra khỏi đất Ai-cập. Qua
mọi thế hệ, các ngươi phải giữ tục lệ mừng ngày lễ ấy: đó là điều luật vĩnh
viễn. 18 Tháng Giêng, ngày mười bốn trong tháng, từ buổi chiều, các
ngươi sẽ ăn bánh không men, cho đến buổi chiều ngày hai mươi mốt. 19 Trong
bảy ngày, không được giữ men trong nhà các ngươi, vì phàm ai ăn bánh có men,
người đó sẽ bị khai trừ khỏi cộng đoàn Ít-ra-en, bất luận là ngoại kiều hay
người bản xứ. 20 Các ngươi không được ăn các thứ bánh có men; dù ở
đâu, các ngươi cũng phải ăn bánh không men."
Chỉ
thị về lễ Vượt Qua
21
Ông
Mô-sê triệu tập tất cả các kỳ mục Ít-ra-en và nói với họ: "Hãy đi bắt
chiên cừu về cho gia đình anh em, và sát tế làm lễ Vượt Qua. 22 Anh
em sẽ lấy một bó hương thảo, nhúng vào máu trong chậu và lấy máu từ trong chậu
bôi lên khung cửa; và không ai trong anh em sẽ ra khỏi cửa nhà mình cho đến
sáng. 23 Ðức Chúa sẽ rảo khắp Ai-cập để đánh phạt, và khi thấy máu
trên khung cửa, Ðức Chúa sẽ vượt qua trước cửa và không để cho Thần Tru Diệt
vào nhà anh em mà đánh phạt. 24 Anh em phải giữ điều đó như điều
luật vĩnh viễn cho mình và cho con cháu. 25 Khi được vào đất mà Ðức
Chúa ban cho anh em như Người đã phán, anh em sẽ giữ nghi lễ đó. 26 Khi
con cháu anh em hỏi anh em: "Nghi lễ này có ý nghĩa gì đối với quý vị?, 27
anh em sẽ trả lời: Ðó là lễ tế Vượt Qua mừng Ðức Chúa, Ðấng đã vượt qua
các nhà của con cái Ít-ra-en tại Ai-cập, khi Người đánh phạt Ai-cập và cho các
nhà chúng ta thoát nạn." Dân quỳ xuống và phủ phục. 28 Con cái
Ít-ra-en ra đi và làm y như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê và ông A-ha-ron.
Tai
ương thứ mười: các con đầu lòng bị giết
29
Vào
nửa đêm, Ðức Chúa sát hại mọi con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ con đầu lòng
của vị Pha-ra-ô đang ngồi trên ngai báu, đến con đầu lòng của người tù đang ở
trong ngục và mọi con đầu lòng của loài vật. 30 Ðêm ấy, Pha-ra-ô
thức dậy, cùng với tất cả bề tôi và mọi người Ai-cập, và tại Ai-cập vang lên
tiếng kêu la, vì không có nhà nào mà không có người chết. 31 Ðang
đêm nhà vua triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và bảo: "Cả các ngươi lẫn
con cái Ít-ra-en, đứng lên, đi ra, không được ở giữa dân ta nữa! Ði mà thờ
phượng Ðức Chúa như các ngươi đã nói! 32 Cả chiên cừu, bò bê của các ngươi,
cũng hãy đem đi như các ngươi đã nói. Ði đi và cầu phúc cho cả ta nữa.” 33
Người Ai-cập hối thúc con cái Ít-ra-en và vội vàng thả cho họ ra khỏi
nước, vì chúng nói: "Chúng ta chết cả lũ đến nơi rồi!” 34 Dân
phải mang theo bột đã nhào chưa kịp dậy men; họ cuộn bột đã nhào trong thùng
vào áo choàng, rồi vác lên vai.
Tước
đoạt của cải người Ai-cập
35
Con
cái Ít-ra-en đã làm theo lời ông Mô-sê; họ đã xin người Ai-cập những đồ bạc, đồ
vàng và áo xống. 36 Ðức Chúa cho dân được cảm tình của người Ai-cập,
chúng làm như lời họ xin, và họ đã tước đoạt của cải người Ai-cập.
Dân
Ít-ra-en ra đi
37
Con
cái Ít-ra-en nhổ trại rời Ram-xết đi Xúc-cốt, có khoảng sáu trăm ngàn bộ hành,
chỉ kể đàn ông không kể trẻ con. 38 Cả một đám đông hỗn tạp cùng lên
với họ, mang theo chiên cừu, bò dê, họp thành một đàn súc vật đông đảo. 39
Họ lấy bột đã nhào đưa từ Ai-cập ra mà nướng thành bánh không men, vì bột
chưa dậy men; họ bị trục xuất khỏi Ai-cập, không được chậm trễ, nên ngay cả
lương thực cũng không kịp chuẩn bị. 40 Thời gian con cái Ít-ra-en ở
Ai-cập là bốn trăm ba mươi năm. 41 Vào đúng ngày chấm dứt bốn trăm
ba mươi năm đó, toàn thể các đạo binh của Ðức Chúa đã ra khỏi đất Ai-cập. 42
Ðó là đêm Ðức Chúa canh thức để đưa họ ra khỏi đất Ai-cập; đêm đó thuộc
về Ðức Chúa, đêm canh thức của toàn thể con cái Ít-ra-en, qua mọi thế hệ.
Chỉ
thị về lễ Vượt Qua
43
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: "Ðây là quy định về chiên lễ Vượt
Qua: không người dân ngoại nào được ăn. 44 Mọi nô lệ mua bằng tiền
đã được ngươi cắt bì, thì được ăn. 45 Khách vãng lai và người làm
thuê không được ăn. 46 Chỉ được ăn chiên trong nhà mà thôi; không
được mang thịt ra khỏi nhà. Các ngươi không được làm gãy một chiếc xương nào
của nó. 47 Toàn thể cộng đồng Ít-ra-en sẽ mừng lễ Vượt Qua. 48 Nếu
có ngoại kiều ở với ngươi mà muốn cử hành lễ Vượt Qua kính Ðức Chúa, thì mọi
đàn ông con trai nhà ấy phải chịu cắt bì. Bấy giờ nó mới được đến gần để mừng
lễ, nó sẽ như người bản xứ; nhưng ai không cắt bì thì không được ăn. 49 Luật
đó là luật chung cho người bản xứ và ngoại kiều sống giữa ngươi.” 50 Mọi
con cái Ít-ra-en đã làm y như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê và ông A-ha-ron.
51 Chính ngày ấy Ðức Chúa đã đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập,
theo binh ngũ của chúng.
Chương 13
Các
con đầu lòng
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so,
mọi con đầu lòng trong số con cái Ít-ra-en, dù là người hay là thú vật: nó
thuộc về Ta."
Bánh
không men
3
Ông
Mô-sê nói với dân: "Hãy ghi nhớ ngày hôm nay là ngày anh em ra khỏi
Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ, vì Ðức Chúa đã dùng cánh tay mạnh mẽ của Người mà đưa
anh em ra khỏi đó. Anh em không được ăn bánh có men. 4 Ngày anh em
ra đi là một ngày trong tháng A-víp. 5 Khi nào Ðức Chúa đưa ngươi
vào đất của người Ca-na-an, Khết, E-mô-ri, Khi-vi và Giơ-vút, đất tràn trề sữa
và mật, mà Người đã thề với cha ông ngươi là sẽ ban cho ngươi, ngươi sẽ cử hành
nghi thức đó vào tháng này. 6 Trong vòng bảy ngày, ngươi sẽ ăn bánh
không men, và ngày thứ bảy là lễ kính Ðức Chúa. 7 Phải ăn bánh không
men trong vòng bảy ngày; không được thấy bánh có men trong nhà ngươi và cũng
không được thấy men trong nhà ngươi, trên toàn lãnh thổ ngươi. 8 Trong
ngày ấy, ngươi sẽ kể lại cho con của ngươi rằng: Sở dĩ như vậy là vì những gì
Ðức Chúa đã làm cho cha khi cha ra khỏi Ai-cập. 9 Ngươi sẽ coi đó
như là dấu ở tay ngươi, là kỷ vật đeo trên trán, để cho Luật của Ðức Chúa ở
trên môi miệng ngươi, bởi vì Ðức Chúa đã dùng cánh tay mạnh mẽ mà đưa ngươi ra
khỏi Ai-cập. 10 Từ năm này qua năm khác, ngươi phải giữ thánh chỉ
này vào đúng thời kỳ của nó.
Các
con đầu lòng
11
"Vậy
khi Ðức Chúa đã đưa ngươi vào đất Ca-na-an như Người đã thề với ngươi và cha
ông của ngươi, và khi Người đã ban đất ấy cho ngươi, 12 thì ngươi
phải nhượng lại cho Ðức Chúa mọi con đầu lòng của loài người và mọi con đầu
lòng của loài vật trong đàn vật của ngươi: các con đực thuộc về Ðức Chúa. 13
Mọi con đầu lòng của giống lừa, ngươi sẽ lấy một con chiên mà chuộc lại;
nếu ngươi không chuộc lại, thì đánh gãy ót nó đi. Còn mọi con đầu lòng của loài
người trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại. 14 Vậy mai
ngày con của ngươi có hỏi: "Ðiều đó nghĩa là gì? Thì ngươi sẽ nói với nó:
"Ðức Chúa đã dùng cánh tay mạnh mẽ của Người mà đưa chúng ta ra khỏi
Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. 15 Bởi vì Pha-ra-ô làm khó dễ khi phải thả
chúng ta ra, nên Ðức Chúa đã sát hại mọi con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ con
đầu lòng của loài người cho đến con đầu lòng của loài vật, vì thế mà cha tế
dâng Ðức Chúa mọi con so giống đực; còn con đầu lòng trong số con cái cha, thì
cha chuộc lại.16 Ðó sẽ là dấu ở tay ngươi, và là phù hiệu trên trán ngươi, vì
Ðức Chúa đã dùng cánh tay mạnh mẽ mà đưa chúng ta ra khỏi Ai-cập."
4.
Ra Khỏi Ai-Cập
Dân
Ít-ra-en ra đi
17
Khi
Pha-ra-ô thả cho dân đi, Thiên Chúa không dẫn họ theo ngả đường xuyên qua xứ
Phi-li-tinh, dù đường đó gần hơn, vì Thiên Chúa nói: "Khi thấy phải chiến
đấu, dân có thể hối hận mà quay về Ai-cập.” 18 Vậy Thiên Chúa đưa
dân đi vòng, qua ngả đường sa mạc Biển Sậy. Con cái Ít-ra-en võ trang đầy đủ từ
đất Ai-cập đi lên. 19 Ông Mô-sê đem theo hài cốt ông Giu-se, vì ông
Giu-se đã bắt con cái Ít-ra-en thề khi ông nói: "Thế nào Thiên Chúa cũng
sẽ thăm viếng anh em; bấy giờ anh em sẽ đưa hài cốt tôi từ đây lên với anh
em."
20
Họ
nhổ trại rời Xúc-cốt tới đóng trại ở Ê-tham, ven sa mạc.
21
Ðức
Chúa đi đằng trước họ: ban ngày thì ở trong cột mây để dẫn đường, ban đêm thì ở
trong cột lửa để soi sáng, nên họ có thể đi cả ban ngày lẫn ban đêm. 22 Ban
ngày cột mây đi trước dân không rời, ban đêm cột lửa cũng vậy.
Chương 14
Từ
Ê-tham đến Biển Ðỏ
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Ngươi hãy bảo con cái Ít-ra-en quay
lại đóng trại đối diện với Pi Ha-khi-rốt, giữa Mích-đôn và biển, đối diện với
Ba-an Xơ-phôn; các ngươi sẽ đóng trại ngay đằng trước đó, bên bờ biển. 3 Bấy
giờ Pha-ra-ô sẽ nói về con cái Ít-ra-en: "Chúng đi luẩn quẩn trong vùng,
sa mạc nhốt chúng lại rồi. 4 Ta sẽ làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá
và vua ấy sẽ đuổi theo dân. Nhưng Ta sẽ được vẻ vang hiển hách vì đã đánh bại
Pha-ra-ô cùng toàn thể quân lực của vua ấy, và người Ai-cập sẽ biết Ta là Ðức
Chúa." Con cái Ít-ra-en đã làm như vậy.
Người
Ai-cập đuổi theo dân Ít-ra-en
5
Có
tin báo cho vua Ai-cập là dân đã chạy trốn rồi. Pha-ra-ô và bề tôi liền thay
lòng đổi dạ với dân. Chúng nói: "Ta đã làm gì vậy? Ta đã thả cho Ít-ra-en
đi, thành ra bọn chúng hết làm nô lệ cho ta!” 6 Nhà vua cho thắng
chiến xa và đem quân đi theo. 7 Vua lấy sáu trăm chiến xa tốt nhất,
và tất cả các chiến xa của Ai-cập, chiếc nào cũng có chiến binh. 8 Ðức
Chúa làm cho lòng Pha-ra-ô vua Ai-cập ra chai đá, và vua ấy đuổi theo con cái
Ít-ra-en, trong khi con cái Ít-ra-en đi ra, giơ tay đắc thắng. 9 Quân
Ai-cập, gồm toàn thể chiến mã, chiến xa của Pha-ra-ô, kỵ binh và quân lực của
vua ấy, đuổi theo và bắt kịp họ, khi họ đóng trại bên bờ biển, gần Pi
Ha-khi-rốt, đối diện với Ba-an Xơ-phôn. 10 Khi Pha-ra-ô tới gần, con
cái Ít-ra-en ngước mắt lên thì thấy người Ai-cập tiến đến sau lưng họ. Con cái
Ít-ra-en kinh hãi, liền lớn tiếng kêu cầu Ðức Chúa. 11 Họ nói với
ông Mô-sê: "Bên Ai-cập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng
tôi vào chết trong sa mạc? Ông làm gì chúng tôi vậy, khi ông đưa chúng tôi ra
khỏi Ai-cập? 12 Ðó chẳng phải là điều chúng tôi từng nói với ông bên Ai-cập
sao? Chúng tôi đã bảo: Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Ai-cập! Thà làm nô lệ
Ai-cập còn hơn chết trong sa mạc!” 13 Ông Mô-sê nói với dân:
"Ðừng sợ! Cứ đứng vững, rồi anh em sẽ thấy việc Ðức Chúa làm hôm nay để
cứu thoát anh em: những người Ai-cập anh em thấy hôm nay, không bao giờ anh em
thấy lại nữa. 14 Ðức Chúa sẽ chiến đấu cho anh em. Anh em chỉ có
việc ngồi yên."
Phép
lạ tại Biển Ðỏ
15
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Có gì mà phải kêu cứu Ta? Hãy bảo con cái
Ít-ra-en cứ nhổ trại. 16 Phần ngươi, cầm gậy lên, giơ tay trên mặt
biển, rẽ nước ra cho có lối đi khô ráo ngay giữa lòng biển, để con cái Ít-ra-en
đi vào. 17 Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập ra chai đá. Chúng
sẽ tiến vào theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ được vẻ vang hiển hách khi đánh
bại Pha-ra-ô cùng toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy. 18 Người
Ai-cập sẽ biết rằng chính Ta là Ðức Chúa, khi Ta được vẻ vang hiển hách vì đã
đánh bại Pha-ra-ô cùng chiến xa và kỵ binh của vua ấy."
19
Thiên
sứ của Thiên Chúa đang đi trước hàng ngũ Ít-ra-en, lại rời chỗ mà xuống đi đàng
sau họ. Cột mây bỏ phía trước mà đứng về phía sau, 20 chen vào giữa
hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Ít-ra-en. Bên kia, mây toả mịt mù, bên này, mây lại
sáng soi đêm tối, khiến cho hai bên suốt đêm không xáp lại gần nhau được. 21
Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, Ðức Chúa cho một cơn gió đông thổi mạnh
suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô cạn. Nước rẽ ra, 22 và
con cái Ít-ra-en đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành
hai bên tả hữu. 23 Quân Ai-cập đuổi theo; toàn thể chiến mã, chiến xa
và kỵ binh của Pha-ra-ô tiến vào giữa lòng biển, đằng sau dân Ít-ra-en. 24
Vào lúc gần sáng, từ cột lửa và mây, Ðức Chúa nhìn xuống hàng ngũ Ai-cập,
Người gây rối loạn trong hàng ngũ chúng. 25 Người làm cho chiến xa
kẹt bánh, khiến chúng phải vất vả mới di chuyển nổi. Quân Ai-cập bảo nhau:
"Ta phải trốn bọn Ít-ra-en, vì Ðức Chúa chiến đấu chống lại người Ai-cập
để giúp họ.” 26 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy giơ tay trên
mặt biển, nước sẽ ập xuống trên quân Ai-cập cùng với chiến xa và kỵ binh của
chúng.” 27 Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, và biển ập lại như cũ,
vào lúc tảng sáng. Quân Ai-cập đang chạy trốn thì gặp nước biển, Ðức Chúa xô
ngã quân Ai-cập giữa lòng biển. 28 Nước ập xuống, vùi lấp chiến xa
và kỵ binh, vùi lấp toàn thể quân lực của Pha-ra-ô đã theo dân Ít-ra-en đi vào
lòng biển. Không một tên nào sống sót. 29 Còn con cái Ít-ra-en đã đi
giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu. 30 Ngày
đó, Ðức Chúa đã cứu Ít-ra-en khỏi tay quân Ai-cập. Ít-ra-en thấy quân Ai-cập
phơi thây trên bờ biển. 31 Ít-ra-en thấy Ðức Chúa đã ra tay hùng
mạnh đánh quân Ai-cập. Toàn dân kính sợ Ðức Chúa, tin vào Ðức Chúa, tin vào ông
Mô-sê, tôi trung của Người.
Chương 15
Bài
ca chiến thắng
1
Bấy
giờ ông Mô-sê cùng với con cái Ít-ra-en hát mừng Ðức Chúa bài ca sau đây. Họ ca
rằng:
"Tôi
xin hát mừng Chúa, Ðấng cao cả uy hùng:
Kỵ
binh cùng chiến mã, Người xô xuống đại dương.
2
Chúa
là sức mạnh tôi, là Ðấng tôi ca ngợi,
chính
Người cứu độ tôi.
Người
là Chúa tôi thờ, xin dâng lời vinh chúc,
Người
là Chúa tổ tiên, xin mừng câu tán tụng.
3
Người
là trang chiến binh, danh Người là "Ðức Chúa!"
4
Xa
mã Pha-ra-ô, Người xô xuống lòng biển,
tướng
dũng với binh hùng chết chìm trong Biển Sậy.
5
Vực
thẳm vùi lấp chúng, chúng chìm xuống nước sâu
chẳng
khác nào hòn đá.
6
Lạy
Chúa, tay hữu Ngài đã biểu dương sức mạnh.
7
Lấy
dũng lực oai hùng, Chúa quật ngã đối phương;
Ngài
nổi cơn thịnh nộ, thiêu chúng cháy như rơm.
8
Nộ
khí Ngài, lạy Chúa, đã khiến nước dâng lên,
sóng
trùng dương dồn lại dựng đứng như tường thành;
giữa
lòng biển thẳm sâu, nước bỗng đâu ngừng chảy.
9
Ðịch
quân tự nhủ rằng: "Ta đuổi theo bắt lấy,
chiến
lợi phẩm đem chia, mới no lòng thoả dạ;
ta
tuốt lưỡi gươm trần, cứ thẳng tay tiêu diệt."
10
Ngài
hà hơi nổi gió, biển vùi lấp chúng đi,
chìm
lỉm tựa như chì giữa nước sâu cuồn cuộn.
11
Ai
trong bậc thần minh được như Ngài, lạy Chúa?
Ai
sánh được như Ngài, Ðấng rạng ngời thánh thiện,
lập
chiến công khủng khiếp, làm nên việc diệu kỳ?
12
13
Còn
dân đã chuộc về, Ngài yêu thương dìu dắt,
lấy
quyền lực dẫn đưa tới đất thiêng Ngài ngự.
14
Khi
vừa nghe tin đó, chư dân run lẩy bẩy;
người
xứ Phi-li-tinh phải đớn đau quằn quại.
15
Bấy
giờ tại Ê-đôm, các thủ lãnh kinh hoàng,
và
quan quyền Mô-áp đều sợ hãi khiếp run,
người
xứ Ca-na-an phải rụng rời hốt hoảng.
16
Kinh
hoàng và sợ hãi ập xuống trên đầu họ.
Cánh
tay hùng mạnh Ngài làm chúng đờ như đá,
bao
lâu dân của Ngài vẫn còn đang qua biển,
lạy
Chúa chúng con thờ, bao lâu dân Ngài tậu
vẫn
còn đang qua biển.
17
Ngài
cho dân tiến vào, định cư họ trên núi,
núi
gia nghiệp của Ngài.
Lạy
Chúa, chính nơi đây Ngài chọn làm chỗ ở,
đây
cũng là đền thánh tự tay Ngài lập nên.
18
Chúa
là vua hiển trị đến muôn thuở muôn đời."
19
Khi
chiến mã của Pha-ra-ô cùng với chiến xa và kỵ binh tiến vào biển, Ðức Chúa cho
nước biển ập xuống trên họ, còn con cái Ít-ra-en thì đi giữa lòng biển khô cạn.
20
Nữ
ngôn sứ Mi-ri-am, em ông A-ha-ron, cầm lấy trống; mọi phụ nữ theo bà đi ra,
đánh trống và nhảy múa. 21 Bà Mi-ri-am xướng lên rằng:
"Hãy
hát mừng Ðức Chúa, Ðấng cao cả uy hùng,
kỵ
binh cùng chiến mã, Người xô xuống đại dương."
II.
Cuộc Hành Trình Trong Sa Mạc
"Ma-ra"
22
Ông
Mô-sê cho dân Ít-ra-en nhổ trại rời Biển Sậy. Họ ra khỏi đó, tiến vào sa mạc
Sua. Họ đi ba ngày trong sa mạc mà không tìm ra nước. 23 Nhưng khi
tới Ma-ra, họ không thể uống được nước ở Ma-ra, vì nước đó đắng. Bởi thế, người
ta gọi nơi ấy là Ma-ra. 24 Dân kêu trách ông Mô-sê, họ nói:
"Chúng tôi sẽ lấy gì mà uống?” 25 Ông kêu lên Ðức Chúa, và Ðức
Chúa chỉ cho ông một khúc gỗ. Ông thả xuống nước và nước hoá ra ngọt.
Chính
tại đó Ðức Chúa đã ra thánh chỉ và quyết định cho dân; chính tại đó Người đã
thử lòng họ.
26
Người
phán: "Nếu ngươi thực sự nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, nếu ngươi
làm điều ngay chính trước mắt Người, nếu ngươi lắng tai nghe các mệnh lệnh của
Người, và giữ mọi thánh chỉ của Người, thì Ta sẽ không giáng xuống ngươi bệnh
hoạn nào như Ta đã giáng xuống Ai-cập. Vì Ta là Ðức Chúa, Ðấng chữa lành
ngươi."
27
Họ
đã đến Ê-lim, nơi có mười hai suối nước và bảy mươi cây chà là. Và họ đóng trại
ở đó, bên bờ nước.
Chương 16
Man-na
và chim cút
1
Họ
nhổ trại rời Ê-lim lên đường, và toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en tới sa mạc
Xin, giữa Ê-lim và Xi-nai, vào ngày mười lăm tháng thứ hai kể từ khi họ ra khỏi
đất Ai-cập. 2 Trong sa mạc, toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en kêu
trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron. 3 Con cái Ít-ra-en nói với các ông:
"Phải chi chúng tôi chết bởi tay Ðức Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi
bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra
khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!"
4
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho
các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta
muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không. 5
Ngày thứ sáu, khi chúng dọn phần ăn đã đưa về, sẽ có gấp đôi phần chúng
lượm mỗi ngày."
6
Ông
Mô-sê và ông A-ha-ron nói với toàn thể con cái Ít-ra-en: "Chiều nay, anh
em sẽ biết là chính Ðức Chúa đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập; 7 vào
buổi sáng, anh em sẽ thấy vinh quang của Ðức Chúa, vì Ðức Chúa đã nghe thấy
những lời anh em kêu trách Người. Còn chúng tôi, chúng tôi là gì mà anh em kêu
trách chúng tôi?” 8 Ông Mô-sê nói: "Ðức Chúa cho anh em chiều
có thịt để ăn, và sáng có bánh để được thoả thuê, vì Ðức Chúa đã nghe thấy
những lời anh em kêu trách Người. Còn chúng tôi, chúng tôi là gì? Không phải
anh em đã kêu trách chúng tôi, mà là kêu trách Ðức Chúa."
9
Ông
Mô-sê nói với ông A-ha-ron: "Xin anh nói với toàn thể cộng đồng con cái
Ít-ra-en thế này: Anh em hãy lại gần thánh nhan Ðức Chúa, vì Người đã nghe thấy
những lời anh em kêu trách.” 10 Trong khi ông A-ha-ron nói với toàn
thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, họ quay mặt về phía sa mạc, và kìa, vinh quang
Ðức Chúa xuất hiện trong đám mây. 11 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 12
"Ta đã nghe tiếng con cái Ít-ra-en kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo
chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi
sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa
của các ngươi.” 13 Thật vậy, buổi chiều, chim cút bay đến rợp cả
trại. Và buổi sáng thì có lớp sương phủ quanh trại. 14 Rồi khi sương
tan đi thì trên mặt hoang địa, có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như
sương muối phủ mặt đất. 15 Khi con cái Ít-ra-en thấy thế, họ liền
hỏi nhau: "Man hu?" Nghĩa là: "Cái gì đây?" Vì họ không
biết đó là cái gì. Ông Mô-sê bảo họ: "Ðó là bánh Ðức Chúa ban cho anh em
làm của ăn! 16 Ðây là điều Ðức Chúa đã truyền: Mỗi người hãy tuỳ theo sức mình
ăn được bao nhiêu mà lượm, mỗi người một đấu, tuỳ theo số người; mỗi người hãy
lấy luôn cho những người ở cùng lều với mình."
17
Con
cái Ít-ra-en đã làm như thế; họ lượm kẻ nhiều người ít. 18 Rồi họ
lấy đấu đong: kẻ có nhiều thì không dư, người có ít thì không thiếu. Mỗi người
đã lượm tuỳ theo sức mình ăn được bao nhiêu.
19
Ông
Mô-sê nói với họ: "Ðừng có ai để dành cho đến sáng.” 20 Một số
người đã không nghe lời ông Mô-sê: họ để dành cho đến sáng, nhưng trong đó có
giòi bọ và xông ra mùi hôi thối. Bấy giờ ông Mô-sê nổi giận với họ. 21 Sáng
nào cũng vậy, mỗi người lượm tuỳ theo sức mình ăn được bao nhiêu. Và khi mặt
trời toả sức nóng, thì nó tan ra.
22
Ngày
thứ sáu, họ lượm bánh gấp đôi, mỗi người hai đấu. Tất cả những người lãnh đạo
cộng đồng đến báo tin cho ông Mô-sê. 23 Ông nói với họ: "Ðây là
điều Ðức Chúa phán: mai là ngày nghỉ, ngày sa-bát thánh để kính Ðức Chúa. Cái
gì phải nấu, thì nấu; cái gì phải luộc, thì luộc; tất cả những gì còn dư, thì hãy
cất đi, để dành cho đến sáng hôm sau.” 24 Họ cất đi cho đến sáng hôm
sau như ông Mô-sê đã truyền, mà không thấy hôi và cũng không thấy có giòi bọ. 25
Ông Mô-sê nói: "Hôm nay anh em ăn phần đó đi, vì hôm nay là ngày
sa-bát kính Ðức Chúa; hôm nay, anh em sẽ không tìm thấy gì ở ngoài đồng. 26
Trong sáu ngày, anh em hãy lượm man-na; còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát,
thì sẽ không có.” 27 Dầu vậy, ngày thứ bảy cũng có người trong dân
đi ra lượm mà không tìm thấy. 28 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê:
"Cho đến bao giờ nữa các ngươi từ chối không tuân giữ các mệnh lệnh và
luật lệ của Ta? 29 Các ngươi xem: Ðức Chúa đã ban ngày sa-bát cho các ngươi; vì
thế, ngày thứ sáu, Người ban cho các ngươi bánh đủ ăn hai ngày. Ai nấy hãy ở
yên một chỗ; ngày thứ bảy, đừng có ai ra khỏi chỗ ở của mình.” 30 Vậy
dân nghỉ việc ngày thứ bảy.
31
Nhà
Ít-ra-en đặt tên cho vật ấy là man-na. Nó giống như hạt ngò, màu trắng và mùi
vị tựa bánh tráng tẩm mật ong.
32
Ông
Mô-sê nói: "Ðây là điều Ðức Chúa đã truyền: Hãy đong cho đầy một đấu để
giữ lại cho con cháu các ngươi; như thế, chúng sẽ thấy bánh Ta đã cho các ngươi
ăn trong sa mạc, lúc Ta đem các ngươi ra khỏi đất Ai-cập.” 33 Ông
Mô-sê nói với ông A-ha-ron: "Hãy lấy một cái bình và đổ vào đó một đấu đầy
man-na, rồi đặt trước nhan Ðức Chúa để giữ lại cho con cháu anh em.” 34 Theo
như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê, ông A-ha-ron đã đặt cái bình ấy đằng
trước Chứng Ước, để giữ lại.
35
Con
cái Ít-ra-en đã ăn man-na suốt bốn mươi năm, cho đến khi họ tới đất định cư; họ
đã ăn man-na cho đến khi tới ranh giới đất Ca-na-an. 36 Một đấu
tương đương bốn lít rưỡi.
Chương 17
Nước
phun ra từ tảng đá (Ds 2:1-13)
1
Toàn
thể cộng đồng con cái Ít-ra-en nhổ trại rời sa mạc Xin, đi từ chặng này đến
chặng khác, theo lệnh của Ðức Chúa. Họ đã đóng trại ở Rơ-phi-đim, nhưng tại đấy
không có nước cho dân uống. 2 Dân gây sự với ông Mô-sê. Họ nói:
"Cho chúng tôi nước uống đi!" Ông Mô-sê nói: "Tại sao anh em lại
gây sự với tôi? Tại sao lại thử thách Ðức Chúa?” 3 Ở đó, dân khát
nước nên đã kêu trách ông Mô-sê rằng: "Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập để
làm gì? Có phải là để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của
(chúng) tôi bị chết khát hay không?” 4 Ông Mô-sê kêu lên cùng Ðức
Chúa: "Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá
con!” 5 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy đi lên phía
trước dân, đem theo một số kỳ mục Ít-ra-en; cầm lấy cây gậy ngươi đã dùng để
đập xuống sông Nin, và đi đi. 6 Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng kia trước
mặt ngươi, trên tảng đá ở núi Khô-rếp. Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá,
nước sẽ chảy ra cho dân uống." Ông Mô-sê đã làm như vậy trước mắt các kỳ
mục Ít-ra-en. 7 Ông đặt tên cho nơi ấy là Ma-xa và Mơ-ri-va, nghĩa
là thử thách và gây sự, vì con cái Ít-ra-en đã gây sự và thử thách Ðức Chúa mà
rằng: "Có Ðức Chúa ở giữa chúng ta hay không?"
Giao
chiến với người A-ma-lếch
8
A-ma-lếch
đến đánh Ít-ra-en tại Rơ-phi-đim. 9 Ông Mô-sê bảo ông Giô-suê:
"Anh hãy chọn một số người, và ngày mai ra đánh A-ma-lếch. Còn tôi, tôi sẽ
đứng trên đỉnh đồi, tay cầm cây gậy của Thiên Chúa.” 10 Ông Giô-suê
làm như ông Mô-sê đã bảo: ông đã giao chiến với A-ma-lếch, còn các ông Mô-sê,
A-ha-ron và Khua thì lên đỉnh đồi. 11 Khi nào ông Mô-sê giơ tay lên,
thì dân Ít-ra-en thắng thế; còn khi ông hạ tay xuống, thì A-ma-lếch thắng thế. 12
Nhưng ông Mô-sê mỏi tay, nên người ta lấy một hòn đá kê cho ông ngồi, còn
ông A-ha-ron và ông Khua thì đỡ tay ông, mỗi người một bên.
13
Ông
Giô-suê đã dùng lưỡi gươm đánh bại A-ma-lếch và dân của ông ta. 14 Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy chép lại việc này vào sách để lưu niệm và
hãy nói vào tai Giô-suê rằng: Ta sẽ xoá hẳn tên tuổi A-ma-lếch, khiến cho thiên
hạ không còn nhớ đến nó nữa.” 15 Ông Mô-sê dựng một bàn thờ và đặt
tên là: "Ðức Chúa, cờ trận của tôi.” 16 Ông nói: "Bởi vì
một bàn tay đã giơ lên chống lại ngai của Ðức Chúa, nên có chiến tranh giữa Ðức
Chúa và A-ma-lếch từ đời nọ đến đời kia."
Chương 18
Ông
Mô-sê gặp ông Gít-rô
1
Ông
Gít-rô là tư tế Ma-đi-an và là nhạc phụ ông Mô-sê, nghe biết mọi điều Thiên
Chúa đã làm cho ông Mô-sê và Ít-ra-en, dân của Người, khi Ðức Chúa đem Ít-ra-en
ra khỏi Ai-cập. 2 Ông Gít-rô, nhạc phụ ông Mô-sê, trước kia đã đón
nhận bà Xíp-pô-ra, người vợ mà ông Mô-sê đã gửi về, 3 cùng với hai
người con trai của bà. Một người tên là Ghéc-sôm, vì ông nói: "Tôi là
ngoại kiều nơi đất khách quê người"; 4 người kia tên là
Ê-li-e-de, vì "Thiên Chúa của cha tôi đã cứu giúp tôi và đã giải thoát tôi
khỏi gươm Pha-ra-ô.” 5 Ông Gít-rô, nhạc phụ ông Mô-sê, cùng với vợ
con ông Mô-sê đến gặp ông Mô-sê ở sa mạc, nơi ông này dựng lều, gần núi của
Thiên Chúa. 6 Ông cho người đến nói với ông Mô-sê: "Tôi là
Gít-rô, nhạc phụ của anh, cùng với vợ con anh đến gặp anh.” 7 Ông
Mô-sê ra đón tiếp nhạc phụ, phủ phục và ôm hôn ông. Rồi các ông vấn an nhau và
bước vào lều. 8 Ông Mô-sê kể cho nhạc phụ nghe tất cả những gì Ðức
Chúa đã giáng xuống Pha-ra-ô và Ai-cập vì Ít-ra-en, mọi nỗi gian truân Ít-ra-en
gặp phải trên đường và cách Ðức Chúa đã giải thoát họ. 9 Ông Gít-rô
lấy làm vui sướng vì mọi sự lành Ðức Chúa đã làm cho Ít-ra-en, khi Người giải
thoát họ khỏi tay người Ai-cập. 10 Ông Gít-rô nói: "Chúc tụng
Ðức Chúa đã giải thoát các ông khỏi tay người Ai-cập và tay Pha-ra-ô, đã giải
thoát dân khỏi tay người Ai-cập! 11 Giờ đây, tôi nhận biết rằng Ðức Chúa cao cả
hơn hết mọi thần minh, vì Người đã chứng tỏ điều đó khi người ta đối xử ngạo
mạn với dân."
12
Ông
Gít-rô, nhạc phụ ông Mô-sê, dâng lên Thiên Chúa lễ toàn thiêu và các hy lễ. Ông
A-ha-ron và mọi kỳ mục của Ít-ra-en đã đến ăn bánh với nhạc phụ ông Mô-sê trước
nhan Thiên Chúa.
Ðặt
các thẩm phán (Ðnl 1:9-18)
13
Hôm
sau, ông Mô-sê ngồi xử kiện cho dân. Dân đứng bên ông Mô-sê từ sáng đến chiều. 14
Nhạc phụ của ông Mô-sê thấy tất cả những gì ông đã làm cho dân thì nói:
"Anh đang làm gì cho dân vậy? Tại sao chỉ có một mình anh ngồi xử, trong
khi cả dân đứng chầu chực anh từ sáng đến chiều? “ 15 Ông Mô-sê nói
với nhạc phụ: "Ấy là vì dân đến với con để thỉnh ý Thiên Chúa. 16 Khi
họ có việc gì, họ đến với con; con phân xử cho đôi bên và cho biết những thánh
chỉ và lề luật của Thiên Chúa.” 17 Nhạc phụ ông Mô-sê nói với ông:
"Anh làm như thế không tốt đâu! 18 Chắc chắn anh sẽ kiệt sức, và cả dân
đang ở đây với anh cũng vậy; vì công việc quá nặng đối với anh, anh không thể
làm nổi một mình. 19 Bây giờ anh hãy nghe lời tôi khuyên; cầu chúc
Thiên Chúa ở với anh! Còn anh, anh hãy đứng ra thay mặt dân trước nhan Thiên
Chúa: chính anh sẽ trình các việc lên Thiên Chúa, 20 sẽ dạy cho họ
các thánh chỉ, các lề luật, và cho họ biết đường lối phải đi và cách phải xử sự.
21 Rồi anh hãy xem trong toàn dân những ai là người có tài, biết
kính sợ Thiên Chúa, đáng tin cậy, không ham của bất chính, thì đặt họ làm người
chỉ huy: điều khiển một ngàn hay một trăm, năm mươi hay mười người. 22 Họ
sẽ thường trực xử kiện cho dân; việc nào lớn thì họ trình lên anh, còn việc nào
nhỏ thì chính họ xử lấy: hãy làm như vậy để nhẹ gánh cho anh. Họ phải gánh việc
đỡ anh. 23 Nếu anh làm điều đó, thì Thiên Chúa sẽ chỉ bảo cho anh,
anh sẽ có thể đứng vững, và hơn nữa cả đám dân này có thể về nhà bình an."
24
Ông
Mô-sê nghe lời nhạc phụ và đã làm tất cả những điều ông ấy nói. 25 Ông
Mô-sê chọn trong toàn dân Ít-ra-en những người có tài và đặt họ làm đầu dân,
điều khiển một ngàn hay một trăm, năm mươi hay mười người. 26 Họ
thường trực xử kiện cho dân: việc khó thì họ trình lên ông Mô-sê, mọi việc nhỏ
thì chính họ xử lấy. 27 Rồi ông Mô-sê tiễn chân nhạc phụ, và ông này
trở về xứ mình.
Chương 19
III.
Giao Ước Xi-Nai
1.
Giao Ước Và Mười Ðiều Răn
Tới
núi Xi-nai
1
Tháng
thứ ba kể từ khi ra khỏi đất Ai-cập, chính ngày đó con cái Ít-ra-en tới sa mạc
Xi-nai. 2 Họ đã nhổ trại rời Rơ-phi-đim tới sa mạc Xi-nai, và dựng
trại trong sa mạc. Ít-ra-en đóng trại ở đó, đối diện với núi.
Thiên
Chúa hứa ban giao ước
3
Ông
Mô-sê lên gặp Thiên Chúa. Từ trên núi, Ðức Chúa gọi ông và phán: "Ngươi sẽ
nói với nhà Gia-cóp, sẽ thông báo cho con cái Ít-ra-en thế này: 4 Các
ngươi thấy Ta đã xử với Ai-cập thế nào, và đã mang các ngươi như trên cánh chim
bằng, mà đem đến với Ta. 5 Vậy giờ đây, nếu các ngươi thực sự nghe
tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, thì giữa hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu
riêng của Ta. Vì toàn cõi đất đều là của Ta. 6 Ta sẽ coi các ngươi
là một vương quốc tư tế, một dân thánh. Ðó là những lời ngươi sẽ nói với con
cái Ít-ra-en.” 7 Ông Mô-sê về triệu tập các kỳ mục trong dân, trình
bày cho họ biết tất cả những lời Ðức Chúa đã truyền cho ông. 8 Toàn
dân nhất trí đáp lại: "Mọi điều Ðức Chúa phán bảo, chúng tôi xin làm
theo." Ông Mô-sê thưa lại với Ðức Chúa những lời dân nói.
Chuẩn
bị giao ước
9
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Này Ta sẽ đến với ngươi trong đám mây dày đặc,
để khi Ta nói với ngươi thì dân nghe thấy và cũng tin vào ngươi luôn mãi."
Ông Mô-sê thưa lại với Ðức Chúa những lời dân nói.
10
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đến với dân và bảo họ: hôm nay và ngày mai
phải giữ mình cho khỏi nhiễm uế, phải giặt quần áo, 11 và đến ngày
kia phải sẵn sàng, vì ngày kia Ðức Chúa sẽ ngự xuống trên núi Xi-nai trước mắt
toàn dân. 12 Ngươi sẽ định rõ cho dân một giới hạn chung quanh núi
và bảo họ: Anh em phải coi chừng không được lên núi và chạm đến chân núi. Ai
chạm đến núi thì sẽ bị giết. 13 Không bàn tay nào được chạm đến
người đó; nó sẽ bị ném đá cho chết hoặc bị bắn bằng cung tên, dù là thú vật hay
là người, nó sẽ không được sống. Khi tù và rúc, dân sẽ lên núi."
14
Ông
Mô-sê từ trên núi xuống với dân và bảo họ giữ mình cho khỏi nhiễm uế; họ giặt
quần áo. 15 Ông Mô-sê bảo dân: "Trong ba ngày, anh em phải
chuẩn bị sẵn sàng. Ðừng gần gũi đàn bà."
Cuộc
thần hiện
16
Ðến
ngày thứ ba, ngay từ sáng, có sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi, và có tiếng tù
và thổi rất mạnh. Toàn dân trong trại đều run sợ. 17 Ông Mô-sê đưa
dân ra khỏi trại để nghênh đón Thiên Chúa; họ đứng dưới chân núi. 18 Cả
núi Xi-nai nghi ngút khói, vì Ðức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên
như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh. 19 Tiếng tù và mỗi lúc
một tăng lên rất mạnh. Ông Mô-sê nói, và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm. 20
Ðức Chúa ngự xuống trên núi Xi-nai, trên đỉnh núi. Người gọi ông Mô-sê
lên đỉnh núi, và ông đi lên. 21 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê:
"Hãy xuống cảnh cáo dân đừng kéo nhau lên để xem Ðức Chúa, kẻo nhiều người
phải lăn ra chết. 22 Ngay các tư tế đến gần Ðức Chúa cũng phải giữ
mình cho khỏi nhiễm uế, kẻo bị Ðức Chúa đánh phạt.” 23 Ông Mô-sê
thưa với Ðức Chúa: "Dân không thể lên núi Xi-nai được, vì chính Ngài đã
cảnh cáo chúng con rằng: Hãy vạch rõ ranh giới của núi và tuyên bố đó là núi
thánh.” 24 Ðức Chúa phán với ông: "Hãy đi xuống, rồi lại trở
lên, đem theo A-ha-ron với ngươi. Còn tư tế và dân thì đừng có kéo nhau lên Ðức
Chúa, kẻo bị Ðức Chúa đánh phạt.” 25 Ông Mô-sê xuống với dân và nói
với họ.
Chương 20
Mười
điều răn (Ðnl 5:1-33)
1
Thiên
Chúa phán tất cả những lời sau đây:
2
"Ta
là Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh
nô lệ.
3
Ngươi
không được có thần nào khác đối nghịch với Ta.
4
Ngươi
không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất
thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ.
5
Ngươi
không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Ðức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Ðối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt
con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. 6 Còn với những ai
yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn
đời.
7
Ngươi
không được dùng danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Ðức
Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng.
8
Ngươi
hãy nhớ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. 9 Trong sáu ngày,
ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. 10 Còn ngày thứ
bảy là ngày sa-bát kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không
được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia
súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. 11 Vì trong sáu ngày, Ðức
Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã
nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Ðức Chúa đã chúc phúc cho ngày sa-bát và coi đó là
ngày thánh.
12
Ngươi
hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, ban cho ngươi.
13
Ngươi
không được giết người.
14
Ngươi
không được ngoại tình.
15
Ngươi
không được trộm cắp.
16
Ngươi
không được làm chứng gian hại người.
17
Ngươi
không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ
nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta."
18
Khi
nghe tiếng sấm sét, tiếng tù và, khi thấy ánh lửa và núi bốc khói, toàn dân sợ
hãi run rẩy và đứng xa xa. 19 Họ nói với ông Mô-sê: "Xin chính
ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói
với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất!” 20 Ông Mô-sê bảo dân:
"Ðừng sợ hãi, vì Thiên Chúa đến là để thử thách anh em và làm cho anh em
luôn luôn kính sợ Người, ngõ hầu anh em đừng phạm tội.” 21 Dân đứng
xa xa, còn ông Mô-sê thì tiến lại gần đám mây đen, nơi Thiên Chúa đang ngự.
2.
Bộ Luật Giao Ước
Luật
về bàn thờ
22
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi sẽ bảo con cái Ít-ra-en như thế này: Chính
các ngươi đã thấy là tự trời Ta đã nói với các ngươi. 23 Các ngươi
đừng tạc tượng thần bằng bạc mà đặt bên cạnh Ta, và cũng đừng tạc tượng thần
bằng vàng để thờ.
24
Ngươi
sẽ dựng cho Ta một bàn thờ bằng đất, trên đó ngươi sẽ dâng lễ toàn thiêu, lễ kỳ
an, dâng chiên cừu bò bê. Ở bất cứ nơi nào Ta tỏ danh Ta cho ngươi ghi nhớ, Ta
sẽ đến với ngươi và chúc phúc cho ngươi. 25 Nếu ngươi dựng cho Ta
một bàn thờ bằng đá, thì đừng lấy đá đẽo mà dựng, bởi vì lấy đục mà đẽo, thì
làm cho đá ra bất xứng. 26 Ngươi sẽ không dùng bậc để bước lên bàn
thờ của Ta, kẻo ngươi hở hang trước bàn thờ.
Chương 21
Luật
về người nô lệ (Ðnl 15:12 -18)
1
Ðây
là những luật lệ ngươi sẽ trình bày cho họ. 2 Nếu ngươi mua một người
nô lệ Híp-ri, người đó sẽ hầu hạ sáu năm; đến năm thứ bảy, người đó sẽ được tự
do ra đi, mà không phải trả tiền. 3 Nếu người đó đến một mình, thì
sẽ ra đi một mình; nếu người đó đã lấy vợ, thì vợ sẽ ra đi với người đó. 4
Nếu chủ cưới vợ cho người đó và nếu vợ sinh được con trai hoặc con gái,
thì vợ con đều thuộc về chủ, còn người đó sẽ ra đi một mình. 5 Nhưng
nếu người nô lệ nói: Tôi mến chủ tôi và thương vợ thương con, tôi không muốn
được tự do ra đi, 6 thì chủ sẽ dẫn người đó đến trước mặt Thiên
Chúa, dẫn đến sát cánh cửa hoặc khung cửa, và lấy dùi xỏ tai người đó. Như thế,
người đó sẽ hầu hạ chủ suốt đời. 7 Nếu có ai bán con gái làm nàng
hầu, người con gái đó sẽ không được ra đi như các nô lệ nam. 8 Nếu
người con gái đó không vừa ý chủ, và chủ không muốn giữ lại cho mình, thì chủ
phải cho chuộc, chứ không có quyền bán cho dân nước ngoài, vì như vậy là phản
bội người con gái đó. 9 Nếu muốn dành người con gái đó cho con trai
mình, thì chủ sẽ xử sự theo luật áp dụng cho con gái của mình. 10 Nếu
chủ lấy một người khác, thì không được giảm bớt lương thực, quần áo và quyền
làm vợ của người trước. 11 Nếu chủ không thi hành ba khoản đó, thì
nàng được ra đi, khỏi cần trả tiền trả bạc.
Giết
người
12
Ai
đánh chết người, thì phải bị giết chết. 13 Nhưng nếu không có mưu
tính trước, mà chỉ vì Thiên Chúa đã để lỡ tay, thì Ta sẽ chỉ cho ngươi một nơi
mà kẻ giết người có thể vào trú ẩn. 14 Nếu có ai cố tình hại người
thân cận tới mức dùng mưu mà giết nó, thì ngươi sẽ lôi kẻ ấy ra khỏi bàn thờ
của Ta mà giết chết.
15
Ai
đánh cha hoặc mẹ, thì phải bị giết chết. 16 Ai bắt cóc người - dù đã
bán đi hay còn giữ trong tay, - thì phải bị giết chết. 17 Kẻ nào
nguyền rủa cha hoặc mẹ, thì phải bị giết chết.
Ðánh
đập và gây thương tích
18
Trong
một cuộc cãi lộn, nếu người này ném đá hoặc đấm người kia mà không làm người
kia chết, nhưng phải liệt giường, 19 và nếu người kia trỗi dậy, còn
chống gậy ra ngoài đi lại được, thì kẻ đã đánh được tha; chỉ phải bồi thường
cho người kia trong thời gian người ấy phải nghỉ việc, và lo chữa người ấy cho
lành.
20
Nếu
có ai lấy gậy đánh tôi tớ nam nữ của mình, làm cho nó chết ngay dưới tay mình,
thì nó phải được báo oán. 21 Nhưng nếu nạn nhân còn sống được một
hai ngày, thì sẽ không được báo oán, vì chủ đã bỏ tiền ra mua nó.
22
Nếu
đàn ông đánh nhau mà xô phải một người đàn bà có thai, làm sẩy thai nhưng không
gây tổn thương nào khác, thì phải bồi thường theo đòi hỏi của người chồng, và
phải trả trước mặt trọng tài. 23 Nếu có gây tổn thương, thì ngươi
phải lấy mạng đền mạng, 24 mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay,
chân đền chân, 25 vết bỏng đền vết bỏng, vết thương đền vết thương,
vết bầm đền vết bầm.
26
Nếu
có ai đánh vào mắt tôi tớ nam nữ của mình, và làm hư mắt đó, thì phải phóng
thích nó để đền mắt. 27 Nếu có ai làm gãy răng tôi tớ nam nữ của
mình, thì phải phóng thích nó để đền răng.
28
Nếu
bò húc chết một người đàn ông hay đàn bà, thì phải ném đá con bò ấy cho chết,
và không được ăn thịt nó; còn người chủ sẽ được tha bổng. 29 Nếu
trước đó con bò đã quen húc người, và chủ nó đã được cảnh cáo mà không canh
giữ, để nó húc chết người, thì con bò sẽ bị ném đá cho chết và chủ nó cũng sẽ
phải chết. 30 Nếu người ta đòi tiền chuộc, thì chủ phải trả để chuộc
mạng sống mình, thể theo tất cả những đòi hỏi của người ta. 31 Nếu
bò húc con trai hay con gái, thì người ta cũng sẽ xử trí theo luật đó. 32 Nếu
bò húc tôi tớ nam nữ, thì người ta sẽ đưa cho chủ của nạn nhân ba mươi đồng
bạc, còn bò thì sẽ bị ném đá cho chết.
33
Khi
có ai mở nắp hoặc đào một bể nước mà không đậy nắp lại, và nếu bò lừa sa vào đó,
34 thì chủ bể nước phải thường tiền cho chủ con vật, nhưng con vật
chết được thuộc về chủ bể nước. 35 Nếu bò người này húc chết bò
người kia, thì hai người chủ sẽ bán con bò sống và chia nhau tiền; họ cũng sẽ
chia nhau con bò chết nữa. 36 Nếu đã rõ là bò quen húc, mà chủ nó
không canh giữ, thì phải lấy bò đền bò; nhưng con vật chết thuộc về người ấy.
Lấy
trộm thú vật
37
Nếu
có ai lấy trộm chiên bò, rồi làm thịt hoặc đem bán, thì sẽ lấy năm con bò đền
một, và bốn con chiên đền một.
Chương 22
1
Nếu
kẻ trộm bị bắt quả tang đang lúc đào ngạch và bị đánh chết, thì không có chuyện
đòi nợ máu. 2 Nhưng nếu mặt trời đã mọc, thì phải đòi nợ máu. Ăn
trộm phải bồi thường; nếu không có gì bồi thường, thì bán nó đi mà đền những gì
nó đã lấy trộm. 3 Nếu tìm thấy trong tay nó của đã lấy trộm, dù là
bò, lừa hay chiên cừu còn sống, thì nó phải bồi thường gấp đôi.
Những
tội phải bồi thường
4
Khi
có ai làm hại ruộng đồng hay vườn nho và thả súc vật cho nó ăn hại ruộng người
khác, thì phải lấy phần tốt nhất trong ruộng, trong vườn nho của mình mà bồi
thường.
5
Khi
có đám cháy lan đến bụi gai và thiêu huỷ đồng lúa đã gặt, lúa chưa gặt, hoặc
ruộng nương, thì kẻ gây hoả hoạn phải bồi thường.
6
Khi
có ai gửi người thân cận giữ hộ tiền bạc hay đồ vật mà bị mất trộm tại nhà
người này, và nếu tìm thấy kẻ trộm, thì kẻ trộm phải bồi thường gấp đôi. 7
Nếu không tìm thấy kẻ trộm, thì chủ nhà phải tiến lại gần Thiên Chúa mà
thề không có đụng tới của cải người thân cận.
8
Về
mọi nố tội phạm liên quan đến bò lừa, chiên và quần áo, đến mọi vật bị mất, mà
nếu có người nói: của tôi đó! Thì đôi bên phải đưa sự việc ra trước mặt Thiên
Chúa. Kẻ bị Thiên Chúa tuyên bố là có tội, phải bồi thường gấp đôi cho người
thân cận.
9
Khi
có ai gửi người thân cận giữ hộ mình lừa, bò, chiên hay thú vật nào, nếu con
vật ấy chết, bị thương hoặc bị lấy trộm mà không có ai chứng kiến, 10 thì
đôi bên phải đến trước mặt Ðức Chúa: người giữ con vật phải thề không có đụng
tới của cải người thân cận. Chủ con vật phải chấp nhận lời thề và người kia
không phải bồi thường. 11 Nếu con vật bị lấy trộm trong nhà người
giữ hộ, thì người này phải bồi thường cho chủ con vật. 12 Nếu con
vật hoàn toàn bị thú dữ xé xác, và nếu người giữ hộ đưa ra bằng chứng, thì
không phải bồi thường.
13
Khi
có ai mượn người thân cận một con vật và để con vật bị thương hoặc chết trong
khi chủ vắng mặt, thì người mượn phải bồi thường. 14 Nếu chủ có mặt,
thì người ấy không phải bồi thường. Nếu là con vật cho thuê, chủ sẽ lấy tiền
thuê.
Xâm
phạm tiết hạnh gái trinh
15
Khi
có ai dụ dỗ một thiếu nữ chưa đính hôn và ăn nằm với nàng, thì phải trả tiền
cưới cho gia đình nàng. Nàng sẽ thành vợ người đó. 16 Nếu cha nàng
nhất định không chịu gả, người ấy sẽ phải nộp một số tiền tương đương với tiền
cưới một người con gái.
Luật
đạo đức và luật tôn giáo
17
Ðàn
bà phù thuỷ, ngươi không được để cho sống.
18
Kẻ
giao hợp với thú vật phải bị tử hình.
19
Kẻ
tế thần khác ngoài Ðức Chúa, sẽ bị Ðức Chúa loại trừ.
20
Người
ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là
ngoại kiều ở đất Ai-cập. 21 Mẹ goá con côi, các ngươi không được ức
hiếp. 22 Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó
kêu cứu. 23 Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các
ngươi: thế là vợ các ngươi sẽ thành goá bụa, và con các ngươi sẽ thành côi cút.
24
Nếu
ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì
ngươi không được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi.
25
Nếu
ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó
trước khi mặt trời lặn. 26 Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che
thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ.
27
Ngươi
không được nói phạm đến Thiên Chúa, không được nguyền rủa người đầu mục trong
dân.
Của
đầu mùa và con đầu lòng
28
Ngươi
không được chậm trễ dâng phần hoa màu và rượu nho của ngươi. Con đầu lòng trong
số con cái ngươi, ngươi sẽ dâng cho Ta. 29 Bò và chiên cừu của
ngươi, ngươi cũng phải làm thế: con đầu lòng sẽ ở với mẹ nó bảy ngày, ngày thứ
tám ngươi sẽ dâng nó cho Ta.
30
Các
ngươi sẽ là những người được thánh hiến cho Ta: thịt con vật bị thú dữ xé ngoài
đồng, các ngươi đừng ăn, nhưng phải ném cho chó.
Chương 23
Công
lý. Bổn phận đối với kẻ thù.
1
Ngươi
không được phao tin đồn nhảm. Ðừng làm chứng gian mà tiếp tay với kẻ xấu. 2
Ngươi không được hùa theo số đông để làm điều trái; trong một vụ kiện,
ngươi không được ngả theo số đông mà làm chứng, khiến công lý bị sai lệch. 3
Ngươi không được thiên vị người yếu thế khi họ có việc kiện tụng.
4
Nếu
gặp bò hay lừa của kẻ thù đi lạc, ngươi phải dẫn nó về cho người ấy. 5 Nếu
thấy lừa của kẻ ghét ngươi quỵ ngã vì chở nặng, ngươi không được để mặc người
ấy; ngươi phải giúp người ấy đỡ lừa dậy.
6
Ngươi
không được làm thiệt hại đến quyền lợi của người nghèo cậy nhờ ngươi, khi họ có
việc kiện tụng. 7 Ngươi phải lánh xa điều gian dối. Ngươi không được
giết kẻ vô tội và công chính, vì Ta không cho kẻ có tội được trắng án. 8 Ngươi
không được nhận quà hối lộ, vì quà hối lộ làm cho những kẻ sáng mắt hoá ra đui
mù và làm hỏng việc của những người công chính.
9
Người
ngoại kiều, các ngươi không được áp bức; chính các ngươi đã biết thân phận của
người ngoại kiều, vì các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập.
Năm
sa-bát và ngày sa-bát
10
Trong
vòng sáu năm, ngươi sẽ cày cấy ruộng đất ngươi, gieo trồng và thu hoa lợi. 11
Nhưng năm thứ bảy, ngươi sẽ để đất ngưng sinh hoa màu, để đất hưu canh;
những người nghèo trong dân ngươi sẽ được hưởng hoa màu đó, những gì còn lại
thì bỏ cho dã thú ăn. Vườn nho và vườn ô-liu, ngươi cũng sẽ làm như thế.
12
Trong
sáu ngày, ngươi sẽ làm công việc của ngươi; nhưng ngày thứ bảy, ngươi sẽ nghỉ,
để bò lừa của ngươi được nghỉ ngơi, và để đứa con của nữ tỳ ngươi và người
ngoại kiều lấy lại sức.
13
Các
ngươi sẽ lưu tâm đến mọi điều Ta đã nói với các ngươi. Các ngươi đừng nhắc tên
những thần khác: chớ để người ta nghe miệng ngươi thốt ra những tên ấy.
Các
ngày lễ của Ít-ra-en (Xh 34:18 -26; Ðnl 16:1-7)
14
Ngươi
sẽ mừng lễ kính Ta mỗi năm ba lần. 15 Ngươi sẽ giữ tục lệ mừng lễ
Bánh Không Men: trong bảy ngày, ngươi sẽ ăn bánh không men vào thời chỉ định trong
tháng A-víp, như Ta đã truyền cho ngươi, vì trong tháng đó ngươi đã ra khỏi
Ai-cập. Người ta không được đi tay không đến trước nhan Ta. 16 Ngươi
cũng sẽ giữ tục lệ mừng lễ Mùa gặt, lễ dâng của đầu mùa, do sức lao động ngươi
làm ra, do công ngươi gieo cấy ngoài đồng; rồi ngươi sẽ giữ tục lệ mừng lễ Thu
hoạch vào cuối năm, khi ngươi thu hoạch hoa màu ngoài đồng ngươi đã làm ra. 17
Mỗi năm ba lần, tất cả đàn ông con trai phải đến trước nhan Chúa Tể là
Ðức Chúa.
18
Khi
dâng lễ vật hy sinh, ngươi đừng dâng máu của nó cùng với bánh có men, và chớ
giữ lại mỡ của ngày lễ kính Ta suốt đêm cho đến sáng hôm sau.
19
Của
đầu mùa tốt nhất của đất đai ngươi, ngươi phải đem đến nhà Ðức Chúa, Thiên Chúa
của ngươi.
Ngươi
không được lấy sữa dê mẹ mà nấu thịt dê con.
Lời
hứa và chỉ thị liên quan đến biến cố vào xứ Ca-na-an
20
Lời
hứa và chỉ thị liên quan đến biến cố vào xứ Ca-na-an
Này
Ta sai thiên sứ đi trước ngươi, để giữ gìn ngươi khi đi đường, và đưa ngươi vào
nơi Ta đã dọn sẵn. 21 Trước mặt người, hãy ý tứ và nghe lời người.
Ðừng làm cho người phải chịu cay đắng; người sẽ không tha lỗi cho các ngươi, vì
danh Ta ngự trong người. 22 Nếu thực sự ngươi nghe lời người, nếu
ngươi làm mọi điều Ta nói, Ta sẽ trở thành kẻ thù của kẻ thù ngươi, đối phương
của đối phương ngươi. 23 Thiên sứ của Ta sẽ đi trước mặt ngươi và
dẫn ngươi vào xứ người E-mô-ri, Khết, Pơ-rít-di, Ca-na-an, Khi-vi, Giơ-vút; và
Ta sẽ tiêu diệt chúng. 24 Ngươi không được phủ phục trước các thần
của chúng, cũng đừng phụng thờ các thần ấy; ngươi không được làm theo các việc
chúng làm, nhưng phải phá huỷ thần của chúng và đập vỡ các trụ đá của chúng. 25
Các ngươi phải thờ phượng Ðức Chúa, Thiên Chúa các ngươi; Người sẽ chúc
phúc cho bánh ngươi ăn, cho nước ngươi uống. Ta sẽ đẩy bệnh tật xa ngươi. 26
Trong xứ của ngươi, sẽ không có phụ nữ sẩy thai hay son sẻ. Ta sẽ cho
ngươi sống đầy đủ số năm tháng ngày giờ dành cho ngươi.
27
Ta
sẽ gieo kinh hoàng xuống nơi ngươi sẽ đến, sẽ gây rối loạn nơi hết mọi dân tộc
ngươi sẽ tới, và Ta sẽ làm cho tất cả thù địch của ngươi phải quay lưng chạy
trốn ngươi. 28 Ta sẽ thả ong bầu bay đi trước ngươi; chúng sẽ đuổi
người Khi-vi, người Ca-na-an và người Khết đi khuất mắt ngươi. 29 Ta
sẽ không đuổi các dân này đi khuất mắt ngươi ngay trong một năm, kẻo xứ ấy trở
thành hoang vu, và dã thú sinh sôi nẩy nở làm hại ngươi. 30 Dần dần
Ta sẽ đuổi chúng đi khuất mắt ngươi, cho đến khi ngươi sinh sản ra nhiều, mà
thừa hưởng xứ này. 31 Ta sẽ ấn định ranh giới lãnh thổ ngươi từ Biển
Sậy cho đến Biển của người Phi-li-tinh, từ sa mạc cho đến Sông Cả, vì Ta sẽ nộp
dân bản xứ vào tay ngươi và sẽ đuổi chúng đi cho khuất mắt ngươi. 32 Ngươi
sẽ không ký giao ước với chúng và các thần của chúng. 33 Chúng sẽ
không ở trong xứ của ngươi, kẻo chúng làm cho ngươi lỗi phạm đến Ta, vì ngươi
có thể phụng thờ các thần của chúng, và điều đó trở thành cạm bẫy cho
ngươi."
Chương 24
3.
Ký Giao Ước
1
Thiên
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy lên với Ðức Chúa, ngươi cùng với A-ha-ron,
Na-đáp, A-vi-hu và bảy mươi người trong hàng kỳ mục Ít-ra-en. Các ngươi sẽ phủ
phục ở đằng xa. 2 Một mình Mô-sê sẽ lại gần Ðức Chúa, còn những
người khác sẽ không được lại gần. Dân cũng sẽ không được lên với Mô-sê.” 3
Ông Mô-sê xuống thuật lại cho dân mọi lời của Ðức Chúa và mọi điều luật.
Toàn dân đồng thanh đáp: "Mọi lời Ðức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành.”
4 Ông Mô-sê chép lại mọi lời của Ðức Chúa. Sáng hôm sau, ông dậy
sớm, lập một bàn thờ dưới chân núi và dựng mười hai trụ đá cho mười hai chi tộc
Ít-ra-en. 5 Rồi ông sai các thanh niên trong dân Ít-ra-en dâng những
lễ toàn thiêu, và ngả bò làm hy lễ kỳ an tế Ðức Chúa. 6 Ông Mô-sê
lấy một nửa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. 7
Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: "Tất cả những
gì Ðức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo.” 8 Bấy giờ,
ông Mô-sê lấy máu rảy lên dân và nói: "Ðây là máu giao ước Ðức Chúa đã lập
với anh em, dựa trên những lời này."
9
Ông
Mô-sê đi lên cùng với ông A-ha-ron, Na-đáp, A-vi-hu và bảy mươi người trong
hàng kỳ mục Ít-ra-en. 10 Họ nhìn thấy Thiên Chúa của Ít-ra-en; dưới
chân Người như có nền lát bằng lam ngọc, trong vắt như chính bầu trời. 11 Người
không ra tay hại những bậc vị vọng của Ít-ra-en; họ được chiêm ngưỡng Thiên
Chúa, và sau đó họ ăn uống.
Ông
Mô-sê ở trên núi
12
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy lên núi với Ta và ở lại đó; Ta sẽ ban cho
ngươi những bia đá: luật và mệnh lệnh Ta đã viết ra để dạy dỗ chúng.” 13 Ông
Mô-sê đứng lên cùng với người phụ tá là ông Giô-suê, rồi ông Mô-sê lên núi của
Thiên Chúa. 14 Ông nói với các kỳ mục: "Các ông đợi chúng tôi ở
đây cho đến khi chúng tôi trở lại với các ông. Ðây có ông A-ha-ron và ông Khua
ở với các ông. Ai có việc gì, cứ đến với hai ông ấy.” 15 Ông Mô-sê
lên núi.
16
Vinh
quang Ðức Chúa ngự trên núi Xi-nai và mây bao phủ núi sáu ngày. Ðến ngày thứ
bảy, từ giữa đám mây, Người gọi ông Mô-sê. 17 Vinh quang Ðức Chúa
xuất hiện trên đỉnh núi trông giống như ngọn lửa thiêu, trước mắt con cái
Ít-ra-en. 18 Ông Mô-sê vào giữa đám mây và đi lên núi. Ông Mô-sê ở
trên núi bốn mươi ngày bốn mươi đêm.
Chương 25
4.
Chỉ Thị Về Việc Dựng Nơi Thánh Và Về Các Tư Tế
Ðóng
góp để dựng nơi thánh (Xh 35:4-9)
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 2 "Hãy bảo con cái Ít-ra-en là
phải đóng góp vào việc thờ phượng Ta. Các ngươi hãy nhận phần đóng góp nơi
những người nhiệt tâm. 3 Ðây là phần đóng góp các ngươi sẽ nhận của
họ: vàng, bạc và đồng, 4 vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm, vải gai
mịn và lông dê, 5 da cừu nhuộm đỏ, da cá heo và gỗ keo, 6 dầu
thắp đèn, hương liệu để chế dầu tấn phong và làm hương thơm, 7 hồng
mã não và ngọc quý để nhận vào áo ê-phốt và túi đeo trước ngực. 8 Chúng
sẽ dựng cho Ta một nơi thánh để Ta ngự ở giữa chúng. 9 Theo như các
mẫu chính Ta sẽ chỉ cho ngươi: Nhà Tạm và mọi đồ dùng, các ngươi sẽ làm như
vậy.
Nhà
Tạm và Hòm Bia (Xh 37:1-9)
10
"Chúng
phải làm một Hòm Bia bằng gỗ keo, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao
bảy tấc rưỡi. 11 Ngươi sẽ lấy vàng ròng mà bọc, ngươi sẽ lấy vàng mà
bọc cả trong lẫn ngoài. Ngươi sẽ làm trên đó một đường viền chung quanh bằng
vàng. 12 Ngươi sẽ đúc cho Hòm Bia bốn chiếc vòng bằng vàng và gắn
vào bốn chân Hòm Bia: bên này hai vòng, bên kia hai vòng. 13 Ngươi
sẽ làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng. 14 Ngươi sẽ xỏ đòn vào
những vòng bên sườn Hòm Bia để khiêng. 15 Ðòn để xỏ vào vòng của Hòm
Bia thì không được rút ra nữa. 16 Ngươi sẽ đặt vào Hòm Bia Chứng Ước
mà Ta sẽ ban cho ngươi.
17
Ngươi
sẽ làm một cái nắp xá tội bằng vàng ròng, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi.
18 Ngươi sẽ làm hai tượng thần hộ giá bằng vàng gò, ngươi sẽ làm các
tượng ấy ở hai đầu nắp. 19 Ngươi sẽ làm một tượng ở đầu này, một
tượng ở đầu kia; ngươi sẽ làm các tượng thần hộ giá gắn liền với nắp, ở hai đầu.
20 Các tượng thần hộ giá có cánh giương lên và phủ trên nắp. Hai
tượng đối diện với nhau, cùng cúi mặt xuống nắp. 21 Ngươi sẽ đậy nắp
xá tội trên Hòm Bia, và ngươi sẽ đặt vào đó Chứng Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi. 22
Ở đó Ta sẽ gặp gỡ ngươi. Từ trên nắp, giữa hai tượng thần hộ giá đặt trên
Hòm Bia Chứng Ước, Ta sẽ nói với ngươi tất cả những gì Ta truyền cho ngươi để
ngươi nói lại cho con cái Ít-ra-en.
Bàn
để bánh tiến (Xh 37:10 -16)
23
"Ngươi
sẽ làm một cái bàn bằng gỗ keo, dài một thước, rộng nửa thước và cao bảy tấc
rưỡi. 24 Ngươi sẽ lấy vàng ròng mà bọc, và ngươi sẽ làm một đường
viền chung quanh bằng vàng. 25 Chung quanh bàn, ngươi sẽ đóng nẹp
rộng một tấc và viền nẹp bằng vàng. 26 Ngươi sẽ làm bốn vòng bằng
vàng và đặt các vòng đó vào bốn góc, ở bốn chân bàn. 27 Các vòng đó
ở gần nẹp, dùng để xỏ đòn khiêng bàn. 28 Ngươi sẽ làm những cây đòn
bằng gỗ keo bọc vàng để khiêng bàn. 29 Ngươi sẽ làm khay, ly, bình
và chén để tế lễ; ngươi sẽ làm những đồ ấy bằng vàng ròng. 30 Ngươi
phải luôn luôn đặt bánh tiến trên bàn, trước nhan Ta.
Trụ
đèn (Xh 37:17 -24)
31
"Ngươi
sẽ làm một trụ đèn bằng vàng ròng. Ngươi sẽ làm trụ đèn, chân đèn và nhánh đèn
bằng vàng gò; đài hoa, nụ hoa và cánh hoa gắn liền với trụ đèn. 32 Sáu
nhánh đâm ra hai bên: ba nhánh bên này, ba nhánh bên kia. 33 Trên
nhánh bên này, có ba đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ và cánh hoa; trên nhánh
bên kia, có ba đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ hoa và cánh hoa. Sáu nhánh từ
trụ đèn đâm ra sẽ đều như thế. 34 Ở thân trụ đèn, có bốn đài hoa
hình hoa hạnh đào, với nụ hoa và cánh hoa. 35 Một nụ hoa nằm dưới
hai nhánh đầu gắn liền với trụ đèn, một nụ hoa nằm dưới hai nhánh giữa gắn liền
với trụ đèn, và một nụ hoa nằm dưới hai nhánh cuối gắn liền với trụ đèn. Sáu
nhánh từ trụ đèn đâm ra sẽ đều như thế. 36 Các nụ hoa và nhánh đều
gắn liền với trụ đèn; tất cả thành một khối bằng vàng gò, bằng vàng ròng. 37
Rồi ngươi sẽ làm bảy cái đèn, đặt lên đó thế nào cho chúng toả ánh sáng
ra phía trước trụ đèn. 38 Kéo cắt bấc và đĩa đựng tàn sẽ bằng vàng
ròng. 39 Ngươi phải dùng đến ba mươi ký vàng ròng để làm trụ đèn và
mọi đồ phụ tùng đó. 40 Hãy nhìn xem và làm theo mẫu đã chỉ cho ngươi
trên núi.
Chương 26
Nhà
Tạm. Vải và bạt. (Xh 36:8-19)
1
"Ngươi
sẽ dựng Nhà Tạm với mười tấm thảm bằng sợi gai mịn xe, vải đỏ tía, vải điều và
vải đỏ thẫm. Ngươi sẽ cho thêu trên đó những thần hộ giá rất mỹ thuật. 2 Mỗi
tấm thảm dài mười bốn thước, rộng hai thước; tấm nào cũng có kích thước như vậy.
3 Năm tấm khâu liền với nhau, còn năm tấm kia cũng khâu liền với
nhau. 4 Ngươi sẽ lấy vải đỏ tía làm dải đính vào mép tấm thứ nhất
của những tấm thảm ráp lại; ngươi cũng đính như thế vào mép tấm cuối cùng của
những tấm thảm ráp lại bên kia. 5 Ngươi sẽ đính năm mươi dải vào tấm
thứ nhất, và cũng sẽ đính năm mươi dải vào mép tấm cuối cùng của những tấm thảm
ráp lại bên kia; các dải ấy phải thật cân đối với nhau. 6 Ngươi sẽ
làm năm mươi cái móc bằng vàng, và dùng những móc ấy để nối các tấm thảm lại
với nhau. Như thế, Nhà Tạm sẽ thành một khối duy nhất.
7
Ngươi
sẽ làm những tấm thảm lông dê để làm một cái lều ở bên trên Nhà Tạm; ngươi sẽ
làm mười một tấm. 8 Mỗi tấm dài mười lăm thước, rộng hai thước. Mười
một tấm đều có cùng một kích thước. 9 Ngươi sẽ khâu liền năm tấm
thành một mái, và sáu tấm kia thành một mái khác; ngươi sẽ gấp tấm thứ sáu về
phía trước lều. 10 Ngươi sẽ đính năm mươi dải vào mép tấm thứ nhất
của những tấm thảm ráp lại, và năm mươi dải vào mép tấm cuối cùng của những tấm
thảm ráp lại bên kia. 11 Ngươi sẽ làm năm mươi móc đồng, và sẽ xỏ
móc vào dải; ngươi sẽ ghép lại thành một cái lều, và như vậy sẽ chỉ có một lều
duy nhất.
12
Phần
tấm thảm còn dư nhô ra, thì một nửa cho rủ xuống phía sau Nhà Tạm. 13 Mỗi
bên để dư ra nửa thước theo chiều dài các tấm thảm của lều, cho rủ xuống hai
bên để che Nhà Tạm.
14
Ngươi
sẽ làm một tấm bạt che lều bằng da cừu nhuộm đỏ, và một tấm bạt bằng da cá heo
phủ ở bên trên.
Khung
lều (Xh 36: 20 -34)
15
"Ngươi
sẽ lấy những tấm ván gỗ keo dựng thẳng lên để căng Nhà Tạm. 16 Mỗi tấm
dài năm thước, rộng bảy tấc rưỡi. 17 Mỗi tấm có hai mộng song song.
Ngươi sẽ làm mọi tấm ván của Nhà Tạm theo kiểu đó. 18 Ngươi sẽ đặt
ván để dựng Nhà Tạm như sau: hai mươi tấm hướng về Ne-ghép, về phía nam. 19
Ngươi sẽ làm bốn mươi đế bạc đặt dưới hai mươi tấm ván đó: hai đế dưới
một tấm ván ăn khớp với hai mộng của ván, và hai đế dưới một tấm ván khác ăn
khớp với hai mộng của ván. 20 Phía bên kia của Nhà Tạm, hướng bắc,
ngươi cũng sẽ đặt hai mươi tấm ván, 21 và cũng làm bốn mươi đế bạc,
cứ hai đế dưới một tấm, hai đế dưới một tấm. 22 Phía trong cùng Nhà
Tạm, hướng tây, ngươi sẽ đặt sáu tấm ván. 23 Ngươi sẽ đặt hai tấm
ván ở các góc Nhà Tạm, ở phía trong cùng. 24 Các tấm ván sẽ được
ghép đôi lại với nhau từ dưới lên trên, cho tới cái vòng thứ nhất. Hai tấm ván
ở hai bên góc đều như thế. 25 Vậy sẽ có tám tấm ván với các đế bạc,
tất cả là mười sáu đế: cứ hai đế dưới một tấm, hai đế dưới một tấm.
26
Ngươi
sẽ làm các thanh ngang bằng gỗ keo: năm cái cho các tấm ván ở mặt thứ nhất của
Nhà Tạm, 27 năm cái cho các tấm ván ở mặt bên kia của Nhà Tạm, cũng
như năm cái cho các tấm ván phía trong cùng Nhà Tạm, hướng tây. 28 Thanh
ngang giữa, ở nửa độ cao các tấm ván, sẽ chạy suốt từ đầu này đến đầu kia. 29
Ngươi sẽ thiếp vàng các tấm ván; ngươi sẽ đúc những vòng bằng vàng để xỏ
các thanh ngang; ngươi cũng sẽ thiếp vàng các thanh ngang ấy. 30 Ngươi
sẽ dựng Nhà Tạm theo kiểu đã chỉ cho ngươi trên núi.
Bức
trướng (Xh 36:35 -38)
31
"Ngươi
sẽ làm một bức trướng bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và sợi gai mịn xe.
Ngươi sẽ cho thêu trên đó những thần hộ giá rất mỹ thuật. 32 Ngươi
sẽ căng bức màn trướng đó lên bốn cột gỗ keo thiếp vàng có những móc bằng vàng,
đặt trên đế bằng bạc. 33 Ngươi sẽ mắc bức trướng vào những cái móc.
Ngươi sẽ đưa Hòm Bia Chứng Ước vào đó, sau bức trướng; đối với các ngươi, bức
trướng sẽ phân chia Nơi Thánh với Nơi Cực Thánh. 34 Ngươi sẽ đặt nắp
xá tội lên trên Hòm Bia Chứng Ước ở Nơi Cực Thánh. 35 Ngươi sẽ đặt
cái bàn đằng trước bức trướng, và đặt trụ đèn đối diện với bàn đó, ở phía nam
Nhà Tạm; còn cái bàn, thì ngươi đặt ở phía bắc. 36 Ngươi sẽ làm một
bức màn che cửa lều bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và sợi gai mịn xe:
đó là công việc của thợ thêu. 37 Ngươi sẽ làm năm cột gỗ keo thiếp
vàng để treo bức màn đó; những cột ấy có móc bằng vàng; ngươi sẽ đúc năm đế
bằng đồng để dựng những cột ấy.
Chương 27
Bàn
thờ dâng lễ toàn thiêu (Xh 38:1-7)
1
"Ngươi
sẽ làm bàn thờ bằng gỗ keo: dài hai thước rưỡi, rộng hai thước rưỡi - nghĩa là
hình vuông - cao một thước rưỡi. 2 Ngươi sẽ làm bốn cái sừng ở bốn
góc, các sừng ấy sẽ làm thành một khối với bàn thờ. Ngươi sẽ lấy đồng mà bọc
bàn thờ. 3 Ngươi sẽ làm những cái nồi để đựng tro lễ vật, làm xẻng,
bình rảy, xiên và lư hương; các đồ vật ấy, ngươi sẽ làm bằng đồng. 4 Ngươi
sẽ làm một cái vỉ bằng đồng, hình lưới. Ngươi sẽ làm bốn chiếc vòng bằng đồng,
ở bốn góc lưới. 5 Ngươi sẽ bọc lưới đó quanh chân bàn thờ, dưới chỗ
mặt bàn nhô ra, từ đất lên; lưới ấy chỉ cao bằng nửa chiều cao của bàn thờ. 6
Ngươi sẽ làm những cây đòn để khiêng bàn thờ, những cây đòn ấy làm bằng
gỗ keo. Ngươi sẽ bọc đồng những cây đòn ấy. 7 Người ta sẽ xỏ đòn vào
vòng; khi khiêng bàn thờ thì những cây đòn đó sẽ ở hai bên bàn thờ. 8 Ngươi
sẽ làm bàn thờ rỗng, bằng ván ghép lại; như đã chỉ cho ngươi trên núi thế nào,
thì người ta sẽ phải làm như vậy.
Khuôn
viên (Xh 38:9-20)
9
"Ngươi
sẽ làm khuôn viên của Nhà Tạm. Phía nam, hướng Ne-ghép, khuôn viên sẽ có những
tấm rèm bằng sợi gai mịn xe, phía này dài năm mươi thước. 10 Hai
mươi cột treo rèm dựng trên hai mươi đế bằng đồng; móc ở các cột và thanh treo
rèm thì bằng bạc. 11 Phía bắc cũng vậy, sẽ có những tấm rèm dài năm
mươi thước. Hai mươi cột treo rèm dựng trên hai mươi đế bằng đồng; móc ở các
cột và thanh treo rèm thì bằng bạc. 12 Chiều rộng của khuôn viên, về
phía biển, sẽ có những tấm rèm hai mươi lăm thước, với mười cột và mười đế. 13
Về hướng đông, phía mặt trời mọc, khuôn viên sẽ rộng hai mươi lăm thước; 14
một bên che tấm rèm bảy thước rưỡi, có ba cột với ba đế; 15 bên
kia cũng che tấm rèm bảy thước rưỡi, có ba cột với ba đế. 16 Ở cửa khuôn
viên, sẽ có một bức màn mười thước bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và
sợi gai mịn xe: đó là công việc của thợ thêu; bức màn này treo lên bốn cột đặt
trên bốn đế. 17 Mọi cột chung quanh khuôn viên nối liền với nhau nhờ
những thanh treo màn bằng bạc; móc sẽ bằng bạc và đế bằng đồng. 18 Khuôn
viên sẽ dài năm mươi thước, rộng hai mươi lăm thước, cao hai thước rưỡi; bức
màn sẽ bằng sợi gai mịn xe, còn các đế sẽ bằng đồng. 19 Tất cả các
đồ vật trong Nhà Tạm dùng vào mọi việc phụng sự tại đó, cũng như mọi cái cọc
của Nhà Tạm và của khuôn viên sẽ đều bằng đồng.
Dầu
thắp đèn (Lv 24:1-4)
20
"Phần
ngươi, ngươi sẽ truyền cho con cái Ít-ra-en phải giã ô-liu lấy dầu nguyên chất,
để thắp đèn, hầu cho luôn luôn có ngọn lửa cháy. 21 Ông A-ha-ron và
con cái sẽ đặt chiếc đèn đó trong Lều Hội Ngộ, bên ngoài bức trướng treo đằng
trước Chứng Ước, sao cho nó cháy từ chiều đến sáng trước nhan Ðức Chúa. Ðó là
điều luật vĩnh viễn cho các thế hệ con cái Ít-ra-en.
Chương 28
Phẩm
phục của các tư tế
1
"Phần
ngươi, hãy tách A-ha-ron, anh ngươi, và các con ông ra khỏi hàng ngũ con cái
Ít-ra-en, để ông ở bên cạnh ngươi mà thi hành chức tư tế phục vụ Ta: A-ha-ron
và các con của A-ha-ron là Na-đáp, A-vi-hu, E-la-da và I-tha-ma. 2 Ngươi
sẽ may cho A-ha-ron, anh ngươi, những lễ phục để ông được vẻ uy nghi rực rỡ. 3
Chính ngươi sẽ bảo tất cả những thợ giỏi, đã được Ta ban tràn đầy tài
năng khôn khéo, may áo tế cho A-ha-ron, để ông được thánh hiến mà thi hành chức
tư tế phục vụ Ta. 4 Ðây là các phẩm phục họ sẽ may: túi đeo trước
ngực, áo ê-phốt, áo khoác, áo dài thêu, mũ tế và đai lưng. Họ sẽ may lễ phục
cho A-ha-ron, anh ngươi, và cho con cái ông, để ông thi hành chức tư tế phục vụ
Ta. 5 Còn họ, họ sẽ lấy vàng, vải tía, vải điều, vải đỏ thẫm và vải
gai mịn, mà làm.
Áo
ê-phốt (Xh 39:1-7)
6
"Họ
sẽ làm áo ê-phốt bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai
mịn xe. 7 Sẽ có hai cầu vai nối liền với hai đầu áo ê-phốt, và như
vậy hai thân áo sẽ nối liền với nhau. 8 Băng chéo đeo trên áo ê-phốt
để giữ áo thì sẽ làm cùng một kiểu và đính liền vào đó; băng chéo ấy sẽ bằng
chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm, và sợi gai mịn xe. 9 Ngươi
sẽ lấy hai viên mã não và sẽ khắc trên đó tên con cái Ít-ra-en: 10 trên
viên thứ nhất có ghi sáu tên, và trên viên thứ hai, sáu tên còn lại, theo thứ
tự trước sau. 11 Ngươi sẽ khắc tên con cái Ít-ra-en vào hai viên
ngọc đó theo kiểu thợ chạm khắc dấu ấn; ngươi sẽ nhận những viên ngọc đó vào
những ổ bằng vàng. 12 Ngươi sẽ đặt hai viên ngọc đó trên cầu vai của
áo ê-phốt để làm kỷ vật tưởng nhớ con cái Ít-ra-en; A-ha-ron sẽ mang tên của
chúng trên hai vai, trước nhan Ðức Chúa, để làm kỷ vật. 13 Ngươi sẽ
làm những ổ bằng vàng 14 và hai dây chuyền bằng vàng ròng; ngươi sẽ làm hai dây
chuyền đó theo kiểu khoen lật để làm như dải buộc; ngươi sẽ đặt hai dây chuyền
khoen lật đó vào ổ hột.
Túi
đeo trước ngực (Xh 39:8-21)
15
"Ngươi
sẽ làm một túi đeo trước ngực rất mỹ thuật đựng thẻ xăm cho biết phán quyết của
Thiên Chúa. Ngươi sẽ làm túi đó theo kiểu áo ê-phốt: bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía,
chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe. 16 Túi đó hình vuông, may
kép, dài một gang, rộng một gang. 17 Ngươi sẽ nhận vào đó bốn hàng
ngọc: ở hàng thứ nhất có nhận xích não, hoàng ngọc và bích ngọc; 18 ở
hàng thứ hai có nhận hồng ngọc, lam ngọc và kim cương; 19 ở hàng thứ
ba có nhận miêu nhãn thạch, mã não và tử ngọc; 20 ở hàng thứ tư có
nhận kim lục thạch, mã não có vân và vân thạch. Những viên ngọc đó sẽ được nhận
vào những ổ bằng vàng.21 Các viên ngọc sẽ mang tên con cái Ít-ra-en: mười hai
viên ngọc mang mười hai tên của chúng khắc theo kiểu dấu ấn, mỗi viên ngọc mang
tên của một trong mười hai chi tộc. 22 Ngươi sẽ làm cho túi đeo
trước ngực những dây chuyền khoen lật bằng vàng ròng để làm dải buộc. 23 Ngươi
sẽ làm cho túi đó hai vòng bằng vàng, và ngươi sẽ đính hai vòng đó vào hai góc
túi. 24 Ngươi sẽ xâu hai dây chuyền khoen lật bằng vàng đó vào hai
vòng đặt ở góc túi. 25 Ngươi sẽ đặt hai đầu dây chuyền khoen lật vào
hai ổ, rồi đặt lên cầu vai của áo ê-phốt, mặt phải. 26 Ngươi sẽ làm
hai vòng bằng vàng, rồi gắn vào hai đầu túi ở mép trong, mặt trái áp áo ê-phốt.
27 Ngươi sẽ làm hai vòng bằng vàng, rồi đính vào hai cầu vai của áo
ê-phốt bên dưới, mặt phải, gần chỗ buộc, bên trên băng chéo của áo ê-phốt. 28
Người ta sẽ lấy một dải vải đỏ tía mà buộc các vòng của túi đeo trước ngực
vào các vòng của áo ê-phốt, để túi đó nằm trên băng chéo của áo ê-phốt: như
thế, túi sẽ không xê dịch được trên áo ê-phốt. 29 Khi vào nơi thánh,
A-ha-ron sẽ mang trên ngực tên con cái Ít-ra-en, làm kỷ vật vĩnh viễn trước
nhan Ðức Chúa, được ghi vào túi đeo trước ngực, chỗ đựng thẻ xăm phán quyết. 30
Ngươi sẽ đặt các thẻ xăm phán quyết u-rim và tum-mim vào túi đeo trước
ngực; những vật này sẽ nằm trên ngực A-ha-ron, khi ông đến trước nhan Ðức Chúa.
Như thế, trước nhan Ðức Chúa, A-ha-ron sẽ luôn mang trên ngực phương tiện cho
biết phán quyết của Thiên Chúa về con cái Ít-ra-en.
Áo
khoác (Xh 39:22 -26)
31
"Ngươi
sẽ làm áo khoác toàn bằng sợi đỏ tía, để mặc dưới áo ê-phốt. 32 Ở
giữa, sẽ khoét cổ để chui đầu vào; chung quanh cổ áo, sẽ có một đường viền: đó
là công trình của thợ dệt; cổ đó sẽ giống như cổ áo giáp, không sao rách được. 33
Ngươi sẽ làm ở vòng quanh gấu dưới những quả lựu bằng chỉ đỏ tía, chỉ
điều, chỉ đỏ thẫm; những lục lạc bằng vàng xen kẽ với những quả lựu, và ngươi
sẽ làm như thế cho hết vòng: 34 một lục lạc bằng vàng rồi một quả
lựu, một lục lạc bằng vàng rồi một quả lựu, vòng quanh gấu dưới áo khoác. 35
A-ha-ron sẽ mặc áo đó khi hành lễ. Người ta sẽ nghe tiếng lục lạc, khi
ông đến nơi thánh, trước nhan Ðức Chúa, và khi ông bước ra: như vậy, ông sẽ
khỏi phải chết.
Dấu
thánh hiến (Xh 39:30 -31)
36
"Ngươi
sẽ làm một huy hiệu bằng vàng ròng. Ngươi sẽ khắc trên đó những chữ sau đây,
theo kiểu khắc dấu ấn: "Thánh hiến cho Ðức Chúa.” 37 Ngươi sẽ
đính huy hiệu đó trên một dây bằng chỉ đỏ tía buộc vào mũ tế; huy hiệu đó sẽ ở
mặt trước mũ tế. 38 Huy hiệu đó sẽ ở trên trán A-ha-ron. Như vậy,
A-ha-ron sẽ mang lấy những lỗi lầm con cái Ít-ra-en đã phạm liên quan đến những
của thánh, khi chúng thánh hiến những lễ vật thánh. Huy hiệu đó sẽ luôn luôn ở
trên trán ông, để Ðức Chúa đoái nhận những của lễ ấy. 39 Ngươi sẽ
dệt một áo dài bằng sợi gai mịn, và làm một mũ tế cũng bằng sợi gai mịn. Ngươi
sẽ làm một đai lưng: đó là công trình của thợ thêu.
Y
phục của tư tế (Xh 39:27 -29)
40
"Ngươi
sẽ may áo dài cho các con ông A-ha-ron và làm đai lưng cho họ. Ngươi cũng sẽ
làm cho họ những chiếc mũ để họ được vẻ uy nghi rực rỡ. 41 Ngươi sẽ
cho A-ha-ron anh ngươi, và các con ông mặc các phẩm phục ấy. Ngươi sẽ xức dầu
cho họ, tấn phong và thánh hiến họ làm tư tế phục vụ Ta. 42 Ngươi
cũng sẽ may quần đùi bằng vải gai cho họ, để họ khỏi bị hở hang; quần đó sẽ che
thân từ ngang lưng đến vế. 43 A-ha-ron và các con ông sẽ mặc quần ấy
lúc vào Lều Hội Ngộ, hoặc khi tiến đến gần bàn thờ để hành lễ trong nơi thánh;
như thế, họ sẽ không mang tội và khỏi phải chết. Ðó là một điều luật vĩnh viễn
cho A-ha-ron và dòng dõi đến sau ông.
Chương 29
Lễ
vật (Lv 8:14 -24, 30)
10
"Ngươi
sẽ dắt con bò đến trước Lều Hội Ngộ. A-ha-ron và các con ông sẽ đặt tay lên đầu
con bò. 11 Ngươi sẽ sát tế con bò đó trước nhan Ðức Chúa, ở cửa Lều
Hội Ngộ. 12 Ngươi sẽ lấy máu con bò, dùng ngón tay mà bôi vào các
góc bàn thờ, và đổ tất cả máu còn lại xuống trên bàn thờ. 13 Ngươi
sẽ lấy tất cả lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, cả khối mỡ trên gan, hai trái cật với
lớp mỡ dính ngoài, mà đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. 14 Nhưng
thịt, da và phân bò, thì ngươi sẽ bỏ vào lửa mà thiêu ở ngoài trại: đó là lễ tạ
tội.
15
Ngươi
sẽ bắt một trong hai con cừu đực. A-ha-ron và các con ông sẽ đặt tay lên đầu nó.
16 Ngươi sẽ sát tế con cừu đó, lấy máu rảy chung quanh bàn thờ. 17
Ngươi sẽ chặt nó ra làm tư, rửa bộ lòng và cẳng, rồi đặt lên bốn phần
thịt và đầu con vật. 18 Sau đó, ngươi sẽ đốt trên bàn thờ tất cả con
cừu cho cháy nghi ngút. Ðó là lễ toàn thiêu dâng lên Ðức Chúa, hương thơm làm
đẹp lòng Người, đó là lễ hoả tế dâng Ðức Chúa.
19
Ngươi
sẽ bắt con cừu đực thứ hai. A-ha-ron và các con ông sẽ đặt tay lên đầu nó. 20
Ngươi sẽ sát tế con cừu đó, rồi lấy máu bôi vào trái tai phải của
A-ha-ron, vào trái tai phải của các con ông, vào ngón cái tay phải và ngón cái
chân phải; rồi ngươi lấy máu còn lại rưới chung quanh bàn thờ. 21 Ngươi
sẽ lấy máu trên bàn thờ và dầu tấn phong rảy trên A-ha-ron và phẩm phục của
ông, trên các con ông và phẩm phục của họ; như thế, A-ha-ron và phẩm phục của
ông, các con ông và phẩm phục của họ, sẽ được thánh hiến.
Lễ
tấn phong các tư tế (Lv 8:25 -29)
22
"Ngươi
sẽ lấy mỡ con cừu, lấy đuôi, lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, khối mỡ của gan, hai
trái cật với lớp mỡ dính ngoài, cũng như đùi bên phải; vì đó là con cừu dùng cho
lễ tấn phong; 23 ngươi cũng sẽ lấy một ổ bánh mì, một tấm bánh ngọt
chiên với dầu và một tấm bánh tráng trong giỏ bánh không men ở trước nhan Ðức
Chúa; 24 tất cả những thứ đó, ngươi sẽ đặt trên bàn tay A-ha-ron và
trên bàn tay các con ông, rồi ngươi sẽ cử hành nghi thức tiến dâng trước nhan
Ðức Chúa. 25 Sau đó, ngươi sẽ lấy lại các vật ấy từ tay họ và đem
đốt cho cháy nghi ngút ở bàn thờ, bên trên của lễ toàn thiêu, khiến các vật ấy
trở thành hương thơm trước nhan Ðức Chúa, làm đẹp lòng Người: đó là lễ hoả tế
dâng Ðức Chúa.
26
Ngươi
sẽ lấy cái ức con cừu dùng cho lễ tấn phong A-ha-ron, rồi ngươi sẽ cử hành nghi
thức dâng tiến trước nhan Ðức Chúa: đó sẽ là phần của ngươi. 27 Ngươi
sẽ thánh hiến cái ức đã được tiến dâng và cái đùi đã được tách ra: đó là phần
đã được tiến dâng và tách ra từ con cừu dùng cho lễ tấn phong A-ha-ron và các
con ông. 28 Ðó là những gì mà A-ha-ron và các con ông sẽ luôn luôn
nhận được từ con cái Ít-ra-en, bởi vì đó là phần dâng cúng; con cái Ít-ra-en
phải lấy một phần lễ vật để dâng cúng mỗi khi dâng hy lễ kỳ an; đó là phần dâng
cúng Ðức Chúa.
29
Lễ
phục A-ha-ron mặc sẽ truyền lại cho các con đến sau ông; các con ông sẽ mặc lễ
phục đó khi họ được xức dầu tấn phong. 30 Trong vòng bảy ngày, người
nào trong số các con ông thay thế ông làm tư tế và vào Lều Hội Ngộ để hành lễ
trong nơi thánh, thì sẽ mặc lễ phục đó.
Tiệc
thánh (Lv 8:31 -36)
31
"Ngươi
sẽ lấy thịt con cừu đực dùng cho lễ tấn phong đem nấu trong nơi thánh. 32 A-ha-ron
và các con ông sẽ ăn thịt cừu và bánh trong giỏ, ở cửa Lều Hội Ngộ. 33 Họ
sẽ ăn các của lễ xá tội đã được dâng tiến để cử hành lễ tấn phong và thánh hiến
họ; nhưng không người phàm nào được ăn những của ấy, vì đó là của thánh. 34
Nếu đến sáng hôm sau còn thừa lại thịt ngày lễ tấn phong và bánh, thì
ngươi sẽ đem đốt đi; không được ăn các thứ ấy, vì đó là của thánh. 35 Ngươi
sẽ làm như thế cho A-ha-ron và các con ông đúng như Ta đã truyền cho ngươi.
Ngươi sẽ dành bảy ngày để làm lễ tấn phong cho họ.
Thánh
hiến bàn thờ dâng lễ toàn thiêu
36
"Mỗi
ngày ngươi sẽ lấy một con bò mà dâng lễ tạ tội, làm lễ vật xá tội; ngươi sẽ
dâng lễ tạ tội để thanh tẩy bàn thờ khi cử hành lễ xá tội trên đó, rồi xức dầu
bàn thờ để thánh hiến. 37 Trong bảy ngày, ngươi sẽ cử hành lễ xá tội
trên bàn thờ và sẽ thánh hiến bàn thờ. Như thế, bàn thờ sẽ là vật rất thánh;
tất cả những gì chạm đến bàn thờ cũng sẽ là vật thánh.
Lễ
toàn thiêu thường nhật (Ðn 28:3-8)
38
"Ðây
là những gì ngươi sẽ dâng trên bàn thờ: hai con chiên một tuổi, ngày nào cũng
vậy, phải giữ như thế mãi mãi. 39 Ngươi sẽ dâng một con lúc sáng,
còn con thứ hai thì dâng vào lúc chập tối. 40 Cùng với con chiên thứ
nhất, ngươi sẽ dâng bốn lít rưỡi tinh bột lúa miến nhào với hai lít dầu ô-liu
giã trong cối, và lấy hai lít rượu nho làm rượu tế. 41 Còn con chiên
thứ hai, ngươi sẽ dâng vào lúc chập tối, và dâng cùng với lễ phẩm và lễ tưới
rượu như ban sáng. Ðó là hương thơm làm đẹp lòng Ðức Chúa, là lễ hoả tế dâng
Ðức Chúa. 42 Ðó là lễ toàn thiêu phải dâng luôn mãi qua mọi thế hệ,
ở cửa Lều Hội Ngộ, trước nhan Ðức Chúa, nơi Ta sẽ gặp gỡ các ngươi, để nói
chuyện với ngươi.
43
Chính
đó là nơi Ta gặp gỡ con cái Ít-ra-en, Ta sẽ lấy vinh quang của Ta mà thánh hiến
nơi đó. 44 Ta sẽ thánh hiến Lều Hội Ngộ và bàn thờ, Ta cũng sẽ thánh
hiến A-ha-ron và các con ông làm tư tế phục vụ Ta. 45 Ta sẽ ngự giữa
con cái Ít-ra-en và sẽ là Thiên Chúa của chúng. 46 Và chúng sẽ biết
rằng chính Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng, Ðấng đã đưa chúng ra khỏi đất
Ai-cập để ngự giữa chúng, chính Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng.
Chương 30
Hương
án (Xh 37:25 -28)
1
"Ngươi
sẽ làm một bàn thờ để đốt hương; ngươi sẽ làm bằng gỗ keo. 2 Hương
án đó sẽ dài nửa thước, rộng nửa thước - nghĩa là hình vuông - và cao một
thước; các góc hình sừng làm thành một khối với hương án. 3 Ngươi sẽ
lấy vàng ròng mà bọc hương án: mặt trên, bốn mặt chung quanh và các góc hình
sừng. Chung quanh hương án, ngươi sẽ làm một đường viền bằng vàng. 4 Ngươi
sẽ làm hai vòng bằng vàng, phía dưới đường viền, ở hai bên sườn; ngươi sẽ làm
hai vòng đó ở hai bên, để xỏ đòn khiêng hương án. 5 Ngươi sẽ làm những
cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng. 6 Ngươi sẽ đặt hương án đó trước bức
trướng che Hòm Bia Chứng Ước, trước nắp xá tội nằm ở trên Chứng Ước là nơi Ta
sẽ gặp gỡ ngươi. 7 Trên đó, A-ha-ron sẽ đốt hương thơm: sáng nào,
ông ấy cũng đốt hương thơm khi chuẩn bị dầu đèn, 8 và lúc A-ha-ron
thắp đèn lên vào chập tối, ông ấy cũng sẽ đốt hương thơm: đó là hương vĩnh viễn
dâng trước nhan Ðức Chúa qua mọi thế hệ của các ngươi. 9 Trên hương
án đó, các ngươi sẽ không dâng các thứ hương thường, hay lễ toàn thiêu, hoặc lễ
phẩm; các ngươi cũng không tưới rượu tế trên đó. 10 Mỗi năm một lần,
A-ha-ron sẽ cử hành lễ xá tội trên các góc hương án đó. Qua mọi thế hệ, các
ngươi sẽ lấy máu con vật dùng trong lễ tạ tội, dâng vào ngày xá tội mỗi năm một
lần, mà cử hành lễ xá tội, trên các góc hương án. Ðó sẽ là vật rất thánh dâng
Ðức Chúa."
Thuế
thân
11
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 12 "Khi nào ngươi kiểm tra dân số để
biết số con cái Ít-ra-en, thì mỗi người dân phải dâng lên Ðức Chúa tiền chuộc
mạng trong lúc kiểm tra dân số; và như thế sẽ không có tai ương nào xảy ra
trong lúc kiểm tra dân số. 13 Ðây là những gì mà bất cứ ai thuộc
diện kiểm tra dân số phải nộp: hai chỉ bạc, tính theo đơn vị đo lường của thánh
điện; hai chỉ bạc đó sẽ là phần dâng cúng Ðức Chúa. 14 Bất cứ ai
thuộc diện kiểm tra dân số, từ hai mươi tuổi trở lên, sẽ phải nộp phần dâng
cúng Ðức Chúa. 15 Người giàu sẽ không nộp hơn hai chỉ bạc, và người
nghèo sẽ không nộp ít hơn, để dâng cúng Ðức Chúa mà chuộc mạng mình. 16 Ngươi
sẽ lấy tiền con cái Ít-ra-en chuộc mạng mà dùng vào việc phục vụ Lều Hội Ngộ:
đối với con cái Ít-ra-en, đó sẽ là kỷ vật trước nhan Ðức Chúa nhắc nhở rằng các
ngươi đã chuộc mạng."
Vạc
đồng
17
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 18 "Ngươi sẽ làm một cái vạc đồng có
đế cũng bằng đồng dùng vào việc tẩy rửa; ngươi sẽ đặt cái vạc đó giữa Lều Hội
Ngộ và bàn thờ. Ngươi sẽ đổ nước vào đó; 19 A-ha-ron và các con ông
sẽ dùng nước đó mà tẩy rửa tay chân. 20 Khi vào Lều Hội Ngộ, họ sẽ
lấy nước đó mà tẩy rửa để khỏi phải chết; hoặc khi tiến đến bàn thờ để hành lễ,
để đốt của lễ hoả tế mà dâng Ðức Chúa, thì cũng vậy. 21 Họ sẽ tẩy
rửa tay chân để khỏi phải chết. Ðó sẽ là điều luật vĩnh viễn cho họ, cho
A-ha-ron và dòng dõi ông qua mọi thế hệ."
Dầu
tấn phong
22
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 23 "Phần ngươi, hãy lo cho có hương liệu
hảo hạng: năm ký mộc dược nguyên chất; một nửa nghĩa là hai ký rưỡi hương nhục
quế; hai ký rưỡi hương quế thanh; 24 năm ký quế bì, tính theo đơn vị
đo lường của thánh điện, và bảy lít dầu ô-liu. 25 Ngươi sẽ lấy những
thứ đó pha chế thành dầu thánh để tấn phong, hợp chất các hương dược này là sản
phẩm của thợ chế nước hoa: đó sẽ là dầu thánh để tấn phong. 26 Ngươi
sẽ xức dầu Lều Hội Ngộ và Hòm Bia Chứng Ước, 27 bàn và mọi đồ phụ
tùng, trụ đèn và các đồ phụ tùng, hương án, 28 bàn thờ dâng lễ toàn
thiêu và mọi đồ phụ tùng, vạc và đế vạc. 29 Ngươi sẽ thánh hiến các
đồ vật ấy; và các đồ vật ấy sẽ là một cái gì rất thánh: tất cả những gì chạm
đến các đồ vật ấy sẽ là đồ vật thánh. 30 Ngươi cũng xức dầu cho
A-ha-ron và các con ông; ngươi sẽ thánh hiến họ làm tư tế phục vụ Ta. 31 Ngươi
sẽ nói lại với con cái Ít-ra-en: "Ðó sẽ là dầu thánh của Ta, dùng để tấn
phong qua mọi thế hệ.” 32 Sẽ không được đổ dầu xuống trên da thịt
người thường, và các ngươi cũng không được chế một thứ dầu nào khác giống thứ
dầu này: đó là một vật thánh, các ngươi sẽ coi như một vật thánh. 33 Kẻ
nào chế một hương thơm giống như thế mà xức cho người phàm, thì sẽ bị khai trừ
khỏi dân nó."
Hương
thơm
34
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy lấy các thứ hương chất: tô hợp hương,
hương loa, phong tử hương, các hương chất và nhũ hương nguyên chất; số lượng
mỗi thứ sẽ đồng đều. 35 Ngươi sẽ lấy các thứ hương chất đó chế thành
hương để đốt: hợp chất các hương này sẽ là sản phẩm của thợ làm hương; hương đó
sẽ là hương pha muối, nguyên chất, và là hương thánh. 36 Ngươi sẽ
lấy một phần tán thành bột, và sẽ đặt trước Chứng Ước, trong Lều Hội Ngộ, nơi
Ta sẽ gặp gỡ ngươi. Ðối với các ngươi, đó sẽ là một vật rất thánh. 37 Các
ngươi sẽ không được chế hương theo kiểu ấy mà dùng: đối với ngươi, đó sẽ là một
vật thánh, dành riêng cho Ðức Chúa. 38 Kẻ nào chế hương như thế để
ngửi mùi thơm, thì sẽ bị khai trừ khỏi dân nó."
Chương 31
Thợ
dựng nơi thánh (Xh 35:30 -36, 1)
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Ngươi hãy coi: Ta đã gọi đích danh
Bơ-xan-ên con của U-ri, con của Khua, thuộc chi tộc Giu-đa. 3 Ta sẽ
ban cho nó dồi dào thần khí của Thiên Chúa, để nó thành người khéo tay, giỏi
giang và lành nghề mà làm mọi công việc, 4 để nó nghĩ ra những tác
phẩm nghệ thuật, làm bằng vàng, bạc, hay đồng, 5 mài ngọc đính áo,
chạm gỗ và thực hiện mọi công việc. 6 Này Ta đã cho nó một người phụ
tá là O-ho-li-áp, con của A-khi-xa-mác, thuộc chi tộc Ðan. Và Ta ban cho mọi
người thợ khéo tay được lòng trí khôn ngoan, để họ làm tất cả những gì Ta đã
truyền cho ngươi: 7 Lều Hội Ngộ, Hòm Bia Chứng Ước, nắp xá tội trên
Hòm Bia, và tất cả đồ đạc trong lều; 8 bàn và các đồ phụ tùng; trụ
đèn bằng vàng ròng và mọi đồ phụ tùng; hương án; 9 bàn dâng lễ toàn
thiêu và mọi đồ phụ tùng; vạc và đế vạc; 10 phẩm phục và lễ phục
dành cho tư tế A-ha-ron và y phục các con ông mặc để thi hành chức tư tế; 11
dầu tấn phong và hương thơm dùng trong nơi thánh. Họ sẽ làm đúng theo mọi
điều Ta đã truyền cho ngươi."
Nghỉ
ngày sa-bát
12
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 13 "Phần ngươi, hãy nói với con cái
Ít-ra-en: cách riêng, các ngươi sẽ giữ các ngày sa-bát của Ta, bởi vì đó là một
dấu hiệu giữa Ta và con cái các ngươi qua mọi thế hệ, để người ta biết rằng
chính Ta là Ðức Chúa, Ðấng thánh hiến các ngươi. 14 Các ngươi sẽ giữ
ngày sa-bát, vì đó là ngày thánh đối với các ngươi. Kẻ nào vi phạm điều ấy, thì
sẽ bị xử tử; phải, kẻ nào làm việc trong ngày ấy, sẽ bị khai trừ khỏi dân nó. 15
Trong sáu ngày, người ta sẽ làm việc, nhưng ngày thứ bảy là một ngày
sa-bát, một ngày nghỉ hoàn toàn, dâng Ðức Chúa: kẻ nào làm việc trong ngày
sa-bát sẽ bị xử tử. 16 Con cái Ít-ra-en sẽ giữ ngày sa-bát, nghĩa là
nghỉ ngơi trong ngày đó, qua mọi thế hệ: đó là một giao ước vĩnh viễn. 17 Ðó
là một dấu hiệu vĩnh viễn giữa Ta và con cái Ít-ra-en; vì trong sáu ngày Ðức
Chúa đã dựng nên trời đất, nhưng ngày thứ bảy Người đã ngưng các việc và nghỉ
xả hơi."
Thiên
Chúa trao cho ông Mô-sê các tấm bia ghi Lề Luật
18
Sau
khi phán với ông Mô-sê trên núi Xi-nai, Ðức Chúa ban cho ông hai tấm bia Chứng
Ước, hai tấm bia đá do chính tay Thiên Chúa viết.
Chương 32
5.
Con Bê Bằng Vàng. Tái Lập Giao Ước.
Con
bê bằng vàng
1
Dân
thấy ông Mô-sê lâu quá không xuống núi, bèn tụ họp bên ông A-ha-ron và nói với
ông: "Xin ông đứng lên, làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng
tôi, vì chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Mô-sê này, là
người đã đưa chúng tôi lên từ đất Ai-cập.” 2 Ông A-ha-ron nói với
họ: "Hãy gỡ các khuyên vàng mà vợ và con trai con gái anh em đeo ở tai,
rồi đem đến cho tôi.” 3 Toàn dân gỡ các khuyên vàng đeo tai và đem
đến cho ông A-ha-ron. 4 Ông lấy vàng từ tay họ trao cho, đem đúc và
dùng dao mà gọt đẽo thành một con bê. Bấy giờ họ nói: "Hỡi Ít-ra-en, đây
là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập.” 5 Thấy vậy, ông
A-ha-ron dựng một bàn thờ trước tượng con bê, rồi hô to: "Mai có lễ kính
Ðức Chúa!"
6
Ngay
hôm sau, họ dậy sớm, dâng tiến những của lễ toàn thiêu và những lễ vật kỳ an.
Dân ngồi xuống ăn uống, rồi đứng lên bày trò vui chơi.
Ðức
Chúa báo tin cho Mô-sê (Ðnl 9:12 -14)
7
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đi xuống, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi, dân
mà ngươi đã đưa lên từ đất Ai-cập. 8 Chúng đã vội đi ra ngoài con
đường Ta truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một con bê, rồi sụp xuống lạy nó, tế
nó và nói: "Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất
Ai-cập.” 9 Ðức Chúa lại phán với ông Mô-sê: "Ta đã thấy dân này
rồi, đó là một dân cứng đầu cứng cổ. 10 Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để
cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Nhưng Ta sẽ
làm cho ngươi thành một dân lớn."
Ông
Mô-sê chuyển cầu cho dân (Ðnl 9:26 -29)
11
Ông
Mô-sê cố làm cho nét mặt Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, dịu lại. Ông thưa:
"Lạy Ðức Chúa, tại sao Ngài lại bừng bừng nổi giận với dân Ngài, dân mà
Ngài đã giơ cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ra khỏi đất Ai-cập? 12 Tại sao người
Ai-cập lại có thể rêu rao: Chính vì ác tâm mà Người đã đưa chúng ra, để giết
chúng trong miền núi và tiêu diệt chúng khỏi mặt đất? Xin Ngài nguôi cơn thịnh
nộ và xin Ngài thương đừng hại dân Ngài. 13 Xin Ngài nhớ đến các tôi
tớ Ngài là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en; Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề
với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên
trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã
hứa; chúng sẽ được thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời.” 14 Ðức Chúa
đã thương, không giáng phạt dân Người như Người đã đe.
Ông
Mô-sê đập vỡ các tấm bia Lề Luật
15
Ông
Mô-sê từ núi trở xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước; những bia ấy có viết cả
hai mặt, mặt trước cũng như mặt sau. 16 Những bia ấy là do Thiên
Chúa làm ra, chữ là chữ của Thiên Chúa, khắc trên các bia.
17
Ông
Giô-suê nghe tiếng dân reo hò, thì nói với ông Mô-sê: "Có tiếng giao tranh
trong trại!” 18 Nhưng ông Mô-sê nói:
"Tôi
nghe không phải tiếng ca chiến thắng,
không
phải lời than bại trận mà là tiếng ca đối đáp!"
19
Vậy
khi đến gần trại, ông thấy con bê và những bọn người đang nhảy múa. Ông Mô-sê
nổi cơn thịnh nộ: Ông ném các tấm bia đang cầm trong tay và đập vỡ dưới chân
núi. 20 Ông lấy con bê họ đã làm, đốt đi, tán nhuyễn ra, rắc lên mặt
nước, rồi bắt con cái Ít-ra-en uống.
Vai
trò của ông A-ha-ron trong lỗi lầm của dân
21
Ông
Mô-sê bảo ông A-ha-ron: "Dân này đã làm gì ông mà ông đưa họ tới chỗ phạm
một tội lớn như thế?” 22 Ông A-ha-ron nói: "Xin ngài chớ bừng
bừng nổi giận; chính ngài biết: dân này có khuynh hướng xấu. 23 Họ
nói với tôi: Xin ông làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì
chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Mô-sê này, là người đã đưa
chúng tôi lên từ đất Ai-cập. 24 Tôi nói với họ: Ai có vàng? Họ đã gỡ
đồ vàng đeo tai và đưa cho tôi; tôi ném vào lửa, và đã ra con bê này."
Lòng
nhiệt thành của các thầy Lê-vi
25
Ông
Mô-sê thấy dân sống buông thả, vì ông A-ha-ron đã để họ sống buông thả, khiến
họ nên trò cười cho địch thủ của họ. 26 Ông Mô-sê đứng ở cổng trại
và hô: "Ai thờ Ðức Chúa thì theo tôi!" Tất cả con cái ông Lê-vi đều
tập họp bên ông Mô-sê. 27 Ông bảo họ: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của
Ít-ra-en, phán thế này: Mỗi người hãy đeo gươm vào. Hãy đi đi lại lại trong
khắp trại, từ cửa này sang cửa khác mà giết: kẻ thì giết anh em, người thì giết
bạn hữu, kẻ thì giết người thân cận của mình.” 28 Con cái ông Lê-vi
đã làm theo lời ông Mô-sê; trong ngày ấy, có ba ngàn người trong dân đã ngã gục.
29 Ông Mô-sê nói: "Hôm nay, anh em được phong chức để phục vụ
Ðức Chúa, vì kẻ thì đã hy sinh con mình, kẻ thì đã hy sinh anh em mình, khiến
Người chúc phúc cho anh em hôm nay."
Ông
Mô-sê lại chuyển cầu cho dân
30
Ngày
hôm sau, ông Mô-sê nói với dân: "Anh em đã phạm một tội lớn, nhưng giờ đây
tôi sắp lên gặp Ðức Chúa; may ra tôi sẽ xin được Người xá tội cho anh em.” 31
Ông Mô-sê trở lại với Ðức Chúa và thưa: "Than ôi, dân này đã phạm
một tội lớn! Họ đã làm cho mình một tượng thần bằng vàng! 32 Nhưng giờ đây, ước
gì Ngài miễn chấp tội họ! Bằng không, thì xin Ngài xoá tên con khỏi cuốn sách
Ngài đã viết.” 33 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Kẻ nào phạm tội
làm mất lòng Ta, Ta sẽ xoá tên nó khỏi cuốn sách của Ta. 34 Bây giờ,
ngươi hãy đi, đưa dân tới nơi Ta đã chỉ cho ngươi. Này thiên sứ của Ta sẽ đi
trước mặt ngươi; nhưng đến ngày Ta trừng phạt, Ta sẽ trừng phạt chúng vì tội đã
phạm.” 35 Ðức Chúa đánh phạt dân vì họ đã đúc con bê, chính con bê
mà ông A-ha-ron đã đúc.
Chương 33
Lệnh
lên đường
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy đi, từ nơi đây ngươi hãy đi lên cùng
với dân mà ngươi đã đưa lên từ đất Ai-cập, tới đất Ta đã hứa ban cho Áp-ra-ham,
I-xa-ác và Gia-cóp, khi phán: Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi. 2 Ta
sẽ sai một thiên sứ đi trước mặt (các) ngươi và Ta sẽ đuổi người Ca-na-an,
người E-mô-ri, người Khết và người Pơ-rít-di, người Khi-vi và người Giơ-vút. 3
Ta sẽ cho (các) ngươi vào một miền đất tràn trề sữa và mật; nhưng Ta sẽ
không đi lên đó cùng với (các) ngươi, vì (các) ngươi là một dân cứng đầu cứng
cổ; vì nếu cùng đi, thì e rằng Ta sẽ tiêu diệt các ngươi dọc đường!” 4 Dân
nghe lời chẳng lành ấy thì mặc áo tang; không ai mang đồ trang sức trên mình. 5
Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en:
các ngươi là một dân cứng đầu cứng cổ! Ta mà cùng đi lên với các ngươi dù chỉ
một chốc lát thôi, thì Ta sẽ tiêu diệt (các) ngươi! Vậy, bây giờ (các) ngươi
hãy bỏ các đồ trang sức đi, rồi Ta xem sẽ phải đối xử với (các) ngươi thế nào!”
6 Con cái Ít-ra-en đã bỏ đồ trang sức từ khi ở núi Khô-rếp.
Lều
Hội Ngộ
7
Ông
Mô-sê lấy một chiếc lều và đem dựng cho mình bên ngoài trại, cách một quãng xa.
Ông gọi lều ấy là Lều Hội Ngộ. Ai thỉnh ý Ðức Chúa thì ra Lều Hội Ngộ, ở ngoài
trại. 8 Mỗi khi ông Mô-sê ra Lều, toàn dân đứng lên, ai nấy đứng ở
cửa lều mình và nhìn theo ông Mô-sê cho đến khi ông vào trong Lều. 9 Mỗi
khi ông Mô-sê vào trong Lều, thì cột mây đáp xuống, đứng ở cửa Lều, và Ðức Chúa
đàm đạo với ông Mô-sê. 10 Khi thấy cột mây đứng ở cửa Lều, toàn dân
đứng dậy; và ai nấy phủ phục ở cửa lều mình. 11 Ðức Chúa đàm đạo với
ông Mô-sê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau. Rồi ông Mô-sê trở về trại;
nhưng phụ tá của ông là chàng thanh niên Giô-suê, con ông Nun, thì cứ ở trong
Lều, không rời khỏi đó.
Ông
Mô-sê chuyển cầu cho dân
12
Ông
Mô-sê thưa với Ðức Chúa: "Xin Ngài coi, chính Ngài đã phán với con:
"Hãy đưa dân ấy lên, vậy mà Ngài lại không cho con biết Ngài sẽ cử ai đi
với con. Tuy nhiên chính Ngài đã phán: Ta biết đích danh ngươi, và hơn nữa
ngươi đã được nghĩa với Ta. 13 Vậy bây giờ, nếu quả thật con đã được
nghĩa với Ngài, xin khấng tỏ cho con biết đường lối của Ngài, để con biết Ngài,
và được nghĩa với Ngài. Xin cũng coi dân tộc này là dân của Ngài.” 14 Ðức
Chúa phán: "Ðích thân Ta sẽ đi, và Ta sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi.” 15
Ông Mô-sê thưa với Người: "Nếu Ngài không đích thân đi, xin Ngài
đừng đưa chúng con lên khỏi đây. 16 Nhưng làm thế nào biết được là
con và dân của Ngài được nghĩa với Ngài? Há chẳng phải vì có Ngài đi với chúng
con sao? Như thế, con và dân của Ngài mới khác với mọi dân trên mặt đất.” 17
Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngay cả điều ngươi vừa nói đó, Ta cũng
sẽ làm, vì ngươi đã được nghĩa với Ta, và Ta biết đích danh ngươi."
Ông
Mô-sê ở trên núi
18
Ông
Mô-sê nói: "Xin Ngài thương cho con được thấy vinh quang của Ngài.” 19
Người phán: "Ta sẽ cho tất cả vẻ đẹp của Ta đi qua trước mặt ngươi,
và sẽ xưng danh Ta là Ðức Chúa trước mặt ngươi. Ta thương ai thì thương, xót ai
thì xót.” 20 Người phán: "Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta,
vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống.” 21 Ðức Chúa còn phán:
"Ðây là chỗ gần Ta; ngươi sẽ đứng trên tảng đá. 22 Khi vinh
quang của Ta đi qua, Ta sẽ đặt ngươi vào trong hốc đá, và lấy bàn tay che ngươi
cho đến khi Ta đã đi qua. 23 Rồi Ta sẽ rút tay lại, và ngươi sẽ xem
thấy lưng Ta, còn tôn nhan Ta thì không được thấy."
Chương 34
Tái
lập giao ước. Các bia ghi Lề Luật. (Ðnl 10:1-5)
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy đẽo hai bia đá giống như hai bia
trước. Và Ta sẽ ghi lại trên đó những lời đã ghi trên các bia trước mà ngươi đã
đập vỡ. 2 Ngươi hãy chuẩn bị sẵn sàng cho sáng ngày mai. Ngay từ
sáng, ngươi hãy lên núi Xi-nai và đứng chờ Ta ở đó, trên đỉnh núi. 3 Không
ai được lên với ngươi; cũng không ai được xuất hiện trên khắp vùng núi; ngay cả
bò bê hay dê cừu cũng không được ăn cỏ trên sườn núi đó.” 4 Vậy ông
Mô-sê đẽo hai bia đá giống như những bia trước; rồi sáng sớm ông thức dậy và
lên núi Xi-nai theo lệnh của Ðức Chúa, tay mang hai bia đá.
Ðức
Chúa hiện ra
5
Ðức
Chúa ngự xuống trong đám mây và đứng đó với ông. Người xưng danh Người là Ðức
Chúa. 6 Ðức Chúa đi qua trước mặt ông và xướng: "Ðức Chúa! Ðức
Chúa! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín,
7 giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội
ác và tội lỗi, nhưng không bỏ qua điều gì, và trừng phạt con cháu đến ba bốn
đời vì lỗi lầm của cha ông.” 8 Ông Mô-sê vội vàng phục xuống đất thờ
lạy 9 và thưa: "Lạy Chúa, nếu quả thật con được nghĩa với Chúa, thì xin
Chúa cùng đi với chúng con. Dân này là một dân cứng đầu cứng cổ, nhưng xin Ngài
tha thứ những lỗi lầm và tội lỗi của chúng con, và nhận chúng con làm cơ nghiệp
của Ngài."
Giao
Ước (Xh 23:14 -19; Ðnl 7:1-5; 16:1-17)
10
Ðức
Chúa phán: "Này Ta sắp lập một giao ước. Trước mặt toàn dân của ngươi, Ta
sẽ làm những việc lạ lùng chưa hề được thực hiện trong một nước hay một dân
nào. Toàn dân ở chung quanh ngươi sẽ thấy việc Ðức Chúa làm, vì điều Ta sắp
dùng ngươi mà làm thì thật đáng sợ. 11 Hãy giữ kỹ điều Ta truyền cho
ngươi hôm nay. Này Ta sắp đuổi cho khuất mắt ngươi những người E-mô-ri,
Ca-na-an, Khết, Pơ-rít-di, Khi-vi, Giơ-vút. 12 Hãy ý tứ, đừng lập
giao ước với dân cư trong xứ nơi ngươi sắp vào, kẻo chúng trở thành một cạm bẫy
ở giữa ngươi. 13 Trái lại, bàn thờ của chúng, phải phá huỷ, trụ đá
của chúng, phải đập tan, cột thờ của chúng, phải chặt đi. 14 Vậy
ngươi không được phủ phục trước một thần nào khác, vì Ðức Chúa mang danh là
Ðấng ghen tương, Người là một Vị Thần ghen tương.
15
Ngươi
không được lập giao ước với dân cư trong xứ, kẻo khi chúng đàng điếm với các
thần của chúng và tế họ, chúng sẽ mời ngươi và ngươi sẽ ăn đồ cúng của chúng,16
ngươi sẽ kén vợ cho con trai ngươi trong số con gái chúng, con gái chúng sẽ
đàng điếm với các thần của chúng và làm cho con trai ngươi đàng điếm với các
thần đó.
17
Ngươi
không được đúc tượng thần.
18
Ngươi
sẽ giữ tục lệ mừng lễ Bánh Không Men: trong bảy ngày, ngươi sẽ ăn bánh không
men vào thời chỉ định trong tháng A-víp, như Ta đã truyền cho ngươi, vì trong
tháng A-víp ngươi đã ra khỏi Ai-cập.
19
Mọi
con đầu lòng đều thuộc về Ta: mọi con đực trong súc vật ngươi, con đầu lòng của
bò cũng như của chiên. 20 Mọi con đầu lòng của giống lừa, ngươi sẽ
lấy một con chiên mà chuộc lại, nếu ngươi không chuộc lại thì đánh gãy ót nó
đi; còn mọi con đầu lòng trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại. Người
ta không được đến tay không trước nhan Ta.
21
Trong
sáu ngày, ngươi sẽ lao động, nhưng ngày thứ bảy ngươi sẽ nghỉ; dù đang vụ cày
hay vụ gặt, ngươi cũng sẽ nghỉ.
22
Ngươi
sẽ mừng lễ các Tuần, dâng lúa mì đầu mùa, rồi mừng lễ Thu hoạch cuối năm.
23
Mỗi
năm ba lần, tất cả đàn ông con trai của ngươi phải đến trước nhan Chúa Tể là
Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en.
24
Ta
sẽ truất hữu các dân cho chúng đi khuất mắt ngươi, và mở rộng bờ cõi ngươi; sẽ
không có ai ham chiếm đất của ngươi khi ngươi đi lên để đến trước nhan Ðức Chúa
là Thiên Chúa của ngươi, mỗi năm ba lần.
25
Ngươi
không được lấy máu của một tế vật nào mà dâng lên Ta cùng với bánh có men; tế
vật lễ Vượt Qua, ngươi không được giữ lại qua đêm cho đến sáng.
26
Của
đầu mùa tốt nhất của đất đai ngươi, ngươi phải đem đến nhà Ðức Chúa, Thiên Chúa
của ngươi. Ngươi không được lấy sữa dê mẹ mà nấu thịt dê con."
27
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy ghi chép những lời này, vì dựa trên chính
những lời này mà Ta đã lập giao ước với ngươi và với Ít-ra-en."
28
Ông
ở đó với Ðức Chúa bốn mươi ngày bốn mươi đêm, không ăn không uống, và ông viết
trên những bia các điều khoản của giao ước, tức là Thập Ðiều.
Ông
Mô-sê lại xuống núi
29
Ông
Mô-sê từ trên núi Xi-nai xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước, khi xuống núi,
ông Mô-sê không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa. 30
Khi ông A-ha-ron và toàn thể con cái con Ít-ra-en thấy ông Mô-sê, thì này
đây da mặt ông sáng chói, nên họ sợ không dám lại gần ông. 31 Ông
Mô-sê gọi họ: ông A-ha-ron và các đầu mục của cộng đồng trở lại với ông, và ông
nói chuyện với họ. 32 Sau đó, toàn thể con cái Ít-ra-en lại gần ông,
và ông truyền cho họ tất cả những điều Ðức Chúa đã phán với ông trên núi Xi-nai.
33 Nói với họ xong, ông lấy khăn che mặt đi. 34 Khi vào
trước nhan Ðức Chúa để đàm đạo với Người, thì ông bỏ khăn cho đến lúc trở ra;
ông trở ra và nói lại với con cái Ít-ra-en những mệnh lệnh ông đã nhận được. 35
Con cái Ít-ra-en nhìn mặt ông Mô-sê thấy da mặt ông sáng chói; ông Mô-sê
lại lấy khăn che mặt, cho đến khi vào đàm đạo với Thiên Chúa.
Chương 35
6.
Dựng Nơi Thánh
Luật
nghỉ ngày sa-bát
1
Ông
Mô-sê triệu tập toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và nói: "Ðây là những
điều Ðức Chúa truyền phải thi hành: 2 Trong sáu ngày, người ta sẽ
làm việc, nhưng đối với anh em, ngày thứ bảy sẽ là một ngày thánh, một ngày
sa-bát, một ngày nghỉ hoàn toàn, dành cho Ðức Chúa; kẻ nào làm việc trong ngày
ấy sẽ bị xử tử. 3 Anh em sẽ không được đốt lửa trong ngày sa-bát tại
những nơi anh em ở."
Quyên
góp vật liệu (Xh 25 : 1-9; 39:33 -43)
4
Ông
Mô-sê nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en: "Ðây là điều Ðức Chúa
đã truyền: 5 Anh em hãy lấy của cải mình mà đóng góp vào việc thờ
phượng Ðức Chúa. Ai có nhiệt tâm hãy mang đến phần dâng cúng dành cho Ðức Chúa:
vàng, bạc và đồng, 6 vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm, vải gai mịn
và lông dê, 7 da cừu nhuộm đỏ và da cá heo, gỗ keo, 8 dầu
thắp đèn, hương liệu để chế dầu tấn phong và làm hương thơm, 9 hồng
mã não và ngọc quý để đính vào áo ê-phốt và túi đeo trước ngực. 10 Trong
anh em, ai là người khéo tay thì hãy đến thực hiện tất cả những gì Ðức Chúa đã
truyền: 11 Nhà Tạm, lều và bạt, móc, ván, thanh ngang, cột và đế, 12
Hòm Bia và đòn khiêng, nắp xá tội, bức trướng làm màn che, 13 bàn
và đòn khiêng, mọi đồ phụ tùng và bánh tiến, 14 trụ đèn và các đồ
phụ tùng, đèn và dầu thắp đèn, 15 hương án và đòn khiêng, dầu tấn
phong và hương thơm, màn che cửa Nhà Tạm, 16 bàn thờ dâng lễ toàn
thiêu và vỉ đồng, đòn khiêng và mọi đồ phụ tùng; vạc và đế, 17 rèm
chung quanh khuôn viên, cột và đế, màn che cửa khuôn viên, 18 cọc
Nhà Tạm và cọc khuôn viên cũng như dây thừng; 19 phẩm phục để hành
lễ trong nơi thánh; lễ phục dành cho tư tế A-ha-ron và y phục các con ông mặc
để thi hành chức tư tế."
20
Toàn
thể cộng đồng con cái Ít-ra-en rời ông Mô-sê mà lui ra. 21 Rồi những
người có nhiệt tâm, mọi kẻ có tinh thần kéo đến, mang theo phần của mình dâng
cúng Ðức Chúa, để dựng Lều Hội Ngộ và làm những công việc liên quan đến Lều,
cũng như để may lễ phục. 22 Ðàn ông cũng như đàn bà kéo nhau đến:
tất cả những người có nhiệt tâm đem tới nào trâm, khuyên, nào nhẫn với kiềng,
mọi thứ đồ vàng; ai nấy đều lấy vàng làm lễ vật dâng Ðức Chúa. 23 Những
người có sẵn trong nhà vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm, vải gai mịn và lông
dê, da cừu nhuộm đỏ và da cá heo, thì cũng đem tới. 24 Tất cả những
ai lấy bạc và đồng mà dâng cúng, thì đem phần ấy dâng cho Ðức Chúa; và tất cả
những ai có sẵn trong nhà gỗ keo để dùng vào mọi công việc cần đến, thì cũng
đem tới. 25 Mọi phụ nữ khéo tay đã tự mình dệt, rồi đem những gì đã
dệt đến: vải đỏ tía và vải điều, vải đỏ thẫm và vải gai mịn. 26 Mọi
phụ nữ có nhiệt tâm và khéo tay thì lấy lông dê mà kéo sợi. 27 Các
thủ lãnh đem đến hồng mã não và ngọc quý để đính vào áo ê-phốt và túi đeo trước
ngực, 28 hương liệu, dầu thắp đèn, dầu tấn phong và hương nhang. 29
Mọi con cái Ít-ra-en, đàn ông cũng như đàn bà, có nhiệt tâm góp phần vào
mọi công việc Ðức Chúa đã dùng ông Mô-sê mà truyền phải thực hiện, thì đã đem
lễ vật tự nguyện dâng Ðưc Chúa.
Thợ
dựng nơi thánh (Xh 31:1-11 )
30
Ông
Mô-sê nói với con cái Ít-ra-en: "Anh em coi, Ðức Chúa đã gọi đích danh ông
Bơ-xan-ên, con ông U-ri, con ông Khua, thuộc chi tộc Giu-đa. 31 Người
đã ban cho ông ấy dồi dào thần khí của Thiên Chúa, để ông ấy thành người khéo
tay, giỏi giang và lành nghề mà làm mọi công việc, 32 để ông ấy nghĩ
ra những tác phẩm nghệ thuật, làm bằng vàng, bạc, hay đồng, 33 mài
ngọc đính áo, chạm gỗ và thực hiện mọi công việc nghệ thuật. 34 Người
còn ban tài dạy bảo cho ông ấy, cũng như cho ông O-ho-li-áp, con của ông
A-khi-xa-mác, thuộc chi tộc Ðan. 35 Người đã cho họ lòng trí dồi dào
khôn ngoan để thực hiện mọi tác phẩm của thợ chạm, của người nghệ sĩ, của thợ
thêu dùng chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm, sợi gai mịn, cũng như của thợ dệt:
tất cả những người thực hiện mọi công việc, và nghĩ ra những tác phẩm nghệ
thuật.
Chương 36
1
Ông
Bơ-xan-ên, ông O-ho-li-áp và mọi người lòng trí khôn ngoan mà Ðức Chúa đã ban
cho được khéo tay và giỏi giang, để biết chu toàn mọi việc phục vụ nơi thánh,
những người ấy sẽ làm theo tất cả những gì Ðức Chúa đã truyền.
Ông
Mô-sê cho ngưng quyên góp vật liệu
2
Ông
Mô-sê gọi các ông Bơ-xan-ên và O-ho-li-áp lại, cùng với mọi người lòng trí khôn
ngoan đã được Ðức Chúa đặt sự khôn ngoan vào lòng, mọi kẻ có nhiệt tâm bắt tay
vào việc. 3 Mọi phần dâng cúng mà con cái Ít-ra-en đã mang tới trước
mặt ông Mô-sê để dùng vào việc phục vụ nơi thánh, thì họ đem đi để thực hiện
công trình. Nhưng sáng nào, con cái Ít-ra-en cũng cứ đem lễ vật tự nguyện tới, 4
nên tất cả những người thợ khéo tay đang thực hiện mọi công việc phục vụ
nơi thánh đều ngưng công việc đang làm, để tới 5 nói với ông Mô-sê: "Dân
chúng đem dâng quá số cần thiết cho công việc mà Ðức Chúa đã truyền làm.” 6
Ông Mô-sê ra lệnh phải rao trong trại những lời này: "Xin mọi người,
nam cũng như nữ, đừng dâng cúng gì thêm cho nơi thánh." Và dân đã ngừng,
không đem gì tới nữa. 7 Vật liệu đã đủ cho mọi công việc phải làm,
mà còn dư thừa nữa.
Nhà
Tạm (Xh 26:1-14)
8
Trong
đám thợ đang thực hiện công trình, tất cả những người khôn ngoan tài giỏi thì
dựng Nhà Tạm; ông Mô-sê cho dựng Nhà đó với mười tấm thảm bằng sợi gai mịn xe,
chỉ đỏ tía, chỉ điều và chỉ đỏ thẫm; ông cho thêu trên đó những thần hộ giá rất
mỹ thuật. 9 Mỗi tấm thảm dài mười bốn thước, rộng hai thước; tấm nào
cũng có kích thước như vậy. 10 Ông cho khâu năm tấm này liền với
nhau và năm tấm kia liền với nhau. 11 Ông cho lấy vải đỏ tía làm dải
đính vào mép tấm thứ nhất của những tấm thảm ráp lại; ông cũng cho đính như thế
vào mép tấm cuối cùng của những tấm thảm ráp lại bên kia. 12 Ông cho
đính năm mươi dải vào tấm thứ nhất, và cũng cho đính năm mươi dải vào mép tấm
cuối cùng của những tấm thảm ráp lại bên kia; các dải ấy phải thật cân đối với
nhau. 13 Ông cho làm năm mươi cái móc bằng vàng, và dùng những móc
ấy để nối các tấm vải bố lại với nhau. Như thế, Nhà Tạm thành một khối duy nhất.
14 Ông cho làm những tấm thảm lông dê để làm một cái lều, ở bên trên
Nhà Tạm; ông cho làm mười một tấm. 15 Mỗi tấm dài mười lăm thước,
rộng hai thước. Mười một tấm đều có cùng một kích thước. 16 Ông cho
khâu liền năm tấm thành một mái, và sáu tấm kia thành một mái khác. 17 Ông
cho đính năm mươi dải vào mép tấm thứ nhất của những tấm thảm ráp lại, và ông
cũng cho đính năm mươi dải vào mép tấm cuối cùng của những tấm thảm ráp lại bên
kia. 18 Ông cho làm năm mươi móc bằng đồng để ghép lại thành một cái
lều, sao cho chỉ có một lều duy nhất. 19 Ông cho làm một tấm bạt che
lều bằng da cừu nhuộm đỏ, và một tấm bạt bằng da cá heo phủ ở bên trên.
Khung
lều (Xh 26:15 -30)
20
Ông
cho lấy những tấm ván gỗ keo dựng thẳng lên để căng Nhà Tạm. 21 Mỗi
tấm dài năm thước, rộng bảy tấc rưỡi. 22 Mỗi tấm có hai mộng song
song. Ông cho làm mọi tấm ván của Nhà Tạm theo kiểu đó. 23 Ông cho
đặt ván để dựng Nhà Tạm như sau: hai mươi tấm hướng về Ne-ghép, về phía nam. 24
Ông cho làm bốn mươi đế bạc đặt dưới hai mươi tấm ván đó: hai đế dưới một
tấm ván ăn khớp với hai mộng của ván, và hai đế dưới tấm ván khác ăn khớp với
hai mộng của ván. 25 Hông bên kia của Nhà Tạm, hướng bắc, ông cho
đặt hai mươi tấm ván, 26 và cũng cho làm bốn mươi đế bạc, cứ hai đế
dưới một tấm, hai đế dưới một tấm. 27 Phía trong cùng Nhà Tạm, hướng
tây, ông cho đặt sáu tấm ván. 28 Ông cho đặt hai tấm ván ở các góc
Nhà Tạm, ở phía trong cùng. 29 Các tấm ván được ghép đôi lại với
nhau ở phía dưới, và ghép đôi như thế cho tới đỉnh, chỗ vòng thứ nhất. Ông cho
đóng hai tấm ván như thế ở hai góc. 30 Vậy có tám tấm ván với các đế
bạc, tất cả là mười sáu đế: cứ hai đế dưới một tấm, hai đế dưới một tấm. 31
Ông cho làm các thanh ngang bằng gỗ keo: năm cái cho các tấm ván ở hông
thứ nhất của Nhà Tạm; 32 và năm cái cho các tấm ván hông bên kia của
Nhà Tạm; cũng như năm cái cho các tấm ván phía trong cùng Nhà Tạm, hướng tây. 33
Ông cho làm thanh ngang giữa, cho nó nằm ở nửa độ cao các tấm ván, chạy
suốt từ đầu này đến đầu kia. 34 Ông cho thiếp vàng các tấm ván; ông
cho đúc những vòng bằng vàng để xỏ các thanh ngang; ông cũng cho thiếp vàng các
thanh ngang ấy.
Bức
trướng (Xh 26:31 -37)
35
Ông
cho làm bức trướng bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và sợi gai mịn xe.
Ông cho thêu trên đó những thần hộ giá rất mỹ thuật. 36 Ông cho làm
bốn cột gỗ keo thiếp vàng, có những móc bằng vàng để treo bức màn trướng; và
ông cho đúc bốn đế bạc để dựng những cột ấy. 37 Ông cho làm một bức
màn che cửa lều bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và sợi gai mịn xe: đó là
công việc của thợ thêu; 38 Ông cũng cho làm năm cột có móc, cho
thiếp vàng đầu cột và thanh treo bức trướng; còn năm đế thì bằng đồng.
Chương 37
Hòm
Bia (Xh 25:10-22)
1
Ông
Bơ-xan-ên làm Hòm Bia bằng gỗ keo, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao
bảy tấc rưỡi. 2 Ông lấy vàng ròng mà bọc cả trong lẫn ngoài; ông làm
một đường viền chung quanh bằng vàng. 3 Ông đúc cho Hòm Bia bốn
chiếc vòng bằng vàng gắn vào bốn chân: bên này hai vòng, bên kia hai vòng. 4
Ông làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng. 5 Ông xỏ đòn vào
những vòng bên sườn Hòm Bia để khiêng. 6 Ông làm một cái nắp xá tội
bằng vàng ròng, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi. 7 Ông làm hai
tượng thần hộ giá bằng vàng, ông làm bằng vàng gò và đặt ở hai đầu nắp: 8 một
tượng ở đầu này, một tượng ở đầu kia. Ông làm các tượng thần hộ giá gắn liền
với nắp, ở hai đầu. 9 Các tượng thần hộ giá có hai cánh giương lên và
phủ trên nắp. Hai tượng đối diện nhau, cùng cúi mặt xuống nắp.
Bàn
để bánh tiến (Xh 25:23-30)
10
Ông
làm cái bàn bằng gỗ keo, dài một thước, rộng nửa thước và cao bảy tấc rưỡi. 11
Ông lấy vàng ròng mà bọc, và ông làm một đường viền chung quanh bằng vàng.
12 Chung quanh bàn, ông đóng nẹp rộng một tấc và viền nẹp bằng vàng.
13 Ông đúc bốn vòng bằng vàng và đặt các vòng đó vào bốn góc, ở bốn
chân bàn. 14 Các vòng đó ở gần nẹp, dùng để xỏ đòn khiêng bàn. 15
Ông làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng để khiêng bàn. 16 Ông
làm những đồ dùng để trên bàn: khay, ly, chén và bình để tế lễ; ông làm những
đồ ấy bằng vàng ròng.
Trụ
đèn (Xh 25:31-40)
17
Ông
làm trụ đèn bằng vàng ròng. Ông làm trụ đèn, chân đèn và nhánh đèn bằng vàng
gò; đài hoa, nụ hoa và cánh hoa gắn liền với trụ đèn. 18 Sáu nhánh
đâm ra hai bên: ba nhánh bên này, ba nhánh bên kia. 19 Trên nhánh
bên này, có ba đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ và cánh hoa; trên nhánh bên
kia, có ba đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ hoa và cánh hoa. Sáu nhánh từ trụ
đèn đâm ra đều như thế. 20 Ở thân trụ đèn, có bốn đài hoa hình hoa
hạnh đào, với nụ và cánh hoa. 21 Một nụ hoa nằm dưới hai nhánh đầu
gắn liền với trụ đèn, một nụ hoa nằm dưới hai nhánh giữa gắn liền với trụ đèn,
và một nụ hoa nằm dưới hai nhánh cuối gắn liền với trụ đèn. Sáu nhánh từ trụ
đèn đâm ra đều như thế. 22 Các nụ hoa và nhánh đều gắn liền với trụ
đèn; tất cả thành một khối bằng vàng gò, bằng vàng ròng. 23 Ông làm
bảy cái đèn, kéo cắt bấc và đĩa đựng tàn bằng vàng ròng. 24 Ông dùng
ba mươi ký vàng ròng để làm trụ đèn cũng như mọi đồ dùng.
Hương
án. Dầu tấn phong và hương thơm. (Xh 30:1-5)
25
Ông
làm hương án bằng gỗ keo. Hương án đó dài nửa thước, rộng nửa thước - nghĩa là
hình vuông - và cao một thước; các góc hình sừng làm thành một khối với hương
án. 26 Ông lấy vàng ròng mà bọc hương án: mặt trên, bốn mặt chung
quanh và các góc. Chung quanh hương án, ông làm một đường viền bằng vàng. 27
Ông làm hai vòng bằng vàng, phía dưới đường viền, ở hai bên sườn, ở hai
bên, để xỏ đòn khiêng hương án. 28 Ông làm những cây đòn bằng gỗ keo
bọc vàng. 29 Ông pha chế dầu thánh để tấn phong, cũng như hương thơm
nguyên chất, là sản phẩm của thợ chế nước hoa.
Chương 38
Bàn
thờ dâng lễ toàn thiêu (Xh 27:1-8)
1
Ông
làm bàn thờ dâng lễ toàn thiêu bằng gỗ keo: dài hai thước rưỡi, rộng hai thước
rưỡi - nghĩa là hình vuông -, cao một thước rưỡi; 2 ông làm bốn cái
sừng ở bốn góc, các sừng ấy làm thành một khối với bàn thờ. Ông lấy đồng mà bọc
bàn thờ. 3 Ông làm các đồ dùng trên bàn thờ: nồi, xẻng, bình rảy,
xiên và lư hương; các đồ dùng ấy, ông làm bằng đồng. 4 Ông làm một
cái vỉ bằng đồng, hình lưới, bọc quanh chân bàn thờ, từ đất lên đến nửa chiều
cao của bàn thờ. 5 Ông đúc bốn chiếc vòng đặt ở bốn góc vỉ đồng,
dùng để xỏ đòn. 6 Ông làm những cây đòn bằng gỗ keo, và bọc đồng
những đòn ấy. 7 Ông xỏ đòn vào vòng ở hai bên bàn thờ, để khiêng.
Ông làm bàn thờ rỗng, bằng ván ghép lại.
Vạc
đồng (Xh 30:18)
8
Ông
làm cái vạc đồng có đế cũng bằng đồng, với những gương soi cho phụ nữ phục vụ ở
cửa Lều Hội Ngộ.
Khuôn
viên (Xh 27:9-19)
9
Ông
làm khuôn viên. Phía nam, hướng Ne-ghép, khuôn viên có những tấm rèm bằng sợi
gai mịn xe dài năm mươi thước. 10 Hai mươi cột treo rèm dựng trên
hai mươi đế bằng đồng; móc ở các cột và thanh treo rèm thì bằng bạc. 11 Phía
bắc, có những tấm rèm năm mươi thước; hai mươi cột treo rèm dựng trên hai mươi
đế bằng đồng; móc ở các cột và thanh treo rèm thì bằng bạc. 12 Phía
biển, có những tấm rèm hai mươi lăm thước, với mười cột và mười đế. 13 Về
hướng đông, phía mặt trời mọc, khuôn viên rộng hai mươi lăm thước; 14 một
bên che tấm rèm bảy thước rưỡi, có ba cột với ba đế; 15 bên kia, -
nghĩa là hai bên cửa khuôn viên -, cũng che tấm rèm bảy thước rưỡi, có ba cột
với ba đế. 16 Tất cả các rèm chung quanh khuôn viên đều bằng sợi gai
mịn xe. 17 Những đế cột thì bằng đồng, những móc ở các cột và thanh
treo rèm thì bằng bạc, đầu cột thiếp bạc. Như vậy, mọi cột trong khuôn viên đều
nối liền với nhau nhờ những thanh treo rèm bằng bạc. 18 Bức màn ở
cửa khuôn viên thì bằng chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe: đó
là công việc của thợ thêu. Bức màn đó dài mười thước, cao - nghĩa là rộng -,
hai thước rưỡi, như những tấm rèm của khuôn viên. 19 Bốn cột treo
rèm và bốn đế thì bằng đồng, móc bằng bạc, đầu cột thiếp bạc, thanh treo rèm
cũng bằng bạc. 20 Mọi cái cọc của Nhà Tạm và chung quanh khuôn viên
đều bằng đồng.
Bảng
kết toán
21
Ðây
là bảng kết toán về Nhà Tạm, Nhà Tạm Chứng Ước. Ông Mô-sê đã ra lệnh cho các
thầy Lê-vi, dưới sự hướng dẫn của ông I-tha-ma, con của tư tế A-ha-ron, phải
làm bảng này.
22
Chính
ông Bơ-xan-ên, con ông U-ri, con ông Khua, thuộc chi tộc Giu-đa, đã thi hành
mọi điều Ðức Chúa truyền cho ông Mô-sê. 23 Người phụ tá của ông là
O-ho-li-áp, con của ông A-khi-xa-mác, thuộc chi tộc Ðan; ông là thợ chạm và là
nghệ nhân, là thợ thêu chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn.
24
Tổng
số vàng dân đã dâng cúng để dùng vào công trình, công trình dựng nơi thánh, là
tám trăm bảy mươi ký và hai trăm hai mươi lượng, tính theo đơn vị đo lường của
thánh điện. 25 Số bạc những người trong cộng đồng thuộc diện kiểm
tra dân số đã dâng là ba ngàn ký và năm trăm ba mươi lượng, tính theo đơn vị đo
lường của thánh điện. 26 Mỗi đầu người là hai chỉ bạc, tức là nửa
se-ken, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện; bất cứ ai thuộc diện kiểm tra
dân số từ hai mươi tuổi trở lên, tức là sáu trăm lẻ ba ngàn năm trăm năm mươi
người, đều phải đóng góp như vậy. 27 Ba ngàn ký bạc để đúc các đế
của nơi thánh và của bức trướng: một trăm đế mất ba ngàn ký, mỗi đế ba mươi ký.
28 Ông dùng năm trăm ba mươi lượng để làm móc cột, thiếp đầu cột và
nối các cột lại nhờ những thanh treo màn. 29 Số đồng người ta dâng
cúng là hai ngàn một trăm hai mươi bốn ký. 30 Ông đem dùng làm các
đế đặt ở cửa Lều Hội Ngộ, bàn thờ đồng và vỉ đồng, mọi đồ phụ tùng của bàn thờ,
31 các đế chung quanh khuôn viên, các đế ở cửa khuôn viên, mọi cái
cọc của Nhà Tạm và chung quanh khuôn viên.
Chương 39
Y
phục của thượng tế
1
Người
ta lấy chỉ đỏ tía, chỉ điều và chỉ đỏ thẫm làm phẩm phục để dùng khi hành lễ
trong nơi thánh. Người ta làm lễ phục cho ông A-ha-ron, như Ðức Chúa đã truyền
cho ông Mô-sê.
Áo
ê-phốt (Xh 2 8:6-14)
2
Người
ta làm áo ê-phốt bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai
mịn xe. 3 Người ta cán vàng thành từng lá và kéo thành chỉ để xen
vào chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn, và làm nên một công trình
rất mỹ thuật. 4 Người ta làm cầu vai cho áo ê-phốt và hai thân áo
ê-phốt được khâu liền vào hai đầu cầu vai. 5 Băng chéo đeo trên áo
ê-phốt để giữ áo thì đính liền vào đó; băng chéo đó làm cùng một kiểu với áo
ê-phốt: bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe, như
Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 6 Người ta giũa mã não, nhận vào
những ổ bằng vàng, khắc tên con cái Ít-ra-en vào các viên ngọc đó theo kiểu thợ
chạm khắc dấu ấn. 7 Người ta đặt các viên ngọc đó trên cầu vai của
áo ê-phốt để làm kỷ vật tưởng nhớ con cái Ít-ra-en, như Ðức Chúa đã truyền cho
ông Mô-sê.
Túi
đeo trước ngực (Xh 28:15-30)
8
Người
ta may túi đeo trước ngực rất mỹ thuật theo kiểu áo ê-phốt: bằng chỉ vàng, chỉ
đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe. 9 Túi đó hình vuông
may kép, dài một gang, rộng một gang. 10 Người ta nhận vào đó bốn
hàng ngọc: ở hàng thứ nhất có nhận xích não, hoàng ngọc và bích ngọc; 11 ở
hàng thứ hai có nhận hồng ngọc, lam ngọc và kim cương; 12 Ở hàng thứ
ba có nhận miêu nhãn thạch, mã não và tử ngọc; 13 ở hàng thứ tư có
nhận kim lục thạch, mã não có vân và vân thạch. Những viên ngọc đó được nhận
vào những ổ bằng vàng. 14 Các viên ngọc mang tên con cái Ít-ra-en:
mười hai viên ngọc mang mười hai tên của họ khắc theo kiểu dấu ấn, mỗi viên
ngọc mang tên của một trong mười hai chi tộc. 15 Người ta làm cho
túi đeo trước ngực những dây chuyền khoen lật bằng vàng ròng để làm dải buộc. 16
Người ta làm hai ổ bằng vàng và hai vòng bằng vàng, và đính hai vòng đó
vào hai góc túi. 17 Người ta xâu hai dây chuyền khoen lật bằng vàng
đó vào hai vòng đặt ở góc túi. 18 Người ta đặt hai đầu dây chuyền
khoen lật vào hai ổ, rồi đặt lên cầu vai của áo ê-phốt, mặt phải. 19 Người
ta làm hai vòng bằng vàng, rồi gắn vào hai đầu túi ở mép trong, mặt trái áp áo
ê-phốt. 20 Người ta làm hai vòng bằng vàng, rồi đính vào hai cầu vai
của áo ê-phốt bên dưới, mặt phải, gần chỗ buộc, bên trên băng chéo của áo
ê-phốt. 21 Người ta lấy một dải vải đỏ tía mà buộc các vòng của túi
đeo trước ngực vào các vòng của áo ê-phốt, để túi nằm trên băng chéo của áo
ê-phốt: như thế, túi không xê dịch được trên áo ê-phốt, như Ðức Chúa đã truyền
cho ông Mô-sê.
Áo
khoác (Xh 28:31 -35)
22
Người
ta làm áo khoác toàn bằng sợi đỏ tía: đó là công trình của thợ dệt. 23 Cổ
áo khoét ở giữa giống như cổ áo giáp: đường viền chung quanh cổ áo không sao
rách được. 24 Người ta làm ở gấu dưới của áo khoác những quả lựu
bằng chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe. 25 Người
ta làm những lục lạc bằng vàng ròng, rồi xếp những lục lạc đó xen kẽ với những
quả lựu, vòng quanh gấu dưới áo khoác, xen kẽ với những quả lựu: 26 một
lục lạc rồi một quả lựu, một lục lạc rồi một quả lựu, vòng quanh gấu dưới áo
khoác, để cử hành nghi lễ, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
Y
phục tư tế (Xh 28:40-43)
27
Người
ta làm những áo dài bằng sợi gai mịn cho ông A-ha-ron và các con ông: đó là
công trình của thợ dệt; 28 người ta cũng làm mũ tế bằng sợi gai mịn,
khăn chít bằng sợi gai mịn để trang sức, quần bằng sợi gai, sợi gai mịn xe, 29
đai lưng bằng sợi gai mịn xe, bằng chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm: đó
là công trình của thợ thêu, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
30
Người
ta làm huy hiệu bằng vàng ròng, là dấu thánh hiến, và ghi trên đó những chữ sau
đây theo kiểu khắc dấu ấn: "Thánh hiến cho Ðức Chúa.” 31 Người
ta đính nó trên một dây bằng chỉ đỏ tía buộc vào phía trên mũ tế, như Ðức Chúa
đã truyền cho ông Mô-sê.
32
Như
thế, mọi công việc dựng Nhà Tạm, dựng Lều Hội Ngộ đều hoàn thành. Con cái
Ít-ra-en làm mọi sự đúng y như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
33
Họ
đem lại cho ông Mô-sê Nhà Tạm, gồm: Lều và mọi đồ phụ tùng, móc, ván, thanh
ngang, cột và đế; 34 bạt bằng da cừu nhuộm đỏ và bạt bằng da cá heo,
bức trướng dùng làm màn che; 35 Hòm Bia Chứng Ước, đòn khiêng và nắp
xá tội; 36 bàn và mọi đồ dùng, bánh tiến; 37 trụ đèn bằng
vàng ròng và các thứ đèn đặt trên đó, mọi đồ dùng và dầu thắp đèn; 38 bàn
thờ bằng vàng, dầu tấn phong, hương thơm, màn che cửa Lều; 39 bàn
thờ bằng đồng và vỉ bằng đồng, đòn khiêng và mọi đồ dùng, vạc và đế; 40 màn
của khuôn viên, cột, đế và tấm màn che cửa khuôn viên, dây thừng và cọc, cũng
như mọi đồ dùng để phục vụ Nhà Tạm, cần cho Lều Hội Ngộ; 41 phẩm
phục để hành lễ trong nơi thánh, lễ phục dành cho tư tế A-ha-ron và y phục các
con ông mặc để thi hành chức tư tế. 42 Con cái Ít-ra-en thực hiện
tất cả công trình đó hoàn toàn đúng y như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
43
Ông
Mô-sê nhìn xem mọi công việc đó: họ thực hiện đúng y như Ðức Chúa đã truyền.
Ông Mô-sê chúc phúc cho họ.
Chương 40
Dựng
và thánh hiến Nhà Tạm
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Vào ngày mồng một tháng giêng,
ngươi sẽ dựng Nhà Tạm, dựng Lều Hội Ngộ. 3 Ngươi sẽ đặt vào đó Hòm
Bia Chứng Ước và lấy bức trướng mà che Hòm Bia ấy. 4 Ngươi sẽ đem
bàn tới và bày trên đó những gì cần phải bày ra. Ngươi sẽ đem trụ đèn tới và
đặt đèn lên đó. 5 Ngươi sẽ đặt hương án bằng vàng trước Hòm Bia
Chứng Ước, và treo màn che cửa Nhà Tạm. 6 Ngươi sẽ đặt bàn thờ dâng
lễ toàn thiêu trước cửa Nhà Tạm, trước cửa Lều Hội Ngộ. 7 Ngươi sẽ
đặt cái vạc ở giữa Lều Hội Ngộ và bàn thờ, và đổ nước vào đó. 8 Ngươi
sẽ làm khuôn viên chung quanh và treo màn che cửa khuôn viên. 9 Ngươi
sẽ lấy dầu tấn phong xức Nhà Tạm và tất cả những gì trong đó; ngươi sẽ thánh
hiến Nhà Tạm và mọi đồ vật trong đó; như thế, Nhà Tạm sẽ là vật thánh. 10 Ngươi
sẽ xức dầu bàn thờ dâng lễ toàn thiêu và mọi đồ dùng; ngươi sẽ thánh hiến bàn
thờ, và bàn thờ sẽ là vật rất thánh. 11 Ngươi sẽ xức dầu cái vạc và
đế, ngươi sẽ thánh hiến cái vạc đó. 12 Ngươi sẽ dẫn A-ha-ron và các
con ông đến gần cửa Lều Hội Ngộ và lấy nước tẩy rửa họ. 13 Ngươi sẽ
lấy phẩm phục mặc cho A-ha-ron, xức dầu thánh hiến để ông ấy thi hành chức tư
tế phục vụ Ta. 14 Ngươi sẽ dẫn các con ông lại gần và cho họ mặc áo
dài. 15 Ngươi đã xức dầu họ như đã xức dầu cha họ, để họ thi hành
chức tư tế phục vụ Ta. Ngươi sẽ làm như thế, để nhờ việc xức dầu, họ trở nên tư
tế vĩnh viễn, đời nọ đến đời kia.
Thi
hành mệnh lệnh của Thiên Chúa
16
Ông
Mô-sê làm mọi sự đúng y như Ðức Chúa đã truyền cho ông. 17 Ngày mồng
một tháng giêng năm thứ hai, Nhà Tạm được dựng lên. 18 Ông Mô-sê cho
dựng Nhà Tạm. Ông cho đặt đế, ghép ván, đặt thanh ngang và dựng cột. 19 Ông
cho căng lều trên Nhà Tạm, lấy bạt che phía trên lều, như Ðức Chúa đã truyền
cho ông Mô-sê. 20 Ông lấy Chứng Ước đặt vào Hòm Bia, xỏ đòn vào Hòm
Bia, đặt nắp xá tội lên trên đó. 21 Ông rước Hòm Bia vào trong Nhà
Tạm và treo bức trướng để che khuất Hòm Bia Chứng Ước, như Ðức Chúa đã truyền
cho ông Mô-sê. 22 Ông cho đặt chiếc bàn trong Lều Hội Ngộ, bên cạnh
Nhà Tạm, phía bắc, bên ngoài bức trướng, 23 rồi cho bày một hàng
bánh trên đó, trước nhan Ðức Chúa, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 24
Ông cho đặt trụ đèn trong Lều Hội Ngộ, đối diện với bàn, bên cạnh Nhà
tạm, phía nam, 25 rồi cho đặt đèn lên đó, trước nhan Ðức Chúa, như
Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 26 Ông cho đặt bàn thờ bằng vàng
trong Lều Hội Ngộ, phía trước bức trướng, 27 rồi cho đốt hương thơm
trên đó, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 28 Ông cho treo màn
che cửa Nhà Tạm. 29 Bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, ông cho đặt ở cửa
Nhà Tạm, ở cửa lều Hội Ngộ, rồi ông dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm trên đó, như
Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 30 Ông cho đặt cái vạc ở giữa Lều
Hội Ngộ và bàn thờ, rồi đổ nước vào đó, để dùng vào việc tẩy rửa. 31 Ông
A-ha-ron và các con ông lấy nước ấy mà rửa tay chân. 32 Mỗi khi họ
vào Lều Hội Ngộ và tới gần bàn thờ, thì họ tẩy rửa, như Ðức Chúa đã truyền cho
ông Mô-sê. 33 Ông cho làm khuôn viên chung quanh Nhà Tạm và bàn thờ,
rồi cho treo màn che cửa khuôn viên. Như thế, ông Mô-sê đã hoàn thành công
việc.
Ðức
Chúa chiếm hữu Nhà Tạm (Ðn 9:15-16)
34
Ðám
mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang Ðức Chúa đầy tràn Nhà Tạm. 35 Ông
Mô-sê không thể vào Lều Hội Ngộ vì đám mây đậu trên đó, và vinh quang Ðức Chúa
đầy tràn Nhà Tạm.
Mây
dẫn đường cho dân Ít-ra-en (Ðn 9:17 -23)
36
Ở
mỗi chặng đường của họ, khi nào đám mây bay lên khỏi Nhà Tạm, thì con cái
Ít-ra-en nhổ trại. 37 Nếu mây không bay lên, thì họ không nhổ trại
cho đến ngày mây lại bay lên. 38 Quả vậy, đám mây của Ðức Chúa đậu
trên Nhà Tạm ban ngày, còn ban đêm thì có lửa trong mây, trước mắt toàn thể con
cái Ít-ra-en, ở mỗi chặng đường họ đi.
Lêvi
Chương 01
Lễ
toàn thiêu
1
Ðức
Chúa gọi ông Mô-sê, và từ Lều Hội Ngộ, Người phán với ông rằng:
2
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Khi một người trong các ngươi dâng lễ
tiến lên Ðức Chúa, nếu là gia súc thì các ngươi phải dâng bò hay chiên dê làm
lễ tiến.
3
Nếu
người ấy tiến dâng một con bò làm lễ toàn thiêu, thì phải tiến dâng một con đực
toàn vẹn; người ấy sẽ tiến dâng nó ở cửa Lều Hội Ngộ, để được Ðức Chúa đoái
nhận. 4 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật dâng làm lễ toàn thiêu,
và nó sẽ được đoái nhận để cử hành nghi thức xá tội cho người ấy. 5 Người
ấy sẽ sát tế con bò tơ trước nhan Ðức Chúa, và các con A-ha-ron là các tư tế,
sẽ tiến dâng máu; chúng sẽ rảy máu chung quanh bàn thờ đặt ở cửa Lều Hội Ngộ. 6
Người ấy sẽ lột da con vật dâng làm lễ toàn thiêu, và xả nó ra từng mảnh.
7 Các con A-ha-ron, là các tư tế, sẽ nhóm lửa trên bàn thờ và xếp
củi trên lửa. 8 Các con A-ha-ron là các tư tế, sẽ xếp các mảnh thịt,
cùng với đầu và mỡ, trên củi đặt trên lửa ở bàn thờ. 9 Còn lòng và
chân, người ấy sẽ lấy nước mà rửa, rồi tư tế sẽ đốt tất cả cho cháy nghi ngút
trên bàn thờ. Ðó là lễ toàn thiêu, lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức
Chúa.
10
Nếu
người ấy tiến dâng chiên dê làm lễ toàn thiêu, một con chiên con hay một con
dê, thì phải tiến dâng một con đực toàn vẹn. 11 Người ấy sẽ sát tế
nó bên cạnh bàn thờ, về phía bắc, trước nhan Ðức Chúa, và các con A-ha-ron là
các tư tế, sẽ rảy máu nó chung quanh bàn thờ. 12 Người ấy sẽ xả nó
ra từng mảnh, rồi tư tế sẽ xếp những mảnh ấy, cùng với đầu và mỡ, trên củi đặt
trên lửa ở bàn thờ. 13 Còn lòng và chân, người ấy sẽ lấy nước mà
rửa, rồi tư tế sẽ tiến dâng tất cả và đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. Ðó
là lễ toàn thiêu, lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. 14 Nếu
người ấy tiến dâng lên Ðức Chúa một con chim làm lễ toàn thiêu, thì phải dâng
chim gáy hoặc bồ câu non. 15 Tư tế sẽ tiến dâng nó tại bàn thờ, cấu
đầu nó và đốt nó cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, máu thì bóp vào thành bàn thờ.
16 Tư tế sẽ lấy cái diều và bộ lông ra, ném bên cạnh bàn thờ, về
phía đông, vào chỗ đổ tro. 17 Người ta sẽ chặt đôi nó ở giữa hai
cánh, nhưng không tách hẳn ra; tư tế sẽ đốt nó cho cháy nghi ngút trên bàn thờ,
trên củi đặt trên lửa. Ðó là lễ toàn thiêu, lễ hoả tế, là hương thơm làm vui
lòng Ðức Chúa.
Chương 02
Lễ
phẩm
1
Khi
có ai tiến dâng lễ phẩm lên Ðức Chúa, thì phải dâng tinh bột; người ấy sẽ rưới
dầu lên trên và đổ nhũ hương vào. 2 Người ấy sẽ đưa lễ phẩm đến cho
các con A-ha-ron là các tư tế. Tư tế sẽ bốc một nắm đầy tinh bột, dầu và tất cả
nhũ hương, rồi đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, làm kỷ vật dành cho Ðức
Chúa. Ðó là lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. 3 Phần
còn lại của lễ phẩm thì thuộc về A-ha-ron và các con nó; đó là phần rất thánh
lấy từ các lễ hoả tế dâng Ðức Chúa.
4
Khi
(các) ngươi dâng lễ phẩm là bột nhào nướng lò làm lễ tiến, thì đó phải là tinh
bột làm thành bánh ngọt không men nhào với dầu, và làm thành bánh tráng không
men phết dầu.
5
Nếu
lễ tiến của (các) ngươi là một lễ phẩm nướng chảo, thì phải là tinh bột nhào
với dầu, không men. 6 (Các) ngươi sẽ bẻ nó ra từng miếng và rưới dầu
lên trên. Ðó là lễ phẩm. 7 Nếu lễ tiến của (các) ngươi là một lễ
phẩm nấu trong nồi, thì phải làm bằng tinh bột với dầu.
8
(Các)
ngươi sẽ đem đến dâng Ðức Chúa lễ phẩm làm bằng các thứ ấy; người ta sẽ tiến
dâng cho tư tế, tư tế sẽ đem đến gần bàn thờ. 9 Từ lễ phẩm ấy, tư tế
sẽ lấy ra phần kỷ vật dành cho Ðức Chúa, đem đốt cho cháy nghi ngút trên bàn
thờ. Ðó là lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa.
10
Phần
còn lại của lễ phẩm thì thuộc về A-ha-ron và các con; đó là phần rất thánh lấy
từ các lễ hoả tế dâng Ðức Chúa.
11
Không
lễ phẩm nào (các) ngươi tiến dâng Ðức Chúa được làm bằng chất lên men, vì (các)
ngươi không bao giờ được lấy men và lấy mật ong mà đốt cho cháy nghi ngút làm
lễ hoả tế dâng Ðức Chúa. 12 (Các) ngươi có thể dâng những thứ ấy lên
Ðức Chúa làm lễ tiến sản phẩm đầu mùa, nhưng không được đưa lên bàn thờ để
thành hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. 13 (Các) ngươi phải bỏ muối
vào mọi lễ phẩm (các) ngươi dâng tiến; (các) ngươi không được để lễ phẩm (các)
ngươi thiếu muối của giao ước của Thiên Chúa (các) ngươi; (các) ngươi phải dâng
muối cùng với mọi lễ tiến của (các) ngươi. 14 Nếu (các) ngươi tiến
dâng Ðức Chúa của đầu mùa làm lễ phẩm, thì phải tiến dâng gié lúa rang, hột lúa
mới đã xay, làm lễ phẩm của đầu mùa. 15 (Các) ngươi sẽ đổ dầu lên
trên và bỏ nhũ hương vào. Ðó là lễ phẩm. 16 Tư tế sẽ đốt cho cháy
nghi ngút phần kỷ vật dành cho Ðức Chúa, tức là một phần hột lúa xay và dầu
cùng với tất cả nhũ hương. Ðó là lễ hoả tế dâng Ðức Chúa.
Chương 03
Hy
lễ kỳ an
1
Nếu
lễ tiến của người ấy là một hy lễ kỳ an, và người ấy muốn tiến dâng bò đực hay
bò cái, thì phải tiến dâng trước nhan Ðức Chúa một con vật toàn vẹn. 2 Người
ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật dâng làm lễ tiến, và sẽ sát tế nó ở cửa Lều Hội
Ngộ. Các con A-ha-ron, là các tư tế, sẽ rảy máu nó chung quanh bàn thờ. 3 Người
ấy sẽ tiến dâng một phần hy lễ kỳ an làm lễ hoả tế dâng Ðức Chúa, đó là lớp mỡ
bọc ngoài bộ lòng, tất cả lớp mỡ ở trên bộ lòng, 4 hai trái cật và
lớp mỡ bọc ngoài, gần lưng, và khối mỡ trên gan mà người ấy sẽ tách ra cùng với
các trái cật. 5 Các con A-ha-ron sẽ đốt những thứ ấy cho cháy nghi
ngút trên bàn thờ, bên trên lễ toàn thiêu đặt trên củi ở trên lửa. Ðó là lễ hoả
tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa.
6
Nếu
người ấy tiến dâng chiên dê làm lễ kỳ an dâng Ðức Chúa, thì phải tiến dâng một
con đực hay một con cái toàn vẹn.
7
Nếu
người ấy dâng một chiên con làm lễ tiến, thì phải tiến dâng nó trước nhan Ðức
Chúa. 8 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật dâng làm lễ tiến, và sẽ
sát tế nó trước Lều Hội Ngộ. Các con A-ha-ron sẽ rảy máu nó chung quanh bàn thờ.
9 Người ấy sẽ tiến dâng một phần hy lễ kỳ an làm lễ hoả tế dâng Ðức
Chúa, đó là: mỡ của nó, trọn cái đuôi mà người ấy sẽ cắt sát xương cùng, lớp mỡ
bọc ngoài bộ lòng, tất cả lớp mỡ ở trên bộ lòng, 10 hai trái cật và
lớp mỡ bọc ngoài, gần lưng, và khối mỡ trên gan mà người ấy sẽ tách ra cùng với
các trái cật. 11 Tư tế sẽ đốt những thứ ấy cho cháy nghi ngút trên
bàn thờ. Ðó là thức ăn hoả tế dâng Ðức Chúa.
12
Nếu
lễ tiến của người ấy là một con dê, thì phải tiến dâng nó trước nhan Ðức Chúa. 13
Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật, và sẽ sát tế nó trước cửa Lều Hội
Ngộ. Các con A-ha-ron sẽ rảy máu nó chung quanh bàn thờ. 14 Người ấy
sẽ tiến dâng một phần con vật làm lễ tiến, làm lễ hoả tế dâng Ðức Chúa, đó là:
lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, tất cả lớp mỡ ở trên bộ lòng, 15 hai trái
cật và lớp mỡ bọc ngoài, gần lưng, và khối mỡ trên gan mà người ấy sẽ tách ra
cùng với các trái cật. 16 Tư tế sẽ đốt những thứ ấy cho cháy nghi
ngút trên bàn thờ. Ðó là thức ăn hoả tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa.
17
Ðây
là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi, tại khắp nơi các ngươi ở:
tất cả những gì là mỡ và huyết, các ngươi không được ăn.
Chương 04
Lễ
tạ tội
a.
Tạ tội cho tư tế
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en: Khi có người nào vô ý phạm tội trái với một trong các
mệnh lệnh của Ðức Chúa và làm một trong những điều không được làm, 3 nếu
là tư tế đã được xức dầu tấn phong mà phạm tội, khiến dân cũng mắc lỗi, thì vì
tội đã phạm, nó phải tiến dâng một con bò tơ toàn vẹn lên Ðức Chúa làm lễ tạ
tội. 4 Nó sẽ đưa con bò đến cửa Lều Hội Ngộ trước nhan Ðức Chúa; nó
sẽ đặt tay trên đầu con bò và sát tế con bò trước nhan Ðức Chúa. 5 Tư
tế đã được xức dầu tấn phong sẽ lấy một phần máu con bò và đưa vào Lều Hội Ngộ.
6 Tư tế sẽ nhúng ngón tay vào máu và rảy máu đó bảy lần trước nhan
Ðức Chúa, phía trước màn trướng thánh điện. 7 Tư tế sẽ bôi máu lên
các góc cong của bàn thờ dâng hương thơm đặt trong Lều Hội Ngộ, trước nhan Ðức
Chúa, rồi đổ tất cả máu bò còn lại xuống chân bàn thờ dâng lễ toàn thiêu đặt ở
cửa Lều Hội Ngộ.
8
Còn
tất cả mỡ của con bò dâng làm lễ tạ tội, nó sẽ trích riêng ra, đó là: lớp mỡ
bọc ngoài bộ lòng, tất cả lớp mỡ ở trên bộ lòng, 9 hai trái cật và
lớp mỡ bọc ngoài, gần lưng, và khối mỡ trên gan mà nó sẽ tách ra cùng với các
trái cật - 10 giống như phần trích riêng ra từ con bò dâng làm hy lễ kỳ an -
rồi tư tế sẽ đốt những thứ ấy cho cháy nghi ngút trên bàn thờ dâng lễ toàn
thiêu. 11 Còn da con bò, tất cả thịt của nó, cùng với đầu, chân,
lòng và phân của nó, 12 tóm lại tất cả con bò, thì tư tế sẽ đưa ra
ngoài trại, ở một nơi thanh sạch, chỗ đổ tro, và thiêu trên củi đang cháy; nó
sẽ được thiêu tại chính nơi đổ tro.
b.
Tạ tội cho cộng đồng Ít-ra-en
13
Nếu
toàn thể cộng đồng Ít-ra-en vô ý phạm tội và đại hội không nhận thấy điều đó,
nếu chúng làm một trong những điều mà mệnh lệnh Ðức Chúa cấm làm, khiến chúng
mắc lỗi, 14 nhưng rồi chúng biết được tội đã phạm, thì đại hội phải
tiến dâng một bò tơ làm lễ tạ tội, và sẽ đưa nó đến trước Lều Hội Ngộ. 15 Các
kỳ mục của cộng đồng sẽ đặt tay trên đầu con bò, trước nhan Ðức Chúa, và người
ta sẽ sát tế con bò trước nhan Ðức Chúa.
16
Tư
tế đã được xức dầu tấn phong sẽ đem một phần máu con bò vào Lều Hội Ngộ. 17
Tư tế sẽ nhúng ngón tay vào máu và rảy bảy lần trước nhan Ðức Chúa, phía
trước màn trướng. 18 Tư tế sẽ bôi máu vào các góc cong của bàn thờ
đặt trong Lều Hội Ngộ, trước nhan Ðức Chúa, rồi đổ tất cả máu còn lại xuống
chân bàn thờ dâng lễ toàn thiêu đặt ở cửa Lều Hội Ngộ.
19
Còn
tất cả mỡ, tư tế sẽ lấy riêng ra và đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. 20
Nó sẽ tế con bò này như đã tế con bò dâng làm lễ tạ tội; tư tế sẽ tế nó
như vậy. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho chúng và chúng sẽ được tha.
21
Tư
tế sẽ đưa con bò ra ngoài trại và thiêu nó như đã thiêu con bò trước. Ðó là lễ
tạ tội cho đại hội.
c.
Tạ tội cho một đầu mục
22
Nếu
một đầu mục phạm tội, và vô ý làm một trong những điều mà mệnh lệnh Ðức Chúa,
Thiên Chúa của nó, cấm làm, khiến nó mắc lỗi, 23 nếu người ta cho nó
biết tội nó đã phạm, thì nó phải đưa đến một con dê làm lễ tiến, một con đực
toàn vẹn. 24 Nó sẽ đặt tay trên đầu con dê và sát tế trước nhan Ðức
Chúa, ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu. Ðó là lễ tạ tội. 25 Tư tế sẽ
dùng ngón tay lấy máu lễ vật tạ tội và bôi lên các góc cong của bàn thờ dâng lễ
toàn thiêu, rồi đổ máu còn lại xuống chân bàn thờ dâng lễ toàn thiêu. 26 Còn
tất cả mỡ, tư tế sẽ đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, như mỡ của hy lễ kỳ
an. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho người ấy khỏi tội của mình, và người
ấy sẽ được tha.
d.
Tạ tội cho một thường dân
27
Nếu
một thường dân vô ý phạm tội, làm một trong những điều mà mệnh lệnh của Ðức
Chúa cấm làm, khiến nó mắc lỗi, 28 nếu người ta cho nó biết tội nó
đã phạm, thì vì tội đã phạm, nó sẽ đưa đến một con dê làm lễ tiến, một dê cái
toàn vẹn. 29 Nó sẽ đặt tay trên đầu lễ vật tạ tội và sát tế lễ vật
tạ tội ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu. 30 Tư tế sẽ dùng ngón tay lấy
máu con vật và bôi lên các góc cong của bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, rồi đổ tất
cả máu còn lại xuống chân bàn thờ. 31 Còn tất cả mỡ, tư tế sẽ tách
ra như người ta tách mỡ ra khỏi hy lễ kỳ an, rồi tư tế sẽ đốt cho cháy nghi
ngút trên bàn thờ thành hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. Tư tế sẽ cử hành lễ
xá tội như thế cho người ấy, và người ấy sẽ được tha.
32
Nếu
người ấy đem dâng tiến một con chiên làm lễ tạ tội, thì phải đem đến một con
chiên cái toàn vẹn. 33 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu lễ vật tạ tội và
sát tế làm lễ tạ tội ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu. 34 Tư tế sẽ
dùng ngón tay lấy máu lễ vật tạ tội và bôi lên các góc cong của bàn thờ dâng lễ
toàn thiêu, rồi đổ tất cả máu còn lại xuống chân bàn thờ. 35 Còn tất
cả mỡ, tư tế sẽ tách ra như người ta tách mỡ của con chiên dâng làm hy lễ kỳ
an, rồi tư tế sẽ đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, bên trên các lễ hoả tế
dâng Ðức Chúa. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho người ấy, vì tội người ấy
đã phạm, và người ấy sẽ được tha.
Chương 05
Một
số trường hợp phải dâng lễ tạ tội
1
Khi
một người nào phạm tội, vì tuy là nhân chứng về một việc đã thấy hoặc đã biết,
mà không chịu nói ra sau khi đã nghe lời khuyến cáo long trọng, thì nó phải
mang lấy tội một mình;
2
hoặc
khi một người nào đụng đến bất cứ vật gì ô uế -như xác chết một dã thú ô uế,
xác chết một gia súc ô uế, xác chết một con vật ô uế- mà không biết, thì nó trở
nên ô uế và mắc lỗi;
3
hoặc
khi người ấy đụng đến một cái gì ô uế của người ta - những thứ ô uế khiến người
ta trở nên ô uế - mà không biết, thì sau khi biết, nó mắc lỗi;
4
hoặc
khi một người nào lỡ lời mà thề làm điều gì bất kỳ tốt xấu - trong mọi điều một
người có thể lỡ lời mà thề - nhưng không biết, thì sau khi biết, nó mắc lỗi về
một trong những điều ấy.
5
Vậy
khi ai mắc lỗi về một trong những điều trên, thì nó phải xưng thú tội mình đã
phạm, 6 rồi phải đưa đến dâng Ðức Chúa lễ vật đền tội vì tội đã
phạm, là một con chiên cái hay một con dê cái làm lễ tạ tội, và tư tế sẽ cử
hành lễ xá tội cho nó khỏi tội.
Lễ
tạ tội cho một thường dân (tiếp)
7
Nếu
người ấy không có phương tiện kiếm được chiên dê, thì vì tội đã phạm, nó phải
đưa đến dâng Ðức Chúa lễ vật đền tội, là một đôi chim gáy hay một đôi bồ câu
non, một con làm lễ tạ tội, một con làm lễ toàn thiêu. 8 Nó sẽ đưa
đôi chim đến cho tư tế. Trước tiên tư tế sẽ tiến dâng con chim làm lễ tạ tội;
tư tế sẽ cấu đầu con chim ở gần gáy, nhưng không tách hẳn ra; 9 tư
tế sẽ rảy máu lễ vật tạ tội vào thành bàn thờ, phần máu còn lại sẽ được bóp vào
chân bàn thờ. Ðó là lễ tạ tội. 10 Còn con thứ hai, tư tế sẽ dâng làm
lễ toàn thiêu như luật định. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho nó khỏi tội
đã phạm, và nó sẽ được tha.
11
Nếu
người ấy không thể kiếm được một đôi chim gáy hay một đôi bồ câu non, thì vì
tội đã phạm, nó phải đưa đến dâng lễ tiến, là bốn lít rưỡi tinh bột làm lễ tạ
tội. Người ấy sẽ không đổ dầu lên trên, cũng không bỏ hương vào, vì đó là lễ tạ
tội. 12 Người ấy sẽ đưa đến cho tư tế, tư tế sẽ bốc một nắm làm phần
kỷ vật dành cho Ðức Chúa và đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, bên trên các
lễ hoả tế dâng Ðức Chúa. 13 Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho
nó, vì tội nó đã phạm trái với một trong những điều trên, và nó sẽ được tha. Tư
tế sẽ có phần, như khi người ta dâng lễ phẩm."
Lễ
đền tội
14
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
15
"Khi
một người nào bất trung, vô ý phạm đến những của thánh dành cho Ðức Chúa, thì
phải đem dâng Ðức Chúa lễ vật đền tội, là một con chiên đực toàn vẹn bắt từ bầy
chiên, giá trị bằng một số chỉ bạc - tính theo đơn vị đo lường của thánh điện -
để làm lễ đền tội.16 Tội nó đã làm thiệt thánh điện bao nhiêu, nó sẽ phải đền,
cộng thêm một phần năm, và nộp cho tư tế. Tư tế sẽ dùng con chiên đực dâng làm
lễ chuộc tội mà cử hành lễ xá tội cho nó, và nó sẽ được tha.
17
Nếu
một người nào phạm tội và vô tình làm một trong những điều mệnh lệnh Ðức Chúa
cấm làm, thì nó mắc lỗi và phải mang lấy tội mình. 18 Nó phải đưa
đến cho tư tế một con chiên đực toàn vẹn bắt từ bầy chiên, giá trị như đã quy
định, để làm lễ đền tội. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó về tội nó đã vô ý
phạm mà không biết, và nó sẽ được tha. 19 Ðó là lễ đền tội; nó quả
là mắc lỗi với Ðức Chúa."
20
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
21
"Khi
một người nào phạm tội và bất trung với Ðức Chúa, vì đã từ chối không trả cho
người đồng bào một vật ký thác, một vật gởi tay hay một vật mất trộm, hoặc vì
đã bóc lột người đồng bào, 22 hoặc vì đã từ chối không trả một vật
bắt được, khi nó đã thề gian về một trong những điều trên là những tội người ta
có thể phạm, 23 thì kẻ phạm tội và mắc lỗi như thế phải trả lại vật
mình đã ăn trộm, hoặc của đã bóc lột, hoặc cái đã được ký thác cho mình, hoặc
vật bị mất mà mình đã bắt được, 24 hoặc bất cứ vật nào mà nó đã thề
gian là không giữ. Nó phải đền đầy đủ, cộng thêm một phần năm, và phải nộp cho
chủ của, ngày mà nó dâng lễ đền tội. 25 Nó phải đem dâng Ðức Chúa lễ
vật đền tội, là một con chiên đực toàn vẹn bắt từ bầy chiên, giá trị như đã quy
định, nộp cho tư tế làm lễ vật đền tội. 26 Tư tế sẽ cử hành lễ xá
tội cho nó trước nhan Ðức Chúa, thì nó sẽ được tha, bất kể nó đã làm gì khiến
mình mắc lỗi."
Chương 06
Hàng
tư tế và các lễ tế
A.
Lễ thượng hiến
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
truyền cho A-ha-ron và các con nó: Ðây là luật về lễ toàn thiêu. Lễ vật toàn
thiêu phải ở trên lò trên bàn thờ suốt đêm cho đến sáng, và lửa phải cháy luôn
trên bàn thờ.
3
Tư
tế sẽ mặc áo vải gai và mặc quần đùi vải gai che mình; nó sẽ hốt tro lễ toàn
thiêu mà lửa đã đốt trên bàn thờ, và đổ bên cạnh bàn thờ. 4 Nó sẽ
cởi phẩm phục ra, mặc phẩm phục khác vào, rồi đưa tro ra ngoài trại, ở một nơi
thanh sạch.
5
Lửa
trên bàn thờ phải cháy luôn không tắt: sáng sáng, tư tế sẽ đốt củi trên đó, xếp
lễ vật toàn thiêu lên trên và đốt mỡ của lễ vật kỳ an. 6 Lửa phải
thường xuyên cháy trên bàn thờ, không bao giờ tắt.
B.
Lễ phẩm
7
Ðây
là luật về lễ phẩm:
8
Từ
lễ phẩm đó, tư tế sẽ trích ra một nắm tinh bột, dầu và tất cả nhũ hương ở trên
lễ phẩm, rồi đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, thành hương thơm làm vui lòng
Ðức Chúa, đó là phần kỷ vật dành cho Ðức Chúa. 9 Phần còn lại của lễ
phẩm thì A-ha-ron và các con sẽ được ăn; phần đó sẽ được làm thành bánh không
men và ăn trong một nơi thánh; chúng sẽ ăn nó tại khuôn viên Lều Hội Ngộ. 10
Phần đó không được trộn men mà nướng. Ðó là phần Ta ban cho chúng từ các
lễ hoả tế dâng cho Ta; đó là của rất thánh, giống như lễ tạ tội và lễ đền tội. 11
Mọi đàn ông con trai trong các con A-ha-ron sẽ được ăn phần ấy; đó là quy
luật vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi, trong những lễ hoả tế dâng Ðức
Chúa; tất cả những gì chạm đến các vật ấy sẽ được thánh hiến."
12
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
13
"Ðây
là lễ tiến mà A-ha-ron và các con sẽ dâng lên Ðức Chúa ngày được xức dầu tấn
phong; bốn lít rưỡi tinh bột làm lễ phẩm thường xuyên, một nửa ban sáng và một
nửa ban chiều. 14 Lễ phẩm ấy sẽ được chiên trên chảo, với dầu. Sau
khi trộn kỹ, ngươi sẽ đem dâng lễ phẩm ấy là bánh đã bẻ thành miếng: đó là
hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. 15 Trong số các con A-ha-ron, tư
tế được xức dầu tấn phong để kế vị nó, cũng sẽ làm như thế: đó là quy luật vĩnh
viễn. Lễ phẩm sẽ được đốt trọn vẹn cho cháy nghi ngút dâng Ðức Chúa.
16
Mọi
lễ phẩm của tư tế phải được dâng trọn vẹn, không được ăn."
C.
Lễ tạ tội
17
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
18
"Hãy
nói với A-ha-ron và các con nó:
Ðây
là luật về lễ tạ tội:
19
Tư
tế cử hành lễ tạ tội được ăn lễ vật đó; lễ vật sẽ được ăn trong một nơi thánh,
trong khuôn viên Lều Hội Ngộ, 20 tất cả những gì chạm đến thịt lễ
vật sẽ được thánh hiến; nếu có máu bắn vào quần áo, thì ngươi phải giặt chỗ có
máu bắn vào, trong một nơi thánh. 21 Nồi đất đã dùng để nấu lễ vật
sẽ phải đập vỡ, còn nếu nó đã được nấu trong nồi đồng, thì nồi đó phải được cọ
sạch và rửa bằng nước. 22 Mọi đàn ông con trai thuộc hàng tư tế sẽ
được ăn: đó là của rất thánh. 23 Nhưng mọi lễ vật tạ tội mà máu đã
được mang vào Lều Hội Ngộ để cử hành lễ xá tội trong nơi thánh, thì không được
ăn; lễ vật đó phải bỏ vào lửa mà thiêu.
Chương 07
D.
Lễ đền tội
1
Ðây
là luật về lễ đền tội, về một của rất thánh:
2
Phải
sát tế lễ vật đền tội ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu, và tư tế sẽ rảy máu nó
chung quanh bàn thờ. 3 Tư tế sẽ tiến dâng tất cả mỡ của nó: cái
đuôi, lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, 4 hai trái cật và lớp mỡ bọc ngoài,
gần lưng, và khối mỡ trên gan mà tư tế sẽ tách ra cùng với các trái cật. 5
Tư tế sẽ đốt những thứ ấy cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, làm lễ hoả tế
dâng Ðức Chúa. Ðó là lễ đền tội. 6 Mọi đàn ông con trai thuộc hàng
tư tế sẽ được ăn; lễ vật ấy sẽ được ăn trong một nơi thánh: đó là của rất
thánh.
Quyền
lợi của các tư tế
7
Lễ
tạ tội thế nào, lễ đền tội cũng vậy: chỉ có một luật duy nhất cho cả hai. Tư tế
nào dâng lễ vật để cử hành lễ xá tội, thì lễ vật sẽ thuộc về tư tế đó. 8 Tư
tế tiến dâng lễ toàn thiêu của người nào, thì da của lễ vật mà tư tế đó tiến
dâng sẽ thuộc về tư tế đó. 9 Mọi lễ phẩm nướng trong lò, mọi lễ phẩm
nấu trong nồi hay chiên trên chảo sẽ thuộc về tư tế tiến dâng lễ phẩm ấy. 10
Mọi lễ phẩm nhào với dầu hay để khô sẽ thuộc về các con A-ha-ron.
Ð.
Hy lễ kỳ an
a.
Hy lễ tạ ơn
11
Ðây
là luật về hy lễ kỳ an tiến dâng Ðức Chúa:
12
Nếu
tiến dâng hy lễ kỳ an kèm với lễ tạ ơn, thì cùng với hy lễ tạ ơn, phải tiến
dâng bánh ngọt không men nhào với dầu, bánh tráng không men phết dầu và tinh
bột trộn kỹ làm thành bánh nhào với dầu. 13 Cùng với bánh ngọt đó,
phải dâng bánh có men làm lễ tiến, kèm theo lễ kỳ an. 14 Phải tiến
dâng một phần lấy từ mọi lễ tiến làm phần trích dâng Ðức Chúa. Phần ấy sẽ thuộc
về tư tế đã rảy máu của lễ vật kỳ an. 15 Còn thịt của hy lễ kỳ an để
tạ ơn, thì phải ăn trong chính ngày tiến dâng, không được để lại gì cho đến
sáng hôm sau.
b.
Lễ vật đã khấn hứa hay lễ vật tự nguyện
16
Nếu
hy lễ tiến dâng là lễ vật đã khấn hứa hay lễ vật tự nguyện, thì phải ăn trong
chính ngày tiến dâng hy lễ; phần còn lại, được ăn ngày hôm sau. 17 Sang
ngày thứ ba, những gì còn lại của hy lễ, phải bỏ vào lửa mà thiêu.
Quy
tắc chung
18
Sang
ngày thứ ba mà người ta cứ ăn thịt của hy lễ kỳ an, thì người tiến dâng hy lễ
sẽ không được đoái nhận; nó sẽ không được kể là đã dâng hy lễ: đó là thịt ôi,
và người nào ăn thì phải mang tội.
19
Thịt
đã chạm đến bất cứ cái gì ô uế, thì không được ăn, nhưng phải bỏ vào lửa mà
thiêu.
20
Nhưng
người nào ở trong tình trạng ô uế mà ăn thịt của hy lễ kỳ an dâng Ðức Chúa, thì
sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ. 21 Người nào chạm tới bất cứ cái gì ô
uế - cái gì ô uế của người ta, hay loài vật ô uế, hay bất cứ vật ô uế kinh tởm
nào - mà ăn thịt của hy lễ kỳ an dâng Ðức Chúa, thì người ấy sẽ bị khai trừ
khỏi dòng họ."
22
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
23
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en: Tất cả những gì là mỡ, mỡ bò, mỡ chiên hay mỡ dê, các
ngươi không được ăn. 24 Mỡ của con vật chết và mỡ của con vật bị thú
dữ xé, có thể dùng vào mọi việc, nhưng tuyệt đối các ngươi không được ăn. 25
Phàm ai ăn mỡ con vật mà người ta đã dâng tiến một phần làm lễ hoả tế
dâng Ðức Chúa, thì chính người ăn sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ.
26
Tại
khắp nơi các ngươi ở, tất cả những gì là tiết, dù là tiết chim hay tiết loài
vật, các ngươi không được ăn. 27 Phàm người nào ăn bất cứ cái gì là
tiết, thì sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ."
Phần
của tư tế
28
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
29
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en: Ai tiến dâng Ðức Chúa hy lễ kỳ an, thì sẽ đem đến một
phần hy lễ kỳ an của mình làm lễ tiến, dâng Ðức Chúa. 30 Chính tay
người ấy sẽ đem đến những lễ hoả tế của Ðức Chúa là mỡ kèm theo cái ức, nó sẽ
đem cái ức đến để làm nghi thức tiến dâng trước nhan Ðức Chúa. 31 Tư
tế sẽ đốt mỡ cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, còn cái ức thì thuộc về A-ha-ron
và các con nó. 32 Các ngươi sẽ cho tư tế cái đùi phải, làm phần
trích ra từ hy lễ kỳ an của các ngươi. 33 Người nào trong các con
A-ha-ron dâng tiến máu và mỡ của lễ kỳ an, thì cái đùi phải sẽ là phần của nó. 34
Thật vậy, cái ức đã tiến dâng theo nghi thức và cái đùi đã trích ra, thì
Ta lấy của con cái Ít-ra-en, từ các hy lễ kỳ an của chúng, và Ta ban cho tư tế
A-ha-ron và các con nó: đó là quy luật vĩnh viễn cho con cái Ít-ra-en."
Kết
luận
35
Ðó
là phần của ông A-ha-ron và phần của các con ông, lấy từ các lễ hoả tế dâng Ðức
Chúa, từ ngày họ được tiến dâng để làm tư tế của Ðức Chúa. 36 Phần
đó, Ðức Chúa đã truyền cho con cái Ít-ra-en tặng cho họ, từ ngày Người xức dầu
tấn phong họ: đó là quy tắc vĩnh viễn cho họ từ thế hệ này qua thế hệ kia.
37
Ðó
là luật về lễ toàn thiêu, lễ phẩm, lễ tạ tội, lễ đền tội, lễ trao quyền và hy
lễ kỳ an; 38 luật đó, Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê trên núi
Xi-nai, trong ngày Người truyền cho con cái Ít-ra-en dâng Ðức Chúa các lễ tiến
của họ trong sa mạc Xi-nai.
Chương 08
II.
Lễ Tấn Phong Tư Tế
Nghi
thức thánh hiến (Xh 29:1-37)
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
đem theo A-ha-ron cùng với các con nó, và lấy các phẩm phục, dầu tấn phong, con
bò dùng làm lễ tạ tội, hai con cừu đực và giỏ bánh không men. 3 Rồi
hãy tập hợp toàn thể cộng đồng ở cửa Lều Hội Ngộ."
4
Ông
Mô-sê làm như Ðức Chúa đã truyền cho ông, và cộng đồng tụ tập ở cửa Lều Hội Ngộ.
5 Ông Mô-sê nói với cộng đồng: "Ðây là điều Ðức Chúa truyền
phải làm."
6
Ông
Mô-sê cho ông A-ha-ron và các con ông ấy đến gần, và lấy nước tắm rửa họ.
7
Ông
mặc áo dài cho ông ấy, thắt đai lưng, choàng áo khoác, và đặt áo ê-phốt trên
ông; ông lấy băng chéo của áo ê-phốt thắt cho ông và cho ông mặc áo ấy; 8 ông
đeo khăn ngực cho ông ấy và bỏ các thẻ xăm u-rim và tum-mim vào khăn ngực; 9
ông lấy mũ tế đội lên đầu ông ấy và đính vào phía trước mũ tế huy hiệu
bằng vàng, là dấu thánh hiến, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
10
Ông
Mô-sê lấy dầu tấn phong xức Nhà Tạm cùng mọi vật ở trong, và thánh hiến tất cả;
11 ông lấy dầu rảy trên bàn thờ bảy lần, rồi xức dầu bàn thờ cùng
mọi đồ phụ thuộc, vạc và đế vạc, để thánh hiến những vật đó. 12 Ông
đổ dầu tấn phong lên đầu ông A-ha-ron và xức dầu để thánh hiến ông.
13
Ông
cho các con ông A-ha-ron đến gần, mặc áo dài cho họ, thắt đai lưng và lấy mũ
đội lên đầu họ, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
14
Ông
Mô-sê cho dẫn con bò dùng làm lễ tạ tội đến. Ông A-ha-ron và các con ông đặt
tay lên đầu con bò dùng làm lễ tạ tội. 15 Ông Mô-sê sát tế nó, lấy
máu nó và dùng ngón tay mà bôi vào các góc cong ở chung quanh bàn thờ, và xoá
tội cho bàn thờ; ông đổ máu còn lại xuống chân bàn thờ, và cử hành lễ xoá tội
cho bàn thờ để thánh hiến. 16 Ông Mô-sê lấy tất cả lớp mỡ ở trên bộ lòng,
khối mỡ gan, hai trái cật với lớp mỡ, mà đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. 17
Nhưng con bò, da, thịt và phân nó, thì ông bỏ vào lửa mà thiêu bên ngoài
trại, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
18
Ông
cho dẫn con cừu đực dùng làm lễ toàn thiêu đến gần. Ông A-ha-ron và các con ông
đặt tay lên đầu con cừu. 19 Ông Mô-sê sát tế nó và rảy máu chung
quanh bàn thờ; 20 ông xả con cừu ra từng mảnh, rồi đốt cái đầu, các
mảnh đã xẻ và mỡ cho cháy nghi ngút. 21 Còn lòng và chân, ông Mô-sê
lấy nước mà rửa, rồi ông đốt tất cả con cừu cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. Ðó
là lễ toàn thiêu, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa, như Ðức Chúa đã truyền
cho ông Mô-sê.
22
Ông
cho dẫn con cừu đực thứ hai đến gần, con cừu dùng cho lễ trao quyền. Ông
A-ha-ron và các con ông đặt tay lên nó. 23 Ông Mô-sê sát tế nó, rồi
lấy máu bôi vào trái tai phải ông A-ha-ron, vào ngón cái tay phải và ngón cái
chân phải ông; 24 ông Mô-sê cho các con ông A-ha-ron lại gần và lấy
máu bôi vào trái tai phải của họ, vào ngón cái tay phải của họ, và vào ngón cái
chân phải của họ; ông Mô-sê rảy máu chung quanh bàn thờ. 25 Ông lấy
mỡ, đuôi, tất cả lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, khối mỡ của gan, hai trái cật với
lớp mỡ, và đùi phải. 26 Từ trong giỏ bánh không men ở trước nhan Ðức
Chúa, ông lấy ra một tấm bánh ngọt không men, một tấm bánh ngọt chiên với dầu
và một tấm bánh tráng, và đặt lên trên mỡ và đùi phải. 27 Tất cả
những thứ đó, ông đặt trên bàn tay ông A-ha-ron và trên bàn tay các con ông ấy,
rồi làm nghi thức tiến dâng trước nhan Ðức Chúa. 28 Sau đó, ông lấy
lại các vật ấy từ bàn tay họ, và đem đốt cho cháy nghi ngút ở bàn thờ, bên trên
lễ vật toàn thiêu. Ðó là hy lễ dâng trong ngày trao quyền, là hương thơm làm
vui lòng Ðức Chúa, là lễ hoả tế dâng Ðức Chúa. 29 Ông Mô-sê lấy cái
ức và làm nghi thức tiến dâng trước nhan Ðức Chúa; đó là phần dành cho ông
Mô-sê, lấy từ con cừu dâng trong lễ trao quyền, như Ðức Chúa đã truyền cho ông
Mô-sê.
30
Ông
Mô-sê lấy dầu tấn phong và lấy máu trên bàn thờ rảy trên ông A-ha-ron và phẩm
phục của ông, trên các con ông ấy và phẩm phục của họ; như thế ông thánh hiến
ông A-ha-ron và phẩm phục của ông, các con ông và phẩm phục của họ.
31
Ông
Mô-sê nói với ông A-ha-ron và các con ông: "Hãy nấu thịt ở cửa Lều Hội
Ngộ, ở đó hãy ăn thịt và ăn bánh để trong giỏ dùng trong lễ trao quyền, như tôi
đã truyền rằng: "Ông A-ha-ron và các con sẽ ăn thứ ấy. 32 Thịt
và bánh còn thừa, ông và anh em hãy bỏ vào lửa mà thiêu. 33 Trong
vòng bảy ngày, ông và anh em không được ra khỏi Lều Hội Ngộ, cho đến khi mãn
thời gian làm lễ trao quyền cho ông và anh em, vì người ta sẽ làm lễ trao quyền
cho ông và anh em trong vòng bảy ngày. 34 Ðức Chúa đã truyền phải
làm như hôm nay người ta đã làm để cử hành lễ xá tội cho ông và anh em. 35
Trong vòng bảy ngày, ông và anh em phải ở lại cửa Lều Hội Ngộ, ngày và
đêm, phải giữ điều Ðức Chúa truyền giữ, để ông và anh em khỏi chết. Ðó là lệnh
truyền tôi đã nhận được.” 36 Ông A-ha-ron và các con đã làm điều Ðức
Chúa dùng ông Mô-sê mà truyền.
Chương 09
Các
tư tế nhậm chức
1
Ðến
ngày thứ tám, ông Mô-sê gọi ông A-ha-ron và các con ông ấy, cũng như các kỳ mục
Ít-ra-en, 2 và nói với ông A-ha-ron: "Ông hãy bắt một con bê để
làm lễ tạ tội, với một con cừu đực để làm lễ toàn thiêu, cả hai còn toàn vẹn,
và hãy tiến dâng chúng trước nhan Ðức Chúa. 3 Rồi ông hãy nói với
con cái Ít-ra-en rằng: "Hãy bắt một con dê đực để làm lễ tạ tội, một con
bê với một con chiên, cả hai phải được một tuổi, toàn vẹn, để làm lễ toàn thiêu,
4 một con bò đực và một con dê đực để làm lễ kỳ an dâng trước nhan
Ðức Chúa, và một lễ phẩm nhào với dầu; vì hôm nay Ðức Chúa sẽ xuất hiện giữa
anh em."
5
Họ
đưa đến trước Lều Hội Ngộ những gì ông Mô-sê đã truyền, rồi toàn thể cộng đồng
lại gần và đứng trước nhan Ðức Chúa. 6 Ông Mô-sê nói: "Ðây là
điều Ðức Chúa đã truyền cho anh em; anh em hãy thi hành để vinh quang Ðức Chúa
xuất hiện giữa anh em.” 7 Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron: "Ông
hãy lại gần bàn thờ, hãy dâng lễ tạ tội và lễ toàn thiêu của ông, để làm lễ xá
tội cho ông và cho dân, rồi hãy dâng lễ tiến của dân để cử hành lễ xá tội cho
họ, như Ðức Chúa đã truyền.” 8 Ông A-ha-ron lại gần bàn thờ và sát
tế con bê để làm lễ tạ tội cho chính mình. 9 Các con ông A-ha-ron
đem máu lại cho ông; ông nhúng ngón tay vào máu, bôi lên các góc cong của bàn
thờ, rồi đổ máu xuống trên bàn thờ. 10 Mỡ, hai trái cật và khối mỡ
lấy từ gan của lễ vật tạ tội, thì ông đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, như
Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê; 11 còn thịt và da, ông bỏ vào lửa
mà thiêu bên ngoài trại.
12
Ông
sát tế lễ vật toàn thiêu; các con ông A-ha-ron mang máu đến cho ông, và ông rảy
máu chung quanh bàn thờ. 13 Họ cũng mang đến cho ông lễ vật toàn
thiêu đã xả thành mảnh, cùng với cái đầu, và ông đốt cho cháy nghi ngút trên
bàn thờ. 14 Ông rửa lòng và chân nó, rồi đốt cho cháy nghi ngút trên
bàn thờ, bên trên lễ toàn thiêu.
15
Ông
dâng lễ tiến của dân: ông bắt con dê đực dùng làm lễ tạ tội cho dân, sát tế và
dâng nó làm lễ tạ tội như con trước. 16 Ông dâng tiến lễ toàn thiêu
và làm như luật định. 17 Ông tiến dâng lễ phẩm: ông bốc một nắm đầy
lễ phẩm và đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, thêm vào lễ toàn thiêu buổi
sáng.
18
Ông
sát tế con bò đực, và con cừu đực làm hy lễ kỳ an cho dân; các con ông A-ha-ron
mang máu đến cho ông, và ông rảy máu chung quanh bàn thờ. 19 Mỡ con
bò và mỡ con cừu, cái đuôi, mỡ chài, hai trái cật và khối mỡ của gan, 20 thì
họ đặt trên những cái ức, và ông đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. 21 Ức
và đùi phải, thì ông A-ha-ron làm nghi thức tiến dâng trước nhan Ðức Chúa, như
ông Mô-sê đã truyền.
22
Ông
A-ha-ron giơ tay trên dân và chúc phúc cho họ; rồi ông đi xuống, sau khi đã cử
hành lễ tạ tội, lễ toàn thiêu và lễ kỳ an. 23 Ông Mô-sê và ông
A-ha-ron vào Lều Hội Ngộ, rồi đi ra chúc phúc cho dân. Vinh quang Ðức Chúa xuất
hiện giữa toàn dân. 24 Lửa phát ra từ trước nhan Ðức Chúa đốt sạch
lễ toàn thiêu và mỡ trên bàn thờ. Thấy thế, toàn dân reo mừng và cúi rạp xuống.
Chương 10
Quy
định bổ sung
A.
Trường hợp Na-đap và A-vi-hu
1
Hai
người con của ông A-ha-ron là Na-đáp và A-vi-hu, mỗi người lấy bình hương của
mình, bỏ lửa vào, rồi đặt hương lên trên, họ tiến dâng Ðức Chúa lửa phàm tục,
điều mà Người đã không truyền cho họ. 2 Bấy giờ lửa từ trước nhan
Ðức Chúa phát ra, thiêu sống họ, họ đã chết trước nhan Ðức Chúa. 3 Ông
Mô-sê nói với ông A-ha-ron: "Ðó là điều Ðức Chúa đã phán:
Giữa
các kẻ đến gần Ta,
Ta
sẽ biểu dương sự thánh thiện của Ta;
trước
mặt toàn dân, Ta sẽ cho thấy vinh quang của Ta."
Ông
A-ha-ron lặng thinh.
B.
Khiêng xác đi
4
Ông
Mô-sê gọi các ông Mi-sa-ên và En-xa-phan, con ông Út-di-ên là chú ông A-ha-ron,
và bảo họ: "Các chú lại đây, khiêng các người anh em của các chú từ nơi
thánh ra ngoài trại.” 5 Họ lại gần, khiêng hai người kia vẫn còn mặc
áo dài, đưa ra ngoài trại, như ông Mô-sê đã nói.
C.
Tang chế của tư tế
6
Ông
Mô-sê nói với ông A-ha-ron và hai người con ông ấy là E-la-da và I-tha-ma:
"Ông và các anh đừng xoã tóc cũng đừng xé áo, để khỏi phải chết, và để
Người khỏi nổi giận với toàn thể cộng đồng. Các người anh em của ông và các anh
cùng toàn thể nhà Ít-ra-en sẽ khóc những kẻ Ðức Chúa đã thiêu. 7 Ông
và các anh cũng không được rời cửa Lều Hội Ngộ, để khỏi phải chết, vì ông và
các anh đã được xức dầu tấn phong của Ðức Chúa." Họ làm theo lời ông
Mô-sê.
D.
Cấm uống rượu
8
Ðức
Chúa phán với ông A-ha-ron rằng:
9
"Ngươi
cùng các con ngươi không được uống rượu và đồ uống có men, khi các ngươi vào
Lều Hội Ngộ, kẻo các ngươi phải chết. Ðó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ
của các ngươi. 10 Như vậy là để phân biệt của thánh với của phàm
tục, vật ô uế với vật thanh sạch, 11 và để dạy con cái Ít-ra-en mọi
thánh chỉ Ðức Chúa đã dùng ông Mô-sê mà phán với các ngươi."
Ð.
Phần lễ tiến dành cho tư tế
12
Ông
Mô-sê nói với ông A-ha-ron và hai người con còn lại của ông ấy là E-la-da và
I-tha-ma: "Ông và các anh hãy lấy phần lễ phẩm còn lại sau khi đã dâng hoả
tế lên Ðức Chúa, và hãy làm thành bánh không men mà ăn bên cạnh bàn thờ, vì đó
là của rất thánh. 13 Ông và các anh hãy ăn trong một nơi thánh, vì
đó là quyền lợi của ông và quyền lợi của con cái ông, mỗi khi có lễ hoả tế dâng
Ðức Chúa. Ðó là lệnh truyền tôi đã nhận được.
14
Còn
cái ức đã tiến dâng theo nghi thức trước nhan Ðức Chúa và cái đùi đã trích ra,
ông cùng các con trai con gái ông sẽ ăn trong một nơi thanh sạch, vì những thứ
ấy là phần quy định cho ông và phần quy định cho các con ông, mỗi khi con cái
Ít-ra-en dâng hy lễ kỳ an. 15 Cái đùi trích ra và cái ức tiến dâng
theo nghi thức, người ta sẽ đem đến cùng với các phần mỡ làm lễ hoả tế, để làm
nghi thức tiến dâng trước nhan Ðức Chúa; rồi đùi và ức đó sẽ là của ông và các
con ông. Ðó là quy luật vĩnh viễn, như Ðức Chúa đã truyền."
E.
Quy định đặc biệt về lễ tạ tội
16
Ông
Mô-sê hỏi đi hỏi lại về con dê đực dâng làm lễ tạ tội và thấy là nó đã bị
thiêu. Ông nổi giận với hai người con còn lại của ông A-ha-ron là E-la-da và
I-tha-ma, và nói: 17 "Tại sao các anh không ăn lễ vật tạ tội
trong nơi thánh, vì đó là của rất thánh? Người đã ban nó cho các anh để xoá bỏ
tội lỗi của cộng đồng, để cử hành lễ xá tội cho họ trước nhan Ðức Chúa. 18
Vì máu nó đã không được đưa vào nơi thánh, nên lẽ ra các anh phải ăn nó
trong nơi thánh, như tôi đã truyền.” 19 Ông A-ha-ron nói với ông
Mô-sê: "Này, hôm nay chúng đã tiến dâng lễ tạ tội và lễ toàn thiêu của
chúng trước nhan Ðức Chúa. Sau khi sự việc đã xảy đến cho tôi như thế, nếu hôm
nay tôi ăn lễ vật tạ tội, thì liệu điều ấy có vừa lòng Ðức Chúa không?” 20
Nghe vậy, ông Mô-sê lấy làm vừa lòng.
Chương 11
III.
Luật Liên Quan Ðến Cái Thanh Sạch Và Cái Ô Uế
Loài
vật thanh sạch và loài vật ô uế
A.
Vật trên đất
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron và bảo các ông rằng:
2
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en: Trong tất cả các loài vật sống trên đất, đây là những
loài các ngươi được ăn:
3
Mọi
con vật có chân chẻ làm hai móng và thuộc loài nhai lại, thì các ngươi được ăn.
4 Tuy nhiên, trong các loài nhai lại và các loài có móng chẻ hai,
các ngươi không được ăn các con này: con lạc đà, vì nó nhai lại, nhưng không có
móng chẻ hai: các ngươi phải coi nó là loài ô uế; 5 con ngân thử, vì
nó nhai lại, nhưng không có móng chẻ hai: các ngươi phải coi nó là loài ô uế; 6
con thỏ rừng, vì nó nhai lại, nhưng không có móng chẻ hai: các ngươi phải
coi nó là ô uế; 7 con heo, vì nó có chân chẻ làm hai móng, nhưng
không nhai lại: các ngươi phải coi nó là loài ô uế. 8 Thịt của
chúng, các ngươi không được ăn, xác chết của chúng, các ngươi không được đụng
đến; các ngươi phải coi chúng là loài ô uế.
B.
Vật dưới nước
9
Trong
tất cả các loài sống dưới nước, đây là những loài các ngươi được ăn:
10
Còn
tất cả những loài không có vây, không có vảy, ở sông hay ở biển, trong số mọi
vật nhỏ sống dưới nước và mọi sinh vật sống dưới nước, thì các ngươi phải coi
chúng là loài kinh tởm. 11 Các ngươi phải coi chúng là loài kinh
tởm: thịt của chúng, các ngươi không được ăn, xác chết của chúng, các ngươi
phải coi là vật kinh tởm. 12 Tất cả những loài sống dưới nước mà
không có vây, không có vảy, các ngươi phải coi là loài kinh tởm.
C.
Chim chóc
13
Trong
các loài chim, đây là những loài các ngươi phải coi là kinh tởm: người ta không
được ăn, vì là loài kinh tởm: đại bàng, diều hâu, ó biển, 14 diều
hâu đen, mọi thứ kền kền, 15 mọi thứ quạ, 16 đà điểu, cú,
mòng biển, mọi thứ bồ cắt, 17 cú vọ, cóc, cú mèo,18 chim lợn, bồ
nông, ó, 19 cò, mọi thứ diệc, chim đầu rìu và dơi.
D.
Côn trùng có cánh
20
Mọi
loài vật nhỏ có cánh đi bằng bốn chân, các ngươi phải coi là loài kinh tởm. 21
Trong các loài vật nhỏ có cánh đi bằng bốn chân, các ngươi chỉ được ăn
những thứ sau đây: những con ngoài chân ra có thêm càng để nhảy trên đất. 22
Trong số những loài đó, đây là những loài các ngươi được ăn: mọi thứ cào
cào, mọi thứ châu chấu, mọi thứ muỗm, mọi thứ dế. 23 Nhưng mọi vật
nhỏ có cánh mà có bốn chân, các ngươi phải coi là loài kinh tởm.
Ðụng
vào loài vật ô uế
24
Vì
các vật ấy, các ngươi sẽ ra ô uế: ai đụng vào xác chết của chúng, sẽ ra ô uế
cho đến chiều, 25 bất cứ ai mang xác chết của chúng, thì phải giặt
quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều. 26 Mọi con vật không có chân
chẻ làm hai móng và không nhai lại, các ngươi phải coi là loài ô uế: bất cứ ai
đụng vào chúng, sẽ ra ô uế. 27 Trong số các loài vật đi bằng bốn
chân, tất cả các con đi bằng bàn chân, các ngươi phải coi là loài ô uế; bất cứ
ai đụng vào chúng, sẽ ra ô uế cho đến chiều. 28 Bất cứ ai mang xác
chết của chúng, thì phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều; các ngươi
phải coi chúng là vật ô uế.
Ð.
Vật nhỏ sống trên mặt đất
29
Trong
số các loài vật nhỏ lúc nhúc trên mặt đất, các ngươi phải coi những loài này là
ô uế: chuột chũi, chuột nhắt, mọi thứ thằn lằn, 30 tắc kè, kỳ đà,
cắc ké, kỳ nhông, thạch sùng.
Quy
định khác về việc đụng vào vật ô uế
31
Trong
số mọi loài vật nhỏ, các ngươi phải coi những loài trên là ô uế. Bất cứ ai đụng
đến chúng khi chúng đã chết, thì sẽ ra ô uế cho đến chiều.
32
Trong
những con vật đó, con nào chết mà rơi trên bất cứ vật gì, thì vật ấy sẽ ra ô
uế, dù là đồ dùng bằng gỗ, quần áo, da, bị, mọi đồ dùng để làm một công việc
gì; phải nhúng vật ấy vào nước, nó sẽ ra ô uế cho đến chiều, rồi sẽ được thanh
sạch. 33 Nếu một con vật rơi vào trong bất cứ bình sành nào, thì tất
cả những gì trong đó sẽ ra ô uế, và các ngươi phải đập vỡ bình ấy. 34 Mọi
thứ người ta ăn, nếu bị nước bình ấy đổ lên trên, thì sẽ ra ô uế; mọi thứ người
ta uống, đựng trong bất cứ bình nào nói trên, sẽ ra ô uế. 35 Một xác
chết của chúng mà rơi trên bất cứ vật gì, thì vật ấy sẽ ra ô uế; lò và bếp sẽ
phải phá đi: các vật ấy là ô uế và các ngươi phải coi là những vật ô uế. 36
Tuy nhiên suối và hầm nước thì khối nước vẫn thanh sạch, nhưng ai đụng
đến xác chết của chúng, sẽ ra ô uế. 37 Nếu một xác chết của chúng
rơi trên hạt giống để gieo, thì hạt giống vẫn thanh sạch; 38 nhưng
nếu đã đổ nước vào hạt giống, mà một xác chết của chúng rơi trên đó, thì các
ngươi phải coi hạt giống đó là ô uế.
39
Nếu
một con vật làm đồ ăn cho các ngươi mà chết, thì ai đụng vào xác chết của nó,
sẽ ra ô uế cho đến chiều; 40 ai ăn thịt xác chết của nó, sẽ phải
giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều; ai mang xác chết của nó, sẽ phải giặt
quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
41
Mọi
loài vật nhỏ lúc nhúc trên mặt đất là vật kinh tởm, không được ăn. 42 Mọi
con vật bò bằng bụng, mọi thứ đi bằng bốn chân hay nhiều chân hơn, tóm lại mọi
loài vật lúc nhúc trên mặt đất, các ngươi không được ăn, vì chúng là vật kinh
tởm. 43 Các ngươi đừng làm cho chính mình ra kinh tởm vì mọi loài
vật nhỏ lúc nhúc, các ngươi đừng làm cho mình ra ô uế vì chúng: các ngươi sẽ ra
ô uế vì chúng. 44 Thật vậy, Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các
ngươi; các ngươi phải nên thánh và phải thánh thiện, vì Ta là Ðấng Thánh; các
ngươi đừng làm cho chính mình ra ô uế vì mọi loài vật nhỏ bò trên đất. 45 Thật
vậy, Ta là Ðức Chúa, Ðấng đã đưa các ngươi từ đất Ai-cập lên, để Ta làm Thiên
Chúa của các ngươi; vậy các ngươi phải thánh thiện vì Ta là Ðấng Thánh."
Kết
luận
46
Ðó
là luật về loài vật, chim chóc, mọi sinh vật vẫy vùng dưới nước và mọi sinh vật
lúc nhúc trên mặt đất, 47 để phân biệt vật ô uế với vật thanh sạch,
loài vật được ăn với loài vật không được ăn.
Chương 12
Thanh
tẩy đàn bà mới ở cữ
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en: Khi một người đàn bà có thai và sinh con trai, thì sẽ
ra ô uế trong vòng bảy ngày, nó sẽ ra ô uế như những ngày bị khó ở vì kinh
nguyệt. 3 Ðến ngày thứ tám, đứa trẻ sẽ được cắt bì nơi da quy đầu. 4
Rồi người đàn bà phải đợi ba mươi ba ngày cho máu được thanh tẩy; nó
không được đụng đến vật thánh nào và không được vào thánh điện, cho đến khi mãn
thời gian thanh tẩy của mình.
5
Nếu
sinh con gái, thì người đàn bà sẽ ra ô uế trong vòng hai tuần, như khi có kinh;
rồi nó phải đợi sáu mươi sáu ngày cho máu được thanh tẩy.
6
Khi
mãn thời gian thanh tẩy, dù sinh con trai hay con gái, nó phải đem đến cho tư
tế, ở cửa Lều Hội Ngộ, một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu, và một bồ câu
non hay một chim gáy làm lễ tạ tội. 7 Tư tế sẽ tiến dâng chúng trước
nhan Ðức Chúa và cử hành lễ xá tội cho nó và nó sẽ được thanh tẩy sau khi đã
xuất huyết.
8
Nếu
không có phương tiện kiếm được chiên, thì nó sẽ bắt một đôi chim gáy hay một
cặp bồ câu non, một con để làm lễ toàn thiêu, một con để làm lễ tạ tội. Tư tế
sẽ cử hành lễ xá tội cho nó, và nó sẽ ra thanh sạch."
Chương 13
Bệnh
phong hủi ở người
A.
Nhọt, lác, đốm
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron:
2
"Khi
trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết
thương phong hủi, thì người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế A-ha-ron hoặc với
một trong các tư tế, con của A-ha-ron. 3 Tư tế sẽ khám vết thương
trên da thịt nó: nếu lông ở vết thương đã chuyển sang màu trắng và vết thương
xem ra lõm vào da thịt, thì đó là vết thương phong hủi; sau khi khám, tư tế sẽ
tuyên bố người ấy là ô uế. 4 Nếu là đốm trắng trên da thịt, mà xem
ra không lõm vào da, và lông không chuyển sang màu trắng, thì tư tế sẽ cô lập
người mắc vết thương trong vòng bảy ngày. 5 Ðến ngày thứ bảy, tư tế
sẽ khám nó: nếu chính mắt tư tế thấy là vết thương vẫn y nguyên, không lan ra
trên da, thì tư tế sẽ lại cô lập nó trong vòng bảy ngày nữa. 6 Ðến
ngày thứ bảy, tư tế sẽ tái khám nó: nếu vết thương đã mờ đi và không lan ra
trên da, thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là thanh sạch: đó là lác; nó sẽ giặt áo
và sẽ ra thanh sạch.
7
Nhưng
nếu lác cứ lan ra trên da, sau khi người ấy đã được tư tế khám để được tuyên bố
là thanh sạch, thì nó phải được tư tế tái khám. 8 Tư tế sẽ khám: nếu
lác đã lan ra trên da, tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là bệnh phong
hủi.
B.
Phong hủi kinh niên
9
Khi
trên người nào có vết thương phong hủi, thì phải đưa nó đến với tư tế. 10 Tư
tế sẽ khám: nếu ở trên da có nhọt trắng, và nhọt ấy làm cho lông chuyển sang
màu trắng, và trong nhọt có thịt đỏ lòm sùi ra, 11 thì đó là bệnh
phong hủi kinh niên ở da thịt nó. Tư tế sẽ tuyên bố nó là ô uế; tư tế sẽ không
cô lập nó, vì nó là ô uế.
12
Nhưng
nếu phong hủi ấy cứ loang ra trên da và phủ tất cả da của người bệnh, từ đầu
đến chân, bất kỳ đâu đâu mắt tư tế nhìn thấy, 13 thì tư tế sẽ khám:
nếu phong hủi phủ tất cả da, thì tư tế sẽ tuyên bố người bệnh là thanh sạch: nó
đã chuyển tất cả ra màu trắng, nó thanh sạch. 14 Nhưng ngày nào thấy
người ấy có chỗ thịt đỏ lòm, thì nó sẽ ra ô uế; 15 tư tế sẽ khám chỗ
thịt đỏ lòm và sẽ tuyên bố người ấy là ô uế; thịt đỏ lòm là ô uế: đó là bệnh
phong hủi. 16 Hoặc khi thịt đỏ lòm lại chuyển sang màu trắng, thì nó
sẽ đến với tư tế; 17 tư tế sẽ khám nó: nếu vết thương đã chuyển sang
màu trắng, tư tế sẽ tuyên bố vết thương là thanh sạch: người ấy thanh sạch.
C.
Ung
18
Khi
người nào có ung ở da mà đã khỏi, 19 nhưng ở chỗ cái ung lại có một
nhọt trắng hay một đốm trắng đỏ nhạt, thì nó phải để cho tư tế khám. 20 Tư
tế sẽ khám: nếu đốm ấy xem ra ăn sâu vào da và lông đã chuyển sang màu trắng,
thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là một vết thương phong hủi đã loang
ra chỗ cái ung. 21 Nhưng nếu khi tư tế khám mà thấy ở đó không có
lông trắng, cái ung không ăn sâu vào da và đã mờ đi, thì tư tế sẽ cô lập nó
trong vòng bảy ngày. 22 Nếu vết đốm cứ loang ra trên da, thì tư tế
sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là một vết thương. 23 Nhưng nếu vết
đốm vẫn y nguyên, không lan ra, thì đó là sẹo của cái ung: tư tế sẽ tuyên bố
người ấy là thanh sạch.
D.
Phỏng
24
Trường
hợp khác: khi người nào có chỗ phỏng lửa trên da và ở chỗ phỏng có đốm trắng đỏ
nhạt hoặc trắng, 25 thì tư tế sẽ khám chỗ ấy: nếu lông ở đốm đã
chuyển sang màu trắng, và vết đốm xem ra lõm vào da, thì đó là phong hủi loang
ra ở chỗ phỏng; tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là vết thương phong hủi.
26 Nhưng nếu khi tư tế khám mà thấy vết đốm không có lông trắng,
không ăn sâu vào da và đã mờ đi, thì tư tế sẽ cô lập người ấy trong vòng bảy
ngày. 27 Ðến ngày thứ bảy, tư tế sẽ khám người ấy: nếu vết đốm cứ
lan ra trên da, thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là vết thương phong
hủi. 28 Nhưng nếu vết đốm cứ y nguyên, không lan ra trên da, và đã
mờ đi, thì đó là một cái nhọt do phỏng gây ra; tư tế sẽ tuyên bố người ấy là
thanh sạch, vì đó là sẹo của chỗ phỏng.
Ð.
Chốc
29
Khi
một người đàn ông hay một người đàn bà có vết thương ở đầu hoặc cằm, 30 thì
tư tế sẽ khám vết thương: nếu nó xem ra lõm vào da, có lông vàng và nhỏ, thì tư
tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là chốc, tức là phong hủi ở đầu hay ở cằm. 31
Nhưng nếu khi tư tế khám vết thương chốc, mà nó xem ra không lõm vào da
và không có lông đen, thì tư tế sẽ cô lập người có vết thương chốc trong vòng
bảy ngày. 32 Ðến ngày thứ bảy, tư tế sẽ khám vết thương: nếu chốc
không lan ra, không có lông vàng và chốc xem ra không lõm vào da, 33 thì
người ấy phải cạo đầu cạo cằm nhưng không cạo chỗ chốc, rồi tư tế sẽ lại cô lập
người bị chốc trong vòng bảy ngày nữa. 34 Ðến ngày thứ bảy, tư tế sẽ
khám chỗ chốc: nếu chỗ chốc không lan ra trên da và xem ra không lõm vào da,
thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là thanh sạch; nó sẽ giặt áo và sẽ ra thanh sạch.
35 Nhưng nếu chỗ chốc cứ lan ra trên da, sau khi người ấy được tuyên
bố là thanh sạch, 36 thì tư tế sẽ khám người ấy: nếu chỗ chốc đã lan
ra trên da, thì tư tế sẽ không phải tìm xem có lông vàng không; người ấy ô uế. 37
Nhưng nếu chính mắt tư tế thấy là chỗ chốc vẫn y nguyên và có lông đen
mọc ở đó, thì chỗ chốc đã khỏi và người ấy là thanh sạch; tư tế sẽ tuyên bố
người ấy là thanh sạch.
E.
Lang ben
38
Khi
trên da thịt một người đàn ông hay một người đàn bà phát ra những đốm, những
đốm trắng, 39 thì tư tế sẽ khám: nếu những đốm trên da thịt họ trắng
đục, thì đó là lang ben đã loang ra trên da: họ thanh sạch.
G.
Sói đầu
40
Người
rụng tóc ở đầu là người sói đầu: người ấy thanh sạch. 41 Người rụng
tóc phía trước là người sói trán: người ấy thanh sạch. 42 Nhưng nếu
chỗ sói đầu hoặc sói trán có vết thương trắng đỏ nhạt, thì đó là phong hủi
loang ra ở chỗ sói đầu hoặc sói trán. 43 Tư tế sẽ khám người ấy: nếu
nhọt ở vết thương có màu trắng đỏ nhạt ở chỗ sói đầu hoặc sói trán, trông giống
như phong hủi da thịt, 44 thì người ấy bị phong hủi: người ấy ô uế.
Tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế; nó bị vết thương ở đầu.
Quy
chế người phong hủi
45
Người
mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: "Ô uế! Ô
uế!” 46 Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng
ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại.
Phong
hủi ở quần áo
47
Khi
áo có vết phong hủi, áo len hay áo gai,48 áo dệt hay áo đan bằng gai hoặc bằng
len, hoặc da hay bất cứ đồ vật gì bằng da, 49 nếu vết ấy xanh hay đỏ
nhạt trên áo, trên da, trên áo dệt hoặc đan, hay trên bất cứ đồ vật gì bằng da,
thì đó là vết phong hủi: phải đưa cho tư tế khám. 50 Tư tế sẽ khám
vết ấy và để riêng đồ vật có vết ra, trong vòng bảy ngày. 51 Ðến
ngày thứ bảy, tư tế sẽ khám vết ấy: nếu vết đã lan ra trên áo, áo dệt hay áo
đan, trên da, trên bất cứ đồ vật gì làm bằng da, thì đó là phong hủi dễ lây:
vật đó là ô uế. 52 Người ta phải đốt áo dệt hay áo đan bằng len hay
bằng gai, hay bất cứ đồ vật gì bằng da có vết, vì đó là phong hủi dễ lây; đồ
vật ấy phải bỏ vào lửa mà thiêu.
53
Nhưng
nếu khi tư tế khám, vết ấy không lan ra trên áo, áo dệt hoặc áo đan, hay trên
bất cứ đồ vật gì bằng da, 54 thì tư tế sẽ truyền giặt đồ vật có vết,
rồi lại để riêng nó ra, trong vòng bảy ngày nữa. 55 Sau khi vết đã
được gột rửa, tư tế sẽ khám: nếu vết ấy không thay đổi hình dạng và không lan
ra, thì đồ vật ấy là ô uế, các ngươi phải bỏ vào lửa mà thiêu: đó là đồ vật bị
ăn thủng mặt phải hay mặt trái.
56
Nhưng
nếu khi tư tế khám, vết ấy đã mờ đi sau khi gột rửa, thì tư tế sẽ xé chỗ đó ra
khỏi áo hay khỏi da, khỏi áo dệt hoặc áo đan. 57 Nếu nó lại xuất
hiện trên áo, áo dệt hoặc áo đan, hay bất cứ đồ vật gì bằng da, thì đó là phong
hủi đã loang ra: ngươi phải bỏ đồ vật có vết vào lửa mà thiêu. 58 Áo,
áo dệt hoặc áo đan, hay bất cứ đồ vật gì bằng da, các ngươi đã giặt mà vết đã
biến đi, thì sẽ được giặt một lần thứ hai, và sẽ thanh sạch."
59
Ðó
là luật về vết phong hủi trên áo bằng len hoặc bằng gai, áo dệt hoặc áo đan,
hay bất cứ đồ vật gì bằng da, để dựa vào đó mà tuyên bố đồ vật ấy thanh sạch
hay ô uế.
Chương 14
10
Ngày
thứ tám, nó sẽ lấy hai con chiên đực toàn vẹn, một con chiên cái toàn vẹn, một
tuổi, mười ba lít rưỡi tinh bột nhào với dầu làm lễ phẩm, và nửa lít dầu. 11
Tư tế cử hành lễ thanh tẩy sẽ đặt người được thanh tẩy cùng với các lễ
vật trước nhan Ðức Chúa, ở cửa Lều Hội Ngộ. 12 Tư tế sẽ bắt một con
chiên, tiến dâng làm lễ đền tội cùng với nửa lít dầu, và tư tế sẽ làm nghi thức
tiến dâng những thứ ấy trước nhan Ðức Chúa. 13 Tư tế sẽ sát tế con
chiên ở nơi sát tế lễ vật tạ tội và lễ vật toàn thiêu, trong nơi thánh; - vì lễ
vật đền tội thuộc về tư tế, cũng như lễ vật tạ tội: đó là của rất thánh. - 14
Tư tế sẽ lấy máu lễ vật đền tội bôi vào trái tai phải người được thanh tẩy, vào
ngón cái tay phải và ngón cái chân phải nó. 15 Tư tế sẽ lấy nửa lít
dầu, đổ một ít vào lòng bàn tay trái; 16 Tư tế sẽ nhúng một ngón tay
phải vào dầu ở trong lòng bàn tay trái và lấy ngón tay rảy dầu bảy lần trước
nhan Ðức Chúa. 17 Tư tế sẽ lấy dầu còn lại trong lòng bàn tay bôi
vào trái tai phải người được thanh tẩy, vào ngón cái tay phải và ngón cái chân
phải nó, bên trên máu lễ vật đền tội. 18 Chỗ dầu còn lại trong lòng
bàn tay, tư tế sẽ bôi lên đầu người được thanh tẩy. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội
cho nó trước nhan Ðức Chúa.
19
Tư
tế sẽ làm lễ tạ tội và sẽ cử hành lễ xá tội cho người đang được thanh tẩy khỏi
sự ô uế, sau đó sẽ sát tế lễ vật toàn thiêu. 20 Tư tế sẽ dâng lễ
toàn thiêu và lễ phẩm trên bàn thờ; tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó và nó sẽ
thanh sạch.
21
Nếu
nó nghèo không thể kiếm được những thứ ấy, thì nó sẽ chỉ bắt một con chiên đực
dùng làm lễ đền tội, người ta sẽ làm nghi thức tiến dâng con chiên ấy để cử
hành lễ xá tội cho nó; nó cũng sẽ lấy bốn lít tinh bột nhào với dầu làm lễ
phẩm, một nửa lít dầu, 22 và một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu
non, là những thứ nó có thể kiếm được, một con sẽ dùng làm lễ tạ tội, một con
làm lễ toàn thiêu. 23 Ðến ngày thứ tám, nó sẽ mang những thứ ấy đến
cho tư tế, ở cửa lều Hội Ngộ, trước nhan Ðức Chúa, để được thanh tẩy. 24 Tư
tế sẽ lấy con chiên dâng làm lễ đền tội và nửa lít dầu mà làm nghi thức tiến
dâng trước nhan Ðức Chúa. 25 Tư tế sẽ sát tế con chiên làm lễ đền
tội, rồi lấy máu lễ vật đền tội bôi vào trái tai phải người được thanh tẩy, vào
ngón cái tay phải và ngón cái chân phải nó. 26 Tư tế sẽ đổ một ít
dầu vào lòng bàn tay trái; 27 tư tế sẽ dùng một ngón tay phải lấy
dầu ở trong lòng bàn tay trái rảy bảy lần trước nhan Ðức Chúa. 28 Tư
tế sẽ lấy dầu trong lòng bàn tay bôi vào trái tai phải người được thanh tẩy,
vào ngón cái tay phải và ngón cái chân phải nó, ở chỗ đã bôi máu lễ vật đền tội.
29 Chỗ dầu còn lại trong lòng bàn tay, tư tế sẽ bôi lên đầu người
được thanh tẩy, để cử hành lễ xá tội cho nó trước nhan Ðức Chúa. 30 Còn
đôi chim gáy hay cặp bồ câu non, là những thứ người ấy có thể kiếm được, 31
thì trong những con chim nó đã có thể kiếm được, tư tế sẽ dâng một con
làm lễ tạ tội, một con làm lễ toàn thiêu kèm với lễ phẩm. Tư tế sẽ cử hành lễ xá
tội cho người được thanh tẩy, trước nhan Ðức Chúa."
32
Ðó
là luật về người có vết thương phong hủi mà không thể kiếm được cái cần thiết
cho lễ nghi thanh tẩy của mình.
Phong
hủi nơi nhà cửa
33
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng:
34
"Khi
các ngươi vào đất Ca-na-an mà Ta ban cho các ngươi làm sở hữu, nếu Ta đặt một
vết phong hủi vào một nhà trong đất là sở hữu các ngươi, 35 thì chủ
nhà sẽ đến báo cho tư tế rằng: "Tôi thấy trong nhà tôi có cái gì như vết
phong hủi.” 36 Trước khi vào khám vết đó, tư tế sẽ truyền dọn trống
nhà, để không có vật gì trong nhà ra ô uế; sau đó tư tế sẽ vào khám nhà. 37
Tư tế sẽ khám vết: nếu vết ở các tường nhà làm thành những chỗ lõm xanh
xanh hoặc đỏ đỏ xem ra như ăn sâu vào tường, 38 thì tư tế sẽ ra khỏi
nhà, đến tận cửa, và cô lập căn nhà trong vòng bảy ngày. 39 Ðến ngày
thứ bảy, tư tế sẽ trở lại khám: nếu vết đã lan ra các tường nhà, 40 thì
tư tế sẽ truyền gỡ những viên đá có vết và ném ra ngoài thành, vào một nơi ô uế;
41 rồi tư tế sẽ cho cạo tất cả bên trong nhà và đổ vữa đã cạo ra
ngoài thành, vào một nơi ô uế. 42 Người ta sẽ lấy những viên đá khác
thay vào các viên đá trước, và lấy vữa khác mà trát nhà.
43
Nếu
vết lại loang ra trong nhà, sau khi đã gỡ đá ra, sau khi đã cạo và trát nhà, 44
thì tư tế sẽ đến khám: nếu vết đã lan ra trong nhà, thì đó là phong hủi
dễ lây trong nhà, nhà đó ô uế. 45 Người ta sẽ phá nhà đi: đá, gỗ,
tất cả vữa của nhà ấy, người ta sẽ đưa ra ngoài thành, vào một nơi ô uế.
46
Ai
vào nhà trong suốt thời gian nhà bị cô lập, sẽ ra ô uế cho đến chiều. 47 Ai
ngủ trong nhà sẽ phải giặt áo, ai ăn trong nhà sẽ phải giặt áo. 48 Nhưng
nếu khi tư tế vào khám, vết đã không lan ra trong nhà sau khi trát lại nhà, thì
tư tế sẽ tuyên bố nhà ấy là thanh sạch, vì vết phong hủi đã lành.
49
Ðể
xoá tội cho nhà ấy, tư tế sẽ lấy hai con chim, gỗ bá hương, phẩm cánh kiến và
cành hương thảo. 50 Tư tế sẽ sát tế một con chim trên một bình sành
đựng nước mạch. 51 Tư tế sẽ lấy gỗ bá hương, cành hương thảo, phẩm
cánh kiến và con chim còn sống, nhúng vào máu con chim đã bị sát tế và vào nước
mạch, và rảy vào nhà bảy lần; 52 sau khi đã dùng máu con chim, dùng
nước mạch, con chim còn sống, gỗ bá hương, cành hương thảo và phẩm cánh kiến mà
xoá tội cho căn nhà, 53 tư tế sẽ thả con chim còn sống ra ngoài
đồng, ở ngoài thành. Tư tế sẽ cử hành nghi thức xá tội cho căn nhà, và nhà ấy
sẽ thanh sạch."
54
Ðó
là luật về mọi vết phong hủi, về chốc, 55 về phong hủi nơi áo và nhà
cửa, 56 về nhọt, lác, đốm, 57 để xác định khi nào một vật
ô uế, khi nào thanh sạch.
Ðó
là luật về phong hủi.
Chương 15
Ô
uế về sinh dục
A.
Ðàn ông
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng:
2
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Khi bất cứ một người đàn ông nào mắc
bệnh lậu trong thân thể, thì bệnh lậu đó làm nó ra ô uế. 3 Sự ô uế
của nó khi có bệnh lậu là thế này:
Dù
thân thể nó tiết ra hay giữ lại mủ lậu, thì nó cũng mắc phải ô uế.
4
Mọi
giường người bị lậu nằm, sẽ ra ô uế, mọi đồ vật nó ngồi lên, sẽ ra ô uế.
5
Người
nào đụng vào giường của nó, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế
cho đến chiều.
6
Ai
ngồi lên đồ vật người bị lậu đã ngồi lên, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa,
và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
7
Ai
đụng đến thân thể người bị lậu, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm, và sẽ ra ô uế
cho đến chiều.
8
Nếu
người bị lậu nhổ vào một người thanh sạch, người này sẽ phải giặt áo, lấy nước
mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
9
Mọi
cái yên người bị lậu cưỡi lên sẽ ra ô uế.
10
Bất
cứ ai đụng vào một đồ vật nào mà người ấy nằm hay ngồi lên, sẽ ra ô uế cho đến
chiều.
Ai
mang một đồ vật như thế, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế
cho đến chiều.
11
Người
bị lậu chưa rửa tay mà đụng vào bất cứ người nào, thì người ấy sẽ phải giặt áo,
lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
12
Bình
sành người bị lậu đụng vào, sẽ phải đập vỡ, còn mọi bình gỗ sẽ được rửa bằng
nước.
13
Khi
người bị lậu được lành bệnh, nó phải tính bảy ngày mới được thanh tẩy; nó phải
giặt áo, lấy nước tắm rửa thân thể, và nó sẽ ra thanh sạch. 14 Ngày
thứ tám, nó sẽ bắt một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu non, đến trước nhan Ðức
Chúa, ở cửa Lều Hội Ngộ, mà đưa cho tư tế. 15 Tư tế sẽ dâng một con
làm lễ tạ tội, một con làm lễ toàn thiêu; tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó,
trước nhan Ðức Chúa, vì nó đã bị lậu.
16
Khi
một người đàn ông xuất tinh, thì phải lấy nước tắm rửa thân thể, và sẽ ra ô uế
cho đến chiều, 17 khi có xuất tinh mà giây ra bất cứ áo hay đồ da
nào, thì sẽ phải lấy nước mà giặt rửa, và những thứ ấy sẽ ra ô uế cho đến
chiều.
18
Khi
một người đàn bà giao hợp với một người đàn ông, thì cả hai phải lấy nước mà
tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
B.
Ðàn bà
19
Khi
một người đàn bà ra huyết, huyết từ thân thể chảy ra, thì nó sẽ ra ô uế bảy
ngày vì có kinh.
Bất
cứ ai đụng vào nó, sẽ ra ô uế cho đến chiều.
20
Mọi
cái gì nó nằm khi có kinh, sẽ ra ô uế, mọi đồ vật nó ngồi lên, sẽ ra ô uế. 21
Bất cứ ai đụng vào giường của nó, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa,
và sẽ ra ô uế cho đến chiều. 22 Bất cứ ai đụng vào đồ vật nó đã ngồi
lên, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều. 23
Nếu có cái gì trên giường hoặc trên đồ vật nó đã ngồi lên, thì ai đụng
đến cái đó, sẽ ra ô uế cho đến chiều.
24
Nếu
một người đàn ông cứ nằm với nó, thì sự ô uế của kinh nguyệt của nó sẽ truyền
sang người ấy: người ấy sẽ ra ô uế trong vòng bảy ngày, và bất cứ giường nào
người ấy nằm, sẽ ra ô uế.
25
Khi
một người đàn bà bị rong huyết trong vòng nhiều ngày, ngoài thời kỳ kinh
nguyệt, hoặc rong huyết quá thời kỳ kinh nguyệt, thì sự ô uế sẽ kéo dài suốt
thời gian bị rong huyết; nó sẽ ra ô uế như trong thời gian có kinh. 26 Mọi
giường nó nằm trong suốt thời gian rong huyết, sẽ ra ô uế như cái giường trong
thời gian nó có kinh; mọi đồ vật nó ngồi lên, sẽ ra ô uế, như bị ô uế trong
thời gian nó có kinh. 27 Bất cứ ai đụng vào những thứ đó, sẽ ra ô
uế; nó sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
28
Nếu
nó không còn rong huyết, nó phải tính bảy ngày, sau đó sẽ được thanh sạch. 29
Ngày thứ tám, nó sẽ bắt một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu non và đem
đến cho tư tế, ở cửa Lều Hội Ngộ. 30 Tư tế sẽ dâng một con làm lễ tạ
tội, một con làm lễ toàn thiêu. Trước nhan Ðức Chúa, tư tế sẽ cử hành lễ xá tội
cho nó, khỏi chứng rong huyết làm cho nó ra ô uế.
Kết
luận
31
Các
ngươi hãy bảo con cái Ít-ra-en kiêng cữ khi bị ô uế, như vậy chúng sẽ không
phải chết vì sự ô uế của chúng, khi chúng làm cho Nhà Tạm của Ta ở giữa chúng
ra ô uế."
32
Ðó
là luật về người bị bệnh lậu và người xuất tinh và bởi vậy ra ô uế, 33 về
người khó ở vì kinh nguyệt, về người đàn ông bị lậu hay người đàn bà bị rong
huyết, cũng như về người đàn ông nằm với người đàn bà bị ô uế.
Chương 16
Ngày
xá tội
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê sau khi hai người con của ông A-ha-ron chết; chúng đã
chết khi lại gần Ðức Chúa.
2
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy nói với A-ha-ron, anh ngươi, đừng vào bất cứ
lúc nào trong thánh điện, phía sau màn trướng, trước nắp xá tội ở trên Hòm Bia,
và như vậy nó sẽ không phải chết khi Ta hiện ra trong đám mây trên nắp xá tội.
3
A-ha-ron
sẽ vào thánh điện như thế này: Nó phải bắt một bò tơ để làm lễ tạ tội và một
cừu đực để làm lễ toàn thiêu. 4 Nó sẽ mặc áo dài thánh bằng vải gai,
mặc trên mình quần đùi vải gai, thắt đai lưng vải gai, đội mũ tế vải gai. Ðó là
phẩm phục thánh, nó sẽ lấy nước tắm rửa thân thể trước khi mặc vào.
5
Nó
sẽ nhận hai con dê đực để làm lễ tạ tội và một con cừu đực để làm lễ toàn
thiêu, do cộng đồng con cái Ít-ra-en đem tới. 6 A-ha-ron sẽ tiến
dâng con bò tơ làm lễ tạ tội cho chính mình, và sẽ cử hành lễ xá tội cho mình
và cho nhà mình. 7 Nó sẽ lấy hai con dê và đặt trước nhan Ðức Chúa,
ở cửa Lều Hội Ngộ. 8 Nó sẽ bắt thăm chọn giữa hai con dê: một thăm
"dành cho Ðức Chúa", một thăm "dành cho quỷ A-da-dên.” 9 A-ha-ron
sẽ tiến dâng con dê trúng thăm "dành cho Ðức Chúa" và dùng làm lễ tạ
tội. 10 Còn con dê trúng thăm "dành cho A-da-dên",
A-ha-ron sẽ để sống và đặt trước nhan Ðức Chúa, để cử hành lễ xá tội trên nó và
thả nó cho A-da-dên trong sa mạc.
11
A-ha-ron
sẽ tiến dâng con bò tơ dùng làm lễ tạ tội cho chính mình, và cử hành lễ xá tội
cho mình và cho nhà mình: nó sẽ sát tế con bò tơ làm lễ tạ tội cho chính mình. 12
Nó sẽ lấy than hồng trên bàn thờ trước nhan Ðức Chúa bỏ đầy vào bình
hương, sẽ bốc hai nắm đầy bột hương thơm, và đem vào phía sau màn trướng. 13
Nó sẽ bỏ hương vào lửa, trước nhan Ðức Chúa, và khói hương như mây sẽ phủ
nắp xá tội ở trên Chứng Ước, và như vậy nó sẽ không phải chết. 14 Nó
sẽ dùng một ngón tay lấy máu con bò tơ rảy trên nắp xá tội, về phía đông; rồi
đằng trước nắp xá tội, nó cũng dùng ngón tay mà rảy máu bảy lần.
15
Nó
sẽ sát tế con dê dùng làm lễ tạ tội cho dân, sẽ đem máu nó vào phía sau màn
trướng, và cũng sẽ lấy máu đó mà rảy như đã rảy máu con bò tơ: nó sẽ rảy máu đó
lên nắp xá tội, và đàng trước nắp xá tội. 16 Nó sẽ cử hành lễ xá tội
cho thánh điện, vì những điều ô uế của con cái Ít-ra-en và những việc phản
nghịch của chúng, nghĩa là mọi tội lỗi chúng.
17
Không
một người nào được có mặt trong Lều Hội Ngộ, từ khi A-ha-ron vào để cử hành lễ
xá tội trong thánh điện, cho đến khi nó ra.
18
Rồi
nó sẽ ra ngoài, đến bàn thờ ở trước nhan Ðức Chúa và sẽ cử hành lễ xá tội cho
bàn thờ: nó sẽ lấy máu con bò tơ và máu con dê mà bôi lên các góc cong của bàn
thờ. 19 Nó sẽ dùng một ngón tay rảy máu bảy lần lên bàn thờ, mà
thanh tẩy cho khỏi các điều ô uế của con cái Ít-ra-en, và thánh hiến bàn thờ.
20
Khi
đã cử hành xong lễ xá tội cho thánh điện, cho Lều Hội Ngộ và bàn thờ, nó sẽ cho
dẫn con dê còn sống tới. 21 A-ha-ron sẽ đặt hai tay lên đầu con dê
còn sống, sẽ xưng thú trên con vật mọi lỗi lầm của con cái Ít-ra-en, mọi việc
phản nghịch của chúng, nghĩa là mọi tội lỗi chúng; nó sẽ trút cả lên đầu con
dê, rồi sẽ dùng tay một người đang chờ sẵn mà thả vào sa mạc. 22 Con
dê sẽ mang trên mình mọi lỗi lầm của chúng vào hoang địa.
23
A-ha-ron
sẽ vào trong Lều Hội Ngộ, cởi phẩm phục bằng vải gai nó đã mặc khi vào thánh
điện; và để lại đó. 24 Nó sẽ lấy nước tắm rửa thân thể trong một nơi
thánh, và sẽ mặc lại phẩm phục. Rồi nó sẽ ra mà dâng lễ toàn thiêu của mình và
lễ toàn thiêu của dân; nó sẽ cử hành lễ xá tội cho chính mình và cho dân. 25
Còn mỡ của lễ tạ tội, thì nó sẽ đốt cho cháy nghi ngút ở bàn thờ.
26
Người
đã thả con dê "dành cho A-da-dên" sẽ giặt áo, lấy nước tắm rửa thân
thể, sau đó mới được về trại. 27 Con bò tơ dùng làm lễ tạ tội và con
dê dùng làm lễ tạ tội, mà máu đã được đưa vào thánh điện để cử hành lễ xá tội,
người ta sẽ đem ra bên ngoài trại, bỏ vào lửa mà thiêu, cả da, cả thịt, cả phân.
28 Người đã đốt những con vật đó phải giặt áo, lấy nước tắm rửa thân
thể, sau đó mới được về trại.
29
Ðó
sẽ là quy tắc vĩnh viễn cho các ngươi.
30
Thật
vậy, ngày ấy, sẽ cử hành lễ xá tội cho các ngươi, để thanh tẩy các ngươi: trước
nhan Ðức Chúa, các ngươi sẽ được thanh sạch khỏi mọi tội lỗi của các ngươi. 31
Ðối với các ngươi, đó sẽ là một ngày sa-bát, một ngày nghỉ: đó là quy tắc
vĩnh viễn.
32
Tư
tế đã được xức dầu và được trao quyền làm tư tế thay cho cha mình, sẽ cử hành
lễ xá tội. Nó sẽ mặc phẩm phục bằng vải gai, phẩm phục thánh; 33 nó
sẽ cử hành lễ xá tội cho thánh điện cực thánh; nó sẽ cử hành lễ xá tội cho Lều
Hội Ngộ và cho bàn thờ; nó sẽ cử hành lễ xá tội cho các tư tế và cho toàn dân
trong đại hội. 34 Ðó sẽ là quy tắc vĩnh viễn cho các ngươi: mỗi năm
một lần sẽ cử hành lễ xá tội cho con cái Ít-ra-en khỏi mọi tội của chúng."
Người
ta đã làm như Ðức Chúa truyền cho ông Mô-sê.
Chương 17
IV.
Luật Về Sự Thánh Thiện
Sát
sinh. Các lễ vật.
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 2 "Hãy nói với A-ha-ron, với các
con nó cùng toàn thể con cái Ít-ra-en, và bảo chúng: Ðây là lời Ðức Chúa
truyền:
3
Bất
cứ người đàn ông nào thuộc nhà Ít-ra-en giết bò, chiên, hoặc dê trong trại, hay
giết ngoài trại, 4 mà không mang con vật đến cửa Lều Hội Ngộ để dâng
làm lễ tiến cho Ðức Chúa trước Nhà Tạm Ðức Chúa, thì nó sẽ chịu trách nhiệm về
máu ấy: nó đã đổ máu, nó sẽ bị khai trừ khỏi dân nó. 5 Như vậy, con
cái Ít-ra-en sẽ mang đến những hy lễ mà chúng tế ở ngoài đồng; chúng sẽ mang
đến cho tư tế, để dâng Ðức Chúa, ở cửa Lều Hội Ngộ, và chúng sẽ tế dâng Ðức
Chúa làm hy lễ kỳ an. 6 Tư tế sẽ rảy máu trên bàn thờ Ðức Chúa ở cửa
Lều Hội Ngộ, và sẽ đốt mỡ cho cháy nghi ngút thành hương thơm làm vui lòng Ðức
Chúa. 7 Chúng sẽ không còn tế dâng các hy lễ của chúng cho các thần
dê, những thần chúng chạy theo mà làm điếm. Ðó là quy tắc vĩnh viễn cho chúng,
cho các thế hệ của chúng.
8
Ngươi
hãy bảo chúng: bất cứ người nào, thuộc nhà Ít-ra-en hoặc trong số ngoại kiều
sống giữa chúng, dâng lễ toàn thiêu hay hy lễ, 9 mà không đem đến
cửa Lều Hội Ngộ để dâng lên Ðức Chúa, thì người ấy sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ.
10
Bất
cứ người nào thuộc nhà Ít-ra-en hoặc trong số ngoại kiều sống giữa chúng, ăn
bất cứ thứ huyết nào, thì Ta sẽ quay mặt lại phạt kẻ ăn huyết và sẽ khai trừ
khỏi dân nó; 11 vì mạng sống của xác thịt thì ở trong máu, và Ta, Ta
đã ban máu cho các ngươi, trên bàn thờ, để cử hành lễ xá tội cho mạng sống các
ngươi. Thật vậy, máu xá tội được vì nó là mạng sống. 12 Vì thế, Ta
đã bảo con cái Ít-ra-en: Không một ai trong các ngươi được ăn huyết, ngoại kiều
sống giữa các ngươi cũng không được ăn huyết.
13
Bất
cứ người nào, thuộc con cái Ít-ra-en hoặc trong số ngoại kiều sống giữa chúng,
săn được một con thú hoặc một con chim được phép ăn, thì phải đổ máu nó ra và
lấy bụi đất phủ lên; 14 vì mạng sống của mọi xác thịt là máu nó bao
lâu nó còn sống, và Ta đã bảo con cái Ít-ra-en: Các ngươi không được ăn huyết
của bất cứ xác thịt nào, vì mạng sống của mọi xác thịt là máu nó; bất cứ ai ăn
huyết sẽ bị khai trừ.
15
Phàm
người nào, dù là người bản xứ hay ngoại kiều, ăn con vật chết hay bị xé, sẽ
phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều, rồi nó sẽ được
thanh sạch. 16 Nếu nó không giặt áo và tắm rửa thân thể, nó sẽ phải
mang lấy tội mình."
Chương 18
Những
điều cấm đoán về sinh dục
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.
3 Các ngươi không được làm như người ta làm trên đất Ai-cập, nơi các
ngươi đã ở; các ngươi không được làm như người ta làm trên đất Ca-na-an, nơi Ta
sắp đưa các ngươi vào. Các ngươi không được theo các quy tắc của chúng. 4 Các
ngươi hãy thi hành các quyết định của Ta, giữ và theo các quy tắc của Ta.
5
Các
ngươi phải giữ các quy tắc và quyết định của Ta: khi con người đem các điều ấy
ra thực hành thì nhờ đó sẽ được sống.
Ta
là Ðức Chúa.
6
Không
người nào trong các ngươi được đến gần một người bà con ruột thịt để lột trần
chỗ kín của nó. Ta là Ðức Chúa.
7
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của cha ngươi và chỗ kín của mẹ ngươi: đó là mẹ
ngươi, ngươi không được lột trần chỗ kín của nó.
8
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của vợ của cha ngươi: đó là chỗ kín của cha ngươi.
9
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của chị em ngươi, dù là con gái của cha ngươi hay
con gái của mẹ ngươi, sinh tại nhà hay sinh ở ngoài; ngươi không được lột trần
chỗ kín của chúng.
10
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của cháu nội gái hay cháu ngoại gái ngươi, vì đó là
chỗ kín của ngươi.
11
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của chị em cùng cha khác mẹ với ngươi: đó là chị em
ngươi, ngươi không được lột trần chỗ kín của chúng.
12
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của chị em gái của cha ngươi: đó là ruột thịt của
cha ngươi.
13
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của chị em gái của mẹ ngươi: đó là ruột thịt của mẹ
ngươi.
14
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của chú bác ngươi; ngươi không được đến gần vợ của
chúng: đó là bác gái, là thím ngươi.
15
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của con dâu ngươi: đó là vợ của con trai ngươi, ngươi
không được lột trần chỗ kín của nó.
16
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của chị em dâu ngươi: đó là chỗ kín của anh em
ngươi.
17
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của một người đàn bà và của con gái nó; ngươi không
được lấy cháu nội gái hay cháu ngoại gái của nó để lột trần chỗ kín của chúng:
đó là ruột thịt của nó; đó là tội ác tày trời.
18
Ngươi
không được lấy chị em của vợ ngươi mà gây ra cảnh ghen tuông, khi lột trần chỗ
kín của chúng, lúc vợ ngươi còn sống.
19
Ngươi
không được đến gần một người đàn bà đang bị ô uế vì kinh nguyệt, để lột trần
chỗ kín của nó.
20
Ngươi
không được giao hợp với vợ của một người đồng bào, để khỏi ra ô uế vì người đàn
bà ấy.
21
Ngươi
không được lấy đứa nào trong con cái ngươi mà nhượng lại cho thần Mô-léc và
không được xúc phạm đến danh của Thiên Chúa ngươi. Ta là Ðức Chúa.
22
Ngươi
không được nằm với đàn ông như nằm với đàn bà: đó là điều ghê tởm.
23
Ngươi
không được giao hợp với bất cứ con vật nào, để khỏi ra ô uế vì nó; đàn bà không
được đứng trước thú vật để giao cấu với nó: đó là điều quái đản.
24
Các
ngươi đừng làm cho mình ra ô uế vì tất cả những điều đó, bởi lẽ tại tất cả
những điều đó, mà các dân tộc Ta sắp tống đi cho khuất mắt các ngươi, đã ra ô
uế. 25 Ðất đã ra ô uế: Ta đã phạt nó vì tội lỗi nó, và nó đã mửa dân
cư nó ra. 26 Phần các ngươi, hãy giữ các quy tắc và quyết định của
Ta, và không được làm một điều nào trong những điều ghê tởm ấy, dù là người bản
xứ hay ngoại kiều sống giữa các ngươi. 27 Thật vậy, những người ở
trong đất trước các ngươi đã làm tất cả những điều ghê tởm ấy, và đất đã ra ô
uế. 28 Nhưng đất sẽ không mửa các ngươi ra, khi các ngươi làm cho nó
ra ô uế, như nó đã mửa dân tộc ở đó trước các ngươi. 29 Vì bất cứ ai
làm một trong những điều ghê tởm ấy, thì chính người làm sẽ bị khai trừ ra khỏi
dân nó. 30 Các ngươi phải giữ điều Ta truyền giữ, là không được thực
hành các quy tắc ghê tởm mà người ta đã thực hành trước các ngươi, và các ngươi
không được làm cho mình ra ô uế vì những điều ấy. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa
của các ngươi."
Chương 19
Chỉ
thị về luân lý và phụng tự
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các ngươi phải thánh
thiện, vì Ta, Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Ðấng Thánh.
3
Mỗi
người trong các ngươi phải kính sợ cha mẹ.
Các
ngươi phải giữ những ngày sa-bát của Ta. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các
ngươi.
4
Các
ngươi không được hướng về các tà thần, không được đúc tượng thần mà thờ. Ta là
Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.
5
Khi
các ngươi tế hy lễ kỳ an dâng Ðức Chúa, các ngươi phải tế thế nào để được đoái
nhận. 6 Phải ăn lễ vật đó trong ngày tế lễ và ngày hôm sau; sang
ngày thứ ba, cái gì còn lại phải bỏ vào lửa mà thiêu. 7 Sang ngày
thứ ba mà cứ ăn, thì đó là thịt ôi, và lễ tế sẽ không được đoái nhận. 8 Người
nào ăn, phải mang lấy tội mình, vì đã xúc phạm đến của được thánh hiến cho Ðức
Chúa; người ấy sẽ bị khai trừ ra khỏi dòng họ.
9
Khi
các ngươi gặt lúa trong đất của các ngươi, (các) ngươi không được gặt cho tới
sát bờ ruộng; lúa gặt sót, (các) ngươi không được mót. 10 Vườn nho
(các) ngươi, (các) ngươi không được hái lại, những trái rớt, (các) ngươi không
được nhặt: (các) ngươi sẽ bỏ lại cho người nghèo và ngoại kiều. Ta là Ðức Chúa,
Thiên Chúa của các ngươi.
11
Các
ngươi không được trộm cắp, không được nói dối, không được lừa gạt đồng bào mình.
12 Các ngươi không được lấy danh Ta mà thề gian: làm thế là (các)
ngươi xúc phạm đến danh Thiên Chúa của (các) ngươi. Ta là Ðức Chúa. 13 Ngươi
không được bóc lột người đồng loại, không được cướp của; tiền công người làm
thuê, ngươi không được giữ lại qua đêm cho đến sáng. 14 Ngươi không
được rủa người điếc, đặt chướng ngại cho người mù vấp chân, nhưng phải kính sợ
Thiên Chúa của ngươi, Ta là Ðức Chúa. 15 Các ngươi không được làm
điều bất công khi xét xử: không được thiên vị người yếu thế, cũng không được nể
mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho người đồng bào. 16 Ngươi
không được vu khống những người trong dòng họ, không được ra toà đòi người đồng
loại phải chết. Ta là Ðức Chúa. 17 Ngươi không được để lòng ghét
người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ
khỏi mang tội vì nó. 18 Ngươi không được trả thù, không được oán hận
những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là
Ðức Chúa.
19
Các
ngươi phải giữ các quy tắc của Ta.
Ngươi
không được cho hai con vật khác giống giao cấu với nhau, không được gieo trong
cánh đồng của ngươi hai thứ hạt khác nhau, không được mặc áo vải hỗn hợp, dệt
bằng hai thứ sợi khác nhau.
20
Khi
một người đàn ông giao hợp với một người đàn bà, mà người này lại là tỳ thiếp
của một người đàn ông khác, nhưng chưa được chuộc hay phóng thích, thì người
đàn ông kia sẽ bị phạt; chúng sẽ không bị xử tử, vì người đàn bà chưa được
phóng thích. 21 Người đàn ông sẽ đem dâng Ðức Chúa lễ vật đền tội
của mình ở cửa Lều Hội Ngộ, đó là con cừu đực dùng làm lễ đền tội. 22 Tư
tế sẽ lấy con cừu đực dùng làm lễ đền tội mà cử hành lễ xá tội cho nó, trước
nhan Ðức Chúa, vì tội nó đã phạm, và nó sẽ được tha tội đã phạm.
23
Khi
các ngươi đã vào đất và trồng bất cứ cây ăn trái nào, thì các ngươi sẽ kể trái
nó là chưa cắt bì; trong ba năm các ngươi phải coi trái nó là chưa cắt bì,
không được ăn. 24 Năm thứ tư, mọi trái nó sẽ được thánh hiến trong
một buổi lễ mừng Ðức Chúa. 25 Năm thứ năm, các ngươi được ăn trái
nó; như thế hoa trái nó sẽ tăng thêm cho các ngươi. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa
của các ngươi.
26
Các
ngươi không được ăn gì với máu. Các ngươi không được làm nghề tướng số, chiêm
tinh.
27
Các
ngươi không được hớt tóc vòng quanh đầu, không được xén râu. 28 Các
ngươi không được rạch mình mà để tang một người chết, không được xăm mình. Ta
là Ðức Chúa. 29 Ðừng xúc phạm đến con gái ngươi, nghĩa là bắt nó làm
điếm, kẻo đất cũng làm điếm và tràn ngập tội ác tày trời.
30
Các
ngươi phải giữ các ngày sa-bát của Ta và kính trọng thánh điện của Ta. Ta là
Ðức Chúa.
31
Các
ngươi không được đến với các người ngồi đồng ngồi bóng và không được hỏi ý kiến
chúng, kẻo vì chúng mà ra ô uế. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.
32
Thấy
người đầu bạc, ngươi phải đứng lên, ngươi phải kính trọng người già cả: như vậy
là ngươi kính sợ Thiên Chúa của ngươi. Ta là Ðức Chúa. 33 Khi có
ngoại kiều cư ngụ với (các) ngươi trong xứ các ngươi, các ngươi đừng bức hiếp
nó. 34 (Các) ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi
như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; (các) ngươi phải yêu nó
như chính mình, vì các ngươi đã từng là ngoại kiều tại đất Ai-cập. Ta là Ðức
Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.
35
Các
ngươi không được làm điều bất công khi xét xử, cũng như khi đo đạc hay cân đong.
36 Các ngươi phải có cán cân đúng, quả cân đúng, đúng thùng, đúng
lít. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ðấng đã đưa các ngươi ra khỏi
đất Ai-cập.
37
Các
ngươi phải giữ mọi quy tắc, mọi quyết định của Ta và đem ra thực hành. Ta là
Ðức Chúa.
Chương 20
Quy
định về hình phạt
A.
Tội về nghi tiết
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en: Bất cứ người nào, thuộc con cái Ít-ra-en hoặc trong
số ngoại kiều sống tại Ít-ra-en, dâng một đứa trong con cái mình cho thần
Mô-léc, thì sẽ bị xử tử; dân trong xứ sẽ ném đá nó. 3 Phần Ta, Ta sẽ
quay mặt lại phạt nó và sẽ khai trừ khỏi dân nó, vì nó đã dâng một đứa con
trong con cái mình cho thần Mô-léc, khiến thánh điện Ta ra ô uế và thánh danh
Ta bị xúc phạm. 4 Nếu dân trong xứ che mắt không nhìn người ấy, khi
nó dâng một đứa trong con cái mình cho thần Mô-léc, để khỏi phải giết nó, 5
thì chính Ta sẽ hướng mặt Ta về người ấy và dòng họ nó, Ta sẽ khai trừ nó
và những kẻ làm điếm như nó, những kẻ chạy theo thần Mô-léc mà làm điếm, Ta sẽ
khai trừ khỏi dân của chúng.
6
Người
nào đến với các người ngồi đồng ngồi bóng để chạy theo chúng mà làm điếm, thì
Ta sẽ quay mặt lại phạt người ấy và sẽ khai trừ khỏi dân nó.
7
Các
ngươi phải nên thánh và phải thánh thiện, vì Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các
ngươi.
B.
Tội liên quan đến gia đình
8
Các
ngươi phải giữ các quy tắc của Ta và đem ra thực hành. Ta là Ðức Chúa, Ðấng
thánh hiến các ngươi.
9
Vậy:
Bất cứ người nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Nó đã nguyền rủa cha mẹ,
thì máu nó đổ xuống đầu nó.
10
Khi
người đàn ông nào ngoại tình với đàn bà có chồng, ngoại tình với vợ người đồng
loại, thì cả đàn ông ngoại tình lẫn đàn bà ngoại tình phải bị xử tử.
11
Khi
người đàn ông nào nằm với vợ của cha mình, thì đã lột trần chỗ kín của cha
mình; cả hai phải bị xử tử, máu chúng đổ xuống đầu chúng.
12
Khi
người đàn ông nào nằm với con dâu mình, thì cả hai phải bị xử tử; chúng đã làm
điều quái đản, máu chúng đổ xuống đầu chúng.
13
Khi
người đàn ông nào nằm với một người đàn ông như nằm với đàn bà, thì cả hai đã
làm điều ghê tởm; chúng phải bị xử tử, máu chúng đổ xuống đầu chúng.
14
Khi
người đàn ông nào lấy cả con gái lẫn mẹ, thì đó là tội ác tày trời; người ta sẽ
bỏ nó và hai người đàn bà vào lửa mà thiêu, để không còn tội ác tày trời giữa
các ngươi.
15
Khi
người đàn ông nào giao hợp với con vật, thì phải bị xử tử, và các ngươi sẽ giết
con vật.
16
Khi
người đàn bà nào đến gần bất cứ con vật nào để giao cấu với nó, thì (các) ngươi
phải giết người đàn bà và con vật; chúng phải bị xử tử, máu chúng đổ xuống đầu
chúng.
17
Khi
người đàn ông nào lấy chị em mình, dù là con gái của cha mình hay con gái của
mẹ mình, và thấy chỗ kín của người chị em cũng như người này thấy chỗ kín của
nó, thì đó là điều bỉ ổi; chúng sẽ bị khai trừ trước mắt những người thuộc về
dân của chúng; nó đã lột trần chỗ kín của người chị em nó, thì nó sẽ phải mang
lấy tội mình.
18
Khi
người đàn ông nào nằm với một người đàn bà đang khó ở, và lột trần chỗ kín của
người đàn bà, thì nó phơi bày nguồn máu của người đàn bà, và người đàn bà lột
trần nguồn máu của mình; cả hai sẽ bị khai trừ khỏi dân chúng.
19
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của chị em gái của mẹ ngươi hay chị em gái của cha
ngươi; đó là lột trần người ruột thịt của chính mình; chúng sẽ phải mang lấy
tội mình.
20
Khi
người đàn ông nào nằm với bác gái hay thím mình, thì đã lột trần chỗ kín của
bác hay chú mình, chúng sẽ phải mang lấy tội mình, chúng sẽ chết không con cái.
21
Khi
người đàn ông nào lấy chị dâu hay em dâu mình, thì đó là một điều nhơ nhớp; nó
đã lột trần chỗ kín của anh em nó, chúng sẽ không có con cái.
Lời
khuyên nhủ cuối cùng
22
Các
ngươi phải giữ mọi quy tắc, mọi quyết định của Ta và đem ra thực hành; như vậy
đất Ta sắp đưa các ngươi vào ở đó, sẽ không mửa các ngươi ra. 23 Các
ngươi không được theo các quy tắc của dân tộc mà Ta sắp tống đi cho khuất mắt
các ngươi, vì chúng đã làm tất cả những điều đó, và Ta đã chán ngấy chúng. 24
Bởi vậy Ta đã nói với các ngươi: "Chính các ngươi sẽ chiếm hữu đất
đai của chúng, và chính Ta sẽ ban cho các ngươi chiếm hữu nó, miền đất tràn trề
sữa và mật." Chính Ta, Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, đã tách biệt
các ngươi ra khỏi các dân. 25 Vậy các ngươi phải phân biệt giữa thú
vật thanh sạch và ô uế, giữa chim ô uế và thanh sạch; các ngươi đừng làm cho
chính mình ra kinh tởm vì thú vật, các loài chim và mọi loài bò dưới đất, tức
là các loài Ta đã phân biệt để các ngươi coi chúng là ô uế.
26
Các
ngươi phải thuộc về Ta, phải thánh thiện, vì Ta, Ðức Chúa, Ta là Ðấng Thánh, và
Ta đã tách biệt các ngươi ra khỏi các dân để các ngươi thuộc về Ta.
27
Khi
người đàn ông hay người đàn bà nào có ma nhập thần ốp, thì phải bị xử tử; người
ta sẽ ném đá chúng, máu chúng đổ xuống đầu chúng."
Chương 21
Sự
thánh thiện của hàng tư tế
A.
Các tư tế
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê:
2
ngoại
trừ vì một người gần nhất, một người ruột thịt: mẹ, cha, con trai, con gái, anh
em nó. 3 Một người chị em còn trinh, vẫn là người gần nhất với nó,
vì chưa thuộc về một người đàn ông, thì nó có thể làm cho mình ra ô uế vì người
ấy. 4 Vì là người đứng đầu trong dòng họ mình, nó không được làm cho
mình ra ô uế mà trở nên phàm tục.
5
Các
tư tế không được cạo đầu và cắt riềm râu, không được rạch mình. 6 Chúng
sẽ được thánh hiến cho Thiên Chúa của chúng và không được xúc phạm đến danh
Thiên Chúa của chúng, vì chúng là những người tiến dâng lên Ðức Chúa các lễ hoả
tế, là thức ăn dành cho Thiên Chúa của chúng; chúng phải sống thánh thiện.
7
Chúng
không được lấy một gái điếm hay một người đàn bà bị làm nhục, chúng không được
lấy một người đàn bà bị chồng bỏ, vì tư tế được thánh hiến cho Thiên Chúa của
mình.
8
Ngươi
phải coi nó là thánh, vì nó là người tiến dâng thức ăn dành cho Thiên Chúa của
ngươi: đối với ngươi, nó sẽ là thánh, vì Ta là Ðấng Thánh, Ta, Ðức Chúa, Ðấng
thánh hoá các ngươi.
9
Nếu
con gái của một tư tế làm nhục chính mình mà đi làm điếm, thì nó làm nhục chính
cha nó; nó phải bị bỏ vào lửa mà thiêu.
B.
Thượng tế
10
Tư
tế lớn nhất trong hàng anh em nó, người đã được đổ dầu tấn phong lên đầu và
được trao quyền khi mặc phẩm phục, thì không được xoã tóc và xé áo, 11 không
được đến gần người chết nào, và không được làm cho mình ra ô uế, dù vì cha hay
vì mẹ mình. 12 Nó không được ra khỏi thánh điện và không được xúc
phạm đến thánh điện của Thiên Chúa nó, vì nó đã được dầu tấn phong của Thiên
Chúa nó ghi dấu trên mình. Ta là Ðức Chúa.
13
Nó
sẽ cưới một người nữ còn trinh. 14 Ðàn bà goá hay bị chồng bỏ, người
bị làm nhục hay làm điếm, những người đó nó không được lấy, mà chỉ được lấy một
trinh nữ trong gia tộc mình làm vợ; 15 như vậy, nó sẽ không làm nhục
dòng dõi nó trong gia tộc nó, vì Ta là Ðức Chúa, Ðấng thánh hoá nó."
C.
Những trường hợp không được làm tư tế
16
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
17
"Hãy
nói với A-ha-ron: Qua các thế hệ, người đàn ông nào trong dòng dõi ngươi có
tật, thì không được lại gần để tiến dâng thức ăn dành cho Thiên chúa của nó. 18
Thật vậy, bất cứ người nào có tật không được lại gần: người đui mù, què
quặt, dị tướng, dị hình, 19 người bị gãy chân gãy tay, 20 gù,
còi, bị đốm ở mắt, ghẻ, hắc lào, hay bị giập tinh hoàn. 21 Bất cứ
người đàn ông nào trong dòng dõi tư tế A-ha-ron có tật, thì không được đến gần
để tiến dâng các lễ hoả tế lên Ðức Chúa; nó có tật, nó không được đến gần để
tiến dâng thức ăn dành cho Thiên Chúa của nó.
22
Thức
ăn dành cho Thiên Chúa của nó, những của rất thánh, và những của thánh, nó được
ăn, 23 nhưng nó không được tới chỗ màn trướng, không được đến gần
bàn thờ, vì nó có tật; như vậy nó sẽ không xúc phạm đến các nơi thánh của Ta,
vì Ta là Ðức Chúa, Ðấng thánh hoá những nơi ấy."
24
Ông
Mô-sê nói thế với ông A-ha-ron, với các con ông này và toàn thể con cái
Ít-ra-en.
Chương 22
Phải
thánh mới được ăn của thánh
A.
Các tư tế
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
bảo A-ha-ron và các con nó, trong những trường hợp sau đây, phải kiêng những
của thánh con cái Ít-ra-en thánh hiến cho ta, để khỏi xúc phạm đến thánh danh
Ta. Ta là Ðức Chúa. 3 Hãy bảo chúng: Trong các thế hệ các ngươi, bất
cứ người nào trong dòng dõi các ngươi, khi bị ô uế, mà lại gần các của thánh
con cái Ít-ra-en thánh hiến cho Ðức Chúa, thì người ấy sẽ bị khai trừ cho khuất
mắt Ta. Ta là Ðức Chúa.
4
Không
người nào trong dòng dõi A-ha-ron bị phong hủi hay bị lậu, được ăn các của
thánh khi chưa được thanh sạch. Ai đụng vào bất cứ cái gì đã ra ô uế vì xác
chết, người đàn ông đã xuất tinh, 5 người đàn ông đã đụng vào bất cứ
một con vật nhỏ nào làm cho người ấy ra ô uế, hay đụng vào người nào làm cho
người ấy ra ô uế, dù là thứ ô uế nào, 6 ai đã đụng vào những thứ như
vậy, sẽ ra ô uế cho đến chiều, và không được ăn những của thánh khi chưa lấy
nước tắm rửa thân thể. 7 Lúc mặt trời lặn, nó sẽ được thanh sạch,
bấy giờ nó được ăn những của thánh, vì đó là thức ăn của nó.
8
Con
vật chết hay bị thú dữ xé, nó không được ăn, kẻo ra ô uế vì vật đó. Ta là Ðức
Chúa.
9
Chúng
phải giữ điều Ta truyền giữ, nếu không sẽ mang tội vì chuyện đó và phải chết vì
phạm đến của thánh. Ta là Ðức Chúa, Ðấng thánh hoá những của ấy.
B.
Người ngoài
10
Không
người ngoài nào được ăn của thánh; khách trọ nhà tư tế và người làm thuê không
được ăn của thánh. 11 Nhưng nếu tư tế dùng tiền mà mua người nào,
thì người ấy được ăn; nô lệ sinh ra trong nhà cũng được ăn thức ăn của tư tế. 12
Con gái một tư tế, nếu lấy một người ngoài, thì không được ăn phần trích
ra từ các của thánh; 13 nhưng nếu con gái tư tế goá chồng hay bị
chồng bỏ, mà không có con, trở về nhà cha mình như khi còn trẻ, thì được ăn
thức ăn của cha, mặc dầu không một người ngoài nào được ăn. 14 Nếu
người nào vô ý ăn của thánh, thì phải đền của thánh cho tư tế, cộng thêm một
phần năm.
15
Các
tư tế không được phạm đến các của thánh con cái Ít-ra-en đã trích dâng Ðức Chúa;
16 tư tế sẽ làm cho chúng mang một lỗi, một lỗi mà chúng phải đền vì
đã ăn các của thánh, vì Ta là Ðức Chúa, Ðấng thánh hoá những của ấy."
C.
Tế vật
17
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
18
"Hãy
nói với A-ha-ron, với các con nó cùng toàn thể con cái Ít-ra-en, và bảo chúng:
Bất cứ người nào, trong nhà Ít-ra-en hoặc trong số ngoại kiều sống tại
Ít-ra-en, vì đã khấn hứa hay tự nguyện, mà dâng lễ tiến của mình, và tiến dâng
Ðức Chúa làm lễ toàn thiêu 19 thì phải dâng một con đực toàn vẹn bắt từ đàn bò,
chiên hay dê, nếu muốn được đoái nhận. 20 Các ngươi không được tiến
dâng con vật nào có tật, vì các ngươi sẽ không được đoái nhận. 21 Khi
một người tiến dâng Ðức Chúa bò hay chiên dê làm hy lễ kỳ an để giữ trọn lời
khấn hứa hoặc vì đã tự nguyện, thì con vật phải toàn vẹn, không có một tật nào,
nếu muốn được đoái nhận. 22 Con vật mù, què, bị cắt xẻo, lở loét,
ghẻ, hắc lào, thì các ngươi không được tiến dâng lên Ðức Chúa, không được lấy
phần nào đặt trên bàn thờ làm lễ hoả tế dâng Ðức Chúa. 23 Bò, chiên
dê dị hình hay còi, ngươi có thể dâng làm lễ vật tự nguyện, nhưng nếu dâng làm
lễ vật đã khấn hứa, thì chúng sẽ không được đoái nhận. 24 Các ngươi
không được tiến dâng Ðức Chúa một con vật có tinh hoàn bị giập, bị nghiền, bị
moi hay cắt; các ngươi không được làm thế trong đất các ngươi. 25 Các
ngươi không được nhận những con vật như thế từ tay người nước ngoài, để tiến
dâng làm thức ăn dành cho Thiên Chúa các ngươi: chúng bị thiến tức là có tật,
chúng sẽ không được đoái nhận như lễ vật của các ngươi."
26
ÐỨC
CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: 27 "Bê, chiên hay dê, sau khi
sinh, sẽ ở với mẹ nó bảy ngày; từ ngày thứ tám trở đi, nó sẽ được đoái nhận làm
lễ tiến, làm lễ hoả tế dâng Ðức Chúa. 28 Dù là bò hay chiên dê,
ngươi không được sát tế mẹ và con cùng một ngày. 29 Khi các ngươi
dâng Ðức Chúa hy lễ tạ ơn, hãy dâng thế nào để được đoái nhận; 30 phải
ăn lễ vật trong chính ngày đó, các ngươi không được để lại gì cho đến sáng hôm
sau. Ta là Ðức Chúa.
Lời
khuyên nhủ cuối cùng
31
Các
ngươi phải giữ các mệnh lệnh của Ta và đem ra thực hành. Ta là Ðức Chúa. 32
Các ngươi không được xúc phạm đến thánh danh Ta, để Ta biểu dương sự
thánh thiện của Ta giữa con cái Ít-ra-en. Ta là Ðức Chúa, Ðấng thánh hoá các
ngươi. 33 Ðấng đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập để làm Thiên Chúa
của các ngươi, chính là Ta, Ðức Chúa.
Chương 23
Nghi
thức cử hành các lễ trong năm
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các đại lễ của Ðức Chúa là những ngày mà
các ngươi phải triệu tập những cuộc họp để thờ phượng Ta. Ðây là những đại lễ
của Ta:
A.
Ngày sa-bát
3
Trong
sáu ngày, người ta sẽ làm công việc của mình; còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát,
một ngày nghỉ, có cuộc họp để thờ phượng, các ngươi không được làm công việc
nào. Ðó là ngày sa-bát kính Ðức Chúa, tại khắp nơi các ngươi ở.
4
Ðây
là các đại lễ của Ðức Chúa, các cuộc họp để thờ phượng mà các ngươi phải triệu
tập vào thời gian ấn định:
5
Tháng
thứ nhất, ngày mười bốn trong tháng, vào lúc chập tối, là lễ Vượt Qua kính Ðức
Chúa. 6 Ngày mười lăm tháng ấy là lễ Bánh Không Men kính Ðức Chúa.
Trong vòng bảy ngày, các ngươi phải ăn bánh không men. 7 Ngày đầu
tiên, các ngươi phải họp nhau để thờ phượng Ta, các ngươi không được làm một
công việc nặng nhọc nào. 8 Trong vòng bảy ngày, các ngươi phải tiến
dâng lễ hoả tế lên Ðức Chúa. Ngày thứ bảy, có cuộc họp để thờ phượng Ta, các
ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào.
C.
Dâng bó lúa đầu mùa
9
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
10
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Khi các ngươi vào đất Ta ban cho các
ngươi, và gặt mùa ở đó, thì phải đem đến cho tư tế một bó lúa, sản phẩm đầu mùa
gặt hái của các ngươi. 11 Nó sẽ làm nghi thức tiến dâng trước nhan
Ðức Chúa để các ngươi được đoái nhận; tư tế sẽ làm nghi thức tiến dâng hôm sau
ngày sa-bát. 12 Ngày các ngươi làm nghi thức tiến dâng bó lúa ấy,
các ngươi phải dâng một con chiên toàn vẹn, một tuổi, làm lễ toàn thiêu lên Ðức
Chúa, 13 cùng với lễ phẩm là chín lít tinh bột nhào với dầu: đó là
lễ hoả tế dâng Ðức Chúa, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa; lễ tưới rượu kèm
theo là hai lít. 14 Cho đến chính ngày đó, khi các ngươi mang lễ
phẩm của Thiên Chúa các ngươi đến, các ngươi không được ăn bánh, ăn gié lúa
rang và hột lúa mới. Ðó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi, tại
khắp nơi các ngươi ở.
15
Từ
hôm sau ngày sa-bát, ngày các ngươi đem bó lúa đến để làm nghi thức tiến dâng,
các ngươi phải tính bảy tuần, bảy tuần chẵn. 16 Các ngươi phải tính
năm mươi ngày cho đến hôm sau ngày sa-bát thứ bảy, và các ngươi sẽ tiến dâng
một lễ phẩm mới lên Ðức Chúa: 17 từ những nơi các ngươi ở, các ngươi
phải đem đến hai chiếc bánh để làm nghi thức tiến dâng, bánh làm bằng chín lít
tinh bột và trộn men mà nướng: đó là của đầu mùa dâng Ðức Chúa. 18 Thêm
vào với bánh, các ngươi phải tiến dâng bảy con chiên toàn vẹn, một tuổi, một
con bò tơ và hai con cừu đực làm lễ toàn thiêu dâng Ðức Chúa, cùng với lễ phẩm
và lễ tưới rượu kèm theo: đó là lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa.
19 Các ngươi phải lấy một con dê đực làm lễ tạ tội và hai con chiên
một tuổi làm hy lễ kỳ an; 20 tư tế sẽ làm nghi thức tiến dâng trước
nhan Ðức Chúa hai con chiên cùng với bánh đầu mùa: đó là của thánh thuộc về Ðức
Chúa, dành cho tư tế.
21
Chính
ngày đó, các ngươi phải triệu tập dân, phải họp nhau để thờ phượng Ta; các
ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào. Ðó là quy tắc vĩnh viễn cho
các thế hệ của các ngươi, tại khắp nơi các ngươi ở.
22
Khi
các ngươi gặt lúa trong đất các ngươi, (các) ngươi không được gặt cho tới sát
bờ ruộng; lúa gặt sót, (các) ngươi không được mót: (các) ngươi sẽ bỏ lại cho
người nghèo và ngoại kiều. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi."
23
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
24
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Tháng thứ bảy, ngày mồng một, đối với
các ngươi sẽ là một ngày nghỉ, một ngày tưởng niệm giữa tiếng reo hò, và họp
nhau để thờ phượng Ta. 25 Các ngươi không được làm một công việc
nặng nhọc nào, và phải tiến dâng một lễ hoả tế lên Ðức Chúa."
26
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
27
"Ngoài
ra, ngày mồng mười tháng bảy là ngày Xá tội, các ngươi phải họp nhau để thờ
phượng Ta, phải ăn chay hãm mình và tiến dâng một lễ hoả tế lên Ðức Chúa. 28
Chính ngày ấy, các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào, vì
đó là ngày Xá tội, ngày cử hành lễ xá tội cho các ngươi trước nhan Ðức Chúa,
Thiên Chúa của các ngươi. 29 Như vậy bất cứ người nào không ăn chay
hãm mình vào chính ngày đó, sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ; 30 và bất
cứ người nào làm một việc gì vào chính ngày đó, Ta sẽ làm cho nó biến mất không
còn dấu vết giữa dân nó. 31 Các ngươi không được làm một công việc
nào: đó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi, tại khắp nơi các
ngươi ở. 32 Ðối với các ngươi, đó sẽ là một ngày sa-bát, một ngày
nghỉ, và các ngươi phải ăn chay hãm mình. Từ chiều ngày mồng chín đến chiều hôm
sau, các ngươi phải nghỉ để giữ ngày sa-bát."
33
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
34
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en: Ngày mười lăm tháng bảy là lễ Lều kính Ðức Chúa,
trong vòng bảy ngày. 35 Ngày đầu tiên, phải họp nhau để thờ phượng
Ta, các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào. 36 Trong
vòng bảy ngày, các ngươi phải tiến dâng lễ hoả tế lên Ðức Chúa. Ngày thứ tám,
các ngươi phải họp nhau để thờ phượng Ta, và phải tiến dâng một lễ hoả tế lên
Ðức Chúa: đó là một buổi họp long trọng, các ngươi không được làm một công việc
nặng nhọc nào.
Kết
luận (Ðn 29:39)
37
Ðó
là các đại lễ của Ðức Chúa, là những ngày mà các ngươi phải triệu tập những
cuộc họp để thờ phượng Ta, để tiến dâng lễ hoả tế lên Ðức Chúa: lễ toàn thiêu
hay lễ phẩm, hy lễ hay những lễ tưới rượu, việc nào vào ngày đó, 38 không
kể các ngày sa-bát của Ðức Chúa, không kể các lễ vật, không kể tất cả các lễ
vật đã khấn hứa và tất cả các lễ vật tự nguyện các ngươi dâng Ðức Chúa.
Lại
nói về lễ Lều
39
Ngoài
ra, ngày mười lăm tháng bảy, khi các ngươi đã thu hoa lợi ruộng đất, các ngươi
phải mở lễ kính Ðức Chúa trong vòng bảy ngày. Ngày đầu tiên là ngày nghỉ, ngày
thứ tám là ngày nghỉ. 40 Ngày đầu tiên, các ngươi phải lấy những
trái cây đẹp, những tàu lá chà là, những cành cây nhiều lá và cành liễu mọc bên
bờ suối, và phải liên hoan trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, trong
vòng bảy ngày. 41 Các ngươi phải mừng lễ đó như một lễ kính Ðức Chúa
trong vòng bảy ngày mỗi năm: đó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các
ngươi.
42
Trong
vòng bảy ngày, các ngươi phải ở trong lều bằng cành cây; mọi người bản xứ tại
Ít-ra-en phải ở trong lều bằng cành cây,43 để các thế hệ của các ngươi biết
rằng Ta đã cho con cái Ít-ra-en ở trong lều bằng cành cây, khi Ta đưa chúng ra
khỏi đất Ai-cập. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi."
44
Ông
Mô-sê nói cho con cái Ít-ra-en biết các đại lễ của Ðức Chúa.
Chương 24
Quy
định bổ sung về nghi lễ
A.
Ðèn cháy liên lỉ
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
truyền cho con cái Ít-ra-en phải giã ô-liu lấy dầu nguyên chất cho ngươi, để
thắp đèn, hầu cho luôn luôn có ngọn lửa cháy. 3 A-ha-ron sẽ đặt
chiếc đèn đó bên ngoài bức màn trướng che Chứng Ước, trong Lều Hội Ngộ, sao cho
nó luôn luôn cháy từ chiều đến sáng trước nhan Ðức Chúa. Ðó là quy tắc vĩnh
viễn cho các thế hệ của các ngươi. 4 A-ha-ron sẽ phải đặt các đèn
trên trụ đèn bằng vàng ròng trước nhan Ðức Chúa, luôn luôn.
B.
Bánh tiến
5
Ngươi
phải lấy tinh bột và nướng thành mười hai cái bánh, mỗi cái sẽ là chín lít bột.
6 Ngươi phải xếp bánh thành hai chồng, mỗi chồng sáu cái, trên bàn
bằng vàng ròng, trước nhan Ðức Chúa. 7 Trên mỗi chồng, ngươi phải để
hương tinh khiết, hương đó sẽ là kỷ vật thay cho bánh, là hoả tế dâng Ðức Chúa.
8 Mỗi ngày sa-bát, người ta phải đặt luôn luôn trước nhan Ðức Chúa,
bánh con cái Ít-ra-en dâng: đó là một giao ước vĩnh cửu. 9 Bánh đó
sẽ dành cho A-ha-ron và các con nó; chúng sẽ ăn trong một nơi thánh, vì đó là
của rất thánh dành cho nó, lấy từ các lễ hoả tế dâng Ðức Chúa: đó là quy luật
vĩnh viễn."
Nói
phạm thượng. Luật báo phục tương xứng.
10
Có
một người con trai, mẹ là người Ít-ra-en, cha là người Ai-cập, đến giữa con cái
Ít-ra-en, và ngay giữa trại, con của người đàn bà Ít-ra-en đó xô xát với một
người đàn ông Ít-ra-en. 11 Con của người đàn bà Ít-ra-en đó nói phạm
đến thánh danh và buông lời nguyền rủa. Người ta đem nó đến cho ông Mô-sê. Mẹ
nó tên là Sơ-lô-mít, con ông Ðíp-ri, thuộc chi tộc Ðan. 12 Người ta
nhốt nó lại, để chờ quyết định theo lệnh Ðức Chúa.
13
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê:
14
"Hãy
đưa kẻ nói lời nguyền rủa ra ngoài trại. Tất cả những ai đã nghe, phải đặt tay
lên đầu nó, và toàn thể cộng đồng phải ném đá nó. 15 Rồi ngươi sẽ
nói với con cái Ít-ra-en rằng: Bất cứ người nào nguyền rủa Thiên Chúa của nó,
sẽ phải mang lấy tội mình. 16 Ai nói phạm đến danh Ðức Chúa, sẽ bị
xử tử: toàn thể cộng đồng sẽ ném đá nó; dù là ngoại kiều hay người bản xứ, nếu
nói phạm đến thánh danh, sẽ bị xử tử.
17
Nếu
ai đánh chết bất cứ người nào, thì sẽ bị xử tử. 18 Ai đánh chết một
con vật, thì phải đền: vật sống đền vật sống.
19
Nếu
ai làm cho người đồng bào phải mang tật, thì phải xử với nó như nó đã xử với
người ta: 20 chỗ gãy đền chỗ gãy, mắt đền mắt, răng đền răng; nó đã
làm cho người khác mang tật thế nào, thì người ta cũng sẽ làm cho nó như vậy. 21
Ai đánh chết một con vật, thì phải đền; ai đánh chết người, sẽ bị xử tử. 22
Các ngươi chỉ được có một pháp luật, cho ngoại kiều cũng như cho người
bản xứ, vì Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi."
23
Ông
Mô-sê nói thế với con cái Ít-ra-en. Họ liền đưa kẻ nói lời nguyền rủa ra ngoài
trại và ném đá nó. Con cái Ít-ra-en làm như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
Chương 25
Các
năm thánh
A.
Năm hưu lễ
1
Trên
núi Xi-nai, Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Khi các ngươi vào đất Ta sắp ban cho các
ngươi, đất phải nghỉ một sa-bát kính Ðức Chúa. 3 Trong sáu năm,
(các) ngươi sẽ gieo vãi trong cánh đồng của (các) ngươi, trong sáu năm, (các)
ngươi sẽ tỉa vườn nho của (các) ngươi, và (các) ngươi sẽ thu hoa lợi. 4 Nhưng
năm thứ bảy sẽ là một sa-bát, một thời kỳ đất nghỉ, một sa-bát kính Ðức Chúa:
(các) ngươi không được gieo vãi trong cánh đồng của (các) ngươi, không được tỉa
vườn nho của các ngươi; 5 (các) ngươi không được gặt lúa tự nhiên
mọc sau mùa gặt, không được hái những chùm nho từ vườn nho không cắt tỉa của
(các) ngươi: đó sẽ là một năm đất nghỉ. 6 Sản phẩm tự nhiên của đất
trong năm sa-bát sẽ nuôi các ngươi, tôi tớ nam nữ của (các) ngươi, người làm
thuê của (các) ngươi, khách trọ nhà (các) ngươi; tóm lại các người trú ngụ nơi
(các) ngươi. 7 Còn gia súc và dã thú ở trong đất (các) ngươi, thì
tất cả hoa lợi của đất sẽ là lương thực cho chúng.
B.
Năm toàn xá
8
(Các)
ngươi phải tính bảy tuần năm, nghĩa là bảy lần bảy năm; thời gian của bảy tuần
năm đó là bốn mươi chín năm. 9 Tháng thứ bảy, ngày mồng mười trong
tháng, (các) ngươi sẽ thổi tù và giữa tiếng reo hò; vào ngày Xá tội, (các)
ngươi sẽ thổi tù và trong toàn xứ các ngươi. 10 Các ngươi sẽ công bố
năm thứ năm mươi là năm thánh và sẽ tuyên cáo trong xứ lệnh ân xá cho mọi người
sống tại đó. Ðối với (các) ngươi, đó là thời kỳ toàn xá: mỗi người trong các
ngươi sẽ trở về phần sở hữu của mình, mỗi người sẽ trở về dòng họ của mình. 11
Ðối với các ngươi, năm thứ năm mươi sẽ là thời kỳ toàn xá: các ngươi
không được gieo, không được gặt lúa tự nhiên mọc, không được hái trong vườn nho
không cắt tỉa. 12 Vì đó là thời kỳ toàn xá, một năm thánh đối với
các ngươi, các ngươi sẽ ăn hoa lợi của đồng ruộng.
13
Năm
toàn xá đó, mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở hữu của mình. 14 Nếu
các ngươi bán cái gì cho người đồng bào hoặc mua cái gì từ tay người đồng bào,
thì đừng ai làm thiệt hại người anh em mình. 15 Ngươi sẽ mua của
người đồng bào theo số năm sau năm toàn xá, và nó sẽ bán cho ngươi theo số năm
thu hoạch. 16 Còn nhiều năm thì ngươi mua giá cao, còn ít năm thì
ngươi mua giá thấp, vì nó bán cho ngươi một số năm thu hoạch. 17 Không
ai trong các ngươi được làm thiệt hại người đồng bào, nhưng (các) ngươi phải
kính sợ Thiên Chúa của (các) ngươi, vì Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của (các)
ngươi.
Thiên
Chúa bảo đảm về năm sa-bát
18
Các
ngươi phải đem ra thực hành các quy tắc của Ta, phải giữ và đem ra thực hành
các quyết định của Ta, và các ngươi sẽ được sống yên hàn trên đất ấy. 19 Ðất
sẽ sinh hoa trái, các ngươi sẽ được ăn no nê và được sống yên hàn tại đó.
20
Có
lẽ các ngươi sẽ nói: "Năm thứ bảy chúng tôi sẽ ăn gì, nếu chúng tôi không
gieo vãi và không thu hoa lợi?” 21 Ta sẽ truyền cho phúc lành của Ta
đến với các ngươi vào năm thứ sáu, và phúc lành sẽ sinh hoa lợi đủ cho ba năm. 22
Năm thứ tám, các ngươi sẽ gieo vãi, nhưng sẽ lấy hoa lợi cũ mà ăn; đến
năm thứ chín, đến khi gặt hoa lợi năm ấy, các ngươi sẽ ăn hoa lợi cũ.
Chuộc
đất, chuộc nhà
23
Ðất
thì không được bán đứt, vì đất là của Ta, còn các ngươi chỉ là ngoại kiều, là
khách trọ nhà Ta. 24 Trong toàn xứ sẽ thuộc quyền sở hữu của các
ngươi, các ngươi phải cho người ta quyền chuộc lại đất. 25 Nếu người
anh em của (các) ngươi lâm cảnh túng thiếu và phải bán một phần sở hữu của nó,
thì người có quyền chuộc, tức là người bà con gần nhất, sẽ đến chuộc lại cái mà
người anh em nó đã bán. 26 Nếu ai không có bà con có quyền chuộc,
nhưng lại có phương tiện và kiếm được tiền chuộc, 27 thì nó sẽ tính
những năm từ khi bán, còn trội bao nhiêu, nó sẽ trả cho người mua, và sẽ trở về
phần sở hữu của mình. 28 Nhưng nếu nó không kiếm được phương tiện để
trả tiền lại cho người kia, thì của nó bán sẽ ở lại trong tay người mua cho đến
năm toàn xá; đến thời kỳ toàn xá, của bán sẽ ra khỏi tay người mua, và người
bán sẽ trở về phần sở hữu của mình.
29
Nếu
người nào bán nhà ở, trong một thành có tường luỹ, thì quyền chuộc sẽ kéo dài
đến hết năm bán; quyền chuộc nhà sẽ kéo dài một năm. 30 Nếu trong
vòng một năm trọn mà nhà không được chuộc, thì nhà ở trong thành có tường luỹ
sẽ thuộc hẳn về người mua và con cháu nó; vào năm toàn xá, nhà sẽ không ra khỏi
tay nó. 31 Nhà cửa trong các làng không có tường luỹ chung quanh,
thì được kể như đồng ruộng; người ta có quyền chuộc những nhà ấy, và năm toàn
xá những nhà ấy sẽ ra khỏi tay người mua.
32
Còn
các thành của các thầy Lê-vi, nhà cửa trong các thành thuộc quyền sở hữu của
chúng, thì các thầy Lê-vi mãi mãi có quyền chuộc. 33 Dù một thầy
Lê-vi đã mua, thì nhà đã bán -trong một thành là sở hữu của nó- sẽ ra khỏi tay
người mua vào thời kỳ toàn xá, vì nhà cửa trong các thành của các thầy Lê-vi là
sở hữu của chúng giữa con cái Ít-ra-en. 34 Còn đồng cỏ chung quanh
các thành của chúng thì không được bán, vì đó là phần sở hữu vĩnh viễn của
chúng.
Chuộc
người
35
Nếu
người anh em của (các) ngươi lâm cảnh túng thiếu, và không trả nợ được (các)
ngươi, thì (các) ngươi phải nâng đỡ nó, dù nó là ngoại kiều hay khách trọ, để
nó có thể sống bên (các) ngươi. 36 Với nó, (các) ngươi không được
lấy lãi ăn lời, nhưng (các) ngươi phải kính sợ Thiên Chúa, và người anh em của
(các) ngươi sẽ có thể sống bên (các) ngươi. 37 (Các) ngươi không
được cho nó vay bạc của (các) ngươi để lấy lãi và vay lương thực của (các)
ngươi để ăn lời. 38 Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ðấng
đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, để ban cho các ngươi đất Ca-na-an và để
làm Thiên chúa của các ngươi.
39
Nếu
người anh em của (các) ngươi lâm cảnh túng thiếu bên cạnh (các) ngươi và phải
bán mình cho (các) ngươi, thì (các) ngươi không được bắt nó làm công việc của
người nô lệ; 40 nó sẽ ở với (các) ngươi như một người làm thuê, một
khách trọ, và sẽ phục vụ trong nhà (các) ngươi cho đến năm toàn xá; 41 khi
đó, nó cùng với con cái nó sẽ ra khỏi nhà (các) ngươi, sẽ trở về thị tộc mình,
sẽ trở về phần sở hữu của cha ông nó. 42 Quả thế, chúng là tôi tớ
của Ta, mà Ta đã đưa ra khỏi đất Ai-cập, không được bán chúng như bán nô lệ. 43
(Các) ngươi không được thống trị chúng cách hà khắc, nhưng hãy kính sợ
Thiên Chúa của (các) ngươi.
44
Tôi
tớ nam nữ mà (các) ngươi sẽ có, phải là những người thuộc các dân tộc chung
quanh các ngươi; các ngươi sẽ mua tôi tớ nam nữ từ các dân tộc ấy. 45 Các
ngươi cũng có thể mua trong số con cái các khách trọ, trú ngụ giữa các ngươi,
trong các gia đình của chúng đang ở giữa các ngươi, những kẻ chúng đã sinh ra
trên đất các ngươi: chúng sẽ là sở hữu của các ngươi. 46 Các ngươi
sẽ để chúng lại làm gia nghiệp cho con cái các ngươi mai sau; để con cái các
ngươi giữ làm sở hữu. Các ngươi có thể bắt chúng làm nô lệ mãi mãi, nhưng anh
em các ngươi là con cái Ít-ra-en, thì không ai trong các ngươi được thống trị
cách hà khắc.
47
Nếu
một ngoại kiều hay khách trọ giữa (các) ngươi có phương tiện, và nếu người anh
em của (các) ngươi lâm cảnh túng thiếu bên cạnh nó và phải bán mình cho ngoại
kiều đó hoặc cho khách trọ giữa (các) ngươi, hoặc cho con cháu một gia đình
ngoại kiều, 48 thì sau khi bán mình, người anh em ấy vẫn có quyền
chuộc: một người trong các anh em nó có thể chuộc nó; 49 chú bác nó
hay con của chú bác nó, hay một người bà con ruột thịt trong gia tộc nó có thể
chuộc nó; hoặc nếu có phương tiện thì có thể tự chuộc mình. 50 Với
người đã mua nó, nó sẽ tính thời gian từ năm nó bán mình cho đến năm toàn xá,
và giá tiền bán nó cứ tuỳ số năm mà tính, theo lương công nhật của người làm
thuê. 51 Nếu còn nhiều năm, thì nó cứ tuỳ theo số năm ấy mà khấu trừ
vào tiền bán nó, để trả tiền chuộc mình. 52 Nếu còn lại ít năm trước
năm toàn xá, thì nó sẽ tính theo số năm ấy mà trả tiền chuộc. 53 Nó
sẽ ở với người kia như một người làm thuê từ năm nọ sang năm kia, nhưng người
kia không được thống trị nó cách hà khắc.
54
Nếu
nó không được chuộc bằng những cách trên, thì nó sẽ được ra đi, nó cùng với các
con nó, vào năm toàn xá. 55 Thật vậy, con cái Ít-ra-en làm tôi tớ
cho Ta, chúng là tôi tớ của Ta, những kẻ Ta đã đưa ra khỏi đất Ai-cập. Ta là
Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.
Chương 26
Tóm
kết
1
Các
người không được làm ra các tà thần mà thờ, không được dựng tượng và trụ đá để
mà thờ, không được đặt trong đất các ngươi hình tượng bằng đá để sụp lạy chúng,
vì Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi. 2 Các ngươi phải giữ
ngày sa-bát của Ta và kính sợ thánh điện của Ta. Ta là Ðức Chúa.
Các
lời chúc phúc (Ðnl 7:12-24; 28:1-14)
3
Nếu
các ngươi theo các quy tắc của Ta, nếu các ngươi giữ các mệnh lệnh của Ta và
đem ra thực hành, 4 thì Ta sẽ ban mưa cho các ngươi đúng mùa, đất sẽ
sinh hoa màu, cây cối ngoài đồng sẽ ra trái; 5 các ngươi sẽ được gặt
lúa cho đến thời hái nho, và sẽ được hái nho cho đến thời gieo giống; các ngươi
sẽ được ăn bánh của mình no nê và sẽ được sống yên hàn trên đất các ngươi.
6
Ta
sẽ thiết lập hoà bình trong đất các ngươi, và các ngươi sẽ ngủ nghỉ mà không ai
quấy phá, Ta sẽ khiến thú dữ biến khỏi đất các ngươi, và gươm sẽ không đi qua
đất các ngươi. 7 Các ngươi sẽ đuổi kẻ thù của các ngươi, và chúng sẽ
bị gươm đâm ngã gục trước mặt các ngươi. 8 Năm người trong các ngươi
sẽ đuổi được một trăm, một trăm người trong các ngươi sẽ đuổi được mười ngàn,
và kẻ thù của các ngươi sẽ bị gươm đâm ngã gục trước mặt các ngươi.
9
Ta
sẽ hướng về các ngươi, sẽ cho các ngươi sinh sôi nảy nở thật nhiều và sẽ giữ
vững giao ước của Ta với các ngươi.
10
Các
ngươi sẽ ăn lúa cũ, lúa mùa trước, và sẽ đổ lúa cũ ra lấy chỗ cho lúa mới.
11
Ta
sẽ đặt Nhà Tạm của ta giữa các ngươi, và sẽ không chán ghét các ngươi. 12 Ta
sẽ đi đi lại lại giữa các ngươi; Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi, còn các
ngươi sẽ là dân của Ta. 13 Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi,
Ðấng đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, để các ngươi không còn làm nô lệ cho
chúng nữa; Ta đã bẻ gông bẻ ách cho các ngươi và đã cho các ngươi tiến bước
hiên ngang.
Các
lời nguyền rủa (Ðnl 28:15 -68)
14
Nhưng
nếu các ngươi không nghe Ta và không đem tất cả các mệnh lệnh đó ra thực hành, 15
nếu các ngươi gạt bỏ các quy tắc của Ta và chán ghét các quyết định của
Ta, mà không đem ra thực hành các mệnh lệnh của Ta, lại huỷ bỏ giao ước của Ta,
16 thì Ta cũng vậy, Ta sẽ làm cho các ngươi như thế này:
17
Ta
sẽ quay mặt lại phạt các ngươi và các ngươi sẽ bị quân thù đánh bại; các kẻ
ghét các ngươi sẽ thống trị các ngươi, và các ngươi sẽ chạy trốn dù không có
người đuổi theo.
18
Dù
vậy, nếu các ngươi vẫn không chịu nghe Ta, thì Ta sẽ còn sửa phạt các ngươi gấp
bảy lần vì tội lỗi của các ngươi. 19 Ta sẽ bẻ gãy sự kiêu hùng của
các ngươi, Ta sẽ làm cho trời các ngươi ra như sắt, đất các ngươi ra như đồng; 20
các ngươi sẽ tiêu hao sức lực uổng công, đất các ngươi sẽ không còn sinh
hoa màu, cây cối của đất sẽ không còn ra trái.
21
Nếu
các ngươi chống Ta và không muốn nghe Ta, thì Ta sẽ còn đánh phạt các ngươi gấp
bảy lần tội lỗi các ngươi. 22 Ta sẽ sai dã thú đến giữa các ngươi,
chúng sẽ cướp con cái các ngươi, tiêu diệt gia súc các ngươi và giảm dân số các
ngươi đến nỗi đường sá của các ngươi thành hoang vắng.
23
Dù
vậy, nếu các ngươi vẫn không chịu để Ta sửa dạy, mà cứ chống Ta, 24 thì
Ta cũng vậy, Ta sẽ chống các ngươi và Ta cũng sẽ đánh phạt các ngươi gấp bảy
lần vì tội lỗi các ngươi. 25 Ta sẽ giáng xuống các ngươi lưỡi gươm
báo oán để rửa hận cho giao ước. Các ngươi sẽ rút cả vào trong các thành của
các ngươi, nhưng Ta sẽ gửi ôn dịch đến giữa các ngươi, và các ngươi sẽ bị trao
vào tay kẻ thù. 26 Khi Ta làm cạn nguồn lương thực nuôi các ngươi,
thì mười người đàn bà sẽ nướng bánh của các ngươi trong một lò duy nhất và sẽ
chia bánh cho các ngươi theo định lượng; các ngươi sẽ ăn mà chẳng được no.
27
Dù
vậy, nếu các ngươi vẫn không chịu nghe Ta mà cứ chống Ta, 28 thì Ta
sẽ nổi cơn lôi đình chống các ngươi và Ta cũng sẽ sửa phạt các ngươi gấp bảy
lần vì tội lỗi các ngươi. 29 Các ngươi sẽ ăn thịt con trai, ăn thịt
con gái các ngươi. 30 Ta sẽ tiêu huỷ những nơi cao của các ngươi, sẽ
chặt những hương án của các ngươi, sẽ chất thây các ngươi trên thây những ngẫu
tượng của các ngươi, và Ta sẽ chán ghét các ngươi. 31 Ta sẽ làm cho
thành thị của các ngươi nên chốn tan hoang, sẽ tàn phá những thánh điện của các
ngươi; các ngươi có dâng hương thơm làm vui lòng Ta, Ta cũng không ngửi. 32
Chính Ta sẽ tàn phá đất của các ngươi, và kẻ thù của các ngươi đến ở đó
sẽ phải sửng sốt trước cảnh tượng ấy. 33 Còn các ngươi, Ta sẽ phân
tán giữa các dân tộc, Ta sẽ tuốt gươm đuổi theo các ngươi; đất các ngươi sẽ bị
tàn phá và thành thị của các ngươi sẽ nên chốn tan hoang. 34 Bấy giờ
đất sẽ được hưởng bù những năm sa-bát của nó, suốt thời gian nó bị tàn phá và
các ngươi phải ở trong đất của kẻ thù; bấy giờ đất sẽ nghỉ và sẽ được hưởng bù
những năm sa-bát của nó. 35 Suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ
bù những năm sa-bát của các ngươi mà nó đã không được nghỉ, khi các ngươi sống
ở đó. 36 Những kẻ còn lại trong số các ngươi, Ta sẽ làm cho chúng
nản lòng trong đất của kẻ thù chúng. Tiếng một chiếc lá bay sẽ đuổi theo chúng;
chúng sẽ chạy trốn như chạy trốn lưỡi gươm, và sẽ ngã gục dù không có người
đuổi theo. 37 Chúng sẽ vấp vào nhau, người nọ vào người kia, như
trước lưỡi gươm, dù không có người đuổi theo. Các ngươi sẽ không đứng vững
trước mặt quân thù; 38 các ngươi sẽ bị diệt vong giữa các dân tộc,
và đất của kẻ thù các ngươi sẽ nuốt các ngươi. 39 Những kẻ còn lại
trong số các ngươi sẽ chết dần chết mòn vì lỗi lầm của chúng, trong đất của kẻ
thù chúng; chúng sẽ chết dần chết mòn vì lỗi lầm của cha ông chúng, cộng với
lỗi lầm của chúng.
40
Chúng
sẽ xưng thú lỗi lầm của chúng và lỗi lầm của cha ông chúng: chúng đã phạm tội
bất trung đối với Ta, lại còn chống Ta, 41 khiến Ta cũng chống chúng
và đưa chúng đến đất của kẻ thù chúng. Bấy giờ tâm hồn không cắt bì của chúng
sẽ tự hạ, và bấy giờ chúng sẽ chịu phạt vì lỗi lầm của chúng. 42 Ta
sẽ nhớ lại giao ước của Ta với Gia-cóp, Ta cũng sẽ nhớ lại giao ước của Ta với
I-xa-ác và giao ước của Ta với Áp-ra-ham; Ta sẽ nhớ lại đất ấy.
43
Ðất
sẽ bị chúng bỏ rơi và sẽ được hưởng bù những năm sa-bát của nó, khi đất bị tàn
phá không có chúng ở nữa, khi chúng chịu phạt vì lỗi lầm của chúng, bởi lẽ
chúng đã gạt bỏ các quyết định của Ta và chán ghét các quy tắc của Ta.
44
Nhưng
cả khi ấy nữa, khi chúng ở trong đất của kẻ thù chúng, Ta cũng sẽ không gạt bỏ
chúng và không chán ghét chúng, đến nỗi tận diệt chúng và huỷ bỏ giao ước của
Ta với chúng, vì Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng. 45 Vì chúng,
Ta sẽ nhớ lại giao ước với tiền nhân chúng, những kẻ Ta đã đưa ra khỏi đất
Ai-cập, trước mắt các dân tộc, để Ta là Thiên Chúa của chúng. Ta là Ðức
Chúa."
46
Ðó
là các thánh chỉ, quyết định và luật lệ Ðức Chúa đã dùng ông Mô-sê mà lập ra
giữa Người với con cái Ít-ra-en tại núi Xi-nai.
Chương 27
Phụ
Lục
A.
Loài người
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Nếu ai muốn giữ trọn lời khấn hứa dâng
một người cho Ðức Chúa, thì phải định giá như sau:
3
Nếu
là phái nam từ hai mươi đến sáu mươi tuổi, thì phải định giá là mười lăm lượng
bạc, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện; 4 nếu là phái nữ, thì
phải định giá là chín lượng;
5
từ
năm đến hai mươi tuổi, thì phải định giá nam là sáu lượng, nữ là ba lượng;
6
từ
một tháng đến năm tuổi, thì phải định giá nam là mười lăm chỉ bạc, nữ là chín
chỉ bạc;
7
từ
sáu mươi tuổi trở lên, thì phải định giá nam là bốn mươi lăm chỉ bạc, nữ là ba
lượng.
8
Nếu
ai túng thiếu, không trả nổi giá đó, thì phải đặt nó trước mặt tư tế để tư tế
định giá; tư tế sẽ dựa vào khả năng của người khấn hứa mà định giá.
B.
Loài vật
9
Nếu
là một con vật thuộc loại có thể dâng làm lễ tiến lên Ðức Chúa, thì bất cứ con
nào người ta hiến cho Ðức Chúa đều là của thánh. 10 Không được đổi,
không được thay thế con tốt bằng con xấu, hay con xấu bằng con tốt. Nếu cứ thay
thế một con vật này bằng một con khác, thì cả con vật này lẫn con vật thay thế
đều là của thánh. 11 Nếu là một con vật ô uế, thuộc loại không được
dâng làm lễ tiến lên Ðức Chúa, thì phải đặt con vật trước mặt tư tế; 12 tư
tế sẽ định giá nó là tốt hay xấu, và tư tế định giá thế nào thì cứ như vậy. 13
Nếu muốn chuộc lại, thì phải trả thêm một phần năm giá đã định.
C.
Nhà cửa
14
Khi
một người thánh hiến nhà mình làm của thánh dâng Ðức Chúa, thì tư tế sẽ định
giá nhà ấy là tốt hay xấu; tư tế định giá thế nào thì cứ y như vậy. 15 Nếu
người đã thánh hiến nhà muốn chuộc lại, thì sẽ phải trả thêm một phần năm giá
đã định và nhà ấy sẽ là của nó.
D.
Ðồng ruộng
16
Nếu
một người thánh hiến cho Ðức Chúa một cánh đồng là sở hữu của mình, thì phải
dựa vào số lượng lúa giống mà định giá: hai mươi thùng giống lúa mạch là mười
lăm lượng bạc. 17 Nếu nó thánh hiến cánh đồng ngay từ năm toàn xá,
thì cứ theo như giá đã định. 18 Nếu nó thánh hiến cánh đồng sau năm
toàn xá, thì tư tế sẽ tính giá tuỳ theo số năm còn lại cho đến năm toàn xá, và
có giảm bớt giá đã định.
19
Nếu
người đã thánh hiến cánh đồng muốn chuộc lại, thì sẽ phải trả thêm vào đó một
phần năm giá đã định, và cánh đồng sẽ thuộc về nó. 20 Nếu nó không
chuộc lại cánh đồng nhưng bán cho người khác, thì cánh đồng không chuộc lại
được nữa, 21 và khi cánh đồng ra khỏi tay người mua, vào thời kỳ
toàn xá, thì cánh đồng sẽ là của thánh dâng Ðức Chúa, như một cánh đồng được
biệt hiến; cánh đồng sẽ thuộc quyền sở hữu của tư tế.
22
Nếu
nó thánh hiến cho Ðức Chúa một cánh đồng nó đã mua, chứ không phải cánh đồng
thuộc quyền sở hữu của nó, 23 thì tư tế sẽ tính số tiền phải trả cho
đến năm toàn xá, và ngay hôm đó người kia phải nộp theo giá đã định; đó là của
thánh dâng Ðức Chúa. 24 Ðến năm toàn xá, cánh đồng sẽ lại về tay
người bán, là người có quyền sở hữu đất. 25 Mỗi khi định giá thì
phải theo đơn vị đo lường của thánh điện: một se-ken ăn hai mươi ghê-ra.
Quy
định đặc biệt về việc chuộc lại những của thánh hiến
a.
Con đầu lòng
26
Con
đầu lòng trong đàn gia súc, không ai được thánh hiến: vì là con đầu lòng, nó đã
thuộc về Ðức Chúa; dù là bò hay chiên dê, nó thuộc về Ðức Chúa. 27 Nhưng
nếu là loài vật ô uế, thì có thể chuộc theo giá đã định, cộng thêm một phần
năm; nếu nó không được chuộc, thì sẽ được bán theo giá đã định.
b.
Của biệt hiến
28
Tuy
nhiên, trong những cái thuộc về một người - như người, gia súc hay cánh đồng là
sở hữu của nó - bất cứ cái gì nó đã biệt hiến dâng Ðức Chúa làm của biệt hiến,
thì không được bán, cũng không được chuộc. Mọi của biệt hiến là của rất thánh,
nó thuộc về Ðức Chúa. 29 Của biệt hiến mà là một người biệt hiến,
thì không thể được chuộc: nó phải bị xử tử.
c.
Thuế thập phân
30
Mọi
thuế thập phân đánh vào đất, trích từ sản phẩm của đất và từ hoa trái của cây
cối, đều thuộc về Ðức Chúa: đó là của thánh dâng Ðức Chúa. 31 Nếu
người nào muốn chuộc một phần thuế thập phân, thì phải trả thêm một phần năm.
32
Mọi
thuế thập phân đánh vào bò và chiên dê, tức là một phần mười của mọi vật đi qua
dưới cây gậy người chăn, đều là của rất thánh dâng Ðức Chúa. 33 Không
được tìm xem con nào tốt hay xấu và không được thay thế; nếu cứ thay thế, thì
con vật ấy và con vật thay thế sẽ là của rất thánh, không thể được chuộc
lại."
34
Ðó
là những mệnh lệnh Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê nói lại cho con cái
Ít-ra-en, trên núi Xi-nai.
Dân Số
Chương 01
I.
Kiểm Tra Dân Số
1
Tại
sa mạc Xi-nai ngày mồng một tháng hai năm thứ hai kể từ khi con cái Ít-ra-en ra
khỏi đất Ai-cập, Ðức Chúa phán với ông Mô-sê trong Lều Hội Ngộ rằng:
2
"Các
ngươi hãy kiểm tra dân số toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en theo thị tộc và
gia tộc, lập danh sách mọi người đàn ông từng người một. 3 Những
người từ hai mươi tuổi trở lên, nghĩa là mọi người trong dân Ít-ra-en đến tuổi
nhập ngũ, thì ngươi và A-ha-ron hãy liệt kê theo đơn vị của chúng. 4 Mỗi
chi tộc còn phải có một người giúp các ngươi, người ấy phải là tộc trưởng.
Nhân
viên kiểm tra
5
Ðây
là danh sách những người đứng ra giúp các ngươi: "Chi tộc Rưu-vên có
Ê-li-xua, con Sơ-đê-ua.
6
Chi
tộc Si-mê-ôn có Sơ-lu-mi-ên, con Xu-ri-sát-đai.
7
Chi
tộc Giu-đa có Nác-sôn, con Am-mi-na-đáp.
8
Chi
tộc Ít-xa-kha có Nơ-than-ên, con Xu-a.
9
Chi
tộc Dơ-vu-lun có Ê-li-áp, con Khe-lôn.
10
Con
cháu Giu-se: chi tộc Ép-ra-im có Ê-li-sa-ma, con Am-mi-hút, và chi tộc Mơ-na-se
có Gam-li-ên, con Pơ-đa-xua.
11
Chi
tộc Ben-gia-min có A-vi-đan, con Ghít-ô-ni.
12
Chi
tộc Ðan có A-khi-e-de, con Am-mi-sát-đai.
13
Chi
tộc A-se có Pác-i-ên, con Oóc-ran.
14
Chi
tộc Gát có En-gia-xáp, con Rơ-u-ên.
15
Chi
tộc Náp-ta-li có A-khi-ra, con Ê-nan."
16
Ðó
là những người đại diện của cộng đồng, họ đều là những người phụ trách các chi
tộc của họ, chỉ huy quân ngũ Ít-ra-en.
17
Ông
Mô-sê và ông A-ha-ron nhận những người vừa được chỉ định đích danh, 18 và
triệu tập toàn thể cộng đồng vào ngày mồng một tháng hai. Người ta xác định phổ
hệ theo thị tộc và gia tộc, lập danh sách những người đàn ông, từ hai mươi tuổi
trở lên, từng người một. 19 Như Ðức Chúa đã truyền cho ông, ông
Mô-sê kiểm tra họ trong sa mạc Xi-nai.
Cuộc
kiểm tra
20
Con
cháu Rưu-vên, trưởng nam của Ít-ra-en, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và
gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi
trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 21 những người được kiểm tra
thuộc chi tộc Rưu-vên, là 46,500.
22
Con
cháu Si-mê-ôn, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập
danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người
trong tuổi nhập ngũ; 23 những người được kiểm tra thuộc chi tộc
Si-mê-ôn, là 59,300.
24
Con
cháu Gát, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh
sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong
tuổi nhập ngũ; 25 những người được kiểm tra thuộc chi tộc Gát, là
45,650.
26
Con
cháu Giu-đa, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh
sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong
tuổi nhập ngũ; 27 những người được kiểm tra thuộc chi tộc Giu-đa, là
74,600.
28
Con
cháu Ít-xa-kha, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập
danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người
trong tuổi nhập ngũ; 29 những người được kiểm tra thuộc chi tộc
Ít-xa-kha, là 54,400.
30
Con
cháu Dơ-vu-lun, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập
danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người
trong tuổi nhập ngũ; 31 những người được kiểm tra thuộc chi tộc
Dơ-vu-lun, là 57,400.
32
Con
cháu Giu-se: thuộc chi tộc Ép-ra-im, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và
gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi
trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 33 những người được kiểm tra
thuộc chi tộc Ép-ra-im, là 40,500.
34
Còn
chi tộc Mơ-na-se, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập
danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người
trong tuổi nhập ngũ; 35 những người được kiểm tra thuộc chi tộc
Mơ-na-se, là 32,200.
36
Con
cháu Ben-gia-min, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập
danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người
trong tuổi nhập ngũ; 37 những người được kiểm tra thuộc chi tộc
Ben-gia-min, là 35,400.
38
Con
cháu Ðan, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh
sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong
tuổi nhập ngũ; 39 những người được kiểm tra thuộc chi tộc Ðan, là
62,700.
40
Con
cháu A-se, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh
sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong
tuổi nhập ngũ; 41 những người được kiểm tra thuộc chi tộc A-se, là
41,500.
42
Con
cháu Náp-ta-li, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập
danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người
trong tuổi nhập ngũ; 43 những người được kiểm tra thuộc chi tộc
Náp-ta-li, là 53,400.
44
Ðó
là những người đã được ông Mô-sê và ông A-ha-ron kiểm tra cùng với mười hai
người phụ trách Ít-ra-en, mỗi người phụ trách gia tộc mình. 45 Tất
cả con cái Ít-ra-en đã được kiểm tra theo gia tộc của họ, từ hai mươi tuổi trở
lên, tất cả các chiến binh trong dân Ít-ra-en, 46 tổng số người được
kiểm tra, là 603,550.
Quy
chế các thầy Lê-vi
47
Còn
các thầy Lê-vi, vì quy chế chi tộc của mình, thì không được liệt kê vào số đó.
48
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 49 "Riêng chi tộc Lê-vi, ngươi sẽ
không kiểm tra và không liệt kê chung với con cái Ít-ra-en. 50 Nhưng
hãy đặt các thầy Lê-vi phụ trách Nhà Tạm Chứng Ước, cũng như mọi vật dụng và
tất cả những gì liên quan tới Nhà Tạm đó. Chính họ sẽ lo việc di chuyển Nhà Tạm
và mọi vật dụng, sẽ phục vụ và dựng lều chung quanh Nhà Tạm. 51 Khi
dời Nhà Tạm, các thầy Lê-vi sẽ hạ Nhà Tạm xuống, và lúc Nhà Tạm dừng lại thì họ
sẽ dựng Nhà Tạm lên. Còn ai khác mà tới gần sẽ phải chết. 52 Con cái
Ít-ra-en sẽ dựng lều, mỗi người nơi doanh trại mình, theo cờ hiệu của từng đoàn
quân. 53 Còn các thầy Lê-vi thì sẽ dựng lều chung quanh Nhà Tạm
Chứng Ước. Như thế thịnh nộ (của Ta) sẽ không giáng xuống cộng đồng con cái
Ít-ra-en. Các thầy Lê-vi sẽ phụ trách Nhà Tạm."
54
Con
cái Ít-ra-en đã thi hành tất cả mọi điều y như Ðức Chúa đã truyền cho ông
Mô-sê.
Chương 02
Thứ
tự các chi tộc
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng: 2 "Con cái
Ít-ra-en sẽ đóng trại, mỗi người theo cờ hiệu và huy hiệu của gia tộc mình.
Chúng sẽ đóng trại ở vòng ngoài, hướng về Lều Hội Ngộ.
3
Ðóng
ở phía đông, hướng mặt trời mọc, là cờ hiệu doanh trại Giu-đa theo đoàn quân
của chúng. Ðứng đầu con cháu Giu-đa là Nác-sôn, con Am-mi-na-đáp. 4 Ðoàn
quân của chúng, những người đã được kiểm tra, là 74,600.
5
Ðóng
trại bên cạnh chúng là chi tộc Ít-xa-kha. Ðứng đầu con cháu Ít-xa-kha là
Nơ-than-ên, con Xu-a. 6 Ðoàn quân của chúng, những người được kiểm
tra, là 54,400.
7
Tiếp
theo là chi tộc Dơ-vu-lun, đứng đầu là Ê-li-áp, con Khe-lôn. 8 Ðoàn
quân của chúng, những người được kiểm tra, là 57,400.
9
Tổng
số những người được kiểm tra thuộc doanh trại Giu-đa là 186,400. Những người
này sẽ đi tuyến đầu.
10
Phía
nam là cờ hiệu doanh trại Rưu-vên theo đoàn quân của chúng. Ðứng đầu là
Ê-li-xua, con Sơ-đê-ua. 11 Ðoàn quân của chúng, những người được
kiểm tra, là 46,500.
12
Ðóng
trại bên cạnh chúng là chi tộc Si-mê-ôn. Ðứng đầu con cháu Si-mê-ôn là
Sơ-lu-mi-ên, con Xu-ri-sát-đai. 13 Ðoàn quân của chúng, những người
được kiểm tra, là 59,300.
14
Kế
đến là chi tộc Gát. Ðứng đầu con cháu Gát là En-gia-xáp, con Rơ-u-ên. 15 Ðoàn
quân của chúng, những người được kiểm tra, là 45,650.
16
Tổng
số những người được kiểm tra thuộc doanh trại Rưu-vên là 151,450 theo đoàn quân
của chúng. Những người này sẽ đi tuyến hai.
17
Tiếp
đó Lều Hội Ngộ sẽ lên đường, cùng với doanh trại Lê-vi, đi giữa các doanh trại
khác. Ðóng trại theo thứ tự nào thì lên đường cũng theo thứ tự ấy, mỗi người cứ
giữ vị trí của mình, tuỳ theo cờ hiệu của mình.
18
Cờ
hiệu doanh trại Ép-ra-im theo đoàn quân của chúng sẽ nằm ở phía tây. Ðứng đầu
con cháu Ép-ra-im là Ê-li-sa-ma, con Am-mi-hút. 19 Ðoàn quân của
chúng, những người được kiểm tra, là 40,500.
20
Bên
cạnh chúng là chi tộc Mơ-na-se. Ðứng đầu con cháu Mơ-na-se là Gam-li-ên, con
Pơ-đa-xua. 21 Ðoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là
32,200.
22
Rồi
đến chi tộc Ben-gia-min. Ðứng đầu con cháu Ben-gia-min là A-vi-đan, con
Ghít-ô-ni. 23 Ðoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là
35,400.
24
Tổng
số những người được kiểm tra thuộc doanh trại Ép-ra-im, là 108,100, tính theo
đoàn quân của chúng. Chúng sẽ đi tuyến ba.
25
Cờ
hiệu doanh trại Ðan theo đoàn quân của chúng sẽ nằm ở phía bắc. Ðứng đầu con
cháu Ðan là A-khi-e-de, con Am-mi-sát-đai. 26 Ðoàn quân của chúng,
những người được kiểm tra, là 62,700.
27
Ðóng
trại bên cạnh chúng là chi tộc A-se. Ðứng đầu con cháu A-se là Pác-i-ên, con
Oóc-ran. 28 Ðoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là
41,500.
29
Kế
đến là chi tộc Náp-ta-li. Ðứng đầu con cháu Náp-ta-li là A-khi-ra, con Ê-nan. 30
Ðoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 53,400.
31
Tổng
số những người được kiểm tra thuộc doanh trại Ðan là 157,600. Chúng sẽ đi tuyến
cuối cùng, theo cờ hiệu của mình."
32
Ðó
là con cái Ít-ra-en được kiểm tra theo gia tộc của họ. Tổng số những người được
kiểm tra, thuộc các doanh trại, theo đoàn quân của họ, là 603,550. 33 Riêng
các thầy Lê-vi, thì không phải kiểm tra cùng với con cái Ít-ra-en, như Ðức Chúa
đã truyền cho ông Mô-sê.
34
Con
cái Ít-ra-en đã thi hành tất cả mọi điều y như Ðức Chúa truyền cho ông Mô-sê.
Họ đóng trại theo cờ hiệu, và họ lên đường, mỗi người theo thị tộc và gia tộc
của mình.
Chương 03
Chi
tộc Lê-vi
A.
Các tư tế
1
Ðây
là dòng dõi ông A-ha-ron và ông Mô-sê vào thời Ðức Chúa phán với ông Mô-sê trên
núi Xi-nai.
2
Tên
các con ông A-ha-ron như sau: trưởng nam là Na-đáp, rồi đến A-vi-hu, E-la-da và
I-tha-ma. 3 Ðó là tên các con ông A-ha-ron, những tư tế đã được xức
dầu tấn phong để thi hành chức vụ tư tế. 4 Ông Na-đáp và ông A-vi-hu
đã chết trước nhan Ðức Chúa, vì đã dâng lửa phàm tục trước Thánh Nhan, khi còn
ở sa mạc Xi-nai; các ông không có con. Chỉ còn hai ông E-la-da và I-tha-ma thi
hành chức vụ tư tế trước mặt ông A-ha-ron, thân phụ các ông.
B.
Các thầy Lê-vi. Chức vụ của họ.
5
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 6 "Hãy gọi chi tộc Lê-vi lại và
đặt chúng túc trực bên cạnh tư tế A-ha-ron để giúp nó. 7 Chúng phải
đảm nhiệm công việc của nó, cũng như công việc của toàn thể cộng đồng trước Lều
Hội Ngộ, để lo phục dịch Nhà Tạm. 8 Chúng sẽ trông coi tất cả các
vật dụng trong Lều Hội Ngộ, đồng thời đảm nhiệm công việc của con cái Ít-ra-en,
để lo phục dịch Nhà Tạm. 9 Ngươi hãy trao các thầy Lê-vi cho
A-ha-ron và các con nó như những người được dâng hiến, những người được dâng
hiến mà con cái Ít-ra-en nộp cho nó. 10 Ngươi hãy đặt A-ha-ron và
các con nó đảm nhận chức vụ tư tế, còn ai khác mà tới gần sẽ phải chết."
C.
Tuyển chọn các thầy Lê-vi
11
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 12 "Ðây, chính Ta đã chọn các
thầy Lê-vi giữa con cái Ít-ra-en thay thế tất cả các trưởng nam, các con đầu
lòng trong số con cái Ít-ra-en, cho nên các thầy Lê-vi thuộc về Ta. 13 Thật
vậy, tất cả các con đầu lòng đều thuộc về Ta, từ ngày Ta đánh phạt tất cả các
con đầu lòng trong đất Ai-cập; Ta đã thánh hiến cho Ta tất cả các con đầu lòng
trong Ít-ra-en, của loài người cũng như của súc vật: chúng thuộc về Ta. Ta là
Ðức Chúa."
D.
Kiểm tra các thầy Lê-vi
14
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê trong sa mạc Xi-nai rằng: 15 "Hãy kiểm
tra con cái Lê-vi theo gia tộc và thị tộc, tất cả đàn ông con trai tuổi từ một
tháng trở lên, hãy ghi số.” 16 Vậy, ông Mô-sê đã kiểm tra họ theo
lệnh Ðức Chúa, như Người đã truyền cho ông. 17 Ðây là con cái Lê-vi
nêu đích danh: Ghéc-sôn, Cơ-hát, Mơ-ra-ri. 18 Và đây là tên con cái
Ghéc-sôn theo thị tộc: Líp-ni và Sim-y. 19 Con cái Cơ-hát theo thị
tộc là Am-ram và Gít-ha, Khép-rôn và Út-di-ên. 20 Con cái Mơ-ra-ri
theo thị tộc là Mác-li và Mu-si. Ðó là những thị tộc Lê-vi tính theo gia tộc
họ.
21
Về
phần Ghéc-sôn, có thị tộc Líp-ni và thị tộc Sim-y. Ðó là các thị tộc thuộc dòng
họ Ghéc-sôn. 22 Những người được kiểm tra, tính tất cả con trai của
họ, tuổi từ một tháng trở lên, là 7,500. 23 Các thị tộc thuộc dòng
họ Ghéc-sôn đóng trại đàng sau Nhà Tạm, ở phía tây. 24 Ðứng đầu dòng
họ Ghéc-sôn là En-gia-xáp, con La-ên. 25 Công việc của con cháu
Ghéc-sôn ở cửa Lều Hội Ngộ là trông coi Nhà Tạm và Lều, cũng như bạt che và bức
màn ở lối vào Lều Hội Ngộ, 26 cùng các tấm rèm che khuôn viên, bức
màn ở lối vào khuôn viên bao quanh Nhà Tạm và bàn thờ, cũng như các dây thừng
dùng vào việc phục dịch.
27
Về
phần Cơ-hát, có thị tộc Am-ram, thị tộc Gít-ha, thị tộc Khép-rôn và thị tộc
Út-di-ên. Ðó là các thị tộc thuộc dòng họ Cơ-hát. 28 Tổng cộng tất
cả con trai tuổi từ một tháng trở lên, là 8,300. Họ trông coi thánh điện. 29
Các thị tộc thuộc dòng họ Cơ-hát đóng trại bên cạnh Nhà Tạm, ở phía nam. 30
Ðứng đầu dòng họ Cơ-hát là Ê-li-xa-phan, con của Út-di-ên. 31 Công
việc của họ là trông coi Hòm Bia, bàn, trụ đèn, các bàn thờ, các đồ thờ dùng
trong thánh điện, bức màn, cũng như tất cả các dịch vụ liên hệ. 32 Ðứng
đầu các thủ lãnh của các thầy Lê-vi là ông E-la-da, con tư tế A-ha-ron. Ông
giám sát các nhân viên phụ trách công việc trong nơi thánh.
33
Về
phần Mơ-ra-ri, có thị tộc Mác-li và thị tộc Mu-si. Ðó là các thị tộc thuộc dòng
họ Mơ-ra-ri. 34 Những người được kiểm tra, tính tất cả các con trai
của họ, tuổi từ một tháng trở lên, là 6,200. 35 Ðứng đầu dòng họ
Mơ-ra-ri là Xu-ri-ên, con A-vi-kha-gin. Họ đóng trại bên cạnh Nhà Tạm, ở phía
bắc. 36 Công việc của con cháu Mơ-ra-ri là trông coi các tấm ván của
Nhà Tạm, các thanh ngang, các cột, đế, cũng như các đồ phụ thuộc và các dịch vụ
liên hệ, 37 cũng như các cột chung quanh khuôn viên cùng với các đế,
cọc và dây thừng.
38
Các
người đóng trại trước Nhà Tạm ở phía đông, nghĩa là trước Lều Hội Ngộ, hướng
mặt trời mọc, là ông Mô-sê, ông A-ha-ron và các con ông này, là những người có
trách nhiệm trông coi thánh điện thay cho con cái Ít-ra-en; còn ai khác mà tới
gần sẽ phải chết. 39 Tổng số những người được kiểm tra thuộc dòng họ
Lê-vi, những người ông Mô-sê và ông A-ha-ron đã theo lệnh Ðức Chúa mà kiểm tra
theo các thị tộc của họ, tất cả các con trai tuổi từ một tháng trở lên, là
22,000.
E.
Các người thuộc chi tộc Lê-vi. Chuộc các con đầu lòng.
40
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy kiểm tra tất cả các trưởng nam của con cái
Ít-ra-en, tuổi từ một tháng trở lên, và lập danh sách chúng. 41 Ta
là Ðức Chúa. Hãy dành các người Lê-vi cho Ta thay cho tất cả các trưởng nam
trong số con cái Ít-ra-en, và hãy dành súc vật của các người Lê-vi thay cho tất
cả các con vật đầu lòng trong đàn vật của con cái Ít-ra-en.” 42 Theo
như Ðức Chúa đã truyền, ông Mô-sê kiểm tra tất cả các con đầu lòng trong số con
cái Ít-ra-en. 43 Tổng số các trưởng nam được ghi tên để kiểm tra,
tuổi từ một tháng trở lên, là 22,273.
44
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 45 "Hãy lấy các người Lê-vi thay
cho các trưởng nam của con cái Ít-ra-en, và súc vật của các người Lê-vi thay
thế các súc vật của chúng: các người Lê-vi sẽ thuộc về Ta. Ta là Ðức Chúa. 46
Ðể làm giá chuộc 273 trưởng nam của con cái Ít-ra-en dôi hơn số người
Lê-vi, 47 ngươi sẽ lấy mỗi đầu người là mười lăm chỉ bạc, tính theo
đơn vị đo lường của thánh điện. 48 Ngươi sẽ đưa số bạc này cho
A-ha-ron và con cái ông làm tiền chuộc số người dôi ra kể trên."
49
Ông
Mô-sê đã nhận món tiền chuộc số người dôi ra mà các người Lê-vi không chuộc
thay. 50 Số bạc thu được của các trưởng nam trong số con cái
Ít-ra-en là mười bốn ký, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện. 51 Ông
Mô-sê đã trao số tiền chuộc cho ông A-ha-ron và con cái ông này theo lệnh Ðức
Chúa, như Người đã truyền.
Chương 04
Các
thị tộc Lê-vi
A.
Thị tộc Cơ-hát
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng: 2 "Ngươi hãy lập
danh sách con cháu Cơ-hát trong dòng họ Lê-vi theo thị tộc và gia tộc chúng, 3
tuổi từ ba mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những ai đến tuổi nhập ngũ,
để chúng phục vụ trong Lều Hội Ngộ.
4
Dịch
vụ của con cháu Cơ-hát trong Lều Hội Ngộ là phụ trách các đồ thờ cực thánh.
5
Khi
nhổ trại, A-ha-ron sẽ cùng với các con vào Lều, cuốn bức trướng mà phủ lên Hòm
Bia Chứng Ước. 6 Chúng sẽ trải lên đó tấm bạt bằng da cá heo, và
trên tấm bạt này sẽ phủ tấm vải toàn màu đỏ tía, rồi lắp các đòn khiêng vào.
7
Trên
bàn dâng tiến, chúng sẽ trải một tấm vải đỏ tía, rồi đặt lên đó các khay, ly,
chén và bình dùng trong lễ tưới rượu. Bánh thường tiến cũng phải có trên đó. 8
Chúng sẽ phủ lên một tấm vải đỏ thẫm và trải thêm tấm bạt da cá heo, rồi
lắp các đòn khiêng vào.
9
Chúng
sẽ lấy tấm vải đỏ tía mà phủ trụ đèn và đèn, kéo cắt bấc đèn, các đĩa đựng tàn,
tất cả các bình đựng dầu đèn. 10 Chúng sẽ để chân đèn cùng tất cả
các đồ phụ tùng vào một cái bao da cá heo và đặt lên cáng.
11
Trên
bàn thờ bằng vàng, chúng sẽ trải tấm vải đỏ tía và phủ thêm một tấm bạt da cá
heo, rồi lắp các đòn khiêng vào.
12
Chúng
sẽ lấy các đồ dùng vào việc thờ phượng nơi thánh điện, đem bọc trong tấm vải đỏ
tía, phủ thêm một tấm bạt da cá heo, rồi đặt lên cáng.
13
Sau
khi đã lấy tro khỏi bàn thờ và trải lên tấm vải điều, 14 chúng sẽ
đặt trên đó tất cả đồ dùng vào việc thờ phượng: bình hương, xiên, xẻng, bình
rảy, tất cả đồ phụ tùng của bàn thờ, phủ lên đó một tấm bạt bằng da cá heo, và
lắp các đòn khiêng vào.
15
Khi
A-ha-ron và các con đã hoàn thành việc che phủ thánh điện cùng tất cả các đồ
phụ tùng, lúc nhổ trại, thì các con của Cơ-hát sẽ đến khiêng đi; nhưng chúng sẽ
không được đụng tới các vật thánh, kẻo phải chết. Ðó là những gì con cái Cơ-hát
phải khiêng trong Lều Hội Ngộ. 16 Phận sự của E-la-da, con tư tế
A-ha-ron, là lo dầu đèn, hương thơm, lễ phẩm thường tiến, dầu tấn phong; nó
phải trông coi toàn bộ Nhà Tạm cùng mọi vật trong đó: các vật thánh và các đồ
phụ tùng."
17
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng: 18 "Các ngươi
đừng để cho dòng họ các thị tộc Cơ-hát bị xoá bỏ khỏi chi tộc Lê-vi. 19 Ðể
chúng được sống chứ không phải chết khi tới gần các vật cực thánh, các ngươi sẽ
xử với chúng như thế này: A-ha-ron và các con sẽ đến và đặt mỗi người trước cái
gì phải làm, trước cái gì phải khiêng vác. 20 Như vậy chúng sẽ không
vào mà nhìn các đồ thánh, dù một giây lát, để rồi phải chết."
B.
Thị tộc Ghéc-sôn
21
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 22 "Ngươi cũng hãy lập danh sách
con cháu Ghéc-sôn nữa theo gia tộc và thị tộc của chúng; 23 những
người tuổi từ ba mươi đến năm mươi, ngươi sẽ kiểm tra hết, nghĩa là tất cả
những ai đến tuổi nhập ngũ, để chúng phục vụ trong Lều Hội Ngộ. 24 Ðây
là dịch vụ mà các thị tộc Ghéc-sôn phải chu toàn: 25 chúng sẽ mang
các tấm thảm của Nhà Tạm và Lều Hội Ngộ, bạt che Lều, tức tấm bạt bằng da cá
heo phủ trên Lều, màn che cửa Lều Hội Ngộ, 26 các tấm rèm của khuôn
viên, màn che cửa khuôn viên nằm quanh Nhà Tạm và bàn thờ, các dây buộc, các đồ
dùng cần thiết cho dịch vụ của chúng, tóm lại tất cả những gì liên quan tới
dịch vụ ấy.
27
Con
cái Ghéc-sôn phải thi hành mọi dịch vụ khiêng vác cũng như phục dịch, dưới
quyền điều khiển của A-ha-ron và các con; các ngươi hãy giao cho chúng trông
coi tất cả những gì chúng phải khiêng vác. 28 Ðó là dịch vụ dành cho
các thị tộc con cái Ghéc-sôn trong Lều Hội Ngộ, và chúng làm việc dưới quyền
kiểm soát của I-tha-ma, con tư tế A-ha-ron.
C.
Thị tộc Mơ-ra-ri
29
Ngươi
hãy kiểm tra con cháu Mơ-ra-ri theo thị tộc và gia tộc của chúng, 30 tuổi
từ ba mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những ai đến tuổi nhập ngũ, để chúng
phục vụ trong Lều Hội Ngộ. 31 Ðây là những đồ vật chúng có trách
nhiệm phải khiêng vác liên quan đến dịch vụ của chúng trong Lều Hội Ngộ: khung
Nhà Tạm, cột, kèo và đế, 32 các cột chung quanh khuôn viên cùng các
đế, cọc đóng, dây thừng và tất cả đồ phụ tùng liên quan đến dịch vụ của chúng.
Vậy các ngươi hãy kê khai từng thứ một tất cả các đồ vật chúng có trách nhiệm
phải khiêng vác.
33
Ðó
là các dịch vụ dành cho các thị tộc con cái Mơ-ra-ri, dịch vụ mà chúng phải thi
hành trong Lều Hội Ngộ, dưới quyền kiểm soát của I-tha-ma, con tư tế
A-ha-ron."
Kiểm
tra chi tộc Lê-vi
34
Ông
Mô-sê cùng với ông A-ha-ron và các vị lãnh đạo cộng đồng đã kiểm tra con cháu
Cơ-hát theo thị tộc và gia tộc họ, 35 tuổi từ ba mươi đến năm mươi,
nghĩa là tất cả những người đến tuổi nhập ngũ, để họ phục dịch trong Lều Hội
Ngộ. 36 Tổng số người được kiểm tra, tính theo thị tộc, là 2,750. 37
Ðó là số những người trong thị tộc Cơ-hát được kiểm tra, tất cả những
người phục vụ trong Lều Hội Ngộ, mà ông Mô-sê và ông A-ha-ron đã kiểm tra theo
lệnh Ðức Chúa đã truyền qua ông Mô-sê.
38
Số
con cháu Ghéc-sôn được kiểm tra theo thị tộc và gia đình tổ tiên họ, 39 tuổi
từ ba mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những người đến tuổi nhập ngũ, để phục
vụ trong Lều Hội Ngộ, 40 tổng số những người được kiểm tra, theo thị
tộc và gia tộc họ, là 2,630. 41 Ðó là số con cháu Ghéc-sôn được kiểm
tra theo thị tộc, tất cả những người phục vụ trong Lều Hội Ngộ: ông Mô-sê cùng
với ông A-ha-ron kiểm tra họ theo lệnh Ðức Chúa.
42
Các
con cháu Mơ-ra-ri được kiểm tra theo thị tộc và gia tộc, 43 tuổi từ
ba mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những ai đến tuổi nhập ngũ, để phục vụ
trong Lều Hội Ngộ, 44 tổng số những người được kiểm tra, tính theo
thị tộc của họ, là 3,200. 45 Ðó là các thị tộc con cháu Mơ-ra-ri, mà
ông Mô-sê đã cùng với ông A-ha-ron kiểm tra theo lệnh Ðức Chúa đã truyền qua
ông Mô-sê.
46
Tổng
số những người Lê-vi mà ông Mô-sê cùng với ông A-ha-ron và các vị lãnh đạo
Ít-ra-en đã kiểm tra theo thị tộc và gia tộc của họ, 47 tuổi từ ba
mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những người đến tuổi phục dịch và khiêng vác
trong Lều Hội Ngộ, 48 tổng số những người được kiểm tra là 8,580. 49
Theo lệnh Ðức Chúa truyền qua ông Mô-sê, người ta kiểm tra họ, chỉ định
cho mỗi người việc phải làm và đồ vật phải khiêng vác. Thế là họ được kiểm tra
như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
Chương 05
Loại
trừ những người nhiễm uế
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 2 "Hãy truyền cho con cái
Ít-ra-en phải đuổi ra khỏi trại mọi người phong hủi, mọi kẻ mắc bệnh lậu, mọi
người nhiễm uế vì xác chết: 3 Các ngươi phải đuổi chúng, bất kể đàn
ông hay đàn bà, các ngươi phải đuổi ra khỏi trại, kẻo chúng làm ô uế trại, nơi
Ta cư ngụ ở giữa chúng."
4
Con
cái Ít-ra-en đã làm như thế: họ đã đuổi những người ấy ra khỏi trại. Con cái
Ít-ra-en đã làm như Ðức Chúa đã phán với ông Mô-sê.
Luật
bồi hoàn
5
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 6 "Ngươi hãy nói với con cái
Ít-ra-en: "Phàm ai, đàn ông hay đàn bà, vì bất trung với Ðức Chúa, mà phạm
một trong những tội người ta quen phạm, thì con người ấy phải chịu phạt.
7
Nó
phải xưng thú tội mình đã phạm và đền bù đầy đủ, ngoài ra còn phải trả thêm một
phần năm nữa cho người mình đã làm thiệt hại.
8
Nếu
người này không có bà con gần để lãnh của bồi thường thiệt hại, thì vật bồi
thường sẽ thuộc về Ðức Chúa, tức là thuộc về tư tế, chưa kể con dê xá tội phải
dâng để làm nghi thức xá tội cho người mắc lỗi.
9
Mọi
của trích dâng và mọi hiến vật mà con cái Ít-ra-en dâng cho tư tế đều thuộc về
tư tế. 10 Hiến vật của ai thì thuộc về người ấy; còn nếu đã dâng cho
tư tế thì là của tư tế."
Luật
về chuyện ghen tuông
11
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 12 "Ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en
và bảo chúng: Nếu ai bị vợ mất nết phản bội, 13 nghĩa là có người
nằm với người đàn bà ấy mà người chồng không biết; và người vợ đã bí mật thất
tiết mà không có ai làm chứng cáo tội, không bắt được quả tang; 14 hoặc
người chồng nổi máu ghen và ghen tức vợ đã thực sự thất tiết, hoặc nổi máu ghen
và ghen tức vợ mà thật ra vợ đã không thất tiết, 15 thì bấy giờ
người chồng phải dẫn vợ đến gặp tư tế, mà tiến dâng bốn lít rưỡi bột lúa mạch
vì chuyện vợ mình; nhưng không rưới dầu lên trên và cũng không đổ hương vào,
bởi đó là lễ phẩm dâng vì ghen tuông, lễ phẩm để tố cáo tội lỗi.
16
Tư
tế sẽ đưa người đàn bà đến đứng trước nhan Ðức Chúa, 17 và lấy một
bình sành đựng nước thánh, rồi lấy chút bụi trên nền Nhà Tạm bỏ vào nước. 18
Sau đó, tư tế đặt người đàn bà đứng trước nhan Ðức Chúa và lột khăn trùm
đầu nó ra, rồi đặt lên hai bàn tay nó lễ phẩm tố cáo, nghĩa là lễ phẩm vì ghen
tuông; đồng thời tay tư tế cầm bình nước chỉ sự đắng cay và nguyền rủa. 19
Bấy giờ tư tế sẽ buộc người đàn bà thề và nói với nó rằng: "Nếu đã
không có người đàn ông nào nằm với chị và nếu chị đã không mất nết mà thất tiết
khi chị đang có chồng, thì nước đắng cay và nguyền rủa này sẽ vô hại cho chị. 20
Còn nếu chị có chồng mà mất nết và đã thất tiết với chồng, vì một người
đàn ông khác, không phải là chồng chị, đã cho chị nằm với nó - 21 tư tế buộc
người đàn bà thề độc và nói với nó - Xin Ðức Chúa làm cho dạ chị héo đi, bụng
chị sình lên, khiến giữa đồng bào chị, chị thành đề tài cho người ta nguyền rủa
và chúc dữ cho nhau. 22 Xin cho nước đắng cay này ngấm vào nội tạng
chị, khiến bụng chị sình lên và dạ chị héo đi. Người đàn bà ấy sẽ thưa:
"A-men. A-men."
23
Tư
tế viết những lời nguyền rủa ấy vào giấy và cho nhoà đi trong nước đắng cay, 24
rồi bắt người đàn bà phải uống nước đắng cay và nguyền rủa đó; nước
nguyền rủa sẽ ngấm vào người ấy để gây ra cay đắng. 25 Tư tế sẽ nhận
lấy từ tay người đàn bà lễ phẩm vì ghen tuông, làm nghi thức trước nhan Ðức
Chúa và đặt trên bàn thờ. 26 Tư tế sẽ bốc một nắm từ lễ phẩm đó, làm
phần truy tưởng, mà đốt trên bàn thờ.
27
Tư
tế cho nó uống nước rồi, nếu thật nó đã thất tiết và phản bội chồng, thì nước
nguyền rủa sẽ ngấm vào nó để gây ra cay đắng, và tạng phủ nó sẽ sình lên, dạ nó
héo đi. Giữa đồng bào, người đàn bà đó sẽ thành đề tài nguyền rủa. 28 Nếu
người đàn bà đó đã không thất tiết, nhưng vẫn trong sạch, thì sẽ không bị hại
và sẽ sinh con.
29
Ðó
là luật về chuyện ghen tuông, khi một người đàn bà có chồng mà mất nết và đã
thất tiết với chồng, 30 hoặc khi người đàn ông nổi máu ghen và ghen
tức vợ mình: thì người chồng phải đặt vợ trước nhan Ðức Chúa, và tư tế phải áp
dụng đầy đủ luật này. 31 Người chồng sẽ vô can, còn người đàn bà sẽ
mang lấy tội mình."
Chương 06
Luật
về lời khấn na-dia
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 2 "Ngươi hãy nói với con cái
Ít-ra-en và bảo chúng:
3
thì
nó phải kiêng rượu và men nồng: không được uống giấm chua từ chất rượu cũng như
giấm chua từ chất men, không được uống mọi thứ nước nho, không được ăn nho tươi
cũng như nho khô. 4 Suốt thời gian nó bị ràng buộc bởi lời khấn đó,
thì bất cứ thứ gì chiết xuất tự cây nho, từ hột nho cho đến vỏ nho, nó cũng
không được ăn. 5 Suốt thời gian nó bị ràng buộc bởi lời khấn, dao
cạo không được đụng đến đầu nó; bao lâu chưa mãn thời kỳ khấn đặc biệt để kính
Ðức Chúa, thì nó sẽ là người được thánh hiến: nó phải để cho tóc trên đầu mọc
tự nhiên. 6 Suốt thời kỳ khấn đặc biệt để kính Ðức Chúa, nó không
được tới gần xác chết. 7 Dù là cha mẹ hay anh chị em nó chết, nó
cũng không được để cho mình nhiễm uế, bởi vì nó mang trên đầu lời khấn na-dia
kính Thiên Chúa. 8 Suốt thời kỳ khấn đặc biệt, nó sẽ là người được
thánh hiến cho Ðức Chúa.
9
Nếu
có ai chết bất ngờ bên cạnh nó, khiến cho đầu na-dia của nó bị nhiễm uế, thì nó
phải cạo đầu trong ngày tẩy uế; ngày thứ bảy nó sẽ cạo đầu. 10 Ngày
thứ tám nó sẽ mang một cặp chim gáy hay một cặp bồ câu trao cho tư tế ở cửa Lều
Hội Ngộ. 11 Tư tế sẽ dâng một con làm lễ tạ tội, một con làm lễ toàn
thiêu, và sẽ làm nghi thức xá tội ô uế nó mắc phải vì người chết. Chính hôm đó
nó sẽ thánh hiến đầu mình, 12 nó sẽ lại khấn đặc biệt kiêng giữ để
kính Ðức Chúa và đưa một con chiên một tuổi tới làm lễ vật đền tội. Thời gian
trước đó không được kể vì lời khấn na-dia đã bị vi phạm.
13
Và
đây là luật về người khấn na-dia: trong ngày mãn thời kỳ khấn na-dia, nó sẽ vào
cửa Lều Hội Ngộ 14 và đem lễ tiến dâng Ðức Chúa: một chiên đực một tuổi, toàn
vẹn, làm lễ toàn thiêu, một chiên cái một tuổi, toàn vẹn, làm lễ tạ tội, một con
dê đực toàn vẹn làm lễ kỳ an, 15 một rổ bánh không men làm bằng tinh
bột nhào dầu, bánh tráng không men tẩm dầu, cùng với các lễ phẩm ngũ cốc và
rượu tế kèm theo. 16 Tư tế sẽ đưa những lễ vật ấy tới trước nhan Ðức
Chúa để dâng lễ tạ tội và lễ toàn thiêu của nó. 17 Con chiên đực,
ông sẽ sát tế để làm lễ kỳ an kính Ðức Chúa cùng với rổ bánh không men, đồng
thời tư tế cũng dâng lễ phẩm ngũ cốc và rượu tế. 18 Người na-dia sẽ
cạo đầu trước cửa Lều Hội Ngộ theo lời khấn, và lấy tóc đã được thánh hiến của
mình mà bỏ vào lửa đang cháy dưới của lễ kỳ an. 19 Khi bả vai của
con dê đã chín, thì tư tế lấy bả vai đó, cùng với một chiếc bánh không men
trong rổ và một bánh tráng không men, và đặt các thứ đó vào tay người na-dia,
sau khi người này đã cạo đầu theo lời khấn. 20 Rồi tư tế tiến dâng
các thứ ấy trước nhan Ðức Chúa, theo nghi thức: đó là của thánh dành cho tư tế,
không kể cái ức đã được tiến dâng theo nghi thức và phần đùi được giữ lại. Từ
đó, người na-dia được phép uống rượu.
21
Ðó
là luật về người khấn na-dia. Lễ tiến của nó dâng cho Ðức Chúa phải theo đúng
lời khấn na-dia, ngoài ra nó có thể tuỳ khả năng mình mà dâng thêm. Nó đã khấn
theo luật na-dia thế nào, thì phải giữ như vậy."
Công
thức chúc lành
22
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 23 "Hãy nói với A-ha-ron và các con nó
rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này:
24
"Nguyện
Ðức Chúa chúc lành và gìn giữ anh (em)!
25
Nguyện
Ðức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh (em) và dủ lòng thương anh (em)!
26
Nguyện
Ðức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh (em)!
Chương 07
III.
Tế Phẩm Của Những Người Ðứng Ðầu Các Chi Tộc
Và
Nghi Thức Tấn Phong Các Thầy Lê-Vi
Dâng
các cỗ xe
1
Ngày
ông Mô-sê hoàn thành việc dựng Nhà Tạm, ông xức dầu và thánh hiến nhà ấy cùng
với tất cả các vật dụng, bàn thờ và mọi đồ dùng. Khi ông đã xức dầu và thánh
hiến tất cả, 2 thì các người đứng đầu Ít-ra-en đã dâng lễ vật; họ là
các gia trưởng, những người đứng đầu các chi tộc và phụ trách việc kiểm tra. 3
Lễ tiến họ dâng trước nhan Ðức Chúa là sáu cỗ xe kiệu và mười hai con bò,
cứ hai người dâng một cỗ xe và mỗi người một con bò. Họ đem dâng những thứ đó
trước Nhà Tạm. 4 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 5 "Ngươi
hãy nhận các vật chúng dâng để sung vào việc phục dịch Lều Hội Ngộ; ngươi sẽ
trao các thứ ấy cho các thầy Lê-vi, theo dịch vụ của mỗi người.” 6 Vậy
ông Mô-sê đã nhận xe và bò, rồi trao cho các thầy Lê-vi: 7 hai cỗ xe
và bốn con bò cho các con ông Ghéc-sôn theo dịch vụ của họ; 8 còn
bốn cỗ xe và tám con bò kia, thì trao cho các con ông Mơ-ra-ri, theo dịch vụ
của họ dưới quyền kiểm soát của ông I-tha-ma, con tư tế A-ha-ron. 9 Phần
các con ông Cơ-hát, thì ông Mô-sê không cho gì cả, vì dịch vụ của họ là khiêng
các đồ thờ trên vai.
Lễ
vật trong nghi thức cung hiến
10
Các
người đứng đầu còn tiến dâng lễ vật để cử hành nghi thức cung hiến bàn thờ,
trong ngày bàn thờ được xức dầu. Các người đứng đầu tiến dâng lễ vật của họ lên
trước bàn thờ. 11 Và Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Mỗi ngày,
một trong số những người đứng đầu phải dâng lễ tiến để cử hành nghi thức cung
hiến bàn thờ."
12
Người
tiến dâng lễ vật ngày đầu tiên là ông Nác-sôn, con ông Am-mi-na-đáp, thuộc chi
tộc Giu-đa. 13 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký
ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của thánh
điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 14 một chén
bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 15 một con bò mộng, một con chiên
đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 16 một con
dê đực làm lễ tạ tội; 17 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm
con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến mà
ông Nác-sôn, con ông Am-mi-na-đáp, đã dâng.
18
Ngày
thứ hai, người đem dâng lễ vật là ông Nơ-than-ên, con ông Xu-a, đứng đầu
Ít-xa-kha. 19 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký
ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của thánh
điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 20 một chén
bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 21 một con bò mộng, một con chiên
đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 22 một con
dê đực làm lễ tạ tội; 23 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm
con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến mà
ông Nơ-than-ên, con ông Xu-a, đã dâng.
24
Ngày
thứ ba, người đem dâng lễ vật là ông Ê-li-áp, con ông Khe-lôn, đứng đầu con cái
Dơ-vu-lun. 25 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký
ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng, - tính theo đơn vị đo lường của thánh
điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 26 một chén
bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 27 một con bò mộng, một con chiên
đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 28 một con
dê đực làm lễ tạ tội; 29 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm
con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến ông
Ê-li-áp, con ông Khe-lôn, đã dâng.
30
Ngày
thứ bốn, người đem dâng lễ vật là ông Ê-li-xua, con ông Sơ-đê-ua, đứng đầu con
cái Rưu-vên. 31 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một
ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của
thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 32 một
chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 33 một con bò mộng, một con
chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 34 một
con dê đực làm lễ tạ tội; 35 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò,
năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến
mà ông Ê-li-xua, con ông Sơ-đê-ua, đã dâng.
36
Ngày
thứ năm, người đem dâng lễ vật là ông Sơ-lu-mi-ên, con ông Xu-ri-sát-đai, đứng
đầu con cái Si-mê-ôn. 37 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân
nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường
của thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 38 một
chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 39 một con bò mộng, một con
chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 40 một
con dê đực làm lễ tạ tội; 41 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò,
năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến
mà ông Sơ-lu-mi-en, con ông Xu-ri-sát-đai, đã dâng.
42
Ngày
thứ sáu, người đem dâng lễ vật là ông En-gia-xáp, con ông Rơ-u-ên, đứng đầu con
cái Gát. 43 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký
ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của thánh
điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 44 một chén
bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 45 một con bò mộng, một con chiên
đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 46 một con
dê đực làm lễ tạ tội; 47 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm
con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến mà
ông En-gia-xáp, con ông Rơ-u-ên, đã dâng.
48
Ngày
thứ bảy, người đem dâng lễ vật là ông Ê-li-sa-ma, con ông Am-mi-hút, đứng đầu
con cái Ép-ra-im. 49 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng
một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của
thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 50 một
chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 51 một con bò mộng, một con
chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 52 một
con dê đực làm lễ tạ tội; 53 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò,
năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến
mà ông Ê-li-sa-ma, con ông Am-mi-hút, đã dâng.
54
Ngày
thứ tám, người đem dâng lễ vật là ông Gam-li-ên, con ông Pơ-đa-xua, đứng đầu
con cái Mơ-na-se. 55 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng
một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của
thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 56 một
chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 57 một con bò mộng, một con
chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 58 một
con dê đực làm lễ tạ tội; 59 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò,
năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến
mà ông Gam-li-ên, con ông Pơ-đa-xua, đã dâng.
60
Ngày
thứ chín, người đem dâng lễ vật là ông A-vi-đan, con ông Ghít-ô-ni, đứng đầu
con cái Ben-gia-min. 61 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân
nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường
của thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 62 một
chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 63 một con bò mộng, một con
chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 64 một
con dê đực làm lễ tạ tội; 65 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò,
năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến
mà ông A-vi-đan, con ông Ghít-ô-ni, đã dâng.
66
Ngày
thứ mười, người đem dâng lễ vật là ông A-khi-e-de, con ông Am-mi-sát-đai, đứng
đầu con cái Ðan. 67 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng
một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng -tính theo đơn vị đo lường của
thánh điện-, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 68 một
chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 69 một con bò mộng, một con
chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 70 một
con dê đực làm lễ tạ tội; 71 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò,
năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến
mà ông A-khi-e-de, con ông Am-mi-sát-đai, đã dâng.
72
Ngày thứ mười một, người đem dâng lễ vật là ông Pác-i-ên, con ông Oóc-ran, đứng
đầu con cái A-se. 73 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng
một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của
thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 74 một
chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 75 một con bò mộng, một con
chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 76 một
con dê đực làm lễ tạ tội; 77 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò,
năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến
mà ông Pác-i-ên, con ông Oóc-ran, đã dâng.
78
Ngày thứ mười hai, người đem dâng lễ vật là ông A-khi-ra, con ông Ê-nan, đứng
đầu con cái Náp-ta-li. 79 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân
nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường
của thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 80 một
chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 81 một con bò mộng, một con chiên đực
và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 82 một con dê đực làm lễ
tạ tội; 83 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con
dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến mà ông A-khi-ra, con ông
Ê-nan, đã dâng.
84
Trên đây là những lễ vật các người đứng đầu Ít-ra-en dâng cúng để cử hành nghi
thức cung hiến bàn thờ trong ngày bàn thờ được xức dầu: mười hai khay bằng bạc,
mười hai bình rảy bằng bạc, mười hai chén bằng vàng. 85 Mỗi khay nặng một ký
ba, và mỗi bình rảy là bảy lạng. Tất cả các vật dụng bằng bạc ấy cân nặng hai
mươi bốn ký tính theo đơn vị đo lường của thánh điện. 86 Mười hai chén bằng
vàng đựng đầy hương thơm, mỗi chén ba lượng vàng, tính theo đơn vị đo lường của
thánh điện. Tất cả các chén bằng vàng ấy cân nặng một ký hai.
87
Tổng số súc vật làm lễ toàn thiêu là: mười hai bò mộng, mười hai chiên đực,
mười hai chiên con một tuổi cùng với lễ phẩm bằng ngũ cốc kèm theo, mười hai
con dê đực làm lễ tạ tội. 88 Và tổng số súc vật làm lễ kỳ an là: hai mươi bốn
bò mộng, sáu mươi chiên đực, sáu mươi dê đực, sáu mươi chiên con một tuổi. Ðó
là những lễ vật dùng trong nghi thức cung hiến bàn thờ sau khi xức dầu bàn thờ.
89
Khi ông Mô-sê vào Lều Hội Ngộ để đàm đạo với Ðức Chúa, thì ông nghe có tiếng
nói với ông từ phía trên nắp xá tội, tức là nắp đậy Hòm Bia Chứng Ước, từ giữa
hai thần hộ giá. Và ông đã đàm đạo với Người.
Chương 08
Các
ngọn đèn trên trụ đèn
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 2 "Hãy nói với A-ha-ron và bảo
nó: khi thắp đèn lên thì bảy ngọn đèn phải toả sáng về phía trước trụ đèn.” 3
Ông A-ha-ron đã làm như thế, ông đã thắp đèn hướng về phía trước trụ đèn,
như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 4 Trụ đèn được làm như sau:
làm bằng vàng gò, từ thân trụ cho tới các nhánh đều được gò. Ông Mô-sê đã làm
trụ đèn theo mẫu Ðức Chúa đã cho ông thấy.
Các
thầy Lê-vi được dâng cho Ðức Chúa
5
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 6 "Hãy đưa các thầy Lê-vi ra khỏi
đám con cái Ít-ra-en mà thanh tẩy chúng. 7 Ngươi sẽ làm thế này để
thanh tẩy chúng: Hãy rảy nước xá tội trên chúng; chúng sẽ cạo toàn thân, giặt
sạch áo mà thanh tẩy mình. 8 Chúng sẽ lấy một con bò mộng và tinh
bột nhào dầu làm lễ phẩm, còn ngươi thì sẽ lấy một con bò mộng nữa làm của lễ
tạ tội.
9
Rồi
ngươi sẽ đưa các thầy Lê-vi tới trước Lều Hội Ngộ và tập họp toàn thể cộng đồng
con cái Ít-ra-en lại. 10 Ngươi sẽ dẫn các thầy Lê-vi tới trước nhan
Ðức Chúa, và con cái Ít-ra-en sẽ đặt tay trên chúng. 11 A-ha-ron sẽ
thay mặt con cái Ít-ra-en làm nghi thức tiến dâng các thầy Lê-vi lên trước nhan
Ðức Chúa, và chúng sẽ sung vào việc phục vụ Ðức Chúa.
12
Sau
đó các thầy Lê-vi sẽ đặt tay lên đầu các con bò mộng. Ngươi sẽ dâng một con làm
của lễ tạ tội, và một con làm của lễ toàn thiêu dâng Ðức Chúa để xin ơn xá tội
cho các thầy Lê-vi. 13 Ngươi sẽ đặt các thầy Lê-vi đứng trước mặt
A-ha-ron và các con ông, rồi tiến dâng chúng cho Ðức Chúa, theo nghi thức. 14
Như thế, ngươi sẽ tách rời các thầy Lê-vi ra khỏi con cái Ít-ra-en: chúng
sẽ thuộc về Ta. 15 Sau đó các thầy Lê-vi sẽ vào phục vụ Lều Hội Ngộ.
16
Thật
vậy, chúng được dâng hiến, được dâng hiến cho Ta, từ giữa con cái Ít-ra-en. Ta
đã chọn chúng làm của riêng Ta, thay thế tất cả các con đầu lòng, các trưởng
nam của con cái Ít-ra-en. 17 Thật vậy, tất cả các con đầu lòng trong
số con cái Ít-ra-en, của loài người cũng như của súc vật đều thuộc về Ta. Ngày
Ta đánh phạt tất cả các con đầu lòng trong đất Ai-cập, Ta đã thánh hiến chúng
cho Ta, 18 và Ta đã nhận các thầy Lê-vi thay thế tất cả các con đầu
lòng trong con cái Ít-ra-en. 19 Trong số con cái Ít-ra-en, Ta đã
trao các thầy Lê-vi cho A-ha-ron và cho con cái nó, như những người được dâng
hiến để sung vào việc phục dịch của con cái Ít-ra-en trong Lều Hội Ngộ, và để
cử hành lễ xá tội cho con cái Ít-ra-en; như thế trong con cái Ít-ra-en sẽ không
xảy ra tai hoạ phạt kẻ tới gần nơi thánh."
20
Ðối
với các thầy Lê-vi, ông Mô-sê và ông A-ha-ron cùng toàn thể cộng đồng con cái
Ít-ra-en đã thi hành đúng mọi điều Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê về họ; con
cái Ít-ra-en đã thi hành như thế đối với họ. 21 Các thầy Lê-vi đã
thanh tẩy mình và giặt áo; ông A-ha-ron đã cử hành nghi thức trên dâng họ trước
nhan Ðức Chúa, và đã làm lễ xá tội cho họ để thanh tẩy họ. 22 Sau đó
các thầy Lê-vi đã vào làm việc phục dịch trong Lều Hội Ngộ, trước mặt ông
A-ha-ron và các con. Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê thế nào về các thầy
Lê-vi, thì người ta đã thi hành như thế đối với họ.
Thời
gian phục vụ của các thầy Lê-vi
23
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 24 "Ðây là những điều liên quan
tới các thầy Lê-vi. Từ hai mươi lăm tuổi trở lên, mỗi người phải vào thi hành
nghĩa vụ phục dịch Lều Hội Ngộ, 25 và từ năm mươi tuổi thì được về
hưu, không phải phục dịch nữa. 26 Người ấy sẽ giúp anh em chu toàn
nhiệm vụ trong Lều Hội Ngộ, còn nhiệm vụ của mình thì không phải thi hành nữa.
Ngươi sẽ bố trí công việc cho các thầy Lê-vi như thế."
Chương 09
IV.
Lễ Vượt Qua Và Cuộc Lên Ðường
Ngày
ăn mừng lễ Vượt Qua
1
Tháng
giêng năm thứ hai từ khi ra khỏi đất Ai-cập, Ðức Chúa phán với ông Mô-sê trong
sa mạc Xi-nai rằng: 2 "Con cái Ít-ra-en phải mừng lễ Vượt Qua
vào thời gian quy định. 3 Ngày mười bốn tháng này, lúc chập tối, các
ngươi sẽ mừng lễ ấy vào giờ quy định, các ngươi sẽ cứ điều luật và tục lệ mà cử
hành lễ ấy."
4
Vậy
ông Mô-sê đã nói với con cái Ít-ra-en phải cử hành lễ Vượt Qua; 5 và
họ đã cử hành lễ Vượt Qua vào tháng giêng, ngày mười bốn, lúc chập tối, trong
sa mạc Xi-nai. Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê thế nào, thì con cái Ít-ra-en
đã thi hành như thế.
Trường
hợp đặc biệt
6
Có
những người nhiễm uế vì đụng đến xác chết, không thể mừng lễ Vượt Qua ngày hôm
ấy. Ngay hôm ấy, họ đã đến gặp ông Mô-sê và ông A-ha-ron, 7 và thưa
với các ông rằng: "Chúng tôi bị nhiễm uế vì đụng đến xác chết, tại sao
chúng tôi bị cấm không được dâng lễ tiến lên Ðức Chúa vào thời gian quy định,
cùng với con cái Ít-ra-en?” 8 Ông Mô-sê nói với họ: "Anh em cứ
đứng đó, để tôi đi thỉnh ý Ðức Chúa xem Người có dạy gì về anh em."
9
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 10 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en:
11
Tháng
thứ hai, ngày mười bốn lúc chập tối, chúng sẽ mừng lễ đó. Chúng sẽ ăn chiên
Vượt Qua với bánh không men và rau đắng. 12 Chúng sẽ không để gì
thừa lại cho đến sáng hôm sau, và cũng không được làm giập gẫy một xương nào
của nó; chúng sẽ mừng lễ Vượt Qua theo đúng mọi điều luật về lễ ấy. 13 Còn
người nào vẫn trong sạch, lại không đi xa, mà bỏ không mừng lễ Vượt Qua, thì
người đó sẽ bị khai trừ khỏi đồng bào mình, vì nó đã không dâng lễ tiến lên Ðức
Chúa vào thời đã quy định; nó phải mang lấy tội mình.
14
Nếu
một ngoài kiều cư ngụ với các ngươi, mà mừng lễ Vượt Qua kính Ðức Chúa, thì nó
cũng phải cứ theo điều luật và tục lệ về lễ Vượt Qua mà cử hành; chỉ có một
điều luật chung, cho các ngươi, ngoại kiều cũng như người bản xứ."
Cột
mây (Xh 40:34-38)
15
Trong
ngày dựng Nhà Tạm, có mây che phủ Nhà Tạm và Lều Chứng Ước, nhưng đêm đến thì
trông như lửa trên Nhà Tạm cho tới sáng. 16 Cứ xảy ra liên tục như
thế: mây che phủ Nhà Tạm ban ngày, đêm thì trông như lửa.
17
Mỗi
lần mây bốc lên cao khỏi Lều, thì con cái Ít-ra-en nhổ trại, và nơi nào mây đậu
lại, thì ở đó con cái Ít-ra-en đóng trại. 18 Cứ lệnh Ðức Chúa mà con
cái Ít-ra-en lên đường, và cứ lệnh Ðức Chúa mà họ đóng trại; bao lâu mây đậu
lại trên Nhà Tạm, thì họ tiếp tục đóng trại. 19 Khi mây đậu trên Nhà
Tạm lâu ngày, thì con cái Ít-ra-en giữ y như điều Ðức Chúa truyền và không nhổ
trại lên đường. 20 Có khi mây chỉ đậu ít ngày trên Nhà Tạm, thì họ
cũng cứ lệnh Ðức Chúa mà đóng trại, và cứ lệnh Ðức Chúa mà nhổ trại lên đường. 21
Có khi mây đậu lại từ chiều tối tới sáng, và ban sáng khi mây bốc lên,
thì lúc đó họ nhổ trại lên đường. 22 Nếu mây lưu lại trên Nhà Tạm
hai ngày, hoặc một tháng hay mấy ngày thôi, thì con cái Ít-ra-en cũng cứ theo
đó mà đóng trại, chứ không nhổ trại lên đường; rồi khi mây bốc lên, họ mới nhổ
trại lên đường. 23 Cứ lệnh Ðức Chúa họ đóng trại, và cứ lệnh Ðức
Chúa họ nhổ trại; Ðức Chúa buộc giữ thế nào, thì họ tuân giữ như thế, theo lệnh
Ðức Chúa truyền qua ông Mô-sê.
Chương 10
Kèn
bạc
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 2 "Ngươi hãy làm hai chiếc kèn,
làm bằng bạc gò, để dùng mà triệu tập cộng đồng và nhổ trại. 3 Khi
các kèn thổi, thì toàn thể cộng đồng tập họp lại bên ngươi, tại cửa Lều Hội Ngộ.
4 Nếu thổi một chiếc, thì các kỳ mục, những người đứng đầu các thị
tộc Ít-ra-en, sẽ tập họp lại bên ngươi.
5
Khi
các ngươi thổi kèn báo động, thì các trại nằm ở phía đông sẽ lên đường. 6 Khi
các ngươi thổi kèn báo động lần thứ hai, thì các trại ở phía nam sẽ lên đường.
Kèn báo động sẽ nổi lên mỗi khi phải nhổ trại lên đường. 7 Còn khi triệu
tập đại hội, thì thổi kèn, mà không được báo động. 8 Các con trai
của A-ha-ron, là các tư tế, sẽ thổi kèn. Và đó là điều luật vĩnh viễn cho các
ngươi và cho dòng dõi các ngươi.
9
Khi
các ngươi xuất trận, trong đất nước các ngươi, chống lại kẻ thù tấn công, các
ngươi sẽ thổi kèn báo động, và Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, sẽ nhớ đến
các ngươi và cứu các ngươi khỏi quân thù. 10 Trong ngày vui mừng của
các ngươi, cũng như trong các đại lễ đã quy định, và các tuần trăng mới, các
ngươi sẽ thổi kèn, khi dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an. Ðiều đó sẽ làm cho Ðức
Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, nhớ đến các ngươi. Chính Ta là Ðức Chúa, Thiên
Chúa của các ngươi."
Thứ
tự lên đường
11
Năm
thứ hai, tháng hai, ngày hai mươi trong tháng, mây bốc lên khỏi Nhà Tạm Chứng
Ước, 12 và từ sa mạc Xi-nai, con cái Ít-ra-en lên đường theo thứ tự.
Rồi cột mây đậu lại trong sa mạc Pa-ran.
13
Họ
đã lên đường lần đầu tiên theo lệnh Ðức Chúa truyền qua ông Mô-sê. 14 Trước
hết là cờ hiệu doanh trại con cháu Giu-đa lên đường theo các đoàn quân của họ,
dưới quyền chỉ huy của ông Nác-sôn, con ông Am-mi-na-đáp. 15 Ðoàn
quân chi tộc con cháu Ít-xa-kha dưới quyền chỉ huy của ông Nơ-than-ên, con ông
Xu-a. 16 Ðoàn quân chi tộc con cháu Dơ-vu-lun dưới quyền chỉ huy của
ông Ê-li-áp, con ông Khe-lôn.
17
Khi
tháo Nhà Tạm xuống, thì con cái Ghéc-sôn sẽ lên đường, và con cái Mơ-ra-ri sẽ
khiêng Nhà Tạm.
18
Cờ
hiệu doanh trại Rưu-vên đã lên đường theo các đoàn quân của họ và dưới quyền
chỉ huy của ông Ê-li-xua, con ông Sơ-đê-ua. 19 Ðoàn quân chi tộc con
cháu Si-mê-ôn dưới quyền chỉ huy của ông Sơ-lu-mi-ên, con ông Xu-ri-sát-đai. 20
Ðoàn quân chi tộc con cháu Gát dưới quyền chỉ huy của ông En-gia-xáp, con
ông Rơ-u-ên.
21
Ðến
lượt các người Cơ-hát lên đường, mang theo vật dụng thánh, và Nhà Tạm phải được
dựng lên trước khi họ tới.
22
Tiếp
đó là cờ hiệu doanh trại con cháu Ép-ra-im lên đường theo các đoàn quân của họ
dưới quyền chỉ huy của ông Ê-li-sa-ma, con ông Am-mi-hút. 23 Ðoàn
quân chi tộc con cháu Mơ-na-se dưới quyền chỉ huy của ông Gam-li-ên, con ông
Pơ-đa-xua. 24 Ðoàn quân chi tộc Ben-gia-min dưới quyền chỉ huy của
ông A-vi-đan, con ông Ghít-ô-ni.
25
Sau
cùng, làm hậu quân cho tất cả các doanh trại, cờ hiệu doanh trại con cháu Ðan
lên đường, theo các đoàn quân của họ dưới quyền chỉ huy của ông A-khi-e-de, con
ông Am-mi-sát-đai. 26 Ðoàn quân chi tộc con cháu A-se dưới quyền chỉ
huy của ông Pác-i-ên, con ông Oóc-ran. 27 Ðoàn quân chi tộc con cháu
Náp-ta-li dưới quyền chỉ huy của ông A-khi-ra, con ông Ê-nan.
28
Ðó
là thứ tự các đoàn quân con cái Ít-ra-en khi họ lên đường.
Ông
Mô-sê đề nghị với ông Khô-váp
29
Ông
Mô-sê nói với nhạc phụ mình là ông Khô-váp, con ông Rơ-u-ên, người Ma-đi-an:
"Chúng tôi đang trên đường đi tới nơi mà Ðức Chúa đã hứa: "Ta sẽ ban
đất ấy cho các ngươi. Mời cha đi với chúng tôi, chúng tôi sẽ trọng đãi cha, vì
Ðức Chúa đã hứa ban phúc lộc cho Ít-ra-en.” 30 Ông Khô-váp trả lời:
"Không được, tôi phải về quê cha đất tổ tôi.” 31 Ông Mô-sê nói:
"Xin cha đừng bỏ chúng tôi; bởi vì cha biết những nơi chúng tôi phải đóng
trại trong sa mạc, cha sẽ là đôi mắt của chúng tôi. 32 Và nếu cha
cùng đi với chúng tôi, thì chính phúc lộc Ðức Chúa ban cho chúng tôi, chúng tôi
sẽ chia sẻ với cha."
Cuộc
lên đường
33
Họ
khởi hành từ núi của Ðức Chúa, đi bộ ba ngày; Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa đi
trước họ suốt ba ngày, để tìm chỗ cho họ đóng trại.
34
Và
mây của Ðức Chúa che phủ họ ban ngày, lúc họ nhổ trại lên đường.
35
Khi
Hòm Bia khởi hành, ông Mô-sê lên tiếng:
"Lạy
Ðức Chúa, xin đứng lên cho địch thù Ngài tán loạn,
và
cho kẻ ghét Ngài phải chạy trốn Thánh Nhan! "
36
Và
lúc Hòm Bia dừng lại, ông nói:
"Lạy
Ðức Chúa, xin dừng lại,
ngự
giữa trăm họ Ít-ra-en!"
Chương 11
V.
Những Chặng Ðường Trong Sa Mạc
Táp-ê-ra
1
Thế
rồi dân bắt đầu kêu ca thấu tai Ðức Chúa vì những khổ cực của họ, và Ðức Chúa
đã nghe được. Cơn thịnh nộ của Người bừng lên và lửa của Ðức Chúa bốc cháy nơi
họ ở và thiêu huỷ đầu trại. 2 Dân liền kêu cứu ông Mô-sê, ông Mô-sê
chuyển cầu lên Ðức Chúa, và lửa đã tắt. 3 Người ta đặt tên cho nơi
đó là Táp-ê-ra, vì lửa của Ðức Chúa đã bốc cháy nơi họ ở.
Kíp-rốt
Ha Ta-a-va. Dân ta thán.
4
Ðám
dân ô hợp sống giữa dân Ít-ra-en bắt đầu thèm ăn, và cả con cái Ít-ra-en cũng
khóc lóc mà nói: "Ai sẽ cho chúng ta có thịt ăn đây? 5 Nhớ thuở nào ta ăn
cá bên Ai-cập mà không phải trả tiền, rồi nào dưa gang, dưa bở, nào hẹ, nào
hành, nào tỏi. 6 Còn bây giờ đời ta tàn rồi; mọi thứ đó hết sạch,
chỉ còn thấy man-na thôi."
7
Man-na
như hạt ngò và trông nó như nhựa hương. 8 Dân cứ việc chia nhau đi
lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu bánh,
và mùi vị của nó như mùi vị bánh chiên dầu. 9 Ðêm về sương rơi trên
doanh trại, thì man-na cũng rơi xuống.
Ông
Mô-sê can thiệp
10
Ông
Mô-sê nghe thấy dân tụm năm tụm bảy theo thị tộc mà kêu khóc tại cửa lều của
mình. Còn Ðức Chúa thì bừng bừng nổi giận. Ông lấy làm khổ tâm 11 và thưa với
Ðức Chúa: "Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con lại không đẹp
lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con? 12 Có phải con đã
cưu mang tất cả dân này không? Có phải con đã sinh ra nó không mà Ngài lại bảo
con: "Hãy bồng nó vào lòng, như vú nuôi bồng trẻ thơ, mà đem vào miền đất
Ta đã thề hứa với cha ông chúng? 13 Con lấy đâu ra thịt cho cả dân này ăn, khi
chúng khóc lóc đòi con: "Cho chúng tôi thịt để chúng tôi ăn? 14 Một mình
con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. 15 Nếu
Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn - ấy là nếu con đẹp lòng
Ngài! Ðừng để con thấy mình phải khổ nữa!"
Ðức
Chúa trả lời
16
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy tập họp lại cho Ta bảy mươi người trong số
kỳ mục Ít-ra-en, những kẻ ngươi biết là kỳ mục và ký lục trong dân. Ngươi sẽ
đem chúng đến Lều Hội Ngộ, để chúng đứng đó với ngươi. 17 Ta sẽ
xuống đó nói chuyện với ngươi. Ta sẽ lấy một phần Thần Khí đang ngự trên ngươi
mà đặt trên chúng, chúng sẽ cùng với ngươi gánh vác dân này, và ngươi sẽ không
còn phải vác một mình nữa."
18
Ngươi
hãy nói với dân: "Anh em hãy thanh tẩy mình để chuẩn bị cho ngày mai và
anh em sẽ được ăn thịt. Phải, anh em đã kêu khóc thấu tai Ðức Chúa rằng:
"Ai sẽ cho chúng ta có thịt ăn đây? Bên Ai-cập, chúng ta sướng biết mấy!
Ðức Chúa sẽ ban thịt cho anh em, và anh em sẽ được ăn. 19 Anh em sẽ
ăn, không phải một ngày, hai ngày, năm mười ngày, hay hai mươi ngày mà thôi, 20
nhưng suốt cả tháng, cho đến khi thịt lòi ra lỗ mũi làm anh em phát ngấy,
vì anh em đã khinh thường Ðức Chúa, Ðấng ngự giữa anh em, và đã kêu khóc trước
nhan Người rằng: Chúng tôi ra khỏi Ai-cập để làm gì?"
21
Ông
Mô-sê lại nói: "Con ở giữa một dân có đến sáu trăm ngàn bộ binh, mà Ðức
Chúa lại bảo: Ta sẽ ban thịt cho chúng, và chúng sẽ ăn suốt cả tháng. 22 Dù
có giết chiên giết bò, liệu có đủ cho họ không? Dù có bắt hết cá dưới biển,
liệu có đủ cho họ không?” 23 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ðức
Chúa mà chịu bó tay sao? Bây giờ ngươi sẽ thấy lời Ta phán có đúng hay
không."
Ðức
Chúa ban Thần Khí
24
Ông
Mô-sê ra nói lại với dân những lời của Ðức Chúa. Ông tập họp bảy mươi người
trong số kỳ mục của dân và đặt họ đứng chung quanh Lều. 25 Ðức Chúa
ngự xuống giữa đám mây và nói chuyện với ông Mô-sê. Người lấy một phần Thần Khí
đang đậu trên ông mà đặt trên bảy mươi kỳ mục. Khi Thần Khí đậu xuống trên các
ông thì các ông bắt đầu phát ngôn, nhưng việc đó không tái diễn nữa.
26
Bấy
giờ có hai người ở lại trong trại, một người tên là En-đát, một người tên là
Mê-đát. Các ông đã được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng đã không đến Lều.
Thần Khí đậu xuống trên các ông và các ông bắt đầu phát ngôn trong trại. 27
Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Mô-sê rằng: "Ông En-đát
và ông Mê-đát đang phát ngôn trong trại!” 28 Ông Giô-suê con ông
Nun, từng theo hầu ông Mô-sê từ hồi còn nhỏ, lên tiếng nói với ông Mô-sê:
"Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ!” 29 Nhưng ông Mô-sê trả lời:
"Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Ðức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của
Người để họ đều là ngôn sứ!" Vì Ðức Chúa đã ban Thần Khí của Người trên họ.
30 Ông Mô-sê đã vào trại cùng với các kỳ mục Ít-ra-en.
Chim
cút
31
Một
luồng gió do Ðức Chúa khơi dậy đã lùa chim cút từ phía biển tới, và thổi chúng
dạt xuống trại thành một đường dài đi một ngày mới hết, ở bốn phía chung quanh
trại, dày tới một thước trên mặt đất. 32 Dân bận rộn lượm chim cút
suốt ngày suốt đêm ấy và cả ngày hôm sau; người lượm ít nhất cũng được hai trăm
thùng, và họ đem phơi chung quanh trại. 33 Thịt còn đang ở giữa hai
hàm răng, chưa kịp nhai thì cơn thịnh nộ của Ðức Chúa đã bừng lên trút xuống
dân và Ðức Chúa đã đánh phạt dân dữ dội.
34
Và
người ta đã đặt tên cho nơi đó là Kíp-rốt Ha Ta-a-va, vì ở đó họ đã chôn đám
dân thèm ăn.
35
Từ
Kíp-rốt Ha Ta-a-va, dân chúng đã nhổ trại lên đường đi Kha-xê-rốt và ở lại đó.
Chương 12
Bà
Mi-ri-am và ông A-ha-ron phản đối ông Mô-sê
1
Bà
Mi-ri-am và ông A-ha-ron phản đối ông Mô-sê về người đàn bà xứ Cút mà ông đã
lấy, vì ông đã lấy một người đàn bà xứ Cút làm vợ. 2 Họ nói:
"Ðức Chúa chỉ phán với một mình Mô-sê sao? Người đã chẳng phán với cả
chúng ta nữa ư?" Và Ðức Chúa nghe được. 3 Ông Mô-sê là người
hiền lành nhất đời.
Thiên
Chúa trả lời
4
Ðột
nhiên Ðức Chúa phán với ông Mô-sê, ông A-ha-ron và bà Mi-ri-am: "Cả ba hãy
đi ra Lều Hội Ngộ!" Và ba người đã ra. 5 Ðức Chúa ngự xuống
giữa đám mây và dừng lại ở cửa Lều. Người gọi ông A-ha-ron và bà Mi-ri-am, và
hai người đi ra. 6 Người phán: "Hãy nghe Ta nói đây!
Nếu
trong các ngươi có ai là ngôn sứ,
thì
Ta, Ðức Chúa, Ta sẽ tỏ mình ra cho nó trong thị kiến,
hoặc
sẽ phán với nó trong giấc mộng.
7
Nhưng
với Mô-sê tôi tớ Ta thì khác:
tất
cả nhà Ta, Ta đã trao cho nó.
8
Ta
nói với nó trực diện, nhãn tiền, chứ không nói bí ẩn,
và
hình dáng Ðức Chúa, nó được ngắm nhìn.
Vậy
tại sao các ngươi không sợ nói động đến Mô-sê, tôi tớ Ta?"
9
Ðức
Chúa nổi cơn thịnh nộ với họ mà bỏ đi. 10 Khi mây bốc lên khỏi Lều,
thì bà Mi-ri-am bị cùi, mốc thếch như tuyết; ông A-ha-ron quay nhìn bà
Mi-ri-am, thì kìa bà đã bị cùi.
Lời
chuyển cầu của ông A-ha-ron và ông Mô-sê
11
Ông
A-ha-ron nói với ông Mô-sê: "Lỗi tại tôi, thưa ngài, nhưng xin ngài đừng
kết tội chúng tôi; chúng tôi đã dại dột mà phạm lỗi và đáng tội. 12 Xin
đừng để cho cô ấy nên như đứa chết yểu, vừa lọt lòng mẹ đã bị ăn mòn mất một
nửa phần thịt mình rồi."
13
Ông
Mô-sê kêu cầu lên Ðức Chúa rằng: "Ôi, lạy Chúa, xin chữa lành cô ấy!” 14
Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Nếu cha nó phỉ nhổ vào mặt nó, thì nó
không phải nhục nhã ê chề bảy ngày liền sao? Nó vẫn phải biệt cư ở ngoài trại
bảy ngày rồi mới được vào lại."
15
Vậy
bà Mi-ri-am đã bị biệt cư ở ngoài trại bảy ngày liền, trong khi đó dân chúng
không lên đường cho tới khi bà Mi-ri-am được vào lại. 16 Sau đó dân
chúng lên đường rời Kha-xê-rốt và đóng trại trong sa mạc Pa-ran.
Chương 13
Do
thám đất Ca-na-an (Ðnl 1:19-24)
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Ngươi hãy sai người đi do thám đất
Ca-na-an, đất mà Ta sẽ ban cho con cái Ít-ra-en. Các ngươi sẽ sai đi mỗi chi
tộc một người và tất cả phải là kỳ mục trong dân."
3
Vậy
từ sa mạc Pa-ran, ông Mô-sê đã sai họ đi, theo lệnh Ðức Chúa truyền. Tất cả họ
đều là những người đứng đầu trong con cái Ít-ra-en. 4 Ðây là danh
sách họ:
Thuộc
chi tộc Rưu-vên, có ông Sam-mu-a, con ông Dắc-cua.
5
Thuộc
chi tộc Si-mê-ôn, có ông Sa-phát, con ông Khô-ri.
6
Thuộc
chi tộc Giu-đa, có ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne.
7
Thuộc
chi tộc Ít-xa-kha, có ông Gích-an, con ông Giô-xép.
8
Thuộc
chi tộc Ép-ra-im, có ông Hô-sê-a, con ông Nun.
9
Thuộc
chi tộc Ben-gia-min, có ông Pan-ti, con ông Ra-phu.
10
Thuộc
chi tộc Dơ-vu-lun, có ông Gát-đi-en, con ông Xô-đi.
11
Thuộc
chi tộc Giu-se, ngành Mơ-na-se, có ông Gát-đi, con ông Xu-xi.
12
Thuộc
chi tộc Ðan, có ông Am-mi-ên, con ông Gơ-ma-li.
13
Thuộc
chi tộc A-se, có ông Xơ-tua, con ông Mi-kha-ên.
14
Thuộc
chi tộc Náp-ta-li, có ông Nác-bi, con ông Vóp-xi.
15
Thuộc
chi tộc Gát, có ông Gơ-u-ên, con ông Ma-khi.
16
Ðó
là tên những người ông Mô-sê sai đi do thám đất. Rồi ông Mô-sê đặt tên cho
Hô-sê-a, con ông Nun, là Giô-suê.
17
Ông
Mô-sê sai họ đi do thám đất Ca-na-an. Ông bảo họ: "Anh em hãy qua miền
Ne-ghép mà lên, lên miền núi. 18 Anh em sẽ xem đất, xem nó thế nào,
dân ở đó mạnh hay yếu, ít hay nhiều, 19 đất họ ở tốt hay xấu, thành
thị của họ là lều trại hay đồn luỹ, 20 đất đai màu mỡ hay cằn cỗi,
có cây cối hay không. Anh em hãy can đảm, và lấy ít hoa trái miền đó đem
về."
21
Họ
đi lên và do thám đất, từ sa mạc Xin đến Rơ-khốp, trên đường vào Cửa Ải Kha-mát.
22 Họ qua miền Ne-ghép đi lên và tới tận Khép-rôn, ở đó có
A-khi-man, Sê-sai và Tan-mai là con cháu của A-nác. Khép-rôn đã được xây bảy
năm trước Xô-an bên Ai-cập. 23 Họ vào đến thung lũng Ét-côn, ở đó họ
chặt một nhành nho và một chùm nho, rồi hai người dùng sào mà khiêng, họ cũng
lấy cả lựu và vả. 24 Người ta gọi nơi ấy là thung lũng Ét-côn, vì
chùm nho mà con cái Ít-ra-en đã hái ở đó.
Báo
cáo của đội do thám (Ðnl 1:25-28)
25
Sau
bốn mươi ngày do thám đất, họ trở về. 26 Họ đến gặp ông Mô-sê, ông
A-ha-ron và toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, tại Ca-đê trong sa mạc Pa-ran.
Họ báo cáo với hai ông và toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, và cho những
người đó xem hoa trái miền ấy.
27
Họ
thuật lại với ông Mô-sê rằng: "Chúng tôi đã vào miền đất ông sai chúng tôi
đến. Ðúng là miền đất tràn trề sữa và mật, và đây là hoa trái miền ấy. 28 Thế
nhưng dân cư miền ấy thì mạnh, thành thị lại kiên cố và rộng lớn lắm; ở đó
chúng tôi còn thấy cả con cháu A-nác. 29 Có người A-ma-lếch ở miền
Ne-ghép, người Khết, người Giơ-vút và người E-mô-ri ở miền núi, còn người
Ca-na-an thì ở bờ biển và dọc sông Gio-đan."
30
Bấy
giờ ông Ca-lếp truyền cho dân đang phản đối ông Mô-sê phải im lặng, ông nói:
"Ta cứ lên chiếm miền ấy, vì chắc chắn ta có thể thắng được.” 31 Những
người đã cùng lên với ông đáp lại: "Ta không thể lên đánh dân ấy, vì họ
mạnh hơn ta.” 32 Trước mặt con cái Ít-ra-en, họ bắt đầu chê bai miền
đất họ đã do thám, họ nói: "Miền đất chúng ta đã đi qua để do thám là đất
nuốt những người ở đó, và tất cả những người chúng tôi thấy ở đó đều là những
người cao lớn. 33 Ở đó chúng tôi trông thấy những người khổng lồ,
con cháu của A-nác thuộc giống người khổng lồ. Chúng tôi thấy mình chỉ như châu
chấu, và họ cũng coi chúng tôi như vậy."
Chương 14
Ít-ra-en
nổi loạn
1
Toàn
thể cộng đồng lớn tiếng kêu la, dân chúng khóc lóc cả đêm ấy. 2 Tất
cả con cái Ít-ra-en đều kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron, toàn thể cộng đồng
nói với các ông: "Phải chi chúng tôi chết ở bên đất Ai-cập, hoặc phải chi
chúng tôi chết trong sa mạc này cho xong! 3 Sao Ðức Chúa lại đem chúng tôi vào
đất này để chúng tôi ngã gục dưới lưỡi gươm, để vợ con chúng tôi bị giặc bắt?
Chúng tôi trở về Ai-cập có tốt hơn không?” 4 Họ bảo nhau:
"Chúng ta hãy đặt lên một người cầm đầu và trở về Ai-cập."
5
Trước
mặt toàn thể đại hội của cộng đồng con cái Ít-ra-en, ông Mô-sê và ông A-ha-ron
sấp mặt xuống đất. 6 Ông Giô-suê, con ông Nun, và ông Ca-lếp, con
ông Giơ-phun-ne, là những người đã tham dự cuộc do thám đất, xé áo mình ra 7 và
nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en: "Miền đất chúng tôi đã đi qua
để do thám là một đất tốt thật là tốt! 8 Nếu Ðức Chúa thương ta, Người sẽ đưa
ta vào đất ấy và ban đất ấy cho ta, một đất tràn trề sữa và mật. 9 Vậy
anh em đừng nổi loạn chống Ðức Chúa, và đừng sợ dân đất ấy! Chúng ta sẽ nuốt
chửng chúng. Thần hộ mệnh chúng đã lìa xa chúng, còn Ðức Chúa thì ở với ta.
Ðừng sợ chúng!"
Cơn
thịnh nộ của ÐỨC CHÚA và lời chuyển cầu của ông Mô-sê
10
Cả
cộng đồng đang bàn chuyện ném đá các ông, thì vinh quang Ðức Chúa xuất hiện
trong Lều Hội Ngộ trước mắt toàn thể con cái Ít-ra-en. 11 Ðức Chúa
phán với ông Mô-sê: "Dân này còn khinh thị Ta đến bao giờ nữa? Cho đến bao
giờ, chúng không chịu tin vào Ta, mặc dầu Ta đã làm bấy nhiêu dấu lạ ở giữa chúng?
12 Ta sẽ dùng ôn dịch mà đánh phạt chúng, sẽ không cho chúng hưởng gia nghiệp,
rồi Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân tộc lớn và mạnh hơn chúng."
13
Ông
Mô-sê thưa với Ðức Chúa: "Người Ai-cập đã nghe biết rằng Ngài đã dùng sức
mạnh của Ngài mà đưa dân này ra khỏi đất chúng. 14 Và chúng đã kể
lại việc đó cho cư dân đất này. Dân đất này đã nghe biết rằng chính Ngài, Ðức
Chúa, Ngài ở giữa dân này, chính Ngài, Ðức Chúa, Ngài cho họ được thấy Ngài tận
mắt, rằng đám mây của Ngài dừng trên họ, và Ngài đi trước họ ban ngày trong cột
mây và ban đêm trong cột lửa. 15 Thế mà Ðức Chúa lại muốn giết cả
dân này như giết một người! Các nước đã từng nghe danh tiếng Ngài sẽ nói: 16
"Chính bởi vì Ðức Chúa đã không thể đem dân ấy vào đất Người đã thề
ban cho chúng, mà Người đã hạ sát chúng trong sa mạc. 17 Vậy giờ
đây, xin Chúa Thượng của con biểu dương sức mạnh, như Ngài đã phán: 18 "Ðức
Chúa chậm giận và giàu ân nghĩa, chịu đựng lỗi lầm và tội ác, nhưng không dung
tha điều gì; phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông. 19 Vậy
xin Ngài tha thứ lỗi lầm của dân này theo lượng cả ân nghĩa của Ngài, như Ngài
đã từng chịu đựng dân này từ Ai-cập cho đến đây."
Tha
thứ và trừng phạt
20
Ðức
Chúa đáp: "Ta tha thứ như lời ngươi xin. 21 Tuy nhiên, Ta lấy
sự sống của Ta, lấy vinh quang của Ta là Ðức Chúa, vinh quang tràn đầy cõi đất,
mà thề: 22 Không một ai trong những người đã thấy vinh quang của Ta
và những dấu lạ Ta đã làm bên Ai-cập và trong sa mạc, nhưng đã thách thức Ta cả
mười lần và đã không chịu nghe theo tiếng Ta, 23 không một ai trong
những người ấy sẽ được thấy miền đất Ta đã thề hứa với cha ông chúng, tất cả
những ai khinh thị Ta sẽ không được thấy đất ấy. 24 Nhưng tôi trung
của Ta là Ca-lếp, vì được một thần khí khác thúc đẩy, và đã một lòng theo Ta,
thì Ta sẽ đưa nó vào đất nó đã đi tới, và dòng dõi nó sẽ chiếm hữu đất ấy. 25
Vì người A-ma-lếch và người Ca-na-an ở vùng đồng bằng, nên ngày mai các
ngươi hãy quay trở lại, và theo hướng Biển Sậy mà vào sa mạc."
26
Ðức
Chúa lại phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: 27 "Cho tới bao
giờ cái cộng đồng hư đốn này cứ tiếp tục lẩm bẩm kêu trách Ta? Ta đã nghe thấy
toàn những lời cằn nhằn, đám con cái Ít-ra-en này cứ lẩm bẩm chống Ta. 28 Ngươi
hãy nói với chúng: Ta thề -sấm của Ðức Chúa - Ta sẽ xử với các ngươi như lời
các ngươi kêu thấu tai Ta. 29 Trong sa mạc này, thây các ngươi sẽ
ngã gục: trong các ngươi, tất cả những người đã được kiểm tra đăng ký, từ hai
mươi tuổi trở lên, mà đã cằn nhằn chống Ta, 30 không một ai sẽ được
vào đất mà Ta đã giơ tay thề sẽ đưa các ngươi vào cư ngụ, ngoại trừ Ca-lếp, con
của Giơ-phun-ne, và Giô-suê, con của Nun. 31 Còn các trẻ con mà các
ngươi cho rằng sẽ bị bắt làm chiến lợi phẩm, thì Ta sẽ đưa chúng vào, và chúng
sẽ được biết đất các ngươi đã chê bỏ. 32 Còn các ngươi, thây các
ngươi sẽ ngã gục trong sa mạc này. 33 Và con cái các ngươi sẽ đi
lang thang trong sa mạc bốn mươi năm, chúng sẽ mang lấy tội phản bội của các
ngươi cho tới khi tất cả các ngươi thành thây ma trong sa mạc. 34 Theo
số ngày các ngươi đã đi do thám đất - bốn mươi ngày - mỗi ngày tính là một năm,
các ngươi sẽ phải gánh chịu tội ác của các ngươi bốn mươi năm, và các ngươi sẽ
biết Ta trừng phạt những kẻ bất tuân như thế nào.
35
Ta,
Ðức Chúa, Ta đã phán; Ta quyết sẽ thi hành như thế cho toàn thể cộng đồng hư
đốn này đã cấu kết với nhau chống lại Ta. Trong sa mạc này chúng sẽ bị tiêu
diệt và sẽ chết hết."
36
Những
người đã được ông Mô-sê sai đi do thám đất, lúc trở về, đã làm cho cả cộng đồng
lẩm bẩm kêu trách ông, vì những lời xuyên tạc về đất ấy, 37 những
người đó đã bị phạt chết ngay trước nhan Ðức Chúa, vì manh tâm xuyên tạc về đất
ấy. 38 Chỉ có Giô-suê, con ông Nun, và Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne,
trong số các người đi do thám đất, là còn sống.
Dân
Ít-ra-en thất bại (Ðnl 1:41-46)
39
Khi
ông Mô-sê thuật lại các những lời ấy cho toàn thể con cái Ít-ra-en, thì dân
chúng đã kêu khóc thảm thiết. 40 Thế rồi họ dậy sớm, kéo nhau lên
đỉnh núi, và nói: "Này chúng tôi lên nơi mà Ðức Chúa đã nói, vì chúng tôi
đã phạm tội.” 41 Ông Mô-sê trả lời: "Sao anh em lại trái lệnh
Ðức Chúa như thế? Việc này sẽ không thành công. 42 Ðừng lên, Ðức
Chúa không ở với anh em đâu: anh em sẽ bị quân thù đánh bại. 43 Phải,
quân A-ma-lếch và quân Ca-na-an sẽ chặn đánh anh em ở đó, và anh em sẽ ngã gục
dưới lưỡi gươm, bởi vì anh em đã bỏ không theo Ðức Chúa, và Ðức Chúa không ở
với anh em nữa.” 44 Họ khăng khăng kéo lên đỉnh núi, trong khi Hòm
Bia Giao Ước của Ðức Chúa cũng như ông Mô-sê không rời khỏi trại. 45 Quân
A-ma-lếch và quân Ca-na-an đóng trên núi ấy đã tràn xuống tấn công và đánh đuổi
họ tan tành cho tới Khoóc-ma.
Chương 15
VI.
Luật Lệ Về Hiến Tế.
Quyền
Hành Của Các Tư Tế Và Các Thầy Lê-Vi.
Của
dâng cúng kèm theo hiến tế
1
Ðức
Chúa phán bảo ông Mô-sê: 2 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo
chúng rằng: Khi các ngươi đã vào cư ngụ trong đất mà Ta sẽ ban cho các ngươi, 3
và khi các ngươi dâng bò bê hay chiên cừu lên Ðức Chúa làm lễ hoả tế, -
bất kỳ lễ toàn thiêu hay lễ hy sinh - hoặc để giữ trọn một lời khấn, hoặc để
dâng một của cúng tự nguyện, hoặc để cử hành các đại lễ theo luật định, ngõ hầu
làm vui lòng Ðức Chúa vì hương thơm, 4 thì kẻ tiến dâng lễ còn phải
tiến dâng lên Ðức Chúa lễ phẩm nữa, là bốn lít rưỡi tinh bột nhào với hai lít
dầu ô-liu; 5 còn rượu tế thì cứ một con chiên con phải dâng hai lít,
để làm lễ toàn thiêu hoặc lễ hy sinh. 6 Nếu là chiên đực, thì ngươi
sẽ dâng lễ vật phụ là chín lít tinh bột nhào với hai lít rưỡi dầu ô-liu, 7
và rượu tế thì dâng hai lít rưỡi như hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. 8
Nếu ngươi dâng một con bò mộng làm lễ toàn thiêu hay lễ hy sinh, để giữ
trọn một lời khấn, hoặc để làm lễ kỳ an dâng Ðức Chúa, 9 thì cùng
với con bò mộng, ngươi sẽ còn phải dâng một lễ phẩm nữa, là mười ba lít rưỡi
tinh bột nhào với bốn lít dầu ô-liu, 10 còn rượu tế thì ngươi sẽ
dâng bốn lít, như hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. 11 Mỗi con bò
mộng hoặc chiên đực, mỗi con cừu hay dê trong đàn ngươi dâng, thì đều phải làm
như vậy. 12 Mỗi lần dâng, ngươi đều phải làm như thế, tuỳ theo số
lượng nhiều hay ít.
13
Mọi
người bản xứ đều phải làm như thế, khi dâng lễ hoả tế như hương thơm làm vui
lòng Ðức Chúa. 14 Nếu có ngoại kiều sinh sống giữa các ngươi, hay
con cháu các ngươi, mà dâng lễ hoả tế như hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa, thì
nó cũng phải làm như các ngươi. 15 Trong đại hội, chỉ có một điều
luật duy nhất cho các ngươi và cho ngoại kiều sống giữa các ngươi, điều luật
vĩnh viễn trước mặt Ðức Chúa cho con cháu các ngươi cũng như cho các ngươi và
cho ngoại kiều. 16 Một luật pháp và một quyết định cho cả các ngươi
lẫn ngoại kiều sinh sống giữa các ngươi."
Bánh
đầu mùa
17
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 18 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en và
bảo chúng rằng: Khi các ngươi tới đất mà Ta sẽ dẫn các ngươi vào, 19 các
ngươi ăn thổ sản của đất đó, thì các ngươi phải dành ra trước phần trích dâng
để kính Ðức Chúa như sau: 20 từ bột tốt nhất của các ngươi, các
ngươi sẽ dâng một chiếc bánh làm phần trích dâng; như ngoài sân lúa người ta
dành ra trước phần trích dâng thế nào, thì các ngươi cũng phải làm như vậy; 21
nghĩa là cho đến muôn đời các ngươi sẽ dâng Ðức Chúa phần trích dâng từ
bột tốt nhất của các ngươi."
Tẩy
xoá những lầm lỗi vì vô ý
22
"Nếu
vì vô ý các ngươi không giữ một điều nào trong tất cả các điều răn mà Ðức Chúa
đã phán bảo qua ông Mô-sê trên đây, 23 tất cả những gì Ðức Chúa đã
truyền cho các ngươi qua Mô-sê, từ ngày Ðức Chúa truyền dạy cho cả con cháu các
ngươi về sau nữa, 24 nếu cộng đồng lỗi lầm vì vô ý, thì toàn thể
cộng đồng phải dâng một con bò mộng làm lễ toàn thiêu, như hương thơm làm vui
lòng Ðức Chúa, cùng với lễ phẩm và rượu tế theo luật định, lại phải dâng một
con dê đực vì lỗi đã phạm. 25 Tư tế sẽ làm nghi thức xá tội trên
toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, và chúng sẽ được tha thứ, bởi đó là một
tội phạm vì vô ý, và chúng đã dâng lên Ðức Chúa lễ tiến hoả tế cùng với lễ tạ
tội lên Ðức Chúa, bởi phạm tội vì vô ý. 26 Như thế toàn thể cộng
đồng con cái Ít-ra-en cũng như ngoại kiều sinh sống giữa các ngươi đều được tha
thứ, bởi toàn dân đã phạm tội vì vô ý.
27
Nếu
một cá nhân phạm tội vì vô ý, thì nó sẽ dâng một con dê cái một tuổi làm lễ tạ
tội. 28 Tư tế sẽ làm nghi thức xá tội trên người đã phạm tội vì vô
ý, bởi nó vô ý trước nhan Ðức Chúa. Khi cử hành nghi thức xá tội như thế, thì
người ấy sẽ được tha thứ. 29 Ðối với người bản xứ trong con cái
Ít-ra-en cũng như đối với ngoại kiều sinh sống giữa chúng, các ngươi chỉ có một
điều luật phải thi hành trong trường hợp phạm tội vì vô ý.
30
Nhưng
kẻ nào hành động cố tình, dù là người bản xứ hay ngoại kiều, thì nó xúc phạm
đến chính Ðức Chúa. Con người ấy sẽ bị tiễu trừ khỏi đồng bào của nó, 31 vì
nó đã khinh khi lời Ðức Chúa và phế bỏ lệnh Người truyền. Con người ấy phải bị
tiêu diệt. Nó phải mang lấy tội ác của nó."
Vi
phạm ngày sa-bát
32
Khi
con cái Ít-ra-en còn ở trong sa mạc, thì người ta bắt được một người đang lượm
củi ngày sa-bát. 33 Những người bắt được kẻ đang lượm củi liền điệu
y tới ông Mô-sê, ông A-ha-ron và toàn thể cộng đồng. 34 Họ nhốt y
lại vì chưa có quyết định phải xử với y như thế nào. 35 Ðức Chúa
phán với ông Mô-sê: "Con người ấy sẽ phải chết; toàn thể cộng đồng sẽ ném
đá nó bên ngoài doanh trại.” 36 Theo lệnh Ðức Chúa truyền cho ông Mô-sê,
toàn thể cộng đồng đã đưa y ra khỏi trại, ném đá y và y đã chết.
Tua
áo
37
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en 38 và bảo
chúng phải làm tua khâu vào tà áo của chúng, qua mọi thế hệ, và cột lên tua áo
đó một sợi dây đỏ tía. 39 Vậy các ngươi sẽ mang tua áo, và khi nhìn
thấy nó, các ngươi sẽ nhớ đến mọi mệnh lệnh của Ðức Chúa mà thi hành, chứ không
theo con tim và đôi mắt các ngươi mà đi làm điếm.
40
Như
thế các ngươi sẽ nhớ và thi hành tất cả các mệnh lệnh Ta truyền như những người
đã được thánh hiến cho Thiên Chúa các ngươi. 41 Chính Ta, Ðức Chúa,
là Thiên Chúa các ngươi, Ta đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập để làm Thiên
Chúa của các ngươi, Ta, Ðức Chúa, Thiên Chúa các ngươi.
Chương 16
Cô-rắc,
Ða-than và A-vi-ram nổi loạn
1
Cô-rắc,
con ông Gít-ha, cháu ông Cơ-hát thuộc chi tộc Lê-vi, đã lôi kéo những người
thuộc chi tộc Rưu-vên, là Ða-than và A-vi-ram, con của ông Ê-li-áp, với Ôn, con
ông Pe-lét. 2 Họ nổi lên chống ông Mô-sê, và cùng với họ có hai trăm
năm mươi người trong số con cái Ít-ra-en, là những người lãnh đạo cộng đồng, là
thành viên hội đồng và là những nhân vật tên tuổi. 3 Họ tụ tập trước
mặt ông Mô-sê và ông A-ha-ron, và nói với hai ông: "Các ông quá lắm rồi!
Toàn thể cộng đồng đều là thánh, và Ðức Chúa ngự giữa họ. Vậy tại sao các ông
lại đè đầu đè cổ cộng đồng của Ðức Chúa?"
4
Nghe
thấy vậy, ông Mô-sê sấp mặt xuống đất. 5 Ông nói với Cô-rắc và đồng
bọn rằng: "Sáng mai Ðức Chúa sẽ cho biết ai thuộc về Người, ai được thánh
hiến và được Người cho ở gần; kẻ Người chọn thì Người sẽ cho ở gần. 6 Các
anh phải làm thế này: Anh Cô-rắc và đồng bọn của anh hãy lấy bình hương, 7
thắp lửa vào bình hương, và ngày mai đổ hương lên trên, trước nhan Ðức
Chúa; và kẻ nào Ðức Chúa chọn thì người đó được thánh hiến. Này con cháu Lê-vi,
các anh quá quắt lắm đó!"
8
Ông
Mô-sê nói với Cô-rắc: "Này con cháu Lê-vi, nghe đây! 9 Thiên Chúa của
Ít-ra-en đã biệt đãi các anh giữa cộng đồng Ít-ra-en, đưa các anh đến gần Chúa,
để các anh phục dịch Nhà Tạm của Ðức Chúa và túc trực trước cộng đồng mà thi
hành tác vụ thay cho họ: như thế, các anh còn cho là quá ít sao? 10 Người đã
đưa anh và cùng với anh tất cả các người Lê-vi anh em của anh, tới gần Người,
mà các anh còn đòi làm tư tế nữa! 11 Thế là chống Ðức Chúa, anh cùng với cả bọn
anh mới toa rập với nhau, chứ ông A-ha-ron là gì mà các anh cằn nhằn ông
ấy?"
12
Ông
Mô-sê sai đi gọi Ða-than và A-vi-ram, con ông Ê-li-áp, nhưng họ trả lời:
"Chúng tôi không đến! 13 Ông đã đưa chúng tôi ra khỏi đất tràn trề sữa và
mật, để chúng tôi phải chết trong sa mạc, như thế là ít hay sao mà ông lại còn
tự đặt mình làm thủ lãnh chúng tôi nữa? 14 Thật chẳng phải là ông đã dẫn chúng
tôi vào một đất tràn trề sữa và mật, ông cũng chẳng cho chúng tôi đồng ruộng và
vườn nho làm sở hữu. Ông tưởng móc mắt được những người này cho họ khỏi thấy
sao? Chúng tôi không đến!” 15 Ông Mô-sê bừng bừng nổi giận, và thưa
với Ðức Chúa: "Xin Ngài đừng chiếu cố lễ phẩm chúng dâng! Dù một con lừa
của chúng, con cũng đã không hề lấy, và con cũng chẳng làm thiệt hại một người
nào trong bọn chúng."
Hình
phạt
16
Ông
Mô-sê nói với ông Cô-rắc: "Anh và tất cả đồng bọn của anh, ngày mai hãy
đến trước nhan Ðức Chúa, anh và họ cùng với ông A-ha-ron. 17 Mỗi
người cầm bình hương của mình, đổ hương vào, rồi ai nấy hãy đưa bình hương tới
nhan Ðức Chúa, tất cả là hai trăm năm mươi chiếc. Cả anh và ông A-ha-ron nữa,
mỗi người hãy mang bình hương của mình.” 18 Mỗi người cầm bình
hương, thắp lửa vào bình và đổ hương lên. Rồi họ đứng ở cửa Lều Hội Ngộ cùng
với ông Mô-sê và ông A-ha-ron. 19 Cô-rắc đã triệu tập toàn thể cộng
đồng trước mặt các ông, ở cửa Lều Hội Ngộ. Và vinh quang của Ðức Chúa đã xuất
hiện trước toàn thể cộng đồng.
20
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng: 21 "Các ngươi hãy
rời xa cộng đồng này, vì Ta sẽ huỷ diệt nó trong giây lát. 22 Các
ông liền sấp mặt xuống đất và kêu: "Lạy Chúa là Thiên Chúa ban sinh khí
cho mọi xác phàm, chỉ có một người phạm tội mà Chúa nổi giận với cả cộng đồng
sao?” 23 Ðức Chúa phán bảo ông Mô-sê rằng: 24 "Ngươi
hãy nói với cộng đồng: "Hãy tránh xa khu vực quanh nhà của Cô-rắc, Ða-than
và A-vi-ram!"
25
Bấy
giờ ông Mô-sê đứng dậy đi về phía Ða-than và A-vi-ram, theo sau ông là các kỳ
mục Ít-ra-en. 26 Ông nói với cộng đồng: "Này, chớ tới gần lều
của những con người hư đốn ấy, và đừng đụng tới tất cả những gì của họ, kẻo vì
liên luỵ mà anh em cũng bị huỷ diệt với tất cả tội lỗi của họ.” 27 Và
người ta rời xa khu vực quanh nhà của Cô-rắc, Ða-than và A-vi-ram.
28
Ông
Mô-sê nói: "Cứ thế này mà anh em biết là Ðức Chúa đã sai tôi làm những
công việc đó, chứ không phải tôi tự ý làm: 29 Nếu những người này
chết bình thường như mọi người, nghĩa là số phận chung của mọi người cũng là số
phận của họ, thì đúng là Ðức Chúa đã không sai tôi. 30 Còn nếu Ðức
Chúa làm điều khác thường này là đất mở họng ra nuốt tươi các người ấy cùng với
tất cả những gì của họ, nghĩa là họ bị chôn sống dưới âm phủ, thì anh em sẽ
biết rằng những người đó đã khinh dể Ðức Chúa."
31
Ông
vừa nói những lời ấy xong, đất dưới chân họ liền rẽ ra, 32 mở họng
nuốt chửng họ, nhà cửa của họ, mọi người nhà của Cô-rắc cũng như tất cả tài
sản.
33
Những
người ấy cùng với tất cả những gì của họ đã bị chôn sống dưới âm phủ, và đất đã
khép lại vùi lấp họ; họ biến mất khỏi công hội. 34 Tất cả những
người Ít-ra-en đứng chung quanh nghe tiếng họ kêu la thì trốn chạy, và nói: "Coi
chừng đất nuốt cả chúng ta bây giờ!"
35
Ðức
Chúa cho lửa ngốn trọn hai trăm năm mươi người đã dâng hương.
Chương 17
Bình
hương
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Ngươi hãy nói với E-la-da, con của
tư tế A-ha-ron, phải cất các bình hương trên đám than hồng đi và hất lửa ấy ra
xa. 3 Dù những bình hương đó là của những kẻ đã phạm tội mà phải
chết, nhưng chúng đã được thánh hiến, nên các ngươi hãy dát thành những tấm
đồng mỏng phủ lên bàn thờ. Quả vậy, các kẻ ấy đã tiến dâng trước nhan Ðức Chúa,
và đã thánh hiến chúng; chúng sẽ nên dấu hiệu để cảnh giác con cái
Ít-ra-en."
4
Tư
tế E-la-da lấy các bình hương bằng đồng mà những người chết cháy đã tiến dâng,
và dát thành những tấm mỏng phủ lên bàn thờ. 5 Chúng sẽ nhắc cho con
cái Ít-ra-en nhớ rằng không một ai ngoài dòng dõi ông A-ha-ron tới gần thắp
hương trước nhan Ðức Chúa, mà không bị chung một số phận với Cô-rắc và đồng bọn
của y, như Ðức Chúa đã phán qua Mô-sê.
Ông
A-ha-ron chuyển cầu
6
Hôm
sau toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron
rằng: "Chính các ông đã giết dân của Ðức Chúa.” 7 Và khi cộng
đồng tụ tập trước mặt ông Mô-sê và ông A-ha-ron, thì họ quay về phía Lều Hội
Ngộ. Và kìa, mây bao phủ Lều và vinh quang Ðức Chúa xuất hiện. 8 Bấy
giờ ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến trước Lều Hội Ngộ.
9
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 10 "Các ngươi hãy rời xa cộng đồng
này, vì Ta sẽ huỷ diệt nó trong giây lát." Các ông liền sấp mặt xuống đất.
11 Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron: "Ông hãy cầm bình hương, lấy
lửa trên bàn thờ thắp vào, đổ hương lên, rồi lập tức đến với cộng đồng làm nghi
thức xá tội cho họ, vì Ðức Chúa đã nổi cơn thịnh nộ và tai hoạ đã bắt đầu.” 12
Theo lời ông Mô-sê, ông A-ha-ron cầm bình hương, chạy đến giữa công hội,
thì này tai hoạ đã bắt đầu hoành hành trong dân. Ông đốt hương và làm nghi thức
xá tội cho dân. 13 Ông đứng giữa kẻ chết và người sống, tai hoạ liền
chấm dứt. 14 14,700 người đã chết trong tai hoạ này, không kể những
người chết trong vụ Cô-rắc. 15 Ông A-ha-ron trở lại đứng bên ông
Mô-sê ở cửa Lều Hội Ngộ, thì tai hoạ dứt hẳn.
Cây
gậy của ông A-ha-ron
16
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 17 "Hãy bảo con cái Ít-ra-en nộp
cho ngươi, qua các trưởng tộc, mỗi gia tộc một cây gậy, tất cả là mười hai cây.
Ngươi sẽ viết tên mỗi người vào cây gậy của nó. 18 Ngươi sẽ viết tên
của A-ha-ron lên cây gậy của Lê-vi, vì thủ lãnh gia tộc của chúng cũng phải có
một cây gậy. 19 Ngươi sẽ đặt các cây gậy đó trong Lều Hội Ngộ, trước
Chứng Ước, nơi Ta gặp gỡ các ngươi. 20 Ai được Ta chọn thì gậy của
nó sẽ đâm chồi, như thế Ta sẽ làm tiêu tan, không để thấu tới Ta những lời con
cái Ít-ra-en kêu ca lẩm bẩm, những lời chúng thốt ra chống lại các ngươi."
21
Ông
Mô-sê nói lại với con cái Ít-ra-en và tất cả các trưởng tộc đã trao gậy cho
ông, mỗi người một cây gậy theo số các gia tộc: tất cả là mười hai cây, trong
đó có cây gậy của ông A-ha-ron. 22 Ông Mô-sê đặt các gậy đó trước
nhan Ðức Chúa trong Lều Chứng Ước. 23 Hôm sau ông Mô-sê tới Lều
Chứng Ước, thì kìa, cây gậy của ông A-ha-ron thuộc gia tộc Lê-vi đã đâm chồi,
trổ bông và kết trái hạnh đào. 24 Từ trước nhan Ðức Chúa, ông Mô-sê
lấy tất cả các cây gậy, đưa ra cho toàn thể con cái Ít-ra-en xem, và mỗi người
đã nhận lại cây gậy của mình.
25
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đưa cây gậy của A-ha-ron đặt lại trước Chứng
Ước, để lưu trữ như dấu chỉ cảnh cáo những đứa phản loạn. Như thế ngươi sẽ làm
tiêu tan không để thấu tới Ta những lời chúng kêu ca lẩm bẩm; và chúng sẽ khỏi
phải chết.” 26 Ông Mô-sê thi hành như Ðức Chúa đã truyền. Ông đã làm
đúng như vậy.
Vai
trò đền tội của tư tế
27
Con
cái Ít-ra-en thưa với ông Mô-sê: "Chết chúng tôi rồi! Chết hết! Tiêu vong
hoàn toàn! 28 Ai mà tới gần Nhà Tạm Ðức Chúa thì sẽ phải chết. Chúng tôi sẽ bị
tận diệt sao?"
Chương 18
1
Ðức
Chúa phán với ông A-ha-ron: "Ngươi, con cái ngươi và gia tộc ngươi với
ngươi, các ngươi phải chịu trách nhiệm về tội phạm đến nơi thánh. Ngươi và con
cái ngươi với ngươi, các ngươi phải chịu trách nhiệm về tội phạm đến chức tư tế
của các ngươi. 2 Ngươi hãy đưa cả các anh em ngươi, thuộc chi tộc
Lê-vi, chi tộc của cha ngươi đến với ngươi để chúng trợ lực và phục vụ ngươi,
ngươi và con cái ngươi, trước Lều Chứng Ước. 3 Chúng sẽ lo phục vụ
ngươi và phục vụ tất cả Lều, nhưng không được tới gần các vật thánh cũng như
bàn thờ, kẻo cả chúng lẫn các ngươi phải chết. 4 Chúng sẽ trợ lực
ngươi và đảm nhận việc phục vụ Lều Hội Ngộ, về mọi dịch vụ liên quan tới Lều;
không người nào khác được tới gần các ngươi. 5 Các ngươi sẽ đảm nhận
việc phục vụ nơi thánh và phục vụ bàn thờ, và thịnh nộ sẽ không giáng xuống
trên con cái Ít-ra-en nữa. 6 Ta đây, Ta đã chọn giữa con cái
Ít-ra-en các thầy Lê-vi là anh em của các ngươi, để trao tặng cho các ngươi. Họ
là "những người được dâng hiến", thuộc về Ðức Chúa, để chuyên lo phục
vụ Lều Hội Ngộ. 7 Ngươi cùng với các con ngươi sẽ thi hành chức vụ
tư tế trong mọi việc liên quan tới bàn thờ và những gì sau bức màn trướng. Ðó
là dịch vụ của các ngươi. Ta ban chức tư tế cho các ngươi như dịch vụ và hồng
ân; còn người nào khác mà tới gần sẽ phải chết."
Phần
dành cho tư tế
8
Ðức
Chúa phán với ông A-ha-ron: "Ta đây, Ta trao cho ngươi đảm nhận phần trích
dâng trong tất cả các của lễ con cái Ít-ra-en dâng cho Ta. Ta ban cho ngươi và
con cái ngươi như phần riêng chiếu theo một quy luật vĩnh viễn. 9 Ðây
là phần dành cho ngươi, trích từ của lễ cực thánh, không bị hoả tế: tất cả lễ tiến
người ta hoàn lại cho Ta trong các lễ phẩm, các hiến lễ xá tội và các hiến lễ
đền tội. Ðó là của cực thánh dành cho ngươi và con cái ngươi. 10 Các
ngươi sẽ ăn của ấy nơi cực thánh, hễ là nam giới thì được ăn của ấy. Ðó là của
thánh đối với ngươi.
11
Và
đây cũng là phần dành cho ngươi: phần trích dâng trong tất cả những gì con cái
Ít-ra-en tiến dâng theo nghi thức. Ta ban những của ấy cho ngươi và cho con
trai con gái ngươi, chiếu theo một quy luật vĩnh viễn. Trong nhà ngươi hễ ai
thanh sạch, thì được hưởng. 12 Tất cả tinh dầu hảo hạng, mọi thứ
rượu mới và lúa miến tốt nhất, tức là những của đầu mùa người ta dâng lên Ðức
Chúa, Ta đều ban cho ngươi. 13 Tất cả thổ sản đầu mùa người ta dâng
cho Ðức Chúa đều là của ngươi; trong nhà ngươi hễ ai thanh sạch thì được hưởng.
14 Tất cả những gì là huý vật thánh trong Ít-ra-en đều được dành cho
ngươi. 15 Tất cả các con đầu lòng của bất cứ xác phàm nào, dù là
người hay súc vật, mà người ta dâng cho Ðức Chúa, đều được dành cho ngươi;
nhưng ngươi phải cho chuộc lại con đầu lòng của người ta, và con đầu lòng của
súc vật không sạch, ngươi cũng cho chuộc lại. 16 Ngươi sẽ cho chuộc
khi nó được một tháng; tiền chuộc ngươi sẽ ấn định là mười lăm chỉ bạc, tính
theo đơn vị đo lường của thánh điện. 17 Nhưng bò, chiên và dê đầu lòng,
ngươi sẽ không cho chuộc lại. Chúng là vật thánh, nên máu chúng, ngươi sẽ đổ
trên bàn thờ, còn mỡ thì sẽ đốt làm hoả tế thành hương thơm làm đẹp lòng Ðức
Chúa, 18 và thịt thì để cho ngươi dùng, cũng như thịt sườn đã được
tiến dâng theo nghi thức, và thịt đùi bên phải đều thuộc về ngươi. 19 Tất
cả các phần trích dâng trong các của lễ thánh mà con cái Ít-ra-en dâng Ðức
Chúa, Ta đều ban cho ngươi cũng như cho con trai con gái ngươi, chiếu theo một
quy luật vĩnh viễn. Ðó là giao ước muối muôn đời tồn tại trước nhan Ðức Chúa,
cho ngươi và dòng dõi ngươi."
Phần
dành cho các thầy Lê-vi
20
Ðức
Chúa phán với ông A-ha-ron: "Ðất chia cho chúng, ngươi sẽ không có phần;
ngươi không có gia nghiệp ở giữa chúng, và chính Ta là gia nghiệp của ngươi
giữa con cái Ít-ra-en.
21
Ðây
Ta ban cho con cái Lê-vi làm gia nghiệp tất cả thuế thập phân dân Ít-ra-en nộp,
vì họ có công phục dịch Lều Hội Ngộ. 22 Con cái Ít-ra-en sẽ không
được tới gần Lều Hội Ngộ nữa, kẻo phải mang tội đáng chết. 23 Chính
các thầy Lê-vi sẽ phục dịch Lều Hội Ngộ và phải mang lấy trách nhiệm về lầm lỗi
của mình. Ðây là quy tắc vĩnh viễn cho dòng dõi các ngươi; giữa con cái
Ít-ra-en, các thầy Lê-vi sẽ không có gia nghiệp, 24 vì các thuế thập
phân con cái Ít-ra-en trích dâng Ðức Chúa, Ta đã ban cho các thầy Lê-vi làm gia
nghiệp. Bởi thế Ta mới bảo chúng rằng: giữa con cái Ít-ra-en, chúng sẽ không có
gia nghiệp."
Thuế
thập phân
25
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 26 "Ngươi hãy nói với các thầy Lê-vi
và bảo họ:
Khi
các ngươi thu thuế thập phân của con cái Ít-ra-en nộp, thuế mà Ta đã ban cho
các ngươi làm gia nghiệp, thì các ngươi sẽ dành phần trích dâng cho Ðức Chúa,
tức là một phần mười thuế thập phân. 27 Của lễ các ngươi dâng đó
được kể là phần trích dâng, giống như người ta dâng lúa mì lấy từ ngoài sân và
rượu mới lấy từ trong bồn. 28 Như vậy là cả các ngươi nữa, các ngươi
cũng dành phần trích dâng Ðức Chúa, từ thuế thập phân mà các ngươi thu của con
cái Ít-ra-en. Phần trích dâng cho Ðức Chúa, các ngươi sẽ trao cho tư tế
A-ha-ron. 29 Tất cả các món quà người ta biếu, các ngươi phải trích
phần dâng cho Ðức Chúa, phần thánh ấy phải là phần tốt nhất.
30
Ngươi
hãy nói với họ rằng: Khi các ngươi đã trích dâng phần tốt nhất rồi, thì phần
còn lại sẽ được kể là của các ngươi, các thầy Lê-vi, giống như hoa lợi lấy từ
ngoài sân và như rượu mới lấy từ trong bồn. 31 Các ngươi cũng như
gia đình các ngươi có thể ăn của ấy ở bất cứ nơi nào. Ðó là thù lao của các
ngươi, vì các ngươi phục dịch trong Lều Hội Ngộ. 32 Về điểm này các
ngươi sẽ không mắc tội gì một khi đã trích dâng phần tuyệt hảo như thế. Nhưng
các ngươi chớ xúc phạm đến của thánh con cái Ít-ra-en dâng, kẻo phải
chết."
Chương 19
Tro
của bò cái màu hung
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: 2 "Ðây là quy tắc
trong luật mà Ðức Chúa đã truyền: Ngươi hãy bảo con cái Ít-ra-en đưa tới cho
ngươi một con bò cái màu hung đỏ, nguyên tuyền, toàn vẹn và chưa bao giờ mang
ách. 3 Các ngươi sẽ trao nó cho tư tế E-la-da. Người ta sẽ đưa nó ra
ngoài trại và sát tế nó trước mặt ông. 4 Tư tế E-la-da sẽ lấy ngón
tay nhúng vào máu nó mà rảy bảy lần về phía mặt tiền Lều Hội Ngộ. 5 Người
ta sẽ thiêu con bò trước mắt ông; da, thịt, máu và phân nó đều đốt hết. 6 Và
tư tế sẽ lấy gỗ bá hương, hương thảo và chỉ màu đỏ thẫm mà quăng vào giữa con
bò đang cháy. 7 Sau đó tư tế phải giặt áo, và lấy nước rửa mình cho
sạch, rồi trở về trại, tư tế sẽ bị nhiễm uế cho tới chiều. 8 Người
thiêu con bò ấy cũng phải lấy nước giặt áo và rửa mình cho sạch, và cũng bị
nhiễm uế cho tới chiều. 9 Một người nào thanh sạch sẽ hốt tro con bò
ấy, để ở một nơi thanh sạch, bên ngoài trại. Ðối với cộng đồng con cái
Ít-ra-en, thì tro đó được dự trữ dùng làm nước tẩy uế. Ðó là nghi thức tạ tội. 10
Người đã hốt tro con bò cũng phải giặt áo, và cũng bị nhiễm uế cho tới
chiều. Ðối với con cái Ít-ra-en cũng như với ngoại kiều trú ngụ giữa chúng, thì
đó là một quy tắc vĩnh viễn.
Trường
hợp nhiễm uế
11
Ai
đụng vào người chết, bất cứ người chết này là ai, đều bị nhiễm uế trong bảy
ngày liền. 12 Ngày thứ ba và thứ bảy, người đó sẽ lấy nước nói trên
mà thanh tẩy mình và sẽ được sạch; nếu người đó không thanh tẩy mình ngày thứ
ba và thứ bảy, thì sẽ không được sạch. 13 Ai đụng vào người chết
-thi thể của một người đã chết- mà không thanh tẩy mình, người đó làm cho Nhà
Tạm của Ðức Chúa bị nhiễm uế, người như thế phải bị diệt trừ khỏi Ít-ra-en, vì
nó đã không được dội nước tẩy uế. Nó đã bị nhiễm uế, và ô uế vẫn tồn tại nơi
nó.
14
Ðây
là luật phải giữ khi có người chết trong lều: ai vào lều cũng như mọi người
đang ở trong lều, đều bị nhiễm uế trong bảy ngày liền. 15 Mọi bình
lọ để mở, không được cột kín, đều bị nhiễm uế.
16
Bất
cứ ai ở ngoài đồng đụng vào một người bị gươm đâm, một tử thi, hoặc xương người
hay là mồ mả, đều bị nhiễm uế trong bảy ngày liền.
Nghi
thức dùng nước tẩy uế
17
Ðể
thanh tẩy người bị nhiễm uế, người ta sẽ lấy một chút tro của con vật đã được
hoả tế làm lễ tạ tội, mà pha với nước lã trong một chiếc bình. 18 Rồi
một người còn thanh sạch lấy nhành hương thảo nhúng vào nước mà rảy lên lều,
lên tất cả các vật dụng cùng mọi người ở đó, lên kẻ đã đụng vào xương cốt, vào
người bị gươm đâm, hoặc tử thi hay là mồ mả. 19 Ngày thứ ba và thứ
bảy, người thanh sạch phải rảy nước lên người bị nhiễm uế; và ngày thứ bảy
người bị nhiễm uế sẽ được sạch tội. Người này phải lấy nước giặt áo và tắm rửa;
đến chiều nó sẽ được sạch. 20 Thế nhưng kẻ nào đã bị nhiễm uế mà
không chịu tẩy uế, thì nó sẽ bị diệt trừ khỏi công hội, vì nó đã làm cho nơi
thánh của Ðức Chúa bị nhiễm uế. Nó đã không được dội nước tẩy uế, nên nó vẫn
còn bị nhiễm uế.
21
Ðó
là quy tắc vĩnh viễn cho chúng. Người nào rảy nước tẩy uế thì phải giặt áo
mình; ai đụng vào nước đó sẽ bị nhiễm uế đến chiều. 22 Tất cả những
gì mà người bị nhiễm uế đụng vào đều bị nhiễm uế; người nào đụng vào những cái
đó cũng bị nhiễm uế cho đến chiều."
Chương 20
VII.
Từ Ca-Ðê Tới Mô-Áp
Mạch
nước Mơ-ri-va (Xh 17:1-7)
1
Toàn
thể cộng đồng con cái Ít-ra-en đến sa mạc Xin vào tháng giêng, và dân ở lại
Ca-đê. Bà Mi-ri-am đã qua đời và được chôn cất tại đây.
2
Cộng
đồng không có nước, họ bèn tụ tập phản đối ông Mô-sê và ông A-ha-ron. 3 Dân
gây chuyện với ông Mô-sê, họ nói: "Phải chi lúc anh em chúng tôi tắt thở
trước mặt Ðức Chúa, thì chúng tôi cũng tắt thở luôn cho rồi. 4 Hai
ông đưa đại hội của Ðức Chúa vào sa mạc này để làm gì? Có phải để chúng tôi và
súc vật của chúng tôi chết ở đây hay không? 5 Hai ông đưa chúng tôi từ Ai-cập
lên để làm gì? Có phải để đưa chúng tôi vào chốn độc địa này chăng? Ðây không
phải là nơi để gieo vãi, không vả, không nho, không lựu, không cả nước
uống."
6
Ông
Mô-sê và ông A-ha-ron rời đại hội đến cửa Lều Hội Ngộ, các ông sấp mặt xuống
đất. Bấy giờ vinh quang Ðức Chúa hiện ra với các ông. 7 Ðức Chúa
phán với ông Mô-sê: 8 "Hãy cầm lấy cây gậy, và cùng với
A-ha-ron, anh ngươi, triệu tập cộng đồng lại. Trước mặt chúng, các ngươi sẽ nói
với tảng đá và chúng sẽ cho nước; từ tảng đá, ngươi sẽ làm cho nước chảy ra cho
chúng, và ngươi sẽ cho cộng đồng và súc vật của chúng uống."
9
Ông
Mô-sê cầm lấy cây gậy ở trước nhan Ðức Chúa, như Người đã truyền cho ông. 10
Ông Mô-sê và ông A-ha-ron triệu tập đại hội trước tảng đá; ông Mô-sê nói
với họ: "Nghe đây, hỡi quân phản nghịch! Từ tảng đá này, chúng tôi có thể
làm cho nước chảy ra cho các người được không?” 11 Ông Mô-sê giơ
tay, lấy gậy đập vào tảng đá hai lần; nước trào ra lai láng cho cộng đồng và
súc vật uống.
Trừng
phạt ông Mô-sê và ông A-ha-ron
12
Bấy
giờ Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: "Bởi vì các ngươi đã
không tin vào Ta để biểu dương sự thánh thiện của Ta trước mắt con cái
Ít-ra-en, nên các ngươi sẽ không được đưa đại hội này vào đất Ta ban cho chúng.”
13 Ðó là mạch nước Mơ-ri-va - nghĩa là gây chuyện - nơi con cái
Ít-ra-en đã gây chuyện với ÐỨC CHÚA, và Người đã biểu dương sự thánh thiện của
Người giữa họ.
Ê-đôm
không cho mượn đường
14
Từ
Ca-đê ông Mô-sê sai sứ giả đến nói với vua Ê-đôm rằng: "Bào huynh của ngài
là Ít-ra-en xin thưa với ngài như sau: ngài biết tất cả những nỗi khốn khó
chúng tôi đã gặp phải; 15 cha ông chúng tôi đã xuống Ai-cập và chúng
tôi đã lưu lại Ai-cập lâu dài như thế nào; rồi những người Ai-cập đã hành hạ
chúng tôi cũng như cha ông chúng tôi làm sao; 16 chúng tôi đã kêu
lên Ðức Chúa và Người đã nghe tiếng chúng tôi và đã sai thần sứ đưa chúng tôi
ra khỏi Ai-cập. Và đây, hiện chúng tôi đang ở Ca-đê, một thành sát ranh giới
của Ngài. 17 Vậy xin để chúng tôi đi qua đất của ngài. Chúng tôi sẽ
không băng qua ruộng rẫy, vườn nho, không uống nước giếng, nhưng sẽ cứ vương lộ
mà đi, không rẽ bên phải hay bên trái, cho tới khi ra khỏi biên giới của ngài.”
18 Nhưng Ê-đôm trả lời: "Ngươi không được đi qua đất của ta;
nếu không, ta sẽ ra ứng chiến với ngươi.” 19 Con cái Ít-ra-en đáp
lại: "Chúng tôi sẽ cứ quan lộ mà lên; và nếu chúng tôi và đàn vật của
chúng tôi có uống nước của ngài, thì chúng tôi sẽ tính sòng phẳng; có chuyện gì
đâu, chúng tôi chỉ đi bộ qua thôi.” 20 Ê-đôm nói: "Không
được", rồi đưa quân đông đảo và võ trang hùng hậu ra chặn đường. 21 Vì
Ê-đôm quyết từ chối không cho Ít-ra-en đi qua lãnh thổ của mình, nên Ít-ra-en
đã tránh con đường đó.
Ông
A-ha-ron qua đời
22
Từ
Ca-đê, toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en lên đường, đi vào vùng núi Ho. 23
Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron trên núi Ho, giáp ranh giới
xứ Ê-đôm, rằng: 24 "A-ha-ron sẽ về sum họp với tổ tiên; nó sẽ
không được vào đất Ta đã ban cho con cái Ít-ra-en, bởi vì các ngươi đã cưỡng
lại lệnh Ta bên mạch nước Mơ-ri-va. 25 Ngươi hãy gọi A-ha-ron và con
của nó là E-la-da lại, và đưa chúng lên núi Ho. 26 Ngươi sẽ cởi phẩm
phục của A-ha-ron, mặc cho E-la-da con nó; A-ha-ron sẽ về sum họp với tổ tiên
và sẽ chết tại đó."
27
Ông
Mô-sê đã làm như Ðức Chúa truyền, và họ lên núi Ho trước mắt toàn thể cộng đồng.
28 Ông Mô-sê cởi phẩm phục của ông A-ha-ron, mặc cho con ông này là
E-la-da. Ông A-ha-ron đã qua đời tại đó, trên đỉnh núi. Còn ông Mô-sê và ông
E-la-da thì xuống núi. 29 Khi toàn thể cộng đồng hay biết ông
A-ha-ron qua đời, thì cả nhà Ít-ra-en đã khóc thương ông ba mươi ngày.
Chương 21
Chiếm
Khoóc-ma
1
Vua
A-rát, người Ca-na-an, cư ngụ tại Ne-ghép, nghe biết Ít-ra-en theo đường
A-tha-rim mà tới, thì đã tấn công Ít-ra-en và bắt được một số tù binh. 2 Bấy
giờ Ít-ra-en đã khấn với Ðức Chúa lời khấn như sau: "Nếu Ngài trao dân này
vào tay con, con sẽ tru diệt các thành của nó.” 3 Ðức Chúa đã nhận
lời Ít-ra-en mà trao người Ca-na-an cho họ, và họ đã tru diệt chúng cùng với
các thành của chúng. Người ta đã đặt tên cho nơi đó là Khoóc-ma.
Con
rắn đồng
4
Từ núi
Ho, họ lên đường theo đường Biển Sậy, vòng qua lãnh thổ Ê-đôm; trong cuộc hành
trình qua sa mạc, dân Ít-ra-en mất kiên nhẫn. 5 Họ kêu trách Thiên
Chúa và ông Mô-sê rằng: "Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, để
chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống?
Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này."
6
Bấy
giờ Ðức Chúa cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ít-ra-en
phải chết. 7 Dân đến nói với ông Mô-sê: "Chúng tôi đã phạm tội,
vì đã kêu trách Ðức Chúa và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu Ðức Chúa để Người
xua đuổi rắn xa chúng tôi." Ông Mô-sê khẩn cầu cho dân. 8 Ðức
Chúa liền nói với ông: "Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột.
Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.” 9 Ông
Mô-sê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn
cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống.
Những
chặng đường sang hữu ngạn sông Gio-đan
10
Con
cái Ít-ra-en đã lên đường và đóng trại ở Ô-vốt. 11 Rồi họ lại rời
Ô-vốt lên đường và đóng trại ở I-giê Ha A-va-rim trong sa mạc, đối diện với
Mô-áp, ở phía đông. 12 Từ đó họ lên đường và đóng ở suối De-rét. 13
Từ đây họ lên đường và đóng trại ở bên kia suối Ác-nôn. Suối này nằm
trong sa mạc, khởi từ biên giới E-mô-ri. Vì suối Ác-nôn là biên giới Mô-áp phân
ranh Mô-áp với E-mô-ri. 14 Bởi thế có lời trong cuốn "Chiến sử
của Ðức Chúa" rằng:
"Ðánh
chiếm Va-hếp tại Xu-pha, đánh chiếm luôn suối Ác-nôn,
15
cả
triền suối chạy dài tới khu vực A, dọc theo biên giới Mô-áp."
16
Và
từ đó họ đi tới Bơ-e.
Ðây
chính là giếng mà Ðức Chúa đã nói đến, khi phán với ông Mô-sê: "Hãy tập
họp dân lại, và Ta sẽ ban nước cho chúng."
17
Bấy
giờ Ít-ra-en xướng lên bài ca này:
"Vọt
lên đi nào, mạch giếng ơi!
Các
bạn hãy ca mừng giếng nước!
18
Giếng
xưa kia bậc thủ lãnh đã đào,
hàng
quyền quý của dân đã khơi
bằng
phủ việt, bằng quyền trượng các ngài!"
19
Từ
Mát-ta-na tới Na-kha-li-ên, và từ Na-kha-li-ên tới Ba-mốt. 20 Rồi từ
Ba-mốt tới thung lũng nằm trong vùng quê Mô-áp, gần đỉnh Pít-ga, đối diện với
sa mạc.
Chiếm
miền hữu ngạn sông Gio-đan (Ðnl 2:26-3:11)
21
Bấy
giờ Ít-ra-en sai các sứ giả đến thưa với Xi-khôn, vua dân E-mô-ri, rằng: 22
"Xin để tôi đi qua đất của ngài; tôi sẽ không băng qua ruộng rẫy,
vườn nho, không uống nước giếng; nhưng sẽ cứ vương lộ mà đi, cho tới khi ra
khỏi biên giới của ngài.” 23 Nhưng vua Xi-khôn không cho Ít-ra-en
băng qua bờ cõi của ông, lại còn tập họp toàn dân, ra chặn đường Ít-ra-en trong
sa mạc. Tới Gia-hát, ông giao chiến với Ít-ra-en. 24 Ít-ra-en vung
kiếm giết họ và chiếm đất từ Ác-nôn cho tới Giáp-bốc, đến tận biên giới con cái
Am-mon. Gia-de là biên giới con cái Am-mon.25 Ít-ra-en đã chiếm lấy tất cả các
thành đó và lưu lại trong các thành của người E-mô-ri ở Khét-bôn và các thị
trấn phụ thuộc. 26 Khét-bôn quả là kinh thành của Xi-khôn, vua dân
E-mô-ri, người đã từng giao tranh với đời vua trước của Mô-áp và chiếm toàn bộ
lãnh thổ của vua này cho tới Ác-nôn.
27
Vì
thế, thi nhân có lời rằng:
"Hãy
đến Khét-bôn mà xây dựng lại,
cho
kinh thành Xi-khôn được củng cố!
28
Vì
lửa cháy bốc ra từ Khét-bôn và hoả tai từ phố phường Xi-khôn
đã
huỷ diệt thành A của Mô-áp
và
bọn lãnh chúa trên các điểm cao suối Ác-nôn.
29
Khốn
cho mi, Mô-áp hỡi! Này dân Cơ-mốt, ngươi mạt vận rồi!
Con
trai ngươi bị đuổi xua chạy trốn,
con
gái ngươi bị nộp cho Xi-khôn, vua E-mô-ri.
30
Ruộng
rẫy của chúng bị huỷ hoại từ Khét-bôn cho tới Ði-vôn.
Chúng
tôi đã nổi lửa đốt phá từ Nô-phác cho tới Mê-đơ-va."
31
Ít-ra-en
đã định cư trên đất người E-mô-ri.
32
Ông
Mô-sê sai người đi do thám Gia-de: họ đã chiếm các thị trấn phụ thuộc và trục
xuất người E-mô-ri cư ngụ tại đó.
33
Rồi
họ đổi hướng và lên đường đi Ba-san. Vua Ba-san là Ốc, cùng toàn thể dân của
ông ra chặn đường, để giao chiến với họ tại Ét-re-i. 34 Nhưng Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ðừng sợ nó, vì Ta đã trao nó cùng tất cả dân cư
và đất đai của nó vào tay ngươi. Ngươi hãy xử với nó như đã xử với Xi-khôn, vua
dân E-mô-ri ở Khét-bôn.” 35 Thế là họ đánh bại vua ấy, con cái và
toàn dân ông, không để sót một người nào, và họ đã chiếm lấy đất của ông.
Chương 22
1
Sau
đó con cái Ít-ra-en lại lên đường và đóng trại ở thảo nguyên Mô-áp, bên kia
sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô.
Vua
Mô-áp cầu cứu ông Bi-lơ-am
2
Vua
Ba-lác, con vua Xíp-po, đã thấy tất cả những gì Ít-ra-en gây cho người E-mô-ri.
3 Người Mô-áp khiếp sợ trước đám dân đó, vì họ quá đông.
Mô-áp
kinh hãi phải đối đầu với con cái Ít-ra-en.
4
Mô-áp
nói với các kỳ mục Ma-đi-an rằng: "Này đám người ấy sẽ ngốn hết chung
quanh chúng ta, như bò ngốn cỏ ngoài đồng."
5
Vua
liền sai các sứ giả đến mời Bi-lơ-am, con của Bơ-o, ở Pơ-tho, gần sông Cả,
trong đất của con cái Am-mon. Vua nói: "Này, có một dân đã ra khỏi Ai-cập,
lan tràn khắp xứ và hiện đang đóng trại đối diện với ta. 6 Bây giờ
xin ông đến nguyền rủa dân đó cho ta, vì nó mạnh hơn ta. May ra nhờ thế ta có thể
đánh bại được nó và đuổi nó ra khỏi lãnh thổ của ta. Vì ta biết kẻ nào được ông
chúc phúc thì được phúc và kẻ nào bị ông nguyền rủa thì mắc hoạ."
7
Các
kỳ mục Mô-áp và các kỳ mục Ma-đi-an đã lên đường, cầm theo tiền thù lao cho lời
sấm; họ tới gặp ông Bi-lơ-am và chuyển tới ông lời của vua Ba-lác. 8 Ông
nói với họ: "Mời các ông qua đêm ở đây, rồi tôi sẽ trả lời cho các ông
theo như Ðức Chúa nói với tôi." Vậy các thủ lãnh Mô-áp đã ở lại với ông
Bi-lơ-am. 9 Thiên Chúa đến với ông Bi-lơ-am và phán rằng: "Những
kẻ đang ở với ngươi là ai đó?” 10 Ông Bi-lơ-am thưa lại với Thiên
Chúa: "Ba-lác, con của Xíp-po, vua Mô-áp, đã sai họ đến nói với tôi rằng: 11
Này, đám dân ra khỏi Ai-cập nay đã lan tràn khắp xứ; xin ông đến nguyền
rủa nó cho ta. May ra nhờ thế ta có thể giao tranh với nó và đuổi nó đi.” 12
Bấy giờ Thiên Chúa phán bảo ông Bi-lơ-am: "Ngươi không được đi với
chúng! Không được nguyền rủa dân đó, vì nó đã được chúc phúc.” 13 Sáng
hôm sau ông Bi-lơ-am trỗi dậy và nói với các thủ lãnh vua Ba-lác đã sai đến, rằng:
"Các ông hãy trở về xứ các ông; Ðức Chúa đã từ chối không để cho tôi đi
với các ông.” 14 Vậy các thủ lãnh Mô-áp trỗi dậy, trở về với vua
Ba-lác và nói: "Ông Bi-lơ-am đã từ chối không chịu cùng đến với chúng
tôi."
15
Một
lần nữa vua Ba-lác lại sai các thủ lãnh đông hơn và có thế giá hơn những người
trước. 16 Họ đến gặp ông Bi-lơ-am và thưa rằng: "Vua Ba-lác,
con của vua Xíp-po nói thế này: Ông đừng ngại đến với ta; 17 chắc
chắn ta sẽ hết sức trọng đãi ông, và tất cả những gì ông bảo, ta sẽ làm; ông cứ
đến nguyền rủa dân ấy giúp ta.” 18 Nhưng ông Bi-lơ-am trả lời và nói
với bầy tôi vua Ba-lác rằng: "Vua Ba-lác có cho tôi một nhà đầy bạc đầy
vàng, tôi cũng chẳng làm gì trái lệnh Ðức Chúa, Thiên Chúa của tôi được, dù
việc lớn hay việc nhỏ. 19 Nhưng bây giờ, cả các ông nữa, mời các ông
cũng nghỉ đêm ở đây, và tôi sẽ biết Ðức Chúa có phán thêm điều gì với tôi
không.” 20 Ðêm ấy Thiên Chúa đến với ông Bi-lơ-am và phán bảo ông:
"Những người ấy đến, không phải để gọi ngươi đó sao? Cứ trỗi dậy, đi với
chúng. Nhưng ngươi chỉ được làm điều Ta bảo ngươi.” 21 Sáng ngày,
ông Bi-lơ-am trỗi dậy, thắng con lừa cái của mình và lên đường với các thủ lãnh
Mô-áp.
Con
lừa cái của ông Bi-lơ-am
22
Cơn
thịnh nộ của Thiên Chúa bừng lên vì ông đã ra đi, và thần sứ của Ðức Chúa đứng
trên đường chận lối ông đi. Ông cỡi con lừa cái của mình, có hai tiểu đồng đi
theo. 23 Khi con lừa thấy thần sứ của Ðức Chúa đứng trên đường, gươm
trần trong tay, thì nó tránh đường, đi xuống ruộng. Ông Bi-lơ-am đánh con lừa
cho nó lên trên đường.
24
Bấy
giờ thần sứ của Ðức Chúa đứng chặn tại một đường mòn giữa các vườn nho, tả hữu
có tường. 25 Con lừa cái trông thấy thần sứ của Ðức Chúa thì đi ép
vào tường khiến chân ông Bi-lơ-am bị cọ xát. Ông lại đánh nó.
26
Thần
sứ của Ðức Chúa lại đi tới và đứng ở một nơi chật hẹp đến nỗi không còn chỗ
tránh qua bên tả bên hữu. 27 Con lừa trông thấy thần sứ của Ðức
Chúa, liền nằm bẹp xuống bên dưới ông Bi-lơ-am. Ông Bi-lơ-am nổi nóng lại dùng
gậy đánh con lừa.
28
Bấy
giờ Ðức Chúa liền mở miệng con lừa; nó nói với ông Bi-lơ-am: "Tôi đã làm
gì ông, mà ông lại đánh tôi những ba lần?” 29 Ông Bi-lơ-am nói với
con lừa: "Vì mày đã ngạo tao. Tao mà có sẵn chiếc gươm trong tay, thì tao
đã giết mày rồi!” 30 Con lừa nói với ông Bi-lơ-am: "Tôi không
phải là con lừa cái của ông, mà ông đã cỡi mãi cho tới ngày hôm nay sao? Tôi có
quen làm như vậy với ông bao giờ chưa?" Ông đáp: "Chưa bao giờ."
31
Bấy
giờ Ðức Chúa mới mở mắt cho ông Bi-lơ-am thấy thần sứ của Ðức Chúa trên đường,
gươm trần trong tay. Ông quỳ xuống, sấp mặt sát đất. 32 Thần sứ của
Ðức Chúa nói với ông: "Tại sao ngươi đánh con lừa của ngươi những ba lần?
Này, chính Ta đứng ra chặn đường ngươi, vì trước mặt Ta, con đường này nguy
hiểm. 33 Con lừa cái thấy Ta, thì nó đã tránh mặt Ta những ba lần.
Giả như nó không tránh mặt Ta, thì chắc chắn Ta đã giết chết ngươi, còn nó thì
Ta đã để cho sống.” 34 Ông Bi-lơ-am thưa với thần sứ của Ðức Chúa:
"Tôi đã trót phạm tội, vì tôi không biết là Ngài đứng chặn đường không cho
tôi đi. Bây giờ nếu Ngài thấy là không được, thì tôi sẽ quay về nhà.” 35 Thần
sứ của Ðức Chúa nói với ông Bi-lơ-am: "Ngươi cứ đi với các người ấy; nhưng
ngươi chỉ được nói điều Ta bảo ngươi." Thế là ông Bi-lơ-am cùng đi với các
thủ lãnh của vua Ba-lác.
Ông
Bi-lơ-am và vua Ba-lác
36
Khi
ông Ba-lác nghe tin ông Bi-lơ-am tới, thì ra đón ông tại kinh thành Mô-áp, trên
ranh giới Ác-nôn, ở điểm chót của ranh giới. 37 Vua Ba-lác nói với
ông Bi-lơ-am: "Nào tôi đã chẳng cho người đến mời ông sao? Tại sao ông lại
không đến với tôi? Dễ thường tôi không đủ khả năng trọng đãi ông?” 38 Ông
Bi-lơ-am thưa lại với vua Ba-lác: "Này tôi đã đến với ông đây. Nhưng tôi
có thể nói gì bây giờ? Lời nào Thiên Chúa đặt vào miệng tôi thì tôi nói
thôi."
39
Ông
Bi-lơ-am cùng đi với vua Ba-lác; họ tới Kia-giát Khu-xốt. 40 Vua
Ba-lác sát tế bò chiên và gửi biếu ông Bi-lơ-am và các thủ lãnh đang ở với ông
này. 41 Sáng hôm sau vua Ba-lác mời ông Bi-lơ-am tới, và đưa ông lên
Ba-mốt Ba-an; từ đây ông nhìn thấy phần cuối trại của dân.
Chương 23
1
Ông
Bi-lơ-am thưa với vua Ba-lác: "Xin xây cho tôi bảy bàn thờ ngay tại đây,
liệu ở đây cho tôi bảy con bò mộng và bảy con cừu đực.” 2 Vua Ba-lác
làm như ông Bi-lơ-am nói. Và vua Ba-lác cùng ông Bi-lơ-am dâng một con bò mộng
và một con cừu đực tại mỗi bàn thờ. 3 Ông Bi-lơ-am thưa với vua
Ba-lác: "Xin ngài đứng cạnh lễ toàn thiêu của ngài; còn tôi, tôi sẽ đi. Có
khi Ðức Chúa sẽ hiện ra cho tôi gặp Người; và Người cho tôi thấy gì, tôi sẽ tỏ
cho ngài biết." Và ông đi lên một ngọn đồi hoang.
Lời
sấm của Bi-lơ-am
4
Thiên
Chúa đón gặp ông Bi-lơ-am, và ông thưa với Người: "Tôi đã sắp đặt bảy bàn
thờ và đã dâng một con bò mộng và một con cừu đực tại mỗi bàn thờ.” 5 Bấy
giờ Ðức Chúa đặt một lời vào miệng ông Bi-lơ-am, và bảo ông rằng: "Hãy trở
về với Ba-lác và nói như sau.” 6 Ông trở về với vua, thì này vua
đang đứng cạnh lễ toàn thiêu cùng với tất cả các thủ lãnh Mô-áp. 7 Ông
cất tiếng đọc bài thơ của mình như sau:
"Từ
A-ram, Ba-lác vua Mô-áp đã cho mời tôi đến
từ
các vùng đồi núi phía đông:
Hãy
đến mà trù Gia-cóp cho ta, hãy đến mà rủa Ít-ra-en!
8
Làm
sao tôi trù được kẻ Thượng Ðế không trù?
Làm
sao tôi rủa được kẻ Ðức Chúa không rủa?
9
Thật
ra, tôi đã thấy nó từ các đỉnh núi cao,
từ
các ngọn đồi, tôi đã nhìn ngắm nó:
Nó
là một dân được tách biệt;
không
bị xếp đồng hàng với chư dân.
10
Ai
đếm được bụi đất của Gia-cóp?
Ai
điểm được một phần tư của Ít-ra-en?
Ước
chi tôi được chết cái chết của người công chính,
và
tôi được mãn phần như họ."
11
Vua
Ba-lác nói với ông Bi-lơ-am: "Ông làm gì ta thế? Ta đưa ông tới để ông
nguyền rủa kẻ thù của ta, thế mà, này ông chỉ chúc phúc thôi!” 12 Ông
trả lời và nói: "Tôi lại không phải lo nói điều Ðức Chúa đặt vào miệng tôi
sao?” 13 Vua Ba-lác nói với ông: "Mời ông đi chỗ khác với ta,
từ nơi ấy ông sẽ thấy dân; ông sẽ chỉ thấy phần cuối của nó, chứ không thấy hết
đâu. Từ nơi ấy, ông hãy nguyền rủa nó cho ta.” 14 Bấy giờ vua đưa
ông ấy tới cánh đồng Xô-phim, lên ngọn Pít-ga, rồi xây bảy bàn thờ, và dâng một
con bò mộng và một con cừu đực làm lễ toàn thiêu tại mỗi bàn thờ. 15 Ông
Bi-lơ-am thưa với vua Ba-lác: "Xin ngài đứng đây, bên các lễ toàn thiêu của
ngài, còn tôi sẽ đi gặp Thiên Chúa ở đàng kia.” 16 Ðức Chúa đón ông
Bi-lơ-am, Người đặt vào miệng ông một lời và bảo ông rằng: "Hãy trở về với
Ba-lác và nói như sau.” 17 Ông trở về với vua, thì này vua đang đứng
bên các lễ toàn thiêu của mình cùng với các thủ lãnh Mô-áp. Vua Ba-lác hỏi:
"Ðức Chúa đã nói gì thế?” 18 Ông Bi-lơ-am cất tiếng đọc bài thơ
của mình như sau:
"Này
vua Ba-lác, đứng dậy mà nghe,
hãy
lắng tai nghe tôi, hỡi con của Xíp-po:
19
Thiên
Chúa không phải là phàm nhân mà gian ngoa được,
cũng
chẳng là con người mà phải hối hận.
Phải
chăng Người nói mà không làm?
Hay
Người phán mà không thực hiện?
20
Này
Chúa bắt tôi phải chúc phúc,
tôi
sẽ chúc phúc mà không tiếc lời.
21
Tôi
đã không thấy gian ác nơi Gia-cóp,
cũng
chẳng gặp áp bức trong Ít-ra-en.
Ðức
Chúa, Thiên Chúa của nó, hằng kề bên,
tiếng
"vạn tuế Ðức Vua" trỗi vang lừng.
22
Thiên
Chúa đã đưa nó ra khỏi Ai-cập,
Người
là sức mạnh của nó tựa sừng trâu.
23
Vì
chẳng có tiếng trù hại Gia-cóp,
cũng
không có lời rủa chống Ít-ra-en.
Mà
người ta còn nói về Gia-cóp
và
Ít-ra-en: Thiên Chúa làm gì vậy?
24
Này
một dân chỗi dậy như sư tử cái,
như
sư tử đực, nó chồm lên.
nó
không nằm xuống khi chưa nuốt mồi,
chưa
uống máu những người nó đã giết."
25
Vua
Ba-lác nói với ông Bi-lơ-am: "Nếu ông không nguyền rủa nó được, thì ít ra
đừng chúc phúc cho nó!” 26 Nhưng ông Bi-lơ-am trả lời và nói với vua
Ba-lác: "Tôi đã không thưa với ngài là tôi phải làm tất cả những gì Ðức
Chúa phán bảo sao?"
27
Vua
Ba-lác lại nói với ông Bi-lơ-am: "Ðến đây, ta sẽ đưa ông đi nơi khác, may
ra tại đó Thiên Chúa sẽ chấp thuận cho ông nguyền rủa nó cho ta.” 28 Vua
Ba-lác đưa ông Bi-lơ-am lên ngọn Pơ-o, là ngọn núi đối diện với sa mạc. 29
Ông Bi-lơ-am nói với vua Ba-lác: "Xin xây cho tôi bảy bàn thờ ngay
tại đây, liệu ở đây cho tôi bảy con bò mộng và bảy con cừu đực.” 30 Vua
Ba-lác làm như ông Bi-lơ-am nói và ông đã dâng một con bò mộng và một con cừu
đực làm lễ toàn thiêu tại mỗi bàn thờ.
Chương 24
1
Khi
ông Bi-lơ-am thấy Ðức Chúa vui lòng chúc phúc cho Ít-ra-en, thì ông không đi
tìm lời trù rủa như mấy lần trước, nhưng quay mặt về phía sa mạc. 2 Ông
Bi-lơ-am ngước mắt lên và nhìn thấy Ít-ra-en đóng trại theo chi tộc của họ.
Thần khí Thiên Chúa ở trên ông, 3 ông liền cất tiếng đọc bài thơ sau
đây:
"Sấm
ngôn của Bi-lơ-am, con Bơ-o,
sấm
ngôn của người mắt vẫn mở.
4
Sấm
ngôn của người nghe các lời Thiên Chúa,
người
ngắm nhìn thị kiến Ðấng Toàn Năng,
của
người ngủ mà mắt vẫn mở trong lúc xuất thần.
5
Hỡi
Gia-cóp, lều bạt của ngươi đẹp biết mấy!
Hỡi
Ít-ra-en, đẹp biết mấy doanh trại của ngươi!
6
Như
thung lũng trải dài, như vườn cạnh bờ sông,
như
lô hội Ðức Chúa đã trồng,
như
hương nam mọc bên dòng nước.
7
Từ
các bồn của nó, nước tràn ra,
và
hạt giống nó được tưới dồi dào.
Vua
của nó cao cả hơn A-gác,
và
vương quốc nó được tôn vinh.
8
Thiên
Chúa đã đưa nó ra khỏi Ai-cập,
Người
là sức mạnh của nó tựa sừng trâu.
Nó
sẽ nuốt chư dân thù nghịch nó.
Xương
của chúng, nó sẽ nghiền nát tan
và
dùng tên bắn gục quân thù.
9
Nó
phục xuống, nằm yên như sư tử.
Nó
tựa sư tử cái, ai nào dám tấn công?
Phúc
thay kẻ chúc phúc cho ngươi!
Và
khốn cho kẻ trù rủa ngươi!"
10
Vua
Ba-lác nổi giận với ông Bi-lơ-am. Vua đập tay và nói với ông Bi-lơ-am: "Ta
đã vời ông đến để ông nguyền rủa quân thù của ta, nhưng này, đã ba lần ông chỉ
chúc phúc cho nó. 11 Bây giờ ông hãy về đi. Ta đã nói ta sẽ trọng
đãi ông, nhưng này Ðức Chúa không cho ông được trọng đãi.” 12 Ông
Bi-lơ-am thưa vua Ba-lác: "Tôi đã không nói với các sứ giả ngài sai đến
với tôi thế này sao, là 13 vua Ba-lác có cho tôi một nhà đầy bạc đầy vàng, tôi
cũng không thể trái lệnh Ðức Chúa, mà tự ý làm điều gì, dù tốt hay xấu; Ðức
Chúa nói sao, tôi nói vậy. 14 Bây giờ tôi sắp về với dân tôi. Này,
tôi nói cho ngài biết điều mà dân (Ít-ra-en) sẽ làm cho dân ngài trong những
ngày gần đây.” 15 Rồi ông cất tiếng đọc bài thơ của mình như sau:
"Sấm
ngôn của Bi-lơ-am, con Bơ-o,
sấm
ngôn của người mắt vẫn mở.
16
Sấm
ngôn của người nghe các lời Thiên Chúa,
và
biết những tư tưởng của Ðấng Tối Cao,
được
Ðấng Toàn Năng cho nhìn linh thị,
của
người ngủ mà mắt vẫn mở trong lúc xuất thần.
17
Tôi
thấy nó, nhưng bây giờ chưa phải lúc,
tôi
nhìn, nhưng chưa thấy nó kề bên;
một
vì sao xuất hiện từ Gia-cóp,
một
vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en
sẽ
đập vào màng tang Mô-áp, đánh vỡ sọ tất cả con cái Sết,
18
và
xâm chiếm Ê-đôm,
cả
Xê-ia cũng bị xâm chiếm nữa.
Ít-ra-en
sẽ biểu dương sức mạnh,
19
Gia-cóp
sẽ thống trị quân thù,
và
tiêu diệt kẻ trốn khỏi thành phố."
20
Khi
thấy A-ma-lếch, ông cất tiếng đọc câu thơ như sau:
"A-ma-lếch
đứng đầu chư dân
nhưng
hậu vận nó sẽ muôn đời tận tuyệt."
21
Khi
thấy người Kê-ni, ông cất tiếng đọc câu thơ như sau:
"Hiện
nay dinh thự ngươi kiên cố,
và
tổ ấm ngươi được đặt trên đá tảng.
22
Nhưng
Ca-in sẽ phải tiêu vong,
ngươi
sẽ bị Át-sua cầm tù, biết đến khi nao? "
23
Và
ông cất tiếng đọc câu thơ như sau:
"Ôi,
khi Thiên Chúa ra tay, ai nào sống nổi!
24
Tàu
bè từ Kít-tim đến, đàn áp Át-sua, đàn áp Ê-ve,
nhưng
chính nó cũng muôn đời tận tuyệt."
25
Sau
đó ông Bi-lơ-am đứng dậy lên đường về xứ, còn vua Ba-lác cũng đường mình mà đi.
Chương 25
Ít-ra-en
tại Pơ-o
1
Khi
trú ngụ tại Sít-tim, dân Ít-ra-en bắt đầu dâm đãng với gái Mô-áp. 2 Bọn
này rủ rê dân thờ cúng các thần của chúng; dân đã ăn uống và thờ lạy các thần
của chúng. 3 Ít-ra-en bán mình cho Ba-an Pơ-o và Ðức Chúa nổi cơn
thịnh nộ với họ.
4
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đem tất cả các thủ lãnh của dân ra ngoài
nắng mà treo lên trước mặt Ðức Chúa, để Ðức Chúa nguôi cơn thịnh nộ với
Ít-ra-en.” 5 Ông Mô-sê nói với các thẩm phán: "Mỗi người trong
anh em hãy giết những kẻ đã bán mình cho Ba-an Pơ-o."
6
Bỗng
một người trong số con cái Ít-ra-en xuất hiện, dẫn theo một gái Ma-đi-an về
nhà, ngay trước mắt ông Mô-sê và toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en lúc ấy
đang khóc lóc tại cửa Lều Hội Ngộ. 7 Thấy vậy, ông Pin-khát, con của
E-la-da, cháu tư tế A-ha-ron, liền đứng lên giữa cộng đồng, cầm một chiếc giáo
trong tay, 8 đi theo người Ít-ra-en vào tận phòng hắn và đâm cả hai
người, gã đàn ông Ít-ra-en và mụ đàn bà kia ngay giữa bụng. Thế là chấm dứt tai
ương đe doạ con cái Ít-ra-en. 9 Số người chết trong tai ương đó, là
24,000.
10
Ðức
Chúa phán bảo ông Mô-sê rằng: 11 "Pin-khát con của E-la-da,
cháu tư tế A-ha-ron, đã ngăn Ta trút cơn phẫn nộ xuống con cái Ít-ra-en, khi nó
cũng nổi ghen như Ta, chống lại bọn người kia. Vì vậy Ta không tiêu diệt con
cái Ít-ra-en trong cơn ghen của Ta. 12 Cho nên, ngươi hãy bảo nó:
Này, Ta ban cho nó giao ước bình an của Ta. 13 Ðối với nó, cũng như
con cháu nó sau này, đó sẽ là giao ước bảo đảm cho nó chức tư tế đời đời, bởi
vì nó đã nổi ghen cho Thiên Chúa của nó, và làm cho con cái Ít-ra-en được xá
tội."
14
Người
Ít-ra-en đã bị đâm cùng với người đàn bà Ma-đi-an tên là Dim-ri, con của Xa-lu,
đứng đầu một gia tộc thuộc Si-mê-ôn. 15 Và người đàn bà Ma-đi-an bị
đâm tên là Cót-bi, con gái ông Xua, ông này là thủ lãnh các dòng họ một gia tộc
Ma-đi-an.
16
Ðức
Chúa phán bảo ông Mô-sê rằng: 17 "Hãy tấn công quân Ma-đi-an và
giết chúng đi. 18 Vì chúng đã tấn công các ngươi, và dùng mưu mô quỷ
quyệt đối với các ngươi trong vụ Pơ-o và vụ Cót-bi, con gái một thủ lãnh
Ma-đi-an, chị em của chúng, kẻ đã bị đâm chết ngày xảy ra tai ương trong vụ
Pơ-o."
VIII.
Quy Ðịnh Mới
Kiểm
tra
19
Sau
tai ương đó,
Chương 26
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông E-la-da, con tư tế A-ha-ron rằng: 2 "Các
ngươi hãy kiểm tra toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, từ hai mươi tuổi trở
lên, nghĩa là mọi người đến tuổi nhập ngũ trong dân Ít-ra-en.” 3 Ông
Mô-sê và tư tế E-la-da đã kiểm tra tại thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối
diện với Giê-ri-khô, 4 những người từ hai mươi tuổi trở lên, như Ðức
Chúa đã truyền cho ông Mô-sê và con cái Ít-ra-en, khi họ đã ra khỏi đất Ai-cập.
5
Rưu-vên,
trưởng nam của Ít-ra-en. Con cái Rưu-vên: Kha-nốc, thủy tổ thị tộc Kha-nốc;
Pa-lu, thủy tổ thị tộc Pa-lu; 6 Khét-rôn, thủy tổ thị tộc Khét-rôn;
Các-mi, thủy tổ thị tộc Các-mi. 7 Ðó là các thị tộc thuộc chi tộc Rưu-vên.
Tổng số người được kiểm là 43,730.
8
Con
cháu Pa-lu: Ê-li-áp. 9 Các con Ê-li-áp là Nơ-mu-ên, Ða-than và
A-vi-ram. Chính Ða-than và A-vi-ram, những người được chỉ định trong cộng đồng,
đã nổi lên chống ông Mô-sê và ông A-ha-ron, cùng toa rập với Cô-rắc chống lại
Ðức Chúa. 10 Ðất đã mở họng nuốt chửng chúng và Cô-rắc, khiến cả bọn
phải tiêu vong, và lửa đã thiêu huỷ 250 mạng để làm gương. 11 Thế
nhưng con cái Cô-rắc đã không chết.
12
Con
cháu Si-mê-ôn, theo thị tộc của họ: Nơ-mu-ên, thủy tổ thị tộc Nơ-mu-ên;
Gia-min, thủy tổ thị tộc Gia-min; Gia-khin, thủy tổ thị tộc Gia-khin; 13 De-rác,
thủy tổ thị tộc De-rác; Sa-un, thủy tổ thị tộc Sa-un. 14 Ðó là các
thị tộc thuộc chi tộc Si-mê-ôn, số người được kiểm tra là 22,000.
15
Con
cháu Gát, theo thị tộc của họ: Xơ-phôn, thủy tổ thị tộc Xơ-phôn; Khác-ghi, thủy
tổ thị tộc Khác-ghi; Su-ni, thủy tổ thị tộc Su-ni; 16 Ót-ni, thủy tổ
thị tộc Ót-ni; Ê-ri, thủy tổ thị tộc Ê-ri; 17 A-rốt, thủy tổ thị tộc
A-rốt; Ác-ê-li, thủy tổ thị tộc Ác-ê-li. 18 Ðó là các thị tộc con cháu
Gát, số người được kiểm tra là 40,500.
19
Các
con Giu-đa là E và Ô-nan, nhưng E và Ô-nan chết trong đất Ca-na-an. 20 Con
cháu Giu-đa theo thị tộc: Sê-la, thủy tổ thị tộc Sê-la; Pe-rét, thủy tổ thị tộc
Pe-rét; De-rác, thủy tổ thị tộc De-rác. 21 Con cháu Pe-rét:
Khét-rôn, thủy tổ thị tộc Khét-rôn; Kha-mun, thủy tổ thị tộc Kha-mun. 22 Ðó
là các thị tộc thuộc chi tộc Giu-đa, số người được kiểm tra là 76,500.
23
Con
cháu Ít-xa-kha theo thị tộc của họ: Tô-la, thủy tổ thị tộc Tô-la; Pu-va, thủy
tổ thị tộc Pu-va; 24 Gia-súp, thủy tổ thị tộc Gia-súp; Sim-rôn, thủy
tổ thị tộc Sim-rôn. 25 Ðó là các thị tộc thuộc chi tộc Ít-xa-kha, số
người được kiểm tra là 64,300.
26
Con
cháu Dơ-vu-lun theo thị tộc của họ: Xe-rét, thủy tổ thị tộc Xe-rét; Ê-lôn, thủy
tổ thị tộc Ê-lôn; Giác-lơ-ên, thủy tổ thị tộc Giác-lơ-ên. 27 Ðó là
các thị tộc thuộc chi tộc Dơ-vu-lun, số người được kiểm tra là 60,500.
28
Con
cái Giu-se, theo chi tộc họ: Mơ-na-se và Ép-ra-im. 29 Con cháu
Mơ-na-se: Ma-khia, thủy tổ thị tộc Ma-khia; Ma-khia sinh Ga-la-át: Ga-la-át,
thủy tổ thị tộc Ga-la-át. 30 Ðây là con cái Ga-la-át: I-e-de, thủy
tổ thị tộc I-e-de; Khê-léc, thủy tổ thị tộc Khê-léc. 31 Át-ri-ên,
thủy tổ thị tộc Át-ri-ên; Se-khem, thủy tổ thị tộc Se-khem. 32 Sơ-mi-đa,
thủy tổ thị tộc Sơ-mi-đa; Khê-phe, thủy tổ thị tộc Khê-phe. 33 Xơ-lóp-khát,
con của Khê-phe, không có con trai, chỉ có con gái, và đây là tên các con gái
của Xơ-lóp-khát: Mác-la, Nô-a, Khoóc-la, Min-ca và Tia-xa. 34 Ðó là
các thị tộc thuộc chi tộc Mơ-na-se; số người được kiểm tra là 52,700.
35
Ðây
là con cháu Ép-ra-im, theo thị tộc của họ: Su-the-lác, thủy tổ thị tộc
Su-the-lác; Be-khe, thủy tổ thị tộc Be-khe; Ta-khan, thủy tổ thị tộc Ta-khan. 36
Và đây là các con cháu Su-the-lác: Ê-ran, thủy tổ thị tộc Ê-ran. 37 Ðó
là các thị tộc con cháu Ép-ra-im, số người được kiểm tra là 32,500. Những người
ấy là con cháu Giu-se, theo các thị tộc.
38
Con
cháu Ben-gia-min theo thị tộc của họ: Be-la, thủy tổ thị tộc Be-la; Át-bên,
thủy tổ thị tộc Át-bên; A-khi-ram, thủy tổ thị tộc A-khi-ram. 39 Sơ-phu-pham,
thủy tổ thị tộc Sơ-phu-pham; Khu-pham, thủy tổ thị tộc Khu-pham. 40 Các
con của Be-la là: Ác-đơ và Na-a-man; Ác-đơ, thủy tổ thị tộc Ác-đơ; Na-a-man,
thủy tổ thị tộc Na-a-man. 41 Ðó là các thị tộc con cháu Ben-gia-min;
số người được kiểm tra là 45,600.
42
Ðây
là con cháu Ðan theo thị tộc của họ: Su-kham, thủy tổ thị tộc Su-kham. Ðó là
các thị tộc thuộc chi tộc Ðan được kiểm tra. 43 Tất cả các thị tộc
thuộc Su-kham được kiểm tra, số người là 64,400.
44
Con
cháu A-se theo thị tộc của họ: Gim-na, thủy tổ thị tộc Gim-na; Gít-vi, thủy tổ
thị tộc Gít-vi; Bơ-ri-a, thủy tổ thị tộc Bơ-ri-a. 45 Thuộc con cháu
Bơ-ri-a: Khe-ve, thủy tổ thị tộc Khe-ve; Man-ki-ên, thủy tổ thị tộc Man-ki-ên. 46
Tên người con gái của A-se là Xa-rác. 47 Ðó là các thị tộc con
cháu A-se; số người được kiểm tra là 53,400.
48
Con
cháu Náp-ta-li theo thị tộc của họ: Giác-xơ-ên, thủy tổ thị tộc Giác-xơ-ên;
Gu-ni, thủy tổ thị tộc Gu-ni. 49 Giê-xe, thủy tổ thị tộc Giê-xe;
Si-lêm, thủy tổ thị tộc Si-lêm. 50 Ðó là các thị tộc Náp-ta-li, theo
các thị tộc của họ; số người được kiểm tra là 45,400.
51
Ðây
tổng số con cái Ít-ra-en là 601,730.
52
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 53 "Ðất đai sẽ được phân chia cho
những người ấy theo số tên đã ghi. 54 Ðông người thì ngươi sẽ chia
cho phần lớn hơn làm gia nghiệp, và ít người thì ngươi sẽ chia cho phần nhỏ hơn
làm gia nghiệp; ngươi sẽ cho mỗi chi tộc phần gia nghiệp tương xứng với số
người đã được kiểm tra. 55 Nhưng phải bắt thăm để chia đất. Theo tên
các chi tộc tổ tiên của chúng mà lãnh phần. 56 Cứ bắt thăm mà lãnh,
tuỳ theo đông người hay ít người."
Kiểm
tra các thầy Lê-vi
57
Ðây
là các thầy Lê-vi đã được kiểm tra theo thị tộc của họ: Ghéc-sôn, thủy tổ thị
tộc Ghéc-sôn; Cơ-hát, thủy tổ thị tộc Cơ-hát; Mơ-ra-ri, thủy tổ thị tộc
Mơ-ra-ri.
58
Ðây
là các thị tộc thuộc chi tộc Lê-vi: Thị tộc Líp-ni, thị tộc Khép-rôn, thị tộc
Mác-li, thị tộc Mu-si, thị tộc Cô-rắc.
59
Tên
người vợ của Am-ram là Giô-khe-vét, con gái ông Lê-vi, ông đã sinh bên Ai-cập.
Bà đã sinh cho ông Am-ram: A-ha-ron, Mô-sê và người em gái là Mi-ri-am. 60
Ông A-ha-ron sinh ra Na-đáp, A-vi-hu, E-la-da, và I-tha-ma. 61 Na-đáp
và A-vi-hu đã chết khi họ dâng lửa phàm trước nhan Ðức Chúa.
62
Số
người Lê-vi được kiểm tra, tất cả con trai từ một tháng trở lên, là 23,000 bởi
họ đã không được kiểm tra chung với con cái Ít-ra-en, vì không được chung phần
gia nghiệp.
63
Ðó
là những người được ông Mô-sê và tư tế E-la-da kiểm tra, khi các ông kiểm tra
con cái Ít-ra-en trong thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối diện với
Giê-ri-khô. 64 Không ai trong những người ấy đã được ông Mô-sê và tư
tế A-ha-ron kiểm tra, khi các ông kiểm tra con cái Ít-ra-en trong sa mạc Xi-nai.
65 Vì, về những người này, Ðức Chúa đã phán là họ sẽ phải chết trong
sa mạc. Bởi vậy, trừ ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, và trừ ông Giô-suê, con
ông Nun, thì không còn ai nữa.
Chương 27
Gia
tài cho con gái
1
Bấy
giờ các con gái của ông Xơ-lóp-khát tiến đến. Ông này là con ông Khê-phe, cháu
ông Ga-la-át, chắt ông Ma-khia, chít ông Mơ-na-se, thuộc chi tộc ông Giu-se. Và
đây là tên các cô gái đó: Mác-la, Nô-a, Khoóc-la, Min-ca và Tia-xa. 2 Họ
đứng trước mặt ông Mô-sê, trước mặt tư tế E-la-da, trước mặt các thủ lãnh và
toàn thể cộng đồng, ở cửa Lều Hội Ngộ, và nói: 3 "Cha chúng tôi
đã mất trong sa mạc. Người đã không có chân trong nhóm những kẻ toa rập với
nhau chống lại Ðức Chúa, tức là nhóm Cô-rắc. Chỉ vì tội riêng mình mà người đã
mất đi, khi chưa có con trai. 4 Tại sao cha chúng tôi lại bị xoá tên
khỏi thị tộc của người, vì người không có con trai? Xin cho chúng tôi một phần
đất giữa các anh em của cha chúng tôi."
5
Ông
Mô-sê trình lên Ðức Chúa trường hợp của họ. 6 Ðức Chúa phán với ông
Mô-sê: 7 "Các con gái của Xơ-lóp-khát nói có lý. Ngươi phải cho
chúng một phần đất làm gia nghiệp giữa các anh em của cha chúng; ngươi sẽ
chuyển cho chúng gia nghiệp của cha chúng. 8 Và ngươi sẽ nói với con
cái Ít-ra-en: "Khi một người nào chết mà không có trai, thì anh em sẽ
chuyển gia nghiệp của người đó cho con gái người đó. 9 Nếu người đó
không có con gái, anh em sẽ trao gia nghiệp cho anh em của người đó. 10 Nếu
người đó không có anh em, thì sẽ trao gia nghiệp cho anh em của cha người đó. 11
Còn nếu cha người đó không có anh em, thì sẽ trao gia nghiệp cho thân
nhân gần nhất trong thị tộc; người này sẽ làm chủ gia nghiệp đó. Ðối với con
cái Ít-ra-en, đó sẽ là một quy tắc pháp lý, như Ðức Chúa đã truyền cho ông
Mô-sê."
Ông
Giô-suê làm thủ lãnh cộng đồng
12
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy lên ngọn núi kia của dãy A-va-rim, và
hãy nhìn xem miền đất mà Ta ban cho con cái Ít-ra-en. 13 Khi đã nhìn
xem rồi, ngươi cũng sẽ về sum họp với gia tiên, như A-ha-ron anh ngươi, 14
vì ở sa mạc Xin, trong lúc cộng đồng chống đối Ta, các ngươi đã chống lại
lệnh Ta truyền làm cho nước chảy ra để tỏ bày sự thánh thiện của Ta trước mắt
chúng. Ðó là vụ nước Mơ-ri-va ở Ca-đê, trong sa mạc Xin."
15
Ông
Mô-sê thưa với Ðức Chúa: 16 "Ước gì Ðức Chúa, là Thiên Chúa ban
sinh khí cho mọi xác phàm, đặt một người lãnh đạo cộng đồng. 17 Người
ấy sẽ ra vào trước họ và dẫn họ ra vào, để cộng đồng của Ðức Chúa đừng giống
như đàn chiên không có mục tử chăn dắt.” 18 Ðức Chúa phán với ông
Mô-sê: "Ngươi hãy đem theo Giô-suê, con của Nun, là người có thần khí nơi
mình, và ngươi sẽ đặt tay trên nó. 19 Ngươi sẽ cho nó đứng trước mặt
tư tế E-la-da và trước mặt toàn thể cộng đồng. Ngươi sẽ truyền lệnh cho nó trước
mắt chúng. 20 Ngươi sẽ chia cho nó một phần uy quyền của ngươi, để
toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en nghe lời nó. 21 Nó sẽ đứng trước
mặt tư tế E-la-da. Tư tế sẽ đến trước nhan Ðức Chúa mà xin thẻ xăm u-rim cho
nó. Theo lệnh của tư tế, toàn thể cộng đồng, nghĩa là nó và mọi con cái
Ít-ra-en, sẽ ra sẽ vào."
22
Ông
Mô-sê đã làm như Ðức Chúa truyền cho ông: Ông đã đem theo Giô-suê và cho ông
này đứng trước mặt tư tế E-la-da và trước mặt toàn thể cộng đồng. 23 Ông
đặt tay trên ông Giô-suê và ra lệnh cho ông ấy như Ðức Chúa đã dùng ông Mô-sê
mà phán.
Chương 28
Xác
định về các hy lễ
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Hãy ra lệnh cho con cái Ít-ra-en,
và nói với chúng lời của Ta:
Vào
đúng thời đúng buổi, các ngươi sẽ chăm lo dâng lên Ta lễ vật, lương thực, dưới
hình thức hoả tế nghi ngút hương thơm, làm thoả lòng Ta.
3
Ngươi
sẽ nói với chúng: Ðây là lễ hoả tế anh em sẽ dâng Ðức Chúa.
A.
Hy lễ thường nhật (Xh 29 :38-46)
Mỗi
ngày phải dâng làm lễ vật toàn thiêu thường tiến hai con chiên một tuổi, toàn
vẹn, 4 một con vào lúc sáng, một con vào lúc chập tối. 5 Ngoài
ra ngươi sẽ dâng bốn lít rưỡi tinh bột lúa miến nhào với hai lít dầu ô-liu giã
trong cối. 6 Ðó là lễ toàn thiêu thường tiến dâng trên núi Xi-nai,
lễ vật nghi ngút hương thơm làm thoả lòng Ðức Chúa; đó là lễ hoả tế dâng Người.
7 Số lượng rượu tế dâng cùng với con chiên thứ nhất là hai lít;
người ta sẽ đổ rượu nồng dâng Ðức Chúa, trong nơi thánh. 8 Còn con
chiên thứ hai, ngươi sẽ dâng vào lúc chập tối, cùng với lễ phẩm và rượu tế như
ban sáng: đó là lễ hoả tế, hương thơm dâng Ðức Chúa, làm thoả lòng Người.
B.
Ngày sa-bát
9
Ngày
sa-bát, các ngươi sẽ dâng hai con chiên một tuổi, toàn vẹn, cùng với chín lít
tinh bột lúa miến nhào với dầu làm lễ phẩm, kèm theo rượu tế. 10 Ðó
là lễ toàn thiêu của ngày sa-bát, riêng cho mỗi ngày sa-bát, không kể lễ toàn
thiêu thường xuyên và lễ tưới rượu.
C.
Ngày sóc
11
Hàng
tháng, vào ngày sóc, các ngươi sẽ dâng lên Ðức Chúa làm lễ toàn thiêu: hai con
bò tơ, một con cừu đực, bảy chiên một tuổi, toàn vẹn. 12 Khi dâng
mỗi con bò, thì phải dâng mười ba lít rưỡi tinh bột lúa miến nhào với dầu làm
lễ phẩm; khi dâng con cừu đực độc nhất, thì phải dâng chín lít tinh bột lúa
miến nhào với dầu làm lễ phẩm. 13 Mỗi lần dâng một con chiên, thì
phải dâng bốn lít rưỡi tinh bột lúa miến nhào với dầu làm lễ phẩm: đó là lễ
toàn thiêu, là lễ vật nghi ngút hương thơm, làm thoả lòng Ðức Chúa, là lễ hoả
tế dâng Người. 14 Số lượng rượu tế dâng cùng với con bò sẽ là bốn
lít, cùng với con cừu đực là hai lít rưỡi, và cùng với con chiên là hai lít. Ðó
sẽ là lễ toàn thiêu phải dâng tháng này qua tháng nọ, tất cả mọi tháng trong
năm. 15 Không kể lễ toàn thiêu thường tiến, còn phải dâng Ðức Chúa
một con cừu đực làm lễ tạ tội, kèm theo lễ tưới rượu.
D.
Lễ bánh không men (Lv 23 :5-8)
16
Ngày
mười bốn tháng giêng, sẽ cử hành lễ Vượt Qua kính Ðức Chúa, 17 và
ngày mười lăm tháng ấy sẽ là một ngày lễ. Trong bảy ngày, người ta sẽ ăn bánh
không men. 18 Ngày thứ nhất sẽ phải tập hợp để thờ phượng Ðức Chúa,
anh em không được làm một việc nặng nhọc nào. 19 Anh em sẽ dâng hoả
tế làm lễ toàn thiêu kính Ðức Chúa: hai bò tơ, một cừu đực và bảy con chiên một
tuổi; anh em phải chọn những con toàn vẹn. 20 Phải dâng tinh bột lúa
miến nhào với dầu làm lễ phẩm: khi dâng mỗi con bò thì dâng mười ba lít rưỡi,
khi dâng con cừu đực thì dâng chín lít; 21 mỗi lần dâng một con
chiên trong số bảy con, thì dâng bốn lít rưỡi. 22 Cũng phải dâng một
con dê đực làm lễ vật tạ tội, để cử hành nghi lễ xá tội cho anh em. 23 Anh
em sẽ dâng những lễ vật đó, không kể lễ toàn thiêu ban sáng là một phần lễ toàn
thiêu thường tiến. 24 Anh em sẽ dâng như thế mỗi ngày trong suốt bảy
ngày: đó là lương thực, là hoả tế, là lễ vật nghi ngút hương thơm, làm thoả
lòng Ðức Chúa, kèm theo lễ toàn thiêu thường tiến và lễ tưới rượu. 25 Ngày
thứ bảy, anh em sẽ phải tập hợp để thờ phượng Ðức Chúa, anh em không được làm
một việc nặng nhọc nào.
Ð.
Lễ các tuần (Lv 23 :15-22)
26
Ngày
hoa trái đầu mùa, khi dâng tiến Ðức Chúa lễ phẩm mới vào lễ các Tuần, anh em sẽ
phải tập hợp để thờ phượng Ðức Chúa, anh em không được làm một việc nặng nhọc
nào. 27 Anh em sẽ dâng lễ vật toàn thiêu nghi ngút hương thơm, làm
thoả lòng Ðức Chúa: hai con bò tơ, một con cừu đực, bảy con chiên một tuổi. 28
Phải dâng tinh bột lúa miến nhào dầu làm lễ phẩm: khi dâng mỗi con bò thì
dâng mười ba lít rưỡi, khi dâng con cừu đực độc nhất thì dâng chín lít, 29
mỗi lần dâng một con chiên trong số bảy con, thì dâng bốn lít rưỡi. 30
Cũng phải dâng một con dê đực để cử hành lễ xá tội cho anh em. 31 Anh
em sẽ dâng những lễ vật đó, không kể lễ toàn thiêu thường tiến và lễ phẩm của
lễ đó; anh em phải chọn những con vật toàn vẹn; anh em sẽ dâng các lễ vật đó
kèm theo rượu tế.
Chương 29
E.
Ngày hò reo (Lv 23:23-25)
1
Ngày
mồng một tháng bảy, anh em sẽ phải tập hợp để thờ phượng Ðức Chúa; anh em không
được làm một việc nặng nhọc nào: đối với anh em, đó sẽ là ngày Hò reo. 2 Anh
em sẽ dâng lễ toàn thiêu như hương thơm làm thoả lòng Ðức Chúa: một bò tơ, một
cừu đực, bảy con chiên một tuổi, toàn vẹn. 3 Phải dâng tinh bột lúa
miến nhào dầu làm lễ phẩm: khi dâng con bò, thì dâng mười ba lít rưỡi; khi dâng
con cừu đực thì dâng chín lít, 4 và khi dâng mỗi con chiên trong số
bảy con, thì dâng bốn lít rưỡi. 5 Anh em cũng phải dâng một con cừu
đực làm lễ tạ tội, để cử hành lễ xá tội cho anh em. 6 Ấy là không kể
lễ toàn thiêu dâng mỗi tháng với lễ phẩm, lễ toàn thiêu thường tiến với lễ
phẩm, và các lễ tưới rượu như luật định. Ðó là những lễ toàn thiêu như hương
thơm làm thoả lòng Ðức Chúa, là lễ hoả tế kính Người.
G.
Ngày xá tội (Lv 23 :26-32)
7
Ngày
mồng mười tháng bảy đó, anh em sẽ phải tập hợp để thờ phượng Ðức Chúa; anh em
phải ăn chay hãm mình và không được làm một công việc tay chân nặng nhọc nào. 8
Anh em sẽ dâng lên Ðức Chúa lễ toàn thiêu như hương thơm làm thoả lòng
Người: một bò tơ, một cừu đực, bảy con chiên một tuổi; anh em phải chọn những
con toàn vẹn. 9 Phải dâng tinh bột lúa miến nhào dầu làm lễ phẩm:
khi dâng con bò, thì dâng mười ba lít rưỡi; khi dâng con cừu đực độc nhất, thì
dâng chín lít; 10 khi dâng mỗi con chiên trong số bảy con, thì dâng
mỗi lần bốn lít rưỡi. 11 Anh em sẽ phải dâng một con dê đực làm lễ
tạ tội, không kể lễ tạ tội dâng vào ngày xá tội, lễ toàn thiêu thường tiến,
cũng như lễ phẩm và các thứ rượu tế.
H.
Lễ lều (Lv 23 :33-44)
12
Ngày
rằm tháng bảy, anh em phải tập hợp để thờ phượng Ðức Chúa; anh em không được
làm một việc nặng nhọc nào, và phải mừng lễ kính Ðức Chúa trong bảy ngày. 13
Anh em sẽ dâng lên Ðức Chúa lễ toàn thiêu, lễ hoả tế, như hương thơm làm
thoả lòng Người: mười ba bò tơ, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, những
con toàn vẹn. 14 Phải dâng tinh bột lúa miến nhào dầu làm lễ phẩm:
khi dâng mỗi con bò trong số mười ba con, thì dâng mười hai lít; khi dâng mỗi
con cừu đực trong số hai con thì dâng tám lít; 15 mỗi lần dâng một
con chiên trong số mười bốn con, thì dâng bốn lít. 16 Anh em cũng phải
dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến, lễ phẩm
và rượu tế.
17
Ngày
thứ hai thì dâng mười hai con bò tơ, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi,
toàn vẹn, 18 cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò tơ,
cừu đực và chiên, như luật định. 19 Cũng phải dâng một con dê đực
làm lễ tạ tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và các thứ
rượu tế.
20
Ngày
thứ ba thì dâng mười một bò, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn,
21 cùng với các lễ phẩm và rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên,
như luật định. 22 Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không
kể lễ toàn thiêu thường tiến cũng như lễ phẩm và rượu tế.
23
Ngày
thứ tư thì dâng mười bò, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn, 24
cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên, như
luật định. 25 Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể
lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và rượu tế.
26
Ngày
thứ năm thì dâng chín bò, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn, 27
cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên, như
luật định. 28 Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể
lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và rượu tế.
29
Ngày
thứ sáu thì dâng tám bò, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn, 30
cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên, như
luật định. 31 Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể
lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và rượu tế.
32
Ngày
thứ bảy thì dâng bảy bò, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn, 33
cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên, như
luật định. 34 Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể
lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và rượu tế.
35
Ngày
thứ tám, anh em sẽ có một cuộc họp long trọng, và không được làm một việc nặng
nhọc nào. 36 Anh em phải dâng lễ toàn thiêu, lễ hoả tế, như hương
thơm làm thoả lòng Ðức Chúa: một bò, một cừu đực, bảy con chiên một tuổi, toàn
vẹn, 37 cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò, cừu đực
và chiên, như luật định. 38 Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ
tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và rượu tế.
39
Ðó
là những gì anh em phải làm để kính Ðức Chúa trong các ngày lễ của anh em: các
lễ toàn thiêu, lễ phẩm, lễ tưới rượu và lễ kỳ an, không kể những lễ vật anh em
đã khấn hứa và những lễ vật tự nguyện."
Chương 30
1
Ông
Mô-sê đã nói với con cái Ít-ra-en như Ðức Chúa đã truyền cho ông.
Luật
về các lời khấn hứa
2
Ông
Mô-sê nói với các thủ lãnh các chi tộc con cái Ít-ra-en: "Ðây là điều Ðức
Chúa đã truyền:
3
Khi
người đàn ông nào khấn hứa với Ðức Chúa hay thề hứa tự buộc mình làm điều gì,
thì người ấy sẽ không được lỗi lời mình: người ấy phải thực hiện những gì miệng
đã nói ra.
4
Khi
một phụ nữ khấn hứa với Ðức Chúa và tự buộc mình làm điều gì, lúc thiếu thời
còn ở nhà cha, 5 và nếu cha người ấy nghe nói về lời khấn hứa và
điều người ấy tự buộc mình làm, mà ông vẫn im lặng, thì mọi lời khấn hứa của
người ấy có hiệu lực, và mọi điều người ấy tự buộc mình làm cũng đều có hiệu
lực. 6 Nhưng nếu cha người ấy phản đối ngay trong ngày ông nghe biết
được, thì mọi lời khấn hứa và mọi điều người ấy tự buộc mình làm, không có hiệu
lực. Ðức Chúa sẽ dung thứ cho người ấy, vì cha người ấy đã phản đối.
7
Nếu
người ấy đi lấy chồng, khi vẫn còn phải giữ những lời khấn hứa hay bị ràng buộc
bởi một lời hứa thiếu suy nghĩ nào miệng người ấy đã thốt ra, 8 và
nếu người chồng nghe biết được mà vẫn im lặng trong ngày nghe biết được chuyện
ấy, thì những lời khấn hứa của người phụ nữ ấy có hiệu lực, và những điều mà
người ấy tự buộc mình làm cũng đều có hiệu lực. 9 Nhưng nếu trong
ngày nghe biết được, chồng người ấy phản đối, thì anh ta huỷ bỏ lời khấn hứa
còn ràng buộc người vợ, và lời hứa thiếu suy nghĩ người vợ đã tự buộc mình phải
giữ, Ðức Chúa sẽ dung thứ cho người phụ nữ ấy.
10
Lời
khấn hứa của người đàn bà goá hoặc bị chồng bỏ, và mọi điều người ấy tự buộc
mình làm, đều có hiệu lực đối với người ấy.
11
Nếu
tại chính nhà chồng, một phụ nữ đã khấn hứa hoặc lấy lời thề tự buộc mình làm
điều gì, 12 và nếu người chồng nghe biết được mà vẫn im lặng, không
phản đối, thì mọi lời khấn hứa của người ấy có hiệu lực, và mọi điều người ấy
tự buộc mình làm cũng đều có hịệu lực. 13 Nhưng nếu người chồng huỷ
bỏ ngay trong ngày nghe biết, thì mọi điều miệng người vợ thốt ra khi khấn hứa
và tự buộc mình làm, sẽ không có hiệu lực: người chồng đã huỷ bỏ, thì Ðức Chúa
cũng dung thứ cho người phụ nữ ấy.
14
Người
chồng có thể chứng nhận là có hiệu lực, hay huỷ bỏ mọi lời người vợ khấn hứa và
thề tự buộc ăn chay hãm mình. 15 Nếu người chồng cứ im lặng cho đến
hôm sau, thì đó là chứng nhận mọi lời khấn hứa của vợ hoặc mọi điều người vợ tự
buộc mình làm có hiệu lực; người chồng chứng nhận là có hiệu lực, vì đã im lặng
trong ngày nghe biết được. 16 Nhưng nếu người chồng huỷ bỏ các điều
ấy sau khi nghe biết, thì sẽ phải mang lấy tội của vợ."
17
Ðó
là những quy luật Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê về mối tương quan giữa chồng
và vợ, giữa cha và con gái lúc thiếu thời còn ở nhà cha.
Chương 31
IX.
Phân Chia Chiến Lợi Phẩm Và Ðất Ðai
Thánh
chiến chống Ma-đi-an
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Hãy trả thù người Ma-đi-an cho con
cái Ít-ra-en, rồi ngươi sẽ về sum họp với gia tiên ngươi."
3
Ông
Mô-sê nói với dân: "Một số người trong anh em hãy chuẩn bị sẵn sàng để ra
trận tiến đánh Ma-đi-an, để trả thù dân ấy cho Ðức Chúa. 4 Anh em sẽ
sai người ra trận; cứ mỗi chi tộc trong các chi tộc Ít-ra-en, thì lấy một ngàn
người."
5
Trong
số ngàn vạn người Ít-ra-en, người ta tuyển mộ mỗi chi tộc một ngàn người, tức
là mười hai ngàn người được chuẩn bị sẵn sàng để ra trận. 6 Ông
Mô-sê sai họ ra trận, mỗi chi tộc một ngàn người; cùng ra trận với họ, có ông
Pin-khát, con của tư tế E-la-da, tay cầm các đồ thánh và kèn thúc quân.
7
Họ
đã ra trận, tiến đánh Ma-đi-an, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê, và họ
giết tất cả đàn ông con trai. 8 Ngoài những người đã bị sát hại đó,
họ còn giết các vua Ma-đi-an: E-vi, Re-kem, Xua, Khua, Re-va, là năm vua
Ma-đi-an; rồi họ dùng gươm giết ông Bi-lơ-am, con ông Bơ-o. 9 Con
cái Ít-ra-en bắt phụ nữ Ma-đi-an và con cái chúng làm tù nhân; họ đã lấy mọi
thú vật, mọi súc vật và mọi của cải chúng làm chiến lợi phẩm. 10 Họ
nổi lửa đốt tất cả các thành dân đó ở và mọi lều trại của chúng. 11 Sau
đó họ lấy mọi chiến lợi phẩm và tất cả những gì họ chiếm được, cả người lẫn thú
vật, 12 rồi đem các tù nhân và những gì đã chiếm được cũng như chiến
lợi phẩm về trại, về vùng thảo nguyên Mô-áp gần sông Gio-đan, đối diện với
Giê-ri-khô, để nộp cho ông Mô-sê, cho tư tế E-la-da và cộng đồng con cái
Ít-ra-en.
Tàn
sát phụ nữ và thanh tẩy chiến lợi phẩm
13
Ông
Mô-sê, tư tế E-la-da và mọi thủ lãnh của cộng đồng ra gặp họ ở ngoài trại. 14
Ông Mô-sê nổi giận với các tướng lãnh, với các vị chỉ huy một ngàn quân và
các vị chỉ huy một trăm quân đi trận trở về. 15 Ông Mô-sê nói với
họ: "Sao anh em lại để cho cả bọn đàn bà này sống? 16 Chính bọn chúng đã
nghe lời Bi-lơ-am, mà lôi cuốn con cái Ít-ra-en phạm tội bất trung với Ðức Chúa
trong vụ Pơ-o, nên tai hoạ đã giáng xuống cộng đồng của Ðức Chúa. 17 Vậy
bây giờ, hãy giết hết các con trai, cũng như mọi phụ nữ đã biết đến việc vợ
chồng, đã ăn ở với đàn ông. 18 Còn mọi con gái nhỏ tuổi chưa ăn ở
với đàn ông, thì hãy để cho chúng sống và thuộc về anh em. 19 Về
phần anh em, ai đã giết người, ai đã đụng tới người bị sát hại, hãy đóng quân
ngoài trại trong bảy ngày. Anh em cũng như các tù nhân đều phải thanh tẩy mình
vào ngày thứ ba và thứ bảy. 20 Anh em phải thanh tẩy mọi quần áo,
mọi đồ bằng da, mọi sản phẩm bằng lông dê và mọi đồ gỗ."
21
Tư
tế E-la-da nói với các binh lính đã đi chiến đấu: "Ðây là quy tắc pháp
luật Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê: 22 Chỉ có vàng, bạc, đồng,
sắt, thiếc, chì, 23 nghĩa là tất cả những gì chịu được lửa, anh em
mới phải cho qua lửa để các vật ấy được sạch; tuy nhiên, các vật ấy phải được
thanh tẩy bằng nước tẩy uế. Tất cả những gì không chịu được lửa, thì anh em
phải nhúng vào nước.
24
Anh
em phải giặt quần áo ngày thứ bảy và anh em sẽ được sạch, rồi sau đó mới trở
vào trại."
Phân
chia chiến lợi phẩm
25
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 26 "Cùng với tư tế E-la-da và các gia
trưởng trong cộng đồng, ngươi hãy làm sổ kê khai những gì đã lấy được, đã bắt
được, người cũng như súc vật. 27 Rồi ngươi hãy chia những gì đã lấy
được: một nửa cho các chiến sĩ đã ra trận và một nửa cho toàn thể cộng đồng. 28
Sau đó, từ phần dành cho các chiến sĩ đã ra trận, ngươi sẽ trích ra một
phần năm trăm số người, bò bê, lừa và chiên cừu, để làm thuế nộp cho Ðức Chúa. 29
Anh em sẽ lấy phần đó trong phần dành cho các chiến sĩ mà trao cho tư tế
E-la-da, làm phần trích dâng Ðức Chúa. 30 Còn trong phần dành cho
con cái Ít-ra-en, ngươi sẽ chọn lấy một phần năm mươi số người, bò bê, lừa,
chiên dê, mọi thú vật, rồi trao cho các thầy Lê-vi có nhiệm vụ canh giữ Nhà Tạm
của Ðức Chúa."
31
Ông
Mô-sê và tư tế E-la-da làm như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 32 Những
của đoạt được, những phần còn lại của chiến lợi phẩm mà các người tham chiến đã
chiếm lấy, là 675,000 chiên dê, 33 72,000 bò bê, 34 61,000
con lừa, 35 và nhân mạng, tức là những phụ nữ chưa ăn ở với đàn ông,
tất cả là 32,000 người. 36 Một nửa phần chiến lợi phẩm chia cho các
người đã ra trận là: 337,500 chiên dê, 37 trong số đó, thuế nộp cho
Ðức Chúa là 675 con; 38 36,000 bò bê, trong số đó, thuế nộp cho Ðức
Chúa là 72 con; 39 30,500 con lừa, trong số đó, thuế nộp cho Ðức
Chúa là 61 con; 40 16,000 nhân mạng, trong số đó, thuế nộp cho Ðức
Chúa là 32 mạng. 41 Ông Mô-sê đã trao cho tư tế E-la-da phần trích
dâng Ðức Chúa, như Người truyền cho ông Mô-sê.
42
Còn
nửa phần chiến lợi phẩm kia được chia cho con cái Ít-ra-en, ông Mô-sê đã tách
ra khỏi phần chia cho các người đã ra trận; 43 nửa phần đó thuộc về
cộng đồng, gồm có 337,500 chiên dê, 44 36,000 bò bê, 45 30,500
con lừa, 46 16,000 nhân mạng. 47 Trong nửa phần đã chia
cho con cái Ít-ra-en, ông Mô-sê chọn lấy một phần năm mươi số người và thú vật,
rồi trao cho các thầy Lê-vi có nhiệm vụ canh giữ Nhà Tạm của Ðức Chúa, như
Người truyền cho ông Mô-sê.
Các
lễ phẩm
48
Bấy
giờ, các tướng lãnh, các vị chỉ huy một ngàn quân và các vị chỉ huy một trăm
quân đến gần ông ông Mô-sê 49 và nói: "Các tôi tớ ngài đã kiểm lại số
những người chiến đấu dưới quyền chúng tôi, và không thấy thiếu một người nào
cả. 50 Vậy chúng tôi đem những đồ bằng vàng mà mỗi người đã tìm
thấy, làm lễ tiến dâng lên Ðức Chúa, để cử hành lễ xá tội cho chúng tôi trước
nhan Ðức Chúa. Những đồ bằng vàng đó là vòng cổ tay, vòng cánh tay, nhẫn,
khuyên tai và kiềng.” 51 Ông Mô-sê và tư tế E-la-da đã nhận vàng họ
dâng và mọi đồ kim hoàn. 52 Tổng cộng số vàng họ đã trích ra để dâng
Ðức Chúa là một trăm bảy mươi ký, được các chỉ huy một ngàn quân và các vị chỉ
huy một trăm quân đem nộp.
53
Trước
đó, ai nấy trong quân đội đều đoạt phần chiến lợi phẩm cho mình. 54 Cho
nên, ông Mô-sê và tư tế E-la-da đã nhận vàng của các vị chỉ huy một ngàn quân
và một trăm quân, rồi mang đến Lều Hội Ngộ, làm kỷ vật tưởng nhớ con cái
Ít-ra-en trước nhan Ðức Chúa.
Chương 32
Phân
chia vùng bên kia sông Gio-đan (Ðnl 3:12-22)
1
Con
cái ông Rưu-vên và con cái ông Gát có nhiều đàn súc vật rất đông. Khi thấy rằng
vùng Gia-de và vùng Ga-la-át là nơi thuận lợi cho việc chăn nuôi súc vật, 2
họ đến thưa với ông Mô-sê, với tư tế E-la-da và các thủ lãnh cộng đồng: 3
"Các thành A-ta-rốt, Ði-vôn, Gia-de, Nim-ra, Khét-bôn, En-a-lê,
Xơ-vam, Nơ-vô và Bơ-ôn 4 là vùng đất Ðức Chúa đã đánh phạt trước cộng đồng
Ít-ra-en, là vùng đất nuôi được súc vật. Mà các tôi tớ ngài lại có súc vật.” 5
Họ nói tiếp: "Nếu chúng tôi được đẹp lòng ngài, thì xin ban cho các
tôi tớ ngài vùng đất này làm sở hữu. Xin đừng để chúng tôi phải đi qua sông Gio-đan."
6
Ông
Mô-sê nói với con cái ông Gát và con cái ông Rưu-vên: "Anh em của anh em
phải ra chiến trường, mà anh em thì ở lại đây hay sao? 7 Tại sao anh em làm cho
con cái Ít-ra-en phải nản lòng không muốn đi qua bên xứ mà Ðức Chúa đã ban cho
họ? 8 Cha ông anh em đã làm như thế, khi tôi sai họ đi từ Ca-đê Bác-nê-a để do
thám xứ đó. 9 Họ lên đến thung lũng Ét-côn; họ do thám xứ đó, rồi
làm cho con cái Ít-ra-en nản lòng, để họ không vào xứ mà Ðức Chúa đã ban cho họ.
10 Nên trong ngày đó, cơn thịnh nộ của Ðức Chúa bừng cháy; Người thề
rằng: 11 "Nếu ngày nào những người đã lên từ Ai-cập, hai mươi
tuổi trở lên, thấy đất mà Ta đã thề ban cho Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp...,
vì chúng đã không trọn tình đi theo Ta; 12 chỉ trừ Ca-lếp, con ông
Giơ-phun-ne, người Cơ-nát, và Giô-suê, con ông Nun, vì họ đã trọn tình đi theo
Ðức Chúa. 13 Cơn thịnh nộ của Ðức Chúa bừng lên phạt Ít-ra-en, và
Người đã bắt họ phải đi lang thang trong sa mạc bốn mươi năm, cho đến khi toàn
thể thế hệ đã làm sự dữ trước mắt Ðức Chúa đều chết hết. 14 Này đây,
hỡi nòi tội nhân, anh em thay thế cha ông mình mà nổi dậy, khiến cơn thịnh nộ
của Ðức Chúa đối với Ít-ra-en càng tăng lên! 15 Nếu anh em quay lưng lại với
Người, thì Người còn tiếp tục để Ít-ra-en lại trong sa mạc, và như thế, anh em
sẽ làm cho tất cả dân này bị tiêu diệt."
16
Họ
tiến đến gần ông Mô-sê và nói: "Chúng tôi sẽ làm ở đây bãi quây cho chiên
cừu của chúng tôi, và xây thành thị cho con em chúng tôi. 17 Còn
chúng tôi sẽ cầm khí giới ngay và dẫn đầu con cái Ít-ra-en, cho tới khi chúng
tôi đưa họ đến nơi thuộc về họ; nhưng con em chúng tôi sẽ ở lại trong các thành
kiên cố, để khỏi bị dân bản xứ tấn công. 18 Chúng tôi sẽ không trở
về nhà cho đến khi ai nấy trong dân Ít-ra-en đều được thừa hưởng phần gia
nghiệp của mình. 19 Quả thật, chúng tôi sẽ không chia phần gia
nghiệp với họ bên kia sông Gio-đan hoặc xa hơn nữa, vì gia nghiệp bên này sông
Gio-đan, ở phía đông, sẽ lọt về phần chúng tôi."
20
Ông
Mô-sê nói với họ: "Nếu anh em thực hiện điều đó, nếu anh em cầm khí giới
để ra trận trước nhan Ðức Chúa, 21 nếu trong số anh em, tất cả những
người được võ trang đi qua sông Gio-đan trước nhan Ðức Chúa, (và ở lại đó) cho
đến khi Người đuổi địch thù đi khuất mắt Người, 22 và nếu anh em chỉ
trở về sau khi xứ ấy quy hàng trước nhan Ðức Chúa, thì anh em được coi như đã
làm xong nhiệm vụ đối với Ðức Chúa, với Ít-ra-en, và vùng đất này sẽ là sở hữu
của anh em trước nhan Ðức Chúa. 23 Nhưng nếu anh em không làm như
thế, thì anh em sẽ đắc tội với Ðức Chúa; và anh em nên biết rằng chính anh em
sẽ chuốc lấy tội đó cho mình. 24 Anh em hãy xây thành cho con em và
làm bãi quây cho chiên cừu, hãy thực hiện những gì miệng anh em đã nói."
25
Con
cái ông Gát và con cái ông Rưu-vên thưa với ông Mô-sê: "Các tôi tớ ngài sẽ
làm như lời ngài truyền. 26 Vợ con, súc vật và mọi thú vật của chúng
tôi sẽ ở đây, trong các thành Ga-la-át; 27 nhưng các tôi tớ ngài,
mọi kẻ đã được võ trang để ra trận, sẽ đi qua trước nhan Ðức Chúa để chiến đấu,
theo lời ngài đã nói."
28
Ông
Mô-sê đã ban mệnh lệnh liên quan đến họ cho tư tế E-la-da, cho ông Giô-suê, con
ông Nun, và cho những người đứng đầu các gia tộc của các chi tộc con cái
Ít-ra-en. 29 Ông Mô-sê nói với họ: "Nếu con cái ông Gát và con
cái ông Rưu-vên, mọi kẻ đã được võ trang để chiến đấu, cùng với anh em đi qua
sông Gio-đan trước nhan Ðức Chúa, và nếu anh em chinh phục được vùng đất đó,
thì anh em sẽ cho họ đất Ga-la-át làm sở hữu. 30 Nhưng nếu họ không
chịu mang khí giới đi qua sông với anh em, thì họ sẽ phải nhận một phần đất làm
sở hữu giữa anh em, trong xứ Ca-na-an."
31
Con
cái ông Gát và con cái ông Rưu-vên thưa: "Ðiều Ðức Chúa đã phán với các
tôi tớ ngài, chúng tôi sẽ làm; 32 chính chúng tôi sẽ cầm khí giới đi
qua xứ Ca-na-an trước nhan Ðức Chúa; và xin ngài cho chúng tôi được chiếm hữu
phần đất bên này sông Gio-đan làm gia nghiệp.” 33 Ông Mô-sê ban cho
họ - nghĩa là cho con cái ông Gát, con cái ông Rưu-vên và một nửa chi tộc
Mơ-na-se, con ông Giu-se - vương quốc của Xi-khôn, vua E-mô-ri, vương quốc của
Ốc, vua Ba-san; đó là vùng đất gồm các thành cùng với lãnh thổ của các thành
ấy, thêm vào đó các thành của vùng đất chung quanh.
34
Con
cái ông Gát đã xây Ði-vôn, A-ta-rốt, A-rô-e, 35 A-rốt Sô-phan,
Gia-de, Gioóc-bô-ha, 36 Bết Nim-ra, Bết Ha-ran, là những thành kiên
cố; họ cũng đã làm bãi quây cho chiên cừu.
37
Con
cái ông Rưu-vên cũng đã xây Khét-bôn, En-a-lê, Kia-gia-tha-gim, 38 Nơ-vô,
Ba-an Mơ-ôn (các thành này đã đổi tên) và Xíp-ma. Họ đặt tên cho các thành họ
đã xây.
39
Con
cái ông Ma-khia, con ông Mơ-na-se, đi tới xứ Ga-la-át; họ chiếm xứ đó và đuổi
người E-mô-ri đang ở đấy. 40 Ông Mô-sê cho ông Ma-khia là con ông
Mơ-na-se, xứ Ga-la-át, và ông Ma-khia định cư tại đó. 41 Ông Gia-ia,
con ông Mơ-na-se, đi chiếm các trại của họ và đặt tên là trại của Gia-ia. 42
Nô-vác đi chiếm Cơ-nát cùng các vùng phụ cận; ông lấy tên mình là Nô-vác
mà đặt cho chỗ đó.
Chương 33
Các
chặng đường của cuộc xuất hành
1
Ðây
là những chặng đường con cái Ít-ra-en đã qua, khi họ ra khỏi đất Ai-cập, theo
đoàn quân của họ, dưới sự hướng dẫn của ông Mô-sê và ông A-ha-ron. 2 Ông
Mô-sê ghi lại những điểm khởi hành cho từng chặng đường, theo lệnh của Ðức
Chúa. Ðây là những chặng đường của họ, dựa theo các điểm khởi hành.
3
Họ
rời Ram-xết lên đường vào tháng giêng, ngày rằm tháng giêng. Hôm sau lễ Vượt
Qua, con cái Ít-ra-en ra đi ngang nhiên trước mắt toàn dân Ai-cập, 4 trong
khi dân Ai-cập lo chôn cất người nhà của chúng đã bị Ðức Chúa đánh phạt, nghĩa
là mọi con trai đầu lòng. Ðức Chúa đã trừng phạt các thần của chúng.
5
Con
cái Ít-ra-en lên đường rời Ram-xết và đóng trại ở Xúc-cốt. 6 Họ lên
đường rời Xúc-cốt và đóng trại ở Ê-tham, ven sa mạc. 7 Họ lên đường
rời Ê-tham, nhưng quay trở lại phía Pi Ha-khi-rốt, đối diện với Ba-an Xơ-phôn,
rồi đóng trại đằng trước Mích-đôn. 8 Họ lên đường rời Pi Ha-khi-rốt,
đi qua biển mà vào sa mạc; họ đi ba ngày đường trong sa mạc Ê-tham, rồi đóng
trại ở Ma-ra. 9 Họ lên đường rời Ma-la tới Ê-lim. Ở Ê-lim, có mười
hai suối nước và bảy mươi cây chà là. Và họ đóng trại ở đó. 10 Họ
lên đường rời Ê-lim và đóng trại gần Biển Sậy. 11 Họ lên đường rời
Biển Sậy và đóng trại gần sa mạc Xin. 12 Họ lên đường rời sa mạc Xin
và đóng trại ở Ðốp-ca. 13 Họ lên đường rời Ðốp-ca và đóng trại ở
A-lút. 14 Họ lên đường rời A-lút và đóng trại ở Rơ-phi-đim; tại đó
không có nước cho dân uống. 15 Họ lên đường rời Rơ-phi-đim và đóng
trại trong sa mạc Xi-nai. 16 Họ lên đường rời sa mạc Xi-nai và đóng
trại ở Kíp-rốt Ha Ta-a-va. 17 Họ lên đường rời Kíp-rốt Ha Ta-a-va và
đóng trại ở Kha-xê-rốt. 18 Họ lên đường rời Kha-xê-rốt và đóng trại
ở Rít-ma. 19 Họ lên đường rời Rít-ma và đóng trại ở Rim-môn Pe-rét. 20
Họ lên đường rời Rim-môn Pe-rét và đóng trại ở Líp-na. 21 Họ
lên đường rời Líp-na và đóng trại ở Rít-xa. 22 Họ lên đường rời
Rít-xa và đóng trại ở Cơ-hê-la-tha. 23 Họ lên đường rời Cơ-hê-la-tha
và đóng trại ở núi Se-phe. 24 Họ lên đường rời núi Se-phe và đóng trại
ở Kha-ra-đa. 25 Họ lên đường rời Kha-ra-đa và đóng trại ở Mác-hê-lốt.
26 Họ lên đường rời Mác-hê-lốt và đóng trại ở Ta-khát. 27 Họ
lên đường rời Ta-khát và đóng trại ở Te-rác. 28 Họ lên đường rời
Te-rác và đóng trại ở Mít-ca. 29 Họ lên đường rời Mít-ca và đóng
trại ở Khát-mô-na. 30 Họ lên đường rời Khát-mô-na và đóng trại ở
Mô-xê-rốt. 31 Họ lên đường rời Mô-xê-rốt và đóng trại ở Bơ-nê
Gia-a-can. 32 Họ lên đường rời Bơ-nê Gia-a-can và đóng trại ở Kho Ha
Ghít-gát. 33 Họ lên đường rời Kho Ha Ghít-gát và đóng trại ở
Giót-va-tha. 34 Họ lên đường rời Giót-va-tha và đóng trại ở Áp-rô-na.
35 Họ lên đường rời Áp-rô-na và đóng trại ở E-xi-ôn Ghe-ve. 36 Họ
lên đường rời E-xi-ôn Ghe-ve và đóng trại trong sa mạc Xin, nghĩa là Ca-đê. 37
Họ lên đường rời Ca-đê và đóng trại ở núi Ho, cuối xứ Ê-đôm. 38 Tư
tế A-ha-ron lên núi Ho theo lệnh của Ðức Chúa và qua đời ở đó, vào năm thứ bốn
mươi sau khi con cái Ít-ra-en ra khỏi đất Ai-cập, ngày mồng một tháng năm. 39
Ông A-ha-ron thọ được một trăm hai mươi ba tuổi, -khi ông qua đời ở núi
Ho. 40 Bấy giờ vua A-rát, người Ca-na-an, cư ngụ tại Ne-ghép trong
xứ Ca-na-an, nghe tin con cái Ít-ra-en đến. 41 Họ lên đường rời núi
Ho và đóng trại ở Xan-mô-na. 42 Họ lên đường rời Xan-mô-na và đóng
trại ở Pu-nôn. 43 Họ lên đường rời Pu-nôn và đóng trại ở Ô-vốt. 44
Họ lên đường rời Ô-vốt và đóng trại ở I-giê Ha A-va-rim, giáp giới với
Mô-áp. 45 Họ lên đường rời I-gim và đóng trại ở Ði-vôn Gát. 46 Họ
lên đường rời Ði-vôn Gát và đóng trại ở An-môn Ðíp-la-tha-gim. 47 Họ
lên đường rời An-môn Ðíp-la-tha-gim và đóng trại ở dãy núi A-va-rim, đối diện
với Nơ-vô. 48 Họ lên đường rời dãy núi A-va-rim và đóng trại ở vùng
thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô. 49 Họ
đóng trại gần sông Gio-đan, từ Bết Ha Giơ-si-mốt đến A-vên Ha Sít-tim, trong
vùng thảo nguyên Mô-áp.
Phân
chia đất Ca-na-an. Mệnh lệnh của Thiên Chúa.
50
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê trong vùng thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối
diện với Giê-ri-khô: 51 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en rằng:
52
các
ngươi sẽ đuổi mọi dân cư trong xứ cho khuất mắt các ngươi, và phá huỷ tất cả
các hình ảnh, các tượng đúc của chúng, các ngươi sẽ tiêu huỷ mọi nơi cao của
chúng. 53 Các ngươi sẽ chiếm đất ấy và lập cư ở đó, vì Ta đã cho các
ngươi đất ấy để chiếm hữu. 54 Các ngươi sẽ bắt thăm để chia nhau đất
ấy làm gia nghiệp, tuỳ theo các thị tộc của các ngươi: thị tộc nào đông người,
các ngươi sẽ cho một phần đất lớn làm gia nghiệp; thị tộc nào ít người hơn, các
ngươi sẽ cho một phần đất nhỏ hơn làm gia nghiệp. Ai bắt thăm được nơi nào, thì
sẽ ở tại đó. Các ngươi sẽ tính theo các chi tộc mà chia phần gia nghiệp. 55
Nếu các ngươi không đuổi các dân cư trong xứ cho khuất mắt, thì những kẻ
các ngươi để sót lại sẽ nên như gai chọc mắt, như mũi nhọn đâm sườn; chúng sẽ
quấy rối các ngươi trên đất các ngươi đến ở. 56 Và bấy giờ, Ta sẽ
đối xử với các ngươi như Ta đã định đối xử với chúng."
Chương 34
Biên
giới xứ Ca-na-an
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Hãy ra lệnh cho con cái Ít-ra-en và
bảo chúng: Khi anh em vào đất Ca-na-an, thì phần đất rơi vào tay anh em làm gia
nghiệp, chính là đất Ca-na-an với các biên giới như sau:
3
Phía
nam, đất của anh em sẽ bắt đầu từ sa mạc Xin, giáp giới Ê-đôm. Ranh giới phía
nam sẽ khởi sự từ cuối Biển Muối, ở mạn đông. 4 Rồi ranh giới đó sẽ
vòng xuống phía nam, lên giốc Ác-ráp-bim, đi qua Xin, đến phía nam Ca-đê
Bác-nê-a, rồi lại tiến về Kha-xa Át-đa và đi qua Át-môn; 5 sau đó,
từ Át-môn, ranh giới vòng xuống Suối Ai-cập để đi ra Biển.
6
Phía
tây, anh em sẽ có Biển Lớn làm ranh giới. Ðó sẽ là ranh giới phía tây của anh
em.
7
Và
đây là ranh giới phía bắc: từ Biển Lớn, anh em sẽ vạch một đường lên núi Ho; 8
rồi từ núi Ho, anh em sẽ vạch một đường đến Cửa Ải Kha-mát. Ranh giới sẽ
đi đến Xơ-đát, 9 rồi chạy tiếp đến Díp-rôn và đi tới Kha-xa Ê-nan.
Ðó sẽ là ranh giới phía bắc của anh em.
10
Sau
đó, anh em sẽ vạch một đường làm ranh giới phía đông từ Kha-xa Ê-nan đến
Sơ-pham. 11 Từ Sơ-pham, ranh giới đó sẽ đi xuống Ríp-la, ở phía đông
A-gin. Ði xuống nữa, ranh giới đó sẽ tiếp giáp với các đồi phía đông biển hồ
Kin-ne-rét; 12 rồi đi xuống theo dọc sông Gio-đan và đi tới Biển
Muối. Ðó sẽ là đất của anh em với các ranh giới chung quanh."
13
Ông
Mô-sê ra lệnh cho con cái Ít-ra-en: "Ðó là đất mà anh em sẽ bắt thăm để
chia nhau làm gia nghiệp, đất mà Ðức Chúa đã truyền phải ban cho chín chi tộc
và một nửa chi tộc.
14
Vì
chi tộc con cái ông Rưu-vên, theo số các gia tộc của họ, chi tộc con cái Gát,
theo số các gia tộc của họ đã lãnh phần gia nghiệp của họ rồi, và nửa chi tộc
Mơ-na-se cũng đã lãnh phần gia nghiệp của họ. 15 Hai chi tộc và một
nửa chi tộc này đã lãnh phần gia nghiệp của họ bên kia sông Gio-đan, đối diện
với Giê-ri-khô, phía đông, phía mặt trời mọc."
Việc
chia đất
16
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 17 "Ðây là tên những người sẽ chia đất
cho các ngươi làm gia nghiệp; tư tế E-la-da và Giô-suê, con của Nun. 18 Các
ngươi sẽ lấy thêm một đầu mục, mỗi chi tộc một người, để phụ trách việc chia
đất làm gia nghiệp. 19 Ðây là tên những người đó:
Chi
tộc Giu-đa có Ca-lếp, con của Giơ-phun-ne;
20
chi
tộc con cái Si-mê-ôn, có Sơ-mu-ên, con của Am-mi-hút;
21
chi
tộc Ben-gia-min có Ê-li-đát, con của Kít-lôn;
22
chi
tộc con cái Ðan, có đầu mục Búc-ki, con của Gioóc-li;
23
về
con cái Giu-se, chi tộc con cái Mơ-na-se, có đầu mục Khan-ni-ên, con của
Ê-phốt;
24
chi
tộc con cái Ép-ra-im, có đầu mục Cơ-mu-ên, con của Síp-tan;
25
chi
tộc con cái Dơ-vu-lun, có đầu mục Ê-li-xa-phan, con của Pác-nác;
26
chi
tộc con cái Ít-xa-kha, có đầu mục Pan-ti-ên, con của Át-dan;
27
chi
tộc con cái A-se, có đầu mục A-khi-hút, con của Sơ-lô-mi;
28
chi
tộc con cái Náp-ta-li, có đầu mục Pơ-đa-ên, con của Am-mi-hút."
29
Ðó
là những người Ðức Chúa đã truyền lệnh phải chia cho con cái Ít-ra-en các phần
gia nghiệp trong đất Ca-na-an.
Chương 35
Phần
dành cho các thầy Lê-vi
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê trong vùng thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối
diện với Giê-ri-khô: 2 "Hãy ra lệnh cho con cái Ít-ra-en phải
nhường một số thành, lấy trong gia nghiệp thuộc quyền sở hữu của chúng, cho các
người Lê-vi ở; các ngươi cũng sẽ nhường cho các người Lê-vi những đồng cỏ chung
quanh các thành ấy. 3 Các thành ấy sẽ là nơi chúng ở; còn các đồng
cỏ thì dành cho mọi thú vật, súc vật và các vật dụng của chúng. 4 Ðồng
cỏ chung quanh những thành các ngươi nhường cho người Lê-vi, sẽ rộng năm trăm
thước kể từ tường thành trở ra.
5
Bên
ngoài thành, các ngươi sẽ đo một ngàn thước phía đông, một ngàn thước phía nam,
một ngàn thước phía tây, một ngàn thước phía bắc, còn thành thì ở giữa; đó sẽ
là đồng cỏ thuộc các thành của chúng. 6 Những thành các ngươi nhường
cho người Lê-vi sẽ là sáu thành trú ẩn: các ngươi để cho kẻ sát nhân đến đó
nương náu; ngoài ra, các ngươi sẽ nhường thêm bốn mươi hai thành nữa. 7 Tổng
số các thành nhường cho người Lê-vi sẽ là bốn mươi tám, cùng với đồng cỏ thuộc
các thành ấy. 8 Các thành được nhường là những thành lấy trong số
các thành thuộc quyền sở hữu của con cái Ít-ra-en: chi tộc nào có nhiều, các
ngươi sẽ lấy nhiều; chi tộc nào có ít, các ngươi sẽ lấy ít; mỗi chi tộc sẽ
nhường một số thành của mình cho người Lê-vi, tuỳ theo phần gia nghiệp mình đã
nhận được."
Các
thành trú ẩn (Ðnl 9:1-13; Gr 20:1-9)
9
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 10 "Hãy bảo con cái Ít-ra-en rằng: Khi
đi qua sông Gio-đan vào đất Ca-na-an, 11 các ngươi sẽ chọn một số
thành làm thành trú ẩn cho các ngươi; kẻ nào đã vô ý làm thiệt mạng ai, thì sẽ
có thể đến đó nương náu. 12 Các thành ấy sẽ là nơi các ngươi trú ẩn
để tránh người đòi nợ máu, và như thế kẻ sát nhân sẽ không phải chết khi chưa
được xét xử trước mặt cộng đồng. 13 Trong số những thành các ngươi
nhường sẽ có sáu thành trú ẩn cho các ngươi: 14 ba thành các ngươi
nhường bên kia sông Gio-đan, và ba thành các ngươi nhường trên đất Ca-na-an, sẽ
là những thành trú ẩn. 15 Sáu thành đó sẽ là nơi trú ẩn cho con cái
Ít-ra-en, cũng như cho khách ngoại kiều và người trú ngụ giữa các ngươi. Kẻ nào
đã vô ý làm thiệt mạng ai, thì sẽ có thể đến đó nương náu.
16
Ai
dùng đồ sắt mà đánh người khác chết, thì là kẻ sát nhân. Kẻ sát nhân sẽ phải bị
xử tử. 17 Ai cầm trong tay một hòn đá chết người mà đánh người khác
chết, thì là kẻ sát nhân. Kẻ sát nhân sẽ phải bị xử tử. 18 Ai cầm
trong tay đồ vật bằng gỗ có thể giết người mà đánh người khác chết, thì là kẻ
sát nhân. Kẻ sát nhân sẽ phải bị xử tử. 19 Chính người đòi nợ máu sẽ
giết kẻ sát nhân; khi gặp tên sát nhân, người đó sẽ giết nó.
20
Nếu
ai vì căm hờn mà xô ngã người khác, hay cố tình ném vật gì trúng người ấy, làm
cho người ấy chết, 21 hoặc ai vì thù ghét mà giơ tay đánh người ấy
chết, kẻ đã đánh sẽ bị xử tử: đó là một kẻ sát nhân. Người đòi nợ máu sẽ giết
kẻ sát nhân, khi gặp nó. 22 Nhưng nếu vì ngẫu nhiên, chứ không phải
vì thù ghét, ai xô ngã người khác, hay vô ý ném vật gì trúng người ấy, 23 hoặc
ai vì không thấy mà đánh rơi trúng người ấy một hòn đá chết người, làm cho
người ấy chết, tuy chẳng thù ghét cũng chẳng muốn hại người ấy, 24 cộng
đồng sẽ chiếu theo các luật đó mà phân xử đôi bên: kẻ đã đánh và người đòi nợ
máu. 25 Cộng đồng sẽ gỡ kẻ sát nhân khỏi tay người đòi nợ máu, rồi
đưa nó trở về thành trú ẩn là nơi nó đã tới nương náu. Nó sẽ ở lại đó cho đến
khi thượng tế, là người đã được xức dầu thánh, qua đời. 26 Nhưng nếu
kẻ sát nhân ra khỏi ranh giới thành trú ẩn là nơi nó đã tới nương náu, 27 và
người đòi nợ máu gặp thấy nó bên ngoài ranh giới thành nó trú ẩn, và giết nó,
thì không mắc tội đổ máu. 28 Vì kẻ sát nhân phải ở lại trong thành
nó trú ẩn cho đến khi thượng tế qua đời; chỉ khi nào thượng tế qua đời, kẻ sát
nhân mới được trở về đất sở hữu của nó. 29 Ðó sẽ là những quy tắc
pháp lý các ngươi phải tuân giữ qua mọi thế hệ, tại bất cứ nơi nào các ngươi ở.
30
Trong
mọi trường hợp đánh chết người, người ta sẽ dựa vào lời khai của các chứng nhân
mà xử tử kẻ sát nhân. Nhưng lời khai của một chứng nhân duy nhất sẽ không thể
làm cho ai bị kết án tử hình. 31 Các ngươi sẽ không được nhận tiền
chuộc mạng một kẻ sát nhân can án chết: nó sẽ phải bị xử tử. 32 Các
ngươi cũng không được nhận tiền chuộc cho phép kẻ đã trốn vào thành trú ẩn được
về ở xứ sở, trước khi thượng tế qua đời. 33 Các ngươi sẽ không được
làm nhiễm uế đất các ngươi ở, vì chính máu làm nhiễm uế đất ấy, và không có gì
có thể tẩy rửa đất ấy khỏi máu đã đổ ra tại đó, ngoài máu của người đã làm đổ
máu. 34 (Các) ngươi sẽ không gây ô nhục cho đất (các) ngươi ở, cũng
là nơi Ta ngự; vì Ta là Ðức Chúa, Ta ngự giữa con cái Ít-ra-en."
Chương 36
Gia
nghiệp của phụ nữ có chồng
1
Khi
đó, các gia trưởng của thị tộc con cái ông Ga-la-át, con ông Ma-khia, cháu ông
Mơ-na-se, trong số các thị tộc con cái ông Giu-se, tiến đến và lên tiếng trước
mặt ông Mô-sê và các đầu mục cũng là gia trưởng của con cái Ít-ra-en 2 mà rằng:
"Ðức Chúa đã truyền lệnh cho đức ông phải dùng lối bắt thăm mà chia đất
cho con cái Ít-ra-en làm gia nghiệp. Ðức ông cũng nhận được lệnh của Ðức Chúa
bắt phải ban gia nghiệp của ông Xơ-lóp-khát, người anh em của chúng tôi, cho
các con gái ông ấy. 3 Mà nếu các cô này lấy chồng thuộc các chi tộc
con cái Ít-ra-en, gia nghiệp của họ sẽ bị xén khỏi gia nghiệp cha ông chúng
tôi. Gia nghiệp của họ sẽ nhập vào gia nghiệp của chi tộc mà họ sẽ là thành
viên, và như vậy phần gia nghiệp của chúng tôi sẽ bị xén bớt. 4 Ðến
lúc con cái Ít-ra-en mừng năm toàn xá, gia nghiệp của họ sẽ nhập vào gia nghiệp
của chi tộc mà họ là thành viên, và sẽ bị xén khỏi gia nghiệp của chi tộc cha
ông chúng tôi."
5
Theo
lệnh của Ðức Chúa, ông Mô-sê truyền cho con cái Ít-ra-en rằng: "Chi tộc
con cái ông Giu-se nói đúng. 6 Ðây là điều Ðức Chúa đã truyền về các
con gái ông Xơ-lóp-khát: chúng sẽ lấy người vừa mắt chúng, nhưng chỉ được lấy
người thuộc thị tộc trong chi tộc của cha chúng. 7 Như thế, gia
nghiệp con cái Ít-ra-en sẽ không chuyển từ chi tộc này sang chi tộc khác, nhưng
mỗi người con cái Ít-ra-en sẽ gắn bó với gia nghiệp của chi tộc cha ông mình. 8
Trong các chi tộc con cái Ít-ra-en, người con gái nào hưởng gia nghiệp,
thì phải lấy chồng thuộc một trong các thị tộc của chi tộc cha mình, để mỗi
người trong con cái Ít-ra-en giữ được gia nghiệp cha ông mình. 9 Không
gia nghiệp nào được chuyển từ chi tộc này sang chi tộc khác, nhưng mỗi chi tộc
con cái Ít-ra-en sẽ gắn bó với gia nghiệp của mình."
10
Các
con gái ông Xơ-lóp-khát làm đúng như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê: 11 Mác-la,
Tia-xa, Khoóc-la, Min-ca và Nô-va, là những con gái ông Xơ-lóp-khát, lấy các
con trai của chú bác. 12 Họ đã lấy người thuộc các thị tộc con cái
ông Mơ-na-se, con ông Giu-se, và như thế gia nghiệp của họ vẫn thuộc về thị tộc
trong chi tộc cha họ.
Kết
luận
13
Ðó
là những mệnh lệnh và luật lệ Ðức Chúa đã truyền cho con cái Ít-ra-en qua trung
gian ông Mô-sê, trong vùng thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối diện với
Giê-ri-khô.
Ðệ Nhị Luật
Chương 01
I.
Những Diễn Từ Mở Ðầu
Diễn
Từ Thứ Nhất Của Ông Mô-Sê
Khung
cảnh thời gian và không gian
1
Ðây
là những lời ông Mô-sê nói với toàn thể Ít-ra-en, ở bên kia sông Gio-đan, trong
sa mạc, trong thung lũng A-ra-va, đối diện với Xúp, giữa Pa-ran, Tô-phen,
La-van, Kha-xê-rốt và Ði Da-háp. 2 Từ núi Khô-rếp đến Ca-đê
Bác-nê-a, qua đường núi Xê-ia, là mười một ngày đường. 3 Năm thứ bốn
mươi, tháng thứ mười một, ngày thứ nhất trong tháng, ông Mô-sê nói với con cái
Ít-ra-en, chiếu theo tất cả những gì Ðức Chúa đã truyền cho ông nói với họ. 4
Ông đã đánh bại Xi-khôn, vua người E-mô-ri, đóng đô ở Khét-bôn, và tại
Ét-re-i, đã đánh bại Ốc, vua miền Ba-san, đóng đô ở Át-ta-rốt. 5 Sau
đó, ở bên kia sông Gio-đan, trong đất Mô-áp, ông Mô-sê bắt đầu trình bày luật
sau đây. Ông nói:
Những
chỉ thị cuối cùng ở núi Khô-rếp (Xh 18:13 -27)
6
"Ðức
Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, đã phán với chúng ta tại núi Khô-rếp như sau:
"Các ngươi ở núi này đã lâu rồi. 7 Hãy chuyển hướng và lên
đường, đi tới núi người E-mô-ri, và tới các dân chung quanh, ở thung lũng
A-ra-va, ở miền núi, miền Sơ-phê-la, miền Ne-ghép, miền duyên hải, tới đất
người Ca-na-an, núi Li-băng, cho đến Sông Cả, là sông Êu-phơ-rát. 8 Ðây,
Ta trao đất đó cho các ngươi, hãy vào và chiếm hữu đất mà Ðức Chúa đã thề với
cha ông các ngươi, là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, rằng Người sẽ ban cho họ
và dòng dõi họ sau này."
9
Thời
ấy, tôi đã nói với anh em: "Một mình tôi không thể gánh vác anh em được. 10
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã làm cho anh em nên đông đúc, và hôm
nay, coi đó: anh em nhiều như sao trên trời. 11 Nguyện Ðức Chúa,
Thiên Chúa của cha ông anh em, tăng số anh em lên gấp ngàn lần và chúc phúc cho
anh em như Người đã phán với anh em! 12 Làm sao một mình tôi gánh được những
phiền hà, yêu sách, tranh tụng của anh em? 13 Mỗi chi tộc của anh em hãy đề cử
những người khôn ngoan, thông minh và từng trải, và tôi sẽ đặt họ làm đầu anh
em.” 14 Anh em đã trả lời tôi rằng: "Ðiều ông đề nghị làm, hay
đó!” 15 Tôi đã chọn những người đứng đầu các chi tộc của anh em, là
những người khôn ngoan, từng trải, và đặt họ làm đầu anh em, làm người chỉ huy
một ngàn, chỉ huy một trăm, chỉ huy năm mươi, chỉ huy mười người, và làm ký lục
cho mỗi chi tộc của anh em. 16 Thời ấy, tôi đã truyền cho các thẩm
phán của anh em rằng: "Các ông hãy nghe những điều anh em đồng bào các ông
kiện tụng, và hãy xử công minh giữa một người đồng bào với một người đồng bào,
hoặc với một ngoại kiều ở với người ấy. 17 Các ông đừng thiên vị ai
trong khi xét xử: hãy nghe người nhỏ cũng như người lớn, đừng sợ ai, vì xét xử
là việc của Thiên Chúa. Có vụ nào khó quá đối với các ông, thì các ông hãy
trình bày với tôi, tôi sẽ nghe vụ đó.” 18 Thời ấy, tôi đã truyền cho
anh em mọi điều anh em phải làm.
Ở
Ca-đê, dân không chịu tin vào Ðức Chúa (Ðn 13:1-33)
19
Chúng
ta đã lên đường từ Khô-rếp và đã đi qua sa mạc mênh mông khủng khiếp ấy mà anh
em đã thấy, trên đường tới miền núi của người E-mô-ri, như Ðức Chúa, Thiên Chúa
chúng ta, đã truyền cho chúng ta, và chúng ta đã đến Ca-đê Bác-nê-a. 20 Tôi
đã nói với anh em: "Anh em đã tới miền núi của người E-mô-ri, miền núi mà
Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ban cho chúng ta. 21 Coi đó: Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã trao đất này cho anh (em); hãy lên và chiếm
hữu, như Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh (em), đã phán với anh (em). Ðừng
sợ, đừng hãi.” 22 Tất cả anh em đã đến gặp tôi và nói: "Chúng
ta hãy phái người đi trước chúng ta để thăm dò đất cho chúng ta; họ sẽ báo cáo
cho chúng ta về con đường chúng ta phải đi qua và về các thành chúng ta sẽ đến.”
23 Lời ấy vừa lòng tôi, và tôi đã chọn giữa anh em mười hai người,
mỗi chi tộc một người. 24 Họ đã chuyển hướng và lên núi. Khi tới
thung lũng Ét-côn, họ đã do thám thung lũng ấy. 25 Tay họ đã lấy hoa
trái miền ấy và đưa xuống cho chúng ta. Họ đã báo cáo cho chúng ta, và nói:
"Miền đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ban cho chúng ta, tốt tươi
thật!” 26 Nhưng anh em đã không muốn lên và đã cưỡng lệnh Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh em. 27 Anh em đã lẩm bẩm trong lều trại và nói:
"Chính vì Ðức Chúa ghét chúng ta mà Người đã đưa chúng ta ra khỏi đất
Ai-cập, để trao chúng ta vào tay người E-mô-ri và tiêu diệt chúng ta. 28 Chúng
ta sắp lên chỗ nào đây? Anh em chúng ta đã làm cho chúng ta nản lòng khi nói
rằng: "Dân đó lớn và cao hơn chúng ta. Các thành thì lớn, tường luỹ ngất
trời. Chúng tôi cũng thấy ở đó con cái A-nác nữa."
29
Tôi
đã bảo anh em: "Ðừng run khiếp, đừng sợ chúng! 30 Ðức Chúa, Thiên Chúa của
anh em, Ðấng đi phía trước anh em, sẽ chiến đấu cho anh em, đúng như Người đã
làm cho anh em tại Ai-cập trước mắt anh em, 31 và trong sa mạc, nơi
anh (em) thấy Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mang anh (em) như một người
mang con mình, suốt con đường anh em đã đi cho tới khi anh em đến nơi
này."32 Nhưng trong việc ấy anh em đã không tin vào Ðức Chúa, Thiên Chúa
của anh em, 33 Ðấng đi phía trước anh em trên đường để tìm chỗ cho
anh em cắm lều; ban đêm, Người ở trong lửa để cho anh em thấy đường anh em đi,
và ban ngày, Người ở trong đám mây.
Huấn
thị của Ðức Chúa tại Ca-đê (Ðn 14:20-45)
34
Ðức
Chúa đã nghe thấy giọng nói của anh em, Người nổi giận và thề rằng: 35 "Không
một người nào thuộc thế hệ gian ác này sẽ được thấy miền đất tốt tươi Ta đã thề
sẽ ban cho cha ông các ngươi, 36 ngoại trừ Ca-lếp, con của
Giơ-phun-ne: nó sẽ được thấy đất ấy, và đất nó đã giẫm lên, Ta sẽ ban cho nó và
các con nó, bởi vì nó đã một lòng theo Ðức Chúa.” 37 Vì anh em, Ðức
Chúa cũng nổi cơn thịnh nộ cả với tôi, Người phán: "Cả ngươi nữa, ngươi
cũng sẽ không được vào đó! 38 Giô-suê, con của Nun, kẻ chầu chực trước mặt
ngươi, sẽ được vào đó. Hãy làm cho nó nên mạnh mẽ, vì chính nó sẽ cho Ít-ra-en
hưởng đất ấy làm gia nghiệp. 39 Về phần con cái các ngươi mà các
ngươi nói: "Chúng sẽ bị giặc bắt", và con trai các ngươi, những đứa
hôm nay chưa biết phân biệt tốt xấu, chúng sẽ được vào đó. Ta sẽ ban cho chúng
đất ấy và chúng sẽ chiếm hữu. 40 Còn các ngươi hãy chuyển hướng và
lên đường đi sa mạc, theo hướng Biển Sậy."
41
Anh
em đã trả lời và nói với tôi: "Chúng tôi đã phạm tội nghịch cùng Ðức Chúa,
chúng tôi sẽ lên và sẽ chiến đấu theo tất cả những gì Ðức Chúa, Thiên Chúa
chúng tôi, đã truyền cho chúng tôi." Mỗi người trong anh em đã đeo võ khí
và tưởng lên núi là việc dễ dàng. 42 Ðức Chúa đã phán với tôi:
"Hãy bảo chúng: các ngươi đừng lên, đừng chiến đấu, vì Ta không ở giữa các
ngươi. Ðừng để quân địch đánh bại các ngươi!” 43 Tôi đã bảo anh em
mà anh em không nghe, anh em đã cưỡng lệnh Ðức Chúa, đã cả gan lên núi. 44
Người E-mô-ri ở miền núi ấy ra đánh anh em, đuổi anh em như ong đuổi, và
đánh tan anh em tại Xê-ia đến tận Khoóc-ma. 45 Khi trở về, anh em đã
khóc lóc trước mặt Ðức Chúa, nhưng Ðức Chúa đã không nghe tiếng anh em và không
để tai nghe anh em. 46 Chính vì vậy mà anh em đã phải ở lại Ca-đê
như thế.
Chương 02
Từ
Ca-đê đến thung lũng Ác-nôn
1
Chúng
ta đã chuyển hướng và lên đường đi sa mạc, theo hướng Biển Sậy, như Ðức Chúa đã
phán với tôi, và chúng ta đã đi vòng quanh miền núi Xê-ia lâu ngày. 2 Ðức
Chúa phán với tôi rằng: 3 "Các ngươi đi vòng quanh núi này đã
lâu rồi, hãy chuyển hướng về phía bắc. 4 Ngươi hãy truyền cho dân
rằng: Các ngươi sắp đi qua lãnh thổ của anh em các ngươi là con cái Ê-xau,
những người ở Xê-ia. Chúng sẽ sợ các ngươi, nhưng các ngươi phải rất ý tứ: 5
Ðừng khiêu khích chúng, vì Ta sẽ không cho các ngươi một phần đất nào của
chúng, dù là chỗ đặt bàn chân: Ta đã ban núi Xê-ia cho Ê-xau làm sở hữu. 6
Lương thực các ngươi ăn, các ngươi sẽ dùng bạc mà mua của chúng; cả nước
các ngươi uống, các ngươi cũng sẽ dùng bạc mà mua của chúng. 7 Thật
vậy, Ðức Chúa, Thiên Chúa của (các) ngươi, đã chúc phúc cho (các) ngươi trong
mọi việc tay (các) ngươi làm, Người đã biết cuộc hành trình của (các) ngươi
trong sa mạc mênh mông ấy; đã bốn mươi năm Ðức Chúa, Thiên Chúa của (các)
ngươi, ở với (các) ngươi, và (các) ngươi đã chẳng thiếu thốn điều gì."
8
Rời
bỏ anh em chúng ta là con cái Ê-xau, những người ở Xê-ia, chúng ta đã đi qua
con đường thung lũng A-ra-va, con đường bắt đầu từ Ê-lát và E-xi-ôn Ghe-ve. Rồi
chúng ta chuyển hướng và đi qua con đường sa mạc Mô-áp. 9 Ðức Chúa
phán với tôi: "Ðừng gây hấn với Mô-áp, đừng khiêu chiến với chúng, vì Ta
sẽ không cho ngươi một phần đất nào của chúng làm sở hữu: Ta đã ban A cho con
cái Lót làm sở hữu. 10 - Trước kia người Ê-mim ở đất ấy, họ là một
dân lớn, đông và cao như người A-nác. 11 Như người A-nác, họ cũng
được coi là người Ra-pha, nhưng người Mô-áp gọi họ là người Ê-mim. 12 Tại
Xê-ia trước kia có người Khô-ri ở, nhưng con cái Ê-xau đã trục xuất họ, đã tiêu
diệt họ khi tới đó và ở thế chỗ họ, như Ít-ra-en đã làm trong đất họ chiếm hữu,
đất mà Ðức Chúa đã ban cho họ. - 13 Giờ đây các ngươi hãy đứng lên và qua thung
lũng De-rét."
Chúng
ta đã qua thung lũng De-rét.
14
Thời
gian chúng ta đi từ Ca-đê Bác-nê-a cho đến khi chúng ta qua thung lũng De-rét
là ba mươi tám năm, cho đến khi tất cả thế hệ các chiến sĩ biến hết khỏi trại,
như Ðức Chúa đã thề với họ. 15 Bàn tay Ðức Chúa cũng đè trên họ để
loại họ ra khỏi trại, cho đến khi họ biến hết.
16
Khi
các chiến sĩ đã chết, đã biến hết không còn trong dân nữa, 17 thì
Ðức Chúa phán với tôi rằng: 18 "Hôm nay ngươi sắp đi qua lãnh
thổ Mô-áp, qua Ar. 19 Ngươi sẽ đến gần đất con cái Am-mon. Ðừng gây
hấn, đừng khiêu chiến với chúng, vì Ta sẽ không cho ngươi phần đất nào của
chúng làm sở hữu: Ta đã ban đất ấy cho con cái Am-mon làm sở hữu. 20 -
Cả đất ấy cũng được coi là đất của người Ra-pha; trước kia người Ra-pha đã ở
đó, người Am-mon gọi họ là Dam-dum-mim. 21 Họ là một dân lớn, đông
và cao như người A-nác, nhưng Ðức Chúa đã tiêu diệt họ, khi người Am-mon đến;
những người này đã trục xuất họ và ở thế chỗ họ. 22 Người đã làm như
thế cho con cái Ê-xau, những người ở Xê-ia, khi Người tiêu diệt người Khô-ri,
lúc con cái Ê-xau đến: những người này đã trục xuất họ và ở thế chỗ họ cho đến
ngày nay. 23 Còn người A-vim, những người ở trong các thôn ấp về
phía Ga-da cũng thế: người Cáp-to phát xuất từ Cáp-to đã tiêu diệt họ và ở thế
chỗ họ. - 24 Các ngươi hãy đứng dậy, lên đường và qua thung lũng Ác-nôn. Hãy
coi: Ta trao Xi-khôn, vua Khét-bôn, người E-mô-ri, và đất vua ấy vào tay (các)
ngươi. Hãy bắt đầu chiếm hữu đất ấy và hãy khiêu chiến với chúng. 25 Hôm
nay, Ta sẽ làm cho các dân khắp thiên hạ kinh khiếp sợ hãi (các) ngươi ra mặt:
khi nghe nói đến (các) ngươi, chúng sẽ run rẩy, rụng rời trước mặt (các)
ngươi."
Ðánh
chiếm vương quốc vua Xi-khôn (Ðn 21:21-30)
26
Từ
sa mạc Cơ-đê-mốt, tôi đã sai sứ giả đến với Xi-khôn, vua Khét-bôn, nói những
lời hoà bình như sau: 27 "Xin cho tôi mượn đường qua đất ông;
tôi sẽ đi trên đường, không quẹo phải quẹo trái. 28 Lương thực tôi
ăn, ông sẽ bán cho tôi đổi lấy bạc; nước tôi uống, ông sẽ cung cấp cho tôi đổi
lấy bạc. Tôi chỉ xin đi bộ qua thôi - 29 con cái Ê-xau là những người ở Xê-ia,
và người Mô-áp là những người ở A, đã cho phép tôi đi qua đất họ - cho đến khi
tôi qua sông Gio-đan, vào đất Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, ban cho chúng
tôi."
30
Nhưng
Xi-khôn, vua Khét-bôn, đã không muốn cho chúng ta đi qua đất nó, vì Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), đã làm cho thần trí nó ra cứng cỏi và lòng dạ nó ra
chai đá, để trao nó vào tay anh (em), như anh (em) thấy hôm nay. 31 Ðức
Chúa phán với tôi: "Hãy coi: Ta bắt đầu trao Xi-khôn và đất nó cho ngươi.
Hãy bắt đầu đánh chiếm và chiếm cứ đất nó.” 32 Xi-khôn, nó và toàn
dân nó đã ra nghênh chiến với chúng ta tại Gia-hát. 33 Ðức Chúa,
Thiên Chúa chúng ta, đã trao nó cho chúng ta, và chúng ta đã đánh bại nó, con
cái nó và toàn dân nó. 34 Thời ấy, chúng ta đã chiếm tất cả các
thành của nó và đã tru hiến mọi thành: đàn ông, đàn bà, con trẻ; chúng ta đã
không để lại một ai sống sót. 35 Chúng ta chỉ cướp lấy cho mình gia
súc và chiến lợi phẩm của các thành chúng ta đã chiếm được. 36 Từ
A-rô-e trên mé thung lũng Ác-nôn, và từ thành ở trong thung lũng, cho đến miền
Ga-la-át, không có thành nào chúng ta không thể đánh chiếm được: Ðức Chúa,
Thiên Chúa chúng ta, đã trao tất cả cho chúng ta. 37 Chỉ có đất của
con cái Am-mon là anh (em) đã không đến gần: tất cả triền thung lũng Giáp-bốc,
các thành miền núi và tất cả những nơi mà Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, đã
cấm.
Chương 03
Ðánh
chiếm vương quốc vua Ốc (Ðn 21:31-35)
1
Chúng
ta đã chuyển hướng và đi lên phía miền Ba-san. Ốc, vua miền Ba-san, nó và toàn
dân nó đã ra nghênh chiến với chúng ta tại Ét-re-i. 2 Ðức Chúa phán
với tôi: "Ðừng sợ nó, vì Ta đã trao nó cùng với toàn dân nó và đất nó vào
tay ngươi; ngươi sẽ xử với nó như đã xử với Xi-khôn, vua người E-mô-ri, đóng đô
ở Khét-bôn.” 3 Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, cũng đã trao Ốc, vua
miền Ba-san, và toàn dân nó vào tay chúng ta; chúng ta đã đánh bại nó, không để
lại cho nó một ai sống sót. 4 Thời ấy, chúng ta đã chiếm mọi thành
của nó, không có thành nào mà chúng ta không lấy của chúng: sáu mươi thành, tức
là tất cả vùng Ác-gốp ở miền Ba-san, vương quốc của Ốc. 5 Tất cả đều
là những thành kiên cố, có tường cao, có cửa đóng then cài, không kể những
thành bỏ ngỏ, nhiều lắm. 6 Chúng ta đã tru hiến những thành ấy, như
chúng ta đã xử với Xi-khôn, vua Khét-bôn; chúng ta đã tru hiến mọi thành: đàn
ông, đàn bà, con trẻ. 7 Nhưng tất cả gia súc và chiến lợi phẩm của
các thành, thì chúng ta đã lấy cho mình.
8
Thời
ấy, chúng ta đã lấy của hai vua người E-mô-ri vùng đất ở bên kia sông Gio-đan,
từ thung lũng Ác-nôn đến núi Khéc-môn. - 9 Người Xi-đôn gọi núi Khéc-môn là
Xia-giôn, còn người E-mô-ri gọi là Xơ-nia. - 10 Chúng ta đã lấy tất cả các
thành vùng Cao Nguyên, tất cả miền Ga-la-át, và tất cả miền Ba-san đến tận
Xan-kha và Ét-re-i, tức là các thành ở miền Ba-san, vương quốc của Ốc. - 11
Thật vậy, Ốc, vua miền Ba-san, là người cuối cùng trong số người Ra-pha còn
sống sót; giường của nó, giường bằng sắt, chẳng phải là cái giường người ta còn
thấy ở thành Ráp-ba của con cái Am-mon sao? Giường ấy dài bốn thước rưỡi, rộng
hai thước, tính bằng thước người ta quen dùng.
Chia
đất bên kia sông Gio-đan (Ðn 32:33-42)
12
Thời
ấy, chúng ta đã chiếm hữu đất này. Tôi đã cho chi tộc Rưu-vên và chi tộc Gát
vùng đất từ A-rô-e bên thung lũng Ác-nôn, cùng với một nửa miền núi Ga-la-át và
các thành ở đó. 13 Phần còn lại của miền Ga-la-át và tất cả miền
Ba-san, vương quốc của Ốc, thì tôi đã cho một nửa chi tộc Mơ-na-se -tất cả vùng
Ác-gốp, tất cả miền Ba-san, người ta gọi là đất của người Ra-pha. - 14 Gia-ia,
con của Mơ-na-se, đã lấy tất cả vùng Ác-gốp cho đến lãnh thổ người Gơ-sua và
người Ma-a-kha, và đã lấy tên mình mà đặt cho những vùng ấy của miền Ba-san,
ngày nay vẫn còn gọi là "các trại của người Gia-ia". 15 Tôi
đã cho Ma-khia miền Ga-la-át.16 Còn chi tộc Rưu-vên và chi tộc Gát, thì tôi cho
vùng đất từ miền Ga-la-át cho đến thung lũng Ác-nôn, lấy lòng thung lũng làm
ranh giới, và cho đến thung lũng Giáp-bốc, ranh giới con cái Am-mon, 17 cùng
với thung lũng A-ra-va, lấy sông Gio-đan làm ranh giới, từ Kin-ne-rét cho đến
biển A-ra-va, tức là Biển Muối, phía dưới sườn núi Pít-ga, về phía đông.
Chỉ
thị cuối cùng của ông Mô-sê (Ðn 32:20-32)
18
Thời
ấy, tôi đã truyền cho anh em rằng: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã
cho anh em đất này để anh em chiếm hữu. Tất cả các dũng sĩ, anh em hãy cầm võ
khí đi qua trước anh em mình là con cái Ít-ra-en. 19 Chỉ có đàn bà
con trẻ và các đàn vật của anh em - tôi biết là anh em có nhiều đàn vật - sẽ ở
trong các thành tôi đã cho anh em, 20 cho đến khi Ðức Chúa ban cho
anh em của anh em được an cư lạc nghiệp như anh em, và chính họ cũng chiếm hữu
đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, ban cho họ ở bên kia sông Gio-đan; bấy giờ
anh em mỗi người sẽ trở về phần đất sở hữu của mình, phần đất tôi đã cho anh
em.” 21 Thời ấy, tôi đã truyền cho ông Giô-suê rằng: "Chính mắt
anh đã thấy tất cả cách xử sự của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đối với hai
vua ấy; Ðức Chúa cũng sẽ xử sự như vậy với các vương quốc anh sắp đi qua. 22
Anh em đừng sợ chúng, vì chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, chiến đấu
cho anh em."
23
Thời
ấy, tôi đã năn nỉ Ðức Chúa rằng: 24 "Lạy Chúa là Ðức Chúa, Ngài
đã bắt đầu cho tôi tớ Ngài thấy Ngài thật vĩ đại và tay Ngài mạnh mẽ. Có thần
nào trên trời dưới đất thực hiện được những công trình và những chiến công như
Ngài? 25 Xin cho con được sang qua sông Gio-đan và nhìn thấy miền đất tốt tươi
ở bên kia sông, miền núi tốt tươi ấy và núi Li-băng.” 26 Vì anh em,
Ðức Chúa bất bình với tôi, Người không nghe tôi; Ðức Chúa phán với tôi:
"Ðủ rồi! Ðừng bao giờ nói với Ta về chuyện ấy nữa! 27 Hãy lên đỉnh Pít-ga,
ngước mắt nhìn về phía tây, phía bắc, phía nam, phía đông, và mở mắt ra mà xem,
vì ngươi sẽ không được sang qua sông Gio-đan này. 28 Hãy truyền lệnh
cho Giô-suê, hãy làm cho nó nên mạnh mẽ và can đảm, vì chính nó sẽ dẫn đầu dân
này qua sông, và chính nó sẽ cho chúng hưởng đất mà ngươi sẽ thấy, làm gia
nghiệp."
29
Vậy
chúng ta đã ở lại thung lũng, đối diện với Bết Pơ-o.
Chương 04
Giữ
luật Chúa là khôn ngoan
1
Giờ
đây, hỡi Ít-ra-en, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em,
để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm
hữu miền đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em. 2
Anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì,
nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền
cho anh em. 3 Chính mắt anh em đã thấy điều Ðức Chúa làm tại Ba-an
Pơ-o: mọi kẻ theo Ba-an Pơ-o thì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã tiêu
diệt không cho sống giữa anh (em). 4 Còn anh em, những kẻ gắn bó với
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, thì hôm nay đều còn sống cả. 5 Hãy
xem: tôi đã dạy cho anh em những thánh chỉ và quyết định như Ðức Chúa, Thiên
Chúa của tôi, đã truyền cho tôi, để anh em đem ra thực hành trong miền đất mà
anh em sắp vào chiếm hữu. 6 Anh em phải giữ và đem ra thực hành, vì
nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh. Khi được nghe
tất cả những thánh chỉ đó, họ sẽ nói: "Chỉ có dân tộc vĩ đại này mới là
một dân khôn ngoan và thông minh!” 7 Phải, có dân tộc vĩ đại nào
được thần minh ở gần, như Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi
khi chúng ta kêu cầu Người? 8 Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và
quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh
em?
Mặc
khải tại núi Khô-rếp
9
Nhưng
anh (em) hãy ý tứ và cẩn thận giữ mình đừng quên những điều mắt anh (em) đã
thấy, và suốt đời, đừng để cho những điều ấy ra khỏi lòng anh (em); trái lại,
anh (em) hãy dạy cho con cháu anh (em) biết. 10 Ngày mà anh (em)
đứng trước mặt Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), tại núi Khô-rếp, Ðức Chúa đã
phán bảo tôi: "Hãy tập hợp dân lại cho Ta; Ta sẽ cho chúng nghe những lời
của Ta, để chúng học cho biết kính sợ Ta mọi ngày chúng sống trên mặt đất, và
để chúng dạy cho con cái chúng.” 11 Anh em đã lại gần và đứng dưới
chân núi; núi bốc lửa cao đến tận trời, trong bóng tối mây đen mù mịt. 12 Ðức
Chúa phán với anh em từ trong đám lửa: anh em nghe thấy tiếng nói nhưng không
thấy hình bóng nào, chỉ có tiếng thôi. 13 Người đã thông báo cho anh
em giao ước của Người, giao ước mà Người truyền cho anh em đem ra thực hành, đó
là mười lời Người viết trên hai bia đá. 14 Phần tôi, thời đó, Ðức
Chúa truyền cho tôi dạy anh em các thánh chỉ và quyết định, để anh em đem ra
thực hành trong miền đất mà anh em sắp sang chiếm hữu.
15
Anh
em hãy cẩn thận giữ mình: anh em đã không thấy hình bóng nào, ngày Ðức Chúa
phán với anh em tại núi Khô-rếp, từ trong đám lửa; 16 vì thế đừng có
ra hư hỏng mà làm cho mình một tượng mang hình ảnh bất cứ cái gì: hình người
nam hay người nữ, 17 hình bất cứ loài vật nào trên mặt đất, hình bất
cứ loài chim chóc nào bay trên trời, 18 hình bất cứ loài nào bò dưới
đất, hình bất cứ loài cá nào ở trong nước phía dưới mặt đất. 19 Khi
anh (em) ngước mắt lên trời và thấy mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao, toàn
thể thiên binh, thì đừng bị lôi cuốn mà sụp xuống lạy và phụng thờ chúng. Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã phân chia chúng cho mọi dân thiên hạ. 20
Còn anh em, thì Ðức Chúa đã chọn lấy anh em và đưa ra khỏi cái lò nung
sắt là Ai-cập, để anh em trở nên dân Người, nên cơ nghiệp của Người, như ngày
nay.
Dân
sẽ bị phạt và trở về với Chúa
21
Vì
anh em, Ðức Chúa đã nổi cơn thịnh nộ với tôi, và Người đã thề là tôi sẽ không
được sang sông Gio-đan và không được vào miền đất tốt tươi mà Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp. 22 Tôi sắp phải
chết tại đất này: tôi sẽ không được sang sông Gio-đan, còn anh em thì sắp sang
và sẽ chiếm hữu miền đất tốt tươi ấy. 23 Anh em hãy ý tứ đừng quên
giao ước mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã lập với anh em, đừng làm tượng
thờ mang hình ảnh bất cứ cái gì mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã cấm
anh (em). 24 Thật vậy, Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), là một
ngọn lửa thiêu, một vị thần ghen tương.
25
Khi
anh em sinh con cháu và ở lâu trong xứ, nếu anh em ra hư hỏng, làm tượng thờ
mang hình ảnh bất cứ cái gì và làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, Thiên Chúa của
anh (em) mà trêu giận Người, 26 thì hôm nay tôi lấy trời đất làm
chứng cáo tội anh em: chắc chắn anh em sẽ mau chóng biến khỏi miền đất mà anh
em sắp sang sông Gio-đan để chiếm hữu; anh em sẽ không sống lâu ở đó, vì anh em
sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn. 27 Ðức Chúa sẽ phân tán anh em vào giữa
các dân, anh em sẽ chỉ còn là một dúm người giữa các dân nước mà Ðức Chúa sẽ
dẫn anh em đến. 28 Tại đó anh em sẽ phụng thờ các thần do tay người
phàm làm ra, là gỗ và đá, không nhìn không nghe, không ăn không ngửi.
29
Từ
chỗ đó anh em sẽ tìm Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và anh (em) sẽ thấy nếu
anh (em) hết lòng hết dạ kiếm tìm Người. 30 Khi anh (em) gặp cảnh
ngặt nghèo, khi tất cả những điều ấy xảy ra cho anh (em) sau này, anh (em) sẽ
trở lại với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) và sẽ nghe tiếng Người. 31 Thật
vậy Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) là Thiên Chúa từ bi: Người sẽ không bỏ
mặc anh (em), sẽ không tiêu diệt anh (em), sẽ không quên giao ước Người đã thề
với cha ông anh (em).
Ðược
Chúa chọn là một hồng ân
32
Anh
(em) cứ hỏi những thời xa xưa, thời có trước anh (em), từ ngày Thiên Chúa dựng
nên con người trên mặt đất; cứ hỏi từ chân trời này đến chân trời kia: có bao
giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế, hay có ai đã nghe điều giống như vậy
chăng? 33 Có dân nào đã được nghe tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám lửa như
anh (em) đã nghe, mà vẫn còn sống không? 34 Hoặc có thần nào đã ra công đi chọn
lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân tộc khác, đã dùng bao thử thách, dấu
lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, gây kinh hồn
táng đởm, như Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã làm cho anh em tại Ai-cập,
trước mắt anh (em) không?
35
Chính
anh (em) đã được cho thấy những điều đó, để biết rằng Ðức Chúa là Thiên Chúa và
ngoài Người ra không có thần nào khác nữa. 36 Từ trời, Người đã cho
anh (em) nghe tiếng Người, để dạy dỗ anh (em); dưới đất, Người đã cho anh (em)
thấy ngọn lửa lớn của Người, và anh (em) đã nghe các lời Người phán ra từ trong
đám lửa. 37 Bởi vì Người đã yêu thương cha ông anh (em), nên sau các
ngài, Người đã chọn dòng dõi các ngài, và đã đích thân dùng sức mạnh lớn lao
của Người đưa anh (em) ra khỏi Ai-cập. 38 Người đã đuổi những dân
lớn và mạnh hơn anh (em) cho khuất mắt anh (em), để đưa anh (em) vào đất của
chúng và ban cho anh (em) đất ấy làm gia nghiệp, như anh (em) thấy hôm nay.
39
Vậy
hôm nay, anh (em) phải biết và để tâm suy niệm điều này: trên trời cao cũng như
dưới đất thấp, chính Ðức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có thần nào khác nữa. 40
Anh (em) phải giữ các thánh chỉ và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi
truyền cho anh (em); như vậy anh (em) và con cháu anh (em) sau này sẽ được hạnh
phúc, và anh (em) sẽ được sống lâu trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), vĩnh viễn ban cho anh (em)."
Ba
thành làm nơi ẩn náu
41
Bấy
giờ ông Mô-sê tách ra ba thành ở bên kia sông Gio-đan, về phía đông, 42 làm
nơi ẩn náu cho kẻ sát nhân đã ngộ sát người đồng loại, mà trước đó không thù
ghét người ấy; nó sẽ vào ẩn náu tại một trong các thành ấy và sẽ được sống. 43
Ðó là: Be-xe, trong sa mạc, trên đất Cao Nguyên, cho chi tộc Rưu-vên;
Ra-mốt, trong miền Ga-la-át, cho chi tộc Gát; và Gô-lan, trong miền Ba-san, cho
chi tộc Mơ-na-se.
Diễn
Từ Thứ Hai Của Ông Mô-Sê
44
Ðây
là luật mà ông Mô-sê đã trình bày cho con cái Ít-ra-en. 45 Ðây là
những thánh ý, thánh chỉ và quyết định mà ông Mô-sê đã công bố cho con cái
Ít-ra-en khi họ ra khỏi Ai-cập, 46 lúc họ đang ở bên kia sông
Gio-đan, trong thung lũng, đối diện với Bết Pơ-o, trong đất của Xi-khôn, vua
người E-mô-ri, đóng đô ở Khét-bôn. Ông Mô-sê và con cái Ít-ra-en đã đánh bại
vua ấy khi họ ra khỏi Ai-cập, 47 đã chiếm hữu đất vua ấy và đất của
Ốc, vua miền Ba-san, là hai vua người E-mô-ri ở bên kia sông Gio-đan về phía
đông, 48 từ A-rô-e trên mé thung lũng Ác-nôn đến núi Xi-ôn, tức là
núi Khéc-môn, 49 với tất cả thung lũng A-ra-va, bên kia sông Gio-đan
về phía đông, đến biển A-ra-va, phía dưới sườn núi Pít-ga.
Chương 05
Mười
điều răn (Xh 20:1-17)
1
Ông
Mô-sê triệu tập toàn thể Ít-ra-en và nói với họ: "Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe
những thánh chỉ và quyết định mà hôm nay tôi nói cho anh em nghe; anh em phải
học cho biết những điều ấy và lo đem ra thực hành. 2 Ðức Chúa, Thiên
Chúa chúng ta, đã lập một giao ước với chúng ta tại núi Khô-rếp. 3 Ðức
Chúa đã lập giao ước này không phải với cha ông chúng ta, mà là với chúng ta,
những người hôm nay đang ở đây, tất cả còn đang sống. 4 Ðức Chúa đã
phán với anh em mặt đối mặt, trên núi, từ trong đám lửa. 5 Còn tôi,
thời ấy, tôi đứng giữa Ðức Chúa và anh em để thông báo cho anh em lời của Ðức
Chúa, vì anh em thấy lửa thì sợ và không lên núi. Người phán:
6
"Ta
là Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô
lệ.
7
Ngươi
không được có thần nào khác đối nghịch với Ta.
8
Ngươi
không được tạc tượng vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao cũng như dưới đất
thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. 9 Ngươi không
được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Ðức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, là một vị thần ghen tương. Ðối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu
đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. 10 Còn với những ai yêu mến
Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời.
11
Ngươi
không được dùng danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi một cách bất xứng, vì Thiên
Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng.
12
Ngươi
hãy giữ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh, như Ðức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, đã truyền cho ngươi. 13 Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và
làm mọi công việc của ngươi. 14 Còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát kính
Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả
ngươi, cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, bò lừa và mọi gia súc của
ngươi, và ngoại kiều ở trong thành của ngươi, để tôi tớ nam nữ của ngươi được
nghỉ như ngươi. 15 Ngươi hãy nhớ ngươi đã làm nô lệ tại đất Ai-cập,
và Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ngươi
ra khỏi đó. Bởi vậy, Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đã truyền cho ngươi cử hành
ngày sa-bát.
16
Ngươi
hãy thờ cha kính mẹ, như Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi,
để được sống lâu, và để được hạnh phúc trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa ngươi,
ban cho ngươi.
17
Ngươi
không được giết người.
18
Ngươi
không được ngoại tình.
19
Ngươi
không được trộm cắp.
20
Ngươi
không được làm chứng dối hại người.
21
Ngươi
không được ham muốn vợ người ta, ngươi không được thèm muốn nhà của người ta,
đồng ruộng, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta.” 22
Những lời ấy, Ðức Chúa đã phán với toàn thể đại hội anh em, trên núi, từ
trong đám lửa, giữa mây đen mù mịt, Người nói lớn tiếng và không thêm gì cả.
Người đã viết những lời ấy trên hai bia đá và ban cho tôi.
Ông
Mô-sê làm trung gian (Xh 20:18-21)
23
Khi
anh em nghe tiếng từ giữa bóng tối, và núi đang bốc lửa, thì anh em, tất cả
những người đứng đầu các chi tộc và những kỳ mục của anh em, đã đến gặp tôi 24
và nói: "Này Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, đã cho chúng tôi thấy Người
thật vinh quang và vĩ đại, và chúng tôi đã nghe tiếng của Người từ trong đám
lửa. Hôm nay chúng tôi đã thấy rằng Thiên Chúa phán với con người mà con người
vẫn sống. 25 Bây giờ tại sao chúng tôi phải chết? Vì ngọn lửa lớn
này có thể thiêu rụi chúng tôi. Chúng tôi mà cứ tiếp tục nghe tiếng của Ðức
Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, thì chúng tôi chết mất. 26 Thật vậy, có
người phàm nào đã được nghe tiếng của Thiên Chúa hằng sống phán từ trong đám
lửa, như chúng tôi đã được nghe, mà vẫn còn sống? 27 Phần ông, ông hãy lại gần
và nghe tất cả những gì Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, phán, rồi ông sẽ nói
cho chúng tôi tất cả những gì Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, phán với ông;
chúng tôi sẽ nghe và đem ra thực hành."
28
Ðức
Chúa đã nghe thấy giọng nói của anh em khi anh em nói với tôi; Ðức Chúa phán
với tôi: "Ta đã nghe thấy giọng nói của dân này khi chúng nói với ngươi:
Tất cả những gì chúng nói là phải. 29 Phải chi chúng luôn luôn có
một tấm lòng như thế để kính sợ Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta mọi ngày, như
vậy chúng và con cái chúng sẽ được hạnh phúc mãi mãi! 30 Ngươi hãy đi bảo
chúng: "Anh em hãy trở về lều! 31 Còn ngươi, đứng lại đây với Ta; Ta sẽ
phán với ngươi tất cả mệnh lệnh, các thánh chỉ và quyết định mà ngươi sẽ dạy
cho chúng, ngõ hầu chúng đem ra thực hành trong đất mà Ta ban cho chúng để
chúng chiếm hữu."
Yêu
mến Chúa: điểm chủ yếu của lề luật
32
Anh
em hãy lo thực hành như Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em,
không đi trệch bên phải bên trái. 33 Anh em hãy đi đúng con đường mà
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em, để anh em được sống,
được hạnh phúc và được sống lâu trên mặt đất mà anh em sẽ chiếm hữu.
Chương 06
1
Ðây
là mệnh lệnh, là những thánh chỉ và quyết định mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
em, đã truyền phải dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành trong đất anh em
sắp sang chiếm hữu. 2 Như vậy anh (em) cũng như con cháu anh (em) sẽ
kính sợ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mọi ngày trong suốt cuộc đời, tuân
giữ tất cả những chỉ thị và mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh (em), và
anh (em) sẽ được sống lâu. 3 Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe và lo đem những
điều ấy ra thực hành; như vậy anh (em) sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông
đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật, như Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông
anh (em), đã phán với anh (em).
4
Nghe
đây, hỡi Ít-ra-en! Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Ðức Chúa duy nhất. 5 Hãy
yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em). 6
Những lời này tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh (em) phải ghi tạc vào
lòng. 7 Anh (em) phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại
cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi
thức dậy, 8 phải buộc những lời ấy vào tay làm dấu, mang trên trán
làm phù hiệu, 9 phải viết lên khung cửa nhà anh (em), và lên cửa
thành của anh (em).
10
Khi
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đưa anh (em) vào đất Người đã thề với cha
ông anh (em), là ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, rằng Người sẽ ban
cho anh (em); khi anh (em) được những thành lớn và đẹp mà anh (em) đã không xây,
11 những nhà đầy mọi thứ của cải mà anh (em) đã không để vào đó,
những bể nước đào sẵn mà anh (em) đã không đào, những vườn nho và vườn ô-liu mà
anh (em) đã không trồng; khi anh (em) được ăn uống no nê, 12 thì
phải ý tứ đừng quên Ðức Chúa, Ðấng đã đưa anh (em) ra khỏi đất Ai-cập, khỏi
cảnh nô lệ. 13 Chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), là Ðấng anh
(em) phải kính sợ; chính Người là Ðấng anh (em) phải phụng thờ; anh (em) sẽ
nhân danh Người mà thề.
Kêu
gọi trung thành
14
Anh
em không được theo những thần khác trong số các thần của các dân chung quanh
anh em, 15 vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), Ðấng ở giữa anh
(em), là một vị thần ghen tương; hãy coi chừng kẻo Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), nổi cơn thịnh nộ với anh (em) và tiêu diệt anh (em), không còn cho sống
trên mặt đất. 16 Anh em đừng thách thức Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
em, như anh em đã thách thức ở Ma-xa. 17 Phải cẩn thận giữ các mệnh
lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, cũng như các thánh ý và thánh chỉ
Người đã truyền cho anh (em). 18 Anh (em) phải làm điều Ðức Chúa coi
là ngay thẳng và tốt lành, để anh (em) được hạnh phúc và được vào chiếm hữu
miền đất tốt tươi mà Ðức Chúa đã thề hứa với cha ông anh (em): 19 Ðức
Chúa sẽ đẩy lui mọi kẻ thù của anh (em) cho khuất mắt anh (em), như Người đã
phán.
20
Mai
ngày khi con anh (em) hỏi anh (em) rằng: "Vì sao có các thánh ý, thánh
chỉ, quyết định mà Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, đã truyền cho quý vị?” 21
Anh (em) sẽ trả lời cho con anh (em): "Chúng ta xưa làm nô lệ cho
Pha-ra-ô bên Ai-cập, nhưng Ðức Chúa đã ra tay uy quyền đưa chúng ta ra khỏi
Ai-cập. 22 Trước mắt chúng ta, Ðức Chúa đã thực hiện những điềm
thiêng dấu lạ lớn lao và khủng khiếp, phạt Ai-cập, phạt Pha-ra-ô và tất cả
triều đình vua ấy. 23 Còn chúng ta, Người đã đưa ra khỏi đó, để dẫn
chúng ta vào và ban cho chúng ta đất Người đã thề hứa với cha ông chúng ta. 24
Ðức Chúa đã truyền cho chúng ta đem ra thực hành tất cả những thánh chỉ
này và kính sợ Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, để chúng ta được hạnh phúc mọi
ngày và để Người cho chúng ta được sống, như ngày hôm nay. 25 Chúng
ta sẽ là người công chính, nếu chúng ta lo đem ra thực hành tất cả mệnh lệnh
này trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, như Người đã truyền cho chúng
ta."
Chương 07
Ít-ra-en,
một dân được tách riêng ra (Xh 34:11-16)
1
Khi
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đưa anh (em) vào đất anh (em) sắp đến chiếm
hữu, khi Người đuổi cho khuất mắt anh (em) nhiều dân tộc: người Khết,
Ghia-ga-si, E-mô-ri, Ca-na-an, Pơ-rít-di, Khi-vi, Giơ-vút, bảy dân tộc đông và
mạnh hơn anh (em); 2 khi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), trao
chúng cho anh (em) và anh (em) đánh bại chúng, thì anh (em) phải tru hiến
chúng, không được lập giao ước với chúng và không được thương xót chúng. 3
Anh (em) không được kết nghĩa thông gia với chúng: không được gả con gái
anh (em) cho con trai chúng và cưới con gái chúng cho con trai anh (em), 4
vì điều đó sẽ khiến con trai anh (em) không còn theo Ðức Chúa nữa, nó sẽ
thờ những thần khác; bấy giờ Ðức Chúa sẽ nổi cơn thịnh nộ với anh (em) và sẽ
mau chóng tiêu diệt anh (em). 5 Nhưng anh (em) phải xử với chúng thế
này: bàn thờ của chúng, phải phá huỷ; trụ đá của chúng, phải đập tan; cột thờ
của chúng, phải chặt đi; tượng thần của chúng, phải bỏ vào lửa mà thiêu. 6
Thật vậy, anh (em) là một dân thánh hiến cho Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em). Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) đã chọn anh (em) từ giữa muôn dân trên
mặt đất, làm một dân thuộc quyền sở hữu của Người.
Chúa
chọn và ưu đãi Ít-ra-en (Ðnl 28:1-14)
7
Ðức
Chúa đã đem lòng quyến luyến và chọn anh em, không phải vì anh em đông hơn mọi
dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân. 8 Nhưng chính là
vì yêu thương anh em, và để giữ lời thề hứa với cha ông anh em, mà Ðức Chúa đã
ra tay uy quyền đưa anh em ra và giải thoát anh em khỏi cảnh nô lệ, khỏi tay
Pha-ra-ô, vua Ai-cập. 9 Anh (em) phải biết rằng Ðức Chúa, Thiên Chúa
của anh (em), thật là Thiên Chúa, là Thiên Chúa trung thành: cho đến muôn ngàn
thế hệ, Người vẫn giữ giao ước và tình thương đối với những ai yêu mến Người và
giữ các mệnh lệnh của Người. 10 Còn ai thù ghét Người, thì Người
nhằm chính bản thân nó mà trả đũa, khiến nó phải chết; với kẻ thù ghét Người,
Người không trì hoãn, Người nhằm chính bản thân nó mà trả đũa. 11 Vậy
anh (em) phải tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định mà hôm nay tôi
truyền cho anh (em) đem ra thực hành.
12
Nếu
anh em nghe, giữ và đem ra thực hành các quyết định này, thì bù lại, đối với
anh (em), Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ giữ giao ước và tình thương mà
Người đã thề hứa với cha ông anh (em). 13 Người sẽ yêu thương anh
(em), chúc phúc cho anh (em), sẽ làm cho anh (em) nên đông đúc. Người sẽ chúc
phúc làm cho lòng dạ và đất đai của anh (em) sinh hoa kết quả: lúa mì, rượu
mới, dầu tươi, lứa bò, lứa chiên, ở trên đất mà Người đã thề với cha ông anh
(em) là sẽ ban cho anh (em). 14 Anh (em) sẽ được phúc lành hơn mọi
dân, và giữa anh (em) không đàn ông, đàn bà nào không có khả năng sinh con, gia
súc của anh (em) cũng vậy. 15 Ðức Chúa sẽ đẩy xa anh (em) mọi bệnh
tật, mọi dịch tễ khốc hại của Ai-cập mà anh (em) từng biết; Người sẽ không
giáng những thứ đó xuống anh (em), nhưng sẽ bắt những kẻ ghét anh (em) phải
chịu.
16
Anh
(em) sẽ thôn tính mọi dân mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh
(em); đừng nhìn chúng mà thương hại và đừng phụng thờ các thần của chúng: điều
đó có thể trở thành cạm bẫy cho anh (em).
Quyền
lực của Thiên Chúa
17
Có
khi anh (em) sẽ tự bảo: "Những dân tộc ấy đông hơn ta, làm sao ta có thể
trục xuất chúng được?” 18 Nhưng anh (em) đừng sợ chúng. Anh (em) chỉ
cần nhớ lại cách Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã xử với Pha-ra-ô và toàn
cõi Ai-cập: 19 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) đã dùng các thử
thách lớn lao mắt anh (em) từng thấy, đã dùng các dấu lạ điềm thiêng, và dang
cánh tay mạnh mẽ uy quyền để đưa anh (em) ra. Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), sẽ xử như thế với mọi dân mà anh (em) sợ. 20 Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh (em), sẽ gởi cả ong bầu đến với chúng, cho đến khi những kẻ còn
lại, những kẻ trốn tránh để khỏi giáp mặt anh (em), bị tiêu diệt.
21
Ðừng
run khiếp trước mặt chúng, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ở giữa anh
(em), là một Thiên Chúa vĩ đại, khả uý. 22 Ðức Chúa, Thiên Chúa của
anh (em), sẽ dần dần đuổi các dân tộc đó cho khuất mắt anh (em); anh (em) sẽ
không thể tận diệt chúng mau chóng, kẻo dã thú sinh sôi nảy nở làm hại anh (em).
23 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ trao chúng cho anh (em) và
sẽ làm cho chúng vô cùng hoảng sợ, cho đến khi chúng bị tiêu diệt. 24 Người
sẽ trao các vua của chúng vào tay anh (em), anh (em) sẽ làm cho tên chúng biến
mất không còn dấu vết trong thiên hạ, và không ai sẽ đứng vững được trước mặt
anh (em), cho đến khi anh (em) tiêu diệt chúng.
25
Tượng
các thần của chúng, anh (em) phải bỏ vào lửa mà thiêu. Anh (em) đừng ham muốn
bạc vàng trên các tượng ấy mà lấy cho mình, kẻo anh (em) bị mắc bẫy, vì đó là
vật ghê tởm đối với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em). 26 Anh (em)
đừng đưa một vật ghê tởm vào nhà anh (em), vì anh (em) sẽ trở thành của tru
hiến như nó. Anh (em) phải kỵ nó và ghê tởm nó, vì nó là của tru hiến.
Chương 08
Thử
thách trong sa mạc
1
Tất
cả mệnh lệnh mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh em hãy lo đem ra thực hành
để anh em được sống, được trở nên đông đúc và được vào chiếm hữu đất mà Ðức
Chúa đã thề hứa với cha ông anh em. 2 Anh (em) phải nhớ lại tất cả
con đường mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã dẫn anh (em) đi suốt bốn
mươi năm nay trong sa mạc, để bắt anh (em) phải cùng cực; như vậy Người thử
thách anh (em) cho biết lòng dạ anh (em), xem anh (em) có giữ các mệnh lệnh của
Người hay không. 3 Người đã bắt anh (em) phải cùng cực, phải đói,
rồi đã cho anh (em) ăn man-na là của ăn anh (em) chưa từng biết và cha ông anh
(em) cũng chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh (em) nhận biết rằng người ta sống
không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Ðức Chúa phán ra. 4
Bốn mươi năm qua, áo anh (em) mặc đã không rách, chân anh (em) đã không
sưng lên.
5
Suy
nghĩ lại, anh (em) phải nhận biết rằng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), giáo
dục anh (em), như một người giáo dục con mình. 6 Anh (em) phải giữ
các mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mà đi theo đường lối của
Người và kính sợ Người.
Ðề
phòng các cám dỗ khi vào đất hứa
7
Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sắp đưa anh (em) vào một miền đất tốt tươi, miền
đất có những dòng nước, những suối, những mạch nước ngầm chảy ra trong đồng
bằng và trên núi, 8 miền đất có lúa mì, lúa mạch, cây nho, cây vả,
cây lựu, miền đất có cây ô-liu để ép dầu và có mật ong, 9 miền đất ở
đó anh (em) sẽ ăn bánh mà không bị hạn chế, ở đó anh (em) sẽ không thiếu thốn
gì, miền đất mà đá là sắt, và núi có đồng cho anh (em) khai thác. 10 Anh
(em) sẽ được ăn, sẽ được no nê và sẽ chúc tụng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), vì miền đất tốt tươi mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh
(em).
11
Anh
(em) hãy ý tứ đừng quên Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mà không giữ các
mệnh lệnh, quyết định và thánh chỉ của Người, mà tôi truyền cho anh (em) hôm
nay. 12 Khi anh (em) được ăn, được no nê, khi anh (em) xây nhà đẹp
để ở, 13 khi anh (em) có nhiều bò và chiên dê, nhiều vàng bạc và
nhiều mọi thứ của cải, 14 thì lòng anh (em) đừng kiêu ngạo mà quên
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), Ðấng đã đưa anh (em) ra khỏi đất Ai-cập,
khỏi cảnh nô lệ. 15 Người đã dẫn anh (em) đi trong sa mạc mênh mông
khủng khiếp, đầy rắn lửa và bọ cạp, trong miền đất khô cằn không giọt nước.
Người đã khiến nước từ tảng đá hoa cương chảy ra cho anh (em) uống. 16 Trong
sa mạc, Người đã cho anh (em) ăn man-na, thức ăn mà cha ông anh (em) chưa từng
biết, để bắt anh (em) phải cùng cực và thử thách anh (em), hầu làm cho anh (em)
được hạnh phúc trong tương lai.
17
Anh
(em) đừng tự bảo: "Chính năng lực của tôi và sức mạnh bàn tay tôi đã tạo
ra cho tôi sự giàu có này.” 18 Anh (em) hãy nhớ Ðức Chúa, Thiên Chúa
của anh (em), vì Người ban cho anh (em) năng lực tạo ra sự giàu có, để Người
giữ vững giao ước đã thề với cha ông anh (em), như anh (em) thấy hôm nay. 19
Nhưng nếu chẳng may anh (em) quên lãng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em),
mà theo các thần khác, phụng thờ và sụp xuống lạy chúng, thì hôm nay tôi cảnh
cáo anh em: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong; 20 như các dân mà Ðức
Chúa sắp tiêu diệt cho khuất mắt anh em, anh em cũng sẽ bị diệt vong như vậy,
vì đã không nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em.
Chương 09
Chiến
thắng là nhờ Chúa, chứ không phải vì Ít-ra-en công chính
1
Nghe
đây, hỡi Ít-ra-en! Hôm nay anh (em) sắp qua sông Gio-đan để vào trục xuất những
dân tộc lớn và mạnh hơn anh (em), có những thành lớn và tường luỹ ngất trời, 2
một dân lớn và cao, là con cái A-nác, mà anh (em) biết và anh (em) đã
nghe nói: "Ai đứng vững được trước mặt con cái A-nác?” 3 Hôm
nay, anh (em) phải biết rằng: chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ đi
qua trước mặt anh (em) như ngọn lửa thiêu; chính Người sẽ tiêu diệt chúng,
chính Người sẽ hạ chúng xuống trước mặt anh (em). Anh (em) sẽ trục xuất chúng,
sẽ làm chúng bị diệt vong mau lẹ, như Người đã phán với anh (em). 4 Khi
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đẩy lui chúng cho khuất mắt anh (em) thì anh
(em) đừng tự bảo rằng: "Chính vì tôi công chính mà Ðức Chúa đã đưa tôi vào
chiếm hữu đất này"; thật ra chính vì các dân tộc ấy có tội mà Ðức Chúa
trục xuất chúng cho khuất mắt anh (em). 5 Không phải vì anh (em)
công chính hay vì lòng anh (em) ngay thẳng mà anh (em) sắp được vào chiếm hữu
đất của chúng, nhưng chính vì các dân tộc ấy có tội mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của
anh (em), trục xuất chúng cho khuất mắt anh (em). Ðức Chúa làm như vậy để giữ
vững lời Người đã thề với cha ông anh (em), là ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và
ông Gia-cóp. 6 Anh (em) phải biết rằng không phải vì anh (em) công
chính mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) miền đất tốt tươi
ấy để anh (em) chiếm hữu; thật vậy, anh (em) là một dân cứng cổ.
Dân
phạm tội tại núi Khô-rếp. Ông Mô-sê cầu thay cho dân.
7
Anh
(em) phải nhớ, đừng quên rằng anh (em) đã chọc giận Ðức Chúa, Thiên Chúa của
anh (em), trong sa mạc. Từ ngày anh (em) ra khỏi đất Ai-cập cho đến khi tới
đây, anh em đã phản nghịch chống lại Ðức Chúa. 8 Tại núi Khô-rếp,
anh em đã chọc giận Ðức Chúa, và Người đã nổi cơn thịnh nộ với anh em đến nỗi
muốn tiêu diệt anh em. 9 Khi lên núi để nhận các bia đá, những tấm
bia giao ước mà Ðức Chúa đã lập với anh em, tôi đã ở trên núi bốn mươi ngày bốn
mươi đêm, không ăn bánh, không uống nước. 10 Ðức Chúa đã ban cho tôi
hai bia đá do ngón tay Thiên Chúa viết, trên đó có mọi lời Ðức Chúa đã phán với
anh em trên núi, từ trong đám lửa, trong ngày đại hội. 11 Sau bốn
mươi ngày bốn mươi đêm, Ðức Chúa ban cho tôi hai bia đá, là những tấm bia giao
ước. 12 Bấy giờ, Ðức Chúa phán với tôi: "Ðứng lên! Mau xuống
khỏi đây, vì dân của ngươi đã hư hỏng rồi, dân mà ngươi đã đưa ra khỏi Ai-cập.
Chúng đã vội đi ra ngoài con đường Ta đã truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một
tượng để thờ.” 13 Ðức Chúa phán với tôi: "Ta thấy rằng dân này
là một dân cứng cổ. 14 Cứ để mặc Ta làm, Ta sẽ tiêu diệt chúng, sẽ
xoá tên chúng không còn dấu vết trong thiên hạ. Nhưng Ta sẽ làm cho ngươi thành
một dân tộc mạnh và đông hơn chúng."
15
Tôi
đã quay xuống núi, bấy giờ núi đang bốc lửa, hai tay tôi cầm hai tấm bia giao
ước. 16 Tôi đã thấy anh em phạm tội nghịch cùng Ðức Chúa, Thiên Chúa
của anh em: anh em đã đúc tượng một con bê để thờ, anh em đã vội đi ra ngoài
con đường Ðức Chúa đã truyền cho anh em đi. 17 Tôi bèn nắm lấy hai
bia đá, dùng hai tay mà ném, và đập vỡ hai tấm bia đó trước mắt anh em. 18
Tôi đã phục xuống trước mặt Ðức Chúa; như lần trước, suốt bốn mươi ngày
bốn mươi đêm, tôi không ăn bánh, không uống nước, vì mọi tội anh em đã phạm,
khi làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa mà trêu giận Người. 19 Ấy vì tôi
kinh hãi cơn thịnh nộ và trận lôi đình của Ðức Chúa đang bùng lên chống lại anh
em, đến nỗi Người muốn tiêu diệt anh em; nhưng cả lần này nữa Ðức Chúa cũng
nhận lời tôi. 20 Với ông A-ha-ron, Ðức Chúa cũng nổi cơn thịnh nộ dữ
dội, đến nỗi muốn tiêu diệt ông ấy; lúc đó, tôi cũng cầu xin cho ông A-ha-ron
nữa. 21 Còn sản phẩm tội lỗi anh em đã làm ra, là con bê, tôi đã
lấy, bỏ vào lửa mà thiêu, nghiền nát, tán kỹ, đến nhuyễn thành bụi, rồi ném bụi
đó xuống khe nước từ núi chảy ra.
Những
tội khác của dân. Ông Mô-sê cầu nguyện.
22
Tại
Táp-ê-ra, Ma-xa và Kíp-rốt Ha Ta-a-va, anh em đã chọc giận Ðức Chúa. 23 Khi
Ðức Chúa sai anh em đi từ Ca-đê Bác-nê-a và phán: "Hãy lên và chiếm hữu
đất Ta ban cho các ngươi", anh em đã cưỡng lệnh Ðức Chúa, Thiên Chúa của
anh em, đã không tin vào Người và không nghe tiếng Người. 24 Anh em
đã phản nghịch chống lại Ðức Chúa từ ngày tôi biết anh em.
25
Tôi
đã phục xuống trước mặt Ðức Chúa, suốt bốn mươi ngày bốn mươi đêm tôi đã phục
xuống, vì Ðức Chúa đã nói đến chuyện tiêu diệt anh em. 26 Tôi cầu
xin Ðức Chúa và thưa rằng: "Lạy Chúa là Ðức Chúa, xin đừng huỷ diệt dân
ngài, cơ nghiệp Ngài đã dùng sức mạnh lớn lao của Ngài để giải thoát, và đã ra
tay uy quyền đưa ra khỏi Ai-cập. 27 Xin nhớ đến các tôi tớ Ngài là
ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, xin đừng để ý đến sự ngoan cố, sự
gian ác và tội của dân này, 28 kẻo tại miền đất từ đó Ngài đã đưa
chúng con ra, người ta lại nói: "Chính vì Ðức Chúa đã không thể đưa chúng
vào đất Người đã thề hứa với chúng, và chính vì ghét chúng mà Người đã đưa
chúng ra để giết chúng trong sa mạc! 29 Thế nhưng đó là dân Ngài, cơ nghiệp
Ngài đã dùng sức mạnh lớn lao và cánh tay uy quyền đưa ra khỏi đất Ai-cập."
Chương 10
Chúa
truyền làm Hòm Bia. Chi tộc Lê-vi được chọn. (Xh 34:1-10)
1
Thời
ấy, Ðức Chúa phán bảo tôi: "Hãy đẽo hai bia đá như những bia trước, và lên
núi với Ta. Ngươi cũng hãy làm một hòm gỗ. 2 Ta sẽ viết trên các bia
những lời đã có trên các bia trước mà ngươi đã đập vỡ, và ngươi hãy đặt các bia
ấy trong hòm.” 3 Tôi đã làm một hòm bằng gỗ keo, và đẽo hai bia đá
như những bia trước, và đã lên núi, trong tay cầm hai bia đá. 4 Người
đã viết trên các bia điều đã viết lần trước, là mười lời Ðức Chúa đã phán với
anh em trên núi, từ trong đám lửa, trong ngày đại hội. Rồi Ðức Chúa ban những
bia đó cho tôi. 5 Tôi quay xuống núi, đặt các bia vào hòm tôi đã
làm, và các bia vẫn còn đó, như Ðức Chúa đã truyền cho tôi.
6
Từ
những giếng Bơ-nê Gia-a-can, con cái Ít-ra-en lên đường đi Mô-xê-ra. Ông
A-ha-ron qua đời và được chôn cất tại đó. Ông E-la-da, con ông, thi hành chức
vụ tư tế thay ông. 7 Từ chỗ đó, họ lên đường đi Gút-gô-đa, rồi từ
Gút-gô-đa đi Giót-va-tha, một đất có nhiều khe nước. 8 Thời ấy, Ðức
Chúa tách chi tộc Lê-vi ra, để họ mang Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa, chầu chực
trước nhan Ðức Chúa, phụng sự Người và chúc phúc nhân danh Người, cho đến ngày
nay. 9 Vì thế, chi tộc Lê-vi không được chung phần và hưởng gia
nghiệp với anh em mình; chính Ðức Chúa là gia nghiệp của họ, như Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), đã phán với họ.
10
Phần
tôi, tôi ở trên núi, như những ngày trước, suốt bốn mươi ngày bốn mươi đêm, và
cả lần này nữa Ðức Chúa cũng nhận lời tôi: Người đã không muốn huỷ diệt anh
(em). 11 Ðức Chúa phán với tôi: "Ðứng dậy! hãy lên đường và đi
phía trước dân, để chúng vào chiếm hữu đất mà Ta đã thề với cha ông chúng rằng
Ta sẽ ban cho chúng."
Cắt
bì trong tâm hồn
12
Giờ
đây, hỡi Ít-ra-en, nào Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), có đòi hỏi anh (em)
điều gì khác đâu, ngoài việc phải kính sợ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đi
theo mọi đường lối của Người, yêu mến phụng thờ Người hết lòng, hết dạ, 13
giữ các mệnh lệnh của Ðức Chúa và các thánh chỉ của Người mà tôi truyền
cho anh (em) hôm nay, để anh (em) được hạnh phúc?
14
Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), làm chủ cõi trời và các tầng trời cao nhất, cõi
đất và muôn loài trong đó. 15 Nhưng chỉ có cha ông của anh (em) là
được Ðức Chúa đem lòng quyến luyến yêu thương; sau các ngài, giữa muôn dân,
Người đã chọn dòng dõi các ngài tức là anh em, như anh em thấy ngày hôm nay. 16
Vậy anh em hãy cắt bì tâm hồn anh em và đừng cứng cổ nữa, 17 vì
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Thần các thần, là Chúa các chúa, là Thiên
Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả uý, là Ðấng không thiên vị ai và không nhận quà hối
lộ, 18 là Ðấng xử công minh cho cô nhi quả phụ, và yêu thương ngoại
kiều, cho họ bánh ăn áo mặc. 19 Anh em phải yêu thương ngoại kiều,
vì anh em đã từng là ngoại kiều ở đất Ai-cập. 20 Chính Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), là Ðấng anh (em) phải kính sợ; chính Người là Ðấng anh
(em) phải phụng thờ; anh (em) phải gắn bó với Người; anh (em) sẽ nhân danh
Người mà thề; 21 chính Người là Ðấng anh (em) phải ca tụng; chính
Người là Thiên Chúa của anh (em), Ðấng đã làm cho anh (em) những điều lớn lao
và khủng khiếp mà chính mắt anh (em) đã thấy đó. 22 Cha ông của anh
(em) chỉ có bảy mươi người khi xuống Ai-cập, mà bây giờ Ðức Chúa, Thiên Chúa
của anh (em), đã làm cho anh (em) nên nhiều như sao trên trời.
Chương 11
Kinh
nghiệm của Ít-ra-en
1
Anh
(em) phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và mọi ngày phải giữ điều
Người truyền giữ, là các thánh chỉ, quyết định và mệnh lệnh của Người. 2 Hôm
nay, anh em - chứ không phải con cái anh em, những kẻ không biết và không thấy
- anh em biết bài học Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã dạy, biết sức mạnh
lớn lao và cánh tay mạnh mẽ uy quyền của Người; 3 anh em biết những
dấu lạ và hành động Người đã làm ngay tại Ai-cập chống lại Pha-ra-ô, vua
Ai-cập, và cả nước vua ấy; 4 anh em biết việc Người đã làm chống
quân đội Ai-cập cùng với chiến mã và chiến xa của chúng, khi Người cho nước
Biển Sậy tràn ngập lên chúng, đang lúc chúng đuổi theo anh em, và Ðức Chúa đã
huỷ diệt chúng cho đến ngày nay; 5 anh em biết việc Người đã làm cho
anh em trong sa mạc cho đến khi anh em tới đất này; 6 anh em biết
việc Người đã làm để phạt Ða-than và A-vi-ram, là con của Ê-li-áp thuộc chi tộc
Rưu-vên, khi đất há miệng nuốt chúng ngay giữa toàn thể Ít-ra-en, cùng với gia
đình chúng, lều chúng và mọi kẻ theo bước chân chúng. 7 Chính mắt
anh em đã thấy tất cả hành động lớn lao Ðức Chúa đã làm.
Hứa
hẹn và cảnh cáo
8
Vậy
anh em phải giữ tất cả mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay, để anh em được
mạnh sức và vào chiếm hữu đất anh em sắp sang chiếm hữu, 9 và để anh
em được sống lâu trên đất, mà Ðức Chúa đã thề với cha ông anh em là sẽ ban cho
các ngài và dòng dõi các ngài, một đất tràn trề sữa và mật.
10
Thật
vậy, đất anh (em) sắp vào chiếm hữu không như đất Ai-cập mà anh em đã bỏ ra đi:
ở đó anh em gieo giống rồi phải dùng chân mà tưới như tưới vườn rau. 11 Còn
đất mà anh em sắp sang chiếm hữu là một miền đất có núi non và thung lũng, thấm
nước mưa trời, 12 miền đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em),
chăm sóc: Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), luôn luôn để mắt tới đất ấy, từ
đầu năm đến cuối năm.
13
Nếu
các ngươi thực sự vâng nghe những mệnh lệnh Ta truyền cho các ngươi hôm nay, mà
yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, và phụng thờ Người hết lòng hết dạ,
14 thì Ta sẽ ban mưa cho đất các ngươi đúng mùa, mưa đầu mùa và mưa
cuối mùa, và (các) ngươi sẽ thu hoạch lúa mì, rượu mới và dầu tươi của (các)
ngươi. 15 Ta sẽ cho cỏ mọc trong cánh đồng của (các) ngươi, cho súc
vật của (các) ngươi ăn. (Các) ngươi sẽ được ăn và được no nê.
16
Anh
em hãy ý tứ kẻo lòng anh em bị quyến rũ mà bỏ đi phụng thờ những thần khác và
sụp xuống lạy chúng, 17 vì Ðức Chúa sẽ nổi cơn thịnh nộ với anh em,
Người sẽ đóng cửa trời: sẽ chẳng còn mưa, đất sẽ không còn trổ sinh hoa trái,
và anh em sẽ mau chóng biến khỏi miền đất tốt tươi mà Ðức Chúa ban cho anh em.
Kết
luận
18
Những
lời tôi nói đây, anh em phải ghi lòng tạc dạ, phải buộc vào tay làm dấu, mang
trên trán làm phù hiệu. 19 Anh em phải dạy những lời ấy cho con cái,
mà nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng
như khi thức dậy. 20 Anh em phải viết lên khung cửa nhà anh (em) và
lên cửa thành của anh (em). 21 Như vậy, bao lâu trời còn che đất,
anh em và con cái anh em còn được sống trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
em, đã thề với cha ông anh em rằng Người sẽ ban cho các ngài.
22
Nếu
anh em cẩn thận giữ tất cả mệnh lệnh tôi truyền cho anh em đem ra thực hành, mà
yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người và gắn
bó với Người, 23 thì Ðức Chúa sẽ trục xuất mọi dân tộc ấy cho khuất
mắt anh em, và anh em sẽ trục xuất những dân tộc lớn và mạnh hơn anh em. 24
Mọi nơi bàn chân anh em giẫm lên sẽ là của anh em: từ sa mạc và núi
Li-băng, từ Sông Cả, là sông Êu-phơ-rát, cho đến Biển Tây, sẽ là lãnh thổ của
anh em. 25 Không ai sẽ đứng vững được trước mặt anh em; Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh em, sẽ làm cho tất cả miền đất anh em giẫm lên phải kinh
khiếp sợ hãi anh em, như Người đã phán với anh em.
26
Hãy
xem, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc được chúc phúc hoặc bị nguyền rủa.
27 Anh em sẽ được chúc phúc nếu vâng nghe những mệnh lệnh của Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà tôi truyền cho anh em hôm nay. 28 Anh
em sẽ bị nguyền rủa, nếu không vâng nghe những mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh em, nếu anh em bỏ con đường hôm nay tôi truyền cho anh em phải đi,
mà theo những thần khác anh em không biết. 29 Khi Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh (em), đã đưa anh (em) tới đất mà anh (em) đang vào chiếm hữu, anh
(em) sẽ đặt lời chúc phúc trên núi Ga-ri-dim và lời nguyền rủa trên núi Ê-van.
- 30 Những núi ấy ở bên kia sông Gio-đan, trên con đường phía tây, trong đất
người Ca-na-an là người ở miền A-ra-va, đối diện với Ghin-gan, bên cạnh cụm sồi
Mô-re. - 31 Thật vậy, anh em sắp sang sông Gio-đan để vào chiếm hữu đất mà Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh em, ban cho anh em. Anh em sẽ chiếm hữu và ở trong đất
ấy. 32 Vậy anh em phải lo đem ra thực hành mọi thánh chỉ và quyết
định mà hôm nay tôi trình bày cho anh em.
Chương 12
II.
Bộ Ðệ Nhị Luật
1
Ðây
là những thánh chỉ và quyết định mà anh em phải lo đem ra thực hành, trong đất
mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh (em), đã ban cho anh (em) để anh (em)
chiếm hữu, mọi ngày anh em sống trên mặt đất.
Nơi
thờ phượng
2
Anh
em phải dẹp bỏ hết mọi nơi mà các dân tộc anh em sắp trục xuất đã phụng thờ các
thần của chúng, trên các núi cao, các ngọn đồi và dưới mọi cây xanh. 3 Anh
em phải phá huỷ bàn thờ của chúng, đập tan trụ đá của chúng; cột thờ của chúng,
anh em phải bỏ vào lửa mà thiêu; tượng các thần của chúng, anh em phải vằm nát;
anh em phải xoá bỏ tên chúng khỏi nơi ấy.
4
Anh
em không được làm như vậy đối với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em. 5 Anh
em sẽ chỉ được tìm Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, ở nơi Người chọn trong mọi
chi tộc của anh em làm chỗ đặt Danh Người, làm nơi Người ngự; anh (em) sẽ đến
đó. 6 Anh em sẽ đưa tới đó lễ toàn thiêu và hy lễ của anh em, thuế
thập phân và phần dâng cúng của anh em, lễ vật anh em đã khấn hứa, lễ vật tự
nguyện, những con đầu lòng trong đàn bò và đàn chiên dê của anh em. 7 Ở
đó, anh em sẽ ăn uống trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ liên hoan
với cả nhà anh em, để mừng mọi công việc tay anh em đã làm, nhờ được Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), chúc phúc.
8
Anh
em sẽ không làm như chúng ta đang làm ở đây hôm nay: mỗi người làm điều mình
cho là phải. 9 Thật vậy, cho đến bây giờ anh em chưa đạt tới chốn
nghỉ ngơi và phần gia nghiệp mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh
(em). 10 Anh em sắp sang qua sông Gio-đan và ở trong đất mà Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh em, cho anh em hưởng làm gia nghiệp. Người sẽ cho anh
em được thảnh thơi mọi bề không còn thù địch nào nữa, và anh em sẽ được sống
yên hàn. 11 Nơi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, chọn cho Danh Người
ngự, anh em hãy đưa tới đó mọi thứ tôi truyền cho anh em: lễ toàn thiêu và hy
lễ của anh em, thuế thập phân và phần đóng góp của anh em, và tất cả những gì
anh em chọn lựa để làm vật khấn dâng Ðức Chúa. 12 Anh em sẽ liên
hoan trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, cùng với con trai con gái anh
em, tôi tớ nam nữ của anh em, với thầy Lê-vi ở trong các thành của anh em, vì
thầy ấy không được chung phần và hưởng gia nghiệp với anh em.
Chỉ
dẫn về việc dâng lễ tế
13
Hãy
ý tứ đừng dâng lễ toàn thiêu của anh (em) tại bất cứ nơi nào anh (em) thấy; 14
nhưng anh (em) sẽ chỉ dâng lễ toàn thiêu của anh (em) ở nơi Ðức Chúa chọn
tại một trong các chi tộc của anh (em), và ở đó anh (em) sẽ làm mọi điều tôi
truyền cho anh (em).
15
Tuy
nhiên, mỗi khi anh (em) thèm, anh (em) có thể giết súc vật và ăn thịt trong mọi
thành của anh (em), tuỳ theo phúc lành mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) ban
cho anh em. Người ô uế và người thanh sạch đều có thể ăn thịt đó như ăn thịt
sơn dương hay thịt nai. 16 Nhưng tiết thì anh em không được ăn; anh
(em) sẽ đổ xuống đất như đổ nước.
17
Thuế
thập phân lúa mì, rượu mới, dầu tươi của anh (em), những con đầu lòng trong đàn
bò và đàn chiên dê của anh (em), mọi lễ vật anh (em) đã khấn hứa, lễ vật tự
nguyện và phần dâng cúng của anh (em), anh (em) sẽ không được ăn những thứ đó
trong các thành của anh (em); 18 nhưng chỉ được ăn trước nhan Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ở nơi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) chọn, và
ăn cùng với con trai con gái anh em, tôi tớ nam nữ của anh em, và thầy Lê-vi ở
trong các thành của anh (em); anh (em) sẽ liên hoan trước nhan Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh (em), để mừng mọi công việc tay anh (em) đã làm. 19 Ngày
nào anh (em) còn trên đất của anh (em), hãy ý tứ đừng bỏ rơi thầy Lê-vi.
20
Khi
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mở rộng lãnh thổ của anh (em), như Người đã
phán với anh (em), và anh (em) nói: "Tôi muốn ăn thịt", vì anh (em)
thèm ăn thịt, thì anh (em) có thể ăn thịt mỗi khi anh (em) thèm. 21 Nếu
nơi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chọn làm chỗ đặt Danh Người mà ở xa anh
(em), thì anh (em) có thể giết bò và chiên dê Ðức Chúa ban cho anh (em), như
tôi đã truyền cho anh (em), và ăn trong các thành của anh (em), mỗi khi anh
(em) thèm. 22 Anh (em) sẽ ăn y như người ta ăn thịt sơn dương và
thịt nai; người ô uế và người thanh sạch sẽ cùng ăn với nhau. 23 Tuy
nhiên, anh (em) phải nhất quyết không ăn tiết, vì máu là mạng sống, và anh (em)
không được ăn mạng sống cùng với thịt. 24 Anh (em) không được ăn
tiết, anh (em) sẽ đổ xuống đất như đổ nước. 25 Anh (em) không được
ăn tiết; như vậy anh (em) và con cháu anh (em) sau này được hạnh phúc, vì anh
(em) làm điều Ðức Chúa coi là ngay thẳng. 26 Chỉ những gì anh (em)
phải thánh hiến và những lễ vật anh (em) khấn hứa, anh (em) mới mang đi và đưa
tới nơi Ðức Chúa chọn. 27 Anh (em) hãy dâng lễ toàn thiêu của anh
(em), cả thịt lẫn máu, trên bàn thờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em); còn hy
lễ của anh (em), thì máu sẽ đổ trên bàn thờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em),
thịt thì anh (em) sẽ ăn. 28 Anh (em) phải giữ và nghe những điều tôi
truyền cho anh (em) đây, để anh (em) và con cái anh (em) sau này được hạnh phúc
mãi mãi, bởi vì anh (em) đã làm điều Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), coi là
tốt lành và ngay thẳng.
Ðừng
bắt chước các việc tế tự của người Ca-na-an
29
Khi
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã quét sạch các dân tộc khỏi miền đất anh
(em) sắp vào để trục xuất chúng cho khuất mắt anh (em), khi anh (em) đã định cư
trên đất của chúng rồi, 30 thì hãy ý tứ đừng mắc bẫy mà theo chúng,
sau khi chúng đã bị tiêu diệt cho khuất mắt anh (em); hãy ý tứ đừng tìm các
thần của chúng và nói: "Các dân tộc ấy phụng thờ các thần của họ thế nào?
Cả tôi nữa, tôi cũng muốn làm như thế.” 31 Anh (em) đừng thờ Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), như thế, vì tất cả đều ghê tởm đối với Ðức Chúa;
điều Người ghét, thì chúng đã làm cho các thần của chúng; ngay cả các con trai
con gái của chúng, chúng cũng đã bỏ vào lửa mà thiêu để tế các thần của chúng.
Chương 13
1
Tất
cả điều tôi truyền cho anh em, anh em hãy lo đem ra thực hành; anh (em) đừng
thêm gì vào đó cũng đừng bớt gì.
Ðề
phòng kẻo bị lôi cuốn thờ thần ngoại
2
Nếu
ở giữa anh (em) xuất hiện một ngôn sứ hay một kẻ chuyên nghề chiêm bao và nó
báo trước cho anh (em) một dấu lạ hay một điềm thiêng, 3 nếu dấu lạ
hay điềm thiêng nó đã nói xảy ra, và nó bảo: "Chúng ta hãy theo và phụng
thờ các thần khác", những thần mà anh (em) không biết, 4 thì
anh (em) đừng nghe những lời của ngôn sứ hay kẻ chuyên nghề chiêm bao ấy, vì
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), thử thách anh em cho biết anh em có yêu mến
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ không. 5 Chính Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Ðấng anh em phải theo; chính Người là Ðấng anh
em phải kính sợ; anh em phải giữ các mệnh lệnh của Người, phải nghe tiếng
Người; chính Người là Ðấng anh em phải phụng thờ; anh em phải gắn bó với Người.
6 Ngôn sứ hay kẻ chuyên nghề chiêm bao ấy sẽ bị xử tử, vì nó đã hô
hào nổi loạn chống Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, Ðấng đã đưa anh em ra khỏi
đất Ai-cập và đã chuộc anh (em) khỏi cảnh nô lệ, và vì nó đã muốn lôi cuốn anh
(em) ra khỏi con đường Ðức Chúa đã truyền cho anh (em) phải đi. Anh (em) phải
khử trừ sự gian ác không cho tồn tại giữa anh (em).
7
Nếu
người anh em của anh (em), con của mẹ anh (em), hoặc con trai con gái anh (em),
hoặc người vợ anh (em) âu yếm, hoặc người bạn anh (em) coi như chính mình, lén
lút rủ rê anh (em): "Chúng ta hãy đi phụng thờ các thần khác" những
thần mà anh (em) và cha ông anh (em) không biết, 8 trong số các thần
của những dân ở chung quanh, gần hay xa anh (em), từ đầu đến cuối xứ, 9 thì
anh (em) đừng ưng thuận, đừng nghe nó, đừng nhìn nó mà thương hại, đừng xót
thương, đừng bao che nó; 10 trái lại, nhất định anh (em) phải giết
nó. Anh (em) phải là người đầu tiên tra tay giết nó, rồi toàn dân tiếp tay sau.
11 Anh (em) phải ném đá cho nó chết, và nó phải chết vì đã tìm cách
lôi cuốn anh (em) xa Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), Ðấng đã đưa anh (em) ra
khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. 12 Nghe nói thế, toàn thể Ít-ra-en
sẽ sợ và không còn làm điều xấu như vậy giữa anh (em).
13
Nếu
tại một trong những thành mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh
(em) để ở, anh (em) nghe nói rằng 14 có những tên vô lại phát xuất từ giữa anh
(em) và lôi cuốn dân thành chúng mà rằng: "Chúng ta hãy đi phụng thờ các
thần khác", những thần mà anh (em) không biết, 15 thì anh (em)
sẽ điều tra, dò xét, sẽ hỏi han kỹ lưỡng, và nếu thật sự và chắc chắn là người
ta đã làm điều ghê tởm đó giữa anh (em), 16 thì anh (em) phải dùng
lưỡi gươm giết dân thành ấy, phải tru hiến thành ấy với tất cả những gì trong
đó; cả súc vật ở đó cũng phải dùng lưỡi gươm mà giết. 17 Tất cả
những gì chiếm được trong thành, anh (em) phải gom vào giữa quảng trường, rồi
phóng hoả thành ấy với mọi thứ chiếm được, tất cả để dâng kính Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh (em). Thành ấy sẽ mãi mãi là một phế tích và sẽ không được xây
dựng lại nữa. 18 Ðừng để bất cứ vật tru hiến nào còn dính lại trong
tay anh (em). Như vậy Ðức Chúa sẽ nguôi cơn thịnh nộ, Người sẽ tỏ lòng từ bi và
thương xót anh (em), sẽ làm cho anh (em) nên đông đúc, như đã thề với cha ông
anh (em), 19 miễn là anh (em) nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của
anh (em), mà giữ mọi mệnh lệnh tôi truyền cho anh (em) hôm nay, và làm điều Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em) coi là ngay thẳng.
Chương 14
Cấm
một vài tập tục tang chế
1
Anh
em là những người con của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em. Anh em không được
rạch mình và không được cạo tóc phía trên trán mà để tang một người chết, 2
vì anh (em) là một dân thánh hiến cho Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).
Ðức Chúa đã chọn anh (em) từ giữa muôn dân trên mặt đất, làm một dân thuộc
quyền sở hữu của Người.
Loài
vật thanh sạch và loài vật ô uế (Lv 11:2-47)
3
Anh
(em) không được ăn cái gì ghê tởm. 4 Ðây là những loài vật anh (em)
được ăn: bò, cừu, dê, 5 nai, sơn dương, hoẵng, dê rừng, linh dương,
dê sừng dài, cừu rừng. 6 Mọi con vật có chân chẻ làm hai móng và
thuộc loài nhai lại, thì anh (em) được ăn. 7 Tuy nhiên, trong các
loài nhai lại và các loài có móng chẻ hai, anh em không được ăn các con này:
con lạc đà, con thỏ rừng, con ngân thử - vì chúng nhai lại, nhưng không có móng
chẻ hai: anh em phải coi chúng là loài ô uế; - 8 con heo, vì nó có móng chẻ hai,
nhưng không nhai lại: anh em phải coi nó là loài ô uế. Thịt của chúng, anh em
không được ăn, xác chết của chúng, anh em không được đụng đến.
9
Trong
tất cả các loài sống dưới nước, đây là những loài anh em được ăn: những loài có
vây và có vảy, thì anh em được ăn. 10 Còn tất cả những loài không có
vây không có vảy, thì anh em không được ăn: anh em phải coi chúng là loài ô uế.
11
Mọi
loài chim thanh sạch, anh em được ăn. 12 Ðây là những loài chim anh
em không được ăn: đại bàng, diều hâu, ó biển, 13 diều mướp, kền kền,
mọi thứ diều hâu, 14 mọi thứ quạ, 15 đà điểu, cú, mòng
biển, mọi thứ bồ cắt, 16 cú vọ, cú mèo, chim lợn, 17 bồ
nông, ó, cốc, 18 cò, mọi thứ diệc, chim đầu rìu và dơi. 19 Mọi
côn trùng có cánh, anh em phải coi là loài ô uế, anh em không được ăn. 20 Mọi
loài có cánh mà thanh sạch, anh em được ăn.
21
Anh
em không được ăn mọi con vật chết, mà hãy cho ngoại kiều ở trong các thành của
anh (em) để họ ăn, hoặc hãy bán cho người nước ngoài, vì anh (em) là một dân
thánh hiến cho Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).
Anh
(em) không được lấy sữa dê mẹ mà nấu thịt dê con.
Thuế
thập phân hàng năm
22
Mỗi
năm anh (em) phải trích một phần mười tất cả hoa lợi lấy từ những gì anh (em)
gieo, những gì mọc lên ngoài đồng. 23 Anh (em) sẽ dùng trước nhan
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ở nơi Người chọn cho Danh Người ngự, thuế
thập phân lúa mì, rượu mới, dầu tươi của anh (em), và những con đầu lòng trong
đàn bò và đàn chiên dê của anh (em), để mọi ngày anh (em) học cho biết kính sợ
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).
24
Nếu
đường quá dài khiến anh (em) không thể đem thuế thập phân đến được, vì nơi Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chọn để đặt Danh Người, quá xa chỗ anh (em) ở,
thì khi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã chúc phúc cho anh (em), 25 anh
(em) hãy đổi lấy bạc, cầm trong tay và đi tới nơi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), chọn. 26 Anh (em) hãy đem bạc đổi lấy tất cả những gì anh (em)
thèm: bò, chiên dê, rượu, đồ uống có men và tất cả những gì anh (em) ao ước; ở
đó anh (em) sẽ ăn uống trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và sẽ liên
hoan với cả nhà. 27 Còn thầy Lê-vi ở trong các thành của anh (em),
anh (em) đừng bỏ rơi, vì thầy ấy không được chung phần và hưởng gia nghiệp với
anh (em).
Thuế
thập phân ba năm một lần
28
Ba
năm một lần, anh (em) hãy đưa ra tất cả thuế thập phân trích từ hoa lợi năm thứ
ba, và đặt ở cửa thành của anh (em). 29 Bấy giờ thầy Lê-vi -là người
không được chung phần và hưởng gia nghiệp với anh (em) - người ngoại kiều và cô
nhi quả phụ ở trong các thành của anh (em), sẽ đến, họ sẽ ăn và được no nê, để
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chúc phúc cho mọi công việc tay anh (em)
làm.
Chương 15
Năm
sa-bát (Lv 25:1-7)
1
Bảy
năm một lần, anh (em) hãy tha nợ. 2 Ðây là cách thức tha nợ: mỗi chủ
nợ sẽ tha món nợ đã cho người đồng loại vay mượn, không thúc người đồng loại và
người anh em trả nợ, vì người ta đã công bố việc tha nợ để kính Ðức Chúa. 3
Người nước ngoài, anh (em) có thể thúc nợ; nhưng cái gì của anh (em) mà ở
trong nhà người anh em của anh (em), thì phải tha không đòi. 4 Tuyệt
nhiên giữa anh (em) sẽ không có người nghèo, vì Ðức Chúa sẽ chúc phúc dồi dào
cho anh (em) trong miền đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh
(em) làm gia nghiệp để anh (em) chiếm hữu, 5 miễn là anh (em) thực
sự nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mà lo đem ra thực hành tất cả
mệnh lệnh hôm nay tôi truyền cho anh (em) đây. 6 Thật vậy, Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), sẽ chúc phúc cho anh (em) như Người đã phán với anh
(em); anh (em) sẽ cho nhiều dân tộc vay mượn, còn chính anh (em) sẽ không phải
vay mượn; anh (em) sẽ thống trị nhiều dân tộc, nhưng chúng sẽ không thống trị
anh (em).
7
Nếu
giữa anh (em), trong một thành nào của anh (em), trên đất mà Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh (em), ban cho anh (em), có một người anh em nghèo, thì anh (em)
đừng có lòng chai dạ đá, cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo
túng; 8 nhưng phải mở rộng tay, và cho họ vay mượn tất cả những gì
họ thiếu. 9 Hãy ý tứ đừng có trong lòng tư tưởng xấu này: "Sắp
đến năm thứ bảy, năm tha nợ", mà nhìn người anh em nghèo của anh (em) với
cặp mắt dữ dằn và không cho gì. Họ sẽ kêu lên Ðức Chúa tố cáo anh (em) và anh
(em) sẽ mang tội. 10 Anh (em) phải cho họ cách rộng rãi, và khi cho
thì đừng miễn cưỡng; thật vậy, vì việc đó, Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) sẽ
chúc phúc cho anh (em) trong mọi việc anh (em) làm và mọi công trình tay anh
(em) thực hiện. 11 Vì trong đất của anh (em) sẽ không thiếu người
nghèo, nên tôi truyền cho anh (em): hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ,
nghèo khó của anh (em), trong miền đất của anh (em).
Người
nô lệ (Xh 21:1-11)
12
Nếu
người anh em hay chị em Híp-ri của anh (em), bán mình cho anh (em), thì họ sẽ
hầu hạ anh (em) sáu năm; đến năm thứ bảy, anh (em) phải phóng thích họ về. 13
Khi anh (em) phóng thích họ về, thì đừng để họ về tay không; 14 anh
(em) phải tặng họ nào là chiên dê, nào là lúa mì, rượu nho của anh (em): anh
(em) hãy cho họ tuỳ theo phúc lành mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) đã ban
cho anh (em). 15 Anh (em) hãy nhớ rằng mình đã làm nô lệ tại đất
Ai-cập, và Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã giải thoát anh (em). Vì vậy,
hôm nay tôi truyền cho anh (em) điều đó.
16
Nhưng
nếu người nô lệ nói: "Tôi không muốn ra khỏi nhà ông", vì họ mến anh
(em) và gia đình anh (em), và vì họ được hạnh phúc khi ở với anh (em), 17 thì
anh (em) sẽ kê tai người ấy vào cánh cửa, và lấy dùi mà xỏ, và họ sẽ làm nô lệ
anh (em) suốt đời. Ðối với nữ tỳ của anh (em), anh (em) cũng sẽ làm như vậy.
18
Anh
(em) đừng cho là quá nặng khi phải phóng thích họ về, vì họ phục vụ anh (em)
sáu năm thì cũng bằng anh (em) thuê hai người làm mướn. Ðức Chúa, Thiên Chúa
của anh (em), sẽ chúc phúc cho anh (em) trong mọi việc anh (em) làm.
Các
con đầu lòng
19
Mọi
con đầu lòng giống đực sinh ra trong đàn bò và đàn chiên dê của anh (em), anh
(em) phải thánh hiến cho Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em). Anh (em) không được
bắt con bò đầu lòng của anh (em) làm việc, không được xén lông chiên dê đầu
lòng của anh (em). 20 Hằng năm, trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của
anh (em), anh (em) và cả nhà anh (em) sẽ ăn những con đầu lòng đó ở nơi Ðức
Chúa chọn. 21 Nhưng nếu con vật có tật, què, mù hay bất cứ tật nào
khác, thì anh (em) không được tế nó cho Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em); 22
anh (em) sẽ ăn thịt nó trong các thành của anh (em). Người ô uế và người
thanh sạch đều có thể ăn, như ăn thịt sơn dương hay thịt nai. 23 Nhưng
tiết của nó thì anh (em) không được ăn, anh (em) sẽ đổ xuống đất như đổ nước.
Chương 16
Các
đại lễ: lễ Vượt Qua, lễ Bánh Không Men (Xh 12:1-20)
1
Anh
(em) hãy giữ tháng A-víp và mừng lễ Vượt Qua kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), vì trong tháng A-víp, Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã đưa anh (em)
ra khỏi Ai-cập ban đêm. 2 Anh (em) hãy giết chiên dê và bò làm lễ
vật Vượt Qua dâng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ở nơi Ðức Chúa chọn cho Danh
Người ngự. 3 Anh (em) không được ăn bánh có men với lễ vật đó; trong
vòng bảy ngày, anh (em) sẽ ăn bánh không men -thứ bánh khổ cực, vì anh (em) đã
phải vội vã ra khỏi đất Ai-cập, - để mọi ngày trong đời anh (em), anh (em) nhớ
ngày ra khỏi đất Ai-cập. 4 Trong vòng bảy ngày, không ai được thấy
anh (em) có men trên toàn lãnh thổ anh (em); và thịt con vật anh (em) đã tế
chiều ngày thứ nhất, thì không được giữ lại gì qua đêm cho đến sáng. 5 Anh
(em) không được giết lễ vật Vượt Qua ở bất cứ thành nào khác trong những thành
mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em); 6 nhưng chỉ
ở nơi Ðức Chúa chọn cho danh Người ngự, anh (em) mới được giết lễ vật Vượt Qua,
vào buổi chiều, khi mặt trời lặn, là thời điểm anh (em) ra khỏi Ai-cập. 7 Anh
(em) sẽ nấu mà ăn, ở nơi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chọn, rồi sáng ngày
anh (em) sẽ quay về lều trại mình. 8 Trong vòng sáu ngày, anh (em)
sẽ ăn bánh không men, đến ngày thứ bảy, sẽ có buổi họp long trọng kính Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), anh (em) không được làm công việc gì.
Các
đại lễ khác (Xh 34:22; Lv 23:15-21, 33-43)
9
Anh
(em) sẽ tính bảy tuần: từ khi bắt đầu mang liềm đi gặt lúa, anh (em) bắt đầu
tính bảy tuần. 10 Rồi anh (em) sẽ mừng lễ Ngũ Tuần kính Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), dâng lễ vật tự nguyện, tuỳ theo phúc lành Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em). 11 Ở nơi Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh (em), đã chọn cho Danh Người ngự, anh (em) sẽ liên hoan trước nhan
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), cùng với con trai con gái, tôi tớ nam nữ,
với thầy Lê-vi ở trong các thành của anh (em), với ngoại kiều và cô nhi quả phụ
sống giữa anh (em). 12 Anh (em) hãy nhớ mình đã làm nô lệ bên
Ai-cập, anh (em) phải giữ và đem ra thực hành các thánh chỉ này.
13
Còn
lễ Lều, anh (em) sẽ mừng trong vòng bảy ngày, khi đã thu hoạch lúa trong sân và
rượu trong bồn đạp nho. 14 Anh (em) sẽ liên hoan mừng lễ, cùng với
con trai con gái, tôi tớ nam nữ, với thầy Lê-vi, ngoại kiều và cô nhi quả phụ ở
trong các thành của anh (em). 15 Trong vòng bảy ngày, anh (em) sẽ mở
lễ kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), tại nơi Ðức Chúa chọn, vì Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em) chúc phúc cho anh (em) là ban cho anh (em) mọi hoa lợi
và cho mọi công việc tay anh (em) làm được kết quả; anh (em) chỉ có việc hân
hoan.
16
Mỗi
năm ba lần, tất cả đàn ông con trai của anh (em) phải đến trình diện Ðức Chúa,
ở nơi Người chọn: vào dịp lễ Bánh Không Men, lễ Ngũ Tuần và lễ Lều. Người ta sẽ
không đến trình diện Ðức Chúa tay không. 17 Nhưng mỗi người sẽ đem
lễ vật theo khả năng, tuỳ theo phúc lành Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban
cho anh (em).
Các
thẩm phán
18
Anh
(em) phải đặt cho các chi tộc của anh (em) những thẩm phán và ký lục trong mọi
thành mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em); họ sẽ xét xử dân
cách công minh. 19 Anh (em) không được làm sai lệch công lý, không
được thiên vị ai và không được nhận quà hối lộ, vì quà hối lộ làm cho những kẻ
khôn ngoan hoá ra đui mù và làm hỏng việc của những người công chính. 20 Anh
(em) hãy theo đuổi sự công chính, chỉ sự công chính mà thôi, để anh (em) được
sống và được chiếm hữu đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh
(em).
Những
cách thờ phượng sai lạc
21
Anh
(em) không được cắm cột thờ để mà thờ, dù bằng thứ gỗ nào, bên cạnh bàn thờ anh
(em) sẽ làm để kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em). 22 Anh (em)
không được dựng trụ đá để mà thờ: đó là cái mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em) ghét.
Chương 17
1
Anh
(em) không được tế Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), bò hay chiên dê có tật
hoặc tỳ vết nào, vì đó là điều ghê tởm đối với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em).
2
Nếu
ở giữa anh (em), tại một trong các thành mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em),
ban cho anh (em), thấy có một người đàn ông hay đàn bà làm điều dữ trái mắt Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), vi phạm giao ước của Người, 3 đi
phụng thờ các thần khác, sụp xuống lạy chúng, lạy mặt trời, mặt trăng và toàn
thể thiên binh, điều mà tôi đã không truyền, 4 nếu anh (em) được
thông báo và được nghe điều ấy, thì anh (em) phải điều tra kỹ lưỡng; nếu thật
sự và chắc chắn là người ta đã làm điều ghê tởm đó tại Ít-ra-en, 5 thì
anh (em) phải lôi người đàn ông hay đàn bà đã làm điều xấu đó ra cửa thành của
anh (em); người đàn ông hay đàn bà đó, anh (em) sẽ ném đá chúng cho chết và
chúng phải chết. 6 Căn cứ vào lời của hai nhân chứng hay ba nhân
chứng, mà người đáng chết sẽ bị xử tử; người ấy sẽ không bị xử tử nếu chỉ căn
cứ vào lời của một nhân chứng. 7 Các nhân chứng phải là người đầu
tiên tra tay giết nó, rồi toàn dân tiếp tay sau. Anh (em) phải khử trừ sự gian
ác, không cho tồn tại giữa anh (em).
Các
thẩm phán Lê-vi
8
Nếu
có vụ nào khó quá, anh (em) không xử được: án mạng, tranh chấp hay đả thương,
là những vụ kiện tụng tại toà án thành của anh (em), thì anh (em) hãy đứng dậy
và lên nơi mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ chọn. 9 Anh (em)
sẽ đến với các tư tế Lê-vi và vị thẩm phán tại chức trong những ngày đó; anh
(em) sẽ thỉnh ý và họ sẽ thông báo bản án cho anh (em). 10 Anh (em)
sẽ hành động căn cứ vào lời họ thông báo cho anh (em), từ nơi Ðức Chúa chọn, và
anh (em) sẽ lo đem ra thực hành đúng như họ chỉ giáo cho anh (em). 11 Căn
cứ vào lời họ chỉ giáo cho anh (em), và vào bản án họ công bố cho anh (em), anh
(em) sẽ hành động, đúng như lời họ thông báo cho anh (em), không đi trệch bên
phải bên trái. 12 Người nào cả gan không nghe vị tư tế chầu chực ở
đó để phụng sự Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hay không nghe vị thẩm phán,
thì sẽ phải chết. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại trong
Ít-ra-en. 13 Nghe thấy thế, toàn dân sẽ sợ và không dám cả gan nữa.
Các
vua
14
Khi
anh (em) vào đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), khi
anh (em) chiếm hữu và ở đất đó, nếu anh (em) nói: "(Chúng) tôi muốn tôn
một vua lên cai trị (chúng) tôi, như các dân tộc chung quanh", 15 thì
anh (em) có thể tôn một vua mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ chọn, lên
cai trị anh (em); anh (em) phải tôn một người trong anh (em) lên làm vua cai
trị anh (em); anh (em) không được đặt một người ngoại quốc, không phải là anh
em của anh (em), lên cai trị anh (em).
16
Chỉ
có điều là vua ấy không được có nhiều ngựa, và không được đưa dân trở về Ai-cập
để có nhiều ngựa, vì Ðức Chúa đã phán với anh em: "Các ngươi không được
trở lại con đường ấy nữa!” 17 Vua ấy cũng không được có nhiều vợ,
kẻo tâm hồn bị lầm lạc. Vua cũng không được có quá nhiều vàng bạc. 18 Khi
lên ngôi trị vì, vua phải sao lại cho mình một bản thứ hai của luật này vào một
cuốn sách, sao y bản các tư tế Lê-vi truyền lại. 19 Luật này sẽ ở
bên vua, vua phải đọc mọi ngày trong đời mình, để học cho biết kính sợ Ðức
Chúa, Thiên Chúa của vua, biết giữ mọi lời trong Luật này và mọi thánh chỉ ấy,
và đem ra thực hành. 20 Như vậy lòng vua không kiêu ngạo với anh em
mình, và vua không trệch khỏi mệnh lệnh mà qua bên phải bên trái, để vua và con
cháu được trị vì lâu ngày ở giữa Ít-ra-en.
Chương 18
Hàng
tư tế Lê-vi
1
Các
tư tế Lê-vi, toàn thể chi tộc Lê-vi, sẽ không được chung phần và hưởng gia
nghiệp với Ít-ra-en: họ sẽ sống nhờ các lễ hoả tế dâng Ðức Chúa và nhờ gia
nghiệp của Người. 2 Họ không có gia nghiệp giữa các chi tộc anh em:
chính Ðức Chúa là gia nghiệp của họ, như Người đã phán với họ.
3
Ðây
là quyền lợi các tư tế được hưởng trên dân, trên những người dâng bò hay chiên
dê làm lễ hy sinh: người ta sẽ biếu tư tế một cái vai, hai cái hàm và cái dạ
dày. 4 Anh (em) phải biếu tư tế sản phẩm đầu mùa lấy từ lúa mì, rượu
mới, dầu tươi của anh (em), và từ lông chiên dê mới xén. 5 Thật vậy,
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã chọn họ trong mọi chi tộc, để họ và con
cái họ ứng trực và phụng sự mọi ngày nhân danh Ðức Chúa.
6
Nếu
một thầy Lê-vi từ bất cứ một thành nào của anh (em) trong toàn cõi Ít-ra-en,
nơi họ đang cư ngụ, đến nơi Ðức Chúa chọn, mỗi khi họ muốn, 7 thì họ
sẽ được phụng sự nhân danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ, như mọi anh em của họ
là các thầy Lê-vi khác đang ứng trực tại đó trước nhan Ðức Chúa; 8 họ
sẽ được ăn một phần bằng phần của những người kia, không kể tiền bán của cải
cha ông để lại.
Các
ngôn sứ
9
Khi
vào đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), thì anh (em)
đừng học đòi những thói ghê tởm của các dân tộc ấy: 10 giữa anh
(em), không được thấy ai làm lễ thiêu con trai hoặc con gái mình, không được
thấy ai làm nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thuỷ, 11 bỏ
bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn. 12 Thật vậy, hễ ai làm điều ấy
thì là điều ghê tởm đối với Ðức Chúa, và chính vì những điều ghê tởm ấy mà Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã trục xuất các dân tộc ấy cho khuất mắt anh
(em). 13 Anh (em) phải sống trọn hảo với Ðức Chúa, Thiên Chúa của
anh (em). 14 Các dân tộc anh (em) sắp trục xuất ấy thì nghe những
thầy chiêm tinh, thầy bói, còn anh (em) thì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em),
không cho làm như vậy. 15 Từ giữa anh (em), trong số các anh em của
anh (em), Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như
tôi để giúp anh (em); anh (em) hãy nghe vị ấy. 16 Ðó chính là điều
mà anh (em) đã xin với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), tại núi Khô-rếp,
trong ngày đại hội; anh (em) đã nói: "Chúng tôi không dám nghe tiếng Ðức
Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi nữa, chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này
nữa, kẻo phải chết.” 17 Bấy giờ Ðức Chúa phán với tôi: "Chúng
nói phải. 18 Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn
sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và
người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy. 19 Kẻ
nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính
Ta sẽ hạch tội nó. 20 Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói
lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn
sứ đó phải chết."
21
Có
khi anh (em) sẽ tự hỏi: "Làm sao chúng tôi biết được lời nào là lời Ðức
Chúa đã không phán?” 22 Nếu điều ngôn sứ nói nhân danh Ðức Chúa
không ứng nghiệm, không xảy ra, thì không phải là lời Ðức Chúa đã phán; ngôn sứ
đã nói càn, anh (em) không phải sợ ngôn sứ ấy.
Chương 19
Kẻ
sát nhân và các thành làm nơi ẩn náu (Ðn 35:9-28; Gs 20:1-9)
1
Khi
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã quét sạch các dân tộc ở trong đất mà Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), khi anh (em) đã trục xuất
chúng và ở trong các thành, các nhà của chúng, 2 thì anh (em) hãy
tách ra ba thành ở giữa đất của anh (em), mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em),
ban cho anh (em) để anh (em) chiếm hữu. 3 Anh (em) hãy sửa sang
đường sá; và lãnh thổ mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), cho anh (em) hưởng
làm gia nghiệp, anh (em) hãy chia làm ba, để mọi kẻ sát nhân có thể ẩn náu ở
đó.
4
Ðây
là những trường hợp mà kẻ sát nhân có thể đến đó ẩn náu và được sống: nếu nó vô
ý giết người đồng loại mà trước đó nó không thù ghét. 5 Như một
người vào rừng đốn cây với đồng loại, tay người ấy vung rìu lên để chặt cây và
lưỡi rìu tuột khỏi cán, trúng người đồng loại và người này chết; người kia có
thể vào ẩn náu tại một trong các thành ấy và sẽ được sống. 6 Nếu
không, người đòi nợ máu, trong lúc tâm can sôi sục, sẽ rượt theo kẻ sát nhân,
và vì đường dài nên đuổi kịp mà giết chết người ấy, trong khi người ấy không
đáng phải án chết, vì trước đó không thù ghét nạn nhân. 7 Vì vậy tôi
truyền cho anh (em): "Anh (em) hãy tách ra ba thành."
8
Nếu
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mở rộng lãnh thổ của anh (em), như đã thề
với cha ông anh (em), và nếu Người ban cho anh (em) tất cả miền đất mà Người đã
phán hứa sẽ ban cho cha ông anh (em) - 9 với điều kiện là anh (em) giữ và đem
ra thực hành tất cả mệnh lệnh mà hôm nay tôi truyền cho anh (em) đây, mà yêu
mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và đi theo đường lối của Người mọi ngày,
- thì anh (em) sẽ thêm ba thành nữa vào ba thành nói trên. 10 Như
thế, máu vô tội sẽ không đổ ra giữa đất của anh (em), đất mà Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp, và máu sẽ không đổ xuống
đầu anh (em).
11
Nhưng
nếu có ai giết người đồng loại của mình, rình rập, xông vào giết chết người ấy,
và người ấy chết, rồi nó vào ẩn náu tại một trong các thành ấy, 12 thì
các kỳ mục của thành nó sẽ sai người đến bắt nó đưa về, sẽ trao nó vào tay
người đòi nợ máu, và nó phải chết. 13 Mắt anh (em) đừng nhìn nó mà
thương hại. Anh (em) phải khử trừ máu người vô tội, không cho tồn tại ở
Ít-ra-en, và anh (em) sẽ được hạnh phúc.
Các
ranh giới
14
Anh
(em) không được xê dịch ranh giới của người đồng loại anh (em), ranh giới các
tiền nhân đã ấn định, trong gia nghiệp anh (em) được thừa hưởng trong miền đất
mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) để anh (em) chiếm hữu.
Các
nhân chứng
15
Một
nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ một tội một
lỗi nào; về bất cứ lỗi nào người ấy phạm, phải căn cứ vào lời của hai nhân
chứng hay căn cứ vào lời của ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét.
16
Nếu
một người chứng gian đứng lên buộc tội một người để tố cáo người ấy về tội vi
phạm luật, 17 thì hai người đang có việc tranh tụng sẽ đứng trước
nhan Ðức Chúa, trước mặt các tư tế và các thẩm phán tại chức trong những ngày
đó. 18 Các thẩm phán sẽ điều tra kỹ lưỡng, và nếu thấy rằng nhân
chứng ấy là một người chứng gian: nó đã cáo gian người anh em mình, 19 thì
anh em sẽ xử với nó, như nó đã định xử với anh em mình. Anh (em) phải khử trừ
sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh (em). 20 Nghe nói thế, những
người khác sẽ sợ và không còn làm điều xấu như thế nữa giữa anh (em). 21 Mắt
anh (em) đừng nhìn mà thương hại.
Luật
báo phục tương xứng
Mạng
đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân.
Chương 20
Chiến
tranh và các chiến binh
1
Khi
ra giao chiến với quân thù, nếu anh (em) thấy chiến mã chiến xa, và quân binh
đông hơn anh (em), thì anh (em) đừng sợ chúng, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), Ðấng đã đưa anh (em) lên từ đất Ai-cập, ở với anh (em). 2 Khi
anh em sắp sửa giao chiến thì vị tư tế sẽ tiến ra và nói với dân. 3 Ông
sẽ nói với họ: "Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Hôm nay anh em sắp sửa giao chiến
với quân thù; đừng sờn lòng, đừng sợ hãi, đừng hoảng hốt, đừng run khiếp trước
mặt chúng, 4 vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Ðấng đi với anh
em, để chiến đấu giúp anh em chống lại quân thù của anh em, để cứu thoát anh
em."
5
Các
ký lục sẽ nói với dân rằng:
"Ai
là người đã xây nhà mới mà chưa khánh thành? Người ấy hãy đi về nhà, kẻo bị
chết trận và người khác sẽ khánh thành.
6
Ai
là người đã trồng vườn nho mà chưa được hưởng những trái đầu tiên? Người ấy hãy
đi về nhà, kẻo bị chết trận và người khác sẽ hưởng những trái đầu tiên.
7
Ai
là người đã đính hôn với một phụ nữ mà chưa cưới? Người ấy hãy đi về nhà, kẻo
bị chết trận và người khác sẽ cưới nàng."
8
Các
ký lục sẽ còn nói thêm với dân rằng: "Ai là người sợ hãi và sờn lòng?
Người ấy hãy đi về nhà, và đừng làm cho các anh em mình nản lòng như
mình."
9
Khi
các ký lục nói với dân xong, thì người ta sẽ đặt những người chỉ huy quân đội
đứng đầu dân.
Ðánh
chiếm các thành
10
Khi
tiến đánh một thành, anh (em) phải kêu gọi họ giảng hoà. 11 Nếu
thành ấy đồng ý giảng hoà với anh (em) và mở cửa cho anh (em), thì toàn dân ở
đó sẽ phải làm việc lao dịch cho anh (em) và làm tôi anh (em). 12 Nhưng
nếu thành ấy không chịu cầu hoà với anh (em) và khai chiến với anh (em), thì
anh (em) sẽ vây hãm thành đó. 13 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em),
sẽ trao thành ấy vào tay anh (em), và anh (em) sẽ dùng lưỡi gươm giết tất cả
đàn ông con trai trong thành. 14 Chỉ có đàn bà con trẻ, gia súc và
tất cả những gì ở trong thành, tất cả những gì chiếm được trong thành, thì anh
(em) mới được giữ lấy làm chiến lợi phẩm; anh (em) sẽ được ăn những gì đã chiếm
của quân thù, những thứ mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em).
15
Anh
(em) hãy xử như thế với tất cả những thành ở rất xa anh (em), những thành không
thuộc số những thành của các dân tộc ở đây. 16 Chỉ có những thành
của các dân tộc này, mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm
gia nghiệp, thì anh (em) sẽ không để cho một sinh vật nào được sống. 17 Thật
vậy, anh (em) sẽ phải loại trừ chúng hoàn toàn: người Khết và người E-mô-ri,
người Ca-na-an và người Pơ-rít-di, người Khi-vi và người Giơ-vút, như Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), đã truyền cho anh (em); 18 như thế, chúng
sẽ không dạy anh em học đòi mọi điều ghê tởm chúng làm để kính các thần của
chúng, khiến anh em phạm tội nghịch cùng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em.
19
Khi
vây hãm một thành lâu ngày để đánh, để chiếm thành, anh (em) không được vung
rìu phá cây cối của thành, vì anh (em) sẽ được ăn hoa trái những cây ấy; anh
(em) không được chặt những cây ấy. Cây ngoài đồng đâu phải là con người để anh
(em) vây hãm? 20 Chỉ có cây mà anh (em) biết không phải là cây ăn trái, thì anh
(em) mới được phá, được chặt để dựng những công sự vây hãm thành đang đánh nhau
với anh (em), cho đến khi thành thất thủ.
Chương 21
Trường
hợp không tìm ra kẻ sát nhân
1
Nếu
trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) để anh (em)
chiếm hữu, phát hiện một xác chết nằm ngoài đồng, mà không biết ai đã giết, 2
thì các kỳ mục và thẩm phán của anh (em) sẽ đi ra và đo khoảng cách của
các thành ở chung quanh xác chết, 3 xem thành nào gần xác chết nhất.
Các kỳ mục thành ấy sẽ lấy một bò tơ cái chưa bị bắt làm việc và chưa phải mang
ách. 4 Các kỳ mục thành ấy sẽ đưa con bò cái tơ xuống một khe suối
luôn có nước chảy, một nơi không cày cấy gieo trồng, và họ sẽ đánh gãy ót con
bò cái tơ tại đó, trong khe suối. 5 Bấy giờ các tư tế, con cái
Lê-vi, sẽ tiến lại, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã chọn họ để họ
phụng sự Người và chúc phúc nhân danh Ðức Chúa, và căn cứ vào lời họ mà mọi vụ
tranh tụng và đả thương được giải quyết. 6 Tất cả các kỳ mục thành
ấy, là những người ở gần xác chết nhất, sẽ rửa tay trên con bò cái tơ đã bị
đánh gãy ót trong khe suối. 7 Họ sẽ lên tiếng nói: "Tay chúng
tôi đã không đổ máu này, và mắt chúng tôi đã không nhìn thấy. 8 Lạy
Ðức Chúa, xin xá tội cho dân Ngài là Ít-ra-en, mà Ngài đã giải thoát, và đừng
để máu vô tội ở lại giữa dân Ngài là Ít-ra-en." Và họ sẽ được xá tội về vụ
đổ máu đó. 9 Còn anh (em), anh (em) sẽ khử trừ máu vô tội, không cho
tồn tại giữa anh (em), vì anh (em) làm điều Ðức Chúa coi là ngay thẳng.
Cưới
phụ nữ bị bắt trong chiến tranh
10
Khi
anh (em) ra giao chiến với quân thù, và Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), trao
chúng vào tay anh (em), nếu anh (em) bắt được tù, 11 và thấy trong
đám tù một người đàn bà duyên dáng mà đem lòng quyến luyến người ấy và lấy làm
vợ, 12 thì anh (em) sẽ đưa nàng vào trong nhà mình. Nàng sẽ cạo đầu,
cắt móng tay, 13 cởi áo mặc khi bị bắt; nàng sẽ ở trong nhà anh (em)
và khóc cha mẹ nàng một tháng tròn. Sau đó anh (em) sẽ ăn nằm với nàng, cưới
nàng và nàng sẽ là vợ anh (em). 14 Trong trường hợp anh (em) không
thích nàng nữa, thì anh (em) sẽ để cho nàng đi đâu tuỳ ý nàng; anh (em) không
được phép bán nàng đổi lấy bạc, cũng không được hành hạ nàng, vì anh (em) đã
cưỡng bức nàng.
Quyền
trưởng nam
15
Khi
một người đàn ông có hai vợ, một vợ được yêu, một vợ không được yêu, và cả
người được yêu lẫn người không được yêu đều sinh con cho người ấy, mà con trai
trưởng lại là con của người không được yêu, 16 thì khi chia gia tài
cho các con, người đàn ông ấy không được dành quyền trưởng nam cho đứa con của
người vợ mình yêu, khiến đứa con của người vợ không được yêu, là con trai
trưởng, bị thiệt. 17 Trái lại người đàn ông ấy phải nhìn nhận đứa
con của người vợ không được yêu là trưởng nam, mà chia cho nó hai phần sản
nghiệp: nó là hoa quả đầu đời trai tráng của người ấy, nên nó được quyền trưởng
nam.
Ðứa
con bất trị
18
Khi
có đứa con ngỗ nghịch và bất trị, không nghe lời cha mẹ, cha mẹ có sửa dạy, nó
cũng chẳng chịu nghe, 19 thì cha mẹ nó sẽ bắt lấy nó, đưa ra cửa
thành cho các kỳ mục địa phương 20 và sẽ nói với các kỳ mục trong thành:
"Con chúng tôi đây ngỗ nghịch và bất trị, không nghe lời chúng tôi, nó
rượu chè phóng đãng.” 21 Mọi người trong thành sẽ ném đá cho nó chết
và nó phải chết. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh
(em). Nghe chuyện ấy, toàn thể Ít-ra-en sẽ sợ.
Những
chỉ thị khác
22
Khi
một người có tội đáng phải án chết đã bị xử tử, và anh (em) đã treo nó lên cây,
23 thì xác nó không được để qua đêm trên cây, nhưng anh (em) phải
chôn ngay hôm ấy, vì người bị treo là đồ bị Thiên Chúa nguyền rủa. Anh (em)
không được làm cho đất của anh (em) ra ô uế, đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của
anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp.
Chương 22
1
Khi
anh (em) thấy bò hay chiên dê của người anh em mình đi lạc, thì đừng bỏ mặc làm
ngơ, nhưng phải dẫn chúng về cho người anh em. 2 Nếu người anh em
của anh (em) không ở gần anh (em), hoặc anh (em) không quen biết người ấy, thì
anh (em) hãy đem con vật vào trong nhà, nó sẽ ở với anh (em) cho đến khi người
anh em của anh (em) đến xin nó; bấy giờ anh (em) sẽ hoàn nó lại cho người ấy.
3
Anh
(em) phải làm như thế đối với con lừa của họ, phải làm như thế đối với áo
choàng của họ, phải làm như thế đối với tất cả những gì người anh em của anh
(em) đánh mất mà anh (em) bắt được; anh (em) không được bỏ mặc làm ngơ.
4
Khi
anh (em) thấy lừa hay bò của người anh em mình ngã trên đường, thì đừng bỏ mặc
làm ngơ, nhưng phải giúp người anh em đỡ chúng dậy.
5
Ðàn
bà không được mặc quần áo đàn ông; đàn ông không được mang y phục đàn bà, vì hễ
ai làm những việc ấy thì là điều ghê tởm đối với Ðức Chúa.
6
Nếu
trên đường đi, anh (em) gặp một tổ chim, ở trên bất cứ cây nào hay ở dưới đất,
trong đó có chim con hoặc trứng, và chim mẹ đang ủ chim con hay ấp trứng, thì
anh (em) không được bắt cả mẹ lẫn con. 7 Anh (em) phải thả chim mẹ,
còn chim con thì được bắt. Như vậy anh (em) sẽ được hạnh phúc và được sống lâu.
8
Khi
xây nhà mới, anh (em) phải làm lan can chung quanh mái. Như vậy anh (em) không
để cho máu đổ ra trong nhà anh (em), trong trường hợp có ai ngã từ mái xuống.
9
Anh
(em) không được gieo trong vườn nho của anh (em) một loại cây thứ hai nào, kẻo
tất cả trở thành của thánh: cả cái anh (em) gieo lẫn hoa lợi vườn nho.
10
Anh
(em) không được bắt bò và lừa cày chung với nhau.
11
Anh
(em) không được mặc thứ vải bằng sợi len và sợi gai dệt chung với nhau.
12
Anh
(em) hãy làm những tua ở bốn mép áo anh (em) dùng để đắp.
Xúc
phạm đến danh dự một thiếu nữ
13
Khi
một người đàn ông lấy vợ và ăn nằm với nàng, rồi ghét bỏ nàng, 14 vu
khống và bôi xấu danh dự nàng mà nói: "Tôi đã lấy người đàn bà này, đã gần
gũi với cô ấy và không thấy dấu nào chứng tỏ cô ấy còn trinh", 15 thì
cha mẹ cô gái sẽ lấy những dấu chứng tỏ cô gái còn trinh và đưa ra cửa thành
cho các kỳ mục thành ấy. 16 Người cha cô gái sẽ nói với các kỳ mục:
"Tôi đã gả con gái cho người đàn ông này, nhưng anh ta ghét bỏ nó; 17
bây giờ anh ta vu khống nó và nói: "Tôi không thấy những dấu chứng
tỏ con gái ông còn trinh. Vậy đây là những dấu chứng tỏ con gái tôi còn
trinh." Họ sẽ mở chiếc áo choàng ra trước mặt các kỳ mục trong thành. 18
Các kỳ mục trong thành sẽ bắt người chồng và sửa phạt: 19 họ
sẽ bắt người ấy nộp phạt một trăm thỏi bạc, và sẽ trao số bạc đó cho người cha
cô gái, vì người ấy đã bôi xấu danh dự của một trinh nữ Ít-ra-en. Nàng sẽ là vợ
người ấy và suốt đời người ấy không thể rẫy nàng. 20 Nhưng nếu điều
đó có thật, nếu người ta không tìm thấy nơi cô gái những dấu chứng tỏ cô còn
trinh, 21 thì họ sẽ lôi cô gái ra cửa nhà cha nàng; người trong
thành của nàng sẽ ném đá nàng cho chết và nàng sẽ phải chết, vì nàng đã làm
điều đồi bại trong Ít-ra-en, khi làm điếm trong nhà cha mình. Anh (em) phải khử
trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh (em).
Ngoại
tình và thông dâm
22
Nếu
một người đàn ông bị bắt gặp đang nằm với một người đàn bà có chồng, thì cả;
hai sẽ phải chết: người đàn ông đã nằm với người đàn bà, và cả người đàn bà.
Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại ở Ít-ra-en.
23
Khi
một cô gái còn trinh đã đính hôn với một người đàn ông, mà một người đàn ông
khác gặp cô trong thành và nằm với cô, 24 thì anh (em) sẽ lôi cả hai
ra cửa thành ấy và ném đá, và chúng sẽ phải chết: cô gái, vì lý do ở trong
thành mà đã không kêu cứu, và người đàn ông, vì lý do đã cưỡng bức vợ người
đồng loại. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh (em). 25
Nhưng nếu người đàn ông gặp ở ngoài đồng cô gái đã đính hôn, bắt lấy nàng
và nằm với nàng, thì chỉ một mình người đàn ông đã nằm với nàng sẽ phải chết; 26
còn cô gái, thì anh (em) đừng làm gì nàng, nàng không có tội đáng chết.
Trường hợp cũng như một người xông vào người đồng loại để giết người ấy: 27
vì người đàn ông kia đã gặp cô ngoài đồng; cô gái đính hôn đã kêu mà
không ai cứu.
28
Khi
một người đàn ông gặp một cô gái chưa đính hôn, nắm lấy nàng và nằm với nàng,
và họ bị bắt gặp, 29 thì người đàn ông đã nằm với nàng phải nộp cho
cha cô gái năm mươi thỏi bạc; nàng sẽ là vợ người ấy, bởi lẽ người ấy đã cưỡng
hiếp nàng, và suốt đời người ấy không thể rẫy nàng.
Chương 23
1
Một
người đàn ông không được lấy vợ của cha mình, không được xâm phạm đến quyền làm
chồng của cha mình.
Những
người không được tham dự đại hội
2
Ai
bị giập tinh hoàn hay bị cắt dương vật sẽ không được vào đại hội của Ðức Chúa. 3
Người con lai không được vào đại hội của Ðức Chúa; cả đến đời thứ mười,
nó cũng không được vào đại hội của Ðức Chúa. 4 Người Am-mon và người
Mô-áp không được vào đại hội của Ðức Chúa; cả đến đời thứ mười, chúng cũng
không được vào đại hội của Ðức Chúa, và mãi mãi như vậy. 5 Lý do là
vì chúng đã không mang bánh và nước ra đón anh em trên đường, khi anh em ra
khỏi Ai-cập, và vì, để hại anh (em), Mô-áp đã thuê Bi-lơ-am, con của Bơ-o, từ
Pơ-tho tại miền A-ram Na-ha-ra-gim, đến nguyền rủa anh (em). 6 Nhưng
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã không muốn nghe Bi-lơ-am, và Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), đã đổi lời nguyền rủa thành lời chúc phúc cho anh (em)
được nhờ, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), yêu thương anh (em). 7 Suốt
đời anh (em) và mãi mãi, anh (em) không được theo đòi chúng để được bình an và
thịnh vượng.
8
Anh
(em) không được ghê tởm người Ê-đôm, vì họ là anh em của anh (em). Anh (em)
không được ghê tởm người Ai-cập, vì anh (em) đã là ngoại kiều trong đất họ. 9
Con cháu họ sẽ sinh ra, đến đời thứ ba sẽ được vào đại hội của Ðức Chúa.
Giữ
trại cho thanh sạch
10
Khi
ra đóng quân đối diện với quân thù, anh (em) phải giữ mình khỏi mọi điều xấu. 11
Khi ở giữa anh (em) có một người đàn ông không thanh sạch, vì xuất tinh
ban đêm, thì người ấy phải ra ngoài trại, và không được trở vào trong trại; 12
lúc chiều tà, người ấy sẽ tắm rửa bằng nước, và khi mặt trời lặn, sẽ trở
vào trong trại.
13
Anh
(em) phải có một chỗ ở bên ngoài trại, và anh (em) sẽ ra đó mà đi ngoài. 14
Trong đồ đạc của anh (em), phải có một cái xẻng nhỏ, và khi ra ngồi ngoài
đó, anh (em) sẽ dùng xẻng đó mà đào lỗ phóng uế, rồi lấp đi. 15 Vì
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đi đi lại lại giữa trại anh (em) để giải
thoát anh (em) và trao thù địch của anh (em) cho anh (em). Vậy trại anh (em)
phải là trại thánh, kẻo Người thấy có gì chướng nơi anh (em) mà không đi theo
anh (em) nữa.
Luật
xã hội và luật phượng tự
16
Một
người nô lệ đã trốn nhà chủ mà đến với anh (em), anh (em) đừng nộp nó lại cho
chủ. 17 Nó sẽ ở với anh (em), giữa anh (em), tại nơi nó chọn, trong
một thành nào của anh (em) mà nó thích; anh (em) không được ngược đãi nó.
18
Con
gái Ít-ra-en không được làm điếm thần, con trai Ít-ra-en không được làm điếm
thần. 19 Anh (em) không được đưa vào nhà Ðức Chúa tiền công của một
con điếm hay tiền lương của một thằng điếm để làm lễ vật khấn hứa, vì cả hai
đều ghê tởm đối với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).
20
Anh
(em) không được cho người anh (em) mình vay lấy lãi: vay bạc, vay lương thực,
vay bất cứ thứ gì sinh lãi. 21 Người nước ngoài, anh (em) được cho
vay lấy lãi, còn người anh em của anh (em) thì không được cho vay lấy lãi; như
vậy, Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) sẽ chúc phúc cho anh (em), trong mọi
công việc tay anh (em) làm, trên đất anh (em) sắp vào chiếm hữu.
22
Khi
anh (em) khấn hứa với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), điều gì, thì đừng trì
hoãn thi hành, vì chắc chắn Thiên Chúa sẽ đòi anh (em) điều đó, và anh (em) sẽ
mang tội. 23 Nhưng nếu anh (em) tránh không khấn hứa, thì anh (em)
không mang tội. 24 Ðiều môi miệng anh (em) nói ra, anh (em) phải giữ
và thi hành như anh (em) đã tự nguyện khấn hứa với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), và như miệng anh (em) đã nói ra.
25
Khi
vào vườn nho của người đồng loại của anh (em), thì anh (em) có thể ăn nho tuỳ
thích, ăn cho đến no, nhưng không được bỏ vào giỏ của mình. 26 Khi
vào đồng lúa của người đồng loại anh (em), thì anh (em) có thể lấy tay bứt
những bông lúa, nhưng không được tra liềm cắt lúa của người đồng loại anh (em).
Chương 24
Ly
dị
1
Nếu
một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp
lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết cho
nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà. 2 Ra
khỏi nhà người ấy, nếu nàng đi lấy chồng khác, 3 mà người chồng sau
lại ghét bỏ nàng, viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra
khỏi nhà, hoặc nếu người chồng sau đã lấy nàng làm vợ mà chết, 4 thì
người chồng đầu tiên đã đuổi nàng đi không thể lấy nàng làm vợ một lần nữa, sau
khi nàng đã ra ô uế. Ðó là điều ghê tởm trước nhan Ðức Chúa; anh (em) không
được làm cho miền đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em)
làm gia nghiệp, phải mang tội.
Biện
pháp bảo vệ
5
Khi
một người đàn ông mới cưới vợ, thì người ấy không phải đi lính, và người ta sẽ
không bắt làm công tác nào; người ấy sẽ được miễn, được ở nhà một năm, và sẽ là
niềm vui cho người vợ đã cưới.
6
Không
được giữ cối xay bột làm đồ cầm, dù chỉ một nửa trên, vì như thế là giữ chính
mạng người làm đồ cầm.
7
Nếu
thấy ai bắt cóc một người anh em mình trong hàng con cái Ít-ra-en, hành hạ và
bán người đó đi, thì kẻ bắt cóc phải chết. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác,
không cho tồn tại giữa anh (em).
8
Về
bệnh phung cùi, anh (em) hãy ý tứ giữ cẩn thận và thi hành tất cả những gì các
tư tế Lê-vi chỉ dẫn cho anh em; anh em hãy lo thực hành như tôi đã truyền cho
họ. 9 Hãy nhớ cách Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã xử với bà
Mi-ri-am trên đường, khi anh em ra khỏi Ai-cập.
10
Khi
anh (em) cho người đồng loại vay cái gì, thì không được vào nhà người ấy mà bắt
đồ cầm. 11 Anh (em) sẽ đứng ngoài, và người mà anh (em) cho vay sẽ
mang đồ cầm ra ngoài cho anh (em). 12 Nếu người ấy nghèo, anh (em)
sẽ không đi ngủ mà còn giữ đồ cầm của người ấy. 13 Anh (em) phải đem
trả lại đồ cầm cho người ấy khi mặt trời lặn; người ấy sẽ đắp áo choàng của
mình mà ngủ, sẽ chúc phúc cho anh (em); anh (em) sẽ là người công chính trước
nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).
14
Anh
(em) không được bóc lột người làm thuê nghèo khó bần cùng, dù người ấy là một
người anh em của anh (em) hay là một ngoại kiều ở trong đất nước của anh (em),
trong các thành của anh (em). 15 Chính ngày hôm ấy, anh (em) phải
trả công cho họ, đừng để mặt trời lặn mà không trả công, vì họ nghèo khổ và
nóng lòng mong đợi được trả công; như vậy họ sẽ không kêu lên Ðức Chúa tố cáo
anh (em), và anh (em) sẽ không mang tội.
16
Cha
sẽ không bị xử tử vì con, và con sẽ không bị xử tử vì cha: mỗi người sẽ bị xử
tử về tội của mình.
17
Anh
(em) không được làm thiệt hại đến quyền lợi của ngoại kiều và cô nhi, không
được giữ áo của người goá bụa làm đồ cầm. 18 Anh (em) hãy nhớ mình
đã làm nô lệ bên Ai-cập, và Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã giải thoát
anh (em) ra khỏi đó. Vì vậy tôi truyền cho anh (em) thực hành điều đó.
19
Khi
anh (em) gặt lúa trong ruộng mình, mà bỏ sót một bó lúa trong ruộng, thì không
được quay lại mà lấy; bó lúa ấy dành cho ngoại kiều và cô nhi quả phụ; như vậy,
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ chúc phúc cho anh (em) trong mọi việc tay
anh (em) làm.
20
Khi
hái ô-liu, thì anh (em) không được trở lại tìm trái sót; những trái đó dành cho
ngoại kiều và cô nhi quả phụ.
21
Khi
hái nho, thì anh (em) không được mót lại; những trái còn sót dành cho ngoại
kiều và cô nhi quả phụ.
22
Anh
em hãy nhớ mình đã làm nô lệ bên đất Ai-cập. Vì vậy, tôi truyền cho anh (em)
thực hành điều đó.
Chương 25
1
Khi
người ta có chuyện tranh chấp với nhau, thì họ sẽ đi hầu toà, và toà sẽ phân xử
cho họ: toà sẽ công bố người công chính là công chính, kẻ có tội là có tội. 2
Nếu người có tội đáng phải đòn, thẩm phán sẽ cho nọc ra mà đánh trước mặt
mình, tội đáng bao nhiêu thì đánh bấy nhiêu đòn. 3 Quan toà được cho
đánh bốn mươi đòn, nhưng không được cho đánh thêm, sợ rằng đánh thêm sẽ bị
trọng thương, và người anh em của anh (em) sẽ bị nhục trước mặt anh (em).
4
Anh
(em) không được bịt mõm con bò đang đạp lúa.
Luật
về anh em chồng
5
Khi
có những anh em ở chung với nhau, và một trong những người đó chết mà không có
con trai, thì vợ của người chết không được lấy một người xa lạ, ngoài gia đình;
một người anh em chồng sẽ đến với nàng, lấy nàng làm vợ và chu toàn bổn phận
của một người anh em chồng đối với nàng. 6 Ðứa con đầu lòng nàng
sinh ra sẽ duy trì tên của người anh em đã chết; như vậy tên của người chết sẽ
không bị xoá khỏi Ít-ra-en. 7 Nhưng nếu người đàn ông ấy không thích
lấy chị dâu hay em dâu mình, thì nàng sẽ lên cửa thành, gặp các kỳ mục và thưa:
"Người anh em chồng tôi từ chối không chịu lưu truyền tên tuổi của anh em
mình ở Ít-ra-en, người ấy không muốn chu toàn bổn phận của một người anh em
chồng đối với tôi.” 8 Các kỳ mục trong thành sẽ gọi người đàn ông
đến và nói với người ấy. Người ấy sẽ đứng đấy và nói: "Tôi không thích lấy
cô ấy.” 9 Người chị dâu hay em dâu sẽ đến gần người ấy trước mặt các
kỳ mục, rút một chiếc dép người ấy ra khỏi chân, nhổ vào mặt người ấy và lên
tiếng nói: "Kẻ không xây nhà cho người anh em mình thì phải xử như thế đó!”
10 Trong Ít-ra-en, người ta sẽ gọi tên người ấy là "nhà kẻ bị
lột dép."
Không
được khiếm nhã trong khi ẩu đả
11
Khi
hai người đàn ông đánh nhau, mà vợ của một trong hai người lại gần để cứu chồng
khỏi tay địch thủ và đưa tay nắm lấy chỗ kín của người này, 12 thì
anh (em) phải chặt tay người đàn bà ấy. Mắt anh (em) đừng nhìn nó mà thương
hại.
Phụ
lục
13
Anh
(em) không được có trong bao bị của anh (em) hai quả cân khác nhau, một nặng
một nhẹ; 14 anh (em) không được có trong nhà của anh (em) hai thùng
khác nhau, một lớn một nhỏ. 15 Anh (em) phải có một quả cân nguyên
vẹn và chính xác, một thùng nguyên vẹn và chính xác, để anh (em) được sống lâu
trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em). 16 Thật
vậy, hễ ai làm những điều ấy, hễ ai làm điều bất công, thì là điều ghê tởm đối
với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).
17
Anh
(em) hãy nhớ A-ma-lếch đã xử thế nào với anh (em) trên đường, khi anh em ra
khỏi Ai-cập: 18 nó đã đón đường anh (em) và đánh tập hậu mọi kẻ lết
theo sau, trong khi anh (em) mệt lả và kiệt sức; nó đã không kính sợ Thiên Chúa.
19 Vậy khi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), cho anh (em) được
thảnh thơi mọi bề, không còn thù địch nào nữa, trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa
của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp để anh (em) chiếm hữu, thì anh
(em) sẽ xoá hẳn tên tuổi A-ma-lếch, khiến cho dưới gầm trời, không còn ai nhớ
đến nó nữa: anh (em) đừng quên!
Chương 26
Sản
phẩm đầu mùa
1
Khi
anh (em) vào đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia
nghiệp, khi anh (em) chiếm hữu và ở đất đó, 2 thì hãy lấy một phần
mọi nông sản đầu mùa anh (em) thu hoạch được từ miền đất của anh (em), mà Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em). Anh (em) hãy để những thứ ấy
vào giỏ, rồi đi đến nơi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chọn cho Danh Người
ngự. 3 Anh (em) sẽ đến với tư tế tại chức trong những ngày đó và sẽ
thưa với ông:
"Hôm
nay tôi xin trình với Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, rằng tôi đã vào miền đất mà
Ðức Chúa đã thề với cha ông chúng tôi là Người sẽ ban cho chúng tôi."
4
Tư
tế sẽ nhận lấy giỏ từ tay anh (em) và đem đặt trước bàn thờ Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh (em). 5 Bấy giờ, anh (em) sẽ lên tiếng thưa trước tôn
nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) rằng:
6
Người
Ai-cập đã ngược đãi, hành hạ chúng tôi và đặt ách nô lệ trên vai chúng tôi. 7
Bấy giờ chúng tôi đã kêu lên cùng Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông chúng
tôi; Người đã nghe tiếng chúng tôi, đã thấy cảnh khổ cực, lầm than, áp bức
chúng tôi phải chịu. 8 Ðức Chúa đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền,
đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, để đưa chúng
tôi ra khỏi Ai-cập. 9 Người đã đưa chúng tôi vào đây, ban cho chúng
tôi đất này, đất tràn trề sữa và mật. 10 Và bây giờ, lạy Ðức Chúa,
này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con."
11
Anh
(em) sẽ liên hoan cùng với các thầy Lê-vi và người ngoại kiều sống giữa anh
(em), vì mọi điều tốt mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã ban cho anh (em)
và gia đình anh (em).
Thuế
thập phân ba năm một lần
12
Năm
thứ ba, tức là năm nộp thuế thập phân, sau khi anh (em) đã trích ra một phần
mười hoa lợi mà đem cho thầy Lê-vi, người ngoại kiều và cô nhi quả phụ, và họ
đã được ăn uống no nê trong các thành của anh (em), 13 thì anh (em)
sẽ đến thưa trước tôn nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em):
14
Con
đã không ăn của đó khi có tang, đã không lấy một phần của đó khi con bị ô uế,
đã không dùng mà cúng người chết. Con đã nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của
con, đã làm theo mọi điều Ngài truyền cho con. 15 Từ thánh điện của
Ngài, từ trời cao, xin Ngài nhìn xuống, xin chúc phúc cho dân Ngài là Ít-ra-en,
cho đất đai mà Ngài đã ban cho chúng con, như Ngài đã thề với cha ông chúng
con, đất tràn trề sữa và mật."
III.
Những Diễn Từ Kết Thúc
Ít-ra-en
là dân của Ðức Chúa
16
Hôm
nay, Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), truyền cho anh (em) đem ra thực hành
các thánh chỉ và quyết định này. Anh (em) phải hết lòng hết dạ tuân giữ và đem
ra thực hành các điều ấy.
17
Hôm
nay, anh (em) đã làm cho Ðức Chúa tuyên bố rằng Người sẽ là Thiên Chúa của anh
(em), rằng anh (em) phải đi theo đường lối của Người, giữ các thánh chỉ, mệnh
lệnh, quyết định của Người, và nghe tiếng Người. 18 Hôm nay, Ðức
Chúa đã khiến anh (em) tuyên bố rằng anh (em) sẽ là dân thuộc quyền sở hữu của
Người như Người đã phán với anh (em), và rằng anh (em) sẽ giữ mọi mệnh lệnh của
Người, 19 rằng Người sẽ cho anh (em) vượt mọi dân tộc Người đã tạo
dựng, xét về vinh dự, danh tiếng và vinh quang, rằng anh (em) sẽ là một dân
thánh hiến cho Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), như Người đã phán.
Chương 27
Ghi
khắc Luật vào đá. Các nghi lễ.
1
Ông
Mô-sê cùng với các kỳ mục của Ít-ra-en đã truyền cho dân rằng: "Hãy giữ
tất cả mệnh lệnh mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay. 2 Ngày anh (em)
sang qua sông Gio-đan vào đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh
(em), anh (em) sẽ dựng những tảng đá lớn và lấy vôi mà quét. 3 Khi
sang qua sông, anh (em) sẽ viết trên tảng đá ấy mọi lời của Luật này; như vậy
anh (em) sẽ được vào đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh
(em), đất tràn trề sữa và mật, như Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã phán
với anh (em).
4
Khi
đã sang qua sông Gio-đan, anh (em) hãy dựng những tảng đá ấy trên núi Ê-van,
như tôi truyền cho anh (em) hôm nay, và hãy lấy vôi mà quét. 5 Ở đó
anh (em) hãy xây một bàn thờ để kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), một bàn
thờ bằng những viên đá anh (em) đã không dùng sắt mà đẽo. 6 Anh (em)
hãy dùng những viên đá nguyên vẹn mà xây bàn thờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), và trên đó, hãy dâng lên Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), những lễ toàn
thiêu. 7 Anh (em) hãy dâng những hy lễ kỳ an, hãy ăn tại đó và liên
hoan trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em); 8 anh (em) hãy
viết trên các tảng đá mọi lời của Luật này: hãy khắc rõ ràng."
9
Ông
Mô-sê cùng với các tư tế Lê-vi nói với toàn thể Ít-ra-en rằng:
10
Anh
(em) hãy nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và đem ra thực hành
những mệnh lệnh và thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh (em) hôm
nay."
11
Hôm
ấy, ông Mô-sê đã truyền cho dân rằng: 12 "Khi anh (em) đã sang
qua sông Gio-đan thì đây: Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Ít-xa-kha, Giu-se và
Ben-gia-min sẽ đứng trên núi Ga-ri-dim để chúc phúc cho dân; 13 và
đây: Rưu-vên, Gát, A-se, Dơ-vu-lun, Ðan và Náp-ta-li sẽ đứng trên núi Ê-van để
nguyền rủa.
14
Các
thầy Lê-vi sẽ cất giọng và lớn tiếng nói với mọi người Ít-ra-en:
15
Ðáng
nguyền rủa thay người tạc tượng đúc tượng - điều ghê tởm đối với Ðức Chúa, đồ
vật do tay thợ làm ra - và đặt ở nơi bí mật mà thờ! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
16
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ khinh dể cha mẹ! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
17
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ xê dịch ranh giới người đồng loại! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
18
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ làm cho người mù đi lạc đường! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
19
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ làm thiệt hại đến quyền lợi của ngoại kiều, cô nhi quả phụ!
Toàn dân sẽ thưa: A-men!
20
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ nằm với vợ của cha mình, vì nó xâm phạm đến quyền làm chồng
của cha mình! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
21
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ nằm với con vật nào! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
22
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ nằm với chị em mình, con gái của cha hay mẹ mình! Toàn dân
sẽ thưa: A-men!
23
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ nằm với mẹ vợ mình! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
24
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ giết trộm người đồng loại! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
25
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ nhận quà hối lộ để giết người vô tội! Toàn dân sẽ thưa:
A-men!
26
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ không giữ trọn những lời của Luật này mà đem ra thực hành!
Toàn dân sẽ thưa: A-men!"
Chương 28
Các
lời chúc phúc (Lv 26:3-13; Ðnl 7:12 -24)
1
Nếu
anh (em) thật sự nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mà lo đem ra
thực hành tất cả những mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay,
thì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho anh (em) vượt mọi dân tộc trên
mặt đất, 2 và mọi phúc lành sau đây sẽ đến với anh (em) và bao trùm
anh (em), bởi vì anh (em) đã nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em):
3
Anh
(em) sẽ được chúc phúc trong thành, anh (em) sẽ được chúc phúc ngoài đồng. 4
Con cái của lòng dạ anh (em), hoa màu của đất đai anh (em), đàn con của
gia súc anh (em), bò con, chiên con của anh (em) đều được chúc phúc. 5 Giỏ
của anh (em) và cối nhồi bột của anh (em) sẽ được chúc phúc. 6 Anh
(em) sẽ được chúc phúc khi vào, anh (em) sẽ được chúc phúc khi ra.
7
Các
kẻ thù anh (em) đứng lên chống lại anh (em), Ðức Chúa sẽ làm cho chúng bị đánh
bại trước mặt anh (em): khi ra đánh anh (em), chúng cùng đi một lối, lúc phải
trốn anh (em), chúng tháo chạy bảy đường. 8 Ðức Chúa sẽ truyền cho
phúc lành ở với anh (em) trong kho lúa và trong mọi công việc tay anh (em) làm,
và Người sẽ chúc phúc cho anh (em) trong đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), ban cho anh (em).
9
Ðức
Chúa sẽ đặt anh (em) lên làm dân thánh hiến cho Người, như Người đã thề với anh
(em), nếu anh (em) giữ các mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và
nếu anh (em) đi theo đường lối của Người. 10 Mọi dân trên mặt đất sẽ
thấy rằng anh (em) được mang danh Ðức Chúa, và chúng sẽ sợ anh (em). 11 Ðể
anh (em) được hạnh phúc, Ðức Chúa sẽ cho anh (em) thành công, mà cho anh (em)
sinh nhiều con cái, gia súc anh (em) sinh sôi nảy nở, đất đai anh (em) sinh
nhiều hoa trái, trên đất đai mà Ðức Chúa đã thề với cha ông anh (em) là Người
sẽ ban cho anh (em). 12 Ðức Chúa sẽ mở trời, là kho tàng quý báu của
Người, cho anh (em), để ban mưa đúng mùa cho đất anh (em), và chúc phúc cho mọi
việc tay anh (em) làm. Anh (em) sẽ cho nhiều dân tộc vay mượn, còn chính anh
(em) sẽ không phải vay mượn. 13 Ðức Chúa sẽ đặt anh (em) đứng đầu
chứ không đứng cuối, anh (em) sẽ chỉ đi lên chứ không đi xuống, nếu anh (em)
nghe các mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mà hôm nay tôi truyền
cho anh (em) giữ và đem ra thực hành, 14 và nếu anh (em) tuân cứ mọi
điều tôi truyền cho anh (em) hôm nay, không đi trệch bên phải bên trái, mà theo
các thần khác và phụng thờ chúng.
Các
lời nguyền rủa (Lv 26:14-46)
15
Nhưng
nếu anh (em) không nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), không lo đem
ra thực hành tất cả những mệnh lệnh và thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho
anh (em) hôm nay, thì những lời nguyền rủa sau đây sẽ đến với anh (em) và bao
trùm anh (em):
16
Anh
(em) sẽ bị nguyền rủa trong thành, anh (em) sẽ bị nguyền rủa ngoài đồng. 17
Giỏ của anh (em) và cối nhồi bột của anh (em) sẽ bị nguyền rủa. 18 Con
cái của lòng dạ anh (em), hoa màu của đất đai anh (em), bò con, chiên con của
anh (em) sẽ bị nguyền rủa. 19 Anh (em) sẽ bị nguyền rủa khi vào, anh
(em) sẽ bị nguyền rủa khi ra.
20
Ðức
Chúa sẽ khiến anh (em) mắc tai hoạ, phải hoảng sợ, bị đe doạ, trong mọi công
việc tay anh (em) làm, cho đến khi anh (em) bị tiêu diệt và mau lẹ biến mất, vì
sự gian ác anh (em) làm khi lìa bỏ Ðức Chúa. 21 Ðức Chúa sẽ cho ôn
dịch bám vào anh (em), cho đến khi nó tận diệt anh (em), khiến anh (em) không
còn trên đất anh (em) sắp vào chiếm hữu. 22 Ðức Chúa sẽ làm cho anh
(em) bị suy mòn, nóng sốt, viêm, phỏng, bị hạn hán, và làm cho lúa mì bị úa
vàng, bị sâu đục: các thứ đó sẽ theo sát anh (em) cho đến khi anh (em) biến mất.
23 Trời của anh (em), trên đầu anh (em), sẽ là đồng, đất dưới chân
anh (em) sẽ là sắt. 24 Thay vì làm mưa trên đất anh (em), Ðức Chúa
sẽ cho cát và bụi từ trời rơi xuống, cho đến khi anh (em) bị tiêu diệt.
25
Ðức
Chúa sẽ làm cho anh (em) bị đánh bại trước mặt quân thù: khi ra đánh chúng, anh
(em) cùng đi một lối, lúc phải trốn chúng, anh (em) tháo chạy bảy đường. Anh
(em) sẽ làm cho mọi dân tộc trên mặt đất phải gớm ghiếc. 26 Xác chết
của anh (em) sẽ làm mồi cho mọi chim trời, và cho các thú vật trên mặt đất, mà
không ai xua đuổi chúng.
27
Ðức
Chúa sẽ làm cho anh (em) bị ung nhọt Ai-cập, bị u bướu, ghẻ lở, ngứa ngáy, mà
không thể chữa khỏi. 28 Ðức Chúa sẽ làm cho anh (em) bị điên khùng,
mù loà, loạn trí. 29 Anh (em) sẽ mò mẫm giữa trưa, như người mù mò
mẫm trong bóng tối, và sẽ không thấy đường mà đi.
30
Anh
(em) sẽ đính hôn với một phụ nữ, nhưng người khác sẽ cưỡng hiếp nàng; anh (em)
sẽ xây nhà, nhưng không được ở, sẽ trồng vườn nho, nhưng không được hưởng trái
đầu tiên. 31 Bò của anh (em) sẽ bị hạ trước mắt anh (em), mà anh
(em) không được ăn thịt; lừa của anh (em) sẽ bị cướp trước mặt anh (em) và sẽ
không trở về với anh (em); chiên dê của anh (em) sẽ bị nộp cho quân thù, mà
không ai cứu giúp anh (em). 32 Con trai con gái của anh (em) sẽ bị
nộp cho một dân khác; mắt anh (em) sẽ chứng kiến và suốt ngày mòn mỏi trông chờ
chúng, nhưng anh (em) đành chịu bó tay. 33 Hoa màu của đất đai anh
(em) và tất cả công lao vất vả của anh (em), thì một dân anh (em) không biết sẽ
được hưởng; mãi mãi, anh (em) sẽ chỉ là người bị áp bức, bị hành hạ. 34 Anh
(em) sẽ ra điên khùng vì cảnh tượng mắt anh (em) chứng kiến. 35 Ðức
Chúa sẽ làm cho anh (em) bị ung độc không thể chữa lành ở đầu gối và ở đùi, từ
bàn chân cho tới đỉnh đầu.
36
Ðức
Chúa sẽ bắt anh (em) và vua mà anh (em) tôn lên cai trị anh (em), đi đến với
một dân tộc anh (em) và cha ông anh (em) không biết, tại đó anh (em) sẽ phụng
thờ các thần khác, là gỗ, là đá. 37 Anh (em) sẽ trở nên nỗi kinh
hoàng, nên trò cười, nên đầu đề châm chọc cho mọi dân ở những nơi Ðức Chúa sẽ
dẫn anh (em) đến.
38
Hạt
giống anh (em) mang ra đồng thì nhiều, nhưng chỉ thu hoạch được ít, vì châu
chấu sẽ phá hết. 39 Anh (em) sẽ trồng và chăm sóc vườn nho, nhưng
rượu anh (em) sẽ không được uống và cả trái nho cũng chẳng được hái, vì sâu bọ
sẽ ăn mất. 40 Anh (em) sẽ có những cây ô-liu trên toàn lãnh thổ anh
(em), nhưng không có dầu mà xức, vì trái ô-liu của anh (em) sẽ rụng. 41 Anh
(em) sẽ sinh con trai con gái, nhưng chúng sẽ không thuộc về anh (em), vì chúng
sẽ bị đi đày. 42 Mọi cây cối và hoa màu của đất đai anh (em) sẽ bị
bọ dừa phá hoại.
43
Người
ngoại kiều giữa anh (em) sẽ đi lên, lên mãi, vượt hẳn anh (em); còn anh (em) sẽ
đi xuống, xuống mãi. 44 Họ sẽ cho anh (em) vay mượn, còn anh (em) sẽ
không có gì cho họ vay mượn. Họ sẽ đứng đầu, còn anh (em) sẽ đứng cuối.
45
Những
lời nguyền rủa này sẽ đến với anh (em), theo sát và bao trùm anh (em), cho đến
khi anh (em) bị tiêu diệt, vì anh (em) không nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa
của anh (em), không giữ các mệnh lệnh và thánh chỉ của Người mà Người truyền
cho anh (em). 46 Những điều ấy sẽ nên dấu lạ điềm thiêng cho anh
(em) và dòng dõi anh (em) đến muôn đời.
Viễn
tượng chiến tranh và tù đày
47
Vì
anh (em) đã không phụng thờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), với tâm hồn vui
sướng bởi có đầy đủ tất cả, 48 nên trong cảnh đói khát, trần truồng
và thiếu thốn tất cả, anh (em) sẽ phải phục vụ quân thù của anh (em), những kẻ
Ðức Chúa sẽ sai đến đánh anh (em). Người sẽ đặt ách sắt trên cổ anh (em), cho
đến khi chúng tiêu diệt anh (em).
49
Ðể
chống lại anh (em), Ðức Chúa sẽ đưa một dân tộc từ xa, từ cùng cõi đất, phóng
đến như đại bàng, một dân tộc mà anh (em) không biết tiếng, 50 mặt
mày cứng cỏi, già không nể, trẻ không thương. 51 Nó sẽ ăn đàn con
của gia súc anh (em), hoa màu của đất đai anh (em), cho đến khi anh (em) bị
tiêu diệt; nó sẽ không để lại cho anh (em) lúa mì, rượu mới, dầu tươi, bò con,
chiên con, cho đến khi nó làm cho anh (em) biến mất. 52 Nó sẽ vây hãm
anh (em) trong mọi thành của anh (em), cho đến khi các tường thành cao và kiên
cố mà anh (em) tin tưởng, phải sụp đổ, trong khắp đất của anh (em); nó sẽ vây
hãm anh (em) trong mọi thành của anh (em), trong khắp đất của anh (em) mà Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em). 53 Khi bị vây hãm,
bị quân thù siết chặt trong cảnh ngặt nghèo, anh (em) sẽ ăn con cái của lòng dạ
anh (em), ăn thịt con trai con gái anh (em) mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), ban cho anh (em). 54 Người đàn ông hào hoa phong nhã nhất
trong anh (em) sẽ nhìn người anh em mình, người vợ mình đã từng âu yếm, và
những đứa con còn giữ lại được, với cặp mắt dữ dằn, 55 vì không muốn
chia cho ai trong những người này chút thịt những đứa con mà người ấy đang ăn,
bởi lẽ người ấy không còn gì nữa, khi anh (em) bị vây hãm, bị kẻ thù siết chặt
trong cảnh ngặt nghèo, trong mọi thành của anh (em). 56 Người đàn bà
liễu yếu đào tơ vào bậc nhất trong anh (em), mềm yếu và nhã nhặn đến đỗi chưa
hề thử đặt bàn chân xuống đất, sẽ nhìn người chồng mình đã từng âu yếm và con
trai con gái mình với cặp mắt dữ dằn; 57 ngay cả cái nhau từ trong
lòng mình xổ ra và đứa con mình sinh ra, nàng sẽ lén ăn cả hai, bởi lẽ nàng
thiếu tất cả, khi anh (em) bị vây hãm và bị kẻ thù siết chặt trong cảnh ngặt
nghèo, trong các thành của anh (em).
58
Nếu
anh (em) không lo đem ra thực hành tất cả những lời của Luật này, chép trong
sách này, và kính sợ danh hiển hách và khả uý này: Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), 59 thì Ðức Chúa sẽ làm cho anh (em) và làm cho dòng dõi anh
(em) phải mang những vết thương lạ, những vết thương nặng và dai dẳng, những
bệnh ác độc và dai dẳng. 60 Ðức Chúa sẽ cho trở lại với anh (em) mọi
dịch tễ của Ai-cập, mà anh (em) kinh hãi, những dịch tễ ấy sẽ bám vào anh (em).
61 Cả mọi bệnh hoạn và mọi vết thương không được chép trong sách
Luật này, Ðức Chúa cũng giáng xuống trên anh (em), cho đến khi anh (em) bị tiêu
diệt. 62 Sau khi đã trở nên nhiều như sao trên trời, anh (em) sẽ chỉ
còn lại một số người ít ỏi, vì anh (em) không nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa
của anh (em).
63
Cũng
như Ðức Chúa đã lấy làm vui khi cho anh em được hạnh phúc và nên đông đúc, thì
Người cũng sẽ lấy làm vui khi để cho anh em bị giết chết, bị tiêu diệt, và bị
bứng khỏi miền đất mà anh (em) sẽ vào chiếm hữu. 64 Ðức Chúa sẽ phân
tán anh (em) vào giữa mọi dân, từ đầu đến cuối mặt đất, tại đó, anh (em) sẽ
phụng thờ các thần khác, là gỗ, là đá, những thần mà anh (em) và cha ông anh
(em) không biết. 65 Ở giữa các dân tộc ấy, anh (em) sẽ không được
yên hàn và không có chỗ đặt bàn chân; tại đó, Ðức Chúa sẽ làm cho lòng anh (em)
xao xuyến, đôi mắt mỏi mòn, tâm hồn kiệt quệ. 66 Mạng sống anh (em)
sẽ treo lơ lửng trước mặt anh (em); đêm ngày anh (em) sẽ khiếp sợ, anh (em) sẽ
không tin mình còn được sống. 67 Ban sáng anh (em) sẽ nói: "Bao
giờ mới đến chiều?"; ban chiều anh (em) sẽ nói: "Bao giờ mới đến
sáng?", vì nỗi khiếp sợ tràn ngập tâm hồn anh (em) và vì cảnh tượng mắt
anh (em) chứng kiến. 68 Ðức Chúa sẽ bắt anh (em) đi thuyền, đi bộ
trở lại đất Ai-cập mà tôi đã nói với anh (em): "Anh (em) sẽ không còn thấy
lại đất này nữa!" Tại đó, anh (em) sẽ bán mình làm tôi trai tớ gái cho
quân thù của anh (em), mà chẳng có ai mua!"
Diễn
Từ Thứ Ba Của Ông Mô-Sê
69
Ðây
là những lời của giao ước mà Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê lập với con cái
Ít-ra-en tại đất Mô-áp, không kể giao ước Người đã lập với họ tại núi Khô-rếp.
Chương 29
Ôn
lại lịch sử
1
Ông
Mô-sê triệu tập toàn thể Ít-ra-en và nói với họ:
2
đó
là các thử thách lớn lao mắt anh (em) từng thấy, là các dấu lạ điềm thiêng lớn
lao ấy. 3 Nhưng cho đến ngày hôm nay, Ðức Chúa đã không cho anh em
lòng để biết, mắt để thấy, tai để nghe.
4
Ta
đã dẫn các ngươi bốn mươi năm trong sa mạc, mà áo các ngươi mặc đã không rách,
dép chân các ngươi đi đã không mòn. 5 Của ăn của các ngươi không
phải là bánh, thức uống của các ngươi không phải là rượu và đồ uống có men, để
các ngươi biết rằng Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi. 6 Rồi
anh em đã đến nơi này; Xi-khôn, vua Khét-bôn, và Ốc, vua miền Ba-san, đã ra
nghênh chiến với chúng ta, và chúng ta đã đánh bại chúng. 7 Chúng ta
đã chiếm đất của chúng, và chia cho chi tộc Rưu-vên, chi tộc Gát và một nửa chi
tộc Mơ-na-se làm gia nghiệp.
8
Anh
em phải giữ những lời của giao ước này và đem ra thực hành để được thành công
trong tất cả những gì anh em làm.
Giao
ước tại Mô-áp
9
Hôm
nay, tất cả anh em đứng trước tôn nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em: nào là
những người đứng đầu các chi tộc của anh em, nào là các kỳ mục, ký lục của anh
em, mọi người phái nam trong Ít-ra-en, 10 nào là đàn bà con trẻ của
anh em, nào là người ngoại kiều ở trong trại của anh (em), từ người chặt củi
cho đến người múc nước cho anh (em). 11 Anh (em) sắp gia nhập giao
ước của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), giao ước có kèm theo lời thề nguyền,
là giao ước mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), lập với anh (em) hôm nay, 12
để đặt anh (em) lên làm dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên Chúa
của anh (em), như Người đã phán với anh (em) và như Người đã thề với cha ông
anh (em), là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. 13 Không phải chỉ riêng
với anh em mà tôi lập giao ước này, có kèm theo lời thề nguyền này, 14 nhưng
còn với kẻ có mặt ở đây với chúng ta, và hôm nay đang đứng trước tôn nhan Ðức
Chúa, Thiên Chúa chúng ta, cũng như với kẻ không có ở đây với chúng ta hôm nay.
15
Chính
anh em biết chúng ta đã sống bên đất Ai-cập làm sao và đã băng qua lãnh thổ các
dân tộc mà anh em đã đi qua như thế nào. 16 Anh em đã thấy ở giữa
chúng các đồ gớm ghiếc và các ngẫu tượng của chúng, là gỗ, đá, bạc, vàng.
17
Giữa
anh em, đừng có người nào, nam hay nữ, đừng có dòng họ hay chi tộc nào hôm nay
trở lòng với Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, mà đi phụng thờ các thần của những
dân tộc ấy. Giữa anh em, đừng có thứ rễ sinh trái độc và quả đắng. 18 Nếu
kẻ nào, khi nghe các lời thề nguyền này, lại tự chúc phúc cho mình trong lòng
mà nói: "Tôi sẽ được bình an, cho dù tôi cứ sống theo lòng chai dạ đá của
tôi"; như thể đất được tưới không khác gì đất khô cằn; 19 nếu
kẻ nào làm thế thì Ðức Chúa sẽ không muốn tha cho nó; bấy giờ cơn giận và lòng
ghen tương của Ðức Chúa sẽ bốc lên phạt người ấy, tất cả lời thề nguyền chép
trong sách này sẽ đổ xuống trên nó, và Ðức Chúa sẽ xoá tên nó không còn dấu vết
trong thiên hạ. 20 Ðức Chúa sẽ tách nó ra khỏi mọi chi tộc Ít-ra-en,
cho nó phải mang hoạ, chiếu theo mọi lời thề nguyền của giao ước chép trong
sách Luật này.
Viễn
tượng lưu đày
21
Khi
thấy các vết thương của miền đất này và những bệnh tật Ðức Chúa giáng xuống
trên đó, thì thế hệ tương lai, tức là con cái anh em đứng lên sau anh em, và
người nước ngoài đến từ một miền đất xa xôi, sẽ nói: 22 "Cả
miền đất chỉ là diêm sinh, muối và lửa, không ai gieo vãi, không chi nảy chồi,
không cọng cỏ nào mọc lên, giống như cảnh tàn phá ở Xơ-đôm, Gô-mô-ra, Át-ma và
Xơ-vô-gim, những thành mà Ðức Chúa đã phá đổ trong cơn thịnh nộ và lôi đình của
Người. 23 Và mọi dân tộc sẽ nói: "Vì sao Ðức Chúa đã xử như thế
với miền đất này? Vì sao cơn thịnh nộ lớn lao này đã bừng cháy? 24 Người ta sẽ
trả lời: "Ấy là vì họ bỏ giao ước của Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông họ,
giao ước Người đã lập với họ, khi Người đưa họ ra khỏi đất Ai-cập. 25 Họ
đã đi phụng thờ các thần khác và sụp xuống lạy các thần ấy, những thần mà họ
không biết và Người đã chẳng phân chia cho họ. 26 Ðức Chúa đã nổi
cơn thịnh nộ với miền đất này, và giáng xuống tất cả lời nguyền rủa chép trong
sách này. 27 Trong cơn thịnh nộ, lôi đình và giận dữ lớn lao, Ðức
Chúa đã bứng họ đi khỏi đất đai của họ và ném họ vào một miền đất khác, như
ngày hôm nay. 28 Có những điều Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, giữ
kín cho mình; nhưng những điều này được mặc khải cho chúng ta và con cháu chúng
ta đến muôn đời, để chúng ta đem ra thực hành những lời của Luật này.
Chương 30
Trở
về từ chốn lưu đày. Trở lại với Chúa.
1
Vậy
khi tất cả những điều ấy xảy đến cho anh (em), tức là lời chúc phúc và lời
nguyền rủa tôi đã đưa ra cho anh (em) chọn, anh (em) sẽ để tâm suy niệm những
điều ấy, giữa các dân tộc, nơi mà Ðức Chúa đã đuổi anh (em) đến; 2 anh
(em) sẽ trở về cùng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), anh (em) và con cái anh
(em) sẽ nghe tiếng Người, hết lòng hết dạ, theo mọi điều tôi truyền cho anh
(em) hôm nay. 3 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ đổi vận mạng
anh (em), sẽ chạnh lòng thương và sẽ lại tập trung anh (em) về từ mọi dân, từ
nơi mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã phân tán anh (em). 4 Dù
anh (em) có bị đuổi xa đến tận chân trời, thì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), cũng sẽ tập trung anh (em) từ đó về, và từ đó Người sẽ đón anh (em). 5
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ đưa anh (em) về đất mà cha ông anh
(em) đã chiếm hữu, để anh (em) chiếm hữu đất ấy; Người sẽ làm cho anh (em) được
hạnh phúc và đông đúc hơn cha ông anh (em).
6
Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cắt bì tâm hồn anh (em) và tâm hồn dòng dõi
anh (em), để anh (em) yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết
dạ, ngõ hầu anh (em) được sống. 7 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em),
sẽ giáng mọi lời nguyền rủa này trên quân thù anh (em), những kẻ ghét và bắt bớ
anh (em). 8 Phần anh (em), anh (em) sẽ trở lại và nghe tiếng Ðức
Chúa, sẽ đem ra thực hành mọi mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh (em)
hôm nay. 9 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho anh (em) thành
công trong mọi công việc tay anh (em) làm, cho anh (em) sinh nhiều con cái, gia
súc anh (em) sinh sôi nảy nở, đất đai anh (em) sinh nhiều hoa trái, để anh (em)
được hạnh phúc. Thật vậy, Ðức Chúa sẽ lấy làm vui vì hạnh phúc của anh (em),
cũng như Người đã lấy làm vui vì hạnh phúc của cha ông anh (em), 10 miễn
là anh (em) nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mà giữ những mệnh
lệnh và thánh chỉ Người, ghi trong sách Luật này, miễn là anh (em) trở về với
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ.
11
Quả
thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh (em) hôm nay đây, không vượt quá sức lực hay
ngoài tầm tay anh (em). 12 Mệnh lệnh đó không ở trên trời, khiến anh
(em) phải nói: "Ai sẽ lên trời lấy xuống cho chúng tôi và nói cho chúng
tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành? 13 Mệnh lệnh đó cũng không ở bên kia
biển, khiến anh (em) phải nói: "Ai sẽ sang bên kia biển lấy về cho chúng
tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành? 14 Thật vậy, lời
đó ở rất gần anh (em), ngay trong miệng, trong lòng anh (em), để anh (em) đem
ra thực hành.
Hai
con đường
15
Coi
đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh (em) chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc,
hoặc là phải chết, bị tai hoạ. 16 Hôm nay tôi truyền cho anh (em)
phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đi theo đường lối của Người, và
tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Người, để anh (em) được sống,
được thêm đông đúc, và Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chúc phúc cho anh
(em) trong miền đất anh (em) sắp vào chiếm hữu. 17 Nhưng nếu anh
(em) trở lòng và không vâng nghe, lại bị lôi cuốn và sụp xuống lạy các thần
khác và phụng thờ chúng, 18 thì hôm nay tôi báo cho anh (em) biết:
chắc chắn anh (em) sẽ bị diệt vong, sẽ không được sống lâu trên đất mà anh (em)
sắp sang qua sông Gio-đan để vào chiếm hữu. 19 Hôm nay, tôi lấy trời
đất làm chứng cáo tội anh (em): tôi đã đưa ra cho anh (em) chọn được sống hay
phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa. Anh (em) hãy chọn sống để anh (em)
và dòng dõi anh (em) được sống, 20 nghĩa là hãy yêu mến Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), nghe tiếng Người và gắn bó với Người, vì như thế anh
(em) sẽ được sống, sống lâu mà ở lại trên đất Ðức Chúa đã thề với cha ông anh
(em), là ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, rằng Người sẽ ban cho các
ngài."
Chương 31
IV.
Những Việc Làm Cuối Cùng Của Ông Mô-Sê.
Ông
Mô-Sê Qua Ðời.
Sứ
mạng của ông Giô-suê
1
Ông
Mô-sê đến nói những lời này với toàn thể Ít-ra-en. 2 Ông bảo họ:
"Hôm nay tôi đã được một trăm hai mươi tuổi, tôi không thể đi ra đi vào
được nữa, và Ðức Chúa đã bảo tôi: "Ngươi sẽ không được sang qua sông
Gio-đan kia. 3 Chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ dẫn đầu
anh (em) sang qua sông, Người sẽ tiêu diệt các dân tộc ấy cho khuất mắt anh
(em), để anh (em) chiếm đất của chúng. Chính ông Giô-suê sẽ dẫn đầu anh (em)
sang qua sông, như Ðức Chúa đã phán. 4 Ðức Chúa sẽ xử với chúng như
đã xử với các vua người E-mô-ri là Xi-khôn và Ốc, và với đất nước của chúng:
Người đã tiêu diệt chúng. 5 Ðức Chúa sẽ trao các dân tộc ấy cho anh
(em), và anh (em) sẽ xử với chúng theo như tất cả mệnh lệnh tôi đã truyền cho
anh (em). 6 Mạnh bạo lên, can đảm lên! Ðừng sợ, đừng run khiếp trước
mặt chúng, vì chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đi với anh (em); Người
sẽ không để mặc, không bỏ rơi anh (em)."
7
Rồi
ông Mô-sê gọi ông Giô-suê lại, và nói với ông trước mặt toàn thể Ít-ra-en:
"Mạnh bạo lên, can đảm lên! Chính anh sẽ cùng với dân này vào đất Ðức Chúa
đã thề với cha ông họ rằng Người sẽ ban cho họ; chính anh sẽ cho họ hưởng đất
ấy làm gia nghiệp. 8 Chính Ðức Chúa đi phía trước anh, chính Người
sẽ ở với anh; Người sẽ không để mặc, không bỏ rơi anh. Ðừng sợ, đừng hãi!"
Nghi
thức công bố luật
9
Ông
Mô-sê viết luật này và trao cho các tư tế, con cái Lê-vi, là những người sẽ
kiệu Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa, và cho tất cả các kỳ mục Ít-ra-en. 10 Ông
Mô-sê truyền cho họ rằng: "Sau bảy năm, vào thời kỳ có năm tha nợ, trong
dịp lễ Lều, 11 khi toàn thể Ít-ra-en đến để ra trình diện Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), ở nơi Người chọn, anh (em) phải đọc luật này trước
toàn thể Ít-ra-en, cho họ nghe. 12 Anh (em) hãy tập hợp dân, đàn
ông, đàn bà, trẻ con và người ngoại kiều ở trong các thành của anh (em), để họ
nghe và để họ học cho biết kính sợ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và lo đem
ra thực hành mọi lời của luật này. 13 Con cái họ, là những kẻ không
biết, sẽ nghe và học cho biết kính sợ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mọi ngày
anh em sống trên đất mà anh em sắp qua sông Gio-đan để chiếm hữu."
Huấn
thị của Ðức Chúa
14
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ðây sắp đến ngày ngươi phải lìa đời. Hãy gọi
Giô-suê đến, và các người hãy đứng ở Lều Hội Ngộ để Ta truyền lệnh cho
nó." Ông Mô-sê và ông Giô-suê ra đứng ở Lều Hội Ngộ. 15 Ðức
Chúa xuất hiện trong Lều, trong cột mây và cột mây đứng ở cửa Lều.
16
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ðây ngươi sắp nằm xuống với cha ông ngươi, và
dân này sẽ chạy theo các thần mà làm điếm, các thần của người ngoại bang ở
trong đất nó sắp vào; nó sẽ bỏ Ta và sẽ phá vỡ giao ước của Ta, giao ước Ta đã lập
với nó. 17 Ngày ấy, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ với nó. Ta sẽ bỏ chúng và
sẽ ẩn mặt đi không nhìn chúng. Bấy giờ nó sẽ bị thôn tính, và nhiều tai hoạ,
nhiều cơn ngặt nghèo sẽ xảy ra cho nó. Ngày đó, nó sẽ nói: "Những tai hoạ
này xảy ra cho tôi, phải chăng là vì Thiên Chúa không còn ở giữa tôi? 18 Phần
Ta, ngày đó Ta sẽ cứ ẩn mặt đi, vì tất cả điều ác nó làm khi hướng về các thần
khác.
Bài
ca làm chứng
19
Bây
giờ các ngươi hãy viết cho mình bài ca này, (các) ngươi hãy dạy cho con cái
Ít-ra-en, hãy đặt vào miệng chúng, để Ta lấy bài ca ấy làm chứng cáo tội con
cái Ít-ra-en. 20 Thật vậy, Ta sẽ đưa nó vào đất Ta đã thề hứa với
cha ông nó, đất tràn trề sữa và mật, nó sẽ được ăn, được no nê, sẽ béo mập, rồi
sẽ hướng về các thần khác và phụng thờ chúng, nó sẽ khinh thị Ta và phá vỡ giao
ước của Ta. 21 Khi nhiều tai hoạ, nhiều cơn ngặt nghèo xảy ra cho
chúng, thì bài ca này sẽ làm chứng cáo tội nó, vì dòng dõi chúng sẽ không quên
lặp lại bài ca này. Thật vậy, Ta biết ý định nó đang mưu tính hôm nay, ngay cả
trước khi Ta đưa nó vào đất mà Ta đã thề hứa.” 22 Hôm ấy, ông Mô-sê
đã viết bài ca này và dạy con cái Ít-ra-en.
23
Ðức
Chúa truyền lệnh cho ông Giô-suê, con ông Nun, Người phán: "Mạnh bạo lên,
can đảm lên! Chính ngươi sẽ đưa con cái Ít-ra-en vào đất mà Ta đã thề hứa với
chúng; và Ta sẽ ở với ngươi."
Ðặt
Luật bên Hòm Bia
24
Khi
ông Mô-sê đã viết xong các lời của luật này vào một cuốn sách, từ đầu chí cuối,
25 thì ông truyền cho các thầy Lê-vi, những người kiệu Hòm Bia Giao
Ước của Ðức Chúa, rằng: 26 "Hãy đem sách luật này đặt bên Hòm
Bia Giao Ước của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em; ở đó sách ấy sẽ làm chứng cáo
tội anh (em). 27 Vì tôi biết anh (em) hay phản nghịch và cứng cổ:
hôm nay tôi còn sống với anh em, mà anh em đã phản nghịch chống lại Ðức Chúa,
huống chi là sau khi tôi chết!
Tập
hợp dân để nghe bài ca
28
Hãy
tập hợp lại chung quanh tôi hết mọi kỳ mục của các chi tộc anh em và các ký lục
của anh em; tôi sẽ nói cho họ nghe những lời này, và lấy trời đất làm chứng cáo
tội họ. 29 Vì tôi biết rằng, sau khi tôi chết, chắc chắn anh em sẽ
ra hư hỏng, và sẽ đi ra ngoài con đường tôi đã truyền cho anh em; và tai hoạ sẽ
xảy đến cho anh em sau này, vì anh em sẽ làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, để trêu
giận Người bằng những việc tay anh em làm."
30
Rồi
ông Mô-sê nói cho toàn thể đại hội Ít-ra-en nghe những lời của bài ca này, từ
đầu chí cuối:
Chương 32
Bài
Ca Của Ông Mô-Sê
1
Trời
hãy lắng tai, này tôi sắp kể,
đất
nghe cho tường lời lẽ miệng tôi:
2
Giáo
huấn của tôi như giọt mưa thánh thót,
lời
tôi dạy bảo tựa sương móc nhỏ sa,
khác
nào mưa rơi trên nội cỏ,
giống
như nước đổ xuống đồng xanh.
3
Này
tôi xưng tụng thánh danh Ðức Chúa,
trời
đất hãy suy tôn Thiên Chúa ta thờ!
4
Người
là Núi Ðá: sự nghiệp Người hoàn hảo,
vì
mọi đường lối Người đều thẳng ngay.
Chúa
tín thành, không mảy may gian dối,
Người
quả là chính trực công minh.
5
Những
đứa con mà Chúa đã sinh ra không tì ố
lại
lỗi đạo với Người, ôi nòi giống lưu manh tà vạy!
6
Hỡi
dân tộc ngu si khờ dại,
ngươi
đáp đền ơn Ðức Chúa vậy sao?
Há
chính Người chẳng phải cha ngươi,
Ðấng
dựng nên ngươi, Ðấng tạo thành, củng cố?
7
Hãy
nhớ lại những ngày xưa tháng cũ,
và
ngẫm xem từng thế hệ qua rồi.
Cứ
hỏi cha ngươi là người sẽ dạy,
thỉnh
bậc lão thành, họ sẽ nói cho nghe.
8
Khi
Ðấng Tối Cao định phần riêng cho muôn nước,
và
khiến loài người khắp ngả chia tay,
thì
Người vạch biên cương cho từng dân tộc
theo
số các thần minh.
9
Nhưng
sở hữu của Ðức Chúa chính là dân Chúa,
nhà
Gia-cóp là cơ nghiệp của Người.
10
Gặp
thấy nó giữa miền hoang địa,
giữa
cảnh hỗn mang đầy tiếng hú rợn rùng,
Chúa
ấp ủ, Chúa lo dưỡng dục,
luôn
giữ gìn, chẳng khác nào con ngươi mắt Chúa.
11
Tựa
chim bằng trên tổ lượn quanh, giục bầy con bay nhảy,
xoè
cánh ra đỡ lấy rồi cõng con trên mình.
12
Duy
một mình Ðức Chúa lãnh đạo dân;
chẳng
có thần ngoại bang nào bên cạnh Chúa.
13
Người
cho nó phóng ngựa trên các vùng đất cao trong xứ,
nó
được ăn hoa màu đồng ruộng;
Người
cho nó nếm mật ong chảy ra từ hốc đá,
nếm
dầu từ tảng đá hoa cương;
14
nếm
sữa bò chua và sữa chiên dê,
với
mỡ chiên con, chiên đực miền Ba-san,
mỡ
dê đực, với lúa mì tinh hảo;
ngươi
uống máu trái nho đã hoá rượu nồng.
15
Giơ-su-run
mập ra, nó hất chân đá hậu
-
ngươi mập, béo, phát phì
nó
đã bỏ Thiên Chúa, Ðấng đã làm ra nó,
Núi
Ðá độ trì nó, nó đã khinh thường.
16
Chúng
thờ các thần xa lạ khiến Người phải ghen tương,
làm
những điều ghê tởm mà trêu giận Người;
17
chúng
tế những quỷ không phải là Thiên Chúa,
tế
những thần chúng không biết,
những
thần mới, vừa mới đến,
mà
cha ông các ngươi đã không khiếp sợ.
18
Núi
Ðá sinh ra ngươi, ngươi lại coi thường,
ngươi
quên Thiên Chúa, Ðấng đã sinh ra ngươi.
19
Ðức
Chúa thấy vậy thì khinh miệt,
vì
con trai con gái Người đã trêu giận Người.
20
Người
phán: "Ta sẽ ẩn mặt đi không nhìn chúng,
để
xem hậu vận chúng ra sao;
vì
chúng là giống nòi tráo trở,
những
đứa con chẳng chút tín trung.
21
Chúng
đã thờ các thần không phải là Thiên Chúa
khiến
Ta phải ghen tương,
thờ
những thần hư ảo mà trêu giận Ta;
Ta
sẽ dùng một dân không phải là dân
khiến
chúng phải ghen tương,
dùng
một dân tộc ngu si mà trêu giận chúng.
22
Phải,
lửa thịnh nộ đã bùng lên trong Ta,
nó
đốt đến tận đáy sâu âm phủ,
thiêu
huỷ đất đai với cả hoa màu,
làm
chân núi đồi bốc cháy.
23
Trên
chúng, Ta sẽ chồng chất tai ương,
sẽ
phóng hết mũi tên của Ta vào chúng.
24
Khi
vì đói, chúng phải hao mòn,
vì
sốt, vì ôn dịch tàn khốc mà phải tiêu tan,
Ta
sẽ gửi đến chúng nanh thú dữ,
với
nọc của loài bò sát trên bụi đất.
25
Ngoài
thì lưỡi gươm sẽ làm chúng mất con,
trong
thì là nỗi kinh hoàng.
Cả
trai tráng lẫn người trinh nữ,
trẻ
đang bú cũng như người bạc đầu sẽ chung số phận.
26
Ta
đã phán: Ta sẽ đập chúng tan tành,
làm
cho loài người chẳng còn ai nhớ tới,
27
nếu
như Ta không sợ kẻ thù xúc phạm.
Ðối
thủ chúng chớ có hiểu lầm
mà
nói rằng: "Chúng ta cao tay hơn,
tất
cả điều đó, đâu phải là Ðức Chúa đã làm.
28
Quả
thế, chúng là một dân tộc phán đoán sai lạc,
thiếu
hẳn trí thông minh.
29
Nếu
là người khôn ngoan, chúng sẽ hiểu điều đó,
sẽ
thông suốt hậu vận của mình.
30
Làm
sao một người đuổi được một ngàn người,
và
hai người khiến mười ngàn người trốn chạy,
nếu
không phải vì Núi Ðá của chúng đã bán chúng đi,
và
Ðức Chúa đã nộp chúng rồi?
31
Vì
núi đá của chúng không phải như Núi Ðá của chúng ta.
Chính
kẻ thù chúng ta đều công nhận.
32
Nho
của chúng lấy giống từ nho của Xơ-đôm,
từ
những cánh đồng của Gô-mô-ra;
trái
nho của chúng là trái nho độc,
chùm
nho của chúng mới đắng làm sao!
33
Rượu
của chúng là nọc mãng xà,
là
chất độc giết người của rắn hổ mang.
34
Ðiều
này chẳng được giữ kỹ bên Ta,
được
niêm phong trong các kho tàng của Ta sao?
35
Chính
Ta sẽ báo oán và đáp trả,
vào
lúc mà chân chúng lảo đảo té xiêu,
vì
ngày chúng lâm nạn đã gần,
và
vận hạn chúng đang sầm sập tới."
36
Thật
vậy, Ðức Chúa sẽ xét xử cho thần dân,
sẽ
dủ lòng thương hàng tôi tớ,
khi
Người thấy rằng bàn tay chúng yếu đi,
và
người nô lệ, kẻ tự do cũng chẳng còn.
37
Bấy
giờ Người phán: "Ðâu rồi các thần của chúng,
đâu
rồi núi đá chúng ẩn thân?
38
Ðâu
rồi những kẻ ăn mỡ lễ tế của chúng,
uống
rượu tế chúng dâng?
Các
thần đó hãy đứng lên và phù trợ các ngươi,
cho
các ngươi có một nơi ẩn náu!
39
Bây
giờ hãy coi đây: Ta chính là Ta,
bên
cạnh Ta, chẳng có thần nào khác,
Ta
cầm quyền sinh tử, Ta đánh phạt, rồi Ta lại chữa lành,
không
ai cứu khỏi tay Ta được.
40
Phải,
Ta giơ tay lên trời, Ta nói: Ta sống đến muôn đời!
41
Khi
Ta mài lưỡi gươm sáng loé của Ta, khi Ta ra tay xét xử,
thì
Ta sẽ báo oán các đối thủ của Ta, sẽ đáp trả những kẻ ghét Ta,
42
Ta
sẽ làm cho các mũi tên của Ta say máu,
gươm
của Ta sẽ ăn thịt:
máu
những người bị giết và những tù nhân,
thịt
đầu các thủ lãnh quân thù."
43
Hỡi
các dân tộc, hãy reo hò mừng dân Chúa,
vì
Người bắt đền nợ máu các tôi tớ của Người,
báo
oán các đối thủ của Người,
và
xá tội cho đất, cho dân của Người.
44
Ông
Mô-sê cùng đến với ông Hô-sê-a, con ông Nun, và nói cho dân nghe tất cả những
lời của bài ca này.
Luật
là nguồn sống
45
Khi
ông Mô-sê đã nói xong tất cả những lời ấy với toàn thể Ít-ra-en, 46 thì
ông bảo họ: "Hãy để tâm vào tất cả những lời mà hôm nay tôi cảnh cáo anh
em, hãy truyền những lời đó cho con cái anh em, để chúng lo đem ra thực hành
tất cả những lời của Luật này. 47 Thật vậy, đó không phải là một lời
trống rỗng đối với anh em, mà đó là sự sống của anh em, và nhờ lời ấy, anh em
sẽ được sống trên đất mà anh em sắp qua sông Gio-đan để chiếm hữu."
Báo
trước cái chết của ông Mô-sê
48
Chính
ngày đó, Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 49 "Ngươi hãy lên
ngọn núi kia của dãy A-va-rim, lên ngọn núi Nơ-vô, ở đất Mô-áp, đối diện với
Giê-ri-khô, và hãy nhìn xem đất Ca-na-an mà ta ban cho con cái Ít-ra-en làm sở
hữu. 50 Rồi ngươi hãy chết trên ngọn núi ngươi sắp lên, và hãy về
sum họp với gia tộc ngươi, cũng như A-ha-ron, anh ngươi, đã chết tại núi Ho và
đã về sum họp với gia tộc. 51 Bởi vì giữa con cái Ít-ra-en, các
ngươi đã không trung thành với Ta tại mạch nước Mơ-ri-va ở Ca-đê, trong sa mạc
Xin, và bởi vì các ngươi đã không biểu lộ sự thánh thiện của Ta giữa con cái
Ít-ra-en, 52 nên ngươi chỉ được thấy đất ấy từ xa, chứ không được
vào đó, vào đất Ta ban cho con cái Ít-ra-en."
Chương 33
Những
lời chúc phúc của ông Mô-sê
1
Ðây
là lời chúc phúc mà ông Mô-sê, người của Thiên Chúa, đã chúc phúc cho con cái
Ít-ra-en trước khi qua đời. 2 Ông nói:
"Ðức
Chúa từ Xi-nai ngự đến, từ Xê-ia, Người chiếu soi trên họ,
Người
giãi sáng từ núi Pa-ran, Người đã đến Mơ-ri-va ở Ca-đê,
vì
họ, từ phía nam Người đến Sườn Núi.
3
Hẳn
Chúa yêu thương các dân, toàn dân thánh ở trong tay Chúa,
và
họ phục dưới chân Ngài, mỗi người nhận lấy lời Ngài phán.
4
Ông
Mô-sê đã truyền cho chúng ta một Luật,
là
sở hữu của cộng đồng Gia-cóp.
5
Ở
Giơ-su-run đã có một vua,
khi
các người đứng đầu dân tụ họp, cùng với các chi tộc Ít-ra-en.
6
Ước
gì Rưu-vên sống và không chết,
và
số người ít ỏi của nó tồn tại.
7
Về
Giu-đa, đây là điều ông nói:
Lạy
Ðức Chúa, xin nghe tiếng của Giu-đa,
xin
đưa nó trở về với dân nó,
và
để nó tự tay bảo vệ chính mình,
xin
Ngài phù trợ nó chống lại đối phương.
8
Về
Lê-vi, ông nói:
Thẻ
xăm tum-mim và u-rim của Ngài
thuộc
về kẻ hiếu trung với Ngài,
mà
Ngài đã thử thách tại Ma-xa
và
đã cùng tranh tụng bên dòng nước Mơ-ri-va;
9
nó
là người đã nói về cha mẹ nó: "Tôi không nhìn thấy họ",
anh
em nó, nó không nhìn nhận, con cái nó, nó không biết.
Chi
tộc Lê-vi đã tuân thủ lời Ngài và đã giữ giao ước của Ngài.
10
Họ
dạy những quyết định của Ngài cho nhà Gia-cóp,
luật
của Ngài cho Ít-ra-en.
Họ
dâng hương thơm để Ngài thưởng thức,
và
lễ toàn thiêu trên bàn thờ Ngài.
11
Lạy
Ðức Chúa, xin chúc phúc cho lòng dũng cảm của nó,
xin
Ngài khứng nhận việc tay nó làm;
xin
đập gãy lưng thù địch nó,
và
ước gì những kẻ ghét nó không còn chỗi dậy được! "
12
Về
Ben-gia-min, ông nói:
Là
kẻ được Ðức Chúa yêu thương, nó sống yên hàn ở bên Người,
Ðấng
suốt ngày che chở nó và ngự giữa núi đồi của nó.
13
Về
Giu-se, ông nói:
Ðất
của nó được phúc lành của Ðức Chúa:
ơn
lộc từ trời, là sương móc nhỏ sa,
và
từ vực sâu nằm ở phía dưới;
14
ơn
lộc là những gì trổ sinh dưới ánh mặt trời,
là
những gì mọc lên mỗi tuần trăng;
15
là
sản phẩm hàng đầu của núi non thái cổ,
của
gò nổng thiên thu;
16
là
đất đai và thổ sản của nó,
hồng
ân của Ðấng ngự giữa bụi gai.
Ước
chi những phúc lành ấy xuống trên đầu Giu-se,
trên
đỉnh đầu người được thánh hiến giữa anh em mình!
17
Nó
là con bò mộng đầu lòng của Chúa, chúc nó được vinh hiển!
Sừng
nó là sừng trâu, nó dùng để quật ngã các dân,
một
trật trên khắp cùng cõi đất.
Ðó
là vạn vạn người Ép-ra-im, đó là ngàn ngàn quân Mơ-na-se.
18
Về
Dơ-vu-lun, ông nói:
Hãy
vui mừng, hỡi Dơ-vu-lun, trong các chuyến đi của ngươi,
và
hỡi Ít-xa-kha, trong lều trại của mình.
19
Họ
gọi các dân lên núi, ở đó họ dâng những lễ tế luật truyền;
họ
hút về tài nguyên của biển và các kho tàng ẩn giấu dưới cát.
20
Về
Gát, ông nói: Chúc tụng Ðấng cho Gát được thênh thang!
Như
sư tử cái, nó phục sẵn, nó xé mồi, cả vai lẫn đầu.
21
Nó
coi sản phẩm đầu mùa là của nó,
vì
trong đó có phần dành cho người lãnh đạo;
nó
đến với các người đứng đầu dân,
nó
thực hành sự công chính của Ðức Chúa
và
các quyết định của Người về Ít-ra-en.
22
Về
Ðan, ông nói:
Ðan
là sư tử con chồm lên từ miền Ba-san.
23
Về
Náp-ta-li, ông nói: Náp-ta-li được no đầy hồng ân
và
chứa chan phúc lành của Ðức Chúa;
nó
hãy chiếm phía tây và phía nam.
24
Về
A-se, ông nói:
Ước
gì nó được chúc phúc hơn các người con khác!
Ước
gì nó được anh em mình ưu ái, và được dầm chân trong dầu!
25
Ước
gì then cửa của ngươi bằng sắt bằng đồng,
và
sức mạnh của ngươi bền bỉ như ngày đời ngươi!
26
Hỡi
Giơ-su-run, chẳng có ai như Thiên Chúa,
Người
ngự đến giúp ngươi, lẫm liệt uy hùng,
xa
giá Người là trời cao mây thẳm.
27
Thiên
Chúa của thời thái cổ là một nơi ẩn náu;
dưới
đất này, cánh tay Người đã hành động từ xưa;
Người
xua đuổi kẻ thù cho khuất mắt ngươi,
và
Người phán: "Hãy tiêu diệt.
28
Ít-ra-en
sống yên hàn; suối Gia-cóp là dòng suối biệt lập,
trong
miền đất có lúa mì và rượu mới,
ở
đó, cả trời cũng nhỏ sương.
29
Hỡi
Ít-ra-en, ngươi thật có phúc!
Ai
được như ngươi, hỡi dân được Ðức Chúa cứu?
Người
là thuẫn đỡ cứu giúp ngươi,
là
lưỡi gươm đem lại cho ngươi chiến thắng.
Các
kẻ thù ngươi sẽ nịnh bợ cầu thân,
còn
ngươi sẽ chà đạp các đỉnh cao của chúng."
Chương 34
Ông
Mô-sê qua đời
1
Từ
đồng bằng Mô-áp, ông Mô-sê lên núi Nơ-vô, tới Pít-ga, đối diện với Giê-ri-khô,
và Ðức Chúa cho ông xem thấy tất cả miền đất: miền Ga-la-át cho đến Ðan, 2
tất cả Náp-ta-li, miền đất Ép-ra-im và Mơ-na-se, tất cả miền đất Giu-đa
cho đến Biển Tây, 3 miền Ne-ghép, vùng sông Gio-đan, thung lũng
Giê-ri-khô là thành Chà Là, cho đến Xô-a. 4 Ðức Chúa phán với ông:
"Ðây là miền đất Ta đã thề hứa với Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, khi nói:
"Ta sẽ ban đất ấy cho dòng dõi ngươi. Ta đã cho ngươi thấy tận mắt, nhưng
ngươi sẽ không được qua đó."
5
Ông
Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, qua đời tại đó, trong đất Mô-áp, theo lệnh Ðức
Chúa. 6 Ông được mai táng trong thung lũng, ở miền đất Mô-áp, đối
diện với Bết Pơ-o. Cho đến ngày hôm nay, không ai biết mộ ông ở đâu. 7 Khi
chết, ông Mô-sê thọ một trăm hai mươi tuổi, mắt không mờ, khí lực không giảm. 8
Con cái Ít-ra-en khóc ông Mô-sê trong đồng bằng Mô-áp ba mươi ngày; rồi
những ngày than khóc thọ tang ông Mô-sê chấm dứt. 9 Ông Giô-suê, con
ông Nun, đã được đầy thần khí khôn ngoan, vì ông Mô-sê đã đặt tay trên ông. Con
cái Ít-ra-en nghe ông và làm như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
10
Trong
Ít-ra-en, không còn xuất hiện một ngôn sứ nào như ông Mô-sê, người mà Ðức Chúa
biết rõ, mặt giáp mặt. 11 Ðức Chúa đã sai ông thực hiện mọi điềm
thiêng dấu lạ tại nước Ai-cập, phạt Pha-ra-ô cùng tất cả bề tôi và cả nước. 12
Ông Mô-sê đã biểu dương tất cả sức mạnh bàn tay ông và gây tất cả nỗi
kinh hoàng lớn lao trước mắt toàn thể Ít-ra-en.
Lịch Sử - Đệ Nhị Luật
Giô-suê
Chương 01
I.
Chiếm Ðất Hứa
1.
Chuẩn Bị
Mời
gọi qua Ðất Hứa
1
Sau
khi tôi trung Ðức Chúa là ông Mô-sê qua đời, Ðức Chúa phán với con ông Nun là
ông Giô-suê, phụ tá của ông Mô-sê: 2 "Mô-sê, tôi trung của Ta,
đã chết. Vậy bây giờ, ngươi hãy trỗi dậy! Và cùng với tất cả dân này, qua sông
Gio-đan, mà vào đất Ta ban cho chúng, tức là con cái Ít-ra-en. 3 Mọi
nơi bàn chân các ngươi dẫm lên thì Ta đã ban cho các ngươi rồi, như Ta đã phán
với Mô-sê. 4 Từ sa mạc và dãy Li-băng kia cho đến Sông Cả, nghĩa là
sông Êu-phơ-rát, -tất cả xứ người Khết-, và cho đến Biển Lớn, phía mặt trời
lặn: đó sẽ là lãnh thổ của các ngươi. 5 Mọi ngày đời ngươi, không ai
sẽ đứng vững được trước mặt ngươi. Ta sẽ ở với ngươi như Ta đã ở với Mô-sê; Ta
sẽ không bỏ rơi ngươi, Ta sẽ không ruồng bỏ ngươi.
Trung
tín với Lề Luật: điều kiện để được Thiên Chúa phù trợ
6
"Mạnh
bạo lên, can đảm lên! Vì chính ngươi sẽ cho dân này chiếm đất ấy làm gia
nghiệp, đất mà Ta đã thề với cha ông chúng là Ta sẽ ban cho chúng. 7 Tuy
nhiên, ngươi phải mạnh bạo và rất can đảm, để lo thi hành tất cả Lề Luật, mà
Mô-sê tôi trung của Ta đã truyền dạy ngươi. Ðừng đi trệch bên phải bên trái,
ngoài Lề Luật, để được thành công ở bất cứ nơi nào ngươi đi tới. 8 Chớ
gì sách Luật này đừng rời khỏi miệng ngươi; và ngươi sẽ suy gẫm sách Luật đó
ngày đêm, để lo thi hành tất cả những gì viết trong đó; vì như thế ngươi sẽ
được thịnh đạt trên đường đời, vì như thế ngươi sẽ thành công. 9 Mạnh
bạo lên, can đảm lên! Ðó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Ðừng
run khiếp, đừng sợ hãi, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất
cứ nơi nào ngươi đi tới."
Các
chi tộc bên kia sông Gio-đan tiếp tay
10
Ông
Giô-suê truyền lệnh sau đây cho các ký lục trong dân: 11 "Các
anh hãy rảo khắp trại và truyền cho dân: Hãy chuẩn bị lương thực, vì còn ba
ngày nữa anh em sẽ qua sông Gio-đan kia để vào chiếm đất mà Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh em, cho anh em chiếm hữu."
12
Rồi
ông Giô-suê nói với những người trong chi tộc Rưu-vên, chi tộc Gát và nửa chi
tộc Mơ-na-se: 13 "Anh em hãy nhớ điều ông Mô-sê, tôi trung của
Ðức Chúa, đã truyền cho anh em: Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, cho anh em
được an cư lạc nghiệp khi ban cho anh em đất này. 14 Ðàn bà, con trẻ
và các đàn vật của anh em sẽ ở lại trong phần đất ông Mô-sê đã ban cho anh em
bên kia sông Gio-đan; còn anh em, tất cả các dũng sĩ, hãy võ trang đầy đủ mà
qua trước anh em mình và trợ lực cho họ, 15 cho đến khi Ðức Chúa ban
cho anh em cũng như anh em của anh em được an cư lạc nghiệp, cho đến khi chính
họ cũng chiếm hữu phần đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, ban cho họ. Bấy
giờ anh em sẽ trở về phần đất mà anh em đã chiếm hữu. Anh em sẽ chiếm hữu phần
đất mà ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, đã ban cho anh em bên kia sông
Gio-đan, phía mặt trời mọc.” 16 Họ trả lời ông Giô-suê: "Mọi
điều ngài truyền chúng tôi làm, chúng tôi sẽ làm; mọi nơi ngài sai chúng tôi
đi, chúng tôi sẽ đi. 17 Chúng tôi đã nghe lời ông Mô-sê thế nào, thì
chúng tôi cũng sẽ nghe lời ngài như vậy. Chỉ cầu mong Ðức Chúa, Thiên Chúa của
ngài, ở với ngài, như đã ở với ông Mô-sê! 18 Kẻ nào chống lại mệnh lệnh của
ngài, không nghe bất cứ lời nào ngài truyền dạy, thì sẽ phải bị xử tử. Chỉ có
điều là ngài phải mạnh bạo và can đảm!"
Chương 02
Ông
Giô-suê sai người đi do thám Giê-ri-khô
1
Từ
Sít-tim, ông Giô-suê, con ông Nun, bí mật sai hai người do thám và nói:
"Hãy đi xem vùng đất và thành Giê-ri-khô." Họ đã đi và vào một nhà
một kỹ nữ tên là Ra-kháp; họ nằm lại đó. 2 Người ta nói với vua Giê-ri-khô:
"Ðêm vừa rồi, có vài người trong số con cái Ít-ra-en đã vào đây để thăm dò
vùng đất này.” 3 Vua Giê-ri-khô sai người đến nói với cô Ra-kháp:
"Hãy dẫn ra đây những người đã đến với ngươi, đã vào nhà ngươi, vì họ đã
đến thăm dò toàn vùng đất này.” 4 Nhưng người đàn bà đem hai người
kia đi giấu, rồi nói: "Phải, những người ấy có đến với tôi, nhưng tôi
không biết họ từ đâu đến. 5 Lúc chập tối, khi cửa thành sắp đóng,
thì những người ấy đi ra. Tôi không biết họ đi đâu. Các ông hãy mau mau đuổi
theo họ thì sẽ bắt kịp."
6
Rồi
cô ta đem họ lên sân thượng và giấu họ dưới đống cây gai cô đã xếp ở đó. 7
Các người kia cứ đuổi theo họ trên con đường dẫn tới sông Gio-đan cho đến
chỗ lội qua sông. Và người ta đóng cửa thành lại, sau khi những kẻ đuổi theo đã
ra khỏi đó.
Giao
kèo giữa các người do thám và cô Ra-kháp
8
Họ
chưa kịp nằm xuống, thì cô Ra-kháp lên gặp họ trên sân thượng. 9 Cô
nói với họ: "Tôi biết Ðức Chúa đã ban cho các ông đất này, tôi biết vì các
ông mà nỗi kinh hoàng ập xuống trên chúng tôi, và mọi dân cư trong xứ đều rụng
rời hốt hoảng trước mặt các ông. 10 Vì chúng tôi nghe đồn là Ðức
Chúa đã làm cạn Biển Sậy trước mặt các ông khi các ông ra khỏi Ai-cập; chúng
tôi cũng nghe đồn về những gì các ông đã làm cho hai vua E-mô-ri là Xi-khôn và
Ốc, mà các ông đã tru hiến ở bên kia sông Gio-đan. 11 Khi chúng tôi
nghe đồn, thì tâm thần chúng tôi sợ hãi như muốn chảy tan ra, không ai còn nhuệ
khí trước mặt các ông, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ông, là Thiên Chúa ngự
chốn trời cao cũng như nơi đất thấp. 12 Vậy bây giờ, xin các ông hãy
nhân danh Ðức Chúa mà thề với tôi là: bởi tôi đã lấy tình mà đối xử với các
ông, thì các ông, các ông cũng sẽ lấy tình mà đối xử với gia đình tôi. Các ông
sẽ cho tôi một dấu chắc chắn, 13 đó là các ông sẽ để cho cha mẹ tôi,
các anh chị em tôi và mọi người thân thuộc của họ được sống, các ông sẽ cứu
chúng tôi khỏi chết."
14
Những
người ấy nói với cô Ra-kháp: "Chúng tôi xin thề lấy mạng đền mạng, trừ phi
các người tiết lộ chuyện này! Vậy khi nào Ðức Chúa ban đất này cho chúng tôi,
chúng tôi sẽ lấy chữ tình chữ tín mà đối xử với cô.” 15 Bấy giờ, từ
cửa sổ cô thòng dây cho họ xuống, vì nhà cô sát vách tường thành và cô ở ngay
trong tường thành. 16 Cô nói với họ: "Các ông hãy đi về phía
núi, kẻo những người đuổi theo bắt được các ông. Các ông cứ ẩn núp ở đấy ba
ngày cho đến khi chúng trở về. Sau đó, các ông cứ đường mình mà đi.” 17 Họ
nói với cô: "Ðây là cách chúng tôi sẽ giữ lời mà cô đã yêu cầu chúng tôi
thề: 18 Khi nào chúng tôi vào xứ này, cô sẽ buộc dây chỉ điều này ở
cửa sổ, nơi cô đã thả chúng tôi xuống, rồi cô sẽ tập họp trong nhà, bên cạnh
cô: cha mẹ, các anh chị em và cả nhà cha cô. 19 Bấy giờ, ai bước qua
cửa nhà cô mà ra ngoài, thì máu người ấy sẽ đổ xuống đầu người ấy, chúng tôi vô
can. Nhưng người nào ở trong nhà với cô, thì máu người ấy sẽ đổ xuống đầu chúng
tôi, nếu có ai tra tay hại người ấy. 20 Cô mà tiết lộ chuyện của
chúng tôi, chúng tôi sẽ khỏi phải giữ lời mà cô đã yêu cầu chúng tôi thề.” 21
Cô ấy nói: "Mong được như lời các ông đã nói! " Rồi cô để họ
đi, và họ ra đi. Cô buộc dây chỉ điều ở cửa sổ.
Các
người do thám trở về
22
Họ
lên đường và tiến về phía núi. Họ ở lại đó ba ngày cho đến khi những kẻ đuổi
theo trở về. Những người này đã đi lùng họ trên cả con đường ấy mà không tìm
được. 23 Hai người kia trở về: họ xuống núi, qua sông Gio-đan, rồi
tới gặp ông Giô-suê, con ông Nun, và thuật lại cho ông mọi việc đã xảy ra cho
họ. 24 Họ nói với ông Giô-suê: "Ðức Chúa đã nộp tất cả miền đất
ấy vào tay chúng ta, và mọi dân cư ở đó đều rụng rời hốt hoảng trước mặt chúng
ta."
Chương 03
2.
Qua Sông Gio-Ðan
Chuẩn
bị qua sông
1
Sáng
hôm sau, ông Giô-suê dậy sớm và họ nhổ trại rời Sít-tim. Ông và toàn thể con
cái Ít-ra-en tới tận sông Gio-đan. Họ đã nghỉ đêm ở đó trước khi qua sông. 2
Sau ba ngày, các ký lục đi khắp trại 3 và truyền lệnh này cho dân:
"Khi thấy Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, và thấy
các tư tế thuộc dòng dõi Lê-vi khiêng Hòm Bia, anh em phải rời chỗ và đi theo
sau Hòm Bia, 4b để biết phải đi đường nào, vì anh em chưa đi qua đường ấy bao giờ.
4a Tuy nhiên, phải giữ một khoảng cách ước chừng một ngàn thước ở giữa anh em
và Hòm Bia: đừng lại gần.” 5 Ông Giô-suê nói với dân: "Anh em
hãy nên thánh, vì ngày mai Ðức Chúa sẽ thực hiện những kỳ công giữa anh em.” 6
Ông Giô-suê nói với các tư tế: "Hãy khiêng Hòm Bia Giao Ước dẫn đầu
dân mà qua sông." Họ khiêng Hòm Bia Giao Ước và đi trước dân.
Những
chỉ thị cuối cùng
7
Ðức
Chúa phán với ông Giô-suê: "Hôm nay, Ta bắt đầu cho ngươi được nên cao
trọng trước mắt toàn thể con cái Ít-ra-en, để chúng biết là Ta sẽ ở với ngươi
như Ta đã ở với Mô-sê. 8 Còn ngươi, ngươi sẽ ra lệnh này cho các tư
tế khiêng Hòm Bia Giao Ước: khi đến bờ sông Gio-đan, các ngươi hãy đứng lại
trong sông Gio-đan.” 9 Ông Giô-suê nói với con cái Ít-ra-en:
"Anh em hãy tiến lại đây và nghe lời của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em.”
10 Rồi ông nói: "Dựa vào điều này, anh em sẽ biết là Thiên Chúa
hằng sống ngự giữa anh em và Người sẽ hoàn toàn đuổi người Ca-na-an, người
Khết, người Khi-vi, người Pơ-rít-di, người Ghia-ga-si, người E-mô-ri, người
Giơ-vút, cho khuất mắt anh em. 11 Này đây, Hòm Bia Giao Ước của Vị
Chúa Tể toàn cõi đất sắp dẫn đầu anh em mà qua sông Gio-đan. 12 Vậy
bây giờ anh em hãy chọn mười hai người trong các chi tộc Ít-ra-en, mỗi chi tộc
một người. 13 Và khi bàn chân các tư tế khiêng Hòm Bia của Ðức Chúa,
Vị Chúa Tể toàn cõi đất, vừa đặt xuống nước sông Gio-đan, thì nước sông
Gio-đan, nước mạn ngược chảy xuống, sẽ bị chặn lại và dừng lại thành một khối
duy nhất."
Qua
sông
14
Khi
dân rời lều để qua sông Gio-đan, thì các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước dẫn đầu
dân. 15 Bấy giờ là mùa gặt; sông Gio-đan tràn ra hai bên bờ suốt mọi
ngày. Lúc những người khiêng Hòm Bia vừa đến sông Gio-đan, và chân các tư tế
khiêng Hòm Bia vừa nhúng vào nước ở ven bờ, 16 thì nước mạn ngược
chảy xuống dừng lại, dựng đứng thành một khối duy nhất trong một khoảng rất
dài, ở A-đam là thành ở cạnh Xác-than; còn nước chảy xuống biển A-ra-va, tức là
Biển Muối, thì bị chặn hẳn lại, và dân đã qua sông, đối diện với Giê-ri-khô. 17
Các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa đứng yên tại chỗ, nơi đất
khô cạn giữa lòng sông Gio-đan, trong khi toàn thể Ít-ra-en qua sông trên đất
khô cạn, cho đến khi toàn dân đã qua hết.
Chương 04
Mười
hai bia kỷ niệm
1
Khi
toàn dân đã qua sông Gio-đan hết, Ðức Chúa phán với ông Giô-suê: 2 "Hãy
chọn mười hai người trong dân, mỗi chi tộc một người, 3 và truyền
lệnh này cho họ: từ nơi này, từ giữa lòng sông Gio-đan, nơi các tư tế đã đặt
chân lên, anh em hãy lấy đi mười hai tảng đá, đem qua sông với anh em và đặt ở
nơi anh em dừng lại nghỉ ngơi đêm nay.” 4 Ông Giô-suê gọi mười hai
người ông đã chỉ định trong hàng con cái Ít-ra-en, mỗi chi tộc một người. 5
Ông bảo họ: "Hãy đến trước Hòm Bia Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em,
tận giữa lòng sông Gio-đan, và mỗi người vác một tảng đá trên vai, đúng theo số
các chi tộc con cái Ít-ra-en,6 để làm dấu hiệu giữa anh em. Mai ngày khi con
cái anh em hỏi: "Những tảng đá này có nghĩa gì đối với quý vị?, 7 anh
em sẽ trả lời: "Là vì nước sông Gio-đan đã bị chặn lại trước Hòm Bia Giao
Ước của Ðức Chúa; khi Hòm Bia qua sông Gio-đan, nước sông Gio-đan đã bị chặn
lại; và các tảng đá này là bia kỷ niệm đối với con cái Ít-ra-en cho đến muôn
đời.” 8 Con cái Ít-ra-en làm đúng như ông Giô-suê đã truyền: Họ lấy
đi mười hai tảng đá, từ giữa lòng sông Gio-đan, như Ðức Chúa đã phán với ông
Giô-suê, đúng theo số các chi tộc con cái Ít-ra-en; họ đem theo qua sông đến
nơi họ dừng lại, và đặt ở đó. 9 Rồi ông Giô-suê dựng mười hai tảng
đá ở giữa lòng sông Gio-đan, nơi các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước đã đặt chân
lên; các tảng đá ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay.
Sau
khi qua sông
10
Các
tư tế khiêng Hòm Bia đứng giữa lòng sông Gio-đan, cho đến khi tất cả những điều
Ðức Chúa đã truyền cho ông Giô-suê phải nói cho dân được thực hiện, theo đúng
như tất cả những gì ông Mô-sê đã truyền lại cho ông Giô-suê; và dân đã vội vã
qua sông. 11 Vậy khi toàn dân đã qua hết, Hòm Bia của Ðức Chúa cũng
như các tư tế lại dẫn đầu dân. 12 Con cái ông Rưu-vên, con cái ông
Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se, võ trang đầy đủ, dẫn đầu con cái Ít-ra-en, theo
như ông Mô-sê đã nói với họ. 13 Khoảng bốn mươi ngàn người được võ
trang để ra trận, đi qua trước nhan Ðức Chúa, để tiến đánh vùng thảo nguyên
Giê-ri-khô. 14 Ngày ấy, Ðức Chúa đã cho ông Giô-suê nên cao trọng
trước mắt toàn thể Ít-ra-en, và họ kính sợ ông như đã kính sợ ông Mô-sê, mọi
ngày đời ông.
15
Ðức
Chúa phán với ông Giô-suê: 16 "Hãy truyền cho các tư tế khiêng
Hòm Bia Chứng Ước lên khỏi sông Gio-đan.” 17 Và ông Giô-suê đã
truyền cho các tư tế: "Hãy lên khỏi sông Gio-đan.” 18 Vậy, khi
các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa lên khỏi lòng sông Gio-đan, khi
họ vừa nhấc chân đặt lên đất cạn, thì nước sông Gio-đan trở về chỗ cũ và lại
chảy như trước, tràn ra cả hai bên bờ.
Tới
Ghin-gan
19
Dân
chúng lên khỏi sông Gio-đan ngày mồng mười tháng giêng và đóng trại ở Ghin-gan,
phía đông Giê-ri-khô. 20 Ông Giô-suê dựng ở Ghin-gan mười hai tảng
đá mà họ đã lấy từ sông Gio-đan, 21 rồi nói với con cái Ít-ra-en:
"Mai ngày khi con cái anh em hỏi cha ông chúng: "Những tảng đá này có
nghĩa gì?, 22 anh em sẽ bảo cho con cái anh em biết: "Ít-ra-en
đã qua sông Gio-đan này ráo chân. 23 Vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
em, đã làm cạn sông Gio-đan trước mặt anh em cho đến khi anh em đã qua sông,
như Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã làm tại Biển Sậy, khi Người làm cạn
biển trước mặt chúng ta, cho đến khi chúng ta đã qua biển. 24 Như
thế, mọi dân trên mặt đất sẽ biết rằng tay Ðức Chúa mạnh mẽ dường bao, và anh
em sẽ kính sợ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết mọi ngày."
Chương 05
Các
dân miền tây sông Gio-đan kinh hãi
1
Vậy,
khi tất cả các vua E-mô-ri ở bên kia sông Gio-đan, về phía tây, cũng như mọi
vua Ca-na-an ở vùng duyên hải, nghe tin Ðức Chúa làm cạn sông Gio-đan trước mặt
con cái Ít-ra-en cho đến khi họ qua sông, thì tâm thần họ sợ hãi như muốn chảy
tan ra, họ không còn nhuệ khí nữa trước mặt con cái Ít-ra-en.
Người
Híp-ri chịu cắt bì ở Ghin-gan
2
Khi
ấy, Ðức Chúa phán với ông Giô-suê: "Ngươi hãy làm những con dao bằng đá
sắc để lại cắt bì một lần nữa cho con cái Ít-ra-en.” 3 Ông Giô-suê
đã làm những con dao bằng đá và cắt bì cho con cái Ít-ra-en ở Gò Da Quy Ðầu.
4
Ðây
là lý do khiến ông Giô-suê làm việc cắt bì này: Toàn thể đám dân đàn ông con
trai ra khỏi Ai-cập, những người tham chiến, đều đã chết dọc đường, trong sa
mạc, sau khi ra khỏi Ai-cập; 5 tất cả đám dân đó, khi ra khỏi
Ai-cập, đều đã chịu cắt bì; còn toàn thể đám dân sinh ở dọc đường, trong sa
mạc, thì không. 6 Vì con cái Ít-ra-en đã đi trong sa mạc bốn mươi
năm, cho đến khi tất cả đám dân đó, tức là những người ra khỏi Ai-cập mà đã
tham chiến, đều bị tiêu diệt; họ đã không nghe lời Ðức Chúa, nên Ðức Chúa thề
với họ là sẽ không cho họ thấy đất Người đã thề với cha ông họ là sẽ ban cho
chúng ta, đất tràn trề sữa và mật. 7 Nhưng Người đã cho con cái họ
sinh ra thay thế họ, và ông Giô-suê đã cắt bì cho chúng. Quả thế, chúng chưa
được cắt bì, vì dọc đường người ta đã không cắt bì cho chúng. 8 Vậy,
khi người ta đã cắt bì cho toàn thể dân chúng rồi, thì chúng ở yên tại chỗ
trong trại cho đến khi lành. 9 Ðức Chúa phán với ông Giô-suê:
"Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai-cập." Vì
thế, người ta đã gọi tên nơi ấy là Ghin-gan cho đến ngày nay.
Cử
hành lễ Vượt Qua
10
Con
cái Ít-ra-en đóng trại ở Ghin-gan và cử hành lễ Vượt Qua ngày mười bốn trong
tháng, vào buổi chiều, trong vùng thảo nguyên Giê-ri-khô. 11 Hôm sau
lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa
rang, vào đúng ngày đó. 12 Hôm sau, không còn man-na nữa, khi họ
dùng thổ sản trong xứ; thế là con cái Ít-ra-en không còn có man-na nữa. Năm ấy,
họ đã dùng hoa màu của đất Ca-na-an.
3.
Ðánh Chiếm Giê-Ri-Khô
Thần
hiện
13
Vậy,
khi ở gần Giê-ri-khô, ông Giô-suê ngước mắt nhìn, thì này có người đứng đối
diện với ông, tay cầm gươm trần. Ông Giô-suê đến gần người ấy và nói: "Ông
về phe chúng tôi hay về phe địch?” 14 Người ấy nói: "Không, ta
là tướng chỉ huy đạo binh của Ðức Chúa, bây giờ ta đến. .." Ông Giô-suê
sấp mặt xuống đất, sụp lạy và nói: "Ngài muốn dạy tôi tớ ngài điều gì?” 15
Vị tướng chỉ huy đạo binh của Ðức Chúa nói với ông Giô-suê: "Cởi dép
ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là nơi thánh!" Và ông Giô-suê đã làm như
vậy.
Chương 06
Chiếm
Giê-ri-khô
1
Giê-ri-khô
đóng kín cổng thành, phòng thủ chống lại con cái Ít-ra-en: nội bất xuất, ngoại
bất nhập. 2 Ðức Chúa phán với ông Giô-suê: "Xem đây! Ta nộp vào
tay ngươi thành Giê-ri-khô, vua và các dũng sĩ của thành ấy. 3 Các
ngươi, tất cả những người tham chiến, các ngươi sẽ đi vòng quanh thành, đi
chung quanh thành một lần; (các) ngươi sẽ làm như vậy sáu ngày. 4 Bảy
tư tế sẽ cầm bảy cái tù và bằng sừng cừu đi trước Hòm Bia. Ngày thứ bảy, các
ngươi sẽ đi vòng quanh thành bảy lần, và các tư tế sẽ thổi tù và. 5 Khi
tù và bằng sừng cừu rú lên, khi các ngươi nghe tiếng tù và, thì toàn dân lớn
tiếng hò reo xung trận. Bấy giờ tường thành sẽ sụp đổ tại chỗ; dân chúng ai nấy
cứ thẳng trước mặt mình mà tiến lên."
6
Ông
Giô-suê, con ông Nun, triệu tập các tư tế và nói với họ: "Các ông hãy
khiêng Hòm Bia Giao Ước, và bảy tư tế phải cầm bảy tù và bằng sừng cừu đi trước
Hòm Bia của Ðức Chúa.” 7 Ông nói với dân: "Hãy tiến tới và đi
vòng quanh thành; những người được võ trang hãy qua phía trước Hòm Bia của Ðức
Chúa.” 8 Ðiều đó đã xảy ra như ông Giô-suê đã nói với dân. Bảy tư tế
cầm bảy tù và bằng sừng cừu qua phía trước nhan Ðức Chúa, vừa đi vừa thổi; còn
Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa thì đi sau họ. 9 Quân tiên phong đi
trước các tư tế đang thổi tù và. Quân hậu vệ đi theo sau Hòm Bia. Ai nấy bước
đi theo tiếng tù và.
10
Trước
đó ông Giô-suê đã ra lệnh này cho dân: "Anh em đừng hò reo xung trận, đừng
để ai nghe thấy tiếng anh em, đừng hé môi nói ra lời nào, cho đến ngày tôi bảo
anh em: Hãy hò reo xung trận! Bấy giờ, anh em mới hò reo xung trận."
11
Hòm
Bia Ðức Chúa đi vòng quanh thành, đi một vòng chung quanh, rồi ai nấy trở về
trại và qua đêm tại đó. 12 Sáng hôm sau, ông Giô-suê dậy sớm, và các
tư tế khiêng Hòm Bia Ðức Chúa. 13 Bảy tư tế cầm bảy tù và bằng sừng
cừu đi trước Hòm Bia Ðức Chúa, vừa đi vừa thổi; quân tiên phong đi trước họ, và
quân hậu vệ theo sau Hòm Bia Ðức Chúa; ai nấy bước đi theo tiếng tù và.
14
Ngày
thứ hai, họ đi vòng quanh thành một lần, rồi trở về trại. Họ làm như vậy sáu
ngày. 15 Ngày thứ bảy, họ dậy sớm khi hừng đông ló rạng, và đi vòng
quanh thành bảy lần cùng theo một cách thức. Chỉ có ngày đó họ mới đi vòng
quanh thành bảy lần. 16 Ðến lần thứ bảy, khi các tư tế thổi tù và,
ông Giô-suê nói với dân: "Hãy hò reo xung trận, vì Ðức Chúa đã nộp thành
cho anh em."
Giê-ri-khô
bị án tru hiến
17
"Thành
và mọi sự trong thành sẽ bị án tru hiến để kính Ðức Chúa, chỉ có cô kỹ nữ
Ra-kháp và mọi người ở với cô trong nhà là sẽ được sống, vì cô đã giấu các sứ
giả chúng ta sai đi. 18 Tuy nhiên, anh em phải đề phòng án tru hiến,
kẻo anh em bị án tru hiến vì lấy đồ vật nào trong số những gì bị án biệt hiến.
Bằng không, anh em sẽ làm cho trại Ít-ra-en phải bị án tru hiến, và như thế anh
em gây tai hoạ cho trại. 19 Tất cả vàng bạc, mọi đồ đồng, đồ sắt sẽ
được thánh hiến cho Ðức Chúa, và được xung vào kho tàng của Ðức Chúa."
20
Bấy
giờ, dân hò reo xung trận, và người ta rúc tù và. Vừa nghe tiếng tù và, dân lớn
tiếng hò reo xung trận, và tường thành sụp đổ tại chỗ. Dân chúng ai nấy cứ
thẳng trước mặt mình mà tiến lên đánh thành, và đã chiếm được. 21 Họ
dùng lưỡi gươm mà thi hành án tru hiến mọi sự trong thành, từ đàn ông cho đến
đàn bà, từ người trẻ cho đến người già, đến cả bò lừa và chiên cừu.
Nhà
cô Ra-kháp thoát nạn
22
Ông
Giô-suê nói với hai người đã đi do thám trong xứ: "Hãy vào nhà người kỹ
nữ, và đem người đàn bà ấy cũng như mọi người thân thuộc của cô ra khỏi đó,
theo như anh em đã thề hứa với cô.” 23 Vậy các người thanh niên do
thám vào nhà cô Ra-kháp, và đem cô ra khỏi đó cùng với cha mẹ, anh em cô và mọi
người thân thuộc của cô; họ đem tất cả thị tộc của cô ra khỏi đó, và cho họ ở
bên ngoài trại Ít-ra-en.
24
Rồi
họ phóng hoả đốt thành cũng như tất cả những gì trong đó; ngoại trừ vàng bạc và
những đồ đồng, đồ sắt, thì người ta nộp vào kho tàng nhà Ðức Chúa. 25 Nhưng
cô kỹ nữ Ra-kháp cùng với gia đình cha cô và mọi người thân thuộc của cô, thì
ông Giô-suê để cho sống. Cô ở giữa dân Ít-ra-en cho đến ngày nay, vì cô đã giấu
sứ giả ông Giô-suê sai đi do thám Giê-ri-khô.
Nguyền
rủa những ai tái thiết Giê-ri-khô
26
Thuở
ấy, ông Giô-suê bắt phải thề rằng:
"Trước
nhan Ðức Chúa, khốn cho kẻ đứng lên
tái
thiết thành Giê-ri-khô này!
Kẻ
nào đào móng dựng nền,
thì
con đầu lòng của nó phải chết;
kẻ
nào dựng cổng xây tường,
thì
con út của nó phải mạng vong!"
27
Ðức
Chúa ở với ông Giô-suê, và danh tiếng đồn ra khắp xứ.
Chương 07
Tội
không thi hành án biệt hiến
1
Nhưng
con cái Ít-ra-en đã can tội không thi hành án biệt hiến: ông A-khan, con ông
Các-mi, cháu ông Dáp-đi, chắt ông De-rác, thuộc chi tộc Giu-đa, đã lấy đồ vật
trong số những thứ bị án biệt hiến. Nên Ðức Chúa nổi cơn thịnh nộ với con cái
Ít-ra-en.
Thất
bại ở thành Ai
2
Từ
Giê-ri-khô, ông Giô-suê sai người đến thành Ai ở gần Bết A-ven, về phía đông
Bết Ên. Ông nói với họ: "Hãy lên do thám xứ ấy!" Họ lên do thám thành
Ai. 3 Họ trở về với ông Giô-suê và nói: "Ðừng đưa cả dân lên!
Chỉ cần khoảng hai hoặc ba ngàn người lên mà đánh thành Ai. Ðừng làm khổ toàn
dân trong vụ này, vì bọn kia không đông mấy!"
4
Vậy
có chừng ba ngàn người trong dân đã lên đó, nhưng họ đã chạy trốn trước mặt
người thành Ai. 5 Người thành Ai đã giết khoảng ba mươi sáu người
của họ. Người thành Ai đuổi theo họ từ đàng trước cổng thành đến Sơ-va-rim, và
đánh bại họ ở chỗ dốc. Tâm thần của dân sợ hãi như muốn chảy tan ra như nước.
Ông
Giô-suê cầu nguyện
6
Ông
Giô-suê xé áo mình ra, và cùng với các kỳ mục Ít-ra-en sấp mặt xuống đất trước
Hòm Bia Ðức Chúa, cho đến chiều. Họ rắc bụi lên đầu. 7 Ông Giô-suê
nói: "Ôi! Lạy Chúa là Ðức Chúa, sao Ngài lại đem dân này qua sông Gio-đan
mà nộp chúng con vào tay người E-mô-ri để huỷ diệt chúng con? Giá chúng con
được định cư bên kia sông Gio-đan, thì có hơn không? 8 Xin đoái thương, lạy
Chúa, con biết nói gì đây, sau khi Ít-ra-en phải quay lưng chạy trốn các địch
thù? 9 Người Ca-na-an và mọi dân cư trong xứ sẽ nghe biết tin này. Họ sẽ quay
lại chống chúng con và xoá tên chúng con khỏi mặt đất. Khi đó, Ngài sẽ làm gì
để chứng tỏ danh Ngài vĩ đại?"
Ðức
Chúa trả lời
10
Ðức
Chúa phán với ông Giô-suê: "Ðứng dậy đi! Sao ngươi cứ sấp mặt xuống đất
như vậy? 11 Ít-ra-en đã phạm tội, hơn nữa, chúng đã vi phạm giao ước mà Ta đã
truyền cho chúng phải giữ; chúng đã dám lấy cả đồ vật bị án biệt hiến, chúng đã
dám lấy trộm, giấu đi và bỏ vào đồ đoàn của chúng! 12 Vì thế, con cái Ít-ra-en
sẽ không thể đương đầu với địch thù của chúng. Chúng sẽ quay lưng chạy trốn các
địch thù, vì chúng đã trở nên những kẻ mang án tru hiến. Ta sẽ không ở với các
ngươi nữa, nếu các ngươi không loại khỏi các ngươi những đồ vật bị án biệt hiến.
13 Ðứng dậy đi! Hãy làm cho dân được nên thánh. Ngươi sẽ nói: Anh em
hãy lo cho mình được nên thánh để chuẩn bị cho ngày mai, vì Ðức Chúa, Thiên
Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: Hỡi Ít-ra-en, giữa các ngươi có một đồ vật bị
án biệt hiến. (Các) ngươi sẽ không thể đương đầu với địch thù của (các) ngươi,
bao lâu các ngươi không cất khỏi các ngươi đồ vật ấy. 14 Sáng mai,
các ngươi sẽ tiến đến theo từng chi tộc. Chi tộc nào Ðức Chúa đã dùng thăm mà
chỉ định, sẽ tiến đến theo từng thị tộc. Thị tộc nào Ðức Chúa đã dùng thăm mà
chỉ định, sẽ tiến đến theo từng gia đình. Gia đình nào Ðức Chúa đã dùng thăm mà
chỉ định, sẽ tiến đến từng người một. 15 Kẻ nào bị chỉ định bởi việc
bắt thăm vì có liên quan đến án biệt hiến, thì sẽ bị thiêu cùng với tất cả đồ
vật của nó; vì nó đã vi phạm giao ước của Ðức Chúa, và vì nó đã làm một điều ô
nhục trong Ít-ra-en."
Tìm
được thủ phạm và ra hình phạt
16
Sáng
hôm sau, ông Giô-suê dậy sớm và cho dân Ít-ra-en tiến đến theo chi tộc: chi tộc
Giu-đa bắt trúng thăm. 17 Ông cho các thị tộc Giu-đa tiến đến, và
thị tộc De-rác bắt trúng thăm; ông cho thị tộc De-rác tiến đến theo từng gia
đình; và gia đình Dáp-đi bắt trúng thăm. 18 Ông cho gia đình Dáp-đi
tiến đến từng người một, và A-khan, con ông Các-mi, cháu ông Dáp-đi, chắt ông
De-rác, thuộc chi tộc Giu-đa, bắt trúng thăm.
19
Ông
Giô-suê bảo A-khan: "Này ngươi, hãy tôn vinh Ðức Chúa, Thiên Chúa của
Ít-ra-en, và hãy suy tôn Người! Hãy thú thật với ta những gì ngươi đã làm, đừng
giấu giếm gì cả.” 20 A-khan trả lời ông Giô-suê: "Quả thật, con
đã đắc tội với Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, đây là điều con đã làm: 21
Trong số chiến lợi phẩm, con trông thấy một chiếc áo khoác đẹp miền
Sin-a, hai ký bạc và một thỏi vàng cân nặng hơn nửa ký, vì lòng tham, con đã
lấy; các vật ấy được chôn dưới đất, ở giữa lều của con, và bạc thì ở bên
dưới."
22
Ông
Giô-suê sai người chạy tới lều A-khan; quả thật chiếc áo khoác được chôn trong
lều, còn bạc thì ở dưới. 23 Họ lấy tất cả ra khỏi lều, mang về cho
ông Giô-suê và toàn thể con cái Ít-ra-en, rồi đổ ra trước nhan Ðức Chúa.
24
Khi
ấy, ông Giô-suê đem A-khan, con ông De-rác đi, cùng với bạc, áo khoác, nén
vàng, cũng như con trai, con gái, bò lừa, chiên dê, lều trại và tất cả những gì
của nó. Toàn thể Ít-ra-en cùng đi với nó. Người ta đem chúng lên cánh đồng
A-kho.
25
Ông
Giô-suê bảo: "Sao ngươi lại gây hoạ cho chúng ta? Xin Ðức Chúa giáng hoạ
cho ngươi hôm nay!" Toàn thể Ít-ra-en ném đá A-khan. Họ ném đá và thiêu
những gì còn lại.
26
Rồi
người ta chất một đống đá lớn trên A-khan. Ðống đá ấy vẫn còn cho đến ngày nay.
Bấy giờ, Ðức Chúa nguôi cơn thịnh nộ. Vì thế, người ta gọi nơi này là
"cánh đồng A-kho" cho đến ngày nay.
Chương 08
4.
Ðánh Chiếm Thành Ai
Thiên
Chúa truyền lệnh cho ông Giô-suê
1
Ðức
Chúa phán với ông Giô-suê: "Ðừng hãi, đừng sợ! Hãy đem theo ngươi mọi chiến
sĩ. Ðứng dậy đi, tiến lên đánh thành Ai. Xem đây, Ta nộp vào tay ngươi vua
thành Ai, dân, thành và xứ của vua ấy. 2 Ngươi sẽ đối xử với thành
Ai và vua thành ấy như đã đối xử với Giê-ri-khô và vua thành ấy. Các ngươi chỉ
được chiếm cho mình chiến lợi phẩm và thú vật. Ngươi hãy đặt quân mai phục phía
sau thành để tấn công."
Mưu
kế của ông Giô-suê
3
Ông
Giô-suê trỗi dậy, cùng với mọi chiến sĩ lên đánh thành Ai. Ông chọn ba mươi
ngàn dũng sĩ, và đang đêm sai họ đi. 4 Ông ra lệnh này cho họ:
"Xem đây! Anh em sẽ mai phục phía sau thành để tấn công, nhưng đừng ở quá
xa, và tất cả anh em hãy sẵn sàng. 5 Còn tôi và toàn dân ở với tôi,
chúng tôi sẽ tiến lại gần thành. Khi chúng ra nghênh chiến với chúng ta như lần
đầu, chúng tôi sẽ chạy trốn trước mặt chúng. 6 Chúng sẽ chạy ra đuổi
theo chúng tôi, cho đến khi chúng tôi nhử chúng ra xa thành, vì chúng sẽ nói:
"Họ chạy trốn trước mặt chúng ta như lần đầu! Chúng tôi sẽ chạy trốn trước
mặt họ; 7 còn anh em, anh em sẽ đứng lên, rời chỗ mai phục và chiếm
thành. Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ nộp thành vào tay anh em. 8 Vậy
sau khi đoạt được thành, anh em sẽ phóng hoả đốt thành. Anh em phải làm theo
lời Ðức Chúa. Hãy coi! Ðó là mệnh lệnh tôi truyền cho anh em."
9
Ông
Giô-suê sai họ đi; họ đi đến chỗ mai phục và núp ở giữa Bết Ên và Ai, về phía
tây của thành, còn ông Giô-suê thì qua đêm ở giữa dân. 10 Sáng hôm
sau, ông Giô-suê dậy sớm, duyệt lại hàng ngũ của dân. Ông và các kỳ mục
Ít-ra-en tiến lên, đi trước dân để tấn công thành Ai. 11 Mọi chiến
sĩ ở với ông thì đi lên, tiến tới. Ðến trước mặt thành Ai, họ đóng trại ở phía
bắc thành, giữa họ và thành có một thung lũng. 12 Ông lấy chừng năm
ngàn người, cho họ mai phục giữa Bết Ên và Ai, phía tây thành. 13 Khi
dân đã dàn trận ở phía bắc thành, và đặt hậu quân ở phía tây, thì đêm ấy ông
Giô-suê đi ra giữa cánh đồng.
Cuộc
đánh chiếm thành Ai
14
Vua
thành Ai thấy thế, thì sáng hôm sau, vua và toàn dân trong thành vội vàng dậy
sớm, ra nghênh chiến với Ít-ra-en ở chỗ đã định, đối diện với A-ra-va. Nhưng
ông không biết là có quân mai phục đang chờ ông đằng sau thành. 15 Ông
Giô-suê và toàn dân Ít-ra-en để cho quân địch đánh, và họ tháo chạy về phía sa
mạc. 16 Toàn dân trong thành tập họp lại, đuổi theo. Chúng đuổi theo
ông Giô-suê và bị nhử ra xa thành. 17 Không một người nào trong
thành Ai và Bết Ên mà không chạy ra rượt theo Ít-ra-en, chúng để thành bỏ ngỏ
mà đuổi theo Ít-ra-en. 18 Ðức Chúa phán với ông Giô-suê: "Hãy
giơ ngọn lao ngươi đang cầm trong tay hướng về thành Ai, vì Ta sẽ nộp thành ấy
vào tay ngươi." Ông Giô-suê giơ ngọn lao đang cầm trong tay về phía thành.
19 Ông vừa giơ tay lên thì quân mai phục vội vàng trỗi dậy, rời khỏi
chỗ núp. Họ chạy vào và chiếm thành rồi vội vàng phóng hoả đốt thành.
20
Người
thành Ai quay lại, nhìn thấy khói từ thành bốc lên trời. Chúng không còn sức
chạy trốn đàng nào nữa, vì những người Ít-ra-en đang chạy trốn vào sa mạc quay
lại đánh những kẻ đuổi theo họ. 21 Thấy quân mai phục chiếm được
thành và thấy khói từ thành bốc lên, ông Giô-suê và toàn thể Ít-ra-en trở lại
đánh người thành Ai. 22 Những người khác ra khỏi thành đón đường
chúng, khiến chúng lọt vào giữa Ít-ra-en, bị chận cả hai đầu. Ít-ra-en giết
chúng, không để sót một tên, không để thoát một mống. 23 Vua thành
Ai bị bắt sống và bị điệu tới ông Giô-suê. 24 Khi Ít-ra-en đã giết
sạch dân thành Ai, kẻ ở ngoài đồng, cũng như kẻ ở trong sa mạc là nơi chúng
đuổi theo họ, khi tất cả, cho đến tên cuối cùng, đã ngã gục dưới lưỡi gươm, thì
toàn thể Ít-ra-en trở về thành Ai và dùng lưỡi gươm giết chúng. 25 Số
những kẻ ngã gục trong ngày đó, đàn ông cũng như đàn bà, tất cả lên tới mười
hai ngàn, mọi người đều là dân thành Ai.
Án
tru diệt và cuộc tàn phá thành Ai
26
Ông
Giô-suê cứ giơ tay cầm lao, không hạ xuống cho đến khi ông thi hành án tru diệt
tất cả thành Ai. 27 Người Ít-ra-en chỉ chiếm cho mình thú vật và
chiến lợi phẩm của thành ấy, theo lệnh Ðức Chúa đã truyền cho ông Giô-suê.
28
Ông
Giô-suê đã đốt thành Ai, khiến nó mãi mãi là một nơi điêu tàn, một chốn hoang
vu vẫn còn đến ngày nay. 29 Ông cho treo cổ vua thành Ai trên cây
cho đến chiều. Nhưng khi mặt trời lặn, ông ra lệnh hạ xác xuống khỏi cây và
quăng ở cửa thành. Người ta chất trên y một đống đá lớn vẫn còn cho đến ngày
nay.
5.
Dâng Hy Lễ Và Ðọc Sách Luật Trên Núi Ê-Van
Bàn
thờ bằng đá nguyên vẹn
30
Bấy
giờ, ông Giô-suê dựng bàn thờ kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, trên núi
Ê-van, 31 theo lệnh ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, đã truyền cho
con cái Ít-ra-en, như đã chép trong Sách Luật Mô-sê: đó là một bàn thờ bằng đá
nguyên vẹn, chưa có đồ sắt chạm tới. Trên đó, người ta dâng lễ toàn thiêu kính
Ðức Chúa và dâng lễ kỳ an.
Ðọc
Sách Luật
32
Ông
Giô-suê cho khắc bản sao Luật Mô-sê trên những tảng đá; ông Mô-sê đã viết Luật
đó trước mặt con cái Ít-ra-en. 33 Toàn thể Ít-ra-en, các bậc kỳ mục,
kinh sư và thẩm phán đều đứng hai bên Hòm Bia, đối diện với các tư tế Lê-vi
khiêng Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa, người ngoại kiều cũng như người bản xứ,
một nửa đứng trước núi Gơ-ri-dim, một nửa đứng trước núi Ê-van, để theo lệnh
ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, dân Ít-ra-en được chúc phúc trước. 34 Sau
đó, ông Giô-suê đọc mọi lời của Lề Luật, - những lời chúc phúc và những lời
nguyền rủa -, theo như mọi điều đã ghi trong Sách Luật. 35 Không có
lời nào ông Mô-sê đã truyền viết ra, mà ông Giô-suê lại không đọc trước mặt
toàn thể cộng đồng Ít-ra-en, gồm cả đàn bà, trẻ con và ngoại kiều cùng đi chung
với họ.
Chương 09
6.
Hiệp Ước Giữa Ít-Ra-En Và Người Ghíp-Ôn
Liên
minh chống Ít-ra-en
1
Nghe
tin ấy, tất cả các vua ở bên kia sông Gio-đan, trên miền núi, trong miền
Sơ-phê-la và ở vùng ven Biển Lớn cho đến tận Li-băng: các vua Khết, E-mô-ri,
Ca-na-an, Pơ-rít-di, Khi-vi và Giơ-vút, 2 hợp nhau để cùng chiến đấu
chống lại ông Giô-suê và Ít-ra-en.
Mưu
của người Ghíp-ôn
3
Người
Ghíp-ôn nghe biết những gì ông Giô-suê đã làm cho Giê-ri-khô và Ai, 4 thì
cũng dùng mưu. Chúng lên đường, mang theo lương thực, và cho lừa chở những
chiếc bị cũ, những bầu rượu bằng da cũ, thủng và được vá lại, 5 chân
mang dép cũ được khâu lại, mình mặc quần áo cũ; tất cả bánh dự trữ đều khô
cứng, nát vụn.
6
Chúng
đi gặp ông Giô-suê ở trại Ghin-gan; chúng nói với ông và người Ít-ra-en:
"Chúng tôi từ nơi xa đến, vậy bây giờ xin các ông ký hiệp ước với chúng
tôi.” 7 Người Ít-ra-en mới nói với người Khi-vi: "Biết đâu
(các) ông lại chẳng sống ngay giữa chúng tôi, thì (chúng) tôi ký hiệp ước với
các ông làm gì?” 8 Chúng nói với ông Giô-suê: "Chúng tôi là tôi
tớ của ông." Ông Giô-suê nói: "Các ông là ai, và từ đâu đến?” 9 Chúng
đáp: "Nghe biết danh tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, các tôi tớ của
ông đã từ một nước rất xa đến đây. Vì chúng tôi đã nghe nói về Người, về tất cả
những gì Người đã làm bên Ai-cập, 10 và về tất cả những gì Người đã
giáng cho hai vua người E-mô-ri ở bên kia sông Gio-đan, nghĩa là cho Xi-khôn,
vua Khét-bôn, và Ốc, vua Ba-san, ở Át-ta-rốt. 11 Các bậc kỳ mục của
chúng tôi và mọi người dân trong nước đã nói với chúng tôi: "Các anh hãy
mang theo lương thực đi đường mà đi đón họ; hãy nói với họ: Chúng tôi là tôi tớ
của các ông; vậy bây giờ xin các ông ký hiệp ước với chúng tôi. 12 Bánh
của chúng tôi đây này: khi chúng tôi đem ra khỏi nhà làm lương thực, ngày chúng
tôi ra đi để đến với các ông, nó còn nóng hổi, mà bây giờ nó đã khô cứng, nát
vụn! 13 Những bầu rượu kia, khi chúng tôi đổ đầy rượu vào, thì hãy còn mới, mà
nay đã thủng; quần áo và giày dép của chúng tôi đây đã cũ vì đường sá xa xôi.” 14
Người Ít-ra-en nhận một phần lương thực dự trữ ấy mà không thỉnh ý Ðức
Chúa qua lời sấm. 15 Ông Giô-suê để chúng được bình an, và ký hiệp
ước bảo đảm tính mạng của chúng. Và những người lãnh đạo cộng đồng thề ước với
chúng.
16
Ba
ngày sau khi ký hiệp ước với chúng, người Ít-ra-en nghe biết chúng là người
láng giềng và sống giữa họ. 17 Con cái Ít-ra-en rời nơi đó mà vào
thành của chúng ngày thứ ba; thành của chúng là Ghíp-ôn, Cơ-phi-ra, Bơ-ê-rốt,
Kia-giát Giơ-a-rim. 18 Con cái Ít-ra-en không giết chúng, vì các
người lãnh đạo cộng đồng đã thề ước với chúng nhân danh Ðức Chúa, Thiên Chúa
của Ít-ra-en; nhưng toàn thể cộng đồng đã kêu trách những người lãnh đạo.
Quy
chế cho người Ghíp-ôn
19
Mọi
người lãnh đạo nói với toàn thể cộng đồng: "Chúng tôi đã nhân danh Ðức
Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, mà thề; nên bây giờ chúng ta không được đụng tới
chúng. 20 Chúng ta sẽ đối xử với chúng như thế này: Chúng ta sẽ để
cho chúng sống, và cơn thịnh nộ sẽ không giáng xuống chúng ta, vì chúng ta đã
thề ước với chúng như vậy.” 21 Những người lãnh đạo nói tiếp:
"Cứ để chúng sống, nhưng chúng phải chặt củi, múc nước cho toàn thể cộng
đồng." Những người lãnh đạo đã nói với chúng như thế. 22 Ông
Giô-suê triệu tập chúng lại và nói: "Tại sao các người đã lừa dối chúng
tôi mà nói: "Chúng tôi ở rất xa các ông", trong khi các người sống
giữa chúng tôi? 23 Bây giờ, các người là những kẻ bị nguyền rủa, tất cả các
người sẽ mãi mãi làm nô lệ, làm người chặt củi, múc nước cho Nhà của Thiên Chúa
tôi.” 24 Chúng trả lời ông Giô-suê: "Người ta đã kể đi kể lại
cho các tôi tớ ngài đây lệnh mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, đã truyền cho ông
Mô-sê, tôi trung của Người, là trao cho các ông tất cả xứ sở, và tiêu diệt
trước mặt các ông toàn thể dân cư trong xứ. Chúng tôi đã sợ cho tính mạng của
chúng tôi, chúng tôi rất sợ các ông, nên chúng tôi đã làm điều ấy. 25 Vậy
bây giờ chúng tôi đang ở trong tay ông, ông cứ đối xử với chúng tôi như ông
nghĩ thế nào là hay là phải!” 26 Ông đã đối xử với chúng như thế
này: ông đã cứu chúng khỏi tay con cái Ít-ra-en, và họ đã không giết chúng. 27
Nhưng ngày ấy ông Giô-suê bắt chúng chặt củi, múc nước để phục vụ cộng
đồng và bàn thờ của Ðức Chúa cho đến ngày nay, ở nơi Người sẽ chọn.
Chương 10
7.
Liên Minh Năm Vua E-Mô-Ri.
Ðánh
Chiếm Miền
Năm
vua đánh Ghíp-ôn
1
A-đô-ni
Xe-đéc, vua Giê-ru-sa-lem, nghe tin ông Giô-suê đã chiếm thành Ai, đã tru hiến
thành này, đã đối xử với thành Ai và vua thành này như với Giê-ri-khô và vua
thành ấy. Vua cũng nghe tin dân thành Ghíp-ôn đã cầu hoà với Ít-ra-en và đang
sống giữa Ít-ra-en. 2 Khi đó người ta hết sức sợ hãi, bởi vì Ghíp-ôn
là một thành lớn như một kinh thành. Quả thế, thành đó lớn hơn thành Ai, và mọi
người trong thành đều là những tay anh hùng. 3 A-đô-ni Xe-đéc, vua
Giê-ru-sa-lem, sai người đến nói với Hô-ham, vua Khép-rôn, với Pia-am, vua
Giác-mút, với Gia-phia, vua La-khít, và với Ðơ-via, vua Éc-lon: 4 "Xin
quý vị lên với tôi và cứu viện cho tôi, để chúng ta cùng đánh Ghíp-ôn, vì
Ghíp-ôn đã cầu hoà với Giô-suê và con cái Ít-ra-en.” 5 Năm vua
E-mô-ri là vua Giê-ru-sa-lem, vua Khép-rôn, vua Giác-mút, vua La-khít, vua
Éc-lon, đem quân liên minh với nhau và cùng đi lên. Họ bao vây Ghíp-ôn và tấn
công thành ấy.
Ông
Giô-suê đến cứu viện Ghíp-ôn
6
Dân
thành Ghíp-ôn đến trại Ghin-gan nói với ông Giô-suê: "Xin ngài đừng từ
chối tiếp tay cho các tôi tớ ngài. Xin ngài sớm lên với chúng tôi, giải thoát
chúng tôi, cứu viện chúng tôi, vì tất cả các vua E-mô-ri ở miền núi đều hợp
nhau chống lại chúng tôi.” 7 Ông Giô-suê rời Ghin-gan mà đi lên,
cùng với tất cả chiến sĩ và dũng sĩ. 8 Ðức Chúa phán với ông
Giô-suê: "Ðừng sợ chúng, vì Ta đã nộp chúng vào tay ngươi, không ai trong
bọn chúng sẽ đứng vững trước mặt ngươi.” 9 Sau khi từ Ghin-gan đi
lên suốt cả một đêm, ông Giô-suê bất thình lình đến nơi chúng đóng quân.
Ơn
trên phù hộ
10
Ðức
Chúa làm cho chúng tán loạn trước mặt Ít-ra-en. Và Ít-ra-en đã làm cho chúng
đại bại ở Ghíp-ôn. Họ đuổi theo chúng lên phía đèo Bết Khô-rôn, và đánh giết
chúng mãi cho đến A-dê-ca, cho đến Mác-kê-đa. 11 Khi chúng chạy trốn
trước mặt Ít-ra-en đến chân đèo Bết Khô-rôn, thì từ trời, Ðức Chúa cho rơi
những hòn đá lớn xuống trên chúng mãi cho đến A-dê-ca, khiến chúng phải chết.
Chúng chết vì cơn mưa đá nhiều hơn là vì gươm con cái Ít-ra-en giết. 12 Bấy
giờ, trong ngày Ðức Chúa nộp người E-mô-ri cho con cái Ít-ra-en, ông Giô-suê
thưa chuyện với Ðức Chúa. Trước mặt con cái Ít-ra-en, ông nói:
"Hỡi
mặt trời, hãy dừng lại trên thành Ghíp-ôn;
hỡi
mặt trăng, hãy dừng lại trên thung lũng Ai-gia-lôn!"
13
Mặt
trời liền dừng lại, mặt trăng lập tức đứng lại, cho đến khi dân đã trị tội các
địch thù.
14
Trước
đó và từ đó về sau, không có hôm nào như hôm ấy, ÐỨC CHÚA nghe lời một người
phàm, vì Ðức Chúa chiến đấu cho Ít-ra-en. 15 Ông Giô-suê và toàn dân
Ít-ra-en trở về trại ở Ghin-gan.
Năm
vua trốn trong hang Mác-kê-đa
16
Năm
vua đó tẩu thoát và trốn vào hang Mác-kê-đa. 17 Người ta báo tin cho
ông Giô-suê rằng: "Ðã tìm thấy năm vua trốn trong hang Mác-kê-đa.” 18
Ông Giô-suê nói: "Hãy lăn những tảng đá lớn để lấp cửa hang, và đặt
người ở đó canh giữ chúng. 19 Còn anh em, đừng đứng lại, hãy đuổi
theo kẻ thù, chặn đường triệt thoái, đừng cho chúng vào lại các thành của
chúng, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã nộp chúng vào tay anh em."
20
Sau
khi ông Giô-suê và con cái Ít-ra-en làm cho chúng hoàn toàn đại bại đến mức tận
tuyệt - trừ ít người trốn thoát vào được thành kiên cố của chúng -, 21 thì
toàn dân mới an toàn trở về trại với ông Giô-suê ở Mác-kê-đa; không một ai dám
hé môi nói phạm đến con cái Ít-ra-en.
22
Ông
Giô-suê nói: "Mở cửa hang, đem năm vua ấy ra đây cho tôi.” 23 Họ
đã làm như thế: họ đem năm vua ấy ra khỏi hang cho ông. Ðó là vua
Giê-ru-sa-lem, vua Khép-rôn, vua Giác-mút, vua La-khít, vua Éc-lon. 24 Khi
họ đã đem các vua ấy ra cho ông Giô-suê, thì ông triệu tập tất cả những người
Ít-ra-en lại, và nói với những tướng lãnh các chiến sĩ tháp tùng ông:
"Tiến lại gần đây, đặt chân lên cổ các vua này." Họ tiến lại gần và
đặt chân họ lên cổ chúng. 25 Ông Giô-suê nói: "Ðừng hãi, đừng
sợ; mạnh bạo lên, can đảm lên! Vì Ðức Chúa sẽ xử như thế này với mọi địch thù
mà anh em sẽ phải nghênh chiến.” 26 Sau đó, ông Giô-suê cho đánh và
giết chết chúng, rồi treo lên năm ngọn cây. Chúng bị treo trên cây cho đến
chiều.
27
Khi
mặt trời lặn, ông Giô-suê truyền hạ chúng xuống khỏi cây. Người ta quăng chúng
vào hang, nơi chúng đã trốn, và người ta đặt những tảng đá lớn nơi cửa hang.
Những tảng đá ấy còn mãi cho đến ngày nay.
Chiếm
các thành miền nam Ca-na-an
28
Ngày
hôm ấy, ông Giô-suê chiếm được Mác-kê-đa và dùng lưỡi gươm chém giết dân trong
thành cũng như vua của chúng. Ông tru hiến chúng cũng như mọi sinh vật trong
đó, không để một mạng nào sống sót. Ông đã xử với vua Mác-kê-đa như đã xử với
vua Giê-ri-khô.
29
Rồi
ông Giô-suê cùng với toàn thể Ít-ra-en rời Mác-kê-đa mà qua Líp-na. Ông giao
chiến với Líp-na. 30 Ðức Chúa cũng đã nộp Líp-na và cả vua thành ấy
vào tay Ít-ra-en. Ít-ra-en đã dùng lưỡi gươm chém giết dân trong thành cũng như
mọi sinh vật trong đó, không để một mạng nào sống sót. Ông đã xử với vua thành
đó như đã xử với vua thành Giê-ri-khô.
31
Ông
Giô-suê cùng với toàn thể Ít-ra-en rời Líp-na mà qua La-khít. Ông vây hãm và
tấn công thành. 32 Ðức Chúa nộp La-khít vào tay Ít-ra-en. Ít-ra-en
chiếm thành đó vào ngày thứ hai, và dùng lưỡi gươm chém giết dân trong thành
cũng như mọi sinh vật trong đó, y như đã xử với Líp-na. 33 Bấy giờ,
Hô-ram, vua Ghe-dê, lên cứu viện cho La-khít, nhưng ông Giô-suê đánh bại nó
cũng như dân của nó, đến nỗi không để một mạng nào sống sót. 34 Ông
Giô-suê cùng với toàn thể Ít-ra-en rời La-khít mà qua Éc-lon. Họ vây hãm và tấn
công thành. 35 Ngày ấy, họ chiếm thành và dùng lưỡi gươm chém giết
dân trong thành. Ngày ấy, ông tru hiến mọi sinh vật trong đó, y như đã xử với
La-khít.
36
Ông
Giô-suê cùng với toàn thể Ít-ra-en rời Éc-lon mà lên Khép-rôn. Họ tấn công
Khép-rôn. 37 Họ chiếm thành và dùng lưỡi gươm chém giết dân trong
thành, cũng như vua của thành đó, mọi thị trấn phụ thuộc và mọi sinh vật trong
đó. Ông không để một mạng nào sống sót, y như đã xử với Éc-lon. Ông tru hiến
thành ấy cũng như mọi sinh vật trong đó.
38
Ông
Giô-suê cùng với toàn thể Ít-ra-en quay sang Ðơ-via và tấn công thành đó. 39
Ông chiếm được thành Ðơ-via, bắt được vua, và chiếm mọi thị trấn phụ
thuộc của thành ấy. Họ đã dùng lưỡi gươm chém giết chúng và tru hiến mọi sinh
vật trong đó. Ông không để một mạng nào sống sót. Ông Giô-suê đã xử với thành
Khép-rôn, với Líp-na và vua của các thành ấy thế nào, thì cũng xử với Ðơ-via và
vua của thành ấy như vậy.
Tổng
kết về các cuộc chinh phục miền nam
40
Ông
Giô-suê đánh chiếm toàn xứ: miền núi, miền Ne-ghép, miền Sơ-phê-la, các Sườn
Núi, và giết tất cả các vua. Ông không để một mạng nào sống sót. Ông tru hiến
tất cả những gì có sinh khí, theo mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của
Ít-ra-en. 41 Ông Giô-suê đánh chúng từ Ca-đê Bác-nê-a cho đến Ga-da,
cũng như toàn xứ Gô-sen cho đến Ghíp-ôn. 42 Ông Giô-suê đã giết tất
cả các vua đó, và chiếm đất của chúng, chỉ trong một trận đánh, vì Ðức Chúa,
Thiên Chúa của Ít-ra-en, đã chiến đấu cho Ít-ra-en. 43 Ông Giô-suê
và toàn thể Ít-ra-en trở về trại, ở Ghin-gan.
Chương 11
8.
Chinh Phục Miền Bắc Pa-Lét-Tin
Các
vua miền bắc liên minh với nhau
1
Khi
nghe tin đó, Gia-vin, vua Kha-xo, sai người đến với Giô-váp, vua Ma-đôn, với
Sim-rôn, vua Ác-sáp, 2 với các vua ở phía bắc trong miền núi và miền
A-ra-va phía nam Kin-na-rốt, trong miền Sơ-phê-la và trên mạn ngược Ðo, ở phía
tây, 3 với người Ca-na-an ở phía đông và phía tây, với người
E-mô-ri, Khết, Pơ-rít-di, Giơ-vút trên miền núi và Khi-vi ở dưới chân Khéc-môn,
trong xứ Mít-pa. 4 Chúng ra đi, chúng và tất cả các binh sĩ của
chúng, một đám dân đông đảo, nhiều như cát ngoài bãi biển, cùng với vô số ngựa
xe.
Chiến
thắng ở Mê-rôm
5
Tất
cả các vua đó liên minh với nhau thành một khối, kéo nhau đến đóng trại gần bờ
suối ở Mê-rôm, để giao chiến với Ít-ra-en. 6 Ðức Chúa phán với ông
Giô-suê: "Ðừng sợ chúng, vì ngày mai cũng vào giờ này, Ta sẽ nộp thây của
tất cả bọn chúng cho Ít-ra-en; ngươi sẽ chặt nhượng chân ngựa và phóng hoả đốt
chiến xa của chúng.” 7 Ông Giô-suê và mọi chiến sĩ bất thình lình ập
tới gần chúng ở bờ suối Mê-rôm và xông vào đánh. 8 Ðức Chúa nộp
chúng vào tay Ít-ra-en. Dân Ít-ra-en đánh chúng và đuổi theo chúng cho đến
Xi-đôn Ðại đô, cho đến Mít-rơ-phốt Ma-gim, và cho đến thung lũng Mít-pê, ở phía
đông, họ đánh chúng tới mức không để một mạng nào sống sót. 9 Ông
Giô-suê xử với chúng như Ðức Chúa đã phán với ông: Ông đã chặt nhượng chân ngựa
và phóng hoả đốt chiến xa.
Chiếm
Kha-xo và các thành khác ở phía bắc
10
Thuở
ấy, ông Giô-suê trở về, chiếm Kha-xo và dùng gươm giết vua thành đó, vì trước
kia Kha-xo là thủ đô của các vương quốc đó. 11 Họ dùng lưỡi gươm
chém giết mọi sinh vật trong thành, tru hiến chúng; không còn một sinh vật nào
sót lại; và ông đã phóng hoả đốt Kha-xo.
12
Ông
Giô-suê chiếm mọi thành của các vua đó và dùng lưỡi gươm chém giết tất cả các
vua của những thành đó. Ông tru hiến chúng, như ông Mô-sê tôi trung của Ðức
Chúa đã truyền.
13
Nhưng
Ít-ra-en không đốt thành nào xây dựng trên gò phế tích; chỉ có ông Giô-suê đốt
Kha-xo mà thôi. 14 Con cái Ít-ra-en chiếm cho mình mọi chiến lợi
phẩm của các thành ấy và thú vật; nhưng họ dùng lưỡi gươm chém giết mọi người,
đến mức tiêu diệt hết, không để một sinh vật nào sống sót.
Ông
Giô-suê thi hành mệnh lệnh của ông Mô-sê
15
Những
gì Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê, tôi trung của Người, thì ông Mô-sê truyền
lại cho ông Giô-suê, và ông Giô-suê đã làm như vậy. Ông không bỏ sót một điều
gì Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
Tổng
kết về các cuộc chinh phục miền bắc
16
Thế
là ông Giô-suê đã chiếm toàn xứ đó: miền núi, tất cả miền Ne-ghép, tất cả đất
Gô-sen, miền Sơ-phê-la, miền A-ra-va, miền núi Ít-ra-en và đồng bằng của miền
đó.
17
Từ
núi Trọc đi lên Xê-ia cho đến Ba-an Gát trong thung lũng Li-băng dưới chân núi
Khéc-môn, ông bắt được các vua của chúng, cho đánh và giết chết. 18 Trong
nhiều ngày, ông Giô-suê giao chiến với tất cả các vua đó. 19 Không
một thành nào làm hoà với con cái Ít-ra-en, ngoại trừ người Khi-vi cư ngụ ở
Ghíp-ôn. Nhờ chiến đấu, con cái Ít-ra-en đã lấy được mọi thành. 20 Quả
thế, Ðức Chúa đã quyết định làm cho dân ấy cứng lòng mà nghênh chiến với
Ít-ra-en, để Ít-ra-en tru hiến chúng, không ân xá cho chúng, và làm cho chúng
phải bị tiêu diệt, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
Ðánh
đuổi người A-nác
21
Thuở
ấy, ông Giô-suê đến đánh đuổi người A-nác khỏi miền núi: Khép-rôn, Ðơ-via,
A-náp, khỏi tất cả miền núi Giu-đa và Ít-ra-en. Ông Giô-suê tru hiến chúng và
các thành của chúng. 22 Không còn sót lại một người A-nác nào nữa
trong đất con cái Ít-ra-en, ngoại trừ ở Ga-da, Gát và Át-đốt. 23 Ông
Giô-suê chiếm trọn đất ấy y như Ðức Chúa đã phán với ông Mô-sê. Ông Giô-suê đã
ban đất ấy làm gia nghiệp cho Ít-ra-en, để các chi tộc chia nhau.
Và
xứ sở được sống yên hàn, hết nạn chiến tranh.
Chương 12
9.
Tổng Kết Về Cuộc Chiến Thắng
Các
Vua Ở Hai Bên Sông Gio-Ðan
Các
vua bại trận ở phía đông sông Gio-đan
1
Ðây
là các vua trong xứ đã bị con cái Ít-ra-en đánh bại và chiếm đất, bên kia sông
Gio-đan, phía mặt trời mọc, từ suối Ác-nôn đến núi Khéc-môn, và tất cả miền
A-ra-va ở phía đông: 2 Xi-khôn, vua E-mô-ri, đóng đô tại Khét-bôn.
Vua này cai trị vùng đất từ A-rô-e trên bờ suối Ác-nôn, kể cả lòng suối, một
nửa Ga-la-át, cho đến suối Giáp-bốc, ranh giới của con cái Am-mon; 3 miền
A-ra-va cho đến phía đông biển Kin-ne-rét, và cho đến phía đông biển A-ra-va,
-tức là Biển Muối, theo hướng Bết Ha Giơ-si-mốt, nằm ở phía nam chân núi
Pít-ga.
4
Rồi
Ốc, vua Ba-san, một người còn sống sót của dân Ra-pha, đóng đô tại Át-ta-rốt và
Ét-re-i. 5 Vua này cai trị miền núi Khéc-môn, Xan-kha và toàn miền
Ba-san cho đến ranh giới của người Gơ-sua và Ma-a-kha, và một nửa Ga-la-át cho
đến ranh giới của Xi-khôn, vua Khét-bôn. 6 Ông Mô-sê, tôi trung của
Ðức Chúa, và con cái Ít-ra-en đánh bại chúng. Ông Mô-sê, tôi trung của Ðức
Chúa, đã cho những người thuộc các chi tộc Rưu-vên, Gát và một nửa chi tộc
Mơ-na-se được chiếm đất của chúng làm sở hữu.
Các
vua bại trận ở phía tây sông Gio-đan
7
Và
sau đây là các vua trong xứ đã bị ông Giô-suê và con cái Ít-ra-en đánh bại bên
kia sông Gio-đan, ở phía tây, từ Ba-an Gát trong thung lũng Li-băng cho đến núi
Trọc đứng trên đường đi Xê-ia, và ông Giô-suê đã cho các chi tộc Ít-ra-en được
chiếm làm sở hữu để chia nhau: 8 trên miền núi, trong miền
Sơ-phê-la, tại A-ra-va, ở các Sườn Núi, trong sa mạc vùng Ne-ghép, nơi các
người Khết, E-mô-ri, Ca-na-an, Pơ-rít-di, Khi-vi và Giơ-vút:
9
Vua
Giê-ri-khô, một; vua Ai, bên cạnh Bết Ên, một,
10
vua
Giê-ru-sa-lem, một; vua Khép-rôn, một,
11
vua
Giác-mút, một; vua La-khít, một,
12
vua
Éc-lon, một; vua Ghe-de, một,
13
vua
Ðơ-via, một; vua Ghe-đe, một,
14
vua
Khoóc-ma, một; vua A-rát, một,
15
vua
Líp-na, một; vua A-đu-lam, một,
16
vua
Mác-kê-đa, một; vua Bết Ên, một,
17
vua
Táp-pu-ác, một; vua Khê-phe, một,
18
vua
A-phếch, một; vua La-sa-rôn, một,
19
vua
Ma-đôn, một; vua Kha-xo, một,
20
vua
Sim-rôn Mơ-rôn, một; vua Ác-sáp, một,
21
vua
Ta-nác, một; vua Mơ-ghít-đô, một,
22
vua
Ke-đét, một; vua Gióc-nơ-am núi Các-men, một,
23
vua
Ðo ở mạn ngược Ðo, một; vua Gô-gim ở Ghin-gan, một,
24
vua
Tia-xa, một; số tất cả các vua là ba mươi mốt.
Chương 13
II.
Phân Chia Ðất Ðai Cho Các Chi Tộc
1.
Mệnh Lệnh Của Thiên Chúa
Những
vùng đất còn phải chiếm
1
Khi
ông Giô-suê về già, tuổi đã cao, Ðức Chúa phán với ông: "Ngươi đã già nua
tuổi tác, mà đất đai còn phải chiếm thì lại quá nhiều. 2 Ðây là đất
còn lại:
"Mọi
địa hạt người Phi-li-tinh, tất cả vùng dân Gơ-sua, 3 từ Si-kho đối
diện với Ai-cập, cho đến ranh giới Éc-rôn ở phía bắc, cũng được coi là thuộc về
Ca-na-an; vùng đất của năm thủ lãnh Phi-li-tinh: Ga-da, Át-đốt, Át-cơ-lôn, Gát
và Éc-rôn; rồi vùng đất của người A-vim, 4 ở phía nam; trọn vùng đất
người Ca-na-an và Mơ-a-ra của người Xi-đôn cho đến A-phếch, đến ranh giới của
người E-mô-ri; 5 vùng đất của người Gơ-van và tất cả Li-băng phía
mặt trời mọc, từ Ba-an Gát ở chân núi Khéc-môn cho đến lối vào Cửa Ải
Kha-mát."
6
Tất
cả dân miền núi từ Li-băng đến Mít-rơ-phốt Ma-gim, mọi người Xi-đôn, chính Ta
sẽ xua đuổi chúng cho khuất mắt con cái Ít-ra-en. Ngươi chỉ có việc cho
Ít-ra-en bắt thăm để được đất làm gia nghiệp như Ta đã truyền cho ngươi. 7
Và bây giờ, ngươi hãy chia đất này làm gia nghiệp cho chín chi tộc và nửa
chi tộc Mơ-na-se.
2.
Các Chi Tộc Bên Kia Sông Gio-Ðan
Nhìn
tổng quát
8
Cùng
với nửa chi tộc Mơ-na-se còn lại, chi tộc Rưu-vên và chi tộc Gát đã nhận phần
gia nghiệp mà ông Mô-sê đã ban cho họ bên kia sông Gio-đan, phía đông, như ông
Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, đã ban cho họ: 9 từ A-rô-e trên bờ
suối Ác-nôn và thành nằm giữa thung lũng, toàn vùng cao nguyên Mê-đơ-va cho đến
Ði-vôn; 10 mọi thành của Xi-khôn, vua dân E-mô-ri, trị vì ở
Khét-bôn, cho đến ranh giới của con cái Am-mon, 11 Ga-la-át và lãnh
thổ của người Gơ-sua và người Ma-a-kha, tất cả núi Khéc-môn và toàn miền Ba-san
cho đến Xan-kha; 12 ở Ba-san, tất cả vương quốc của Ốc, là vua trị
vì ở Át-ta-rốt và Ét-re-i, và là người còn sống sót của dân Ra-pha. Ông Mô-sê
đã đánh bại và xua đuổi chúng đi. 13 Nhưng con cái Ít-ra-en không
xua đuổi được người Gơ-sua và người Ma-a-kha, khiến chúng còn sinh sống giữa
Ít-ra-en cho đến ngày nay. 14 Chỉ có chi tộc Lê-vi là không được
nhận phần gia nghiệp: các hoả tế dâng Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, là gia
nghiệp của chi tộc đó, như lời Người đã phán với họ.
Chi
tộc Rưu-vên
15
Ông
Mô-sê đã ban một phần đất cho chi tộc con cái ông Rưu-vên, theo các thị tộc của
họ. 16 Lãnh thổ của họ trải rộng từ A-rô-e, trên bờ suối Ác-nôn, với
thành nằm giữa thung lũng, cũng như toàn vùng cao nguyên, cho đến Mê-đơ-va, 17
Khét-bôn và mọi thành vùng cao nguyên: Ði-vôn, Ba-mốt Ba-an, Bết Ba-an
Mơ-ôn, 18 Gia-hát, Cơ-đê-mốt, Mê-pha-át, 19 Kia-gia-tha-gim,
Xíp-ma, Xe-rét Ha-sa-kha trên ngọn đồi nằm giữa đồng bằng, 20 Bết
Pơ-o, các sườn núi Pít-ga, Bết Ha Giơ-si-mốt, 21 mọi thành vùng cao
nguyên và toàn vương quốc của Xi-khôn, vua E-mô-ri, đang trị vì ở Khét-bôn. Ông
Mô-sê đã đánh bại vua này, cũng như các thủ lãnh Ma-đi-an, E-vi, Re-kem, Xua,
Khua và Re-va, là các chư hầu của Xi-khôn ở trong vùng đất đó. 22 Còn
thầy bói Bi-lơ-am, con ông Bơ-o, thì con cái Ít-ra-en đã lấy gươm giết chết,
cùng một lượt với những người bại trận. 23 Vậy lãnh thổ con cái ông
Rưu-vên là sông Gio-đan và vùng phụ cận. Các thành và làng mạc của những thành
ấy là gia nghiệp con cái ông Rưu-vên theo các thị tộc của họ.
Chi
tộc Gát
24
Ông
Mô-sê đã ban một phần đất cho chi tộc Gát, cho con cái ông Gát, theo các thị
tộc của họ. 25 Lãnh thổ của họ gồm có: Gia-de và tất cả các thành
miền Ga-la-át, nửa phần đất của con cái Am-mon cho đến A-rô-e, đối diện với
Ráp-ba, 26 từ Khét-bôn cho đến Ra-mát Ha Mít-pê và Bơ-tô-nim, từ
Ma-kha-na-gim cho đến lãnh thổ Lít-via, 27 và các thành trong thung
lũng: Bết Ha-ram, Bết Nim-ra, Xúc-cốt, Xa-phôn, phần còn lại thuộc vương quốc
của Xi-khôn, vua Khét-bôn, lấy sông Gio-đan làm ranh giới cho đến hết biển hồ
Kin-ne-rét, bên kia sông Gio-đan, về phía đông. 28 Các thành và làng
mạc của những thành ấy là gia nghiệp con cái ông Gát, theo các thị tộc của họ.
Nửa
chi tộc Mơ-na-se
29
Ông
Mô-sê đã ban một phần đất cho nửa chi tộc Mơ-na-se; đó là phần dành cho nửa chi
tộc Mơ-na-se, theo các thị tộc của họ. 30 Lãnh thổ của họ gồm có: từ
Ma-kha-na-gim, toàn miền Ba-san, toàn vương quốc của Ốc, vua Ba-san, mọi trại
của Gia-ia ở miền Ba-san, tức là sáu mươi thành. 31 Nửa miền
Ga-la-át, Át-ta-rốt và Ét-re-i, những thành trong vương quốc của vua Ốc ở
Ba-san; các thành ấy là phần của con cái ông Ma-khia, con ông Mơ-na-se, thực ra
là một nửa số con cái ông Ma-khia, theo các thị tộc của họ.
32
Ðó
là phần ông Mô-sê ban làm gia nghiệp, trong vùng thảo nguyên Mô-áp, bên kia
sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô, về phía đông. 33 Nhưng ông
Mô-sê không cho chi tộc Lê-vi được hưởng gia nghiệp. Chính Ðức Chúa, Thiên Chúa
của Ít-ra-en, là gia nghiệp của họ, như lời Người đã phán với họ.
Chương 14
3.
Ba Chi Tộc Lớn Ở Phía Tây Sông Gio-Ðan
Nhập
đề
1
Ðây
là phần gia nghiệp con cái Ít-ra-en đã lãnh nhận ở xứ Ca-na-an, phần gia nghiệp
mà tư tế E-la-da, ông Giô-suê con ông Nun, và những người đứng đầu gia tộc của
các chi tộc con cái Ít-ra-en, đã chia cho họ. 2 Chín chi tộc và một
nửa chi tộc đã bắt thăm và lãnh được gia nghiệp, theo mệnh lệnh của Ðức Chúa,
qua trung gian của ông Mô-sê. 3 Thật vậy, ông Mô-sê đã ban gia
nghiệp cho hai chi tộc và một nửa chi tộc ở bên kia sông Gio-đan; nhưng ông đã
không ban cho các người Lê-vi phần gia nghiệp giữa các chi tộc. 4 Ðó
là vì con cái ông Giu-se chia làm hai chi tộc: Mơ-na-se và Ép-ra-im; còn các
người Lê-vi thì không nhận được vùng đất trong xứ, ngoại trừ các thành để ở,
cùng với đồng cỏ cho súc vật và của cải thuộc về họ. 5 Ðức Chúa đã truyền
cho ông Mô-sê thế nào, thì con cái Ít-ra-en làm như vậy: họ đã phân chia đất
đai.
Phần
đất của ông Ca-lếp
6
Con
cái ông Giu-đa đến gần ông Giô-suê ở Ghin-gan. Ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne,
người Cơ-nát, nói với ông: "Ông biết lời Ðức Chúa đã phán với ông Mô-sê,
người của Thiên Chúa, về tôi và về ông ở Ca-đê Bác-nê-a. 7 Tôi được
bốn mươi tuổi khi ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, từ Ca-đê Bác-nê-a, sai tôi
đi do thám xứ này, và tôi đã thật lòng báo cáo cho ông ấy. 8 Những
người anh em cùng lên với tôi đã làm cho tâm thần của dân sợ hãi như muốn chảy
tan ra. Nhưng tôi đã trọn tình trọn nghĩa với Ðức Chúa, Thiên Chúa của tôi. 9
Ngày ấy, ông Mô-sê đã thề rằng: "Ðất mà chân anh dẫm lên chắc chắn
sẽ trở thành gia nghiệp của anh, của con cái anh cho đến muôn đời, vì anh đã
trọn tình trọn nghĩa với Ðức Chúa, Thiên Chúa của tôi. 10 Và bây
giờ, này Ðức Chúa đã để tôi sống như lời Người đã phán cách đây bốn mươi lăm
năm, kể từ khi Ðức Chúa nói lời đó với ông Mô-sê, thuở Ít-ra-en còn đi trong sa
mạc. Bây giờ, hôm nay đây tôi đã được tám mươi lăm tuổi. 11 Ngày hôm
nay, tôi vẫn còn khoẻ như ngày ông Mô-sê sai tôi đi. Sức lực tôi xưa thế nào,
bây giờ cũng vậy, để chiến đấu hay đi lại hoạt động. 12 Vậy giờ đây,
xin cho tôi núi này, núi Ðức Chúa đã nói đến trong ngày ấy, vì ông đã nghe nói
trong ngày ấy, là ở đấy có người A-nác và những thành trì kiên cố lớn lao. Nếu
Ðức Chúa ở với tôi, tôi sẽ xua đuổi chúng, như Ðức Chúa đã phán."
13
Ông
Giô-suê chúc phúc cho ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, và tặng Khép-rôn cho ông
làm gia nghiệp cho đến ngày nay. 14 Vì thế, Khép-rôn đã thành gia
nghiệp của ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, người Cơ-nát, vì ông đã trọn tình
trọn nghĩa với Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en.
15
Ngày
trước, tên của Khép-rôn là Kia-giát Ác-ba. Ác-ba là người cao lớn nhất trong
dân A-nác.
Và
xứ sở được sống yên hàn, hết nạn chiến tranh.
Chương 15
Chi
tộc Giu-đa
1
Phần
chi tộc con cái Giu-đa bắt thăm được, để chia cho các thị tộc của họ, nằm ở
vùng giáp giới Ê-đôm trong sa mạc Xin, về phía nam, mãi tận cùng phía nam. 2
Ranh giới phía nam khởi sự từ cuối Biển Muối, chỗ biển ăn sâu vào phía
nam, 3 đi về phía nam dốc Ác-ráp-bim, băng qua Xin, trở lên phía nam
Ca-đê Bác-nê-a, rồi đi qua Khét-rôn, lên Át-đa và quay sang Các-ca, 4 sau
đó băng qua Át-môn, tới Suối Ai-cập, và dừng lại ở biển. "Ðó sẽ là ranh
giới phía nam của các ngươi.” 5 Ranh giới phía đông là Biển Muối cho
đến cửa sông Gio-đan. Ranh giới phía bắc bắt đầu từ chỗ Biển Muối tiếp giáp với
cửa sông Gio-đan, 6 đi lên Bết Khoóc-la, băng qua phía bắc Bết Ha
A-ra-va, rồi lại đi lên tảng đá Bô-han, Bô-han là con ông Rưu-vên, 7 rồi
đi lên Ðơ-via, từ cánh đồng A-kho, và ở phía bắc quay về Ghin-gan đối diện với
dốc A-đum-mim nằm ở phía nam Suối, sau đó qua vùng nước Ên Se-mét, và đi tới Ên
Rô-ghên, 8 kế đó lại đi lên thung lũng Ben Hin-nôm cho tới sườn đồi
phía nam Giơ-vút, tức là Giê-ru-sa-lem. Ranh giới đó lên tận đỉnh núi đối diện
với thung lũng Hin-nôm về phía tây, ở cực bắc cánh đồng Ra-pha, 9 sau
đó, từ đỉnh núi, lượn về phía mạch nước Nép-tô-ác và đi về các thành vùng núi
Ép-rôn, rồi lượn về phía Ba-a-la, tức là Kia-giát Giơ-a-rim. 10 Từ
Ba-a-la, ranh giới đó quay sang phía tây đến núi Xê-ia, đi dọc theo sườn núi
Giơ-a-rim phía bắc, tức là Cơ-xa-lôn, xuống tới Bết Se-mét và băng qua Tim-na, 11
rồi đi về sườn núi Éc-rôn phía bắc, sau đó lượn về phía Sích-ca-rôn, băng
qua núi Ba-a-la, đến tận Giáp-nơ-ên và dừng lại ở biển.
12
Ranh
giới phía tây là Biển Lớn và miền duyên hải. Ðó là ranh giới chung quanh phần
đất con cái Giu-đa, chia theo các thị tộc của họ.
Con
cái ông Ca-lếp chiếm đất Khép-rôn (Tl 1 :10 -15)
13
Người
ta chia cho ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne một phần đất ở giữa con cái ông
Giu-đa, theo mệnh lệnh Ðức Chúa ban cho ông Giô-suê: Kia-giát Ác-ba, tức là
Khép-rôn, - Ác-ba là cha ông A-nác. 14 Ông Ca-lếp đã đuổi ra khỏi đó
ba người con của ông A-nác: Sê-sai, A-khi-man và Tan-mai là con cháu ông A-nác.
15 Từ đó, ông lên đánh dân cư thành Ðơ-via. Tên của Ðơ-via trước kia
là Kia-giát Xê-phe. 16 Ông Ca-lếp nói: "Ai đánh và chiếm được
Kia-giát Xê-phe, thì tôi sẽ gả Ác-xa con gái tôi cho người ấy.” 17 Ót-ni-ên
con ông Cơ-nát em ông Ca-lếp, đã chiếm được thành, và ông Ca-lếp đã gả Ác-xa
con gái mình cho Ót-ni-ên. 18 Khi cô ta đến, Ót-ni-ên liền xúi cô
xin cha một thửa ruộng. Cô xuống lừa, và ông Ca-lếp hỏi cô: "Chuyện gì thế
con?” 19 Cô thưa: "Xin cha cho con một món quà. Vì cha đã cho
con đất Ne-ghép, thì xin cũng cho con cả suối nước nữa." Và ông đã cho cô
suối trên suối dưới.
20
Ðó
là gia nghiệp của chi tộc con cái ông Giu-đa, theo các thị tộc của họ.
Danh
sách các thành của chi tộc Giu-đa
21
Các
thành ở cuối phần đất của chi tộc con cái Giu-đa, ở vùng giáp giới Ê-đôm trong
miền Ne-ghép, là:
22
Ki-na,
Ði-mô-na, Át-a-đa, 23 Ke-đét, Kha-xo, Gít-nan, 24 Díp,
Te-lem, Bơ-a-lốt, 25 Kha-xo Kha-đát-ta, Cơ-ri-giốt, Khét-rôn tức là
Kha-xo, 26 A-mam, Sơ-ma, Mô-la-đa, 27 Khát-xa Gát-đa,
Khét-môn, Bết Pe-lét, 28 Khát-xa Su-an, Bơ-e Se-va, Bít-giốt-gia, 29
Ba-a-la, I-gim, E-xem, 30 En-tô-lát, Cơ-xin, Khoóc-ma, 31
Xích-lắc, Mát-man-na, Xan-xan-na, 32 Lơ-va-ốt, Sin-khim, A-gin,
và Rim-môn: đó là hai mươi chín thành và làng mạc của các thành ấy.
33
Trong
vùng Sơ-phê-la, thì có:
34
Da-nô-ác,
Ên Gan-nim, Táp-pu-ác, Ha Ê-nam, 35 Giác-mút, A-đu-lam, Xô-khô,
A-dê-ca, 36 Sa-a-ra-gim, A-đi-tha-gim, Ha Gơ-đê-ra và
Gơ-đê-rô-tha-gim: đó là mười bốn thành và làng mạc của các thành ấy.
37
Xơ-nan,
Kha-đa-xa, Mích-đan Gát, 38 Ði-lơ-an, Ha Mít-pê, Gióc-thơ-ên, 39
La-khít, Bót-cát, Éc-lon, 40 Cáp-bôn, Lác-mát, Kít-lít, 41
Gơ-đê-rốt, Bết Ða-gôn, Na-a-ma, Mác-kê-đa: đó là mười sáu thành và làng mạc
của các thành ấy.
42
Líp-na,
E-the, A-san, 43 Gíp-tác, Át-na, Nơ-xíp, 44 Cơ-i-la,
Ác-díp, Ma-rê-sa: đó là chín thành và làng mạc của các thành ấy.
45
Éc-rôn
với các thành phụ thuộc và làng mạc của các thành ấy, 46 từ Éc-rôn
cho đến biển, tất cả những vùng bên cạnh Át-đốt và các làng mạc; 47 Át-đốt,
các thành phụ thuộc và làng mạc của thành đó; Ga-da, các thành phụ thuộc và
làng mạc của thành đó, cho đến Suối Ai-cập, Biển Lớn làm ranh giới.
48
Trong
vùng núi thì có:
49
Ðan-na,
Kia-giát Xan-na, tức là Ðơ-via, 50 A-náp, Ét-tơ-mô-a, A-nim, 51
Gô-sen, Khô-lôn và Ghi-lô: đó là mười một thành và làng mạc của các thành
ấy.
52
A-ráp,
Ðu-ma, Ét-an, 53 Gia-num, Bết Táp-pu-ác, A-phê-ca, 54 Khum-ta,
Kia-giát Ác-ba, tức là Khép-rôn, Xi-o: đó là chín thành và làng mạc của các
thành ấy.
55
Ma-ôn,
Các-men, Díp, Giút-ta, 56 Gít-rơ-en, Gióc-đơ-am, Da-nô-ác, 57 Ha-ca-gin,
Ghíp-a và Tim-na: đó là mười thành và làng mạc của các thành ấy.
58
Khan-khun,
Bết Xua, Gơ-đo, 59 Ma-a-rát, Bết A-nốt và En-tơ-côn: đó là sáu thành
và làng mạc của các thành ấy.
(Tơ-cô-a,
Ép-ra-tha tức là Bê-lem, Pơ-o, Ê-tham, Cu-lon, Ta-tam, Xo-rét,
60
Kia-giát
Ba-an tức là Kia-giát Giơ-a-rim, Ha Ráp-ba: đó là hai thành và làng mạc của các
thành ấy.
61
Trong
sa mạc thì có:
Bết
Ha A-ra-va, Mít-đin, Xơ-kha-kha, 62 Níp-san, Thành Muối và Ên
Ghe-đi: đó là sáu thành và làng mạc của các thành ấy.
63
Nhưng
con cái ông Giu-đa đã không thể xua đuổi được người Giơ-vút ở tại Giê-ru-sa-lem.
Người Giơ-vút ở với con cái ông Giu-đa, tại Giê-ru-sa-lem cho đến ngày nay.
Chương 16
Con
cái ông Giu-se
1
Phần
con cái ông Giu-se bắt thăm được khởi đầu từ sông Gio-đan đối diện với
Giê-ri-khô, đến vùng nước Giê-ri-khô, về phía đông, băng qua sa mạc từ
Giê-ri-khô lên đến núi Bết Ên, 2 rồi từ Bết Ên, tới Lút và đi về
phía ranh giới của người Ác-ki ở A-ta-rốt, 3 sau đó xuống phía tây,
hướng tới ranh giới của người Giáp-lết, cho đến ranh giới Bết Khô-rôn Hạ và đến
Ghe-de, rồi dừng lại ở biển. 4 Ðó là gia nghiệp của hai con ông
Giu-se là Mơ-na-se và Ép-ra-im.
Chi
tộc Ép-ra-im
5
Ranh
giới con cái Ép-ra-im theo các thị tộc của họ, ranh giới phần gia nghiệp của họ
phía đông là từ Át-rốt Át-đa cho đến Bết Khô-rôn Thượng. 6 Ranh giới
đó đi tới biển, phía bắc có Mích-mơ-thát, phía đông hướng về Ta-a-nát Si-lô,
rồi băng qua đó, đi về phía đông Gia-nô-ác. 7 Từ Gia-nô-ác, ranh
giới đó đi xuống A-ta-rốt và Na-a-ra, gặp Giê-ri-khô, và đi tới sông Gio-đan. 8
Từ Táp-pu-ác, ranh giới đó tiến về suối Ca-na ở mạn tây, rồi dừng lại ở
biển. Ðó là gia nghiệp của chi tộc con cái Ép-ra-im, theo các thị tộc của họ, 9
ngoài ra còn có những thành dành cho con cái Ép-ra-im nằm giữa gia nghiệp
con cái Mơ-na-se: tất cả những thành và làng mạc của các thành ấy. 10 Nhưng
họ đã không xua đuổi được người Ca-na-an ở tại Ghe-de. Người Ca-na-an ở lại
giữa Ép-ra-im cho đến ngày nay, nhưng phải lo làm việc khổ sai.
Chương 17
Chi
tộc Mơ-na-se
1
Vì
ông Mơ-na-se là con đầu lòng ông Giu-se nên phần chi tộc Mơ-na-se bắt thăm được
thì thuộc về ông Ma-khia, con đầu lòng ông Mơ-na-se, và là cha ông Ga-la-át; vì
là một chiến sĩ, ông đã nhận được miền Ga-la-át và Ba-san. 2 Rồi đến
phần các con khác của ông Mơ-na-se, chia theo các thị tộc của họ: con cái ông
A-vi-e-de, con cái ông Khê-léc, con cái ông Át-ri-ên, con cái ông Se-khem, con
cái ông Khê-phe, con cái ông Sơ-mi-đa. Ðó là các con trai, con cái ông
Mơ-na-se, cháu ông Giu-se, theo các thị tộc của họ. 3 Ông
Xơ-lóp-khát, con ông Khê-phe, cháu ông Ga-la-át, chắt ông Ma-khia, chít ông
Mơ-na-se, không có con trai mà chỉ có con gái, đây là tên các cô: Mác-la, Nô-a,
Khoóc-la, Min-ca và Tia-xa. 4 Các cô đến gặp tư tế E-la-da, ông
Giô-suê, con ông Nun, và đến gặp các thủ lãnh, rồi thưa: "Ðức Chúa đã
truyền cho ông Mô-sê phải cho chúng tôi một phần gia nghiệp ở giữa anh em chúng
tôi." Theo mệnh lệnh của Ðức Chúa, người ta trao cho các cô một phần gia
nghiệp ở giữa các anh em của cha các cô. 5 Vậy ông Mơ-na-se bắt
trúng thăm, nhận được mười phần đất, không kể miền Ga-la-át và Ba-san ở bên kia
sông Gio-đan. 6 Thật thế, các con gái thuộc chi tộc Mơ-na-se nhận
được một phần gia nghiệp ở giữa các con trai trong chi tộc. Còn miền Ga-la-át
thì thuộc về những con trai khác trong chi tộc Mơ-na-se.
7
Ranh
giới của chi tộc Mơ-na-se, giáp giới phần đất A-se, bắt đầu từ Mích-mơ-thát đối
diện với Si-khem, rồi đi về phía nam tới chỗ dân Ên Táp-pu-ác ở. 8 Xứ
Táp-pu-ác thuộc về Mơ-na-se, nhưng thành Táp-pu-ác nằm ở ranh giới Mơ-na-se thì
thuộc về con cái Ép-ra-im. 9 Sau đó, ranh giới ấy đi xuống phía suối
Ca-na; phía nam suối có những thành thuộc về Ép-ra-im, các thành này nằm giữa
các thành của Mơ-na-se. Ranh giới của Mơ-na-se thì ở phía bắc suối và dừng lại
ở biển. 10 Phía nam thuộc về Ép-ra-im; còn phía bắc thuộc về
Mơ-na-se có biển làm ranh giới, bắc giáp A-se và đông giáp Ít-xa-kha. 11 Trong
phần đất của Ít-xa-kha và A-se, chi tộc Mơ-na-se còn có Bết San và các thành
phụ thuộc, Gíp-lơ-am và các thành phụ thuộc; chi tộc đó cũng có các dân cư
thành Ðo và các thành phụ thuộc, các dân cư thành Ên Ðo và các thành phụ thuộc,
các dân cư thành Ta-nác và các thành phụ thuộc, các dân cư thành Mơ-ghít-đô và
các thành phụ thuộc, và một phần ba thành Ne-phét. 12 Nhưng con cái
ông Mơ-na-se đã không thể chiếm được các thành đó, và người Ca-na-an quyết ở
lại trong xứ. 13 Tuy nhiên, khi trở nên hùng mạnh, con cái Ít-ra-en
bắt người Ca-na-an phải lo làm việc khổ sai, nhưng không thể đuổi chúng đi
được.
Con
cái ông Giu-se khiếu nại
14
Con
cái ông Giu-se nói với ông Giô-suê: "Tại sao ông cho (chúng) tôi chỉ được
bắt thăm có một lần, chỉ được một phần đất làm gia nghiệp, trong khi (chúng)
tôi là một dân đông đảo? Cho đến bây giờ, Ðức Chúa vẫn ban phúc lành cho
(chúng) tôi."15 Ông Giô-suê nói: "Nếu anh (em) là một dân đông đảo,
thì hãy lên rừng, và tại đó, đốn cây mà ở trong xứ người Pơ-rít-di và Ra-pha,
vì núi Ép-ra-im quá nhỏ đối với anh (em).” 16 Con cái ông Giu-se
nói: "Ở núi không có đủ chỗ cho chúng tôi; vả lại, mọi người Ca-na-an ở
đồng bằng, cũng như người Ca-na-an ở Bết San và ở các thành phụ thuộc, và người
Ca-na-an ở cánh đồng Gít-rơ-en đều có xe sắt.” 17 Ông Giô-suê nói
với nhà Giu-se, với Ép-ra-im và Mơ-na-se: "Anh em là một dân đông đảo và
hùng mạnh. Anh (em) không chỉ bắt thăm được một phần đất mà thôi. 18 Anh
(em) sẽ nhận được một ngọn núi, đó là một khu rừng và anh (em) sẽ đốn cây đi;
anh (em) sẽ kiểm soát được các lối ra vào, bởi vì anh (em) sẽ đuổi người
Ca-na-an đi, mặc dầu chúng có xe (sắt) và mạnh mẽ.
Chương 18
4.
Bảy Chi Tộc Khác
Chia
đất cho bảy chi tộc khác
1
Toàn
thể cộng đồng con cái Ít-ra-en tụ họp ở Si-lô, nơi họ đặt Lều Hội Ngộ. Xứ sở
phải khuất phục họ. 2 Trong số con cái Ít-ra-en, chỉ còn bảy chi tộc
chưa nhận phần gia nghiệp của họ. 3 Ông Giô-suê nói với con cái
Ít-ra-en: "Cho đến bao giờ anh em còn lơ là không đi chiếm xứ mà Ðức Chúa,
Thiên Chúa của cha ông anh em, đã ban cho anh em? 4 Anh em hãy chỉ định ba
người trong mỗi chi tộc. Tôi sẽ sai họ đi, họ sẽ lên đường rảo khắp xứ và phác
hoạ địa hình để chia phần gia nghiệp, rồi trở lại với tôi. 5 Họ sẽ
phân chia xứ sở làm bảy vùng đất. Giu-đa sẽ ở lại trong lãnh thổ của mình ở
phía nam, còn nhà Giu-se sẽ ở lại trong lãnh thổ của mình ở phía bắc. 6 Anh
em sẽ phác hoạ địa hình xứ sở đã chia làm bảy vùng đất, rồi đem lại đây cho
tôi. Chính tại đây, tôi sẽ cho anh em bắt thăm trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa
chúng ta. 7 Các người thuộc chi tộc Lê-vi sẽ không có phần ở giữa
anh em, vì chức tư tế Ðức Chúa ban cho họ làm phần gia nghiệp của họ. Còn Gát
và Rưu-vên và nửa chi tộc Mơ-na-se thì đã nhận phần gia nghiệp của họ ở bên kia
sông Gio-đan, bên phía đông, phần gia nghiệp mà ông Mô-sê, tôi trung của Ðức
Chúa, đã cho họ."
8
Những
người đó trỗi dậy và đi. Ông Giô-suê đã truyền cho những người đi phác hoạ địa
hình của xứ và nói: "Anh em hãy đi rảo khắp xứ và phác hoạ địa hình, rồi
trở lại với tôi. Chính tại đây tôi sẽ cho anh em bắt thăm trước nhan Ðức Chúa,
tại Si-lô.” 9 Những người ấy đi khắp nơi trong xứ, phác hoạ địa
hình, phân chia các thành trong xứ làm bảy vùng đất và ghi vào sổ, rồi trở về
với ông Giô-suê ở trại Si-lô. 10 Ông Giô-suê cho họ bắt thăm tại
Si-lô, trước nhan Ðức Chúa, và ở đó ông Giô-suê chia đất đai cho con cái
Ít-ra-en, theo các phần đã phân phối.
Chi
tộc Ben-gia-min
11
Trước
hết, chi tộc con cái Ben-gia-min, theo các thị tộc của họ, bắt thăm được một
phần đất. Phần đất họ bắt thăm được nằm giữa phần đất con cái Giu-đa và con cái
Giu-se. 12 Ranh giới phía bắc khởi đầu từ sông Gio-đan, đi lên sườn
phía bắc Giê-ri-khô, rồi lên núi về phía tây và dừng lại ở sa mạc Bết A-ven. 13
Từ đó, ranh giới ấy đi về phía Lút, ở sườn phía nam, tức là Bết Ên, rồi
xuống Át-rốt Át-đa, trên ngọn núi ở phía nam Bết Khô-rôn Hạ. 14 Sau
đó, ranh giới lượn vòng và quay sang phía tây, hướng về phía nam từ núi đối
diện với Bết Khô-rôn ở phía nam, rồi dừng lại ở Kia-giát Ba-an, tức là Kia-giát
Giơ-a-rim, thành của con cái Giu-đa. Ðó là phía tây. 15 Về phía nam,
từ tận cùng Kia-giát Giơ-a-rim, ranh giới tiến về phía tây, tới mạch nước
Nép-tô-ác. 16 Ranh giới đi xuống cho đến hết ngọn núi đối diện với
thung lũng Ben Hin-nôm nằm trong cánh đồng Ra-pha ở phía bắc, rồi đi xuống
thung lũng Hin-nôm, bên sườn Giơ-vút ở phía nam, và đi xuống Ên Rô-ghên. 17
Sau đó, ranh giới lượn về phía bắc và tới Ên Se-mét, rồi tiến về
Gơ-li-lót đối điện với dốc A-đum-mim, đi xuống tảng đá Bô-han, Bô-han là con
ông Rưu-vên. 18 Ranh giới lại đi qua sườn phía bắc đối diện với
A-ra-va và đi xuống A-ra-va. 19 Rồi ranh giới đi qua sườn bắc Bết
Khoóc-la, dừng lại ở chỗ Biển Muối về phía bắc tiếp giáp với cửa sông Gio-đan
về phía nam. Ðó là ranh giới phía nam. 20 Sông Gio-đan làm thành
ranh giới phía đông. Ðó là phần gia nghiệp của con cái Ben-gia-min với ranh
giới chung quanh, chia theo các thị tộc của họ.
Các
thành của chi tộc Ben-gia-min
21
Các
thành của chi tộc con cái Ben-gia-min, theo các thị tộc của họ, là như sau:
Giê-ri-khô, Bết Khoóc-la, Ê-méc Cơ-xít, 22 Bết Ha A-ra-va, Xơ-ma-ra-gim,
23 Bết Ên A-vim, Pa-ra, Óp-ra, 24 Cơ-pha Ha Am-mô-ni,
Óp-ni, Ghe-va, - đó là mười hai thành và làng mạc của các thành ấy - 25
Ghíp-ôn, Ra-ma, Bơ-ê-rốt, 26 Ha Mít-pê, Cơ-phi-ra, Mốt-xa, 27 Re-kem,
Giếc-pơ-ên, Ta-ra-la, 28 Xê-la Ha-e-lép, Giơ-vút, tức là
Giê-ru-sa-lem, Ghíp-át, Kia-giát - đó là mười bốn thành và làng mạc của các
thành ấy -. Ðó là phần gia nghiệp của con cái Ben-gia-min, chia theo các thị
tộc của họ.
Chương 19
Chi
tộc Si-mê-ôn
1
Ông
Si-mê-ôn và chi tộc con cái Si-mê-ôn, tính theo các thị tộc của họ, bắt thăm
được phần thứ hai; phần gia nghiệp của họ nằm giữa phần gia nghiệp con cái
Giu-đa. 2 Phần gia nghiệp của họ gồm có: Bơ-e Se-va, Se-va, Mô-la-đa,
3 Khát-xa Su-an, Ba-la, E-xem, 4 En-tô-lát, Bơ-thun,
Khoóc-ma, 5 Xích-lắc, Bết Ha Mác-ca-vốt, Kha-xa Xu-xa, 6 Bết
Lơ-va-ốt, Sa-ru-khen, - đó là mười ba thành và làng mạc của các thành ấy -, 7
A-gin, Rim-môn, E-the, A-san, - đó là bốn thành và làng mạc của các thành
ấy -, 8 Cũng như mọi làng mạc chung quanh các thành đó cho đến
Ba-a-lát Bơ-e và Ra-mát Ne-ghép. Ðó là phần gia nghiệp của chi tộc con cái
Si-mê-ôn, chia theo các thị tộc của họ. 9 Phần gia nghiệp của con
cái Si-mê-ôn lấy từ phần đất của con cái Giu-đa, vì vùng đất này quá lớn đối
với con cái Giu-đa, nên con cái Si-mê-ôn nhận phần gia nghiệp ngay giữa gia
nghiệp của con cái Giu-đa.
Chi
tộc Dơ-vu-lun
10
Con
cái Dơ-vu-lun, theo các thị tộc của họ, bắt thăm được phần đất thứ ba. Ranh
giới phần gia nghiệp của họ đi đến tận Xa-rít, 11 đi lên về phía
tây, theo hướng Mác-a-la, gặp Ðáp-be-sét, rồi gặp suối đối diện với Gióc-nơ-am.
12 Từ Xa-rít, ranh giới đó trở về hướng đông, phía mặt trời mọc, cho
đến ranh giới Kít-lốt Ta-bo, tiến về Ða-vơ-rát và lên Gia-phia. 13 Từ
đó, ranh giới qua hướng đông, phía mặt trời mọc, ở Gát Khê-phe, ở Ít-ta Ca-xin,
đi tới Rim-môn và lượn về Nê-a. 14 Rồi ranh giới quay sang phía bắc
Khan-na-thôn và dừng lại ở thung lũng Gíp-tác Ên. 15 Ngoài ra, còn
có Cát-tát, Na-ha-lan, Sim-rôn, Gít-a-la và Bê-lem: đó là mười hai thành và
làng mạc của các thành ấy. 16 Các thành ấy và làng mạc của các thành
ấy là phần gia nghiệp của con cái Dơ-vu-lun, chia theo các thị tộc của họ.
Chi
tộc Ít-xa-kha
17
Ông
Ít-xa-kha và con cái ông, theo các thị tộc của họ bắt thăm được phần đất thứ tư.
18 Lãnh thổ của họ gồm có: Gít-rơ-en, Cơ-xu-lốt, Su-nêm, 19 Kha-pha-ra-gim,
Si-ôn, A-na-kha-rát, 20 Ha Ráp-bít, Kít-giôn, E-vét, 21 Re-mét,
Ên Gan-nim, Ên Khát-đa, Bết Pát-xết. 22 Ranh giới gặp Ta-bo,
Sa-kha-xi-ma và Bết Se-mét, rồi dừng lại ở sông Gio-đan: đó là mười sáu thành
và làng mạc của các thành ấy. 23 Các thành ấy và làng mạc của các
thành ấy là phần gia nghiệp của chi tộc con cái Ít-xa-kha, chia theo các thị
tộc của họ.
Chi
tộc A-se
24
Chi
tộc con cái A-se, theo các thị tộc của họ, bắt thăm được phần đất thứ năm. 25
Lãnh thổ của họ gồm có: Khen-cát, Kha-li, Be-ten, Ác-sáp, 26 A-lam-me-léc,
Am-át, Mi-sơ-an. Ranh giới đó gặp Các-men về phía tây và gặp Si-kho Líp-nát, 27
rồi lui về phía mặt trời mọc đến Bết Ða-gôn, gặp phần đất của Dơ-vu-lun
và thung lũng Gíp-tác Ên ở phía bắc, Bết Ha Ê-méc và Nơ-i-ên; ranh giới đó tiến
về Ca-vun ở phía trái, 28 tới Ép-rôn, Rơ-khốp, Kham-môn, Ca-na, cho
đến Xi-đôn Ðại Ðô. 29 Rồi ranh giới đó quay về Ra-ma, cho đến Tia,
một thành luỹ kiên cố, sau đó lại quay về Khô-xa và dừng lại ở Biển, ở
Mê-khe-ven, Ác-díp, 30 Um-ma, A-phếch và Rơ-khốp: đó là hai mươi
thành và các làng mạc của các thành ấy. 31 Các thành ấy và làng mạc
của các thành ấy là phần gia nghiệp của chi tộc con cái A-se, chia theo các thị
tộc của họ.
Chi
tộc Náp-ta-li
32
Con
cái Náp-ta-li, theo các thị tộc của họ, bắt thăm được phần đất thứ sáu. 33
Ranh giới của họ khởi đầu từ Khê-lép, từ cây Sồi ở Xa-a-nan-nim, đi qua
A-đa-mi Ha Ne-kép và Giáp-nơ-ên cho đến Lắc-cum, và dừng lại ở sông Gio-đan. 34
Rồi ranh giới đó quay về phía tây, đi qua Át-nốt Ta-vô, và từ đó đi tới
Khu-cốc, gặp phần đất của Dơ-vu-lun ở phía nam, gặp phần đất của A-se ở phía
tây và sông Gio-đan ở phía mặt trời mọc. 35 Các thành luỹ kiên cố
là: Hát-xít-đim, Xe, Kham-mát, Rắc-cát, Kin-ne-rét, 36 A-đa-ma,
Ra-ma, Kha-xo, 37 Ke-đét, Ét-re-i, Ên Kha-xo, 38 Giếc-ôn,
Mích-đan Ên, Kho-rem, Bết A-nát, Bết Se-mét: đó là mười chín thành và làng mạc
của các thành ấy. 39 Các thành ấy và các làng mạc của các thành ấy
là phần gia nghiệp của chi tộc con cái Náp-ta-li, chia theo các thị tộc của họ.
Chi
tộc Ðan
40
Chi
tộc con cái Ðan, theo các thị tộc của họ, bắt thăm được phần đất thứ bảy. 41
Lãnh thổ của phần gia nghiệp họ gồm có: Xo-rơ-a, Ét-ta-ôn, Ia Se-mét, 42
Sa-a-láp-bin, Ai-gia-lôn, Gít-la, 43 Ê-lôn, Tim-na, Éc-rôn, 44
En-tơ-kê, Ghíp-bơ-thôn, Ba-a-lát, 45 Giơ-hút, Bơ-nê Bơ-rắc,
Gát Rim-môn, 46 vùng nước Giác-côn, Rắc-côn, cùng với lãnh thổ đối
diện với Gia-phô. 47 Nhưng con cái Ðan vượt quá lãnh thổ của họ. Quả
thế, con cái Ðan tiến lên đánh Le-sem, chiếm thành này và dùng lưỡi gươm giết
chết cả thành. Họ chiếm thành và ở tại đó. Họ gọi Le-sem là Ðan, lấy tên Ðan,
cha của họ, mà đặt cho thành đó.
48
Các
thành ấy và làng mạc của các thành ấy là phần gia nghiệp của chi tộc con cái
Ðan, chia theo các thị tộc của họ.
49
Khi
đã chia xong đất đai theo ranh giới thành những phần gia nghiệp, con cái
Ít-ra-en tặng ông Giô-suê, con ông Nun, một phần gia nghiệp giữa họ. 50 Theo
mệnh lệnh của Ðức Chúa, họ tặng ông thành mà ông đã xin, là Tim-nát Xe-rác,
trong vùng núi Ép-ra-im: ông xây lại thành và ở tại đó.
5.
Kết Luận Về Việc Phân Chia Ðất Ðai
51
Ðó
là các phần gia nghiệp mà tư tế E-la-da, ông Giô-suê, con ông Nun, và các thủ
lãnh gia tộc của các chi tộc con cái Ít-ra-en đã dùng cách bắt thăm mà chia cho
họ ở Si-lô, trước nhan Ðức Chúa, tại cửa Lều Hội Ngộ. Như thế, họ đã làm xong
việc phân chia đất đai.
Chương 20
6.
Các Thành Ðặc Biệt
Các
thành trú ẩn
1
Ðức
Chúa phán với ông Giô-suê: 2 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en: Các
ngươi hãy chỉ định cho mình những thành trú ẩn, như Ta đã dùng Mô-sê làm trung
gian mà phán với các ngươi. 3 Một kẻ sát nhân đã làm thiệt mạng một
người vì vô ý, vì lầm lẫn, sẽ có thể đến đó nương náu; những thành ấy sẽ là nơi
các ngươi trú ẩn để thoát khỏi tay người đòi nợ máu. 4 Kẻ sát nhân
sẽ tới một trong các thành ấy mà nương náu, đứng ở lối vào cổng thành và trình
cho các kỳ mục trong thành nghe sự việc của mình; những người này sẽ nhận nó
vào thành ở với họ, và chỉ cho nó một nơi cư ngụ giữa họ. 5 Nếu
người đòi nợ máu lùng bắt kẻ sát nhân, thì họ sẽ không nộp nó vào tay người ấy,
vì kẻ sát nhân đã làm thiệt mạng người thân cận do lầm lẫn, chứ không phải vì
trước kia đã có hận thù với người này. 6 Kẻ sát nhân sẽ ở trong
thành này cho đến khi ra trước cộng đồng để chịu xét xử, hay cho đến khi thượng
tế đương chức qua đời. Khi đó kẻ sát nhân có thể trở về thành, về nhà của nó,
về thành nó đã bỏ trốn."
7
Người
ta đã thánh hiến Ke-đét ở Ga-li-lê trong miền núi Náp-ta-li, Si-khem trong miền
núi Ép-ra-im, và Kia-giát Ác-ba, tức là Khép-rôn trong miền núi Giu-đa. 8 Và
bên kia sông Gio-đan đối diện với Giê-ri-khô, về phía đông, người ta chọn Be-xe
thuộc chi tộc Rưu-vên trong sa mạc, trên vùng cao nguyên, chọn Ra-mốt thuộc chi
tộc Gát, trong vùng Ga-la-át, và Gô-lan thuộc chi tộc Mơ-na-se trong vùng
Ba-san. 9 Ðó là những thành chỉ định cho mọi con cái Ít-ra-en và
người ngoại kiều ở giữa họ, để phàm ai đã vô ý làm thiệt mạng người nào, thì có
thể tới đó nương náu và khỏi phải chết do tay người đòi nợ máu, cho đến khi ra
trước mặt cộng đồng.
Chương 21
Các
thành của người Lê-vi
1
Những
người đứng đầu các gia tộc Lê-vi tới gặp tư tế E-la-da, ông Giô-suê con ông
Nun, và những người đứng đầu gia tộc của các chi tộc con cái Ít-ra-en, 2 Si-lô
trong đất Ca-na-an, và thưa rằng: "Ðức Chúa đã dùng ông Mô-sê làm trung
gian mà truyền phải cấp cho chúng tôi những thành để ở, những đồng cỏ cho thú
vật của chúng tôi.” 3 heo lệnh của Ðức Chúa, con cái Ít-ra-en đã lấy
một phần gia nghiệp của họ mà cho những người Lê-vi các thành sau đây và đồng
cỏ phụ thuộc. 4 ác thị tộc người Cơ-hát bắt thăm được phần của mình:
con cái tư tế A-ha-ron, trong số những người Lê-vi, được mười ba thành thuộc
các chi tộc Giu-đa, Si-mê-ôn và Ben-gia-min. 5 Còn những người con
khác của ông Cơ-hát thì bắt thăm được mười thành thuộc những thị tộc của các
chi tộc Ép-ra-im, Ðan và một nửa chi tộc Mơ-na-se. 6 Các con ông
Ghéc-sôn bắt thăm được mười ba thành thuộc những thị tộc của các chi tộc
Ít-xa-kha, A-se, Náp-ta-li và một nửa chi tộc Mơ-na-se ở Ba-san. 7 Các
con ông Mơ-ra-ri, theo các thị tộc của họ, được mười hai thành thuộc chi tộc
Rưu-vên, chi tộc Gát và chi tộc Dơ-vu-lun.
8
Con
cái Ít-ra-en đã dùng cách bắt thăm mà cấp cho các người Lê-vi những thành này
cùng với các đồng cỏ, như Ðức Chúa đã truyền qua trung gian ông Mô-sê.
Phần
dành cho người Cơ-hát
9
Con
cái Ít-ra-en đã lấy của chi tộc con cái Giu-đa và chi tộc con cái Si-mê-ôn mà
cấp cho các người Lê-vi những thành được chỉ đích danh sau đây. 10 Ðó
là phần của con cái A-ha-ron thuộc các thị tộc Cơ-hát, trong hàng con cái
Lê-vi, vì họ đã bắt thăm được phần đầu tiên. 11 Người ta cấp cho họ
Kia-giát Ác-ba, tức là Khép-rôn, -Ác-ba là cha ông A-nác-, trong miền núi
Giu-đa và các đồng cỏ chung quanh. 12 Còn đồng ruộng và làng mạc phụ
thuộc, thì người ta cấp cho ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, làm sở hữu. 13
Người ta cấp cho con cái tư tế A-ha-ron thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là
Khép-rôn với các đồng cỏ, cũng như Líp-na với các đồng cỏ, 14 Giát-tia
với các đồng cỏ, Ét-tơ-mô-a với các đồng cỏ, 15 Khô-lôn với các đồng
cỏ, Ðơ-via với các đồng cỏ, 16 A-gin với các đồng cỏ, Giút-ta với
các đồng cỏ, Bết Se-mét với các đồng cỏ: đó là chín thành thuộc hai chi tộc ấy.
17 Người ta lấy của chi tộc Ben-gia-min mà cấp cho họ bốn thành:
Ghíp-ôn với các đồng cỏ, Ghe-va với các đồng cỏ, 18 A-na-thốt với
các đồng cỏ, An-môn với các đồng cỏ. 19 Tổng số các thành của các tư
tế con cái ông A-ha-ron là mười ba thành với các đồng cỏ.
20
Còn
các thị tộc con cái Cơ-hát, những người Lê-vi còn lại trong số con cái Cơ-hát,
thì bắt thăm được các thành thuộc chi tộc Ép-ra-im. 21 Người ta cấp
cho họ thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Si-khem với các đồng cỏ, trong vùng núi
Ép-ra-im, Ghe-de với các đồng cỏ, 22 Kíp-xa-gim với các đồng cỏ, Bết
Khô-rôn với các đồng cỏ: bốn thành. 23 Người ta lấy của chi tộc Ðan
mà cấp cho họ bốn thành: En-tơ-kê với các đồng cỏ, Ghíp-bơ-thôn với các đồng cỏ,
24 Ai-gia-lôn với các đồng cỏ, Gát Rim-môn với các đồng cỏ. 25 Người
ta lấy của một nửa chi tộc Mơ-na-se mà cấp cho họ hai thành: Ta-nác với các
đồng cỏ, Gíp-lơ-am với các đồng cỏ. 26 Tổng số là mười thành với các
đồng cỏ cho các thị tộc còn lại của con cái Cơ-hát.
Phần
dành cho các con ông Ghéc-sôn
27
Phần
dành cho các con ông Ghéc-sôn, thuộc các thị tộc Lê-vi, lấy của một nửa chi tộc
Mơ-na-se thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Gô-lan ở Ba-san với các đồng cỏ, cũng
như Bơ-ét-tơ-ra với các đồng cỏ: hai thành. 28 Người ta lấy của chi
tộc Ít-xa-kha mà cấp cho họ bốn thành: Kít-giôn với các đồng cỏ, Ða-vơ-rát với
các đồng cỏ, 29 Giác-mút với các đồng cỏ, Ên Gan-nim với các đồng cỏ.
30 Người ta lấy của chi tộc A-se mà cấp cho họ bốn thành: Mi-sơ-an
với các đồng cỏ, Áp-đôn với các đồng cỏ, 31 Khen-cát với các đồng
cỏ, Rơ-khốp với các đồng cỏ. 32 Người ta lấy của chi tộc Náp-ta-li
mà cấp cho họ ba thành: thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Ke-đét ở Ga-li-lê với
các đồng cỏ, Kham-mốt Ðo với các đồng cỏ, Các-tan với các đồng cỏ. 33 Tổng
số các thành của người Ghéc-sôn theo các thị tộc của họ là mười ba thành với
các đồng cỏ.
Phần
dành cho các con ông Mơ-ra-ri
34
Phần
dành cho các thị tộc con cái Mơ-ra-ri, các người Lê-vi còn lại, thì người ta
lấy của chi tộc Dơ-vu-lun bốn thành: Gióc-nơ-am với các đồng cỏ, Các-ta với các
đồng cỏ, 35 Ðim-na với các đồng cỏ, Na-ha-lan với các đồng cỏ. 36
Ở bên kia sông Gio-đan, người ta lấy của chi tộc Rưu-vên mà cấp cho họ
bốn thành: thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Be-xe trong sa-mạc, trên vùng cao
nguyên, với các đồng cỏ, Gia-hát với các đồng cỏ, 37 Cơ-đê-mốt với
các đồng cỏ, Mê-pha-át với các đồng cỏ. 38 Người ta lấy của chi tộc
Gát mà cấp cho họ tất cả là bốn thành: thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Ra-mốt
tại Ga-la-át với các đồng cỏ, Ma-kha-na-gim với các đồng cỏ, 39 Khét-bôn
với các đồng cỏ, Gia-de với các đồng cỏ. 40 Tổng số các thành dành
cho con cái Mơ-ra-ri theo các thị tộc của họ, cho các thị tộc Lê-vi còn lại,
các thành họ bắt thăm được, là mười hai thành.
41
Tổng
số các thành của người Lê-vi ở giữa các sở hữu của con cái Ít-ra-en là bốn mươi
tám thành và đồng cỏ phụ thuộc. 42 Mỗi thành trong số các thành đó
gồm có nội thành và đồng cỏ chung quanh. Tất cả mọi thành đó đều như thế.
7.
Tổng Kết Về Việc Phân Chia Ðất Ðai
Kết
luận về việc phân chia đất đai
43
Ðức
Chúa đã ban cho Ít-ra-en toàn miền đất mà Người đã thề là sẽ ban cho cha ông
họ. Họ đã chiếm được đất ấy và ở tại đó. 44 Ðức Chúa cho họ được
thảnh thơi mọi bề, đúng như Người đã thề với cha ông họ. Trong số mọi địch thù,
không ai chống nổi họ. Ðức Chúa đã nộp mọi địch thù vào tay họ. 45 Trong
mọi lời tốt lành Ðức Chúa đã phán với nhà Ít-ra-en, không một lời nào ra vô
hiệu: mọi lời đều ứng nghiệm.
Chương 22
III.
Cuối Ðời Ông Giô-Suê
1.
Các Chi Tộc Bên Kia Sông Gio-Ðan Trở Về.
Vấn
Ðề Bàn Thờ Của Họ.
Ðưa
quân của các chi tộc bên kia sông Gio-đan trở về
1
Bấy
giờ, ông Giô-suê triệu tập những người thuộc các chi tộc Rưu-vên, Gát và một
nửa chi tộc Mơ-na-se lại 2 và nói: "Anh em đã tuân giữ tất cả những gì ông
Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, đã truyền cho anh em, và anh em đã nghe lời tôi
mỗi khi tôi ra lệnh truyền cho anh em. 3 Cho đến nay, đã nhiều ngày
rồi, anh em đã không bỏ rơi anh em mình, và anh em đã cẩn thận giữ mệnh lệnh
của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em. 4 Giờ đây, Ðức Chúa, Thiên Chúa
của anh em, đã ban cho anh em của anh em được an cư lạc nghiệp, như Người đã
phán với họ. Vậy bây giờ anh em hãy quay lại và đi về lều trại của anh em,
trong phần đất thuộc quyền sở hữu của anh em, mà ông Mô-sê, tôi trung của Ðức
Chúa, đã ban cho anh em bên kia sông Gio-đan. 5 Tuy nhiên, anh em
hãy hết sức cẩn thận thi hành mệnh lệnh và Lề Luật mà ông Mô-sê, tôi trung của
Ðức Chúa, đã truyền cho anh em: đó là yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em,
đi theo mọi đường lối của Người, giữ các mệnh lệnh của Người, gắn bó với Người
và phụng sự Người hết lòng, hết linh hồn anh em.” 6 Ông Giô-suê chúc
phúc cho họ và tiễn họ về lều trại của họ.
7
Ông
Mô-sê đã cấp cho nửa chi tộc Mơ-na-se một phần đất ở Ba-san; ông Giô-suê cấp
cho nửa chi tộc kia một phần đất khác ở giữa anh em của họ bên kia sông
Gio-đan, về phía tây. Khi tiễn chân họ trở về lều trại của họ, ông Giô-suê cũng
chúc phúc cho họ 8 và nói: "Anh em hãy trở về lều trại mình với những tài
sản lớn, với đoàn súc vật hết sức đông đúc, với bạc, vàng, đồng và sắt, với
quần áo nhiều vô kể. Anh em hãy chia cho anh em mình chiến lợi phẩm lấy được
của địch thù."
Xây
bàn thờ trên bờ sông Gio-đan
9
Con
cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se, từ giã con cái Ít-ra-en ở
Si-lô, trong đất Ca-na-an, mà lên đường trở về xứ Ga-la-át trong phần đất thuộc
quyền sở hữu của họ, đất họ đã chiếm làm của riêng, theo lệnh của Ðức Chúa mà
ông Mô-sê đã truyền lại. 10 Khi đến vùng sông Gio-đan thuộc đất
Ca-na-an, con cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se xây ở đó một bàn
thờ bên bờ sông Gio-đan, một bàn thờ trông đồ sộ.
11
Nghe
tin đó, con cái Ít-ra-en nói: "Này con cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi
tộc Mơ-na-se đã xây bàn thờ đối diện với đất Ca-na-an, trong vùng sông Gio-đan,
quay về phía con cái Ít-ra-en.” 12 Nghe tin đó, toàn thể cộng đồng
con cái Ít-ra-en tụ họp ở Si-lô để tiến lên đánh họ.
Con
cái Ít-ra-en trách móc các chi tộc ở phía tây
13
Con
cái Ít-ra-en cử người đến gặp con cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc
Mơ-na-se ở xứ Ga-la-át. Ðó là ông Pin-khát, con của tư tế E-la-da 14 và mười
thủ lãnh cùng đi với ông, mỗi gia tộc trong mọi chi tộc Ít-ra-en một thủ lãnh.
Mỗi người đều đứng đầu gia tộc trong hàng ngũ Ít-ra-en. 15 Khi đến
với con cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se ở miền Ga-la-át, họ
nói rằng: 16 "Toàn thể cộng đồng của Ðức Chúa đã nói thế này:
Hôm nay anh em đã đắc tội với Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, và phản bội
Người, khi xây cho mình một bàn thờ. Hôm nay anh em đã nổi lên chống lại Người.
Sao lại có chuyện bất trung như vậy?
17
Chúng
ta đã phạm tội ở Pơ-o, như vậy chưa đủ sao? Cho đến ngày nay, chúng ta chưa gột
rửa được hết tội đó, mặc dầu tai ương đã giáng xuống cộng đồng của Ðức Chúa, 18
mà hôm nay anh em lại phản bội Ðức Chúa! Nếu hôm nay anh em nổi loạn
chống Ðức Chúa, thì ngày mai Người sẽ nổi cơn thịnh nộ với toàn thể cộng đồng
Ít-ra-en.
19
Nếu
phần đất thuộc quyền sở hữu của anh em là đất ô uế, anh em hãy qua bên vùng đất
thuộc quyền sở hữu của Ðức Chúa, nơi đặt Nhà Tạm của Ðức Chúa. Anh em hãy kiếm
đất làm sở hữu ở giữa chúng tôi. Nhưng chớ nổi lên chống Ðức Chúa, cũng đừng
nổi lên chống chúng tôi, mà xây một bàn thờ nào khác ngoài bàn thờ của Ðức
Chúa, Thiên Chúa chúng ta. 20 Khi A-khan, con cháu ông De-rác, phạm
tội bất trung lúc thi hành lệnh án biệt hiến, thì cơn thịnh nộ đã chẳng giáng
xuống toàn thể cộng đồng Ít-ra-en, chứ không phải chỉ một mình hắn đã mất mạng
vì tội mình đó sao?"
Các
chi tộc bên kia sông Gio-đan tự biện hộ
21
Con
cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se trả lời cho những người đứng
đầu hàng ngũ Ít-ra-en rằng: 22 "Ðức Chúa, Thần các thần, Ðức
Chúa, Thần các thần, chính Người biết, và Ít-ra-en cũng phải biết: Nếu đó là
một cuộc nổi loạn hay là một tội bất trung đối với Ðức Chúa, thì xin Người đừng
cứu chúng tôi hôm nay. 23 Nếu chúng tôi xây một bàn thờ để phản bội
Ðức Chúa, mà dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm, hay là dâng hy lễ kỳ an, thì xin
chính Ðức Chúa hỏi tội! 24 Nhưng không phải thế! Chúng tôi đã hành động như
vậy, vì lo âu trước một sự việc có thể xảy ra. Chúng tôi đã tự nhủ: Mai ngày,
con cái anh em có thể nói với con cái chúng tôi: Các anh có liên quan gì với
Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en? 25 Ðức Chúa đã đặt một ranh giới giữa chúng
tôi và các anh là con cái Rưu-vên và con cái Gát: đó là sông Gio-đan. Các anh
chẳng được chung phần với Ðức Chúa! Như thế, con cái anh em sẽ làm cho con cái
chúng tôi không còn kính sợ Ðức Chúa nữa!
26
Vì
vậy, chúng tôi tự nhủ: Ta hãy lo xây cho mình một bàn thờ, không phải để dâng
lễ toàn thiêu hoặc hy lễ, 27 nhưng để làm bằng chứng giữa chúng tôi
và anh em, giữa dòng dõi đôi bên, rằng chúng tôi chỉ lo việc phụng thờ Ðức
Chúa, với các lễ toàn thiêu, hy lễ và lễ kỳ an của chúng tôi, khi ở trước nhan
Người. Như thế, mai ngày con cái anh em sẽ không thể nói với con cái chúng tôi:
Các anh chẳng được chung phần với Ðức Chúa. 28 Chúng tôi tự nhủ: Giả
sử mai ngày họ nói như thế với chúng tôi, với chúng tôi hay dòng dõi chúng tôi,
thì chúng tôi sẽ nói: Hãy coi bàn thờ này, cha ông chúng tôi đã xây rập theo
mẫu bàn thờ kính Ðức Chúa, không phải để dâng lễ toàn thiêu hoặc hy lễ, mà là
để làm bằng chứng giữa chúng tôi và các anh. 29 Chúng tôi không hề
có ý muốn nổi lên chống Ðức Chúa và phản bội Người hôm nay, khi xây một bàn thờ
khác để dâng lễ toàn thiêu, lễ phẩm và hy lễ, ngoài bàn thờ kính Ðức Chúa, Thiên
Chúa chúng ta, ở trước Nhà Tạm của Người."
Hai
bên thoả hiệp với nhau
30
Sau
khi nghe con cái Rưu-vên, con cái Gát và con cái Mơ-na-se nói những lời ấy, tư
tế Pin-khát, các thủ lãnh của cộng đồng và những người đứng đầu hàng ngũ
Ít-ra-en cùng đi với ông, lấy làm vừa ý. 31 Ông Pin-khát, con của tư
tế E-la-da, nói với con cái Rưu-vên, con cái Gát và con cái Mơ-na-se: "Hôm
nay, chúng tôi biết là Ðức Chúa ngự giữa chúng ta, vì anh em đã không phạm tội
bất trung đó đối với Ðức Chúa; vì thế, anh em đã cứu con cái Ít-ra-en khỏi tay
Ðức Chúa."
32
Ông
Pin-khát, con của tư tế E-la-da, và các thủ lãnh từ giã con cái Rưu-vên, và con
cái Gát ở xứ Ga-la-át, mà trở về với con cái Ít-ra-en ở đất Ca-na-an, và kể lại
cho họ nghe sự việc. 33 Con cái Ít-ra-en lấy làm vừa ý về sự việc
đó. Con cái Ít-ra-en chúc tụng Thiên Chúa và không còn nói đến chuyện tiến lên
đánh con cái Rưu-vên và con cái Gát, để tàn phá vùng đất họ ở. 34 Con
cái Rưu-vên và con cái Gát gọi bàn thờ là "Bằng chứng", vì, theo họ
nói, "bàn thờ làm chứng giữa chúng ta rằng Ðức Chúa là Thiên Chúa."
Chương 23
2.
Diễn Từ Cuối Cùng Của Ông Giô-Suê
Ông
Giô-suê tóm kết công trình của mình
1
Lâu
ngày sau khi Ðức Chúa ban cho Ít-ra-en được thảnh thơi mọi bề, không còn thù
địch nào nữa, và khi ông Giô-suê đã già, tuổi đã cao, 2 thì ông
triệu tập toàn thể Ít-ra-en, các kỳ mục, những người đứng đầu, các thủ lãnh và
ký lục, rồi nói: "Tôi đã già nua tuổi tác. 3 Phần anh em, anh
em đã chứng kiến mọi sự mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, giáng xuống trên
mọi dân đó vì anh em, bởi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã chiến đấu cho anh
em. 4 Anh em xem! Tôi đã cho các chi tộc của anh em bắt thăm được
đất của các dân còn sót lại đó làm gia nghiệp, cũng như của mọi dân tôi đã quét
sạch, từ sông Gio-đan cho đến Biển Lớn, phía mặt trời lặn. 5 Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ đẩy lui chúng cho khuất mắt anh em, sẽ trục
xuất chúng đi cho khuất mắt anh em. Anh em sẽ chiếm lấy đất đai của chúng, theo
như lời Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em đã phán.
Phải
sống thế nào giữa các dân ngoại
6
Vậy
anh em phải thật cương quyết tuân giữ và thực hành tất cả những gì ghi trong
Sách Luật Mô-sê, không đi trệch bên phải bên trái, 7 không lui tới
với những dân ấy, những dân còn sót lại giữa anh em. Anh em đừng kêu tên các
thần của chúng, đừng lấy tên các thần ấy mà thề. Ðừng phụng thờ chúng, đừng sụp
xuống lạy chúng. 8 Trái lại, anh em sẽ chỉ gắn bó với Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh em, như anh em đã làm cho đến ngày nay. 9 Ðức
Chúa đã trục xuất những dân lớn mạnh cho khuất mắt anh em, và không ai đã đứng
vững trước mặt anh em cho đến ngày nay. 10 Chỉ một người trong anh
em mà đuổi được cả ngàn người, vì chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, chiến
đấu cho anh em, theo lời Người đã phán với anh em. 11 Anh em phải
hết sức chú tâm yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em.
12
Nhưng
nếu anh em phản bội Ðức Chúa và gắn bó với những dân còn sót lại đang ở với anh
em đó, nếu anh em kết duyên kết nghĩa với chúng, nếu anh em lui tới với chúng
và chúng lui tới với anh em, 13 thì hãy biết chắc rằng Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh em, sẽ không còn tiếp tục trục xuất các dân đó cho khuất mắt
anh em: chúng sẽ thành dò lưới và cạm bẫy hại anh em, thành roi quất vào sườn
và gai đâm vào mắt, cho đến khi anh em biến khỏi mảnh đất tốt này mà Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh em, đã ban cho anh em.
14
Hôm
nay đây tôi bước vào đoạn đường mà mọi người trên đời này phải đi qua. Anh em
hãy nhìn nhận với tất cả tấm lòng và tâm hồn, là trong mọi lời tốt lành mà Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã phán với anh em, không một lời nào đã ra vô hiệu:
mọi sự đã ứng nghiệm cho anh em; không một lời nào đã ra vô hiệu.
15
Như
mọi lời tốt lành mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã phán hứa cho anh em đều
ứng nghiệm, thì Ðức Chúa cũng sẽ làm cho mọi lời nguyền rủa anh em được ứng
nghiệm, cho đến khi anh em bị tiêu diệt khiến anh em không còn trên mảnh đất
tốt này mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã ban cho anh em.
16
Nếu
anh em vi phạm giao ước mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh
em phải giữ, để đi phụng thờ các thần khác và sụp xuống lạy chúng, thì Ðức Chúa
sẽ bừng bừng nổi cơn thịnh nộ chống lại anh em, và anh em sẽ mau chóng biến
khỏi đất tốt lành Người đã ban cho anh em."
Chương 24
3.
Ðại Hội Si-Khem
1
Ông
Giô-suê quy tụ ở Si-khem mọi chi tộc Ít-ra-en và triệu tập các kỳ mục Ít-ra-en,
các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ đứng trước nhan Thiên Chúa. 2 Ông
Giô-suê nói với toàn dân: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế
này: "Thuở xưa, khi còn ở bên kia Sông Cả, cha ông các ngươi, cho đến
Te-rác là cha của Áp-ra-ham và của Na-kho, đã phụng thờ các thần khác. 3 Ta
đã đem cha các ngươi là Áp-ra-ham từ bên kia Sông Cả mà dẫn đi khắp đất
Ca-na-an. Ta đã cho dòng dõi nó nên đông đúc và ban I-xa-ác cho nó. 4 Ta
đã ban Gia-cóp và Ê-xau cho I-xa-ác. Ta cho Ê-xau chiếm hữu núi Xê-ia. Còn
Gia-cóp và các con thì xuống Ai-cập. 5 Ta đã sai Mô-sê và A-ha-ron
đi; Ta đã dùng những việc Ta làm ở Ai-cập mà đánh phạt nước ấy, rồi Ta đã đưa
các ngươi ra khỏi đó. 6 Ta đã đưa cha ông các ngươi ra khỏi Ai-cập
và các ngươi đã tới biển. Người Ai-cập, với chiến xa và kỵ binh, đuổi theo cha
ông các ngươi cho đến Biển Sậy. 7 Họ kêu lên Ðức Chúa; Người cho
sương mù sa xuống giữa các ngươi và người Ai-cập, Người cho biển ập xuống vùi
lấp chúng đi. Mắt các ngươi đã chứng kiến những việc Ta đã làm ở Ai-cập. Các
ngươi đã ở lại lâu ngày trong sa mạc. 8 Ta đã đem các ngươi vào đất
người E-mô-ri. Chúng ở bên kia sông Gio-đan. Chúng đã giao chiến với các ngươi,
nhưng Ta đã nộp chúng vào tay các ngươi. Các ngươi đã chiếm đất của chúng, và
Ta đã tiêu diệt chúng trước mắt các ngươi. 9 Rồi Ba-lác, con của
Xíp-po, vua Mô-áp, đã đứng lên giao chiến với Ít-ra-en. Ba-lác đã cho mời
Bi-lơ-am, con của Bơ-o, đến nguyền rủa các ngươi. 10 Nhưng Ta đã
không muốn nghe Bi-lơ-am. Nó đã phải chúc phúc cho các ngươi, và Ta đã giải
thoát các ngươi khỏi tay Ba-lác.
11
Các
ngươi đã qua sông Gio-đan và tới Giê-ri-khô. Những người làm chủ Giê-ri-khô
giao chiến với các ngươi: đó là người E-mô-ri, Pơ-rít-di, Ca-na-an, Khết,
Ghia-ga-si, Khi-vi và Giơ-vút. Nhưng Ta đã nộp chúng vào tay các ngươi. 12
Ta đã thả ong bầu bay đi trước các ngươi; chúng đuổi hai vua E-mô-ri đi
cho khuất mắt các ngươi; chính ong bầu chứ không phải cung kiếm của (các) ngươi
đã đuổi chúng. 13 Ta ban cho các ngươi đất (các) ngươi đã không vất
vả khai phá, những thành các ngươi đã không xây mà được ở, những vườn nho và
vườn ô-liu các ngươi đã không trồng mà được ăn."
Ít-ra-en
chọn Ðức Chúa
14
"Bây
giờ anh em hãy kính sợ Ðức Chúa, hãy chân thành và trung tín phụng thờ Người.
Anh em hãy vất bỏ các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả và ở
Ai-cập, và hãy phụng thờ Ðức Chúa. 15 Nếu anh em không bằng lòng
phụng thờ Ðức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các
thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người
E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ
phụng thờ Ðức Chúa."
16
Dân
đáp lại: "Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Ðức Chúa để phụng thờ các thần
khác! 17 Vì chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với
cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi
những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi,
giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. 18 Ðức Chúa đã đuổi cho
khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người E-mô-ri ở trong xứ. Về phần
chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Ðức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng
tôi."
19
Ông
Giô-suê nói với dân: "Anh em sẽ không thể phụng thờ Ðức Chúa, vì Người là
Thiên Chúa thánh thiện, Thiên Chúa ghen tương; Người sẽ không dung thứ tội phản
nghịch cũng như tội lỗi của anh em đâu. 20 Nếu anh em lìa bỏ Ðức
Chúa để phụng thờ các thần ngoại, Người sẽ quay lại chống anh em, giáng hoạ
xuống anh em và tiêu diệt anh em, dù trước đây Người đã giáng phúc cho anh
em."
21
Dân
nói với ông Giô-suê: "Không đâu, chúng tôi quyết phụng thờ Ðức Chúa!” 22
Ông Giô-suê nói với dân: "Anh em hãy cam đoan với chính mình là anh
em đã chọn Ðức Chúa để phụng thờ." Họ nói: "Xin cam đoan!” 23 Ông
Giô-suê nói: "Bây giờ, anh em hãy vứt bỏ các thần ngoại đang ở với anh em,
và hướng lòng về Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en.” 24 Dân nói với
ông Giô-suê: "Chúng tôi sẽ phụng thờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi,
và chúng tôi sẽ nghe lời Người."
Giao
ước Si-khem
25
Trong
ngày ấy, ông Giô-suê thay mặt dân kết giao ước, ông đưa ra quy luật và điều
luật ở Si-khem. 26 Ông Giô-suê viết những lời đó trong Sách Luật của
Thiên Chúa. Ông lấy một tảng đá lớn và dựng ở đó, dưới cây sồi trong nơi thánh
của Ðức Chúa. 27 Ông Giô-suê nói với toàn dân: "Ðây, tảng đá
này sẽ làm chứng về những điều chúng ta đã cam đoan, vì nó đã nghe mọi lời Ðức
Chúa phán với chúng ta. Nó sẽ làm chứng về những điều anh em đã cam đoan, kẻo
anh em chối bỏ Thiên Chúa của anh em.” 28 Ông Giô-suê giải tán dân
chúng, ai nấy trở về phần đất họ đã nhận làm gia nghiệp.
4.
Phụ Lục
Ông
Giô-suê qua đời
29
Sau
những biến cố đó, tôi trung của Ðức Chúa là ông Giô-suê, con ông Nun, từ trần,
thọ một trăm mười tuổi. 30 Người ta chôn cất ông tại thửa đất ông đã
nhận được làm gia nghiệp ở Tim-nát Xe-rác, trong vùng núi Ép-ra-im; phía bắc
núi Ga-át. 31 Ít-ra-en đã phụng thờ Ðức Chúa suốt thời gian ông
Giô-suê và các kỳ mục đến sau ông còn sống; những người này biết tất cả công
trình Ðức Chúa đã thực hiện cho Ít-ra-en.
Hài
cốt ông Giu-se. Tư tế E-la-da qua đời.
32
Hài
cốt ông Giu-se mà con cái Ít-ra-en đã đem lên từ Ai-cập, thì được chôn cất ở
Si-khem, trong thửa ruộng ông Gia-cóp đã mua của con ông Kha-mo, cha ông
Si-khem, với giá một trăm đồng bạc; đó là phần gia nghiệp của con cái ông
Giu-se. 33 Còn ông E-la-da, con ông A-ha-ron, sau khi chết thì được
chôn cất trên ngọn đồi của con ông là ông Pin-khát; đồi này đã được cấp cho ông
Pin-khát trong miền núi Ép-ra-im.
Thủ Lãnh
Chương 01
Lời
Dẫn Thứ Nhất
Kể
Sơ Lược Về Cuộc Ðịnh Cư Tại Ca-Na-An
Cuộc
định cư của Giu-đa, Si-mê-ôn, Ca-lếp và Kê-ni (Gs 15:13 -19)
1
Sau
khi ông Giô-suê từ trần, con cái Ít-ra-en đã thỉnh ý Ðức Chúa rằng: "Ai
trong chúng con sẽ lên đương đầu với quân Ca-na-an trước tiên để giao tranh với
chúng?” 2 Ðức Chúa phán: "Giu-đa sẽ lên: Này Ta đã trao đất ấy
vào tay nó.” 3 Giu-đa liền nói với Si-mê-ôn, anh mình, rằng:
"Mời anh cùng tôi lên phần đất tôi đã trúng thăm; chúng ta cùng chiến đấu
chống quân Ca-na-an; tới lượt tôi, tôi sẽ cùng anh đi đến phần đất anh đã trúng
thăm." Và Si-mê-ôn đã cùng đi với ông ta. 4 Vậy Giu-đa đi lên;
Ðức Chúa đã trao quân Ca-na-an và quân Pơ-rít-di vào tay họ; và tại Be-déc, họ
đã đánh bại mười ngàn người của chúng. 5 Họ đã gặp A-đô-ni Be-déc
tại Be-déc; họ liền tấn công y, đánh tan quân Ca-na-an và quân Pơ-rít-di. 6
A-đô-ni Be-déc tháo chạy, nhưng họ đã đuổi theo bắt được y, và chặt ngón
tay cái và ngón chân cái của y. 7 A-đô-ni Be-déc nói: "Bảy mươi
vua bị chặt ngón tay cái và ngón chân cái, đã ăn mót dưới gầm bàn của tôi. Tôi
đã xử sự thế nào, thì Thiên Chúa cũng xử lại với tôi như vậy." Họ đưa y
vào Giê-ru-sa-lem và y đã chết tại đó. 8 Con cái Giu-đa đã tấn công
Giê-ru-sa-lem, chiếm lấy thành, dùng gươm giết và nổi lửa đốt thành.
9
Sau
đó con cái Giu-đa đã xuống tấn công người Ca-na-an bấy giờ đang ở trên núi, ở
vùng Ne-ghép và vùng Sơ-phê-la. 10 Giu-đa cũng tiến đánh quân
Ca-na-an bấy giờ đang ở Khép-rôn, -tên của Khép-rôn trước kia là Kia-giát
Ác-ba- và họ đã đánh bại Sê-sai, A-khi-man và Tan-mai. 11 Từ đấy họ
tiến đánh dân cư thành Ðơ-via -tên của Ðơ-via trước kia là Kia-giát Xê-phe. 12
Ông Ca-lếp nói: "Ai đánh và chiếm được Kia-giát Xê-phe, tôi sẽ gả
Ác-xa con gái tôi cho người ấy.” 13 Ót-ni-ên con ông Cơ-nát, em ông
Ca-lếp, đã chiếm được thành; và ông Ca-lếp đã gả Ác-xa con gái mình cho
Ót-ni-ên. 14 Khi cô ta đến, Ót-ni-ên liền xúi cô xin cha một thửa
ruộng. Cô xuống lừa, và ông Ca-lếp hỏi cô: "Chuyện gì thế con?” 15 Cô
thưa: "Xin cha cho con một món quà: vì cha đã cho con đất Ne-ghép, thì xin
cũng cho con cả suối nước nữa." Ông Ca-lếp đã cho cô suối trên suối dưới. 16
Con cái ông Kê-ni, nhạc phụ ông Mô-sê, đã từ Thành Chà Là cùng với con
cái Giu-đa đi lên sa mạc Giu-đa, trong vùng Ne-ghép A-rát. Họ đã đi và đến ở
với dân ấy. 17 Giu-đa đã đi với Si-mê-ôn anh mình. Họ tấn công quân
Ca-na-an bấy giờ đang ở Xơ-phát và đã tru diệt chúng. Người ta đã gọi tên thành
ấy là Khoóc-ma. 18 Rồi Giu-đa chiếm Ga-da và vùng lân cận, chiếm
Át-cơ-lôn và vùng lân cận, chiếm Éc-rôn và vùng lân cận. 19 Ðức Chúa
phù trợ Giu-đa và ông đã chiếm giữ vùng núi; nhưng ông không trục xuất được dân
cư vùng đồng bằng, vì chúng có xe sắt. 20 Các ông đã cứ lời ông
Mô-sê mà giao Khép-rôn cho ông Ca-lếp, và ông này đã đuổi ba người con của
A-nác ra khỏi đó. 21 Còn những người Giơ-vút cư ngụ tại
Giê-ru-sa-lem, thì con cái Ben-gia-min đã không đánh đuổi họ; vì thế những
người Giơ-vút vẫn ở với con cái Ben-gia-min tại Giê-ru-sa-lem cho tới ngày nay.
Chiếm
Bết Ên
22
Nhà
Giu-se cũng tiến lên Bết Ên và Ðức Chúa ở với họ. 23 Nhà Giu-se đã
cho người do thám Bết Ên -tên thành này trước kia là Lút. 24 Các
thám tử gặp một người đàn ông từ trong thành đi ra, liền nói với người ấy:
"Chỉ cho chúng tôi lối vào thành; chúng tôi sẽ xử khoan hồng với anh!” 25
Người ấy chỉ cho họ lối vào thành, và họ đã dùng gươm tàn sát cả thành;
còn người ấy cùng với cả thị tộc thì họ để cho đi. 26 Người ấy ra đi
đến đất người Khết, xây một thành và đặt tên là Lút. Ðó là tên của thành ấy cho
tới ngày nay.
Các
chi tộc phía bắc
27
Mơ-na-se
không đánh thắng được Bết San và các vùng phụ thuộc, cũng như Ta-nác và các
vùng phụ thuộc, cũng chẳng đánh thắng được dân cư thành Ðo và các vùng phụ
thuộc, dân cư thành Gíp-lơ-am và các vùng phụ thuộc, dân cư thành Mơ-ghít-đô và
các vùng phụ thuộc. Người Ca-na-an quyết ở lại trong đất đó. 28 Nhưng
khi Ít-ra-en trở nên hùng cường, thì bắt người Ca-na-an làm nô dịch cho mình,
chứ không trục xuất được chúng. 29 Ép-ra-im không trục xuất được
người Ca-na-an cư ngụ ở Ghe-de, và người Ca-na-an vẫn sống giữa họ ở Ghe-de. 30
Dơ-vu-lun không trục xuất được dân cư thành Kít-rôn và dân cư thành
Na-ha-lôn; người Ca-na-an vẫn sống giữa họ, nhưng phải làm nô dịch cho họ. 31
A-se không trục xuất được dân cư thành Ác-cô, dân cư thành Xi-đôn,
Ác-láp, Ác-díp, Khen-ba, A-phích và Rơ-khốp. 32 Thế là người A-se cư
ngụ giữa người Ca-na-an đang sống trên đất ấy, vì họ đã không trục xuất được
chúng. 33 Náp-ta-li không trục xuất được dân cư thành Bết Se-mét và
dân cư thành Bết A-nát, nên họ cư ngụ giữa người Ca-na-an đang sống trong đất
ấy, nhưng dân cư thành Bết Se-mét và Bết A-nát đã phải làm nô dịch cho họ. 34
Người E-mô-ri đã dồn con cháu Ðan lên vùng núi, không để cho họ xuống
đồng bằng. 35 Người E-mô-ri quyết giữ vững Ha Khe-rét, Ai-gia-lôn và
Sa-an-vim; nhưng khi bàn tay nhà Giu-se đè nặng trên chúng, thì chúng đã phải
làm nô dịch cho họ. 36 Ranh giới của người E-mô-ri chạy dài từ dốc Ác-ráp-bim,
từ Núi Ðá trở lên.
Chương 02
Thần
sứ của Ðức Chúa cho Ít-ra-en biết trước những điều bất hạnh
1
Thần
sứ của Ðức Chúa từ Ghin-gan lên Bô-khim và nói: "Ta đã đưa các ngươi lên
từ Ai-cập và dẫn vào đất Ta đã thề ban cho tổ tiên các ngươi. Ta đã phán: Chẳng
bao giờ Ta phá huỷ Giao Ước của Ta với các ngươi. 2 Còn các ngươi
thì không được kết ước với dân cư trong xứ này; phải triệt hạ các bàn thờ của
chúng. Nhưng các ngươi đã không nghe lời Ta. Các ngươi đã làm gì thế? 3 Vậy Ta
bảo: Ta sẽ không đuổi chúng cho khuất mắt các ngươi, và chúng sẽ sống kè kè bên
các ngươi; các thần của chúng sẽ là cạm bẫy cho các ngươi.” 4 Khi
thần sứ của Ðức Chúa nói những lời ấy cho toàn thể con cái Ít-ra-en, thì dân oà
lên khóc. 5 Thế là người ta đặt tên cho nơi ấy là Bô-khim và họ đã
tế lễ kính Ðức Chúa tại đó.
Lời
Dẫn Thứ Hai
Nhận
Ðịnh Tổng Quát Về Thời Các Thủ Lãnh
Cuối
đời ông Giô-suê
6
Bấy
giờ ông Giô-suê giải tán dân chúng, và con cái Ít-ra-en ai nấy về nơi mình đã
trúng thăm làm gia nghiệp, để chiếm hữu đất đai. 7 Dân đã phục vụ
Ðức Chúa suốt thời ông Giô-suê và suốt thời các kỳ mục là những người sống lâu
sau ông Giô-suê, và đã chứng kiến tất cả những công cuộc vĩ đại Ðức Chúa đã
thực hiện cho Ít-ra-en. 8 Ông Giô-suê, con ông Nun, tôi trung của
Ðức Chúa, từ trần, thọ một trăm mười tuổi. 9 Người ta chôn cất ông
tại thửa đất ông đã nhận được làm gia nghiệp ở Tim-nát Khe-rét trong vùng núi
Ép-ra-im, phía bắc núi Ga-át. 10 Khi đến lượt cả thế hệ ấy về sum
họp với tổ tiên mình, thì xuất hiện một thế hệ kế tiếp không hề biết Ðức Chúa
và những công cuộc Người đã thực hiện cho Ít-ra-en.
Ý
nghĩa tôn giáo thời các thủ lãnh
11
Con
cái Ít-ra-en đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, và đã làm tôi các thần Ba-an. 12
Họ đã lìa bỏ Ðức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên, Ðấng đã đưa họ ra khỏi đất
Ai-cập, và họ đã đi theo các thần ngoại lai trong số các thần của các dân chung
quanh. Họ sụp lạy các thần ấy và chọc giận Ðức Chúa. 13 Họ đã lìa bỏ
Ðức Chúa để làm tôi thần Ba-an và các nữ thần Át-tô-rét. 14 Ðức Chúa
nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và đã trao họ vào tay quân cướp cho chúng tha hồ
bóc lột; Người đã trao họ vào tay kẻ thù chung quanh, nên họ không thể đương
đầu nổi với kẻ thù. 15 Cứ mỗi lần họ xuất trận là tay Ðức Chúa giáng
hoạ trên họ, như Ðức Chúa đã phán và thề với họ. Họ lâm cảnh khốn cùng.
16
Bấy
giờ Ðức Chúa cho xuất hiện các thủ lãnh để giải thoát họ khỏi tay những kẻ cướp
phá họ. 17 Nhưng rồi các thủ lãnh của họ, họ cũng chẳng nghe mà cứ
đàng điếm với các thần ngoại lai và sụp lạy các thần đó. Họ vội từ bỏ con đường
cha ông họ đã đi, là tuân giữ mệnh lệnh của Ðức Chúa; họ đã không noi gương các
ngài. 18 Khi Ðức Chúa cho xuất hiện các thủ lãnh để giúp họ, thì Ðức
Chúa ở với vị thủ lãnh và Người cứu họ khỏi tay quân thù bao lâu vị thủ lãnh
còn sống, vì Ðức Chúa động lòng trắc ẩn trước những tiếng than khóc của họ, khi
họ bị đàn áp và ức hiếp. 19 Nhưng sau khi vị thủ lãnh qua đời thì họ
lại ra hư đốn hơn cả cha ông họ. Họ chạy theo các thần ngoại lai để làm tôi và
sụp lạy chúng, chứ không từ bỏ những hành vi và đường lối ngoan cố của họ.
Lý
do tồn tại của chư dân
20
Ðức
Chúa nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en; Người phán: "Vì lũ dân này đã vi phạm
giao ước Ta đã truyền cho cha ông chúng phải giữ, và chúng đã không nghe tiếng
Ta, 21 nên trong số các dân mà Giô-suê còn để lại khi từ trần, Ta cũng
sẽ không đuổi một dân nào cho khuất mắt chúng. 22 Ta sẽ dùng các dân
ấy để thử thách Ít-ra-en, xem chúng có tuân giữ đường lối Ðức Chúa như cha ông
chúng đã tuân giữ hay không. 23 Vậy Ðức Chúa đã để cho các dân ấy
tiếp tục tồn tại mà không vội trục xuất chúng, cũng chẳng trao chúng vào tay
ông Giô-suê.
Chương 03
1
Ðây
là các dân Ðức Chúa cho tồn tại, để dùng chúng mà thử thách tất cả những người
Ít-ra-en đã không biết các cuộc chiến tại Ca-na-an là gì, 2 chỉ cốt
cho các thế hệ con cái Ít-ra-en biết học việc binh đao, ít là cho những kẻ
trước đây chưa biết. 3 Năm vương hầu Phi-li-tinh và tất cả các người
Ca-na-an, người Xi-đôn, người Khi-vi ở trên vùng núi Li-băng, từ núi Ba-an
Khéc-môn đến Cửa Ải Kha-mát. 4 Chúng còn đó để thử thách Ít-ra-en,
xem họ có tuân giữ mệnh lệnh Ðức Chúa đã dùng ông Mô-sê mà truyền cho cha ông
họ hay không. 5 Vậy con cái Ít-ra-en đã sống giữa người Ca-na-an,
người Khết, người E-mô-ri, người Pơ-rít-di, người Khi-vi và người Giơ-vút. 6
Và họ đã cưới con gái của chúng, cũng như gả con gái mình cho chúng, và
họ đã làm tôi các thần của chúng.
Sự
Tích Các Thủ Lãnh
1.
Ông Ót-Ni-Ên
7
Con
cái Ít-ra-en đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa. Họ đã lìa bỏ Ðức Chúa, Thiên
Chúa của họ, và làm tôi các thần Ba-an và nữ thần A-sê-ra. 8 Ðức
Chúa nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và đã trao họ vào tay Cu-san Rít-a-tha-gim,
vua A-ram Na-ha-ra-gim; con cái Ít-ra-en đã làm tôi Cu-san Rít-a-tha-gim tám
năm.
9
Con
cái Ít-ra-en kêu lên Ðức Chúa và Ðức Chúa cho xuất hiện một vị cứu tinh là ông
Ót-ni-ên, con ông Cơ-nát, em ông Ca-lếp, để cứu con cái Ít-ra-en; ông Ót-ni-ên
đã giải thoát họ. 10 Thần khí của Ðức Chúa ở trên ông, và ông đã
lãnh đạo Ít-ra-en. Ông xuất trận và Ðức Chúa đã trao Cu-san Rít-a-tha-gim, vua
A-ram, vào tay ông, và tay ông đè nặng lên Cu-san Rít-a-tha-gim. 11 Bấy
giờ lãnh thổ được bình an bốn mươi năm. Sau đó ông Ót-ni-ên, con ông Cơ-nát, từ
trần.
2.
Ông Ê-Hút
12
Con
cái Ít-ra-en lại làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, và Ðức Chúa đã tăng cường sức
mạnh cho Éc-lon, vua Mô-áp, chống Ít-ra-en, vì họ đã làm điều dữ trái mắt Ðức
Chúa. 13 Ông đã phối hợp với con cái Am-mon và A-ma-lếch, rồi tiến
quân, đánh bại Ít-ra-en và chiếm lấy Thành Chà Là của họ. 14 Con cái
Ít-ra-en phải làm tôi Éc-lon, vua Mô-áp, mười tám năm.
15
Bấy
giờ con cái Ít-ra-en kêu lên Ðức Chúa, Ðức Chúa liền cho xuất hiện một vị cứu
tinh là ông Ê-hút, con ông Ghê-ra, người Ben-gia-min, một người thuận tay trái.
Vậy con cái Ít-ra-en nhờ ông mang cống lễ nộp cho Éc-lon, vua Mô-áp. 16 Ông
Ê-hút làm cho mình một chiếc gươm hai lưỡi, dài một gô-mét, và cột dưới áo bên
hông phải. 17 Ông mang cống lễ nộp cho Éc-lon, vua Mô-áp; Éc-lon là
một người béo phị. 18 Sau khi đã trao cống lễ, ông cho đám người
mang cống lễ đi ra. 19 Còn chính ông, người đã viếng các tượng đá ở
Ghin-gan trở về, thì nói: "Thưa ngài, tôi có một điều bí mật muốn thưa với
ngài." Vua nói: "Im lặng!" Tất cả mọi người túc trực bên vua đều
ra ngoài. 20 Bấy giờ ông Ê-hút tới gần vua, lúc ấy đang ngồi ở phòng
mát phía trên dành riêng cho vua, và ông Ê-hút nói: "Tôi có một lời của
Thiên Chúa phải nói cho ngài." Vua liền bỏ ghế đứng lên. 21 Ông
Ê-hút thò tay trái, rút chiếc gươm từ hông phải, thọc vào bụng vua 22 lút cán,
mỡ bám chặt lưỡi gươm - vì ông Ê-hút không rút gươm khỏi bụng vua - và lưỡi
gươm lòi ra đằng mông. 23 Ông Ê-hút qua hành lang mà đi ra, sau khi
đã đóng các cửa phòng trên và khoá lại.
24
Ông
vừa đi ra thì các đầy tớ vua đi vào. Họ thấy các cửa phòng trên vẫn khoá thì
nói: "Hẳn là vua đang mắc việc cần trong phòng sau.” 25 Họ đợi
hoài mà không thấy mở cửa phòng trên; nên sau cùng họ lấy chìa khoá mở phòng
ra, thì kìa tôn chủ của họ nằm chết sóng sượt dưới đất.
26
Phần
ông Ê-hút đã tẩu thoát, lúc họ còn đang chờ. Ông đi qua các tượng đá mà trốn
chạy về hướng Ha Xơ-i-ra. 27 Vừa tới nơi, ông liền rúc tù và vang
khắp núi Ép-ra-im. Con cái Ít-ra-en cùng với ông từ núi tràn xuống; chính ông
đi tiên phong. 28 Ông bảo họ: "Hãy theo tôi, vì Ðức Chúa đã
trao vào tay anh em kẻ thù của anh em là người Mô-áp." Họ đi theo ông,
chiếm giữ các lối qua sông Gio-đan, không để lọt một người Mô-áp nào. 29 Thời
kỳ ấy họ hạ được khoảng mười ngàn người Mô-áp, tất cả những kẻ cường tráng và
dũng cảm, không sót một tên. 30 Ngày hôm ấy, Mô-áp đã bị bàn tay
Ít-ra-en hạ nhục, và lãnh thổ được bình an tám mươi năm.
3.
Ông Sam-Ga
31
Sau
ông là ông Sam-ga, con ông A-nát, ông đã dùng gậy thúc bò đánh giết sáu trăm
người Phi-li-tinh. Ông cũng là một vị cứu tinh của Ít-ra-en.
Chương 04
4.
Bà Ðơ-Vô-Ra Và Ông Ba-Rắc
1
Con
cái Ít-ra-en lại làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa sau khi ông Ê-hút từ trần, 2
nên Ðức Chúa trao họ vào tay Gia-vin, vua Ca-na-an, trị vì tại Kha-xo.
Tướng chỉ huy quân đội của ông là Xi-xơ-ra, cư ngụ ở Kha-rô-sét Ha Gô-gim.
3
Con
cái Ít-ra-en kêu lên Ðức Chúa, vì ông Gia-vin có đến chín trăm xe sắt, và ông
đã đàn áp con cái Ít-ra-en một cách tàn bạo suốt hai mươi năm trường.
Bà
Ðơ-vô-ra
4
Bà
Ðơ-vô-ra, một nữ ngôn sứ, vợ ông Láp-pi-đốt, thời ấy làm thủ lãnh xét xử
Ít-ra-en. 5 Bà ngồi xử dưới Cây Chà Là Ðơ-vô-ra, giữa Ra-ma và Bết
Ên, trên núi Ép-ra-im, và con cái Ít-ra-en đến với bà để bà xét xử cho. 6 Bà
sai người mời ông Ba-rắc, con ông A-vi-nô-am, từ Ke-đét thuộc Náp-ta-li tới, và
nói với ông: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, lại không nói với ông thế
này sao? Hãy đi chiêu mộ trong vùng núi Ta-bo lấy mười ngàn người trong số con
cái Náp-ta-li và trong số con cái Dơ-vu-lun để đi với ngươi. 7 Ta sẽ
dụ tướng Xi-xơ-ra, chỉ huy quân đội vua Gia-vin tiến về phía ngươi, bên suối
Ki-sôn, cùng với chiến xa và quân binh của nó, và Ta sẽ trao nó vào tay ngươi.”
8 Ông Ba-rắc nói với bà: "Nếu bà đi với tôi thì tôi đi, nếu bà
không đi với tôi thì tôi không đi.” 9 Bà trả lời: "Chắc chắn
tôi sẽ đi với ông. Có điều là trong chuyến đi này, vinh dự không thuộc về ông,
vì Ðức Chúa sẽ trao Xi-xơ-ra vào tay một người đàn bà." Bà Ðơ-vô-ra chỗi
dậy đi với ông Ba-rắc đến Ke-đét. 10 Ông Ba-rắc triệu tập Dơ-vu-lun
và Náp-ta-li tiến về Ke-đét. Mười ngàn người theo chân ông, cả bà Ðơ-vô-ra cũng
đi với ông.
Ông
Khe-ve, người Kê-ni
11
Ông
Khe-ve, người Kê-ni, đã tách khỏi Ca-in, khỏi con cái ông Khô-váp, nhạc phụ ông
Mô-sê, và đã dựng lều bên cây sồi tại Xa-an-na-gim, gần Ke-đét.
Xi-xơ-ra
bị đánh bại
12
Người
ta báo tin cho Xi-xơ-ra rằng: "Ông Ba-rắc, con ông A-vi-nô-am, đã lên núi
Ta-bo". 13 Tướng Xi-xơ-ra liền tập trung tất cả các chiến xa,
chín trăm xe sắt và toàn bộ lực lượng dưới quyền ông, đưa từ Kha-rô-sét Ha
Gô-gim đến suối Ki-sôn. 14 Bấy giờ bà Ðơ-vô-ra nói với ông Ba-rắc:
"Ðứng lên! Vì đây là ngày Ðức Chúa trao Xi-xơ-ra vào tay ông. Ðức Chúa lại
không xuất trận trước mặt ông sao?" Ông Ba-rắc từ núi Ta-bo đi xuống với
mười ngàn quân theo sau. 15 Ðức Chúa dùng gươm của ông Ba-rắc đánh
Xi-xơ-ra cùng với chiến xa và toàn thể doanh trại của ông này, khiến tất cả
phải tán loạn trước mặt ông Ba-rắc. Xi-xơ-ra tụt khỏi xe và chạy bộ mà trốn. 16
Ông Ba-rắc truy kích đoàn xe và quân binh cho đến Kha-rô-sét Ha Gô-gim.
Tất cả quân binh của Xi-xơ-ra đều ngã gục dưới lưỡi gươm của ông Ba-rắc, không
sót một tên.
Xi-xơ-ra
bị giết
17
Xi-xơ-ra
chạy bộ trốn về phía lều bà Gia-ên, vợ ông Khe-ve, người Kê-ni, vì lúc ấy đang
có hoà bình giữa Gia-vin, vua Kha-xo, với nhà Khe-ve, người Kê-ni. 18 Bà
Gia-ên ra đón Xi-xơ-ra, và nói với ông: "Thưa ngài, xin dừng lại, xin dừng
lại nơi đây, đừng sợ!" Ông dừng lại, đi theo bà vào lều; bà lấy tấm thảm
phủ lên ông. 19 Ông nói với bà: "Cho tôi xin chút nước uống, vì
tôi khát quá." Bà liền mở vò sữa, cho ông uống, rồi lại phủ kín ông. 20
Ông nói với bà: "Xin bà đứng ở cửa lều, hễ ai đến hỏi có người nào ở
đây không, thì bà nói: "Không.” 21 Nhưng bà Gia-ên, vợ ông
Khe-ve, lấy cái cọc lều, tay cầm búa, lặng lẽ đến bên Xi-xơ-ra, đóng cọc vào
màng tang ông, xuyên xuống đất, đang lúc ông ngủ say vì mệt. Thế là ông chết. 22
Ðang lúc ấy, ông Ba-rắc truy nã Xi-xơ-ra vừa tới, thì bà Gia-ên ra đón
ông và nói: "Lại đây, tôi cho ông xem người ông đang tìm." Ông đi
theo bà, thì này, Xi-xơ-ra nằm chết với cái cọc xuyên màng tang.
Ít-ra-en
được giải thoát
23
Hồi
đó Thiên Chúa hạ nhục Gia-vin, vua Ca-na-an, trước mặt con cái Ít-ra-en. 24
Bàn tay con cái Ít-ra-en ngày càng đè nặng trên Gia-vin, vua Ca-na-an,
cho đến khi họ tiễu trừ được Gia-vin, vua Ca-na-an.
Chương 05
Bài
ca của bà Ðơ-vô-ra và ông Ba-rắc
1
Ngày
hôm ấy bà Ðơ-vô-ra và ông Ba-rắc, con ông A-vi-nô-am, hát rằng:
2
"Trong
Ít-ra-en thuở chiến binh xoã tóc xung phong,
thuở
toàn dân tình nguyện lên đường,
các
bạn ơi, nào chúc tụng Ðức Chúa!
3
Nghe
đây, hỡi các vua! Hãy lắng tai, này các thủ lãnh!
Tôi
sẽ hát lên mừng Ðức Chúa,
sẽ
đàn ca kính Người là Thiên Chúa của Ít-ra-en.
4
Thân
lạy Ðức Chúa, khi Ngài ra khỏi Xê-ia,
khi
Ngài từ ruộng đồng Ê-đôm xuất phát,
thì
trái đất chuyển rung, các tầng trời tan chảy,
mây
cũng tan chảy thành mưa.
5
Núi
đồi chấn động trước nhan Ðức Chúa,
Xi-nai
cũng chấn động trước nhan Người
là
Thiên Chúa của Ít-ra-en.
6
Thời
Sam-ga, con ông A-nát,
thời
Gia-ên, còn đâu những đoàn khách lữ hành!
Những
kẻ xưa kia đi trên quan lộ
nay
lần mò theo những lối quanh co.
7
Trong
Ít-ra-en không còn thủ lãnh,
không
còn nữa cho tới khi bà đứng lên, hỡi bà Ðơ-vô-ra
bà
đứng lên, hỡi mẹ hiền trong Ít-ra-en!
8
Khi
người ta chọn những thần mới,
bấy
giờ chiến tranh đến ngay trước cửa,
khiên
mộc chẳng thấy, gươm giáo cũng không
trong
tay bốn mươi ngàn quân Ít-ra-en.
9
Lòng
tôi ngưỡng mộ các nhà chỉ huy Ít-ra-en,
những
kẻ trong dân tình nguyện lên đường.
Các
bạn ơi, nào chúc tụng Ðức Chúa!
10
Hỡi
những ai cỡi lừa trắng,
hỡi
những kẻ ngồi thảm hoa,
hỡi
khách bộ hành, hát lên đi!
11
Những
người chia nhau chiến lợi phẩm bên bồn nước,
hãy
cất tiếng ca ngợi hồng ân của Ðức Chúa,
những
hồng ân Người ban cho thủ lãnh Ít-ra-en,
bấy
giờ dân của Ðức Chúa ùa xuống các cửa.
12
Phấn
khởi lên! Phấn khởi lên nào! Ðơ-vô-ra hỡi!
Phấn
khởi lên! Phấn khởi lên nào! Hát một bài ca!
Ðứng
lên! Hỡi Ba-rắc!
Bỏ
tù kẻ bỏ tù ông! Hỡi con của A-vi-nô-am!
13
Bấy
giờ Ít-ra-en xuống cửa vì chính nghĩa của mình,
dân
của Ðức Chúa đã xuống như những vị anh hùng.
14
Các
lãnh tụ Ép-ra-im ở trong thung lũng,
trong
hàng ngũ theo ông, có Ben-gia-min.
Các
vị chỉ huy xuất thân từ Ma-khia,
từ
Dơ-vu-lun, những người nắm côn trượng.
15
Các
lãnh tụ Ít-xa-kha theo bà Ðơ-vô-ra.
Náp-ta-li
trung thành với Ba-rắc,
chạy
theo vết chân ông trong thung lũng.
Trong
các thị tộc của Rưu-vên,
bàn
bạc thì thật là sôi nổi!
16
"Sao
bạn cứ ở lì trong hốc đá, mải nghe tiếng sáo bên đàn chiên?
Trong
các thị tộc của Rưu-vên,
bàn
bạc thì thật là sôi nổi!
17
Ga-la-át
ở lại bên kia sông Gio-đan,
còn
Ðan, sao cứ sống trên tàu bè?
A-se
thì định cư miền duyên hải,
trong
các hải cảng, vẫn cứ nhởn nhơ!
18
Dơ-vu-lun,
dân coi nhẹ cái chết,
cùng
với Náp-ta-li, trên điểm cao chiến trường.
19
Các
vua đã tới, đã giao tranh,
các
vua Ca-na-an đã giao tranh
tại
Ta-nác, bên dòng suối Mơ-ghít-đô.
Chúng
đã không cướp được bạc làm chiến lợi phẩm.
20
Từ
trời cao, tinh tú đã giao tranh,
từ
trên quỹ đạo, tinh tú chống lại Xi-xơ-ra.
21
Dòng
suối Ki-sôn đã cuốn trôi chúng,
dòng
suối ngàn xưa, suối Ki-sôn.
Dũng
cảm tiến lên, hồn ta hỡi!
22
Bấy
giờ vó ngựa vang rền trên mặt đất,
đoàn
thiên lý mã phi nhanh, phi thật nhanh.
23
"Hãy
nguyền rủa Mê-rốt - thần sứ Ðức Chúa nói -,
nguyền
rủa, nguyền rủa các dân cư của nó.
Vì
chúng đã không đến yểm trợ Ðức Chúa,
yểm
trợ Ðức Chúa với các bậc anh hùng.
24
Phúc
thay bà Gia-ên, phu nhân ông Khe-ve, người Kê-ni,
hơn
các phụ nữ,
hơn
các phụ nữ trong lều trại, bà thật là có phúc.
25
Y
xin nước, bà cho sữa.
Bà
dâng sữa béo trong chén quý của hàng thượng lưu.
26
Rồi
tay trái cầm lấy chiếc cọc,
còn
tay phải nắm búa công nhân,
đánh
Xi-xơ-ra, đập cho bể đầu,
và
đâm thủng màng tang.
27
Dưới
chân bà, y ngã quỵ, té nhào, nằm sóng sượt,
dưới
chân bà, y ngã quỵ, té nhào;
ngã
quỵ nơi nào, té nhào nơi ấy, nằm bất động.
28
Qua
cửa sổ, một bà khác nghiêng mình kêu la,
đó
là mẹ của Xi-xơ-ra, nói qua song cửa:
"Sao
xe của con tôi mãi không về?
Sao
đoàn xe trận của con tôi về chậm thế?
29
Công
chúa khôn ngoan nhất của bà đã trả lời,
và
bà cứ nhẩm đi nhắc lại:
30
"Chắc
họ đã gặp may, và đang chia nhau chiến lợi phẩm:
một
hai nàng cho mỗi chiến binh,
và
nhiễu điều làm chiến lợi phẩm cho Xi-xơ-ra.
Một
hai tấm nhiễu điều thêu sặc sỡ,
choàng
lên cổ của người toàn thắng.
31
Lạy
Ðức Chúa! Mọi kẻ thù của Ngài
đều
tiêu vong như thế!
Còn
những ai yêu mến Ngài,
xin
cho họ rạng rỡ như mặt trời hừng đông."
Và
lãnh thổ bình an bốn mươi năm.
Chương 06
5.
Ông Ghít-Ôn Và Ông A-Vi-Me-Léc
A.
Thiên Chúa gọi ông Ghít-ôn
Người
Ma-đi-an áp bức dân Ít-ra-en
1
Con
cái Ít-ra-en đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, nên Ðức Chúa đã trao họ vào tay
người Ma-đi-an trong bảy năm. 2
Một
ngôn sứ can thiệp
7
Khi
con cái Ít-ra-en kêu lên Ðức Chúa về người Ma-đi-an, 8 thì Ðức Chúa
đã sai một vị ngôn sứ đến với con cái Ít-ra-en. Ông nói với họ: "Ðức Chúa,
Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này: Chính Ta đã đưa các ngươi lên khỏi
Ai-cập, đã kéo các ngươi ra khỏi nhà nô lệ, 9 đã giải thoát các
ngươi khỏi tay Ai-cập, khỏi tay mọi kẻ áp bức các ngươi, và đã đuổi chúng cho
khuất mắt các ngươi, đã ban cho các ngươi đất đai của chúng. 10 Và
Ta đã phán với các ngươi: Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi. Các ngươi
không được kính sợ các thần của người E-mô-ri, khi các ngươi cư ngụ trên đất
của chúng. Nhưng các ngươi đã không nghe tiếng Ta."
Thần
sứ của Ðức Chúa hiện ra với ông Ghít-ôn
11
Thần
sứ của Ðức Chúa đến và ngồi dưới cây tùng ở Óp-ra. Cây này là của ông Giô-át, thuộc
gia đình A-vi-e-de. Con ông là Ghít-ôn bấy giờ đang đập lúa trong bồn đạp nho
để tránh mặt người Ma-đi-an. 12 Thần sứ Ðức Chúa hiện ra với ông và
nói: "Chào chiến sĩ can trường! Ðức Chúa ở với ông.” 13 Ông
Ghít-ôn đáp: "Ôi, thưa Ngài, nếu Ðức Chúa ở với chúng tôi, thì sao chúng
tôi đến nông nỗi này? Ðâu cả rồi những kỳ công mà cha ông đã kể lại cho chúng
tôi nghe, rằng: chẳng phải Ðức Chúa đã đưa chúng ta lên khỏi Ai-cập sao? Thế mà
bây giờ Ðức Chúa đã bỏ rơi chúng tôi, trao chúng tôi vào tay người Ma-đi-an."
14
Bấy
giờ Ðức Chúa quay lại nhìn ông và nói: "Hãy mạnh bạo lên đường cứu
Ít-ra-en khỏi tay quân Ma-đi-an. Không phải chính Ta sai ngươi sao?” 15 Nhưng
ông đáp: "Ôi, thưa Ngài, con lấy gì mà cứu Ít-ra-en? Này dòng họ con thấp
kém nhất trong chi tộc Mơ-na-se, mà con lại nhỏ nhất trong nhà cha con.” 16
Ðức Chúa phán với ông: "Ta sẽ ở với ngươi, và ngươi sẽ đánh quân
Ma-đi-an như đánh có một người.” 17 Ông thưa: "Nếu Ngài thương
con thì xin cho con một dấu chứng tỏ Ngài đang nói với con. 18 Xin
Ngài đừng rời khỏi đây cho tới khi con trở lại, mang theo của lễ đặt trước nhan
Ngài." Người phán: "Ta sẽ ở lại cho tới khi ngươi trở về."
19
Ông
Ghít-ôn đi bắt một con dê non làm thịt, và lấy hai thùng bột làm mấy chiếc bánh
không men. Thịt thì ông để trong một cái rổ, còn nước cốt thì đựng trong một
cái thố. Rồi ông mang đến cho Người ở dưới cây tùng. Khi ông đến gần, 20 thì
Thần sứ Thiên Chúa nói với ông: "Hãy lấy thịt và bánh không men đặt trên
tảng đá này và rưới nước cốt lên." Ông đã làm như thế.
21
Thần
sứ của Ðức Chúa giơ đầu gậy đang cầm trong tay đụng vào thịt và bánh không men,
lửa liền từ tảng đá bốc lên, đốt cháy hết thịt cùng bánh không men. Thần sứ Ðức
Chúa biến khỏi mắt ông. 22 Ông Ghít-ôn thấy đó chính là Thần sứ Ðức
Chúa. Ông Ghít-ôn nói: "Chết tôi rồi, lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng của tôi,
vì tôi đã thấy Thần sứ Ðức Chúa nhãn tiền!” 23 Nhưng Ðức Chúa phán
với ông: "Bình an cho ngươi! Ðừng sợ: ngươi không chết đâu.” 24 Tại
đó ông Ghít-ôn xây một bàn thờ kính Ðức Chúa, và ông gọi nơi ấy là Ðức Chúa -
Bình an. Cho đến ngày nay, bàn thờ ấy vẫn còn tại Óp-ra, đất của gia đình
A-vi-e-de.
Ông
Ghít-ôn triệt hạ Ba-an
25
Một
đêm kia Ðức Chúa phán bảo ông: "Hãy lấy con bò mộng của cha ngươi, con bò
bảy tuổi, rồi phá huỷ bàn thờ Ba-an của cha ngươi và chặt đứt cây cột thần bên
cạnh. 26 Ngươi sẽ xây bàn thờ kính Ðức Chúa, Thiên Chúa ngươi, trên
đỉnh của nơi kiên cố này, sắp xếp sao cho gọn ghẽ. Ngươi sẽ lấy con bò và dâng
làm lễ toàn thiêu với gỗ cây cột thần ngươi đã chặt.” 27 Vậy ông
Ghít-ôn mang theo mười người đầy tớ và làm như Ðức Chúa đã nói với ông. Tuy
nhiên, vì sợ người nhà của cha mình và những người trong thành, ông không dám
làm ban ngày, nên đã làm ban đêm. 28 Sáng hôm sau, khi những người
trong thành thức dậy, thì kìa bàn thờ Ba-an đã bị triệt hạ, cây cột thần cạnh
đó đã bị chặt, và con bò mộng thứ hai đã được dâng làm lễ toàn thiêu trên bàn
thờ mới xây. 29 Họ nói với nhau: "Ai đã làm chuyện này
thế?" Rồi họ điều tra và tìm hiểu, thì ra là ông Ghít-ôn, con ông Giô-át,
đã làm chuyện đó. 30 Dân thành liền nói với ông Giô-át: "Ðưa
con ông ra đây! Nó phải chết, vì nó đã triệt hạ bàn thờ Ba-an và đã chặt đứt
cây cột thần bên cạnh.” 31 Ông Giô-át nói với tất cả mọi người đứng
trước mặt ông: "Các anh bênh quyền lợi của Ba-an ư? Hay là các anh tính
cứu thần đó? Kẻ nào bênh quyền lợi Ba-an sẽ phải chết trước khi trời rạng sáng.
Nếu Ba-an là thần thì Ba-an cứ tự biện hộ. Ghít-ôn đã phá bàn thờ của Ba-an đó.”
32 Ngày hôm ấy, người ta gọi ông Ghít-ôn là Giơ-rúp-ba-an, mà rằng:
"Xin Ba-an đối phó với hắn, vì hắn đã triệt hạ bàn thờ của người."
Kêu
gọi chiến đấu
33
Tất
cả các người Ma-đi-an, người A-ma-lếch và người Phương Ðông đều nhất tề tập
hợp; họ băng qua sông và đóng trại tại đồng bằng Gít-rơ-en.34 Ông Ghít-ôn được
đầy thần khí của Ðức Chúa; ông rúc tù và, và người A-vi-e-de quy tụ lại sau
lưng ông. 35 Ông sai sứ giả kêu gọi mọi người trong chi tộc
Mơ-na-se, và họ quy tụ lại sau lưng ông; ông sai sứ giả kêu gọi mọi người trong
chi tộc A-se, Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, họ cũng đều tiến lên đón ông.
Lông
cừu làm điềm báo
36
Ông
Ghít-ôn thưa với Thiên Chúa: "Nếu đúng là Ngài sẽ dùng tay con để cứu
Ít-ra-en như Ngài đã phán, 37 thì này đây con đặt một mớ lông cừu
trong sân lúa: nếu chỉ có sương trên lông cừu mà thôi, còn tất cả mặt đất đều
khô, thì con biết Ngài sẽ dùng tay con để cứu Ít-ra-en như Ngài đã phán.” 38
Và đã xảy ra như vậy. Sáng hôm sau ông dậy sớm, bóp mớ lông cừu, vắt cho
sương chảy ra đầy một chén nước. 39 Ông Ghít-ôn lại thưa với Thiên
Chúa: "Xin Ngài đừng thịnh nộ với con, để con được nói một lần nữa. Xin
cho con được trắc nghiệm bằng lông cừu một lần nữa thôi: chỉ có lông cừu là
khô, còn tất cả mặt đất đều đẫm sương.” 40 Ðêm ấy Thiên Chúa đã làm
như vậy. Chỉ có lông cừu là khô, còn tất cả mặt đất đều đẫm sương.
Chương 07
B.
Ông Ghít-ôn giao chiến bên tây ngạn sông Gio-đan
Ðức
Chúa rút bớt quân số của ông Ghít-ôn
1
Ông
Giơ-rúp-ba-an, tức Ghít-ôn, cũng như toàn dân đang ở với ông, thức dậy thật
sớm, và ông đóng trại gần Ên Kha-rốt; còn trại quân Ma-đi-an thì nằm ở phía bắc
trại ông, sát đồi Mô-re, trong đồng bằng. 2 Ðức Chúa phán bảo ông:
"Ðám dân ở với ngươi quá đông; Ta không trao quân Ma-đi-an vào tay chúng
được, kẻo Ít-ra-en lại tự phụ phạm đến Ta, khi cho rằng "Chính tay tôi đã
cứu tôi. 3 Vậy ngươi hãy công bố cho dân nghe: "Ai sợ hãi và
run khiếp thì hãy về đi!" Và ông Ghít-ôn đã thử họ: hai mươi ngàn người
trong dân rút lui, còn lại mười ngàn.
4
Ðức
Chúa phán với ông Ghít-ôn: "Dân này vẫn còn đông. Hãy bảo chúng xuống gần
nước, ở đó Ta sẽ thử chúng. Kẻ nào Ta nói với ngươi "người này sẽ đi với
ngươi" thì kẻ đó sẽ đi với ngươi. Còn tất cả những ai Ta nói với ngươi
"người này không đi với ngươi", kẻ đó sẽ không được đi.” 5 Vậy
ông Ghít-ôn đem đám dân ấy đến gần nước, và Ðức Chúa phán với ông Ghít-ôn:
"Tất cả những ai thè lưỡi tớp nước như chó, ngươi hãy để riêng ra, tất cả
những ai quỳ xuống mà uống cũng vậy.” 6 Số người dùng tay đưa nước
lên miệng mà tớp là ba trăm. Tất cả số dân còn lại đều quỳ xuống mà uống nước. 7
Bấy giờ Ðức Chúa phán với ông Ghít-ôn: "Với ba trăm người đã tớp
nước, Ta sẽ cứu các ngươi, và sẽ trao quân Ma-đi-an vào tay ngươi. Còn tất cả
những người khác thì hãy rút lui, ai về nhà nấy.” 8 Người ta giữ lại
vò lương thực của đám dân, cùng với các tù và. Sau đó, ông Ghít-ôn cho tất cả
con cái Ít-ra-en trở về, ai nấy về lều mình, chỉ giữ lại ba trăm người. Doanh
trại của người Ma-đi-an nằm phía dưới trại của ông, trong đồng bằng.
Ðiềm
báo thắng trận
9
Ðêm
ấy Ðức Chúa phán với ông: "Ðứng lên! Ði xuống doanh trại, vì Ta sẽ trao nó
vào tay ngươi. 10 Nhưng nếu ngươi sợ không dám xuống, thì hãy đi
xuống trại với Pu-ra, đầy tớ ngươi. 11 Ngươi sẽ nghe ngóng xem chúng
nói gì; sau đó tay ngươi sẽ ra cứng rắn, và ngươi sẽ xuống đánh trại." Vậy
chính ông đã cùng với Pu-ra, đầy tớ ông, xuống tới đầu tiền đồn của trại.
12
Quân
Ma-đi-an, A-ma-lếch và toàn quân Phương Ðông nằm đầy đồng bằng, nhiều vô kể như
châu chấu, và số lạc đà của chúng không đếm nổi, như cát trên bờ biển. 13 Ông
Ghít-ôn tới nơi, thì này một tên đang kể cho đồng đội một giấc chiêm bao. Hắn
nói: "Ðây là giấc chiêm bao tôi đã nằm mơ: một tấm bánh lúa mạch lăn trong
trại Ma-đi-an, tới một chiếc lều, đụng vào lều thì nó ngã xuống, cuốn chỏng
gọng cái lều lên, thế là cái lều đổ.” 14 Người đồng đội hoạ theo và
nói: "Ðây chỉ có thể là chiếc gươm của Ghít-ôn, con Giô-át, người
Ít-ra-en. Thiên Chúa đã trao người Ma-đi-an và cả doanh trại vào tay ông ta.” 15
Khi nghe kể giấc chiêm bao và lời giải thích, ông Ghít-ôn sấp mình xuống,
đoạn trở về trại Ít-ra-en và nói: "Ðứng lên! Vì Ðức Chúa đã trao vào tay
anh em doanh trại Ma-đi-an."
Cuộc
đột kích
16
Bấy
giờ ông chia ba trăm người thành ba cánh quân, trao vào tay mọi người tù và, vò
rỗng có đuốc bên trong. 17 Ông bảo họ: "Hãy nhìn và làm theo
tôi. Khi tới đầu trại, tôi làm gì thì các anh cứ làm theo! 18 Tôi sẽ rúc tù và
cùng một lúc với tất cả những người đi với tôi; bấy giờ các anh cũng rúc tù và
khắp quanh trại và cùng hô: Vì Ðức Chúa! Vì Ghít-ôn!"
19
Ông
Ghít-ôn cùng với một trăm người theo ông đi tới đầu trại vào đầu canh hai, lúc
vừa thay người canh; họ rúc tù và, đồng thời đập bể những chiếc vò đang cầm
trong tay. 20 Bấy giờ cả ba cánh quân đều rúc tù và, đập bể vò; tay
trái nắm chắc đuốc, tay phải cầm tù và rúc lên, rồi họ cùng hô: "Vì Ðức
Chúa, vì Ghít-ôn, vung kiếm lên!” 21 Chung quanh trại, ai nấy đứng
yên tại chỗ. Cả trại tán loạn, la ó và chạy trốn. 22 Trong lúc ba
trăm người rúc tù và thì Ðức Chúa làm cho mỗi người trong khắp trại quay gươm
giết bạn mình. Cả doanh trại đều trốn chạy về phía Xơ-rê-ra cho đến Bết Ha
Sít-ta, bên bờ suối A-vên Mơ-khô-la, đối diện với Táp-bát.
Truy
kích
23
Bấy
giờ từ Náp-ta-li, A-se và toàn thể Mơ-na-se, các người Ít-ra-en họp nhau lại và
rượt đuổi quân Ma-đi-an. 24 Ông Ghít-ôn sai sứ giả đi kêu gọi khắp
vùng núi Ép-ra-im: "Hãy xuống đón đầu quân Ma-đi-an, chiếm cứ các nguồn
nước của chúng, cho đến Bết Ba-ra và sông Gio-đan." Tất cả các người
Ép-ra-im đều họp lại chiếm lấy các nguồn nước cho đến Bết Ba-ra và sông Gio-đan.
25 Họ bắt được hai tướng của Ma-đi-an là Ô-rếp và Dơ-ếp; họ giết
Ô-rếp tại tảng đá Ô-rếp, còn Dơ-ếp thì giết tại bồn ép nho Dơ-ếp. Họ còn rượt
theo quân Ma-đi-an và mang thủ cấp của Ô-rếp và Dơ-ếp từ bên kia sông Gio-đan
về cho ông Ghít-ôn.
Chương 08
Ép-ra-im
kêu trách
1
Những
người Ép-ra-im nói với ông: "Ông đối xử với chúng tôi như vậy nghĩa là thế
nào? Ông đã không thèm gọi chúng tôi, khi ông lên đường đánh quân
Ma-đi-an." Họ đã công kích ông dữ dội. 2 Nhưng ông nói với họ:
"Việc tôi đã làm sánh sao được với các anh? Thứ mà Ép-ra-im ăn mót, lại
không tốt hơn cả mùa trái của A-vi-e-de sao? 3 Thiên Chúa đã trao vào tay các
anh các thủ lãnh Ma-đi-an là Ô-rếp và Dơ-ếp, thì tôi có thể làm gì sánh được
với các anh?" Nghe ông nói thế, họ mới nguôi giận.
C.
Ông Ghít-ôn giao chiến bên kia sông Gio-đan. Ông từ trần.
Ông
Ghít-ôn vượt sông Gio-đan truy lùng địch
4
Tới
sông Gio-đan, ông Ghít-ôn sang sông cùng với ba trăm người theo ông, rất mệt
mỏi nhưng vẫn truy lùng quân địch. 5 Ông nói với các người Xúc-cốt:
"Làm ơn cho đám người theo tôi mấy tấm bánh, vì họ đã mệt mỏi rồi, mà tôi
thì còn phải truy lùng De-vác và Xan-mun-na, vua Ma-đi-an.” 6 Nhưng
các thủ lãnh Xúc-cốt trả lời: "Số mạng của De-vác và Xan-mun-na nay đã nằm
gọn trong tay ông rồi sao, mà chúng tôi phải cấp bánh cho quân đội của ông?” 7
Ông Ghít-ôn đáp: "Ðã vậy thì một khi Ðức Chúa trao De-vác và
Xan-mun-na vào tay ta rồi, ta sẽ lấy gai rừng và cây ké mà xé xác các ngươi!” 8
Từ đấy, ông đi lên Pơ-nu-ên, và lại nói với người ta như vậy, nhưng những
người Pơ-nu-ên trả lời y như những người Xúc-cốt. 9 Ông cũng nói với
người Pơ-nu-ên rằng: "Khi ta trở về bình an vô sự, ta sẽ triệt hạ tháp
này."
De-vác
và Xan-mun-na bại trận
10
De-vác
và Xan-mun-na lúc ấy đang ở Các-co cùng với đạo quân của họ, chừng mười lăm
ngàn người, đó là số còn lại trong toàn bộ doanh trại con cái Phương Ðông. Vì
mười hai ngàn mạng biết tuốt gươm đã gục ngã. 11 Ông Ghít-ôn tiến
lên theo con đường của dân du mục, ở phía đông Nô-vác và Gióc-bô-ha, và đã tấn
công trại khi trại cứ tưởng là an toàn. 12 De-vác và Xan-mun-na chạy
trốn, nhưng ông đã đuổi kịp và bắt được cả hai vua Ma-đi-an là De-vác và
Xan-mun-na, gây khiếp đảm cho toàn bộ doanh trại.
Ông
Ghít-ôn báo thù
13
Sau
trận chiến, ông Ghít-ôn, con ông Giô-át trở về qua ngả đường lên Khe-rét. 14
Ông bắt một thiếu niên thuộc dân Xúc-cốt và tra hỏi nó. Nó viết cho ông
tên các thủ lãnh Xúc-cốt, và các kỳ mục trong dân là bảy mươi bảy người. 15
Vậy ông đến với người Xúc-cốt và nói: "Ðây là De-vác và Xa-mun-na!
Vì chúng, các ngươi đã đay nghiến ta mà rằng: "Số mạng của De-vác và
Xan-mun-na nay đã nằm gọn trong tay ông rồi sao, mà chúng tôi phải cấp bánh cho
những người mệt mỏi của ông?” 16 Ông bắt các kỳ mục trong thành, lấy
gai rừng và cây ké mà dạy cho những người Xúc-cốt một bài học. 17 Tháp
Pơ-nu-ên, ông cũng triệt hạ, và tàn sát cả những người trong thành. 18 Ông
nói với De-vác và Xan-mun-na: "Những kẻ các ngươi đã tàn sát ở Ta-bo là
người thế nào?" Chúng thưa: "Ông thế nào, họ cũng vậy; người nào cũng
có vẻ hoàng tử.” 19 Ông nói: "Họ là anh em cùng mẹ với ta đó.
Thề có Ðức Chúa hằng sống! Giả như các ngươi để họ sống, thì ta chẳng sát hại
các ngươi đâu!” 20 Rồi ông bảo người con cả của ông Gie-the:
"Ðứng lên! Giết chúng đi!" Nhưng chàng thiếu niên sợ không dám tuốt
gươm, vì cậu còn trẻ. 21 De-vác và Xan-mun-na liền nói: "Vậy
thì chính nhà ngươi đứng lên giết chúng ta đi, vì anh hùng đâu có sợ
chết!" Ông Ghít-ôn đứng lên hạ sát De-vác và Xan-mun-na, rồi tháo lấy
những chiếc vòng đeo cổ các con lạc đà của chúng.
Cuối
đời ông Ghít-ôn
22
Người
Ít-ra-en nói với ông Ghít-ôn: "Xin ông cai trị chúng tôi, cả ông cũng như
con cháu ông, vì ông đã giải thoát chúng tôi khỏi tay quân Ma-đi-an.” 23 Ông
Ghít-ôn trả lời: "Chính tôi sẽ không cai trị, mà con tôi cũng không cai
trị anh em, nhưng Ðức Chúa sẽ cai trị anh em.” 24 Ông Ghít-ôn nói
với họ: "Tôi xin anh em một điều là mỗi người cho tôi một cái nhẫn trong
số chiến lợi phẩm của mình." Sở dĩ như vậy là vì những người bại trận là
dân Ít-ma-ên, nên chúng mang nhẫn vàng. 25 Những người ấy đáp:
"Hẳn là chúng tôi sẽ tặng ông rồi." Họ trải chiếc áo choàng ra, và
mỗi người bỏ vào đấy một chiếc nhẫn đã chiếm được. 26 Trọng lượng số
nhẫn vàng ông đã xin được là mười bảy ký vàng, không kể các vòng khuyên, các
hoa tai và những chiếc áo điều các vua Ma-đi-an vẫn mặc, và không kể các vòng
đeo cổ các con lạc đà của chúng. 27 Ông Ghít-ôn lấy số vàng đó làm
một tượng ê-phốt và đặt trong thành của ông tại Óp-ra; và toàn thể Ít-ra-en đã
đàng điếm với nó, nên nó hoá cái bẫy cho ông Ghít-ôn và nhà ông.
28
Ma-đi-an
bị hạ nhục trước mặt con cái Ít-ra-en; chúng không còn ngẩng đầu lên được nữa.
Dưới thời ông Ghít-ôn, lãnh thổ được bình an bốn mươi năm. 29 Ông
Giơ-rúp-ba-an, con ông Giô-át, lui về sống cảnh điền viên. 30 Ông
Ghít-ôn sinh được bảy mươi người con, vì ông có nhiều vợ. 31 Ông có
người tỳ thiếp ở Si-khem, bà cũng sinh cho ông một con trai; và ông đặt tên cho
nó là A-vi-me-léc. 32 Ông Ghít-ôn, con ông Giô-át, qua đời sau khi
hưởng tuổi già hạnh phúc, và được chôn cất trong phần mộ của ông Giô-át, thân
phụ ông, tại Óp-ra của dòng họ A-vi-e-de.
Ít-ra-en
lại suy sụp
33
Sau
khi ông Ghít-ôn qua đời, con cái Ít-ra-en lại đàng điếm với các Ba-an, và tôn
Ba-an Bơ-rít làm thiên chúa của mình. 34 Con cái Ít-ra-en không nhớ
Ðức Chúa là Thiên Chúa của mình, Ðấng đã giải thoát họ khỏi tay mọi thù địch
chung quanh. 35 Họ cũng chẳng đối xử nhân nghĩa với nhà ông
Giơ-rúp-ba-an, tức Ghít-ôn, mà đền đáp tất cả những điều tốt lành ông đã làm
cho Ít-ra-en.
Chương 09
D.
Vương triều của A-vi-me-léc
1
A-vi-me-léc,
con ông Giơ-rúp-ba-an, đến Si-khem gặp bà con bên ngoại, và nói với họ, cùng cả
gia tộc bên ngoại rằng: 2 "Xin bà con hỏi các thân hào Si-khem
xem: điều nào tốt cho các vị? Ðể cho bảy mươi người, tức là tất cả các con ông
Giơ-rúp-ba-an cai trị các vị, hay là để một người cai trị các vị mà thôi? Xin
các vị nhớ cho rằng tôi là anh em ruột thịt của các vị.” 3 Bà con
bên ngoại dùng chính những lời đó nói về A-vi-me-léc cho toàn thể thân hào
Si-khem nghe, và lòng họ nghiêng về A-vi-me-léc, vì họ nói: "Ông ấy là bà
con của chúng ta.” 4 Vậy họ trao cho ông bảy mươi se-ken bạc, lấy
của đền Ba-an Bơ-rít, A-vi-me-léc dùng tiền ấy thuê những đứa vô lại cùng bọn
du đãng, và chúng theo ông. 5 Thế là ông đến nhà cha mình tại Óp-ra,
hạ sát các anh em, tức là bảy mươi người con của ông Giơ-rúp-ba-an, trên cùng
một tảng đá; chỉ sót có Giô-tham, con út của ông Giơ-rúp-ba-an, vì anh ta lẩn
trốn được. 6 Bấy giờ tất cả thân hào Si-khem cùng toàn dân Bết Mi-lô
họp lại, kéo đến tôn A-vi-me-léc lên làm vua, bên cạnh cây sồi trước bia đá ở
Si-khem.
Ngụ
ngôn của ông Giô-tham
7
Khi
người ta báo tin ấy cho ông Giô-tham, ông liền lên đứng trên đỉnh núi
Gơ-ri-dim, cất tiếng gọi và nói với những người kia rằng: "Hỡi các thân
hào Si-khem! Hãy nghe tôi đây, thì Thiên Chúa cũng sẽ nghe các người.
8
Cây
cối đã lên đường đi xức dầu phong một vua cai trị chúng. Chúng nói với cây
ô-liu: "Hãy làm vua cai trị chúng tôi!
9
Nhưng
cây ô-liu nói với chúng: "Chẳng lẽ tôi lại từ bỏ dầu của tôi là thứ đã
từng làm cho thần minh và người đời được tôn trọng, mà đi đu đưa trên cây cối
hay sao?
10
Cây
cối liền nói với cây vả: "Hãy đến làm vua cai trị chúng tôi!
11
Nhưng
cây vả bảo chúng: "Chẳng lẽ tôi lại từ bỏ vị ngọt và trái ngon của tôi mà
đi đu đưa trên cây cối hay sao?
12
Bấy
giờ cây cối nói với cây nho: "Hãy đến làm vua cai trị chúng tôi!
13
Nhưng
cây nho bảo chúng: "Chẳng lẽ tôi lại từ bỏ rượu của tôi là thứ đã từng làm
cho thần minh và người đời phấn khởi, mà đi đu đưa trên cây cối hay sao?
14
Tất
cả cây cối liền nói với bụi gai: "Hãy đến làm vua cai trị chúng tôi!
15
Bụi
gai trả lời cây cối: "Nếu quả thật các ngươi xức dầu phong ta làm vua cai
trị các ngươi, thì hãy tới nương náu dưới bóng ta; bằng không, lửa sẽ bốc ra từ
bụi gai và sẽ thiêu rụi các cây bá hương Li-băng!
16
Các
người có đối xử thành thật và trọn đạo khi tôn A-vi-me-léc lên làm vua không?
Các người có đối xử tốt với ông Giơ-rúp-ba-an và nhà ông ấy không? Có đối xử
với ông xứng với công lao của ông không? 17 Cha tôi đã chiến đấu vì các người,
đã liều mạng để giải thoát các người khỏi tay quân Ma-đi-an. 18 Thế
mà ngày nay các người lại phản bội nhà cha tôi, tàn sát con cái ông, tất cả bảy
mươi người trên cùng một tảng đá, rồi đặt đứa con người tỳ thiếp của ông là
A-vi-me-léc lên làm vua cai trị các thân hào Si-khem, vì y là bà con của các
người. 19 Vậy, nếu ngày hôm nay các người đã đối xử thành thật và
trọn đạo với ông Giơ-rúp-ba-an và nhà ông, thì cứ việc vui vì A-vi-me-léc, và
mong sao y cũng được vui vì các người. 20 Bằng không, thì xin cho
một ngọn lửa phát ra từ A-vi-me-léc để thiêu huỷ các thân hào Si-khem cùng với
dân Bết Mi-lô, và xin cho một ngọn lửa phát ra từ các thân hào Si-khem và dân
Bết Mi-lô để thiêu huỷ A-vi-me-léc nữa!” 21 Rồi ông Giô-tham chạy về
phía Bơ-e và trú ngụ tại đây, vì sợ A-vi-me-léc, người anh em của ông.
Si-khem
phản loạn chống A-vi-me-léc
22
A-vi-me-léc
cầm quyền cai trị Ít-ra-en ba năm. 23 Rồi Thiên Chúa gây một thần
khí bất hoà giữa A-vi-me-léc và các thân hào Si-khem, khiến các thân hào Si-khem
phản lại A-vi-me-léc. 24 Như vậy là để báo phục tội giết bảy mươi
người con ông Giơ-rúp-ba-an, và để làm cho máu họ đổ xuống trên A-vi-me-léc,
người anh em đã giết họ, và đổ xuống trên các thân hào Si-khem, những người đã
tiếp tay với y, để y giết anh em mình. 25 Các thân hào Si-khem đã
đặt những ổ mai phục trên các ngọn núi, để cướp bóc tất cả những người đi ngang
qua đó. Người ta báo tin ấy cho A-vi-me-léc biết.
26
Bấy
giờ ông Ga-an, con ông E-vét, cùng đi với anh em ông, và họ qua Si-khem; các
thân hào Si-khem tín nhiệm ông. 27 Họ ra vườn hái nho, rồi đạp ép và
tổ chức vui chơi. Họ vào đền các thần minh của họ, ăn uống và nguyền rủa
A-vi-me-léc. 28 Ông Ga-an, con ông E-vét nói: "A-vi-me-léc là
ai, và Si-khem là ai mà chúng ta làm tôi nó? Nó chẳng phải là con
Giơ-rúp-ba-an, và đại diện của nó chẳng phải là Dơ-vun sao? Các người hãy làm
tôi con cái Kha-mo, cha của Si-khem; còn chúng tôi, việc gì chúng tôi phải làm
tôi nó? 29 Ai sẽ trao dân này vào tay tôi, để tôi loại trừ A-vi-me-léc? Và tôi
nói với nó: "Hãy tăng thêm quân của mi và ra đây!"
30
Ông
Dơ-vun, tổng trấn thành, nghe những lời ông Ga-an, con ông E-vét nói, thì nổi
giận. 31 Ông lập mưu sai sứ đến nói với A-vi-me-léc rằng: "
34
Ðang
đêm, A-vi-me-léc cùng với quân lính của ông chỗi dậy, chia thành bốn nhóm mai
phục gần Si-khem. 35 Ông Ga-an, con ông E-vét, đi ra và dừng lại ở
lối vào cổng thành. A-vi-me-léc cùng với quân lính của ông từ chỗ mai phục chỗi
dậy. 36 Ông Ga-an thấy đám dân thì nói với ông Dơ-vun: "Ðây là
đám dân từ các đỉnh núi xuống." Nhưng ông Dơ-vun nói: "Ðó là bóng núi
mà ông lại trông ra như người ta.” 37 Ông Ga-an còn lên tiếng nói:
"Ðây là những người từ rốn đất mà xuống, còn nhóm kia thì từ con đường Cây
Sồi Các Thầy Bói mà đến.” 38 Bấy giờ ông Dơ-vun nói với ông:
"Ðâu rồi cái miệng ngươi từng nói: A-vi-me-léc là ai mà chúng ta làm tôi
nó? Ðây chẳng phải là đám dân ngươi đã khinh dể sao? Bây giờ ngươi hãy đi ra mà
giao chiến với nó.” 39 Ông Ga-an đi ra, dẫn đầu các thân hào
Si-khem, giao chiến với A-vi-me-léc. 40 Nhưng A-vi-me-léc đuổi đánh
ông, và ông Ga-an phải trốn chạy. Nhiều người gục chết trước khi tới được lối
vào cổng.41 Sau đó A-vi-me-léc cư ngụ ở A-ru-ma; còn ông Dơ-vun thì trục xuất
ông Ga-an và anh em ông, không cho ở Si-khem nữa.
Triệt
hạ thành và tháp Si-khem
42
Hôm
sau đám người kia đi ra cánh đồng, và người ta báo cho A-vi-me-léc biết. 43
Ông lấy dân của mình chia thành ba nhóm và sắp xếp một cuộc mai phục
ngoài đồng. Ông nhìn, và này đám người kia đi ra khỏi thành; ông chỗi dậy tiến
đánh chúng tơi bời. 44 A-vi-me-léc cùng với quân lính của ông ập tới
chặn lối vào cổng thành, còn hai nhóm kia thì ập tới tất cả những kẻ ở ngoài
đồng và đánh chúng tơi bời. 45 Suốt ngày hôm ấy A-vi-me-léc tấn công
thành. Ông đã chiếm được thành và tàn sát tất cả dân cư, rồi triệt hạ và rắc
muối lên thành. 46 Nghe tin đó, các thân hào Mích-đan Si-khem liền
xuống hầm đền thờ En Bơ-rít. 47 Người ta báo tin cho A-vi-me-léc
biết là tất cả thân hào Mích-đan Si-khem đã họp nhau lại. 48 Bấy giờ
A-vi-me-léc lên núi Xan-môn cùng với tất cả quân lính của ông. Ông cầm rìu chặt
một cành cây, giơ lên, rồi đặt xuống vai mình, và nói với quân lính của ông:
"Các anh thấy tôi làm gì, thì cứ làm như tôi, mau lên!” 49 Mọi
người đều chặt, mỗi người một cành cây. Họ đi theo A-vi-me-léc, đặt cành cây
trên hầm, rồi nổi lửa đốt hầm, làm cho mọi người ở Mích-đan Si-khem chết hết,
khoảng chừng một ngàn người, cả đàn ông lẫn đàn bà.
A-vi-me-léc
tấn công Tê-vết và bị tử trận
50
Sau
đó A-vi-me-léc đi đến Tê-vết, đóng trại đối diện với Tê-vết và chiếm thành ấy. 51
Có một ngọn tháp kiên cố ở giữa thành và tất cả đàn ông, đàn bà cùng toàn
thể các thân hào trong thành đều trốn vào tháp ấy; họ ẩn náu bên trong và leo
lên lầu của ngọn tháp. 52 A-vi-me-léc đi tới và tấn công tháp; ông
đến sát lối vào tháp để châm lửa đốt. 53 Bấy giờ một người đàn bà
liệng một phiến đá cối xuống đầu A-vi-me-léc làm ông bể sọ. 54 Ông
liền gọi chàng thanh niên cận vệ của mình và bảo: "Hãy tuốt gươm giết ta
đi, kẻo người ta lại nói về ta rằng: Một người đàn bà đã giết hắn." Người
cận vệ đâm ông, và ông đã chết. 55 Người Ít-ra-en thấy A-vi-me-léc
đã chết thì bỏ đi, ai nấy về nhà mình.
56
Thế
là Thiên Chúa đã báo oán A-vi-me-léc vì sự dữ ông đã gây cho thân phụ mình là
giết bảy mươi người anh em. 57 Và Thiên Chúa đã báo oán những người
Si-khem vì tất cả sự dữ họ đã gây ra. Như thế là đã ứng nghiệm nơi họ lời chúc
dữ của Giô-tham, con ông Giơ-rúp-ba-an.
Chương 10
Ông
Gíp-Tác Và Các thủ Lãnh Nhỏ
6.
Ông Tô-La
1
Sau
A-vi-me-léc, có ông Tô-la con ông Pu-a, cháu ông Ðô-đô, người Ít-xa-kha, đã
xuất hiện để cứu Ít-ra-en. Ông cư ngụ tại Sa-mia, vùng núi Ép-ra-im. 2 Ông
làm thủ lãnh Ít-ra-en được hai mươi ba năm, thì qua đời và được chôn cất tại
Sa-mia.
7.
Ông Gia-Ia
3
Sau
ông Tô-la, thì có ông Gia-ia, người Ga-la-át, xuất hiện, làm thủ lãnh Ít-ra-en
hai mươi hai năm. 4 Ông có ba mươi người con, cỡi ba mươi con lừa và
coi ba mươi thành, mà người ta đặt tên là Kha-vốt Gia-ia; những thành đó còn
cho tới ngày nay trong đất Ga-la-át.
5
Rồi
ông Gia-ia qua đời và được chôn cất tại Ca-môn.
8.
Ông Gíp-Tác
Ít-ra-en
bị người Am-mon đàn áp
6
Con
cái Ít-ra-en lại làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa và làm tôi các thần Ba-an và
Át-tô-rét, các thần của người A-ram, các thần của người Xi-đôn, các thần của
người Mô-áp, các thần của con cái Am-mon và các thần của người Phi-li-tinh; họ
đã lìa bỏ Ðức Chúa và không làm tôi Người nữa. 7 Ðức Chúa nổi cơn
thịnh nộ với Ít-ra-en và đã trao họ vào tay người Phi-li-tinh và vào tay con
cái Am-mon. 8 Trong thời ấy, suốt mười tám năm, chúng hành hạ và áp
bức con cái Ít-ra-en, tức là toàn thể con cái Ít-ra-en ở bên kia sông Gio-đan,
trong đất người E-mô-ri tại Ga-la-át. 9 Con cái Am-mon vượt sông
Gio-đan để giao chiến với cả Giu-đa, Ben-gia-min và nhà Ép-ra-im nữa, khiến
Ít-ra-en phải lâm cảnh khốn cùng. 10 Bấy giờ con cái Ít-ra-en mới
kêu lên Ðức Chúa rằng: "Chúng con đã xúc phạm đến Ngài, bởi vì chúng con
đã lìa bỏ Thiên Chúa của chúng con mà làm tôi các Ba-an.” 11 Ðức
Chúa phán với con cái Ít-ra-en: "Khi người Ai-cập, người E-mô-ri, con cái
Am-mon, người Phi-li-tinh, 12 người Xi-đôn, người A-ma-lếch và người
Ma-đi-an áp bức các ngươi, và các ngươi kêu lên Ta, thì Ta đã chẳng cứu các
ngươi khỏi tay chúng sao? 13 Nhưng các ngươi đã lìa bỏ Ta và làm tôi các thần
khác; vì thế, Ta sẽ không cứu các ngươi nữa. 14 Ði mà kêu lên các
thần các ngươi đã chọn; chúng sẽ cứu các ngươi lúc các ngươi bị cơ cực!” 15
Con cái Ít-ra-en mới thưa cùng Ðức Chúa: "Chúng con đã phạm tội. Xin
Ngài cứ xử với chúng con sao cho đẹp mắt Ngài; nhưng hôm nay xin cứu chúng con.”
16 Họ cất bỏ, không giữ lại những thần ngoại bang nữa, và họ làm tôi
Ðức Chúa, vì thế Người không dằn lòng được trước sự đau khổ của Ít-ra-en.
17
Con
cái Am-mon tập họp lại và đóng trại ở Ga-la-át. Con cái Ít-ra-en cũng hội lại
và đóng trại ở Mít-pa. 18 Dân chúng và các thủ lãnh Ga-la-át nói với
nhau: "Ai là người sẽ xung phong giao chiến với con cái Am-mon? Người ấy
sẽ đứng đầu toàn thể dân cư Ga-la-át."
Chương 11
Ông
Gíp-tác đặt điều kiện
1
Ông
Gíp-tác, người Ga-la-át, bấy giờ là một dũng sĩ. Ông là con của một gái điếm.
Ông Ga-la-át sinh ra Gíp-tác. 2 Nhưng vợ ông Ga-la-át cũng sinh cho
ông những người con khác nữa. Các người con của bà này khi lớn lên đã đuổi
Gíp-tác đi, và nói với ông: "Mày không có phần gia nghiệp trong nhà của
cha chúng tao, vì mày là con của một mụ khác.” 3 Ông Gíp-tác liền bỏ
trốn, không ở với các anh nữa. Ông cư ngụ tại đất Tốp; những đứa vô lại kết
đảng với ông Gíp-tác và cùng với ông tung hoành.
4
Sau
đó một thời gian, con cái Am-mon giao chiến với Ít-ra-en. 5 Và khi
con cái Am-mon giao chiến với Ít-ra-en, thì các kỳ mục Ga-la-át đi tìm ông
Gíp-tác ở đất Tốp. 6 Họ nói với ông Gíp-tác: "Xin ông đến chỉ
huy chúng tôi giao chiến với con cái Am-mon.” 7 Ông Gíp-tác trả lời
các kỳ mục Ga-la-át: "Nào chẳng phải chính các ông đã ghét tôi và đuổi tôi
ra khỏi nhà cha tôi sao? Vì cớ gì bây giờ các ông lại đến với tôi, lúc các ông
lâm cảnh khốn cùng?” 8 Các kỳ mục Ga-la-át nói với ông Gíp-tác:
"Ấy vậy bây giờ chúng tôi mới phải quay về với ông; xin ông đến với chúng
tôi, ông sẽ giao chiến với con cái Am-mon, sẽ thành người lãnh đạo chúng tôi,
tức là toàn thể dân cư Ga-la-át.” 9 Ông Gíp-tác nói với các kỳ mục
Ga-la-át: "Nếu các ông đưa tôi về để giao chiến với con cái Am-mon, và Ðức
Chúa trao chúng vào tay tôi, thì tôi sẽ là người lãnh đạo các ông.” 10 Các
kỳ mục Ga-la-át nói với ông Gíp-tác: "Xin Ðức Chúa chứng giám cho chúng
ta, nếu chúng tôi không làm như lời ông nói.” 11 Rồi ông Gíp-tác
cùng đi với các kỳ mục Ga-la-át, và dân đã đặt ông làm người lãnh đạo và chỉ
huy họ; ông Gíp-tác lặp lại tất cả các lời ông đã nói, trước nhan Ðức Chúa tại
Mít-pa.
Ông
Gíp-tác điều đình với con cái Am-mon
12
Ông
Gíp-tác sai sứ giả đến nói với vua dân Am-mon rằng: "Giữa tôi với ông có
chuyện gì mà ông lại đến chống tôi, để giao chiến với xứ sở tôi?” 13 Vua
dân Am-mon nói với các sứ giả của ông Gíp-tác: "Tại sao, khi lên khỏi
Ai-cập, Ít-ra-en lại chiếm đất của ta, từ Ác-nôn cho tới Giáp-bốc và tới sông
Gio-đan? Bây giờ muốn yên thì trả lại đi!” 14 Ông Gíp-tác lại sai sứ
giả đến với vua dân Am-mon lần nữa 15 và thưa: "Ông Gíp-tác nói thế này:
Ít-ra-en không chiếm đất của Mô-áp cũng như đất của con cái Am-mon, 16 vì
khi đi lên khỏi Ai-cập, Ít-ra-en đã đi con đường sa mạc tới Biển Sậy và đã đến
Ca-đê. 17 Bấy giờ Ít-ra-en sai sứ giả đến thưa với vua Ê-đôm rằng: Xin
cho phép tôi đi qua đất của ngài. Nhưng vua Ê-đôm không nghe. Ít-ra-en cũng sai
người đến với vua Mô-áp, nhưng ông này cũng chẳng nghe; Ít-ra-en đành lưu lại
Ca-đê. 18 Sau đó, họ đã theo con đường sa mạc đi bọc xứ Ê-đôm và
Mô-áp, tới phía đông đất Mô-áp, và đóng trại bên kia Ác-nôn, nhưng không vào
biên giới Mô-áp vì Ác-nôn là biên giới Mô-áp. 19 Rồi Ít-ra-en sai sứ
giả đến gặp ông Xi-khôn, vua dân E-mô-ri, trị vì tại Khét-bôn và thưa với ông:
Xin cho phép tôi đi qua đất của ngài để tới nơi tôi phải đến. 20 Thế
nhưng ông Xi-khôn đã không tin mà cho Ít-ra-en đi qua biên giới của ông; ông
Xi-khôn lại còn triệu tập toàn dân, đóng trại tại Gia-hát và giao chiến với
Ít-ra-en. 21 Và Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, đã trao ông
Xi-khôn và toàn dân của ông vào tay Ít-ra-en, và Ít-ra-en đã đánh chúng tơi
bời. Rồi Ít-ra-en chiếm hết đất của dân E-mô-ri cư ngụ trên đất ấy. 22 Họ
cũng chiếm tất cả các biên giới của người E-mô-ri từ Ác-nôn tới Giáp-bốc, và từ
sa mạc tới sông Gio-đan. 23 Bây giờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của
Ít-ra-en đã trục xuất người E-mô-ri khỏi Ít-ra-en dân của Người, thì liệu ông
có trục xuất được nó không? 24 Cái mà thần Cơ-mốt của ông, ban cho ông làm sở
hữu, ông lại không chiếm hữu sao? Cũng thế, tất cả những gì Ðức Chúa, Thiên
Chúa của chúng tôi đã truất hữu của những dân sở hữu, trước mặt chúng tôi, thì
chúng tôi chiếm hữu. 25 Nay liệu ông có hơn gì ông Ba-lác, con ông
Xíp-po, vua Mô-áp không? Ông ta có tranh chấp nổi với Ít-ra-en, hay là đánh bại
được nó không? 26 Khi Ít-ra-en định cư tại Khét-bôn và các thị trấn phụ thuộc,
tại A-rô-e và các thị trấn phụ thuộc, tại tất cả các thành nằm trên các nhánh
của Ác-nôn đã ba trăm năm, thì tại sao lúc bấy giờ các người không chiếm lại?
27 Tôi đã không xúc phạm đến ông, còn ông đã xử tệ với tôi là giao chiến với
tôi. Xin Ðức Chúa, Ðấng phán xét, hôm nay phân xử giữa con cái Ít-ra-en và con
cái Am-mon.” 28 Nhưng vua dân Am-mon không nghe những lời ông
Gíp-tác sai người nói với vua.
Ông
Gíp-tác khấn và thắng trận
29
Thần
khí của Ðức Chúa ở trên ông Gíp-tác và ông đã sang Ga-la-át và Mơ-na-se, rồi
qua Mít-pa Ga-la-át, và từ Mít-pa Ga-la-át ông qua đánh con cái Am-mon. 30
Ông Gíp-tác khấn hứa với Ðức Chúa rằng: "Nếu Ngài trao con cái
Am-mon vào tay con, 31 thì - khi con đã thắng con cái Am-mon mà trở
về bình an - hễ người nào ra khỏi cửa nhà con để đón con, người đó sẽ thuộc về
Ðức Chúa, và con sẽ dâng nó làm lễ toàn thiêu.” 32 Ông Gíp-tác qua
bên con cái Am-mon để giao chiến với chúng, và Ðức Chúa đã trao chúng vào tay
ông. 33 Ông đánh chúng tơi bời từ A-rô-e cho tới gần Min-nít, tất cả
là hai mươi thành, và cho tới A-vên Cơ-ra-mim. Thật là một cuộc đại bại: con
cái Am-mon bị hạ nhục trước mặt con cái Ít-ra-en.
34
Khi
ông Gíp-tác trở về Mít-pa, về nhà ông, thì này con gái ông ra đón ông, vừa đánh
trống vừa nhảy múa. Cô là con gái độc nhất của ông: ngoài cô ra, ông không có
con trai con gái nào khác. 35 Thoạt nhìn thấy cô, ông liền xé áo và
nói: "Ôi, con gái của cha, thật con làm khổ cha rồi! Chính con lại ở trong
số những kẻ gây bất hạnh cho cha! Cha đã trót mở miệng khấn hứa cùng Ðức Chúa
và không thể rút lại được.” 36 Cô thưa với ông: "Thưa cha, cha
đã trót mở miệng khấn hứa cùng Ðức Chúa, thì cha cứ thi hành cho con như lời
cha đã khấn hứa, vì Ðức Chúa đã cho cha trả thù được con cái Am-mon, kẻ thù của
cha.” 37 Cô lại nói với cha: "Xin cha cho con điều này là hoãn
cho con hai tháng để con đi lang thang trên các núi đồi, mà khóc cho đời con
gái của con cùng với các bạn con.” 38 Ông nói: "Con cứ
đi", và ông để cho cô đi hai tháng. Cô ra đi cùng với các bạn, khóc cho
đời con gái của cô trên các núi đồi. 39 Hết hai tháng, cô trở về với
cha, và ông thi hành cho cô lời ông đã khấn hứa. Cô chưa biết đến việc vợ
chồng. Và đã thành mọi tục lệ trong Ít-ra-en, là 40 hằng năm các cô gái
Ít-ra-en đi khóc thương con gái ông Gíp-tác, người Ga-la-át, mỗi năm bốn ngày.
Chương 12
Chiến
tranh giữa Ép-ra-im và Ga-la-át. Ông Gíp-tác qua đời.
1
Người
Ép-ra-im tập hợp lại, vượt sông tới Xa-phôn và nói với ông Gíp-tác: "Tại
sao ông vượt sông đánh con cái Am-mon, mà lại không gọi chúng tôi cùng đi?
Chúng tôi sẽ nổi lửa đốt nhà ông cho ông chết luôn!” 2 Ông Gíp-tác
nói với họ: "Tôi và dân tôi phải tranh chấp ác liệt với con cái Am-mon.
Tôi đã cầu cứu các người, mà các người đã chẳng cứu tôi khỏi tay chúng. 3 Tôi
thấy không ai cứu, nên đã liều mạng vượt sông đánh con cái Am-mon, và Ðức Chúa
đã trao tay chúng vào tay tôi. Vậy tại sao hôm nay các người lại lên gây chiến
với tôi?” 4 Ông Gíp-tác tập hợp tất cả các người Ga-la-át và giao
chiến với Ép-ra-im. Người Ga-la-át đánh Ép-ra-im tơi bời, vì Ép-ra-im đã nói:
"Này quân Ga-la-át! Tụi bay chỉ là người Ép-ra-im đào thoát, ăn bám cả
Ép-ra-im lẫn Mơ-na-se.” 5 Ga-la-át chiếm giữ các khúc cạn trên sông
Gio-đan, nơi Ép-ra-im có thể qua. Khi có người Ép-ra-im đào thoát nói:
"Cho tôi qua", thì những người Ga-la-át hỏi: "Anh có phải là
người Ép-ra-im không?" Nếu hắn đáp: "Không", 6 thì họ
bảo: "Hãy nói: Síp-bô-lét." Nếu hắn nói: "Xíp-bô-lét", vì
hắn không nói đúng được, thì bấy giờ họ bắt lấy hắn mà giết, gần khúc cạn trên
sông Gio-đan. Thời gian đó, bốn mươi hai ngàn người Ép-ra-im đã ngã gục.
7
Ông
Gíp-tác làm thủ lãnh Ít-ra-en sáu năm, rồi ông Gíp-tác, người Ga-la-át, qua đời
và được chôn cất trong thành của mình, ở Ga-la-át.
9.
Ông Íp-Xan
8
Sau
ông Gíp-tác, thì có ông Íp-xan, người Bê-lem, làm thủ lãnh Ít-ra-en. 9 Ông
có ba mươi người con trai và ba mươi người con gái. Ông gả các cô cho người
ngoại bang, và hỏi ba mươi người vợ cho các con trai ông, cũng người ngoại
bang. Ông làm thủ lãnh Ít-ra-en bảy năm. 10 Rồi ông Íp-xan qua đời
và được chôn cất tại Bê-lem.
10.
Ông Ê-Lôn
11
Sau
ông Íp-xan, thì có ông Ê-lôn, người Dơ-vu-lun, làm thủ lãnh Ít-ra-en. Ông làm
thủ lãnh mười năm. 12 Rồi ông Ê-lôn, người Dơ-vu-lun, qua đời và
được chôn cất tại Ai-gia-lôn, trong đất Dơ-vu-lun.
11.
Ông Áp-Ðôn
13
Sau
ông Ê-lôn, thì có ông Áp-đôn, con ông Hi-lên, người Pia-a-thôn, làm thủ lãnh
Ít-ra-en. 14 Ông có bốn mươi con trai và ba mươi cháu trai, cỡi bảy
mươi con lừa. Ông làm thủ lãnh Ít-ra-en tám năm. 15 Rồi ông Áp-đôn,
con ông Hi-lên, người Pia-a-thôn, qua đời và được chôn cất tại Pia-a-thôn,
trong đất Ép-ra-im, trên núi của người A-ma-lếch.
Chương 13
12.
Ông Sam-Sôn
Truyền
tin ông Sam-sôn ra đời
1
Con
cái Ít-ra-en lại làm sự dữ trái mắt Ðức Chúa, và Ðức Chúa đã trao họ vào tay
người Phi-li-tinh bốn mươi năm.
2
Có
một người đàn ông ở Xo-rơ-a, thuộc chi tộc Ðan, tên là Ma-nô-ác. Vợ ông son sẻ
và không sinh con. 3 Sứ giả của Ðức Chúa hiện ra với người vợ và nói
với bà: "Này, bà là người son sẻ và không sinh con, nhưng bà sẽ có thai và
sinh một con trai. 4 Vậy bây giờ phải kiêng cữ: đừng uống rượu và
thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh sạch. 5 Vì này bà sẽ
có thai và sinh một con trai. Dao cạo sẽ không được lướt trên đầu nó, vì con
trẻ sẽ là một na-dia của Thiên Chúa từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu cứu
Ít-ra-en khỏi tay người Phi-li-tinh.” 6 Bà đi vào và nói với chồng
rằng: "Một người của Thiên Chúa đã đến gặp tôi; hình dáng của người như
hình dáng một sứ giả của Thiên Chúa, rất đáng sợ. Tôi đã không dám hỏi người từ
đâu tới; và danh tánh người, người cũng không tiết lộ cho tôi. 7 Nhưng
người nói với tôi: "Này bà sẽ có thai và sẽ sinh một con trai; bây giờ bà
phải kiêng cữ: đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh
sạch, vì con trẻ ấy sẽ là một na-dia của Thiên Chúa, từ lòng mẹ cho đến ngày nó
chết."
Thiên
sứ hiện ra lần thứ hai
8
Ông
Ma-nô-ác khẩn cầu Ðức Chúa, ông nói: "Thưa Ngài, xin vui lòng cho người
của Thiên Chúa mà Ngài đã sai, đến với chúng con một lần nữa, và dạy chúng con
phải làm gì cho đứa trẻ sẽ sinh ra.” 9 Thiên Chúa nghe tiếng ông
Ma-nô-ác, và sứ giả của Ðức Chúa lại đến gặp vợ ông, lúc bà đang ở ngoài đồng,
khi ông Ma-nô-ác, chồng bà, không có mặt ở đó. 10 Bà vội vã chạy đi
báo cho chồng, và nói với ông: "Này người đã gặp tôi hôm trước, lại hiện
ra với tôi nữa.” 11 Ông Ma-nô-ác đứng dậy đi theo vợ, đến gặp người
kia và nói: "Ngài có phải là người đã nói với bà này không?" Người ấy
đáp: "Chính tôi.” 12 Ông Ma-nô-ác nói: "Khi xảy ra như
ngài nói, thì đứa bé phải giữ luật nào, và nó phải làm gì?” 13 Sứ
giả của Ðức Chúa nói với ông Ma-nô-ác: "Tất cả những điều tôi đã nói với
bà ấy thì bà ấy phải giữ. 14 Tất cả những gì bởi cây nho mà ra, thì
bà không được ăn, cũng không được uống rượu và thức có men; tất cả những gì
không thanh sạch, thì bà không được ăn. Mọi điều tôi đã truyền, thì bà phải tuân
giữ.” 15 Ông Ma-nô-ác thưa với sứ giả của Ðức Chúa: "Xin cho
phép chúng tôi giữ ngài lại và dọn hầu ngài một con dê tơ!” 16 Sứ
giả của Ðức Chúa nói với ông Ma-nô-ác: "Ông có giữ tôi lại, tôi cũng chẳng
ăn bánh của ông; nhưng nếu ông dọn lễ toàn thiêu kính Ðức Chúa, thì ông hãy
dâng lên Người đi", vì ông Ma-nô-ác không biết người ấy là sứ giả của Ðức
Chúa. 17 Bấy giờ ông Ma-nô-ác nói với sứ giả của Ðức Chúa: "Xin
ngài cho biết quý danh, để khi xảy ra như ngài nói, chúng tôi sẽ trọng đãi
ngài!” 18 Sứ giả của Ðức Chúa nói với ông: "Sao ông lại hỏi tên
tôi? Ðó là một điều bí nhiệm.” 19 Bấy giờ ông Ma-nô-ác bắt một con
dê tơ và lấy tế phẩm, để dâng làm lễ toàn thiêu trên tảng đá kính Ðức Chúa,
Ðấng đã thực hiện những kỳ công, rồi ông Ma-nô-ác và bà vợ đứng nhìn. 20 Khi
ngọn lửa từ bàn thờ bốc lên trời, thì sứ giả của Ðức Chúa cũng lên theo trong
ngọn lửa của bàn thờ, trước sự chứng kiến của ông Ma-nô-ác và vợ ông; họ phục
lạy sát đất. 21 Sứ giả của Ðức Chúa không hiện ra với ông Ma-nô-ác
và vợ ông nữa. Bấy giờ ông Ma-nô-ác mới biết vị đó chính là sứ giả của Ðức Chúa.
22 Ông Ma-nô-ác liền nói với vợ: "Chúng ta chết mất thôi, vì đã
thấy Thiên Chúa.” 23 Nhưng vợ ông nói với ông: "Nếu Ðức Chúa có
ý định giết chúng ta, thì Người đã chẳng nhận lễ toàn thiêu và tế phẩm từ tay
chúng ta, đã chẳng cho chúng ta thấy tất cả những điều ấy, và mới đây đã chẳng
cho chúng ta nghe một điều như thế.” 24 Bà sinh được một con trai và
đặt tên là Sam-sôn. Ðứa bé lớn lên, và Ðức Chúa chúc lành cho nó. 25 Thần
khí Ðức Chúa bắt đầu tác động trên Sam-sôn tại Trại Ðan giữa Xo-rơ-a và
Ét-ta-ôn.
Chương 14
Ông
Sam-sôn kết hôn
1
Ông
Sam-sôn xuống Tim-na và để ý đến một phụ nữ trong số các con gái của người
Phi-li-tinh tại Tim-na. 2 Ông trở lên và báo cho cha mẹ rằng:
"Con đã để ý đến một phụ nữ trong số con gái của người Phi-li-tinh tại
Tim-na. Vậy xin cha mẹ cưới cô ấy cho con.” 3 Cha ông cũng như mẹ
ông nói: "Trong số con gái của bà con mày và trong tất cả dân tao, không
có phụ nữ hay sao mà mày lại đi lấy vợ trong đám người Phi-li-tinh không cắt bì
ấy?" Nhưng ông Sam-sôn trả lời cha: "Xin cha cứ cưới cô ấy cho con,
vì nàng vừa mắt con.” 4 Cha mẹ ông không biết rằng việc đó là do Ðức
Chúa xui khiến, bởi lẽ Người đang tìm cớ cho người Phi-li-tinh gây chuyện, vì
thời ấy người Phi-li-tinh đang đô hộ Ít-ra-en.
5
Ông
Sam-sôn xuống Tim-na, và khi ông tới các vườn nho ở Tim-na, thì này một con sư
tử con rống lên và chồm ra phía ông. 6 Bấy giờ thần khí của Ðức Chúa
ập xuống trên ông; ông dùng tay không xé nó ra như xé một con dê con; nhưng ông
không cho cha mẹ hay việc ông đã làm. 7 Sau đó ông xuống chuyện trò
với người phụ nữ và nàng vừa mắt Sam-sôn. 8 Ít lâu sau, ông trở lại
cưới nàng. Ông rẽ qua để xem xác chết con sư tử, thì này có một đàn ong đậu
trong bộ xương con sư tử và cả mật nữa. 9 Ông móc ra và cầm trong
tay, vừa đi vừa ăn. Rồi khi về nhà, ông biếu cha mẹ và cha mẹ ông cũng ăn.
Nhưng ông không cho cha mẹ biết là ông đã móc mật ong từ bộ xương con sư tử. 10
Sau đó cha ông đã xuống gặp người phụ nữ và tại đó ông Sam-sôn làm một
bữa tiệc, vì các trai tráng vẫn làm như thế. 11 Khi thấy ông, người
ta đã cử ba mươi người trong số bạn hữu để ở với ông.
Ông
Sam-sôn ra câu đố
12
Ông
Sam-sôn nói với họ: "Tôi ra cho các anh một câu đố. Nếu trong bảy ngày
tiệc, các anh giải được câu đố ấy và tìm ra câu đáp, thì tôi sẽ tặng các anh ba
mươi chiếc áo lụa quý và ba mươi chiếc khác để thay. 13 Nếu các anh
không giải được, thì các anh phải cho tôi ba mươi chiếc áo lụa quý và ba mươi
chiếc khác để thay." Họ nói với ông: "Anh ra câu đố đi; chúng tôi
nghe đây!” 14 Ông liền nói với họ:
"Thức
ăn xuất tự người dùng,
ngọt
ngào xuất tự sức hùng, là chi?"
Nhưng
sau ba ngày họ vẫn không giải được câu đố.
15
Ngày
thứ tư họ nói với vợ ông Sam-sôn: "Hãy dụ chồng chị để anh ấy giải nghĩa
câu đố cho chúng tôi, nếu không, chúng tôi sẽ nổi lửa đốt cả chị lẫn nhà cha
chị. Có phải để bóc lột chúng tôi mà các người đã mời chúng tôi tới đây hay
không?” 16 Vợ ông Sam-sôn khóc tỉ tê bên ông. Nàng nói: "Anh
chỉ có ghét em thôi, chẳng yêu em chút nào. Anh ra câu đố cho đồng bào em, mà
lại không giải cho em." Ông nói với nàng: "Này, cha mẹ anh, anh cũng
còn không giải cho, huống chi là em!” 17 Nhưng nàng khóc tỉ tê bên
ông suốt bảy ngày tiệc. Ngày thứ bảy ông đã giải nghĩa cho nàng, vì nàng quấy
rầy ông; và nàng giải câu đố cho đồng bào mình.
18
Ngày
thứ bảy, trước khi mặt trời lặn, người trong thành nói với ông:
"Cái
gì ngọt quá mật ong,
khoẻ
hơn sư tử thì ông chịu hàng! "
Ông
bảo họ:
"Không
cày với bò cái của ta,
tụi
bay đã chẳng tìm ra câu này!"
19
Bấy
giờ thần khí của Ðức Chúa ập xuống trên ông; ông liền xuống Át-cơ-lôn và giết
ba mươi người trong bọn họ, lột áo của những người ấy, rồi trao những áo để
thay cho những kẻ đã giải được câu đố. Ông bừng bừng nổi giận trở về nhà cha
ông. 20 Còn vợ của ông Sam-sôn, thì được gán cho một người đã làm
phù rể cho ông.
Chương 15
Ông
Sam-sôn đốt mùa màng của người Phi-li-tinh
1
Ít
lâu sau, vào mùa gặt lúa miến, ông Sam-sôn mang một con dê tơ đến thăm vợ. Ông
nói: "Tôi muốn vào phòng ngủ của vợ tôi"; nhưng bố vợ không cho ông
vào. 2 Bố vợ nói: "Thật sự tôi tưởng là anh đã chán ghét nó,
nên tôi đã trao nó cho người đã làm phù rể cho anh. Con em nó lại chẳng khá hơn
nó sao? Vậy để con em thay cho chị nó đi!” 3 Ông Sam-sôn nói với họ:
"Lần này thì tôi vô tội đối với người Phi-li-tinh, nếu tôi làm hại chúng.”
4 Ông Sam-sôn đi bắt ba trăm con chó sói; lấy đuốc, rồi cột ngược
đuôi con này với đuôi con kia và buộc một chiếc đuốc giữa hai đuôi. 5 Ông
châm lửa vào đuốc và lùa sói vào đồng lúa chín của người Phi-li-tinh, thiêu rụi
từ gốc rạ cho đến bông lúa, thiêu cả nho và ô-liu nữa.
6
Người
Phi-li-tinh hỏi: "Ai đã làm chuyện này?" Và người ta đáp: "Ðó là
Sam-sôn, con rể của ông người Tim-na, vì ông ấy đã đem vợ hắn gán cho người phù
rể của hắn." Những người Phi-li-tinh đi lên, nổi lửa đốt cả nàng lẫn cha
nàng. 7 Ông Sam-sôn nói với họ: "Vì chúng bay đã làm như thế,
thì tao sẽ trả thù cho được mới thôi.” 8 Ông đánh cho chúng một trận
tơi bời, khiến chúng bị thảm bại. Rồi ông xuống ở trong một hốc đá tại Ê-tham.
Hàm
lừa
9
Người
Phi-li-tinh lên đóng trại ở Giu-đa và tràn ra tới Lê-khi.
10
Người
Giu-đa nói với chúng: "Tại sao các anh lại lên chống chúng tôi? "
Chúng đáp; "Ðể bắt trói Sam-sôn; chúng tôi lên để xử với hắn như hắn đã xử
với chúng tôi” 11 Ba ngàn người Giu-đa xuống hốc đá ở Ê-tham, nói
với ông Sam-sôn: "Ông không biết là người Phi-li-tinh đang đô hộ chúng ta
sao? Ông đã làm gì cho chúng tôi thế?" Ông trả lời họ: "Chúng xử với
tôi làm sao, tôi cũng xử với chúng như vậy!” 12 Họ nói: "Chúng
tôi xuống bắt trói và nộp ông cho người Phi-li-tinh!" Ông Sam-sôn nói với
họ: "Các anh phải thề với tôi là chính các anh sẽ không đập chết tôi.” 13
Họ đáp: "Chúng tôi chỉ bắt trói và nộp ông cho chúng thôi; chứ giết
ông thì chúng tôi không giết." Rồi họ dùng hai chiếc dây thừng mới mà trói
ông và xốc ông lên khỏi hốc đá.
14
Ông
vào đến Lê-khi, thì người Phi-li-tinh reo hò ra đón ông. Bấy giờ khi thần khí
của Ðức Chúa ập xuống trên ông, thì những chiếc dây thừng trên cánh tay ông tựa
như những sợi chỉ cháy xèo trong lửa và dây cột tay ông đều tuột xuống. 15
Vớ được một hàm lừa còn tươi, ông đưa tay lượm lấy và dùng nó đánh chết
một ngàn người. 16 Ông Sam-sôn nói:
"Với
một hàm lừa ta đã giết chúng từng đống,
với
một hàm lừa ta đánh chết cả ngàn tên."
17
Nói
xong ông liệng chiếc hàm khỏi tay, và gọi nơi ấy là Ra-mát Lê-khi. 18 Ông
khát quá, nên kêu cầu Ðức Chúa rằng: "Ngài là Ðấng đã dùng tay tôi tớ Ngài
thực hiện cuộc chiến thắng vĩ đại này, mà chẳng lẽ giờ đây con lại phải chết
khát và rơi vào tay những kẻ không cắt bì?” 19 Bấy giờ Thiên Chúa xẻ
khe đá ở Lê-khi, nước liền vọt ra; ông uống, thấy hồi sức và tỉnh táo lại. Bởi
thế người ta gọi nơi ấy là Ên Ha-cô-rê; suối ấy vẫn còn ở Lê-khi cho tới ngày
nay. 20 Ông Sam-sôn làm thủ lãnh Ít-ta-en hai mươi năm trong thời
người Phi-li-tinh cai trị.
Chương 16
Chuyện
xảy ra ở cổng thành Ga-da
1
Ông
Sam-sôn đến Ga-da. Tại đây ông gặp một cô điếm và đi với cô. 2 Người
ta báo cho những người Ga-da rằng: "Sam-sôn đã tới đây." Họ liền bao
vây và rình ông suốt đêm ấy ở cổng thành. Họ ở yên suốt đêm mà rằng: "Ðợi
đến tảng sáng, ta sẽ giết hắn.” 3 Nhưng ông Sam-sôn nằm ngủ tới nửa
đêm, và giữa đêm ông trỗi dậy, nắm lấy cánh cổng thành cùng với hai cây cột,
nhổ luôn cả then ngang, rồi vác lên vai, đi trên đỉnh núi đối diện với
Khép-rôn.
Ông
Sam-sôn bị Ða-li-la phản trắc
4
Sau
đó ông phải lòng một phụ nữ tên là Ða-li-la, ở thung lũng Xô-rếch. 5 Các
vương hầu Phi-li-tinh lên gặp cô ta. Họ nói với nàng: "Cô hãy dụ hắn xem
bởi đâu hắn có sức mạnh như thế, và chúng tôi phải dùng cách nào mới trị được
hắn, trói làm sao mới khống chế được hắn, rồi mỗi người chúng tôi sẽ cho cô một
ngàn mốt bạc."
6
Ða-li-la
nói với ông Sam-sôn: "Nào cho em biết, em xin anh: bởi đâu anh có sức mạnh
như thế? Trói làm sao mới khống chế anh được?” 7 Ông Sam-sôn đáp:
"Nếu trói anh bằng bảy dây cung mới, chưa phơi khô, thì anh sẽ mất sức và
trở nên như bất cứ một người nào khác.” 8 Các vương hầu Phi-li-tinh
đem đến cho nàng bảy dây cung mới chưa phơi khô; nàng dùng các dây ấy trói ông
lại, 9 đang khi cho người rình sẵn trong phòng. Nàng nói với ông:
"Này anh Sam-sôn! Quân Phi-li-tinh đấy!" Ông liền giật đứt các dây
cung như sợi đay đứt khi đụng vào lửa. Thế là sức mạnh của ông không bị tiết
lộ.
10
Bấy
giờ Ða-li-la nói với ông Sam-sôn: "Anh chỉ xí gạt em thôi, toàn nói xạo
không à! Bây giờ hãy cho em biết, em xin anh: phải dùng cái gì mới trói được
anh?” 11 Ông nói với nàng: "Nếu trói chặt anh bằng những dây
thừng mới, chưa dùng vào việc gì, thì anh sẽ mất sức và trở nên như bất cứ một
người nào khác.” 12 Ða-li-la liền lấy những dây thừng mới, trói ông
lại, rồi nói: "Này anh Sam-sôn, quân Phi-li-tinh đấy!" Ðang khi cho
người rình sẵn trong phòng. Nhưng ông đã giựt bung các dây thừng đó khỏi cánh
tay như giựt một sợi chỉ.
13
Ða-li-la
lại nói với ông Sam-sôn: "Ðến bây giờ mà anh vẫn còn xí gạt em, toàn nói
xạo không à! Hãy cho em biết phải dùng cái gì mới trói được anh!" Ông nói
với nàng: "Nếu em kết tóc trên đầu anh thành bảy bím, rồi cột vào dây
thừng của khung dệt, đóng cọc siết cho chặt, thì anh sẽ mất sức và trở nên như
bất cứ người nào khác.” 14 Vậy nàng làm cho ông ngủ, đoạn kết tóc trên
đầu ông thành bảy bím rồi cột vào dây thừng của khung dệt và đóng cọc siết cho
chặt. Nàng nói với ông: "Này anh Sam-sôn, quân Phi-li-tinh đấy!" Ông
tỉnh giấc và bứng cả cọc, cả khung dệt, lẫn dây thừng của khung dệt.
15
Nàng
lại nói với ông: "Làm sao anh nói là anh yêu em, trong khi anh không thật
lòng với em? Ðây là lần thứ ba anh xí gạt em và không tỏ cho em biết: bởi đâu
anh có sức mạnh như thế?” 16 Vì ngày nào nàng cũng dùng hết lời lẽ
mà nài ép và làm khổ ông, khiến ông héo hắt đến chết được, 17 ông
thổ lộ hết tâm can với nàng, và nói: "Dao cạo chưa hề đụng đến đầu anh, vì
anh là một na-dia của Thiên Chúa từ lúc còn trong lòng mẹ. Nếu anh bị cạo đầu
thì anh sẽ mất sức ngay, trở nên yếu nhược và như mọi người khác.” 18 Ða-li-la
thấy rằng ông đã thổ lộ hết tâm can với nàng, liền sai người đi gọi các vương
hầu Phi-li-tinh và nói: "Lần này các ông hãy lên, vì anh ấy đã thổ lộ hết
tâm can với tôi." Các vương hầu Phi-li-tinh liền lên gặp nàng, mang sẵn
bạc trong tay. 19 Vậy nàng làm cho ông ngủ trên đầu gối mình, rồi
kêu người cạo bảy bím tóc trên đầu ông; nàng bắt đầu khống chế ông, và ông đã
mất sức. 20 Nàng nói: "Này anh Sam-sôn, quân Phi-li-tinh
đấy!" Ông tỉnh giấc và nói: "Mình sẽ bung ra như mọi lần và lại thoát
thôi." Nhưng ông đâu có biết: Ðức Chúa không còn ở với ông nữa. 21 Quân
Phi-li-tinh bắt lấy ông, móc mắt và giải ông xuống Ga-da. Chúng chập xích đồng
lại, cột ông và bắt ông kéo cối xay trong nhà tù.
Ông
Sam-sôn trả thù rồi chết
22
Nhưng
rồi từ cái đầu bị cạo trọc, tóc ông lại mọc ra. 23 Các vương hầu
Phi-li-tinh họp lại để long trọng tế thần Ða-gôn của chúng và ăn mừng. Chúng
nói:
"Thần
của ta đã trao vào tay ta tên Sam-sôn, kẻ thù của ta."
24
Khi
nhìn thấy ông, dân chúng reo hò tung hô thần của chúng và nói:
"Thần
của ta đã trao vào tay ta tên Sam-sôn, kẻ thù của ta,
kẻ
tàn phá xứ sở ta, kẻ tăng thêm số tử vong của ta."
25
Trong
khi lòng hả hê, chúng nói: "Hãy gọi Sam-sôn ra làm trò tiêu khiển cho
chúng ta!" Vậy chúng kêu ông Sam-sôn từ nhà tù đến; và ông làm trò tiêu
khiển trước mặt chúng. Rồi chúng đặt ông đứng giữa các cột. 26 Bấy
giờ ông Sam-sôn nói với cậu thiếu niên đang dắt tay ông: "Cậu dẫn tôi đi
và cho tôi sờ vào các cột cái chống đỡ toà nhà, để tôi dựa lưng.” 27 Toà
nhà lúc đó đầy chật đàn ông đàn bà. Tất cả các vương hầu Phi-li-tinh đều ở đó,
và trên sân thượng có khoảng ba ngàn đàn ông đàn bà đang coi ông Sam-sôn làm
trò tiêu khiển. 28 Ông Sam-sôn kêu cầu Ðức Chúa và thưa: "Lạy
Ðức Chúa là Chúa Thượng của con, xin nhớ đến con và ban sức cho con lần này nữa
thôi, ôi lạy Thiên Chúa, để chỉ đánh một trận là con trả thù được quân
Phi-li-tinh đã móc mắt con.” 29 Bấy giờ ông Sam-sôn rờ vào hai chiếc
cột ở giữa, là những cột cái chống đỡ toà nhà, và ông tì vào các cột ấy, tay
mặt bên này, tay trái bên kia. 30 Rồi ông Sam-sôn nói: "Ðành
chết với bọn Phi-li-tinh vậy!" Ðoạn ông dùng sức đẩy mạnh, và toà nhà sụp
đổ đè các vương hầu và tất cả dân chúng có mặt ở đó. Thành ra số người ông giết
được khi ông chết lại đông hơn số người ông đã giết được khi còn sống. 31 Anh
em ông và cả nhà cha ông xuống đưa ông về chôn cất giữa Xo-rơ-a và Ét-ta-ôn
trong phần mộ ông Ma-nô-ác, cha ông. Ông làm thủ lãnh Ít-ra-en được hai mươi
năm.
Chương 17
Phụ
Lục
1.
Nhà Thờ Của Ông Mi-Kha Và Nhà Thờ Của Họ Ðan
Nhà
thờ tư của ông Mi-kha
1
Xưa
có một người thuộc vùng núi Ép-ra-im, tên là Mi-kha-giơ-hu. 2 Ông
thưa với bà mẹ: "Số bạc một ngàn một trăm thỏi mà người ta đã lấy mất của
mẹ, khiến mẹ chửi rủa và mẹ cũng đã nói cho con nghe, thì này số bạc đó, con
đang giữ đây; chính con đã lấy đó." Mẹ ông liền nói: "Xin Ðức Chúa
chúc lành cho con tôi!” 3 Ông trả lại mẹ ông số bạc một ngàn một
trăm thỏi, nhưng mẹ ông nói: "Chính tay mẹ đã dâng hiến trọn số bạc này
cho Ðức Chúa, để con của mẹ dùng làm một tượng, một hình đúc bằng kim khí. Vậy
bây giờ mẹ đưa lại cho con."
4
Nhưng
ông trả số bạc lại cho mẹ. Mẹ ông giữ lấy hai trăm thỏi, rồi trao cho thợ đúc,
người này làm một tượng, một hình đúc, đặt tại nhà ông Mi-kha-giơ-hu. 5 Ông
Mi-kha này có một nhà thờ; ông đã làm một ê-phốt và các te-ra-phim, rồi phong
cho một người trong các con làm tư tế cho ông. 6 Thời đó Ít-ra-en
không có vua, ai muốn làm gì thì làm.
7
Có
một thanh niên, người Bê-lem Giu-đa, thuộc chi tộc Giu-đa. Anh là một thầy
Lê-vi ở đó như khách trú. 8 Người ấy đi khỏi thành Bê-lem Giu-đa để
tìm chỗ cư trú. Trên đường đi, anh vào vùng núi Ép-ra-im đến nhà ông Mi-kha. 9
Ông Mi-kha nói với anh: "Anh từ đâu tới?" Anh nói với ông:
"Tôi là một người Lê-vi thuộc Bê-lem Giu-đa; tôi đi tìm chỗ cư trú.” 10
Ông Mi-kha nói với anh: "Xin ở lại đây với tôi, để làm sư phụ và tư
tế cho tôi. Phần tôi, mỗi năm tôi sẽ cung cấp cho anh mười thỏi bạc, áo mặc và
lương thực cần dùng.” 11 Thầy Lê-vi đồng ý ở lại với ông; người trẻ
tuổi ấy được ông coi như một trong các con ông. 12 Ông Mi-kha phong
cho thầy Lê-vi làm tư tế; người trẻ tuổi ấy trở thành tư tế của ông và ở trong
nhà ông Mi-kha. 13 Ông Mi-kha nói: "Bây giờ tôi biết Ðức Chúa
sẽ phù hộ tôi vì tôi đã có một thầy Lê-vi làm tư tế."
Chương 18
Những
người thuộc chi tộc Ðan đi kiếm đất
1
Thời
ấy Ít-ra-en không có vua. Cũng thời ấy chi tộc Ðan đang tìm đất làm gia nghiệp
để định cư, vì cho tới ngày đó họ không được lãnh phần gia nghiệp riêng giữa
các chi tộc Ít-ra-en. 2 Vậy con cái Ðan sai năm người dũng cảm trong
thị tộc của họ, ra khỏi ranh giới Xo-rơ-a và Ét-ta-ôn, rảo quanh khắp xứ để do
thám. Họ nói với những người này: "Các anh hãy đi do thám đất đai."
Năm người đi vào vùng núi Ép-ra-im. Ðến gần nhà ông Mi-kha và qua đêm tại đây. 3
Vì họ ở cạnh nhà ông Mi-kha, nên đã nhận ra tiếng của chàng thanh niên
Lê-vi; họ đã rẽ qua đó và nói với anh: "Ai đã bảo anh tới đây? Anh làm gì
ở đây? Chuyện gì đã xảy ra cho anh tại đây?” 4 Anh trả lời họ:
"Ông Mi-kha đã làm cho tôi thế này thế này: ông đã thuê tôi và tôi đã trở
thành tư tế của ông.” 5 Họ nói với anh: "Xin anh thỉnh vấn
Thiên Chúa cho chúng tôi biết công cuộc chúng tôi đang theo đuổi có thành tựu
hay không.” 6 Thầy tư tế bảo họ: "Các anh cứ đi bình an; Ðức
Chúa để mắt nhìn xem công cuộc các anh đang theo đuổi."
7
Năm
người ấy ra đi. Họ vào La-gít và thấy dân chúng ở đây an cư lạc nghiệp theo kiểu
người Xi-đôn, yên lành và an tâm, không thiếu hụt gì trong xứ. Dân chúng thừa
hưởng của cải, lại ở xa người Xi-đôn, và không có chuyện gì với ai cả. 8 Năm
người ấy trở về với anh em ở Xo-rơ-a và Ét-ta-ôn. Anh em họ hỏi: "Thế nào?”
9 Họ đáp: "Ðứng lên! Chúng ta hãy lên đánh chúng! Vì chúng tôi
đã thấy xứ đó: Thật là tuyệt vời! Thế mà các anh cứ điềm nhiên! Ðừng chần chừ
nữa: đi đi, vào chiếm lấy xứ ấy! 10 Tới nơi các anh sẽ gặp một dân yên lành,
một xứ mênh mông bốn bề bát ngát. Chắc chắn là Thiên Chúa đã trao đất ấy vào
tay các anh: Ðó là một nơi không thiếu hụt gì trên mặt đất."
Cuộc
di dân của họ Ðan
11
Vậy
một số người thuộc chi tộc Ðan, là sáu trăm người được võ trang để chiến đấu,
đã rời khỏi nơi ấy, từ Xo-rơ-a và từ Ét-ta-ôn. 12 Họ tiến lên đóng
trại tại Kia-giát Giơ-a-rim miền Giu-đa. Bởi thế người ta gọi nơi ấy là Trại
Ðan cho tới ngày nay. Nơi ấy ở phía tây Kia-giát Giơ-a-rim. 13 Từ
đấy họ qua vùng núi Ép-ra-im và đến tận nhà ông Mi-kha.
14
Năm
người đã đi thăm dò đất La-gít lên tiếng nói với anh em họ: "Các anh biết
không? Trong các ngôi nhà đó có một ê-phốt, mấy te-ra-phim, một tượng, một hình
đúc bằng kim khí. Vậy bây giờ các anh nghĩ xem phải làm gì.” 15 Họ
rẽ qua hướng đó, vào nhà thầy Lê-vi trẻ tuổi, trong nhà ông Mi-kha, và chào hỏi
thầy, 16 đang khi sáu trăm người trong số con cái họ Ðan, được võ
trang để chiến đấu, chực sẵn ở ngưỡng cửa. 17 Năm người đã đi thăm
dò đất và đã vào đấy, liền lấy tượng, ê-phốt, te-ra-phim và hình đúc bằng kim
khí đang khi thầy tư tế chực sẵn ở ngưỡng cửa cùng với sáu trăm người được võ
trang để chiến đấu. 18 Vậy những người ấy đã vào nhà ông Mi-kha lấy
tượng, ê-phốt, te-ra-phim và hình đúc bằng kim khí. Nhưng thầy tư tế nói với
họ: "Các anh làm gì thế?” 19 Họ bảo thầy: "Im! Lấy tay bịt
miệng lại và đi theo chúng tôi, thầy sẽ là sư phụ và tư tế của chúng tôi. Thầy
làm tư tế cho gia đình của một người hơn là cho cả một chi tộc và một thị tộc
trong Ít-ra-en sao?” 20 Thầy Tư tế, lòng đầy phấn khởi, liền cầm lấy
ê-phốt, te-ra-phim và hình đúc bằng kim khí, rồi nhập đoàn với họ.
21
Họ
lui gót ra đi. Họ để đàn bà, con trẻ, súc vật và hành lý đi trước. 22 Khi
những người ấy đã đi xa nhà ông Mi-kha, thì hàng xóm láng giềng của ông Mi-kha
tri hô lên, và rượt theo con cái Ðan. 23 Họ gọi theo con cái Ðan;
những người này quay lại, nói với ông Mi-kha: "Chuyện gì mà ông la ó thế?”
24 Ông trả lời: "Các ngươi đánh cắp tượng thần ta đã làm, lại
còn rước cả tư tế đi, thì ta còn gì nữa? Vậy mà còn hỏi "Chuyện gì
thế", thế là thế nào?” 25 Con cái Ðan đáp: "Ðừng bắt chúng
tôi phải nghe ông nói nữa, kẻo những kẻ bực bội sẽ tấn công các người, và ông
cùng gia đình ông sẽ mất mạng.” 26 Rồi con cái Ðan tiếp tục đi. Còn
ông Mi-kha, thấy họ mạnh hơn mình, thì quay gót trở về nhà.
Chiếm
La-gít. Thiết lập họ Ðan và nhà thờ.
27
Các
người ấy lấy tượng ông Mi-kha đã làm, và đem theo thầy tư tế đã ở với ông; rồi
họ đánh La-gít, chống một dân yên lành và an tâm. Họ dùng lưỡi kiếm chém giết
dân ấy và nổi lửa đốt thành. 28 Không có ai tiếp cứu, vì thành ấy ở
xa Xi-đôn và không có liên hệ gì với ai cả. Thành ấy nằm trong thung lũng gần
Bết Rơ-khốp. Họ xây lại thành và định cư ở đấy. 29 Họ đặt tên thành
là Ðan, theo tên ông tổ của họ là Ðan, con của ông Ít-ra-en. Thực ra trước kia
tên thành là La-gít. 30 Con cái Ðan dựng tượng ấy lên mà thờ. Ông
Giơ-hô-na-than, con ông Ghéc-sôm, cháu ông Mơ-na-se, ông và con cái ông làm tư
tế cho họ Ðan mãi tới ngày dân trong nước bị lưu đày. 31 Vậy tượng
ông Mi-kha đã làm, thì họ dựng lên mà thờ, trong suốt thời gian có nhà Thiên
Chúa ở Si-lô.
Chương 19
2.
Tội Ác Của Dân Ghíp-A.
Chiến
Tranh Chống Ben-Gia-Min.
Người
Lê-vi vùng Ép-ra-im và cô tỳ thiếp
1
Thời
ấy -thời Ít-ra-en chưa có vua- có một người Lê-vi cư trú trong thung lũng vùng
núi Ép-ra-im. Người ấy lấy một phụ nữ Bê-lem Giu-đa làm tỳ thiếp. 2 Người
tỳ thiếp giận chồng, bỏ về nhà cha mình tại Bê-lem Giu-đa. Nàng lưu lại đây một
thời gian là bốn tháng. 3 Chồng nàng lên đường đi tìm nàng để năn
nỉ, mong đưa nàng về với mình. Cùng đi với chàng, có một người đầy tớ và hai
con lừa. Nàng dẫn chàng vào nhà cha mình. Khi thấy chàng, người cha của thiếu
phụ vui mừng ra đón chàng. 4 Ông bố vợ, cha của thiếu phụ, giữ chàng
lại, nên chàng ở với ông ba ngày. Họ ăn uống và qua đêm tại đó. 5 Ngày
thứ tư, chàng dậy sớm và chuẩn bị lên đường, thì cha của thiếu phụ nói với con
rể: "Anh dùng chút bánh lót dạ đã, rồi hãy đi.” 6 Họ ngồi xuống
và cả hai cùng ăn uống với nhau. Ðoạn cha của thiếu phụ lại nói với anh ta:
"Mời anh ở lại qua đêm cho thoải mái.” 7 Khi người ấy đứng lên
đi, thì ông bố vợ nài ép, nên chàng ở lại qua đêm nữa. 8 Ngày thứ
năm chàng dậy sớm để lên đường, nhưng cha của thiếu phụ nói: "Mời anh ăn
lót dạ đã." Thế là họ lại kéo dài tới xế chiều và cả hai cùng ăn với nhau.
9 Khi người ấy đứng lên đi cùng với người tỳ thiếp và tên đầy tớ,
thì bố vợ, cha của thiếu phụ, nói với chàng: "Này trời đã về chiều, hãy
qua đêm đã! Ðây ngày sắp tàn, hãy qua đêm tại đây cho thoải mái. Ngày mai các
người sẽ dậy sớm lên đường và anh sẽ về lều của anh.” 10 Nhưng người
ấy không muốn ở lại qua đêm; chàng đứng lên và đi cho tới khi nhìn thấy Giơ-vút
tức là Giê-ru-sa-lem. Cùng đi với chàng có hai con lừa đã thắng yên, người tỳ
thiếp và tên đầy tớ của chàng.
Tội
ác của dân Ghíp-a
11
Khi
họ đến gần Giơ-vút, thì lúc ấy, giờ đã quá muộn. Người đầy tớ nói với chủ:
"Thưa ngài, chúng ta nên rẽ vào thành của người Giơ-vu-xi mà qua đêm tại
đó.” 12 Người chủ trả lời: "Chúng ta sẽ không rẽ vào một thành
nào của người xa lạ, vì những người đó không phải là con cái Ít-ra-en; chúng ta
cứ đi cho tới Ghíp-a.” 13 Chàng còn nói với tên đầy tớ: "Ði!
Chúng ta hãy tới một trong các nơi kia; chúng ta sẽ nghỉ đêm tại Ghíp-a hoặc
Ra-ma.” 14 Vậy họ tiếp tục đi; khi họ tới sát Ghíp-a thuộc
Ben-gia-min thì mặt trời lặn. 15 Họ liền ghé vào Ghíp-a để qua đêm.
Chàng vào ngồi ở công trường thành phố, nhưng không ai mời họ về nhà nghỉ đêm.
16
Chiều
đến bỗng có một cụ già đi làm ruộng về. Cụ là người vùng núi Ép-ra-im, nhưng cư
trú ở Ghíp-a; còn người địa phương thì là con cái Ben-gia-min. 17 Cụ
già ngước mắt lên và thấy người lữ khách ở công trường thành phố, liền nói với
người ấy: "Anh đi đâu, và từ đâu tới?” 18 Chàng trả lời:
"Chúng tôi từ Bê-lem Giu-đa đi về thung lũng vùng núi Ép-ra-im, quê tôi ở
đấy. Tôi đã đến Bê-lem Giu-đa và bây giờ đang trên đường trở về nhà. Thế nhưng
chẳng người nào đón tiếp tôi cả. 19 Cỏ rơm cho lừa ăn, tôi có sẵn,
cả bánh và rượu để tôi, nữ tỳ của ông và thằng bé đi theo tôi tớ của ông dùng,
cũng đều có, không thiếu thứ gì.” 20 Cụ già nói: "Chúc anh bình
an! Anh cần gì, cứ để tôi lo; chỉ xin anh đừng nghỉ đêm ở công trường.” 21
Vậy cụ đưa chàng vào nhà mình và vất rơm cho lừa ăn. Họ rửa chân rồi ăn
uống.
22
Ðang
lúc họ ăn uống vui vẻ như vậy, thì này có những người dân trong thành, những kẻ
vô lại, bao vây nhà ấy, vừa đập cửa dồn dập, vừa nói với cụ già là gia chủ:
"Hãy đưa người đàn ông đã vào nhà ông ra đây cho chúng tôi chơi!” 23 Cụ
chủ nhà ra gặp chúng và nói: "Này anh em, tôi van anh em đừng làm chuyện
ác đức! Một khi người đàn ông này đã vào nhà tôi rồi, thì xin các anh đừng làm
điều bỉ ổi. 24 Này tôi có đứa con gái còn trinh, và người tỳ thiếp
của anh ta nữa. Tôi đưa họ ra cho các anh cưỡng hiếp và xử với họ thế nào tuỳ
ý. Còn đối với người này thì đừng làm điều bỉ ổi ấy.” 25 Nhưng đám
người đó không thèm nghe. Bấy giờ người kia dẫn tỳ thiếp của mình ra ngoài cho
chúng chơi. Chúng cưỡng hiếp nàng suốt đêm cho tới sáng, và lúc rạng đông mới
buông tha.
26
Gần
sáng, khi người đàn bà trở về, thì nàng té xỉu ngay lối vào nhà cụ già, nơi
chồng nàng đang trọ. Nàng nằm đấy cho tới sáng hẳn. 27 Sáng ngày ra
chồng nàng dậy, mở cửa và chuẩn bị lên đường, thì này người đàn bà, tỳ thiếp
của chàng nằm bên cửa nhà, hai tay vắt trên ngưỡng cửa. 28 Chàng gọi
nàng: "Dậy đi! Chúng ta lên đường", nhưng không một tiếng trả lời.
Bấy giờ chàng xốc nàng lên lừa, rồi khởi hành về nhà. 29 Về tới nhà,
chàng lấy dao đem chặt người tỳ thiếp ra từng mảnh, thành mười hai phần, rồi
gởi đi khắp lãnh thổ Ít-ra-en. 30 Mọi người, ai thấy cũng đều nói:
"Chưa xảy ra và chưa hề thấy như thế bao giờ, kể từ ngày con cái Ít-ra-en
từ đất Ai-cập đi lên cho tới nay. Hãy suy nghĩ xem, hãy bàn luận và lên
tiếng!"
Chương 20
Người
Ít-ra-en trả thù tội ác Ghíp-a
1
Tất
cả cộng đồng con cái Ít-ra-en, từ Ðan tới Bơ-e Se-va và đất Ga-la-át, họp lại,
muôn người như một, bên cạnh Ðức Chúa ở Mít-pa. 2 Các người đứng đầu
toàn dân và các chi tộc Ít-ra-en, đều tham dự công hội của Dân Thiên Chúa, tất
cả là 400.000 bộ binh biết tuốt gươm. 3 Con cái Ben-gia-min nghe tin
rằng con cái Ít-ra-en đã lên Mít-pa. Con cái Ít-ra-en nói: "Hãy kể đi! Tội
ác đó đã xảy ra thế nào?” 4 Bấy giờ người Lê-vi, chồng của người đàn
bà đã bị giết, lên tiếng nói: "Tôi cùng với người tỳ thiếp đến Ghíp-a
thuộc Ben-gia-min để nghỉ đêm. 5 Các thân hào Ghíp-a đã xông đến phá
tôi, và suốt đêm bao vây nhà tôi ở, để hại tôi, vì họ định giết tôi. Còn người
tỳ thiếp của tôi thì họ cưỡng hiếp cho đến chết. 6 Vậy tôi đã đem
chặt người tỳ thiếp của tôi ra từng phần, rồi gởi đi khắp lãnh thổ thuộc gia
nghiệp Ít-ra-en, bởi vì những người ấy đã làm một điều sỉ nhục và bỉ ổi trong
Ít-ra-en. 7 Này đây, tất cả quý vị là con cái Ít-ra-en, hãy trao đổi
ý kiến và quyết định tại đây.” 8 Toàn dân, muôn người như một, đứng
lên nói: "Không ai được về lều, không ai được trở lại nhà! 9 Bây giờ,
chúng ta sẽ làm thế này đối với Ghíp-a, là rút thăm xem ai sẽ lên tấn công nó!
10 Trong tất cả các chi tộc Ít-ra-en, cứ 100 người thì lấy 10, 1.000 thì lấy
100, 10.000 thì lấy 1.000, để tải lương cho dân quân, là những người khi đến
nơi sẽ xử với Ghíp-a thuộc Ben-gia-min, tương xứng với điều bỉ ổi nó đã làm tại
Ít-ra-en.” 11 Như thế tất cả mọi người Ít-ra-en đã họp nhau muôn
người như một, để chống lại thành ấy.
Người
Ben-gia-min ngoan cố
12
Các
chi tộc Ít-ra-en sai người đi nói với toàn thể chi tộc Ben-gia-min: "Tội
ác như vậy đã xảy ra nơi các người là thế nào? 13 Bây giờ hãy nộp những con
người đó, những kẻ vô lại ở Ghíp-a, để chúng tôi xử tử chúng và khử trừ tội ác
khỏi Ít-ra-en." Nhưng con cái Ben-gia-min không muốn nghe lời con cái
Ít-ra-en là anh em mình.
Giao
tranh đầu tiên
14
Bấy
giờ con cái Ben-gia-min từ các thành tập họp lại ở Ghíp-a để đi giao chiến với
con cái Ít-ra-en. 15 Ngày hôm ấy, con cái Ben-gia-min từ các thành
được kiểm tra là 26.000 người biết tuốt gươm, không kể dân cư ở Ghíp-a. 16
Trong tất cả đám dân đó có 700 tinh binh thuận tay trái; những người này
đều có thể dùng ná bắn một hòn đá trúng một sợi tóc mà không sai trệch. 17
Con cái Ít-ra-en cũng được kiểm tra, tổng số là 400.000 người biết tuốt
gươm, không kể Ben-gia-min; tất cả đều là chiến binh. 18 Họ chỗi dậy
tiến lên Bết Ên để thỉnh vấn Thiên Chúa. Con cái Ít-ra-en hỏi: "Ai trong
chúng con sẽ lên trước để giao chiến với con cái Ben-gia-min?" Ðức Chúa
phán: "Giu-đa lên trước.” 19 Sáng sớm con cái Ít-ra-en tiến lên
đóng trại tấn công Ghíp-a. 20 Người Ít-ra-en ra đi giao chiến với
Ben-gia-min, và người Ít-ra-en dàn trận chống Ghíp-a. 21 Con cái
Ben-gia-min từ Ghíp-a xông ra, và hôm ấy họ giết được 22 000 người Ít-ra-en nằm
ngổn ngang trên mặt đất. 22 Nhưng đạo quân Ít-ra-en phục hồi được
khí thế và lại dàn trận để chiến đấu tại chính nơi đã dàn trận hôm trước. 23
Sở dĩ như thế là vì con cái Ít-ra-en đã lên kêu khóc trước nhan Ðức Chúa
cho đến chiều và thỉnh vấn Ðức Chúa rằng: "Con còn phải giao tranh chống
con cái Ben-gia-min, anh em con nữa không?" Ðức Chúa trả lời: "Tiến
lên đánh nó đi!” 24 Ngày thứ hai con cái Ít-ra-en tới gần con cái
Ben-gia-min. 25 Nhưng ngày thứ hai này Ben-gia-min từ Ghíp-a cũng
xông ra ứng chiến, và trong số con cái Ít-ra-en họ còn giết được 18.000 người
nằm ngổn ngang trên mặt đất, toàn là những người biết tuốt gươm. 26 Bấy
giờ tất cả con cái Ít-ra-en và toàn dân đã lên Bết Ên; họ ngồi khóc tại đây
trước nhan Ðức Chúa. Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều. Rồi họ dâng lễ toàn thiêu
và lễ kỳ an lên trước nhan Ðức Chúa. 27 Con cái Ít-ra-en đã thỉnh
vấn Ðức Chúa - thời bấy giờ ở đấy có Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa, 28 và
có ông Pin-khát con ông E-la-da, cháu ông A-ha-ron, túc trực trước Hòm Bia - họ
hỏi rằng: "Con còn phải lâm trận chống con cái Ben-gia-min, anh em con nữa
hay là thôi?" Ðức Chúa trả lời: "Các ngươi cứ lên, vì sáng mai Ta sẽ
trao chúng vào tay (các) ngươi."
Ben-gia-min
bại trận
29
Bấy
giờ Ít-ra-en đặt quân phục kích bao vây Ghíp-a. 30 Ngày thứ ba, con
cái Ít-ra-en tiến lên đánh con cái Ben-gia-min, và dàn trận tấn công Ghíp-a như
nhữmg lần trước. 31 Con cái Ben-gia-min xông ra ứng chiến với đạo
quân ấy và bị nhử ra xa thành. Như những lần trước, chúng bắt đầu giết một số
người Ít-ra-en, chừng ba mươi mạng trong đám dân quân ấy, trên những con đường,
ngả thì lên Bết Ên, ngả thì đi đến Ghíp-a, giữa đồng trống. 32 Con
cái Ben-gia-min bảo nhau: "Bọn chúng lại bị ta đánh cho tháo chạy như lần
trước"; nhưng con cái Ít-ra-en lại tự nhủ: "Trốn chạy đi! Ta sẽ nhử
chúng ra xa thành, tới các con đường ấy.” 33 Mọi người Ít-ra-en từ
vị trí của mình vùng lên và dàn trận tại Ba-an Ta-ma, đồng thời những người
Ít-ra-en mai phục cũng từ vị trí của mình vùng lên ở phía tây Ghe-va. 34 Vậy
10.000 tinh binh được chọn từ khắp Ít-ra-en tiến đến ngay trước Ghíp-a. Giao
tranh dữ dội xảy ra, mà người Ben-gia-min không hay biết tai hoạ đang ập xuống
trên mình. 35 Ðức Chúa đánh cho Ben-gia-min tháo chạy trước
Ít-ra-en, và hôm đó con cái Ít-ra-en đã giết được 25.100 người Ben-gia-min,
toàn là những người biết tuốt gươm.
36
Con
cái Ben-gia-min thấy mình bị đánh bại, nhưng người Ít-ra-en nhường đất lại cho
người Ben-gia-min, vì họ tin tưởng ở quân mai phục họ đã đặt bao vây Ghíp-a. 37
Quân mai phục tấn công chớp nhoáng Ghíp-a; họ xông ra và dùng gươm tàn
sát cả thành. 38 Giữa người Ít-ra-en và quân mai phục đã có lời hẹn
rằng quân mai phục sẽ đốt lửa cho khói bốc lên khỏi thành làm hiệu. 39 Người
Ít-ra-en sẽ rút khỏi trận địa, khi người Ben-gia-min bắt đầu giết một số chừng
ba mươi người Ít-ra-en, vì chúng nói: "Chắc chắn là nó hoàn toàn bị ta
đánh bại như lần trước.” 40 Rồi một cột khói làm hiệu bắt đầu bốc
lên khỏi thành. Người Ben-gia-min liền quay trở lại, thì này toàn thành như lửa
bốc cháy ngút trời. 41 Bấy giờ người Ít-ra-en quay lại phản công,
khiến người Ben-gia-min khiếp vía, vì thấy tai hoạ đang ập xuống trên mình.
42
Chúng
quay đầu chạy về phía sa mạc để trốn người Ít-ra-en, nhưng trận chiến cũng lan
tới chúng, và chúng bị những người từ các thành xông ra tiêu diệt giữa đường. 43
Họ vây chặt người Ben-gia-min, rượt bắt không ngừng và đè bẹp chúng cho
đến khi trông thấy Ghíp-a, về hướng mặt trời mọc. 44 Phía
Ben-gia-min có 18.000 người ngã gục, tất cả đều là dũng sĩ. 45 Còn
những kẻ quay đầu chạy trốn vào sa mạc, về phía Tảng đá Rim-môn, thì người ta
giết tỉa được 5.000 trên các nẻo đường; họ bám sát chúng cho tới Ghít-ôm và
giết thêm được 2.000 nữa. 46 Những người Ben-gia-min đã ngã gục hôm
ấy tính tất cả là 25.000 biết tuốt gươm, toàn là dũng sĩ. 47 Những
kẻ quay đầu chạy trốn vào sa mạc tới được Tảng đá Rim-môn là 600 người; chúng ở
tảng đá Rim-môn bốn tháng. 48 Người Ít-ra-en trở lại đánh con cái
Ben-gia-min; họ dùng gươm tàn sát từ đàn ông trong thành cho đến súc vật và tất
cả những gì họ gặp. Tới thành nào, họ cũng đều phóng hoả.
Chương 21
Người
Ít-ra-en hối hận
1
Người
Ít-ra-en đã thề tại Mít-pa rằng: "Không ai trong chúng ta sẽ gả con gái
mình cho người Ben-gia-min.” 2 Dân chúng đến Bết Ên và ở lại đó
trước nhan Thiên Chúa cho đến chiều; họ cất tiếng khóc nức nở. 3 Họ
nói: "Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, tại sao lại xảy ra chuyện
này, là ngày nay Ít-ra-en mất đi một chi tộc?” 4 Sáng hôm sau, dân
dậy sớm và lập bàn thờ ở đó, rồi dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an. 5 Con
cái Ít-ra-en nói: "Trong tất cả các chi tộc Ít-ra-en, ai là người đã không
lên dự công hội chầu Ðức Chúa?" vì ai đã không lên chầu Ðức Chúa ở Mít-pa,
thì đã có lời thề long trọng chống lại kẻ ấy rằng: "Chắc chắn nó phải
chết."
6
Thấy
tội nghiệp cho Ben-gia-min anh em mình, con cái Ít-ra-en nói: "Hôm nay một
chi tộc đã bị cắt đứt khỏi Ít-ra-en. 7 Chúng ta sẽ làm gì để tìm vợ
cho những kẻ còn sống sót, vì chúng ta đã thề nhân danh Ðức Chúa là không gả
con gái mình cho chúng?"
Các
trinh nữ Gia-vết được trao cho người Ben-gia-min
8
Họ
lại hỏi: "Trong các chi tộc Ít-ra-en có ai đã không lên chầu Ðức Chúa ở
Mít-pa?" Thì ra chẳng có ai thuộc Gia-vết thuộc Ga-la-át đã lên trại, dự
công hội. 9 Quả thật khi người ta kiểm tra dân chúng, thì ở đấy
không có ai là người thuộc dân cư Gia-vết thuộc Ga-la-át cả. 10 Bấy
giờ cộng đồng ở đó sai 12.000 người trong số các dũng sĩ và truyền cho họ rằng:
"Các anh hãy dùng gươm đi giết dân cư Gia-vết thuộc Ga-la-át, kể cả đàn bà
con nít. 11 Ðây là điều các anh sẽ làm: tất cả đàn ông đàn bà đã
biết chuyện vợ chồng, các anh sẽ tru hiến hết.” 12 Trong số dân cư
Gia-vết thuộc Ga-la-át, họ tìm được bốn trăm thiếu nữ còn trinh, nghĩa là chưa
ăn nằm với đàn ông, và đã đem các cô về trại Si-lô trong đất Ca-na-an. 13 Toàn
thể cộng đồng sai người đi nói chuyện với con cái Ben-gia-min ở Tảng đá Rim-môn
và đề nghị hoà hoãn với họ. 14 Bấy giờ người Ben-gia-min trở về và
người ta trao cho họ những phụ nữ còn sống sót trong số các phụ nữ Gia-vết
thuộc Ga-la-át, nhưng không tìm được đủ số cho họ.
Bắt
cóc các cô gái Si-lô
15
Dân
chúng thấy tội nghiệp cho Ben-gia-min, vì Ðức Chúa đã làm cho các chi tộc
Ít-ra-en bị một vết nứt rạn. 16 Bấy giờ các kỳ mục của cộng đồng
nói: "Chúng ta sẽ làm gì để tìm vợ cho những kẻ còn sống sót, vì các phụ
nữ Ben-gia-min đã bị tiêu diệt?” 17 Họ nói: "Ben-gia-min sẽ
chiếm phần còn sót lại, để một chi tộc không bị xoá khỏi Ít-ra-en, 18 Thế
mà chúng ta lại không thể gả con gái mình cho chúng được!" Sở dĩ như vậy
vì con cái Ít-ra-en đã thề rằng: "Vô phúc cho ai gả con gái cho
Ben-gia-min!"
19
Nhưng
họ lại nói: "Này hàng năm có lễ kính Ðức Chúa tại Si-lô, mạn bắc Bết Ên,
phía đông con đường từ Bết Ên lên Si-khem và phía nam Lơ-vô-na. 20 Vậy
họ truyền cho con cái Ben-gia-min: "Các anh vào các vườn nho mà ẩn nấp. 21
Khi thấy các cô gái Si-lô đi ra múa hát với nhau, thì các anh cũng đi ra
khỏi vườn nho, mỗi người bắt một cô trong đám con gái Si-lô ấy, đem về làm vợ,
rồi đi về đất Ben-gia-min. 22 Nếu cha các cô hoặc anh các cô có tới
kỳ kèo với chúng tôi, thì chúng tôi sẽ nói với họ: "Xin thông cảm với
chúng tôi mà hiểu cho họ, vì mỗi người chúng tôi đã không bắt một cô đem về làm
vợ trong lúc đánh nhau, mà các anh cũng chẳng gả các cô ấy cho họ; nếu gả, thì
các anh đã mắc lỗi rồi."
23
Con
cái Ben-gia-min đã làm như thế. Họ đã lấy vợ trong đám các cô múa hát bị bắt
cóc, tương đương với số người của họ, và trở về phần gia nghiệp của mình. Họ
xây thành và cư ngụ ở đó.
24
Còn
con cái Ít-ra-en lúc bấy giờ cũng rời khỏi đó, ai nấy về chi tộc và thị tộc của
mình: mỗi người rời khỏi đó mà về phần gia nghiệp của mình.
25
Thời
đó Ít-ra-en không có vua. Ai muốn làm gì thì làm.
Rút
Chương 01
Rút
và bà Na-o-mi
1
Vào
thời các thủ lãnh cai trị, một nạn đói xảy ra trong xứ. Có một người cùng với
vợ và hai con trai bỏ Bê-lem miền Giu-đa mà đến ở trong cánh đồng Mô-áp. 2
Tên người đàn ông là Ê-li-me-léc, tên người vợ ấy là Na-o-mi và tên của
hai con trai là Mác-lôn và Kin-giôn. Họ là người Ép-ra-tha thuộc xứ Bê-lem miền
Giu-đa. Họ đến cánh đồng Mô-áp và ở lại đó. 3 Rồi ông Ê-li-me-léc,
chồng bà Na-o-mi, chết đi, còn lại bà Na-o-mi và hai đứa con. 4 Hai
người này lấy vợ Mô-áp, một người tên là Oóc-pa, người kia tên là Rút. Họ ở lại
đó chừng mười năm. 5 Rồi Mác-lôn và Kin-giôn cả hai đều chết, còn
lại bà Na-o-mi mất chồng, mất con. 6 Bà lên đường cùng với hai người
con dâu, bỏ cánh đồng Mô-áp mà trở về quê hương, vì tại cánh đồng Mô-áp, bà
nghe nói là Ðức Chúa đã viếng thăm dân Người và cho họ có bánh ăn. 7 Vậy
bà cùng với hai con dâu ra khỏi nơi họ đã ở mà lên đường trở về xứ Giu-đa.
8
Bà
Na-o-mi nói với hai con dâu: "Thôi, mỗi người chúng con hãy trở về nhà mẹ
mình. Xin Ðức Chúa tỏ lòng thương chúng con, như chúng con đã tỏ lòng thương
những người quá cố và mẹ! 9 Xin Ðức Chúa cho mỗi người chúng con tìm được cuộc
sống an nhàn dưới mái nhà một người chồng!" Rồi bà ôm hôn hai con dâu. Họ
oà lên khóc. 10 Họ thưa: "Chúng con muốn cùng mẹ trở về với dân
của mẹ.” 11 Bà Na-o-mi nói: "Các con ơi, về đi, theo mẹ làm gì?
Trong lòng mẹ còn con trai nào nữa đâu mà gả chồng cho các con. 12 Về
đi, các con ơi! Ði đi! Mẹ quá già rồi, không còn tái giá được nữa. Cho dù mẹ có
nói được: mẹ còn hy vọng, ngay đêm nay sẽ lấy chồng và sinh được con trai, 13
thì chẳng lẽ chúng con cứ đợi mãi cho đến khi chúng lớn lên? Chẳng lẽ
chúng con cứ ở vậy, không chịu lấy chồng? Không, các con ơi! Tình cảnh chúng
con làm mẹ cay đắng lắm, vì tay Ðức Chúa giáng phạt mẹ.” 14 Hai
người con dâu lại oà lên khóc. Oóc-pa ôm hôn từ giã mẹ chồng, còn Rút thì cứ
khắng khít theo bà.
15
Bà
Na-o-mi nói: "Kìa chị dâu con trở về với dân tộc của nó và các thần của
nó. Con cũng vậy, hãy theo chị dâu con mà về đi!” 16 Rút đáp:
"Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về, không theo mẹ nữa, vì
mẹ
đi đâu, con đi đó,
mẹ
ở đâu, con ở đó,
dân
của mẹ là dân của con,
Thiên
Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con.
17
Mẹ
chết ở đâu, con chết ở đó,
và
nơi đó con sẽ được chôn cất.
Xin
Ðức Chúa phạt con thế này
và
thêm thế kia nữa,
nếu
con lìa xa mẹ
mà
không phải vì cái chết!"
18
Thấy
Rút cứ một mực đi với mình, bà Na-o-mi không còn nói gì về chuyện đó nữa. 19
Hai mẹ con cùng đi cho đến khi tới Bê-lem. Họ tới Bê-lem, làm cả thành
xôn xao. Các người phụ nữ hỏi: "Có phải bà Na-o-mi đấy không?” 20 Bà
nói: "Ðừng gọi tôi là Na-o-mi nữa, hãy gọi tôi là Ma-ra, vì Ðấng Toàn Năng
đã bắt tôi phải chịu quá nhiều cay đắng. 21 Tôi ra đi, của cải dư
đầy, Ðức Chúa đem tôi về hai bàn tay trắng! Gọi tôi là Na-o-mi làm gì, trong
khi Ðức Chúa đã làm cho tôi tủi nhục, Ðấng Toàn Năng đã để tôi đau khổ?"
22
Thế
là từ cánh đồng Mô-áp, bà Na-o-mi trở về cùng với con dâu người Mô-áp là Rút.
Họ đã đến Bê-lem vào đầu mùa gặt lúa mạch.
Chương 02
Cô
Rút trong đồng ruộng của ông Bô-át
1
Bà
Na-o-mi có một thân nhân bên họ nhà chồng, một người khá giàu, thuộc thị tộc
Ê-li-me-léc. Người ấy tên là Bô-át. 2 Rút, người Mô-áp, nói với bà
Na-o-mi: "Xin mẹ để con đi ra ruộng mót lúa đằng sau người nào có lòng
nhân từ đoái nhìn con." Bà trả lời: "Con cứ đi đi.” 3 Nàng
đi và đến ruộng mót lúa đằng sau thợ gặt. Nàng may mắn gặp được một thửa ruộng
của ông Bô-át, người trong thị tộc Ê-li-me-léc. 4 Và kìa ông Bô-át từ
Bê-lem đến, nói với thợ gặt: "Xin Ðức Chúa ở cùng các anh!" Họ nói:
"Xin Ðức Chúa giáng phúc cho ông!” 5 Ông Bô-át nói với người
tôi tớ trông coi thợ gặt: "Cô kia là người của ai thế?” 6 Người
tôi tớ trông coi thợ gặt trả lời: "Ðó là một thiếu phụ Mô-áp, người đã
cùng với bà Na-o-mi từ cánh đồng Mô-áp trở về. 7 Cô đã nói:
"Cho phép tôi mót và nhặt những bông lúa đằng sau thợ gặt. Cô ấy đã đến và
ở lại từ sáng tới giờ: Cô ấy chẳng chịu nghỉ ngơi chút nào."
8
Ông
Bô-át nói với Rút: "Này con, con có nghe không? Ðừng đi mót ở ruộng nào
khác, cũng đừng rời khỏi đây, nhưng cứ theo sát các tớ gái của ta. 9 Con
nhìn thửa ruộng chúng gặt và cứ đi theo chúng. Nào ta đã chẳng ra lệnh cho các
tôi tớ không được đụng tới con sao? Nếu khát, con cứ đến chỗ để bình mà uống
nước các tôi tớ đã múc.” 10 Rút liền cúi rạp xuống đất mà lạy ông,
rồi nói: "Sao con lại được ông lấy lòng nhân từ đoái nhìn và quan tâm đến,
dù con là một người ngoại quốc?” 11 Ông Bô-át đáp: "Người ta đã
kể lại cho ta nghe tất cả những gì con đã làm cho mẹ chồng sau khi chồng con
mất, cũng như chuyện con đã bỏ cả cha mẹ và quê hương, mà đến với một dân trước
kia con không hề biết tới. 12 Xin Ðức Chúa trả công cho con vì những
gì con đã làm! Chớ gì Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, thưởng công bội hậu cho
con, Người là Ðấng cho con ẩn náu dưới cánh Người!” 13 Nàng nói:
"Thưa ông, ước gì con được ông lấy lòng nhân từ đoái nhìn, vì ông đã an ủi
con và nói những lời thân ái với nữ tỳ của ông, mặc dù con không đáng làm một
nữ tỳ của ông."
14
Ðến
bữa ăn, ông Bô-át nói với nàng: "Con lại gần đây, lấy bánh chấm vào nước
dấm mà ăn." Nàng ngồi bên cạnh thợ gặt. Ông Bô-át đưa cho nàng một mớ lúa
rang. Nàng ăn no và còn để dành nữa. 15 Rồi nàng trỗi dậy mót lúa.
Ông Bô-át ra lệnh này cho các tôi tớ của ông: "Cho dù cô ấy có mót ngay
giữa những bó lúa đi nữa, các anh cũng đừng nhục mạ cô ấy. 16 Hơn
nữa, các anh hãy để ý rút vài bông lúa ra khỏi đống lúa đã gặt và để lại cho cô
ấy mót. Ðừng trách móc cô ấy làm gì.” 17 Nàng mót trong ruộng cho
đến chiều, rồi đập lúa đã mót. Tất cả được gần hai thùng lúa mạch.
18
Nàng
đem lúa trở về thành và mẹ chồng thấy những gì nàng đã mót được. Rồi nàng lấy
ra, đưa cho bà những gì nàng để dành sau khi ăn no. 19 Mẹ chồng nói
với nàng: "Hôm nay con đã mót ở đâu? Con đã làm ở đâu? Xin Thiên Chúa
giáng phúc cho người đã quan tâm đến con!" Nàng cho mẹ chồng biết mình đã
làm ở ruộng người nào. Nàng nói: "Người đã cho con làm ở ruộng mình hôm
nay tên là Bô-át.” 20 Bà Na-o-mi nói với con dâu: "Xin Ðức Chúa
giáng phúc cho ông ấy, Người là Ðấng đã không từ chối tỏ lòng nhân nghĩa đối
với kẻ sống và kẻ chết!" Bà lại nói: "Ông ấy là bà con gần của chúng
ta, ông ấy là một trong những người bảo tồn dòng dõi của chúng ta.” 21 Rút
người Mô-áp thưa: "Ông ấy còn nói với con: "Con cứ theo sát các tôi
tớ của ta cho đến khi chúng gặt hái xong tất cả.” 22 Bà Na-o-mi bảo
con dâu là Rút: "Con ơi, tốt hơn là con cứ đi ra với các tớ gái của ông
ấy, để khỏi bị người ta ngược đãi trong ruộng khác.” 23 Vậy nàng
theo sát các tớ gái của ông Bô-át để mót, cho đến hết mùa gặt lúa mạch và lúa
mì. Và nàng vẫn ở với mẹ chồng.
Chương 03
Ông
Bô-át nằm ngủ
1
Bà
mẹ chồng Na-o-mi nói với Rút: "Con ơi, mẹ chẳng có bổn phận tìm cho con
một chốn an nhàn để con được hạnh phúc sao? 2 Mà ông Bô-át không phải là chỗ bà
con gần của chúng ta đó ư? Con lại đã chẳng ở với các tớ gái của ông ấy sao?
Này, đêm nay ông phải rê lúa mạch dưới sân lúa. 3 Vậy con tắm rửa
đi, xức dầu thơm, khoác áo choàng vào, rồi xuống sân lúa. Con đừng cho ông nhận
ra con trước khi ông ăn uống xong. 4 Khi ông đi ngủ, con hãy để ý
xem ông nằm chỗ nào, rồi đến lật góc chăn phủ chân ông mà nằm xuống. Ông sẽ cho
con biết con phải làm gì.” 5 Rút thưa với bà: "Mẹ dạy gì, con
sẽ làm tất cả."
6
Nàng
xuống sân lúa và làm đúng như mẹ chồng đã dạy. 7 Ông Bô-át ăn uống
xong, lòng vui tươi hớn hở. Ông đi ngủ ở đầu đống lúa. Rút nhẹ nhàng đi tới đó,
lật góc chăn phủ chân ông và nằm xuống. 8 Vào giữa đêm, ông Bô-át
rùng mình; ông trở mình thì thấy một phụ nữ nằm dưới chân. 9 Ông
hỏi: "Chị là ai?" Nàng đáp: "Con là Rút, tớ gái của ông. Xin ông
giăng vạt áo choàng ra mà phủ lấy tớ gái của ông, vì ông là người bảo tồn dòng
dõi.” 10 Ông nói: "Này con, xin Ðức Chúa ban phúc lành cho con!
Việc hiếu nghĩa thứ hai con đã làm còn có giá hơn việc trước: con đã không chạy
theo các người trai trẻ, dù họ nghèo hay giàu. 11 Giờ đây, hỡi con,
con đừng sợ. Tất cả những điều con sẽ nói, ta sẽ làm cho con. Vì mọi người hội
họp ở cửa thành này đều biết con là một phụ nữ đức hạnh. 12 Quả
thật, hiện nay ta là người bảo tồn dòng dõi, nhưng còn có người bảo tồn dòng
dõi họ hàng với con gần hơn ta. 13 Con cứ qua đêm ở đây. Sáng mai,
nếu người ấy muốn dùng quyền bảo tồn dòng dõi đối với con thì tốt, người ấy cứ
việc; nếu người ấy không muốn thì, có Ðức Chúa hằng sống, ta thề sẽ dùng quyền
đó! Hãy ngủ đi cho đến sáng.” 14 Nàng đã ngủ dưới chân ông cho đến
sáng. Tờ mờ sáng, lúc chưa ai nhận ra ai, nàng đã chỗi dậy. Ông tự nhủ:
"Không được để cho người ta biết là người phụ nữ này đã đến sân lúa.” 15
Ông nói: "Hãy đưa vạt áo choàng của con ra, và cầm chắc lấy." Nàng
cầm chắc rồi, thì ông đong cho nàng sáu đấu lúa mạch, rồi đặt lên vai nàng. Sau
đó, nàng đi vào thành.
16
Nàng
về đến nhà mẹ chồng, mẹ chồng hỏi: "Thế nào, con?" Nàng thuật lại cho
mẹ chồng nghe tất cả những gì người đó đã làm cho nàng. 17 Nàng nói:
"Ông ấy đã cho con sáu đấu lúa mạch này, vì ông nói: "Con không được
trở về nhà mẹ chồng tay không.” 18 Bà nói: "Này con, con cứ ở
nhà cho đến khi biết việc này ngã ngũ ra sao, vì ông ấy sẽ không chịu ở yên
đâu, cho đến khi lo xong việc đó nội ngày hôm nay."
Chương 04
Ông
Bô-át cưới cô Rút
1
Ông
Bô-át lên cửa thành và ngồi ở đó. Và này, người bảo tồn dòng dõi mà ông Bô-át
đã nói tới, đi ngang qua. Ông Bô-át nói: "Này ông ơi, mời ông đến và ngồi
xuống đây." Người ấy đến và ngồi xuống. 2 Ông Bô-át chọn lấy
mười người trong số các kỳ mục của thành và nói: "Mời các ông ngồi lại
đây." Họ ngồi xuống. 3 Ông nói với người bảo tồn dòng dõi:
"Bà Na-o-mi từ cánh đồng Mô-áp mới về, định bán thửa ruộng của người anh
em chúng ta là Ê-li-me-léc. 4 Phần tôi, tôi nghĩ là cần phải báo cho
ông biết rằng: trước mặt quý vị hiện diện ở đây và các kỳ mục trong dân, ông
hãy tậu thửa ruộng ấy! Nếu ông muốn dùng quyền bảo tồn dòng dõi của ông, thì
xin hãy dùng; bằng không thì xin tuyên bố cho tôi biết, vì ngoài ông ra, không
ai có quyền bảo tồn dòng dõi; còn tôi thì chỉ đứng sau ông." Người ấy nói:
"Vâng, tôi sẽ dùng quyền bảo tồn đó.” 5 Ông Bô-át nói:
"Ngày nào ông tậu ruộng chính tay bà Na-o-mi bán, thì lúc đó ông cũng phải
lấy cả cô Rút người Mô-áp, vợ của người quá cố, để gia nghiệp người đó mãi mãi
mang tên người đó.” 6 Người bảo tồn dòng dõi nói: "Thế thì tôi
không thể dùng quyền bảo tồn đó được, để khỏi làm hại gia nghiệp của tôi. Xin
ông thay tôi mà dùng quyền đó, vì tôi không thể dùng được."
7
Theo
phong tục thời xưa tại Ít-ra-en, khi có chuyện liên quan đến quyền bảo tồn hay
việc đổi chác, để xác nhận việc đó, thì người này cởi dép trao cho người kia.
Ðó là cách chứng nhận tại Ít-ra-en. 8 Người bảo tồn dòng dõi nói với
ông Bô-át: "Ông hãy tậu cho ông đi", rồi người ấy cởi dép ra.
9
Ông
Bô-át nói với các kỳ mục và toàn dân: "Hôm nay, xin quý vị làm chứng cho
là tôi tậu từ tay bà Na-o-mi tất cả những gì thuộc về ông Ê-li-me-léc, tất cả
những gì thuộc về Kin-giôn và Mác-lôn. 10 Và cả Rút người Mô-áp, vợ
của Mác-lôn nữa, tôi cũng lấy làm vợ, để gia nghiệp người quá cố mãi mãi mang
tên người đó, và để người đó khỏi bị xoá tên trong đám bà con họ hàng, cũng như
trong số dân cư tụ họp tại cửa thành. Hôm nay, quý vị làm chứng cho điều đó.” 11
Toàn dân ở cửa thành và các kỳ mục đáp: "Chúng tôi xin làm chứng!
Xin Ðức Chúa cho người phụ nữ sắp vào nhà ông được nên giống như bà Ra-khen và
bà Lê-a, cả hai bà này đã xây dựng nhà Ít-ra-en!
Chúc
ông được giàu có ở Ép-ra-tha!
Chúc
ông được nổi tiếng ở Bê-lem!
12
Chớ
gì dòng dõi mà Ðức Chúa sẽ ban cho ông, nhờ người thiếu phụ này, làm cho nhà
của ông được nên giống như nhà của ông Pe-rét, là người con mà bà Ta-ma đã sinh
cho ông Giu-đa!"
13
Vậy
ông Bô-át lấy cô Rút, và nàng trở thành vợ ông. Ông đến với nàng. Nhờ ơn Ðức
Chúa, nàng đã thụ thai và sinh một con trai. 14 Các phụ nữ nói với
bà Na-o-mi: "Chúc tụng Ðức Chúa, Ðấng hôm nay đã không để cho bà phải
thiếu người bảo tồn dòng dõi: tên tuổi con trẻ sẽ được tung hô tại Ít-ra-en! 15
Nó sẽ giúp bà lấy lại sức sống, và sẽ là người nâng đỡ bà trong tuổi già, vì
người con dâu biết yêu quý bà đã sinh ra nó, nàng quý giá hơn bảy đứa con trai.”
16 Bà Na-o-mi bế đứa trẻ lên và ôm vào lòng. Chính bà nuôi nấng đứa
trẻ đó.
17
Các
bà hàng xóm láng giềng đặt tên cho đứa trẻ và nói: "Bà Na-o-mi đã sinh
được một cháu trai." Họ đặt tên cho nó là Ô-vết. Ðó là cha của ông Gie-sê,
là ông nội vua Ða-vít.
Gia
phả vua Ða-vít
18
Ðây
là dòng dõi của ông Pe-rét:
Pe-rét
sinh Khét-rôn. 19 Khét-rôn sinh Ram; Ram sinh Am-mi-na-đáp. 20 Am-mi-na-đáp
sinh Nác-sôn; Nác-sôn sinh Xan-môn. 21 Xan-môn sinh Bô-át; Bô-át
sinh Ô-vết; 22 Ô-vết sinh Gie-sê; Gie-sê sinh Ða-vít.
Sa-mu-en 1
Chương 01
I.
Ông Sa-Mu-En
1.
Thời Thơ Ấu Của Ông Sa-Mu-En
Hành
hương Si-lô
1
Có
một người quê thành Ra-ma-tha-gim Xô-phim, thuộc miền núi Ép-ra-im, tên là
En-ca-na, con ông Giơ-rô-kham; ông Giơ-rô-kham là con ông Ê-li-hu, ông Ê-li-hu
là con ông Tô-khu, ông Tô-khu là con ông Xúp, người Ép-ra-tha. 2 Người
ấy có hai vợ, một bà tên là An-na, một bà tên là Pơ-nin-na. Bà Pơ-nin-na có
con, còn bà An-na không có con. 3 Hằng năm, người ấy từ thành mình
lên thờ lạy và dâng hy lễ cho Ðức Chúa các đạo binh tại Si-lô. Ở đó có hai con
trai ông Ê-li là Khóp-ni và Pin-khát làm tư tế của Ðức Chúa.
4
Ðến
ngày ông En-ca-na dâng hy lễ, ông thường chia các phần cho bà Pơ-nin-na, vợ ông,
và cho các con trai con gái bà ấy. 5 Còn bà An-na, thì ông chia cho
một phần ngon, vì ông yêu bà, mặc dù Ðức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được.
6 Bà kia, đối thủ của bà, cứ chọc tức bà, để hạ nhục bà, vì Ðức Chúa
đã làm cho bà không sinh sản được. 7 Ông vẫn làm như thế năm này qua
năm nọ, mỗi lần bà lên Nhà của Ðức Chúa; còn bà kia cứ chọc tức bà như thế. Bà
khóc và không chịu ăn. 8 Ông En-ca-na, chồng bà, bảo bà:
"An-na, sao em khóc? Sao em không chịu ăn? Sao lòng em rầu rĩ vậy? Ðối với
em, anh lại không hơn mười đứa con trai sao?"
Bà
An-na cầu nguyện
9
Bà
An-na đứng dậy sau khi họ đã ăn uống tại Si-lô. Tư tế Ê-li đang ngồi trên ghế ở
cửa đền thờ Ðức Chúa. 10 Tâm hồn cay đắng, bà cầu nguyện với Ðức
Chúa và khóc nức nở. 11 Bà khấn hứa rằng: "Lạy Ðức Chúa các đạo
binh, nếu Ngài đoái nhìn đến nỗi khổ cực của nữ tỳ Ngài đây, nếu Ngài nhớ đến
con và không quên nữ tỳ Ngài, nếu Ngài cho nữ tỳ Ngài một mụn con trai, thì con
sẽ dâng nó cho Ðức Chúa mọi ngày đời nó, và dao cạo sẽ không đụng tới đầu
nó."
12
Vì
bà cứ cầu nguyện lâu trước nhan Ðức Chúa, nên ông Ê-li để ý đến miệng bà. 13
Bà An-na thầm thĩ trong lòng: chỉ có môi bà mấp máy, không nghe thấy
tiếng bà. Ông Ê-li nghĩ rằng bà say rượu. 14 Ông Ê-li bảo bà:
"Bà còn say đến bao giờ? Hãy lo dã rượu đi!” 15 Bà An-na trả
lời rằng: "Không, thưa ngài, tôi chỉ là một người đàn bà tâm thần đau khổ.
Tôi đã không uống rượu và đồ uống có men, tôi chỉ thổ lộ tâm can trước nhan Ðức
Chúa. 16 Xin đừng coi nữ tỳ ngài đây là đứa vô lại: chỉ vì quá lo âu
phiền muộn mà tôi đã nói cho đến bây giờ.” 17 Ông Ê-li trả lời rằng:
"Bà hãy đi về bình an. Xin Thiên Chúa của Ít-ra-en ban cho bà điều bà đã
xin Người!” 18 Bà thưa: "Ước chi nữ tỳ của ngài đây được đẹp
lòng ngài!" Rồi người đàn bà ra đi; bà dùng bữa và nét mặt bà không còn như
trước nữa.
Ông
Sa-mu-en sinh ra và được thánh hiến
19
Sáng
hôm sau, họ dậy sớm và sụp lạy trước nhan Ðức Chúa, rồi trở về nhà ở Ra-ma. Ông
En-ca-na ăn ở với bà An-na, vợ mình, và Ðức Chúa đã nhớ đến bà. 20 Ngày
qua tháng lại, bà An-na thụ thai, sinh con trai và đặt tên cho nó là Sa-mu-en,
vì bà nói: "Tôi đã xin Ðức Chúa được nó.” 21 Người chồng là
En-ca-na lên với cả gia đình để dâng hy lễ thường niên cho Ðức Chúa và để giữ
trọn lời khấn hứa của mình. 22 Bà An-na không lên, vì bà nói với
chồng: "Ðợi cho đến khi đứa trẻ cai sữa đã. Khi đó em sẽ đưa nó đi, nó sẽ
ra mắt Ðức Chúa và sẽ ở lại đó mãi mãi.” 23 Ông En-ca-na, chồng bà,
bảo bà: "Em nghĩ thế nào là phải thì cứ làm; cứ ở lại cho đến khi cai sữa
cho nó. Chỉ xin Ðức Chúa thực hiện lời Người." Người đàn bà ở lại và cho
con bú cho đến khi cai sữa cho nó.
24
Sau
khi cai sữa cho con, bà đưa nó lên với mình, mang theo một con bò mộng ba tuổi,
hai thùng bột và một bầu da đầy rượu. Bà đưa con vào Nhà Ðức Chúa tại Si-lô;
đứa trẻ còn nhỏ lắm. 25 Họ sát tế con bò và đưa đứa trẻ đến với ông
Ê-li. 26 Bà nói: "Thưa ngài, xin thứ lỗi, tôi xin lấy mạng sống
ngài mà thề: tôi là người đàn bà đã đứng bên ngài, tại đây, để cầu nguyện với
Ðức Chúa. 27 Tôi đã cầu nguyện để được đứa trẻ này, và Ðức Chúa đã
ban cho tôi điều tôi đã xin Người. 28 Ðến lượt tôi, tôi xin nhượng
nó lại cho Ðức Chúa. Mọi ngày đời nó, nó sẽ được nhượng cho Ðức Chúa." Và
ở đó, họ thờ lạy Ðức Chúa.
Chương 02
Bài
ca của bà An-na
1
Bà
An-na cầu nguyện và nói:
"Tâm
hồn con hoan hỷ vì Ðức Chúa,
nhờ
Ðức Chúa, con ngẩng đầu hiên ngang.
Con
mở miệng nhạo báng quân thù:
Vâng,
con vui sướng vì được Ngài cứu độ.
2
Chẳng
có Ðấng thánh nào như Ðức Chúa,
chẳng
một ai khác, ngoại trừ Ngài,
chẳng
có Núi Ðá nào như Thiên Chúa chúng ta.
3
Các
người chớ nhiều lời huênh hoang tự đắc,
miệng
đừng thốt ra điều ngạo mạn,
vì
Ðức Chúa là Thiên Chúa quán thông,
mọi
hành vi, chính Người xét xử.
4
Cung
nỏ người hùng bị bẻ tan,
kẻ
yếu sức lại trở nên hùng dũng.
5
Người
no phải làm mướn kiếm ăn,
còn
kẻ đói được an nhàn thư thái.
Người
hiếm hoi thì sinh năm đẻ bảy,
mẹ
nhiều con lại ủ rũ héo tàn.
6
Ðức
Chúa là Ðấng cầm quyền sinh tử,
đẩy
xuống âm phủ rồi lại kéo lên.
7
Ðức
Chúa bắt phải nghèo và cho giàu có,
Người
hạ xuống thấp, Người cũng nhắc lên cao.
8
Kẻ
mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi,
ai
nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro,
đặt
ngồi chung với hàng quyền quý,
tặng
ngai vinh hiển làm sản nghiệp riêng.
Vì
nền móng địa cầu là của Ðức Chúa,
Người
đặt cả hoàn vũ lên trên.
9
Chúa
gìn giữ bước chân người trung hiếu,
còn
ác nhân bị tiêu diệt trong chốn mịt mù,
vì
con người đâu phải mạnh mà thắng.
10
Kẻ
thù Ðức Chúa sẽ bị đập tan,
từ
trời cao, người cho sấm sét giáng trên đầu.
Ðức
Chúa xét xử khắp cùng cõi đất,
ban
quyền năng cho đức vua Người chọn,
nêu
uy thế đấng Người đã xức dầu tấn phong."
11
Ông
En-ca-na về nhà ở Ra-ma. Còn đứa trẻ thì phụng sự Ðức Chúa, có tư tế Ê-li trông
nom.
Các
con trai ông Ê-li
12
Các
con trai ông Ê-li là những tên vô lại, chúng không biết gì đến Ðức Chúa 13 và
đến quyền lợi các tư tế được hưởng trên dân. Mỗi khi có ai dâng hy lễ, thì đầy
tớ của tư tế đến, tay cầm xiên ba răng, trong lúc người ta đang nấu thịt. 14
Nó thọc vào vạc, vào nồi, vào chảo hay vào niêu; hễ xiên đưa lên được
miếng nào, thì tư tế lấy cho mình. Chúng vẫn làm như thế với tất cả những người
Ít-ra-en đến đó, tại Si-lô. 15 Cả trước khi người ta đốt mỡ cho cháy
nghi ngút, thì đầy tớ của tư tế đến và bảo người dâng hy lễ: "Ðưa thịt đây
để quay cho tư tế! Người không lấy thịt ông đã nấu đâu, chỉ lấy thịt sống thôi!”
16 Người kia có nói: "Ðể người ta đốt mỡ cho cháy nghi ngút
trước đã, rồi anh thích gì thì cứ lấy", thì nó bảo: "Không, phải đưa
ngay bây giờ! Nếu không, tôi dùng sức mạnh mà lấy.” 17 Tội của những
người thanh niên này rất lớn trước nhan Ðức Chúa, vì những người ấy khinh
thường lễ phẩm dâng Ðức Chúa.
Ông
Sa-mu-en tại Si-lô
18
Sa-mu-en
phụng sự trước nhan Ðức Chúa, cậu bé mặc ê-phốt vải gai. 19 Mẹ cậu
vẫn may cho cậu một áo khoác nhỏ và đưa lên cho cậu mỗi năm, khi bà cùng chồng
lên dâng hy lễ thường niên. 20 Ông Ê-li chúc phúc cho ông En-ca-na
và vợ ông này rằng: "Xin Ðức Chúa cho người đàn bà này sinh con cái cho
ông, để thay thế đứa con đã nhượng cho Ðức Chúa." Rồi hai ông bà trở về
nhà. 21 Ðức Chúa viếng thăm bà An-na; bà thụ thai và sinh được ba
trai hai gái, còn cậu bé Sa-mu-en thì lớn lên bên cạnh Ðức Chúa.
Lại
nói về các con ông Ê-li
22
Ông
Ê-li đã già lắm. Ông nghe nói các con ông đối xử thế nào với toàn thể Ít-ra-en;
ông còn nghe nói chúng nằm với những phụ nữ phục vụ ở cửa Lều Hội Ngộ. 23 Ông
nói với chúng: "Sao các con lại làm những điều ấy, những điều xấu mà cha
nghe toàn dân nói? 24 Không, các con ơi, tiếng kháo láo cha nghe dân Ðức Chúa
đồn thổi thì không tốt đẹp gì. 25 Nếu một người có tội với một
người, thì Thiên Chúa sẽ phân xử cho; nhưng nếu một người có tội với Ðức Chúa
thì ai sẽ cầu nguyện cho nó?" Nhưng chúng không chịu nghe lời cha chúng,
vì Ðức Chúa muốn làm cho chúng phải chết.
26
Còn
cậu bé Sa-mu-en thì càng lớn lên và đẹp lòng cả Ðức Chúa lẫn người ta.
Báo
trước hình phạt
27
Một
người của Thiên Chúa đến gặp ông Ê-li và nói với ông: "Ðức Chúa phán thế
này: Ta đã chẳng tỏ mình ra một cách rõ ràng cho nhà của cha ngươi, khi chúng ở
dưới quyền triều đình Pha-ra-ô bên Ai-cập đó sao? 28 Ta đã chọn chúng trong mọi
chi tộc Ít-ra-en, để chúng làm tư tế cho Ta, bước lên bàn thờ của Ta, đốt hương
cho cháy nghi ngút, mang ê-phốt trước nhan Ta, và Ta đã ban cho nhà cha ngươi
mọi hoả tế của con cái Ít-ra-en. 29 Tại sao ngươi lại coi thường hy
lễ và lễ phẩm dành cho Ta, là những thứ Ta đã truyền dâng trong nơi Ta ngự? Tại
sao ngươi lại coi trọng các con ngươi hơn Ta, mà cả cha con béo mập ra, vì ăn
những thứ ngon nhất trong mọi lễ phẩm của Ít-ra-en, dân Ta?
30
"Vì
vậy -sấm ngôn của Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en- quả Ta có nói là nhà của
ngươi và nhà cha ngươi sẽ đi trước nhan Ta mãi mãi, nhưng giờ đây - sấm ngôn
của Ðừc Chúa - không đời nào! Vì những kẻ coi trọng Ta thì Ta coi trọng, còn
những kẻ khinh dể Ta thì bị khinh thường. 31 Này sắp đến những ngày
Ta sẽ chặt cánh tay ngươi và cánh tay của nhà cha ngươi, khiến cho không còn
người già trong nhà của ngươi. 32 Ngươi sẽ trông thấy một đối thủ
nơi Ta ngự, trong khi tại Ít-ra-en mọi sự đều tốt đẹp, và trong nhà ngươi sẽ
không bao giờ có người già nữa. 33 Tuy nhiên, Ta sẽ không loại mọi
người của ngươi khỏi bàn thờ Ta, như vậy mắt ngươi sẽ mỏi mòn, tâm hồn ngươi sẽ
kiệt sức, và tất cả con cháu trong nhà ngươi sẽ phải chết giữa tuổi thành nhân.
34
"Ðiều
xảy ra cho hai con trai ngươi, Khóp-ni và Pin-khát, sẽ là dấu cho ngươi: cả hai
sẽ chết trong cùng một ngày. 35 Ta sẽ cho xuất hiện một tư tế trung
kiên để phục vụ Ta, nó sẽ hành động theo lòng Ta và ý muốn của Ta; Ta sẽ xây
cho nó một nhà kiên cố, và ngày ngày nó sẽ đi trước người được Ta xức dầu tấn
phong. 36 Bất cứ ai còn sót lại trong nhà ngươi sẽ đến sụp lạy nó để
được một đồng bạc và một ổ bánh, và sẽ nói với nó: "Xin vui lòng nhận tôi
vào làm một chức vụ tư tế nào đó, để tôi có miếng bánh ăn."
Chương 03
Thiên
Chúa gọi ông Sa-mu-en
1
Cậu
bé Sa-mu-en phụng sự Ðức Chúa, có ông Ê-li trông nom. Thời ấy, lời Ðức Chúa thì
hiếm và thị kiến cũng không hay xảy ra. 2 Một ngày kia, ông Ê-li
đang ngủ ở chỗ ông, mắt ông đã bắt đầu mờ, ông không còn thấy nữa. 3 Ðèn
của Thiên Chúa chưa tắt và Sa-mu-en đang ngủ trong đền thờ Ðức Chúa, nơi có đặt
Hòm Bia Thiên Chúa. 4 Ðức Chúa gọi Sa-mu-en. Cậu thưa: "Dạ, con
đây!” 5 Rồi chạy lại với ông Ê-li và thưa: "Dạ, con đây, thầy
gọi con." Ông bảo: "Thầy không gọi con đâu. Con về ngủ đi." Cậu
bèn đi ngủ. 6 Ðức Chúa lại gọi Sa-mu-en lần nữa. Sa-mu-en dậy, đến
với ông Ê-li và thưa: "Dạ, con đây, thầy gọi con." Ông bảo:
"Thầy không gọi con đâu, con ạ. Con về ngủ đi.” 7 Bấy giờ
Sa-mu-en chưa biết Ðức Chúa, và lời Ðức Chúa chưa được mặc khải cho cậu. 8
Ðức Chúa lại gọi Sa-mu-en lần thứ ba. Cậu dậy, đến với ông Ê-li và thưa:
"Dạ, con đây, thầy gọi con." Bấy giờ ông Ê-li hiểu là Ðức Chúa gọi
cậu bé. 9 Ông Ê-li nói với Sa-mu-en: "Con về ngủ đi, và hễ có
ai gọi con thì con thưa: "Lạy Ðức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang
lắng nghe." Sa-mu-en về ngủ ở chỗ của mình.
10
Ðức
Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước: "Sa-mu-en! Sa-mu-en!"
Sa-mu-en thưa: "Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” 11 Ðức
Chúa phán với Sa-mu-en: "Này Ta sắp làm một điều tại Ít-ra-en mà bất cứ ai
nghe nói cũng phải ù cả hai tai. 12 Ngày ấy, để phạt Ê-li, Ta sẽ
thực hiện mọi điều Ta đã phán về nhà nó, từ đầu đến cuối. 13 Ta báo
cho nó là Ta vĩnh viễn kết án nhà nó vì lỗi của nó: Nó biết các con nó nguyền
rủa Thiên Chúa mà đã không sửa dạy chúng. 14 Vì vậy Ta thề với nhà
Ê-li: nhà Ê-li sẽ không bao giờ được xá lỗi, dù là bằng hy lễ hay lễ
phẩm."
15
Sa-mu-en
cứ ngủ cho đến sáng, rồi mở các cửa của Nhà Ðức Chúa. Sa-mu-en sợ không dám kể
lại thị kiến cho ông Ê-li. 16 Ông Ê-li gọi Sa-mu-en và nói:
"Sa-mu-en, con ơi!" Cậu thưa: "Dạ, con đây!” 17 Ông
nói: "Người đã phán với con điều gì? Thầy xin con đừng giấu thầy. Xin
Thiên Chúa phạt con thế này và còn thêm thế kia nữa, nếu con giấu thầy một điều
nào trong tất cả những lời Người đã phán với con.” 18 Sa-mu-en kể
lại cho ông mọi điều, không giấu ông điều nào. Ông nói: "Người là Ðức Chúa.
Xin Người cứ làm điều Người cho là tốt."
19
Sa-mu-en
lớn lên. Ðức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô
hiệu. 20 Toàn thể Ít-ra-en, từ Ðan tới Bơ-e Se-va, biết rằng ông
Sa-mu-en được Ðức Chúa tín nhiệm cho làm ngôn sứ của Người. 21 Ðức
Chúa tiếp tục hiện ra ở Si-lô, vì Ðức Chúa dùng lời của Ðức Chúa mà tự mặc khải
cho ông Sa-mu-en ở Si-lô.
Chương 04
1
và
lời của ông Sa-mu-en đến với toàn thể Ít-ra-en.
2.
Hòm Bia Bị Người Phi-Li-Tinh Chiếm Ðoạt
Ít-ra-en
bị đánh bại và Hòm Bia bị chiếm đoạt
2
Người
Phi-li-tinh dàn quân đối diện với quân Ít-ra-en, cuộc chiến trở nên ác liệt và
Ít-ra-en bị người Phi-li-tinh đánh bại: tại mặt trận, ở ngoài đồng, chúng đã
giết chừng bốn ngàn người. 3 Khi dân trở về trại, các kỳ mục
Ít-ra-en nói: "Sao hôm nay Ðức Chúa để chúng ta bị người Phi-li-tinh đánh
bại? Chúng ta hãy đi Si-lô lấy Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa về: Hòm Bia sẽ đến
giữa chúng ta và sẽ cứu chúng ta khỏi bàn tay quân thù.” 4 Dân sai
người đi Si-lô; từ đó họ mang về Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa các đạo binh,
Ðấng ngự trên các thần hộ giá; ở đó, bên cạnh Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa,
có hai con ông Ê-li là Khóp-ni và Pin-khát. 5 Khi Hòm Bia Giao Ước
của Ðức Chúa xuống trại, toàn thể Ít-ra-en hò reo vang dội khiến đất rung
chuyển. 6 Người Phi-li-tinh nghe thấy tiếng hò reo thì hỏi nhau:
"Tiếng hò reo vang dội ấy trong trại bọn Híp-ri là gì vậy?" Chúng
biết là Hòm Bia Ðức Chúa đã đến trại. 7 Người Phi-li-tinh sợ hãi, vì
chúng nói: "Một vị thần đã đến trại!" Chúng bảo nhau: "Khốn thân
ta, vì trước đây không có như vậy! 8 Khốn thân ta! Ai sẽ giải thoát ta khỏi tay
những thần hùng mạnh ấy? Ðó là những thần đã dùng mọi thứ đòn mà đánh phạt
người Ai-cập trong sa mạc. 9 Hỡi người Phi-li-tinh, can đảm lên, hãy
tỏ ra là nam nhi, kẻo phải làm nô lệ cho bọn Híp-ri như chúng đã làm nô lệ cho
anh em. Hãy tỏ ra là nam nhi và chiến đấu!” 10 Người Phi-li-tinh
giao chiến. Ít-ra-en bị đánh bại và ai nấy chạy trốn về lều của mình. Ðó là một
đòn rất đau: về phía Ít-ra-en có ba mươi ngàn bộ binh tử trận. 11 Hòm
Bia Thiên Chúa bị chiếm đoạt, và hai con ông Ê-li là Khóp-ni và Pin-khát bị
giết.
Ông
Ê-li qua đời
12
Một
người thuộc chi tộc Ben-gia-min từ mặt trận chạy về, và ngay hôm đó tới Si-lô,
áo quần xé rách, đầu thì rắc đất. 13 Khi người ấy đến thì ông Ê-li
đang ngồi trên ghế ở bên đường mà ngóng trông. Vì lòng ông bồn chồn lo sợ cho
Hòm Bia Thiên Chúa. Người kia vào loan tin trong thành, và cả thành kêu gào lên.
14 Nghe tiếng kêu la, ông Ê-li hỏi: "Sao có tiếng ồn ào như
thế?" Người kia vội vàng đến báo tin cho ông Ê-li. 15 Ông Ê-li
đã chín mươi tám tuổi, mắt ông cứng đờ, ông không thấy được nữa. 16 Người
kia nói với ông Ê-li: "Tôi từ mặt trận về. Tôi đã từ mặt trận trốn về hôm
nay." Ông hỏi: "Cái gì đã xảy ra vậy con?” 17 Người đưa
tin trả lời rằng: "Ít-ra-en đã chạy trốn quân Phi-li-tinh; dân đại bại,
hai con ông là Khóp-ni và Pin-khát đã chết, và Hòm Bia Thiên Chúa đã bị chiếm
đoạt.” 18 Người kia vừa nhắc tới Hòm Bia Thiên Chúa, thì ông từ ghế
ngã ngửa xuống, bên cạnh cửa, giập gáy mà chết, vì ông đã già lại nặng cân. Ông
đã làm thủ lãnh xét xử Ít-ra-en bốn mươi năm.
Vợ
Pin-khát chết
19
Con
dâu ông, tức là vợ của Pin-khát, đang có thai và sắp sinh. Nghe tin Hòm Bia bị
chiếm đoạt, cha chồng và chồng chết, nàng khuỵu xuống và sinh con, vì lên cơn
đau đột ngột. 20 Lúc nàng sắp chết, những người đàn bà đứng quanh
bảo nàng: "Cô đừng sợ, vì cô đã sinh được một con trai!" Nhưng nàng
không trả lời và không để tâm đến. 21 Nàng gọi đứa trẻ là I-kha-vốt,
và nói: "Vinh quang đã bị cướp khỏi Ít-ra-en", vì Hòm Bia Thiên Chúa đã
bị chiếm đoạt, vì cha chồng và chồng nàng đã chết. 22 Nàng nói:
"Vinh quang đã bị cướp khỏi Ít-ra-en", vì Hòm Bia Thiên Chúa đã bị
chiếm đoạt.
Chương 05
Người
Phi-li-tinh gặp rủi ro vì Hòm Bia
1
Người
Phi-li-tinh chiếm đoạt Hòm Bia Thiên Chúa và đưa từ E-ven Ha E-de về thành
Át-đốt. 2 Người Phi-li-tinh lấy Hòm Bia, đưa vào nhà của thần Ða-gôn
và đặt bên cạnh thần Ða-gôn. 3 Hôm sau, người Át-đốt dậy sớm và kìa
Ða-gôn ngã sấp mặt xuống đất, trước Hòm Bia Ðức Chúa. Chúng đem Ða-gôn đặt vào
chỗ cũ. 4 Sáng hôm sau chúng dậy sớm và kìa Ða-gôn lại ngã sấp mặt
xuống đất, trước Hòm Bia Ðức Chúa. Ðầu Ða-gôn và hai bàn tay đã bị chặt, thì ở
trên ngưỡng cửa, chỉ còn lại thân Ða-gôn. 5 Vì thế, cho đến ngày hôm
nay, ở Át-đốt, các tư tế Ða-gôn và tất cả những ai vào Nhà của Ða-gôn không
giẫm lên ngưỡng cửa Ða-gôn.
6
Bàn
tay Ðức Chúa đè nặng trên người Át-đốt, Người làm cho chúng phải điêu linh, và
mắc những khối u, tại Át-đốt và trong lãnh thổ. 7 Thấy vậy, người
Át-đốt nói: "Ðừng để Hòm Bia Thiên Chúa Ít-ra-en ở lại với chúng ta, vì
Người đã ra tay đối xử nghiệt ngã với chúng ta và với thần Ða-gôn của chúng ta;
8 chúng sai người đi mời tất cả các vương hầu người Phi-li-tinh đến
với chúng. Chúng nói: "Chúng tôi phải làm gì với Hòm Bia Thiên Chúa
Ít-ra-en?" Các vương hầu trả lời: "Phải di chuyển Hòm Bia Thiên Chúa
Ít-ra-en đến Gát." Họ đã di chuyển Hòm Bia Thiên Chúa Ít-ra-en đi. 9 Sau
khi di chuyển Hòm Bia, tay Ðức Chúa giáng xuống trên thành. Chúng vô cùng hoảng
sợ. Ðức Chúa đánh phạt người trong thành, từ bé đến lớn: khối u mọc trên khắp
người chúng. 10 Chúng gửi Hòm Bia Thiên Chúa đến Éc-rôn. Nhưng khi
Hòm Bia đến Éc-rôn thì người Éc-rôn kêu lên rằng: "Họ di chuyển Hòm Bia
Thiên Chúa Ít-ra-en đến với (chúng) ta, để giết (chúng) ta và dân (chúng) ta.” 11
Chúng sai người đi mời tất cả các vương hầu người Phi-li-tinh đến. Chúng
nói: "Các ông hãy trả lại Hòm Bia Thiên Chúa Ít-ra-en; Hòm Bia phải trở về
chỗ cũ, để Hòm Bia đừng giết (chúng) tôi và dân (chúng) tôi!" Thật vậy,
trong toàn thành, người ta hoảng sợ trước cái chết, vì bàn tay Thiên Chúa giáng
rất mạnh xuống trên đó. 12 Những người không chết thì bị mắc những
khối u, và tiếng kêu của thành đã thấu tới trời.
Chương 06
Trả
lại Hòm Bia
1
Hòm
Bia Ðức Chúa ở trong lãnh thổ người Phi-li-tinh bảy tháng. 2 Người
Phi-li-tinh mời các tư tế và thầy bói đến và hỏi: "Chúng tôi phải làm gì
với Hòm Bia Ðức Chúa? Xin cho chúng tôi biết phải trả Hòm Bia về chỗ cũ bằng
cách nào.” 3 Họ đáp: "Nếu anh em trả lại Hòm Bia Thiên Chúa
Ít-ra-en, thì đừng trả lại không, nhưng phải nộp cho Người một của lễ đền tội.
Bấy giờ anh em sẽ khỏi bệnh và sẽ biết tại sao tay của Người đã không tha anh
em.” 4 Người Phi-li-tinh hỏi: "Của lễ đền tội chúng tôi phải
nộp cho Người là gì?" Họ đáp: "Năm cái khối u bằng vàng và năm con
chuột bằng vàng, tính theo số các vương hầu người Phi-li-tinh, vì cũng một tai
hoạ đã giáng xuống trên tất cả anh em và trên các vương hầu của anh em. 5 Anh
em hãy làm những hình ảnh các khối u của anh em, và hình ảnh các con chuột đang
phá phách xứ sở, và hãy tôn vinh Thiên Chúa Ít-ra-en. May ra Người sẽ nhẹ tay
với anh em, với các thần của anh em và xứ sở anh em. 6 Tại sao anh
em để lòng mình ra nặng nề cứng cỏi, như người Ai-cập và Pha-ra-ô đã để lòng
chúng ra nặng nề cứng cỏi? Khi Người thị uy với chúng, chúng đã chẳng phải để
cho Ít-ra-en đi sao? 7 Bây giờ hãy đóng một cỗ xe mới và bắt hai con bò sữa
chưa hề mang ách. Hãy lấy hai con bò đó mà thắng xe, và hãy tách con chúng ra
mà đưa về nhà. 8 Anh em hãy đem Hòm Bia Ðức Chúa đặt lên xe. Còn các
đồ bằng vàng anh em nộp cho Người làm của lễ đền tội, thì hãy để vào một cái
tráp ở bên cạnh, rồi hãy để cho Hòm Bia đi. 9 Anh em sẽ xem: nếu Hòm
Bia theo hướng lãnh thổ mình mà lên Bết Se-mét, thì chính là Người đã gây ra
cho chúng ta đại hoạ này. Nếu không, chúng ta sẽ biết là chẳng phải tay Người
đã đánh chúng ta, mà chỉ là chuyện tình cờ xảy đến cho chúng ta."
10
Những
người ấy làm như vậy. Chúng bắt hai con bò sữa mà thắng xe, còn bò con thì nhốt
ở nhà. 11 Chúng đặt Hòm Bia Ðức Chúa lên xe, cùng với cái tráp đựng
các con chuột bằng vàng và hình ảnh các khối u của chúng.
12
Các
con bò cái thẳng đường đi về hướng Bết Se-mét. Chúng cứ theo một đường mà đi,
vừa đi vừa rống, không đi trệch bên phải bên trái. Các vương hầu người
Phi-li-tinh đi theo sau chúng cho đến ranh giới Bết Se-mét.
Hòm
Bia tại Bết Se-mét
13
Người
Bết Se-mét đang gặt lúa mì trong thung lũng. Ngước mắt lên, họ nhìn thấy Hòm
Bia, và khi nhìn thấy, họ vui mừng. 14 Cỗ xe đến cánh đồng ông
Giơ-hô-su-a người Bết Se-mét, và dừng lại ở đó. Ở đó có một tảng đá lớn. Họ bổ
gỗ xe ra, còn những con bò cái thì họ dâng Ðức Chúa làm lễ toàn thiêu. 15 Các
thầy Lê-vi đưa Hòm Bia Ðức Chúa xuống, cùng với cái tráp bên cạnh, trong đó có
các đồ vật bằng vàng. Họ đặt tất cả lên tảng đá lớn. Người Bết Se-mét dâng
những lễ toàn thiêu và tiến những hy lễ lên Ðức Chúa, ngày hôm đó. 16 Năm
vương hầu người Phi-li-tinh thấy vậy, cũng trở về Éc-rôn ngày hôm đó. 17 Ðây
là các u bướu bằng vàng người Phi-li-tinh đã nộp cho Ðức Chúa làm lễ đền tội:
một cho Át-đốt, một cho Ga-da, một cho Át-cơ-lôn, một cho Gát, một cho Éc-rôn. 18
Ngoài ra còn có các con chuột bằng vàng, tính theo số tất cả các thành
người Phi-li-tinh thuộc về năm vương hầu, từ thành kiên cố cho đến làng bỏ ngỏ.
Tảng đá lớn trên đó người ta đã đặt Hòm Bia Ðức Chúa là bằng chứng cho đến ngày
hôm nay, trong cánh đồng ông Giơ-hô-su-a người Bết Se-mét. 19 Người
đã đánh phạt những người Bết Se-mét vì họ đã nhìn thấy Hòm Bia Ðức Chúa. Trong
dân, Người đã đánh phạt bảy mươi người. Dân để tang vì Ðức Chúa đã đánh dân một
đòn đau.
Hòm
Bia tại Kia-giát Giơ-a-rim
20
Người
Bết Se-mét nói: "Ai có thể đứng vững trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa thánh
thiện này? Khi rời chúng tôi, Người sẽ lên với ai?” 21 Họ sai sứ giả
đến với dân cư thành Kia-giát Giơ-a-rim và nói: "Người Phi-li-tinh đã trả
lại Hòm Bia Ðức Chúa. Hãy xuống mà đưa lên với anh em."
Chương 07
1
Người
Kia-giát Giơ-a-rim đến và đưa Hòm Bia Ðức Chúa lên. Họ đưa Hòm Bia vào nhà ông
A-vi-na-đáp, ở trên đồi, và thánh hiến E-la-da, con ông, để giữ Hòm Bia Ðức
Chúa.
Ông
Sa-mu-en làm thủ lãnh và cứu dân
2
Từ
ngày Hòm Bia được đặt ở Kia-giát Giơ-a-rim, một thời gian dài trôi qua: đã hai
mươi năm rồi. Toàn thể nhà Ít-ra-en thiết tha hướng về Ðức Chúa. 3 Bấy
giờ ông Sa-mu-en nói với toàn thể nhà Ít-ra-en rằng: "Nếu anh em hết lòng
trở về với Ðức Chúa, thì hãy loại bỏ các thần ngoại bang và các nữ thần
Át-tô-rét ra khỏi anh em; hãy hướng lòng anh em về với Ðức Chúa và phụng sự một
mình Người, thì Người sẽ giải thoát anh em khỏi tay người Phi-li-tinh.” 4 Con
cái Ít-ra-en loại bỏ các thần Ba-an và các nữ thần Át-tô-rét và chỉ phụng sự
một mình Ðức Chúa.
5
Ông
Sa-mu-en nói: "Hãy tập hợp toàn thể Ít-ra-en về Mít-pa: tôi sẽ cầu nguyện
với Ðức Chúa cho anh em.” 6 Họ tập hợp về Mít-pa. Họ múc nước và đổ
ra trước nhan Ðức Chúa. Ngày hôm ấy họ ăn chay và nói tại đó: "Chúng tôi
đắc tội với Ðức Chúa." Ông Sa-mu-en làm thủ lãnh xét xử con cái Ít-ra-en
tại Mít-pa.
7
Khi
người Phi-li-tinh nghe tin con cái Ít-ra-en tập hợp về Mít-pa, thì các vương
hầu người Phi-li-tinh lên đánh Ít-ra-en. Con cái Ít-ra-en nghe tin và sợ người
Phi-li-tinh. 8 Con cái Ít-ra-en nói với ông Sa-mu-en: "Xin ông
chớ ngừng kêu lên Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, để người cứu chúng tôi khỏi
tay người Phi-li-tinh!” 9 Ông Sa-mu-en bắt một con chiên sữa và dâng
toàn bộ làm lễ toàn thiêu lên Ðức Chúa. Rồi ông Sa-mu-en kêu lên Ðức Chúa cho
Ít-ra-en và Ðức Chúa đã đáp lời ông. 10 Trong khi ông Sa-mu-en dâng
lễ toàn thiêu thì người Phi-li-tinh tiến lại giao chiến với Ít-ra-en. Nhưng
ngày hôm đó Ðức Chúa giáng sấm sét ầm ầm xuống người Phi-li-tinh; Người khiến
chúng tán loạn và chúng bị Ít-ra-en đánh bại. 11 Người Ít-ra-en ra
khỏi Mít-pa, đuổi theo quân Phi-li-tinh và đánh chúng đến tận bên dưới Bết Ca. 12
Ông Sa-mu-en lấy một tảng đá và đặt giữa Mít-pa và Cái Răng. Ông đặt tên
tảng đá là E-ven Ha E-de và nói: "Cho đến chỗ này, Ðức Chúa đã cứu giúp
chúng ta."
13
Người
Phi-li-tinh bị hạ nhục và không còn đến lãnh thổ Ít-ra-en nữa. Tay Ðức Chúa đè
trên người Phi-li-tinh suốt đời ông Sa-mu-en. 14 Các thành mà người
Phi-li-tinh đã chiếm của Ít-ra-en lại trở về với Ít-ra-en, từ Éc-rôn đến Gát,
và Ít-ra-en đã giải phóng lãnh thổ họ khỏi tay người Phi-li-tinh. Có hoà bình
giữa Ít-ra-en và người E-mô-ri.
15
Ông
Sa-mu-en làm thủ lãnh xét xử Ít-ra-en mọi ngày trong đời ông. 16 Năm
này qua năm nọ, ông đi một vòng Bết Ên, Ghin-gan, Mít-pa, và ông xét xử
Ít-ra-en tại tất cả những nơi ấy. 17 Rồi ông trở về Ra-ma vì nhà ông
ở đó và ông xét xử Ít-ra-en ở đó. Tại đây ông dựng một bàn thờ để kính Ðức
Chúa.
Chương 08
II.
Ông Sa-Mu-En Và Ông Sa-Un
1.
Thiết Lập Chế Ðộ Quân Chủ
Dân
xin một vua
1
Khi
ông Sa-mu-en đã già, ông đặt các con trai ông làm thủ lãnh Ít-ra-en. 2 Con
đầu lòng của ông tên là Giô-en, con thứ hai tên là A-vi-gia. Họ làm thủ lãnh
tại Bơ-e Se-va. 3 Các con trai ông không đi theo đường lối của ông,
chúng ngả theo lợi lộc, nhận quà hối lộ và làm sai lệch công lý. 4 Toàn
thể các kỳ mục tập hợp lại và đến với ông Sa-mu-en ở Ra-ma. 5 Họ nói
với ông: "Ông coi, ông già rồi, và các con ông lại không đi theo đường lối
của ông. Vậy bây giờ, xin ông lập cho chúng tôi một vua để vua xét xử chúng tôi,
như trong tất cả các dân tộc.” 6 Ông Sa-mu-en bực mình vì lời họ
nói: "Xin ông cho chúng tôi một vua để xét xử chúng tôi." Và ông
Sa-mu-en đã cầu nguyện với Ðức Chúa. 7 Ðức Chúa phán với ông
Sa-mu-en: "Ngươi cứ nghe theo tiếng của dân trong mọi điều chúng nói với
ngươi, vì không phải chúng gạt bỏ ngươi, mà là chúng gạt bỏ Ta, không chịu để
Ta làm vua của chúng. 8 Chúng xử sự với ngươi như chúng vẫn xử sự từ
ngày Ta đưa chúng lên từ Ai-cập cho đến ngày hôm nay: Chúng đã bỏ Ta mà phụng
sự những thần khác. 9 Vậy bây giờ ngươi cứ nghe theo tiếng chúng.
Chỉ có điều là ngươi phải long trọng cảnh cáo chúng và nói cho chúng biết quyền
hành của nhà vua sẽ cai trị chúng."
Những
bất tiện của chế độ quân chủ
10
Ông
Sa-mu-en nói lại mọi lời của Ðức Chúa cho dân bấy giờ đang xin ông một vua. 11
Ông nói: "Ðây là quyền hành của nhà vua sẽ cai trị anh em. Các con
trai anh em, ông sẽ bắt mà cắt đặt vào việc trông coi xe và ngựa của ông, và
chúng sẽ chạy đàng trước xe của ông. 12 Ông sẽ đặt chúng làm người
chỉ huy một ngàn và chỉ huy năm mươi, sẽ bắt chúng cày đất cho ông, gặt lúa cho
ông, chế tạo vũ khí cho ông và dụng cụ cho xe của ông. 13 Các con
gái anh em, ông sẽ bắt vào làm thợ chế nước hoa, nấu ăn và làm bánh. 14 Ðồng
ruộng, vườn nho, vườn cây ô-liu tốt nhất của anh em, ông sẽ lấy mà cho bề tôi
của ông. 15 Lúa thóc và vườn nho của anh em, ông sẽ đánh thuế thập
phân mà cho các thái giám và bề tôi của ông. 16 Các tôi tớ nam nữ,
các người trai tráng khá nhất của anh em, các con lừa của anh em, ông sẽ bắt mà
dùng vào việc của ông. 17 Chiên dê của anh em, ông sẽ đánh thuế thập
phân. Còn chính anh em sẽ làm nô lệ cho ông. 18 Ngày ấy, anh em sẽ
kêu than vì vua của anh em mà anh em đã chọn cho mình, nhưng ngày ấy Ðức Chúa
sẽ không đáp lời anh em."
19
Nhưng
dân không chịu nghe theo tiếng ông Sa-mu-en. Họ nói: "Không! Phải có một
vua cai trị chúng tôi! 20 Cả chúng tôi cũng sẽ giống như mọi dân tộc. Vua chúng
tôi sẽ xét xử chúng tôi, sẽ dẫn đầu chúng tôi và sẽ lãnh đạo các cuộc chiến của
chúng tôi.” 21 Ông Sa-mu-en nghe tất cả những lời của dân và nói lại
những lời ấy cho Ðức Chúa nghe. 22 Ðức Chúa phán với ông Sa-mu-en:
"Hãy nghe theo tiếng chúng, và hãy đặt một vua cai trị chúng." Ông
Sa-mu-en nói với người Ít-ra-en: "Ai nấy hãy về thành của mình."
Chương 09
Ông
Sa-un đi tìm lừa của cha
1
Có
một người thuộc chi tộc Ben-gia-min tên là Kít, con ông A-vi-ên; ông A-vi-ên là
con ông Xơ-ro; ông Xơ-ro là con ông Bơ-khô-rát; ông Bơ-khô-rát là con ông
A-phi-ác; ông A-phi-ác là con một người Ben-gia-min. Ông Kít là một người có
thế giá. 2 Ông có một người con trai tên là Sa-un, một người trẻ và
đẹp trai; trong số con cái Ít-ra-en, không có người nào đẹp trai hơn ông. Ông
cao hơn toàn dân từ vai trở lên.
3
Các
con lừa cái của ông Kít, cha ông Sa-un, bị lạc; ông Kít bảo ông Sa-un, con ông:
"Con hãy đem một trong các người đầy tớ đi với con và lên đường đi tìm
lừa.” 4 Ông Sa-un đi qua miền núi Ép-ra-im, rồi đi qua đất Sa-li-sa,
mà không tìm thấy. Họ đi qua đất Sa-a-lim: cũng không thấy gì. Ông đi qua đất
Ben-gia-min, mà không tìm thấy. 5 Khi họ đến đất Xúp, ông Sa-un nói
với người đầy tớ đi với mình: "Nào, chúng ta hãy trở về, kẻo cha tôi không
còn nghĩ đến lừa mà lại lo cho chúng ta.” 6 Người đầy tớ nói với
ông: "Này, trong thành kia có một người của Thiên Chúa; ông là người có uy
tín: tất cả những gì ông nói đều chắc chắn xảy ra. Bây giờ chúng ta hãy đi đến
đó. May ra ông ấy sẽ chỉ cho chúng ta phải đi đường nào.” 7 Ông
Sa-un nói với người đầy tớ: "Ðược, chúng ta đi! Nhưng chúng ta sẽ đem gì
đến biếu ông ấy? Bị chúng ta hết bánh rồi, chúng ta không có quà đem biếu người
của Thiên Chúa. Chúng ta có gì nào?” 8 Người đầy tớ lại trả lời ông
Sa-un: "Ðây tôi có sẵn trong tay một chỉ bạc. Tôi sẽ tặng người của Thiên
Chúa và ông ấy sẽ chỉ cho chúng ta con đường của chúng ta.” 9 - Ngày
xưa, tại Ít-ra-en, khi người nào đi thỉnh ý Ðức Chúa thì nói thế này: "Nào
chúng ta đến với thầy thị kiến", vì "ngôn sứ" ngày nay thì ngày
xưa gọi là "thầy thị kiến". - 10 Ông Sa-un nói với đầy tớ: "Anh
nói phải. Nào chúng ta đi! " Rồi họ đi đến thành trong đó có người của Thiên
Chúa.
Ông
Sa-un gặp ông Sa-mu-en
11
Họ
đang lên dốc dẫn đến thành thì gặp những cô gái đi ra múc nước; họ hỏi các cô:
"Thầy thị kiến có ở đây không?” 12 Các cô trả lời họ rằng:
"Có, ngay trước mặt ông kia kìa, ông đi mau lên, vì hôm nay ông ấy đến thành,
và hôm nay có hy lễ cho dân ở nơi cao. 13 Vào thành là các ông sẽ
gặp ông ấy trước khi ông ấy lên nơi cao để dùng bữa: dân sẽ không dùng bữa
trước khi ông ấy đến, vì ông ấy là người chúc phúc cho hy lễ; sau đó các khách
mời sẽ dùng bữa. Vậy bây giờ các ông lên đi, các ông sẽ gặp ông ấy ngay lập
tức."
14
Họ
lên thành. Khi họ vào trong thành, thì thấy ông Sa-mu-en đang đi ra đón họ để
lên nơi cao. 15 Một ngày trước khi ông Sa-un đến, Ðức Chúa đã mặc
khải cho ông Sa-mu-en rằng: 16 "Ngày mai, vào giờ này, Ta sẽ
sai một người xứ Ben-gia-min đến với ngươi, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm
người lãnh đạo dân Ta là Ít-ra-en, và nó sẽ cứu dân Ta khỏi tay người
Phi-li-tinh, vì Ta đã nhìn thấy dân Ta, và tiếng rên siết của nó đã thấu tới
Ta.” 17 Khi ông Sa-mu-en thấy ông Sa-un thì Ðức Chúa mách bảo ông:
"Ðây là người mà Ta đã nói với ngươi: chính nó sẽ cai trị dân Ta.” 18
Ông Sa-un lại gần ông Sa-mu-en ở giữa cửa thành và nói: "Xin ông làm
ơn cho tôi biết nhà thầy thị kiến ở đâu.” 19 Ông Sa-mu-en trả lời
ông Sa-un rằng: "Tôi là thầy thị kiến đây. Ông hãy lên nơi cao, trước mặt
tôi. Các ông sẽ dùng bữa với tôi hôm nay. Sáng mai tôi sẽ để cho ông đi và sẽ
nói cho ông biết tất cả những gì đang làm ông bận tâm. 20 Còn những
con lừa cái của ông đã lạc ba ngày nay, ông đừng để tâm, vì đã tìm thấy rồi. Vả
lại, mọi cái quý nhất trong Ít-ra-en thuộc về ai? Chẳng phải là thuộc về ông và
nhà cha ông hay sao?” 21 Ông Sa-un trả lời rằng: "Tôi chẳng
phải là một người Ben-gia-min, chi tộc nhỏ nhất trong Ít-ra-en sao? Thị tộc tôi
chẳng phải là hèn mọn nhất trong các thị tộc của chi tộc Ben-gia-min sao? Sao
ông lại nói với tôi như thế?"
22
Ông
Sa-mu-en dẫn ông Sa-un và người đầy tớ ông này, đưa vào phòng và cho họ một chỗ
ở hàng đầu những khách mời, khoảng ba mươi người. 23 Ông Sa-mu-en
bảo người đầu bếp: "Hãy dọn phần tôi đã trao cho anh, khi bảo anh để riêng
ra.” 24 Người đầu bếp mang cái đùi và cái đuôi ra đặt trước mặt ông
Sa-un. Ông Sa-mu-en nói: "Ðây là phần để lại, dọn ra cho ông. Mời ông ăn,
vì nó được giữ lại cho ông nhân dịp này là dịp tôi mời dân." Ngày hôm đó,
ông Sa-un dùng bữa với ông Sa-mu-en. 25 Sau đó, từ nơi cao, họ xuống
thành, và ông Sa-mu-en nói chuyện với ông Sa-un trên sân thượng.
Ông
Sa-un được xức dầu phong vương
26
Hôm
sau, họ dậy sớm. Khi hừng đông ló rạng, ông Sa-mu-en gọi ông Sa-un đang ở trên
sân thượng và nói: "Mời ông dậy, tôi sẽ tiễn ông đi." Ông Sa-un dậy,
rồi cả hai người, ông và ông Sa-mu-en, ra ngoài. 27 Khi họ đang
xuống đến cuối thành thì ông Sa-mu-en nói với ông Sa-un: "Xin ông bảo
người đầy tớ đi qua trước chúng ta." - Người ấy đi qua - "Còn ông,
bây giờ xin ông đứng lại để tôi nói cho ông nghe lời của Thiên Chúa."
Chương 10
1
Ông
Sa-mu-en lấy lọ dầu và đổ trên đầu ông Sa-un, rồi hôn ông và nói: "Chẳng
phải Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong ông làm người lãnh đạo cơ nghiệp của Người
sao? 2 Hôm nay, khi từ biệt tôi mà đi, ông sẽ gặp hai người đàn ông gần mộ bà
Ra-khen, ở ranh giới Ben-gia-min, tại Xen-xác. Họ sẽ nói với ông: "Các con
lừa cái ông đang đi tìm, đã tìm được rồi, và bây giờ cha ông đã quên chuyện các
con lừa, nhưng đang lo cho các ông và tự hỏi: Tôi phải làm gì cho con trai tôi?
3 Từ đó đi xa hơn nữa, ông sẽ đến Cây Sồi Ta-bo, ở đó ba người đàn ông sẽ gặp
ông, họ đang lên với Thiên Chúa ở Bết Ên, một người mang ba con dê con, một
người mang ba cái bánh, một người mang một bầu da đầy rượu. 4 Họ sẽ
vấn an ông, sẽ biếu ông hai cái bánh và ông sẽ nhận từ tay họ. 5 Sau
đó, ông sẽ đến Ghíp-a của Thiên Chúa, là nơi có viên trấn thủ Phi-li-tinh. Tại
đó, khi ông vào thành, ông sẽ gặp một nhóm ngôn sứ đang từ nơi cao xuống, trước
mặt họ có đàn hạc, trống, sáo, đàn cầm, và họ đang lên cơn xuất thần ngôn sứ. 6
Bấy giờ thần khí Ðức Chúa sẽ nhập vào ông, ông sẽ lên cơn xuất thần ngôn
sứ cùng với họ, và ông sẽ biến thành một người khác. 7 Vậy khi các
dấu ấy xảy đến cho ông, thì ông hãy tuỳ cơ ứng biến, vì Thiên Chúa ở với ông. 8
Ông hãy xuống Ghin-gan trước tôi; phần tôi, tôi sẽ xuống gặp ông, để dâng
những lễ toàn thiêu và tiến những hy lễ kỳ an. Xin ông đợi bảy ngày, cho đến
khi tôi tới. Tôi sẽ cho ông biết ông phải làm gì."
Ông
Sa-un trở về
9
Ông
Sa-un vừa quay lưng bỏ ông Sa-mu-en mà đi, thì Thiên Chúa biến đổi lòng ông, và
tất cả các dấu đó đã xảy ra ngày hôm ấy. 10 Khi họ đến Ghíp-a thì
thấy một nhóm ngôn sứ đi về phía họ. Thần khí Thiên Chúa nhập vào ông, và ông
lên cơn xuất thần ngôn sứ ở giữa họ. 11 Tất cả những người quen biết
ông trước kia đều thấy ông: ông làm ngôn sứ với những ngôn sứ! Trong dân người
ta bảo nhau: "Cái gì đã xảy ra cho con ông Kít? Ông Sa-un mà cũng ở trong
số các ngôn sứ sao?” 12 Một người ở đó lên tiếng hỏi: "Ai là
cha của họ vậy?" Vì thế có câu ngạn ngữ rằng: "Ông Sa-un mà cũng ở
trong số các ngôn sứ sao?"
13
Khi
hết cơn xuất thần ngôn sứ, thì ông Sa-un đi lên nơi cao. 14 Chú ông
Sa-un hỏi ông và người đầy tớ: "Các anh đã đi đâu vậy?" Ông Sa-un trả
lời: "Chúng cháu đi tìm các con lừa cái, nhưng không thấy gì, nên đã đến
gặp ông Sa-mu-en.” 15 Chú ông Sa-un nói: "Cháu hãy kể lại cho
chú nghe ông Sa-mu-en đã nói gì với hai người.” 16 Ông Sa-un trả lời
chú: "Ông ấy chỉ báo cho chúng cháu là đã tìm thấy con lừa cái rồi."
Nhưng về chuyện làm vua, thì ông không kể lại cho chú điều ông Sa-mu-en đã nói.
Ông
Sa-un trúng thăm làm vua
17
Ông
Sa-mu-en triệu tập dân đến với Ðức Chúa ở Mít-pa. 18 Ông nói với con
cái Ít-ra-en: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán như sau: Chính Ta
đã đưa các ngươi lên từ Ai-cập và đã giải thoát các ngươi khỏi tay người Ai-cập
và khỏi tay mọi vương quốc đang áp bức các ngươi. 19 Còn các ngươi,
hôm nay các ngươi đã gạt bỏ Thiên Chúa của các ngươi, Ðấng cứu các ngươi khỏi
mọi tai hoạ và mọi cơn ngặt nghèo của các ngươi, và các ngươi đã thưa với
Người: "Xin Ngài lập một vua cai trị chúng tôi. Vậy bây giờ hãy đến đứng
trước mặt Ðức Chúa theo chi tộc và thị tộc.” 20 Ông Sa-mu-en cho mọi
chi tộc Ít-ra-en tiến đến và chi tộc Ben-gia-min trúng thăm. 21 Ông
cho chi tộc Ben-gia-min tiến đến theo thị tộc, và thị tộc Mát-ri trúng thăm.
Rồi ông Sa-un con ông Kít trúng thăm. Họ tìm ông mà không thấy.
22
Họ
lại thỉnh ý Ðức Chúa: "Thưa còn người nào đến đây nữa không?" Ðức
Chúa trả lời: "Nó đây này, nó đang lẩn trốn trong đống hành lý.” 23 Họ
chạy đến, lôi ông từ đó ra, và ông đến đứng giữa dân. Ông cao hơn toàn dân từ
vai trở lên. 24 Ông Sa-mu-en nói với toàn dân: "Anh em đã xem
thấy người Ðức Chúa chọn chưa? Trong toàn dân không có ai được như ông."
Toàn dân reo hò và nói: "Vạn tuế đức vua!"
25
Ông
Sa-mu-en nói cho dân biết quyền hành vua chúa, ghi chép vào một quyển sách và
đặt trước nhan Ðức Chúa. Rồi ông Sa-mu-en cho toàn dân ai nấy về nhà mình.
26
Ông
Sa-un cũng đi về nhà ở Ghíp-a. Cùng đi với ông có những người can đảm đã được
Ðức Chúa cảm hoá tâm hồn. 27 Nhưng có những tên vô lại đã nói:
"Làm sao hắn cứu chúng ta được?" Chúng coi thường ông và không đem
quà biếu ông. Nhưng ông làm như không nghe thấy.
Chương 11
Thắng
người Am-mon
1
Na-khát,
người Am-mon, lên bao vây thành Gia-vết, miền Ga-la-át. Mọi người Gia-vết nói
với Na-khát: "Xin ông lập giao ước với chúng tôi, và chúng tôi sẽ làm tôi
ông.” 2 Na-khát, người Am-mon, nói với họ: "Ta sẽ lập giao ước
với các ngươi với điều kiện này là ta sẽ chọc thủng mắt phải của tất cả các
ngươi. Ta sẽ bắt toàn thể Ít-ra-en phải chịu điều sỉ nhục đó.” 3 Các
kỳ mục Gia-vết nói với ông: "Xin để cho chúng tôi bảy ngày. Chúng tôi sẽ
sai sứ giả đi khắp lãnh thổ Ít-ra-en, và nếu không có ai cứu chúng tôi, thì
chúng tôi sẽ ra hàng ông.” 4 Các sứ giả đến Ghíp-a, thành của ông
Sa-un, và nói những lời ấy cho dân nghe. Toàn dân oà lên khóc.
5
Và
này ông Sa-un từ ngoài đồng về theo sau đàn bò. Ông hỏi: "Có gì mà dân
khóc vậy? " Họ kể lại cho ông những lời người Gia-vết nói. 6 Khi
ông Sa-un nghe những lời ấy, thần khí của Ðức Chúa nhập vào ông, và ông bừng
bừng nổi giận. 7 Ông bắt một cặp bò, xả thịt và gửi các sứ giả mang
đi khắp lãnh thổ Ít-ra-en với lời này: "Ai không theo Sa-un và Sa-mu-en ra
trận, thì bò của nó sẽ bị như thế này." Ðức Chúa gieo kinh hoàng xuống
trên dân, và họ đã ra trận, muôn người như một. 8 Ông Sa-un duyệt
binh tại Be-déc: Con cái Ít-ra-en là ba trăm ngàn và người Giu-đa là ba mươi
ngàn. 9 Ông nói với các sứ giả đã đến: "Các ông hãy nói với
người Gia-vết thế này: Ngày mai, vào lúc mặt trời nóng nhất, anh em sẽ được cứu
viện." Các sứ giả về báo tin cho người Gia-vết, khiến họ vui mừng. 10
Người Gia-vết nói với Na-khát: "Ngày mai, chúng tôi sẽ ra hàng các
ông, và các ông cứ xử với chúng tôi theo mọi điều các ông coi là tốt."
11
Hôm
sau, ông Sa-un chia dân ra thành ba cánh quân. Họ vào giữa trại khi gần sáng và
đánh người Am-mon cho đến lúc nóng nực nhất trong ngày. Những tên sống sót thì
tán loạn không còn có lấy hai tên ở với nhau.
Ông
Sa-un được tôn làm vua
12
Dân
nói với ông Sa-mu-en: "Ai là người nói: "Sa-un mà lại làm vua cai trị
chúng tôi sao"? Các ông hãy nộp chúng cho chúng tôi xử tử.” 13 Ông
Sa-un nói: "Không ai sẽ bị xử tử hôm nay, vì hôm nay Ðức Chúa đã chiến
thắng tại Ít-ra-en.” 14 Ông Sa-mu-en nói với dân: "Nào, chúng
ta đi Ghin-gan và khai mạc vương quyền mới ở đó."
15
Toàn
dân đi Ghin-gan. Ở đó, trước nhan Ðức Chúa, tại Ghin-gan, họ đã tôn ông Sa-un
làm vua, và ở đó họ dâng những hy lễ kỳ an trước nhan Ðức Chúa. Ở đó, ông Sa-un
và mọi người Ít-ra-en đã liên hoan tưng bừng.
Chương 12
Ông
Sa-mu-en nhường chỗ cho ông Sa-un
1
Ông
Sa-mu-en nói với toàn thể Ít-ra-en: "Ðây tôi đã nghe theo tiếng của anh em
trong mọi điều anh em nói với tôi, và tôi đã đặt một vua cai trị anh em. 2
Bây giờ, đây là vua dẫn đầu anh em. Phần tôi, tôi đã già nua tóc bạc, và
các con trai tôi, chúng đang ở giữa anh em đó. Tôi đã dẫn đầu anh em, từ lúc
tôi còn trẻ cho đến hôm nay. 3 Này tôi đây. Hãy cáo tội tôi trước
mặt Ðức Chúa và trước mặt vị Người đã xức dầu tấn phong: tôi đã lấy bò của ai,
lấy lừa của ai? Tôi đã bóc lột ai, áp bức ai? Tôi đã nhận quà đút lót từ tay ai
để nhắm mắt làm ngơ cho nó? Tôi sẽ trả lại cho anh em.” 4 Họ trả
lời: "Ông đã không bóc lột chúng tôi, không áp bức chúng tôi, không lấy cái
gì từ tay ai.” 5 Ông nói với họ: "Có Ðức Chúa làm chứng trước
mặt anh em, và có vị Người đã xức dầu tấn phong cũng làm chứng hôm nay, rằng
anh em đã không tìm thấy gì nơi tay tôi." Họ trả lời: "Vâng, có Người
làm chứng."
6
Ông
Sa-mu-en nói với dân: "Phải, chính Thiên Chúa, Ðấng đã cho ông Mô-sê và
ông A-ha-ron xuất hiện và đã đưa cha ông anh em lên từ đất Ai-cập. 7 Bây
giờ, anh em hãy đứng đây, để tôi tranh tụng với anh em trước mặt Ðức Chúa về
mọi hồng ân Ðức Chúa đã ban cho anh em và cha ông anh em. 8 Sau khi
ông Gia-cóp vào Ai-cập, thì cha ông anh em đã kêu gào lên Ðức Chúa, và Ðức Chúa
đã sai ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến; các ông đã đưa cha ông anh em ra khỏi
Ai-cập và định cư họ ở nơi này. 9 Nhưng họ đã quên Ðức Chúa, Thiên
Chúa của họ, nên Người đã trao họ vào tay Xi-xơ-ra, tổng chỉ huy quân đội thành
Kha-xo, vào tay người Phi-li-tinh và vào tay vua Mô-áp, và chúng đã giao tranh
với họ. 10 Họ đã kêu lên Ðức Chúa và nói: "Chúng tôi đã phạm
tội, vì chúng tôi đã bỏ Ðức Chúa, đã phụng thờ các thần Ba-an và các nữ thần
Át-tô-rét. Giờ đây, xin giải thoát chúng tôi khỏi tay quân thù và chúng tôi sẽ
phụng thờ Ngài. 11 Ðức Chúa đã sai các ông Giơ-rúp-ba-an, Bơ-đan,
Gíp-tác và Sa-mu-en đến; Người đã giải thoát anh em khỏi tay thù địch chung
quanh và anh em đã được sống yên hàn.
12
"Nhưng
khi anh em thấy Na-khát, vua của con cái Am-mon, đến đánh anh em, thì anh em đã
nói với tôi: "Không! Phải có một vua cai trị chúng tôi! Trong khi chính
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là vua anh em. 13 Bây giờ, đây là
vua anh em đã chọn, đã xin; Ðức Chúa đã ban một vua cai trị anh em đó. 14 Nếu
anh em kính sợ Ðức Chúa và phụng thờ Người, nếu anh em nghe theo tiếng Người và
không cưỡng lệnh Ðức Chúa, thì cả anh em, cả vua của anh em sẽ theo Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh em. 15 Nhưng nếu anh em không nghe theo tiếng Ðức
Chúa, nếu anh em cưỡng lệnh Ðức Chúa, thì bàn tay Ðức Chúa sẽ đè trên anh em
cũng như trên cha ông anh em.
16
Bây
giờ, một lần nữa, hãy đứng đây và xem điều vĩ đại Ðức Chúa sắp thực hiện trước
mắt anh em. 17 Hiện nay đang là mùa gặt lúa mì phải không? Tôi sẽ
kêu cầu Ðức Chúa và Người sẽ cho sấm nổ mưa rơi. Anh em hãy hiểu và thấy rằng
anh em đã làm một điều rất xấu xa trái mắt Ðức Chúa, khi đòi có vua.” 18 Ông
Sa-mu-en kêu cầu Ðức Chúa và Người cho sấm nổ mưa rơi ngày hôm đó. Toàn dân rất
kính sợ Ðức Chúa và ông Sa-mu-en. 19 Toàn dân nói với ông Sa-mu-en:
"Xin ông cầu nguyện với Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, cho các tôi tớ ông
đây, để chúng tôi khỏi chết, vì ngoài mọi tội lỗi của chúng tôi, chúng tôi còn
làm thêm điều xấu xa là đòi có vua."
20
Ông
Sa-mu-en nói với dân: "Ðừng sợ! Chính anh em đã làm tất cả điều xấu xa ấy.
Tuy nhiên, anh em đừng có bỏ không theo Ðức Chúa, mà hãy phụng thờ Ðức Chúa hết
lòng. 21 Ðừng có bỏ mà theo những cái hư không, chúng chẳng ích gì
và chẳng giải thoát được ai, vì chúng chỉ là hư không. 22 Thật vậy,
Ðức Chúa sẽ không bỏ rơi dân Người, vì danh vĩ đại của Người, vì Ðức Chúa đã
muốn làm cho anh em thành dân của Người. 23 Phần tôi, không đời nào
tôi phạm tội nghịch cùng Ðức Chúa là thôi cầu nguyện cho anh em. Tôi sẽ cho anh
em biết đường ngay nẻo chính. 24 Chỉ có một điều là anh em hãy kính
sợ Ðức Chúa và trung tín phụng thờ Người hết lòng: anh em hãy xem việc vĩ đại
Người đã làm giữa anh em. 25 Nhưng nếu anh em cứ làm điều xấu xa,
thì cả anh em lẫn vua của anh em sẽ bị huỷ diệt."
Chương 13
2.
Những Năm Ðầu Của Triều Ðại Sa-Un
Nổi
dậy chống người Phi-li-tinh
1
Ông
Sa-un được... tuổi khi lên làm vua, và ông đã làm vua cai trị Ít-ra-en được hai
năm. 2 Vua Sa-un chọn lấy ba ngàn người Ít-ra-en: hai ngàn ở với vua
Sa-un tại Mích-mát và trong núi Bết Ên, một ngàn ở với ông Giô-na-than tại
Ghíp-a thuộc Ben-gia-min, số còn lại trong dân thì vua cho ai nấy về lều mình.
3
Ông
Giô-na-than hạ viên trấn thủ Phi-li-tinh ở Ghe-va và người Phi-li-tinh nghe biết.
Vua Sa-un cho thổi tù và trong toàn xứ. Ông nói: "Các người Híp-ri hãy
nghe đây!” 4 Toàn thể Ít-ra-en nghe tin rằng: vua Sa-un đã hạ viên
trấn thủ Phi-li-tinh, và Ít-ra-en cũng đã trở nên đáng ghét đối với người
Phi-li-tinh. Dân liền tập hợp lại sau lưng vua Sa-un ở Ghin-gan. 5 Người
Phi-li-tinh họp nhau lại để giao tranh với Ít-ra-en. Chúng có ba ngàn chiến xa,
sáu ngàn kỵ binh và quân đông như cát ngoài bãi biển. Chúng lên đóng trại ở
Mích-mát, về phía đông Bết A-ven. 6 Người Ít-ra-en thấy mình lâm cảnh
ngặt nghèo vì dân bị siết chặt. Dân trốn vào trong các hang, động, khe đá, hầm
hố và hồ chứa nước. 7 Người Híp-ri đi qua sông Gio-đan sang đất Gát
và Ga-la-át.
Ông
Sa-mu-en đoạn giao với vua Sa-un
Vua
Sa-un vẫn còn ở Ghin-gan và sau lưng vua toàn dân run sợ. 8 Vua đợi
bảy ngày, theo thời hạn ông Sa-mu-en đã ấn định, nhưng ông Sa-mu-en không đến
Ghin-gan, và dân bỏ vua Sa-un đi tản mác. 9 Vua Sa-un bảo: "Hãy
đem lễ vật toàn thiêu và những lễ vật kỳ an đến cho ta." Và vua đã dâng lễ
toàn thiêu.
10
Vua
vừa dâng lễ toàn thiêu xong, thì này ông Sa-mu-en đến. Vua Sa-un ra đón chào
ông. 11 Ông Sa-mu-en hỏi: "Ngài đã làm gì thế?" Vua Sa-un
trả lời: "Khi tôi thấy dân bỏ tôi đi tản mác, còn ông lại không đến đúng
thời hạn và người Phi-li-tinh họp nhau ở Mích-mát, 12 thì tôi đã tự
bảo: "Bây giờ người Phi-li-tinh sắp kéo xuống Ghin-gan đánh tôi mà tôi
không làm cho nét mặt Ðức Chúa dịu lại, nên buộc lòng tôi phải dâng lễ toàn
thiêu.” 13 Ông Sa-mu-en nói với vua Sa-un: "Ngài đã hành động
ngu xuẩn! Ngài đã không giữ mệnh lệnh Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngài, đã truyền.
Nếu ngài đã giữ thì bây giờ Ðức Chúa đã làm cho vương quyền của ngài được vững
bền mãi mãi. 14 Nhưng bây giờ vương quyền của ngài sẽ không đứng
vững. Ðức Chúa đã tìm cho mình một kẻ như lòng Người mong muốn, và Ðức Chúa đã
đặt kẻ ấy làm người lãnh đạo dân Người, bởi vì ngài đã không giữ điều Ðức Chúa
truyền cho ngài.” 15 Ông Sa-mu-en đứng dậy và từ Ghin-gan lên Ghíp-a
thuộc Ben-gia-min. Vua Sa-un duyệt đám quân binh đang ở với vua: khoảng sáu
trăm người.
Chuẩn
bị giao chiến
16
Vua
Sa-un, ông Giô-na-than, con vua, và đám quân binh đang ở với hai ông thì giữ
Ghe-va thuộc Ben-gia-min, còn người Phi-li-tinh thì đóng trại ở Mích-mát. 17
Ðạo quân tiễu trừ, chia thành ba toán, xuất phát từ trại Phi-li-tinh: một
toán đi về hướng Óp-ra, ở xứ Su-an, 18 một toán đi về hướng Bết
Khô-rôn, một toán đi về hướng ranh giới ở bên trên thung lũng Linh Cẩu, về phía
sa mạc.
19
Bấy
giờ trong toàn đất Ít-ra-en không tìm được một thợ rèn, vì người Phi-li-tinh đã
tự bảo: "Không thể để bọn Híp-ri chế tạo gươm hay giáo.” 20 Toàn
thể người Ít-ra-en xuống chỗ người Phi-li-tinh để rèn, người thì lưỡi cày, kẻ
thì cái cuốc, cái rìu hay cái đục. 21 Giá tiền công là hai chỉ bạc
cho lưỡi cày và cái cuốc, một chỉ bạc để mài rìu và sửa gậy thúc bò. 22 Vì
vậy trong ngày giao tranh, không tìm được một cây gươm cây giáo ở tay người nào
thuộc đám quân binh đang ở với vua Sa-un và ông Giô-na-than. Chỉ vua Sa-un và
ông Giô-na-than, con vua, mới có.
23
Người
Phi-li-tinh ra đóng đồn trên ải Mích-mát.
Chương 14
Ông
Giô-na-than tấn công đồn Phi-li-tinh
1
Một
hôm, ông Giô-na-than, con vua Sa-un, bảo người hầu cận: "Nào đi, ta sang
đồn người Phi-li-tinh ở bên kia." Nhưng ông không báo cho cha ông biết. 2
Vua Sa-un bấy giờ đang ngồi ở ranh giới Ghíp-a, dưới cây lựu ở Mích-rôn,
và đám quân binh đang ở với vua khoảng sáu trăm người. 3 Ông
A-khi-gia, con ông A-khi-túp, lúc ấy mang ê-phốt; ông A-khi-túp là anh ông
I-kha-vót; ông I-kha-vót là con ông Pin-khát; ông Pin-khát là con ông Ê-li, tư
tế của Ðức Chúa ở Si-lô. Quân binh không biết là ông Giô-na-than đã đi.
4
Trên
những ải mà ông Giô-na-than tìm cách vượt qua để tới đồn Phi-li-tinh, có hai
đỉnh đá nhọn, một đỉnh bên này, một đỉnh bên kia; một đỉnh tên là Bô-xét, một
đỉnh tên là Xen-ne; 5 một đỉnh đứng phía bắc, đối diện với Mích-mát,
một đỉnh đứng phía nam, đối diện với Ghe-va. 6 Ông Giô-na-than bảo
người hầu cận: "Nào ta sang phía đồn bọn không cắt bì kia. Biết đâu Ðức
Chúa sẽ hành động giúp ta, vì không gì ngăn cản Ðức Chúa cứu, dù số người nhiều
hay ít.” 7 Người hầu cận nói: "Ông nghĩ gì trong lòng thì hãy
làm như vậy. Ông cứ đi, tôi đây xin một lòng theo ông.” 8 Ông
Giô-na-than nói: "Này ta sang phía bọn người ấy, và sẽ để chúng thấy ta. 9
Nếu chúng bảo: "Ðứng lại! Ðợi chúng tao đến chỗ chúng mày đã",
thì ta sẽ đứng tại chỗ và sẽ không lên phía chúng. 10 Nhưng nếu
chúng bảo: "Lên đây với chúng tao! , thì ta sẽ lên, vì Ðức Chúa đã trao
chúng vào tay ta. Ðó là dấu hiệu cho ta.” 11 Vậy cả hai người để đồn
Phi-li-tinh thấy mình. Người Phi-li-tinh nói: "Kìa bọn Híp-ri đang chui ra
khỏi hang hốc chúng trốn.” 12 Những người trong đồn nói với ông
Giô-na-than và người hầu cận: "Lên đây với chúng tao, chúng tao sẽ cho
chúng mày biết tay!" Ông Giô-na-than nói với người hầu cận: "Hãy lên
theo tôi, vì Ðức Chúa đã trao chúng vào tay Ít-ra-en.” 13 Ông
Giô-na-than dùng cả tay cả chân mà leo lên, còn người hầu cận thì theo sau.
Chúng ngã gục trước mặt ông Giô-na-than, và người hầu cận đằng sau ông kết liễu
đời chúng. 14 Ðòn đầu tiên mà ông Giô-na-than và người hầu cận giáng
xuống, đã giết chừng hai mươi người, trên diện tích bằng nửa luống cày của một
sào đất.
Cuộc
chiến lan rộng
15
Sự
kinh hãi lan rộng khắp nơi: trong trại, ngoài đồng và trong toàn dân. Ðồn binh
và đạo quân tiễu trừ cũng kinh hãi. Ðất rung chuyển và đó là một sự kinh hãi
Thiên Chúa gieo xuống. 16 Lính canh của vua Sa-un tại Ghíp-a thuộc
Ben-gia-min quan sát và thấy đám đông chạy tán loạn. 17 Vua Sa-un
nói với dân đang ở với mình: "Hãy điểm quân và xem ai đã bỏ đây mà
đi." Họ điểm quân và thấy thiếu ông Giô-na-than và người hầu cận của ông.
18
Vua
Sa-un nói với ông A-khi-gia: "Hãy đem Hòm Bia Thiên Chúa lại gần", vì
hồi ấy Hòm Bia Thiên Chúa ở với con cái Ít-ra-en. 19 Ðang khi vua
Sa-un nói với tư tế thì trại Phi-li-tinh mỗi lúc một thêm náo động. Vua Sa-un
nói với tư tế: "Rút tay lại!” 20 Vua Sa-un và tất cả quân binh
đang ở với vua tập hợp lại và ra chiến trường: kìa chúng rút gươm chém nhau và
vô cùng hoảng sợ. 21 Những người Híp-ri trước đó đã theo người
Phi-li-tinh và lên trại với chúng, cũng trở mặt mà theo người Ít-ra-en đang ở
với vua Sa-un và ông Giô-na-than. 22 Tất cả những người Ít-ra-en đã
trốn lên núi Ép-ra-im, nghe tin người Phi-li-tinh chạy trốn, cũng đuổi theo sát
gót mà đánh. 23 Ngày ấy Ðức Chúa đã cứu Ít-ra-en.
Ông
Giô-na-than vi phạm một lệnh cấm của vua Sa-un
Cuộc
giao tranh vượt quá Bết A-ven. 24 Ngày đó người Ít-ra-en mệt lử, vì
vua Sa-un đã ràng buộc dân bằng lời thề nguyền sau đây: "Khốn cho kẻ nào
ăn gì từ bây giờ cho đến chiều, trước khi ta trả thù xong các kẻ thù của
ta!" Toàn dân không ai nếm một chút gì.
25
Toàn
dân trong xứ vào rừng. Trên mặt đất có mật ong. 26 Dân vào rừng, và
kìa có mật ong đang chảy; nhưng không ai dám nhúng tay vào đưa lên miệng, vì
dân sợ lời thề. 27 Ông Giô-na-than đã không nghe thấy cha ông bắt
dân thề. Ông nhúng đầu cây gậy đang cầm trong tay vào tầng mật ong rồi đưa tay
lên miệng; mắt ông liền sáng ra. 28 Bấy giờ một người trong dân lên
tiếng nói: "Cha ông đã long trọng bắt dân thề và nói: "Khốn cho kẻ
nào ăn gì hôm nay. Và dân đã kiệt sức.” 29 Ông Giô-na-than nói:
"Cha tôi đã gây tai hoạ cho xứ sở. Anh em coi: mắt tôi sáng ra vì tôi đã
nếm chút mật này. 30 Giả như hôm nay dân đã được ăn phần chiến lợi
phẩm tìm thấy nơi quân thù, thì có phải là đòn giáng xuống người Phi-li-tinh đã
mạnh hơn không?"
Dân
phạm lỗi về nghi thức
31
Hôm
ấy họ đánh người Phi-li-tinh từ Mích-mát đến Ai-gia-lôn. Dân đã kiệt sức, 32
nên xông vào lấy chiến lợi phẩm: họ bắt chiên dê, bò bê, giết ngay trên
đất và ăn thịt có máu. 33 Người ta báo tin cho vua Sa-un rằng:
"Kìa dân đang phạm tội nghịch cùng Ðức Chúa là ăn thịt có máu." Vua
nói: "Các người đã phản bội. Hãy lập tức vần đến cho ta một tảng đá lớn!” 34
Vua Sa-un nói: "Hãy chia nhau đi đến với dân và bảo họ mỗi người
phải đem lại cho ta con bò hay con chiên, con dê của mình. Các người phải giết nó
ở đây và ăn thịt, và đừng phạm tội nghịch cùng Ðức Chúa là ăn thịt có
máu." Ðêm ấy, toàn dân mỗi người đem đến con bò họ có trong tay và họ giết
tại đó. 35 Vua Sa-un dựng một bàn thờ để kính Ðức Chúa: đó là bàn
thờ đầu tiên ông dựng để kính Ðức Chúa.
Ông
Giô-na-than có lỗi nhưng được dân cứu
36
Vua
Sa-un nói: "Chúng ta hãy xuống đuổi theo người Phi-li-tinh ban đêm, và hãy
cướp phá chúng cho đến khi trời sáng, đừng để cho một tên nào sống sót."
Họ nói: "Ðiều ngài cho là tốt, xin ngài cứ làm." Vị tư tế nói:
"Chúng ta hãy lại gần Thiên Chúa, ngay tại chỗ này.” 37 Vua
Sa-un thỉnh ý Thiên Chúa: "Con có nên xuống đuổi theo người Phi-li-tinh
không? Ngài có trao chúng vào tay người Ít-ra-en không?" Nhưng ngày hôm ấy
Người không trả lời vua. 38 Vua Sa-un nói: "Tất cả các cột trụ
của dân, hãy lại gần đây, hãy xem xét cho kỹ tội của ngày hôm nay là ở chỗ nào.
39 Có Ðức Chúa hằng sống, Ðấng cứu Ít-ra-en! Dù là chính
Giô-na-than, con ta, thì chắc chắn nó cũng sẽ phải chết." Toàn dân không
có ai trả lời vua. 40 Vua nói với toàn thể Ít-ra-en: "Các người
hãy ở một bên, còn ta và Giô-na-than, con ta, sẽ ở một bên." Toàn dân nói
với vua Sa-un: "Ðiều ngài coi là tốt, xin ngài cứ làm."
41
Vua
Sa-un thưa với Ðức Chúa: "Lạy Thiên Chúa của Ít-ra-en, xin cho biết đầy
đủ." Ông Giô-na-than và vua Sa-un bị trúng thăm, còn dân thì thoát. 42
Vua Sa-un nói: "Hãy rút thăm giữa ta và Giô-na-than, con ta."
Ông Giô-na-than bị trúng thăm.
43
Vua
Sa-un bảo ông Giô-na-than: "Hãy kể cho cha biết con đã làm gì." Ông
Giô-na-than kể cho cha biết, ông nói: "Quả con đã có nếm chút mật ở đầu
chiếc gậy con cầm ở tay. Con đây, con sẵn sàng chết.” 44 Vua Sa-un
nói: "Xin Thiên Chúa phạt tôi thế này, và còn thêm thế kia nữa! ... Ðúng
chắc chắn con sẽ phải chết, Giô-na-than ơi!” 45 Dân nói với vua
Sa-un: "Sao? Ông Giô-na-than, người đã thực hiện cuộc chiến thắng vĩ đại
này trong Ít-ra-en, mà phải chết ư? Không đời nào! Có Ðức Chúa hằng sống. Không
một sợi tóc nào trên đầu Giô-na-than sẽ rụng xuống đất, vì hôm nay ông đã hành
động cùng với Thiên Chúa." Thế là dân đã giải thoát ông Giô-na-than và ông
không phải chết.
46
Vua
Sa-un đi lên, không đuổi theo người Phi-li-tinh nữa; còn người Phi-li-tinh thì
về xứ mình.
Tóm
tắt về triều đại vua Sa-un
47
Khi
vua Sa-un nắm được vương quyền cai trị Ít-ra-en, vua giao chiến với mọi kẻ thù
tứ phía: với Mô-áp, với con cái Am-mon, với Ê-đôm, với các vua Xô-va, với người
Phi-li-tinh; quay về phía nào, vua cũng thắng. 48 Vua biểu dương sức
mạnh, đánh người A-ma-lếch và giải thoát Ít-ra-en khỏi tay kẻ cướp phá họ.
49
Các
con trai vua Sa-un là ông Giô-na-than, ông Gít-vi và ông Man-ki Su-a; còn các
con gái vua, thì cô chị tên là Mê-ráp, cô em tên là Mi-khan. 50 Vợ
vua Sa-un tên là A-khi-nô-am, con gái ông A-khi-ma-át. Tướng chỉ huy quân đội
của vua tên là Áp-ne, con ông Ne, ông này là chú vua Sa-un. 51 Ông
Kít, cha vua Sa-un, và ông Ne, cha ông Áp-ne, đều là con ông A-vi-ên.
52
Suốt
đời vua Sa-un, luôn có chiến tranh kịch liệt với người Phi-li-tinh. Hễ thấy ai
là dũng sĩ hay người can đảm, thì vua Sa-un đều thu dụng.
Chương 15
Thánh
chiến chống người A-ma-lếch
1
Ông
Sa-mu-en nói với vua Sa-un: "Tôi đã được Ðức Chúa sai đến xức dầu tấn
phong ngài làm vua cai trị dân Người là Ít-ra-en. Giờ đây ngài hãy nghe những
lời Ðức Chúa phán. 2 Ðức Chúa các đạo binh phán thế này: Ta sắp hạch
tội A-ma-lếch về cách nó đã đối xử với Ít-ra-en khi chặn đường Ít-ra-en đang từ
Ai-cập lên. 3 Giờ đây, ngươi hãy đi đánh A-ma-lếch. Các ngươi phải
tru hiến tất cả những gì thuộc về nó. Ngươi không được tha chết cho nó. Ngươi
phải giết từ đàn ông đến đàn bà, từ nhi đồng đến trẻ con đang bú, từ bò đến
chiên dê, từ lạc đà đến lừa."
4
Vua
Sa-un triệu tập dân và duyệt binh tại Tơ-la-im: hai trăm ngàn bộ binh và mười
ngàn người Giu-đa. 5 Vua Sa-un đến thành của A-ma-lếch và mai phục
trong thung lũng. 6 Vua Sa-un nói với người Kê-ni: "Các người
hãy đi, hãy ly khai, hãy bỏ hàng ngũ người A-ma-lếch, kẻo ta cũng coi các người
như bọn chúng, vì các người đã lấy tình mà đối xử với toàn thể con cái Ít-ra-en
khi họ ra khỏi Ai-cập." Người Kê-ni liền ly khai hàng ngũ A-ma-lếch.
7
Vua
Sa-un đã đánh A-ma-lếch từ Kha-vi-la cho đến Sua, 8 bắt sống A-gác,
vua A-ma-lếch, và dùng lưỡi gươm mà tru hiến toàn dân. 9 Nhưng vua
Sa-un và toàn dân đã tha chết cho A-gác, cho những con tốt nhất trong đoàn
chiên dê và bò, các con mập, các chiên con và tất cả những gì tốt; họ không
muốn tru hiến chúng. Còn tất cả các con vật xấu xí và vô giá trị, thì họ đã tru
hiến.
Vua
Sa-un bị Ðức Chúa từ bỏ
10
Có
lời Ðức Chúa phán với ông Sa-mu-en rằng: 11 "Ta hối hận đã đặt
Sa-un làm vua, vì nó đã bỏ không theo Ta và không thi hành các lệnh của
Ta." Ông Sa-mu-en buồn bực, và suốt đêm ông kêu lên Ðức Chúa.
12
Sáng
hôm sau, ông Sa-mu-en dậy sớm để đi gặp vua Sa-un. Người ta báo tin cho ông
Sa-mu-en rằng: "Vua Sa-un đã đi Các-men, đã dựng một đài kỷ niệm, rồi bỏ nơi
đó, đi xa hơn, và xuống Ghin-gan.” 13 Ông Sa-mu-en đến với vua
Sa-un. Vua Sa-un nói: "Xin Ðức Chúa chúc phúc cho ông. Tôi đã thi hành
lệnh của Ðức Chúa.” 14 Ông Sa-mu-en nói: "Thế thì tiếng chiên
dê bên tai tôi và tiếng bò rống tôi nghe là gì vậy?” 15 Vua Sa-un
trả lời: "Người ta đã đưa chúng từ nơi người A-ma-lếch về, vì dân đã tha
chết cho những con tốt nhất trong đàn chiên dê và bò, để làm hy lễ dâng Ðức
Chúa, Thiên Chúa của ông; những con còn lại, chúng tôi đã tru hiến."
16
Ông
Sa-mu-en nói với vua Sa-un: "Thôi! Tôi sẽ báo cho ngài biết điều Ðức Chúa
đã phán với tôi đêm qua." Vua Sa-un bảo: "Xin ông cứ nói.” 17 Ông
Sa-mu-en nói: "Dù ngài tự coi mình là nhỏ bé, ngài chẳng phải là đầu của
các chi tộc Ít-ra-en sao? Ðức Chúa đã xức dầu phong ngài làm vua cai trị
Ít-ra-en. 18 Ðức Chúa đã sai ngài lên đường và phán: "Hãy đi,
ngươi phải tru hiến quân tội lỗi là bọn A-ma-lếch ấy, và phải giao chiến với
chúng cho đến khi tận diệt chúng. 19 Tại sao ngài đã không nghe theo
tiếng Ðức Chúa? Tại sao ngài đã xông vào lấy chiến lợi phẩm và làm điều dữ trái
mắt Ðức Chúa?” 20 Vua Sa-un nói với ông Sa-mu-en: "Tôi đã nghe
theo tiếng Ðức Chúa. Tôi đã đi theo con đường Ðức Chúa sai tôi đi. Tôi đã đưa
A-gác, vua A-ma-lếch, về và đã tru hiến A-ma-lếch. 21 Trong số chiến
lợi phẩm là chiên dê và bò, trong số những vật bị tru hiến, dân đã lấy những
con tốt nhất để làm hy lễ dâng Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, tại
Ghin-gan."
22
Ông
Sa-mu-en nói:
"Ðức
Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ
như
ưa thích người ta vâng lời Ðức Chúa không?
Này,
vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ,
lắng
nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu.
23
Phản
nghịch cũng có tội như bói toán,
ngoan
cố là tội ác giống như thờ ngẫu tượng.
Bởi
vì ngài đã gạt bỏ lời của Ðức Chúa,
nên
Người đã gạt bỏ ngài, không cho làm vua nữa."
Vua
Sa-un xin tha thứ nhưng không được
24
Vua
Sa-un nói với ông Sa-mu-en: "Tôi đã phạm tội, vì đã vi phạm lệnh Ðức Chúa
và các lời của ông. Lý do là vì tôi đã sợ dân và nghe theo tiếng họ. 25 Giờ
đây, xin ông vui lòng tha tội cho tôi và trở lại cùng với tôi, để tôi phục
xuống lạy Ðức Chúa.” 26 Ông Sa-mu-en trả lời vua Sa-un: "Tôi sẽ
không trở lại cùng với ngài, vì ngài đã gạt bỏ lời Ðức Chúa; Ðức Chúa đã gạt bỏ
ngài, không cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa.” 27 Khi ông Sa-mu-en
quay mặt để đi thì vua Sa-un níu vạt áo khoác của ông và áo bị giật rách. 28
Ông Sa-mu-en nói với vua: "Hôm nay Ðức Chúa đã giật vương quyền
Ít-ra-en ra khỏi ngài và đã ban cho một người khác tốt hơn ngài. 29 Ðấng
là Vinh Dự của Ít-ra-en không lừa dối cũng không hối hận, vì Người đâu phải là
con người để mà hối hận.” 30 Vua nói: "Tôi đã phạm tội, nhưng
giờ đây xin ông kính trọng tôi trước mặt các kỳ mục trong dân của tôi và trước
mặt Ít-ra-en. Xin ông trở lại cùng với tôi để tôi phục xuống lạy Ðức Chúa,
Thiên Chúa của ông.” 31 Ông Sa-mu-en trở lại, theo sau vua Sa-un, và
vua Sa-un đã phục xuống lạy Ðức Chúa.
Vua
A-gác bị giết. Ông Sa-mu-en ra đi.
32
Ông
Sa-mu-en nói: "Hãy đem A-gác, vua A-ma-lếch lại cho tôi." A-gác vui
vẻ đến với ông và nói: "Hẳn là ta thoát được cái chết cay đắng.” 33 Ông
Sa-mu-en nói:
"Cũng
như gươm của ngươi đã cướp con của những người đàn bà,
thì
giữa các người đàn bà,
mẹ
ngươi cũng sẽ bị cướp con như vậy!"
Rồi
ông Sa-mu-en xé xác A-gác trước nhan Ðức Chúa, tại Ghin-gan.
34
Ông
Sa-mu-en đi Ra-ma, còn vua Sa-un lên nhà mình tại Ghíp-a, thành của vua Sa-un. 35
Cho đến chết, ông Sa-mu-en không gặp lại vua Sa-un nữa: ông Sa-mu-en khóc
thương vua Sa-un, vì Ðức Chúa hối hận đã đặt Sa-un làm vua cai trị Ít-ra-en.
Chương 16
III.
Vua Sa-Un Và Ông Ða-Vít
1.
Ông Ða-Vít Trong Triều Ðình
Ông
Ða-vít được xức dầu phong vương
1
Ðức
Chúa phán với ông Sa-mu-en: "Ngươi còn khóc thương Sa-un cho đến bao giờ,
khi ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa? Ngươi hãy lấy dầu
đổ đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến gặp Gie-sê người Bê-lem, vì Ta đã
thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua.” 2 Ông
Sa-mu-en thưa: "Con đi thế nào được? Vua Sa-un mà nghe biết thì vua sẽ
giết con! " Ðức Chúa phán: "Ngươi hãy đem theo một con bò cái tơ và
hãy nói: "Tôi tới đây là để dâng hy lễ lên Ðức Chúa. 3 Ngươi sẽ
mời Gie-sê đến dự hy lễ; phần Ta, Ta sẽ cho ngươi biết điều ngươi phải làm, và
ngươi sẽ xức dầu tấn phong cho Ta kẻ Ta sẽ nói cho ngươi hay."
4
Ông
Sa-mu-en làm điều Ðức Chúa đã phán; ông đến Bê-lem và các kỳ mục trong thành
run sợ ra đón ông. Họ nói: "Ông đến có phải là để đem bình an không?” 5
Ông trả lời: "Bình an! Tôi tới đây là để dâng hy lễ lên Ðức Chúa.
Các ông hãy thanh tẩy mình và đến dự hy lễ với tôi." Ông thanh tẩy ông
Gie-sê và các con trai ông ấy và mời họ đến dự hy lễ.
6
Khi
họ đến, ông thấy Ê-li-áp, ông nghĩ: "Ðúng rồi! Người Ðức Chúa xức dầu tấn
phong đang ở trước mặt Ðức Chúa đây!” 7 Nhưng Ðức Chúa phán với ông
Sa-mu-en: "Ðừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã
gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều
mắt thấy, còn Ðức Chúa thì thấy tận đáy lòng.” 8 Ông Gie-sê gọi
A-vi-na-đáp và cho cậu đi qua trước mặt Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en nói:
"Cả người này, Ðức Chúa cũng không chọn.” 9 Ông Gie-sê cho
Sa-ma đi qua, nhưng ông Sa-mu-en nói: "Cả người này, Ðức Chúa cũng không
chọn.” 10 Ông Gie-sê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông
Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en nói với ông Gie-sê: "Ðức Chúa không chọn
những người này.” 11 Rồi ông lại hỏi ông Gie-sê: "Các con ông
có mặt đầy đủ chưa?" Ông Gie-sê trả lời: "Còn cháu út nữa, nó đang
chăn chiên." Ông Sa-mu-en liền nói với ông Gie-sê: "Xin ông cho người
đi tìm nó về, chúng ta sẽ không nhập tiệc trước khi nó tới đây.” 12 Ông
Gie-sê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt
xinh xắn. Ðức Chúa phán với ông Sa-mu-en: "Ðứng dậy, xức dầu tấn phong nó
đi! Chính nó đó!” 13 Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở
giữa các anh của cậu. Thần khí Ðức Chúa nhập vào Ða-vít từ ngày đó trở đi. Ông
Sa-mu-en đứng dậy và đi Ra-ma.
Ông
Ða-vít vào phục vụ vua Sa-un
14
Thần
khí Ðức Chúa rời khỏi vua Sa-un và một thần khí xấu từ Ðức Chúa đến ám vua. 15
Triều thần nói với vua Sa-un: "Ngài thấy đó, một thần khí xấu của
Thiên Chúa ám ngài. 16 Xin ngài truyền. Bề tôi của ngài đang ở trước
mặt ngài: họ sẽ tìm một người biết gảy đàn, và khi thần khí xấu của Thiên Chúa
xuống trên ngài, thì người ấy sẽ gảy đàn và ngài sẽ cảm thấy dễ chịu.” 17 Vua
Sa-un nói với triều thần: "Các người hãy đi tìm cho ta một tay gảy đàn
giỏi và đưa đến cho ta.” 18 Một người trong đám gia nhân thưa rằng:
"Tôi biết ông Gie-sê người Bê-lem, có một người con trai biết gảy đàn. Anh
ta là một dũng sĩ can đảm, một chiến binh, một người có tài ăn nói, đẹp trai,
và Ðức Chúa ở với anh.” 19 Vua Sa-un sai sứ giả đến với ông Gie-sê
và nói với ông: "Ngươi hãy gửi cho ta Ða-vít, con ngươi, đứa chăn chiên.” 20
Ông Gie-sê bắt một con lừa, cho chở bánh, một bầu da rượu, và một con dê
con, rồi sai Ða-vít, con ông, mang đến cho vua Sa-un. 21 Ða-vít đến
với vua Sa-un và chầu chực trước mặt vua. Vua thương cậu lắm và cậu trở thành
người hầu cận của vua. 22 Vua Sa-un sai người đến nói với ông
Gie-sê: "Hãy để Ða-vít chầu chực trước mặt ta, vì nó được đẹp lòng ta.” 23
Như vậy, khi thần khí Thiên Chúa xuống trên vua Sa-un, thì Ða-vít cầm đàn
và gảy. Bấy giờ vua Sa-un nguôi bệnh, cảm thấy dễ chịu, và thần khí xấu rời
khỏi vua.
Chương 17
Go-li-át
thách thức quân đội Ít-ra-en
1
Người
Phi-li-tinh tập trung quân đội để giao chiến. Chúng tập trung ở Xô-khô thuộc
Giu-đa và đóng trại giữa Xô-khô và A-dê-ca, tại E-phét Ðam-mim. 2 Vua
Sa-un và người Ít-ra-en cũng tập trung, đóng trại trong thung lũng Cây Vân
Hương, và dàn trận đối diện với người Phi-li-tinh. 3 Người
Phi-li-tinh đứng trên núi bên này, còn người Ít-ra-en đứng trên núi bên kia,
giữa họ là thung lũng.
4
Một
đấu thủ từ doanh trại Phi-li-tinh tiến ra. Tên nó là Go-li-át, người thành Gát.
Nó cao khoảng ba thước, 5 đầu đội mũ chiến bằng đồng, mình mặc áo
giáp vảy cá; áo giáp ấy bằng đồng, nặng năm mươi ký. 6 Chân nó mang
tấm che bằng đồng, vai đeo cây lao bằng đồng. 7 Cán giáo của nó như
trục khung cửi thợ dệt; và mũi giáo của nó bằng sắt, nặng sáu ký. Ði trước mặt
nó là người mang thuẫn.
8
Nó
đứng lại và gọi hàng ngũ Ít-ra-en. Nó bảo họ: "Sao chúng bay ra dàn trận?
Ta đây chẳng phải là người Phi-li-tinh, còn chúng bay chẳng phải là bề tôi
Sa-un sao? Hãy chọn lấy một người và nó hãy xuống đây với ta. 9 Nếu
nó đủ mạnh để chiến đấu với ta và hạ được ta, thì chúng tao sẽ làm nô lệ chúng
bay. Còn nếu ta mạnh hơn nó và hạ được nó, thì chúng bay sẽ làm nô lệ chúng tao
và sẽ hầu hạ chúng tao.” 10 Tên Phi-li-tinh lại nói: "Ta đây,
hôm nay ta thách hàng ngũ Ít-ra-en: Hãy đưa ra cho ta một người, để chiến đấu
tay đôi!” 11 Khi vua Sa-un và toàn thể Ít-ra-en nghe tên Phi-li-tinh
nói những lời ấy thì họ kinh khiếp sợ hãi lắm.
Ông
Ða-vít đến trại
12
Ða-vít
là con một người Ép-ra-tha ở Bê-lem thuộc Giu-đa; ông này tên là Gie-sê và có
tám người con trai. Thời vua Sa-un, ông đã già và giữa người ta, ông là người
có tuổi. 13 Ba con trai lớn của ông Gie-sê đã ra đi; họ đi theo vua
Sa-un để đánh giặc. Ba con trai của ông đã đi đánh giặc tên là: Ê-li-áp, trưởng
nam, A-vi-na-đáp, thứ hai, và Sam-ma, thứ ba. 14 Ða-vít là người nhỏ
nhất, ba anh lớn đã đi theo vua Sa-un. 15 Ða-vít đi đi về về từ chỗ
vua Sa-un đến Bê-lem, để chăn chiên cho cha. 16 Sáng nào chiều nào
tên Phi-li-tinh cũng tiến ra và đứng như thế suốt bốn mươi ngày. 17 Ông
Gie-sê bảo Ða-vít, con ông: "Con mang cho các anh con hai thùng gié lúa
rang với mười cái bánh này, và chạy đến trại các anh con. 18 Còn
mười miếng bánh sữa này thì con đưa cho viên chỉ huy ngàn quân. Con hãy hỏi
thăm sức khoẻ các anh và lấy một vật của các anh làm bằng. 19 Vua
Sa-un và các anh con, cũng như toàn thể các người Ít-ra-en, ở thung lũng Cây
Vân Hương, đang giao chiến với người Phi-li-tinh."
20
Sáng
hôm sau, Ða-vít dậy sớm, để chiên dê lại cho một người giữ, rồi khăn gói lên
đường như ông Gie-sê đã dạy. Cậu đến trại binh lúc quân đội đang ra trận và reo
hò giao chiến. 21 Người Ít-ra-en và người Phi-li-tinh dàn quân, trận
tuyến đối nhau. 22 Ða-vít để hành lý lại, giao cho người giữ đồ, rồi
chạy ra trận tuyến, đến vấn an các anh.
23
Cậu
còn đang nói với họ, thì kìa từ trận tuyến Phi-li-tinh, tên đấu thủ tiến lên,
nó là Go-li-át, người Phi-li-tinh, quê ở Gát. Nó nói những lời như trước và
Ða-vít nghe thấy. 24 Vừa thấy tên đó, mọi người Ít-ra-en trốn xa nó
và sợ hãi lắm. 25 Một người Ít-ra-en nói: "Anh em có thấy người
đang tiến lên đó không? Nó tiến lên là để thách thức Ít-ra-en đấy. Ai mà hạ được
nó thì nhà vua sẽ cho của cải dư dật, sẽ gả con gái cho và sẽ cho gia đình
người ấy được miễn sưu thuế tại Ít-ra-en.” 26 Ða-vít hỏi những người
đang đứng với cậu rằng: "Người ta sẽ làm gì cho kẻ hạ được tên Phi-li-tinh
ấy và cất nỗi ô nhục khỏi Ít-ra-en? Thật vậy, tên Phi-li-tinh không cắt bì kia
là ai mà dám thách thức hàng ngũ của Thiên Chúa Hằng Sống?” 27 Dân
trả lời cậu như trên, họ nói: "Người ta sẽ làm như thế cho kẻ hạ được
nó."
28
Ê-li-áp,
anh cả của cậu, nghe thấy cậu nói chuyện với những người ấy. Ê-li-áp nổi giận
với Ða-vít và nói: "Mày xuống đây làm gì? Mày bỏ mấy con chiên kia trong
sa mạc cho ai? Tao, tao biết mày hỗn láo và xấu bụng: mày xuống chỉ để xem đánh
nhau!” 29 Ða-vít trả lời: "Em có làm gì đâu? Nói chuyện cũng
không được sao?” 30 Cậu bỏ anh đến với người khác, và cũng hỏi như
thế. Người ta cũng trả lời như trước. 31 Người ta đã nghe các lời
Ða-vít nói và thuật lại cho vua Sa-un. Vua cho gọi Ða-vít đến.
Ông
Ða-vít tình nguyện nhận lời thách thức
32
Ða-vít
nói với vua Sa-un: "Ðừng ai ngã lòng vì nó. Tôi tớ ngài đây sẽ đi chiến
đấu với tên Phi-li-tinh ấy.” 33 Vua Sa-un nói với Ða-vít: "Con
không thể đến với tên Phi-li-tinh ấy để chiến đấu với nó, vì con chỉ là một đứa
trẻ, còn nó là một chiến binh từ khi còn trẻ."
34
Ða-vít
thưa với vua Sa-un: "Tôi tớ ngài là người chăn chiên dê cho cha. Khi sư tử
hay gấu đến tha đi một con chiên trong bầy gia súc, 35 thì con ra
đuổi theo nó, đánh nó và giật con chiên khỏi mõm nó. Nó mà chồm lên con, thì
con nắm lấy râu nó, đánh cho nó chết. 36 Tôi tớ ngài đã đánh cả sư
tử lẫn gấu, thì tên Phi-li-tinh không cắt bì này cũng sẽ như một trong các con
vật đó, vì nó đã thách thức các hàng ngũ của Thiên Chúa hằng sống.” 37 Ða-vít
nói: "Ðức Chúa là Ðấng đã giật con khỏi vuốt sư tử và vuốt gấu, chính
Người sẽ giật con khỏi tay tên Phi-li-tinh này." Vua Sa-un nói với Ða-vít:
"Con hãy đi, xin Ðức Chúa ở với con!” 38 Vua Sa-un lấy y phục
của mình mặc cho Ða-vít, đội mũ chiến bằng đồng lên đầu và mặc áo giáp cho cậu.
39 Ða-vít đeo gươm của vua ngoài y phục rồi thử bước đi, vì cậu
không quen. Ða-vít nói với vua Sa-un: "Con không thể bước đi với những thứ
này được, vì con không quen." Rồi Ða-vít bỏ những thứ đó ra.
Cuộc
chiến tay đôi
40
Cậu
cầm gậy trong tay, chọn lấy năm hòn đá cuội dưới suối, bỏ vào túi chăn chiên,
vào bị của cậu, rồi tay cầm dây phóng đá, cậu tiến về phía tên Phi-li-tinh. 41
Tên Phi-li-tinh từ từ tiến lại gần Ða-vít, đi trước mặt nó là người mang
thuẫn. 42 Tên Phi-li-tinh nhìn, và khi thấy Ða-vít, nó khinh dể cậu,
vì cậu còn trẻ, có mái tóc hung và đẹp trai. 43 Tên Phi-li-tinh nói
với Ða-vít: "Tao là chó hay sao mà mầy cầm gậy đến với tao?" Và tên
Phi-li-tinh lấy tên các thần của mình mà nguyền rủa Ða-vít. 44 Tên
Phi-li-tinh nói với Ða-vít: "Ðến đây với tao, tao sẽ đem thịt mày làm mồi
cho chim trời và dã thú.” 45 Ða-vít bảo tên Phi-li-tinh: "Mày
mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày nhân
danh Ðức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Ít-ra-en mà mày thách
thức. 46 Ngay hôm nay Ðức Chúa sẽ nộp mày vào tay tao, tao sẽ hạ mày
và làm cho đầu mày lìa khỏi thân. Ngay hôm nay tao sẽ đem xác chết của quân đội
Phi-li-tinh làm mồi cho chim trời và dã thú. Toàn cõi đất sẽ biết rằng có một
Thiên Chúa che chở Ít-ra-en, 47 và toàn thể đại hội này sẽ biết rằng
không phải nhờ gươm, nhờ giáo mà Ðức Chúa ban chiến thắng, vì chiến đấu là việc
của Ðức Chúa và Người sẽ trao chúng mày vào tay chúng tao!"
48
Khi
tên Phi-li-tinh bắt đầu xông lên và đến gần để đương đầu với Ða-vít, thì Ða-vít
vội vàng chạy từ trận tuyến ra để đương đầu với tên Phi-li-tinh. 49 Ða-vít
thọc tay vào bị, rút từ đó ra một hòn đá, rồi dùng dây phóng mà ném trúng vào
trán tên Phi-li-tinh. Hòn đá cắm sâu vào trán, khiến nó ngã sấp mặt xuống đất. 50
Thế là Ða-vít thắng tên Phi-li-tinh nhờ dây phóng và hòn đá. Cậu hạ tên
Phi-li-tinh và giết nó. Nhưng trong tay Ða-vít không có gươm. 51 Ða-vít
chạy lại, đứng trên xác tên Phi-li-tinh, lấy gươm của nó, rút khỏi bao, kết
liễu đời nó và dùng gươm chặt đầu nó.
Người
Phi-li-tinh thấy người hùng của mình đã chết thì chạy trốn. 52 Người
Ít-ra-en và Giu-đa xông lên, reo hò và đuổi theo người Phi-li-tinh cho đến lối
vào thung lũng và cho đến cửa thành Éc-rôn. Thây người Phi-li-tinh ngã gục trên
đường Sa-a-ra-gim, cho đến Gát và Éc-rôn. 53 Sau khi ráo riết đuổi
theo người Phi-li-tinh, con cái Ít-ra-en quay trở lại cướp phá trại chúng. 54
Ða-vít lấy đầu tên Phi-li-tinh và đem về Giê-ru-sa-lem; còn các vũ khí
của nó thì đặt trong lều mình.
Sau
khi chiến thắng, Ða-vít ra trình diện vua Sa-un
55
Khi
vua Sa-un thấy Ða-vít ra đương đầu với tên Phi-li-tinh, thì hỏi ông Áp-ne,
tướng chỉ huy quân đội: "Ðứa trẻ ấy là con ai, Áp-ne?" Ông Áp-ne trả
lời: "Thưa đức vua, tôi xin lấy mạng sống ngài mà thề, tôi không biết!” 56
Vua nói: "Hỏi xem thiếu niên ấy là con ai."
57
Lúc
Ða-vít trở về sau khi hạ tên Phi-li-tinh, ông Áp-ne đón cậu, dẫn cậu đến trước
mặt vua Sa-un, tay cậu xách cái đầu tên Phi-li-tinh. 58 Vua Sa-un
hỏi cậu: "Hỡi người thanh niên, con là con ai?" Ða-vít trả lời:
"Con là con của tôi tớ ngài là Gie-sê, người Bê-lem."
Chương 18
1
Ông
Ða-vít vừa nói với vua Sa-un xong thì tâm hồn ông Giô-na-than gắn bó với tâm
hồn ông Ða-vít, và ông Giô-na-than yêu mến ông như chính mình. 2 Hôm
ấy vua Sa-un giữ ông Ða-vít lại và không cho về nhà cha ông. 3 Ông
Giô-na-than lập giao ước với ông Ða-vít, vì ông yêu mến ông ấy như chính mình. 4
Ông Giô-na-than cởi chiếc áo khoác đang mặc mà cho ông Ða-vít, cho áo,
cho cả gươm, cả cung, cả thắt lưng của ông. 5 Khi ông Ða-vít ra
trận, mọi nơi vua Sa-un sai ông đi, ông đều thành công, và vua Sa-un đặt ông
chỉ huy các chiến binh. Ông vừa lòng toàn dân và cả triều thần vua Sa-un nữa.
Vua
Sa-un bắt đầu ghen tị
6
Lúc
quân dân đến, khi ông Ða-vít hạ được tên Phi-li-tinh trở về, thì phụ nữ từ hết
mọi thành của Ít-ra-en kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với trống con,
với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. 7 Phụ nữ vui đùa ca hát rằng:
"Vua
Sa-un hạ được hàng ngàn,
ông
Ða-vít hàng vạn."
8
Vua
Sa-un giận lắm, và bực mình vì lời ấy. Vua nói: "Người ta cho Ða-vít hàng
vạn, còn ta thì họ cho hàng ngàn. Nó chỉ còn thiếu ngôi vua nữa thôi!” 9 Từ
ngày đó về sau, vua Sa-un nhìn Ða-vít với con mắt ghen tị.
10
Ngày
hôm sau, một thần khí xấu của Thiên Chúa nhập vào vua Sa-un, và vua lên cơn
xuất thần ngôn sứ ở giữa nhà. Ông Ða-vít đang gảy đàn như mọi ngày và vua Sa-un
cầm cây giáo trong tay. 11 Vua Sa-un phóng cây giáo và nói: "Ta
phải đâm Ða-vít, ghim nó vào tường mới được." Nhưng hai lần Ða-vít tránh
được.
12
Vua
Sa-un sợ ông Ða-vít, bởi vì Ðức Chúa ở với ông và đã rời khỏi vua Sa-un. 13
Vua Sa-un đẩy ông đi xa và đặt ông làm người chỉ huy ngàn quân. Ông dẫn
đầu dân. 14 Ông Ða-vít thành công trong mọi công việc và Ðức Chúa ở
với ông. 15 Thấy ông thành công lớn, vua Sa-un sợ ông. 16 Nhưng
toàn thể Ít-ra-en và Giu-đa mến ông Ða-vít, vì ông dẫn đầu họ.
Ông
Ða-vít cưới vợ
17
Vua
Sa-un nói với ông Ða-vít: "Ðây con gái lớn của ta là Mê-ráp, ta sẽ gả nó
cho con. Nhưng con hãy tỏ ra là một người can đảm phục vụ ta và hãy chiến đấu
những cuộc chiến của Ðức Chúa." Vua Sa-un tự bảo: "Mình đừng tự tay
hại nó, nhưng để tay người Phi-li-tinh hại nó.” 18 Ông Ða-vít-thưa
với vua Sa-un: "Con là gì, và dòng họ con, thị tộc của cha con là gì trong
Ít-ra-en, mà con được làm rể đức vua?” 19 Nhưng đến lúc phải gả cô
Mê-ráp, con gái vua Sa-un, cho ông Ða-vít, thì cô lại được gả cho ông Át-ri-ên,
người Mơ-khô-la.
20
Cô
Mi-khan, con gái vua Sa-un, yêu ông Ða-vít. Người ta cho vua hay và vua thấy
điều đó là phải. 21 Vua Sa-un tự bảo: "Mình sẽ gả con gái cho
nó, để con này thành cạm bẫy cho nó, và tay người Phi-li-tinh hại nó." Vậy
vua Sa-un nói với ông Ða-vít lần thứ hai: "Hôm nay con sẽ là rể của ta.” 22
Vua Sa-un ra lệnh cho triều thần: "Hãy nói nhỏ với Ða-vít rằng:
"Nhà vua có cảm tình với ông và triều thần ai cũng mến ông. Bây giờ ông
hãy làm rể nhà vua.” 23 Triều thần vua Sa-un nói lại những lời ấy
cho ông Ða-vít nghe. Ông Ða-vít nói: "Các ông coi chuyện làm rể nhà vua là
chuyện không đáng kể ư? Tôi, tôi chỉ là một người nghèo không đáng kể.” 24
Triều thần vua Sa-un thưa lại với vua rằng: "Ông Ða-vít đã nói những
lời như thế.” 25 Vua Sa-un nói: "Các ngươi hãy nói với
Ða-vít-thế này: Nhà vua không đòi sính lễ nào khác ngoài một trăm bao quy đầu
người Phi-li-tinh, để trả thù quân địch của nhà vua." Vua Sa-un tính dùng
tay người Phi-li-tinh mà hạ ông Ða-vít.
26
Triều
thần vua Sa-un thuật lại cho ông Ða-vít những lời ấy. Ông Ða-vít thấy chuyện
làm rể vua là phải. Chưa hết hạn, 27 ông Ða-vít đã lên đường, đi với
người của ông. Ông hạ hai trăm người Phi-li-tinh, rồi đem bao quy đầu của chúng
về, đếm đủ cho vua, để làm rể vua. Bấy giờ vua Sa-un gả cô Mi-khan, con gái
vua, cho ông Ða-vít.
28
Thấy
thế, vua Sa-un hiểu rằng Ðức Chúa ở với ông Ða-vít và cô Mi-khan, con vua, yêu
ông. 29 Vua Sa-un càng thêm sợ ông Ða-vít, và vua Sa-un trở thành kẻ
thù của ông Ða-vít suốt đời. 30 Các thủ lãnh người Phi-li-tinh ra
trận, nhưng mỗi khi chúng ra trận, thì ông Ða-vít thành công hơn mọi bề tôi vua
Sa-un, khiến danh tiếng ông lừng lẫy.
Chương 19
Ông
Giô-na-than can thiệp cho ông Ða-vít
1
Vua
Sa-un nói với ông Giô-na-than, con vua, và với toàn thể triều thần về ý định
giết ông Ða-vít. Nhưng ông Giô-na-than, con vua Sa-un, lại rất có cảm tình với
ông Ða-vít. 2 Ông Giô-na-than báo cho ông Ða-vít rằng: "Vua
Sa-un, cha tôi, đang tìm cách giết anh. Vậy sáng mai anh hãy coi chừng, hãy ở
nơi kín đáo và ẩn mình đi. 3 Phần tôi, tôi sẽ đi ra, sẽ đứng cạnh
cha tôi trong cánh đồng, nơi anh đang trốn, tôi sẽ nói với cha tôi về anh. Thấy
thế nào, tôi sẽ báo cho anh."
4
Ông
Giô-na-than nói tốt cho ông Ða-vít với vua Sa-un, cha mình; ông nói với vua:
"Xin đức vua đừng phạm tội hại tôi tớ ngài là Ða-vít, vì anh ấy đã không
phạm tội hại ngài, và các hành động của anh là điều rất lợi cho ngài. 5 Anh
đã liều mạng và hạ được tên Phi-li-tinh, và Ðức Chúa đã thắng lớn để bảo vệ
toàn thể Ít-ra-en. Ngài đã thấy và đã vui mừng. Vậy sao ngài lại phạm tội đổ
máu vô tội, mà vô cớ giết Ða-vít?” 6 Vua Sa-un nghe theo lời ông
Giô-na-than, và vua Sa-un thề rằng: "Có Ðức Chúa hằng sống, ta thề: nó sẽ
không bị giết.” 7 Ông Giô-na-than gọi ông Ða-vít đến và ông
Giô-na-than thuật lại tất cả những điều ấy; rồi ông Giô-na-than dẫn ông Ða-vít
đến với vua Sa-un, và ông Ða-vít lại phục vụ vua như trước.
2.
Ông Ða-Vít Trốn Ði
Vua
Sa-un toan sát hại ông Ða-vít
8
Chiến
tranh lại tái diễn, ông Ða-vít ra trận và chiến đấu với người Phi-li-tinh. Ông
đánh chúng một đòn đau và chúng chạy trốn trước mặt ông. 9 Một thần
khí xấu của Ðức Chúa xuống trên vua Sa-un. Vua đang ở trong nhà, tay cầm cây
giáo, còn ông Ða-vít đang gảy đàn. 10 Vua Sa-un tìm cách dùng cây
giáo ghim ông Ða-vít vào tường, nhưng ông này tránh được, và vua cắm cây giáo vào
tường. Ông Ða-vít chạy đi và trốn thoát đêm ấy.
Bà
Mi-khan cứu ông Ða-vít
11
Vua
Sa-un sai lính biệt phái đến nhà ông Ða-vít để canh chừng ông và sáng hôm sau
giết ông. Bà Mi-khan, vợ ông, báo cho ông rằng: "Nếu anh không thoát thân
đêm nay, thì ngày mai anh sẽ bị giết.” 12 Bà Mi-khan thả ông Ða-vít
xuống qua cửa sổ. Ông đi trốn và thoát được.
13
Bà
Mi-khan lấy tượng thần, đặt lên giường, để ở phía đầu một tấm lông dê, rồi lấy
áo phủ lên. 14 Vua Sa-un sai lính biệt phái đến bắt ông Ða-vít,
nhưng bà Mi-khan bảo họ: "Ông ấy đang bệnh.” 15 Vua Sa-un sai
lính biệt phái đến để xem ông Ða-vít ra sao; vua bảo họ: "Cứ để nó trên
giường mà khiêng lên cho ta, để ta giết nó.” 16 Lính biệt phái vào
thì thấy tượng thần trên giường, với tấm lông dê ở phía đầu! 17 Vua Sa-un nói
với bà Mi-khan: "Sao con đánh lừa cha như thế? Con đã để cho kẻ thù cha đi
và nó đã thoát được!" Bà Mi-khan thưa với vua Sa-un: "Anh ấy bảo con:
"Ðể cho anh đi, nếu không anh sẽ giết em!"
Vua
Sa-un đến tìm ông Ða-vít tại nhà ông Sa-mu-en
18
Sau
khi đã trốn đi và thoát được, ông Ða-vít đến với ông Sa-mu-en tại Ra-ma, và nói
hết cho ông này biết vua Sa-un đã đối xử với mình như thế nào. Rồi ông và ông
Sa-mu-en đến Nai-giốt. 19 Người ta báo cho vua Sa-un rằng: "Kìa
ông Ða-vít đang ở Nai-giốt thuộc Ra-ma.” 20 Vua Sa-un sai lính biệt
phái đến bắt ông Ða-vít. Họ thấy đoàn ngôn sứ đang lên cơn xuất thần ngôn sứ,
có ông Sa-mu-en đứng đầu. Thần khí Thiên Chúa xuống trên các lính biệt phái của
vua Sa-un, và cả những người này cũng lên cơn xuất thần ngôn sứ. 21 Người
ta báo cho vua Sa-un, vua lại sai các lính biệt phái khác đến, và cả những
người này cũng lên cơn xuất thần ngôn sứ. Vua lại sai nhóm lính biệt phái thứ
ba, và cả những người này cũng lên cơn xuất thần ngôn sứ.
22
Vua
liền đích thân đi Ra-ma và đến bể nước lớn tại Xe-khu. Vua hỏi rằng: "Ông
Sa-mu-en và Ða-vít ở đâu?" Người ta trả lời: "Ở Nai-giốt thuộc Ra-ma.”
23 Vua đi tới đó, tới Nai-giốt thuộc Ra-ma. Thần khí Thiên Chúa cũng
xuống trên vua, và vua vừa đi vừa lên cơn xuất thần ngôn sứ cho tới khi vua đến
Nai-giốt thuộc Ra-ma. 24 Cả vua cũng cởi áo ra, cả vua cũng lên cơn
xuất thần ngôn sứ trước mặt ông Sa-mu-en. Rồi cứ ở trần như vậy, vua ngã vật
xuống, nằm suốt ngày suốt đêm hôm ấy. Vì thế mới có câu: "Ông Sa-un mà
cũng ở trong số các ngôn sứ sao? "
Chương 20
Ông
Giô-na-than giúp ông Ða-vít trốn thoát
1
Ông
Ða-vít trốn khỏi Nai-giốt thuộc Ra-ma, và đến nói trước mặt ông Giô-na-than:
"Tôi đã làm gì, tôi có lỗi gì, có tội gì với cha anh, mà người lại tìm hại
mạng sống tôi?” 2 Ông Giô-na-than trả lời: "Không đời nào! Anh
sẽ không chết đâu! Anh xem: cha tôi không làm điều gì, lớn hay nhỏ, mà không
tiết lộ cho tôi. Vậy sao cha tôi lại giấu tôi điều này? Không có chuyện đó đâu!”
3 Ông Ða-vít nói lại và thề: "Cha anh thừa biết tôi được đẹp
lòng anh, nên đã tự bảo: "Giô-na-than không được biết điều này, kẻo nó
buồn phiền. Có Ðức Chúa hằng sống, có anh đang sống đó, tôi xin thề: giữa tôi
và cái chết chỉ còn một bước.” 4 Ông Giô-na-than nói với ông Ða-vít:
"Lòng anh muốn sao, tôi sẽ làm cho anh như vậy.” 5 Ông Ða-vít
trả lời ông Giô-na-than: "Mai là ngày đầu tháng, và tôi phải ngồi ăn với
đức vua. Anh sẽ để cho tôi đi và tôi sẽ ẩn ngoài đồng cho đến chiều ngày kia. 6
Nếu cha anh thấy vắng tôi, anh cứ nói: "Anh Ða-vít đã nài nẵng xin
phép con chạy về Bê-lem, thành của anh, vì ở đó có hy lễ hằng năm cho toàn thị
tộc. 7 Nếu người nói: "Tốt lắm", thì tôi tớ anh đây được
bình an. Nhưng nếu người nổi giận, thì anh nên biết rằng người đã quyết tâm làm
điều ác. 8 Xin anh lấy tình mà xử với tôi tớ anh đây, vì anh đã nhân
danh Ðức Chúa mà lập giao ước với tôi tớ anh. Nếu tôi có lỗi, thì chính anh hãy
giết tôi đi, chứ sao lại đưa tôi đến với cha anh?” 9 Ông Giô-na-than
nói: "Không đời nào anh được nghĩ thế! Vì nếu tôi biết rằng cha tôi đã
quyết tâm làm điều ác để hại anh, chẳng lẽ tôi lại không báo cho anh biết sao?”
10 Ông Ða-vít nói với ông Giô-na-than: "Ai sẽ báo cho tôi biết,
nếu cha anh trả lời anh cách cứng cỏi?"
11
Ông
Giô-na-than bảo ông Ða-vít: "Nào chúng ta ra ngoài đồng", và cả hai
ra ngoài đồng. 12 Ông Giô-na-than nói với ông Ða-vít: "Có Ðức
Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en chứng giám! Ngày mai ngày kia, vào giờ này, tôi
sẽ dò ý cha tôi. Nếu mọi sự tốt đẹp cho Ða-vít, mà bấy giờ tôi lại không sai
người đến tiết lộ cho anh, 13 thì xin Ðức Chúa phạt Giô-na-than thế
này, và còn thêm thế kia nữa! Còn nếu cha tôi muốn làm điều ác hại anh, thì tôi
sẽ tiết lộ cho anh, sẽ để cho anh đi, và anh sẽ đi bình an. Xin Ðức Chúa ở với
anh như đã ở với cha tôi! 14 Nếu tôi còn sống, thì xin anh lấy tình mà xử với
tôi như Ðức Chúa đòi hỏi. Còn nếu tôi chết, 15 thì xin anh đừng dứt
bỏ tình nghĩa với gia đình tôi mãi mãi, ngay cả khi Ðức Chúa loại bỏ các kẻ thù
của Ða-vít khỏi mặt đất, không sót một tên.” 16 Ông Giô-na-than lập
giao ước với nhà ông Ða-vít và nói: "Xin Ðức Chúa hỏi tội các kẻ thù của
Ða-vít!” 17 Ông Giô-na-than còn bắt ông Ða-vít thề, vì tình yêu của
ông đối với ông Ða-vít: thật vậy, ông yêu Ða-vít như yêu chính mình.
18
Ông
Giô-na-than bảo ông Ða-vít: "Mai là ngày đầu tháng, người ta sẽ thấy vắng
anh vì chỗ anh trống. 19 Ngày kia, anh sẽ xuống mau, sẽ đến chỗ anh
đã ẩn ngày xảy ra vụ đó và sẽ ngồi bên cạnh tảng đá E-den. 20 Còn
tôi, tôi sẽ bắn ba mũi tên về một phía, làm như nhắm vào một cái bia. 21 Tôi
sẽ sai người đầy tớ: "Ði tìm các mũi tên đi! Nếu tôi bảo người đầy tớ:
"Ðây này, các mũi tên ở đằng sau ngươi, nhặt đi! thì anh hãy đến: anh được
bình an, và không có gì cả. Có Ðức Chúa hằng sống, tôi xin thề. 22 Nhưng
nếu tôi nói với người thiếu niên thế này: "Kia kìa, các mũi tên ở đằng
trước ngươi! thì anh hãy đi, vì Ðức Chúa bảo anh đi. 23 Còn lời mà
tôi và anh, chúng ta đã nói với nhau, thì có Ðức Chúa chứng giám giữa tôi và
anh mãi mãi."
24
Vậy
ông Ða-vít ẩn ngoài đồng. Ðến ngày đầu tháng, nhà vua ngồi bàn dùng bữa. 25
Nhà vua ngồi chỗ mình, như mọi khi, ở chỗ gần vách. Ông Giô-na-than ngồi
đối diện. Ông Áp-ne ngồi bên cạnh vua Sa-un, còn chỗ ông Ða-vít thì trống. 26
Hôm đó, vua Sa-un không nói gì, vì vua tự bảo: "Ðó là chuyện tình
cờ. Nó không thanh sạch, hẳn nó không thanh sạch.” 27 Hôm sau ngày
đầu tháng, ngày thứ hai, chỗ ông Ða-vít vẫn trống. Vua Sa-un hỏi ông
Giô-na-than, con vua: "Tại sao cả hôm qua lẫn hôm nay, con trai ông Gie-sê
không đến dùng bữa?” 28 Ông Giô-na-than trả lời vua Sa-un: "Anh
Ða-vít đã nài nẵng xin phép con về Bê-lem. 29 Anh ấy đã nói:
"Xin để cho tôi đi, vì chúng tôi có hy lễ của thị tộc trong thành, và anh
tôi đã ra lệnh cho tôi về. Bây giờ nếu tôi được đẹp lòng anh, xin anh cho tôi
đi khỏi đây để về thăm các anh tôi. Vì thế anh ấy không đến bàn ăn của đức
vua."
30
Vua
Sa-un nổi cơn thịnh nộ với ông Giô-na-than, và vua nói với ông: "Thằng con
của mụ đàn bà hư thân mất nết kia! Tao lại không biết mày cặp kè với thằng con
trai lão Gie-sê, để mày phải nhục và con mẹ đã đẻ ra mày cũng phải nhục sao? 31
Thật vậy, bao lâu thằng con trai lão Gie-sê còn sống trên mặt đất, thì mày và
vương quyền của mày sẽ không vững đâu. Bây giờ hãy sai người đi bắt nó về đây
cho tao, vì nó đáng chết.” 32 Ông Giô-na-than thưa với vua Sa-un,
cha của ông, và nói: "Sao lại giết anh ấy? Anh ấy đã làm gì?” 33 Vua
Sa-un phóng cây giáo vào ông Giô-na-than, để đâm ông, và ông biết rằng cha ông
đã quyết định giết ông Ða-vít. 34 Nổi giận bừng bừng, ông
Giô-na-than đứng lên khỏi bàn ăn, và ngày thứ hai sau ngày đầu tháng đó, ông
không dùng bữa, vì ông buồn cho ông Ða-vít, bởi lẽ cha ông đã xử bất công với
ông ấy.
35
Sáng
hôm sau, ông Giô-na-than ra ngoài đồng, đến chỗ đã hẹn với ông Ða-vít, có một
đầy tớ nhỏ đi với ông. 36 Ông bảo đầy tớ: "Ngươi chạy đi tìm
những mũi tên ta bắn!" Người đầy tớ chạy đi, và ông bắn mũi tên sao cho
vượt qua nó. 37 Người đầy tớ đến chỗ mũi tên ông Giô-na-than vừa
bắn. Ông Giô-na-than kêu ở phía sau người đầy tớ, ông nói: "Mũi tên không
phải ở đằng trước ngươi sao"? 38 Ông Giô-na-than kêu ở phía sau: "Mau
lên, lẹ lên, đừng đứng lại!" Người đầy tớ của ông Giô-na-than lượm mũi tên
và đến với chủ. 39 Người đầy tớ không biết gì hết, chỉ có ông
Giô-na-than và ông Ða-vít biết sự việc.
40
Ông
Giô-na-than giao vũ khí cho người đầy tớ và bảo: "Ði mang về thành.” 41
Người đầy tớ về rồi, ông Ða-vít đứng dậy từ phía nam, sấp mặt xuống đất
ba lần, rồi hai ông hôn nhau và cùng khóc, cho đến khi ông Ða-vít nén được cơn
xúc động. 42 Ông Giô-na-than nói với ông Ða-vít: "Anh hãy đi
bình an, vì cả hai chúng ta đã nhân danh Ðức Chúa mà thề rằng: Ðức Chúa sẽ ở
giữa tôi và anh, giữa dòng dõi tôi và dòng dõi anh, mãi mãi!"
Chương 21
1
Ông
Ða-vít đứng dậy và ra đi, còn ông Giô-na-than thì trở về thành.
Ông
Ða-vít dừng lại ở Nốp
2
Ông
đến Nốp gặp tư tế A-khi-me-léc. Ông A-khi-me-léc run sợ ra đón ông Ða-vít và
hỏi ông: "Sao ông chỉ có một mình, không ai đi theo?” 3 Ông
Ða-vít nói với tư tế A-khi-me-léc: "Ðức vua đã giao cho tôi một nhiệm vụ
và bảo tôi: "Không ai được biết gì về sứ mệnh và nhiệm vụ ta giao cho
ngươi. Các đầy tớ thì tôi đã hẹn đến chỗ kia rồi. 4 Bây giờ ông có
sẵn gì không? Xin ông cho tôi năm cái bánh hay có gì cũng được.” 5 Tư
tế trả lời ông Ða-vít rằng: "Tôi không có sẵn bánh thường, chỉ có bánh
thánh hiến, miễn là các đầy tớ đã giữ mình, không gần gũi đàn bà."
6
Ông
Ða-vít trả lời tư tế rằng: "Phải, chúng tôi bị cấm không được gần gũi đàn
bà, như xưa nay, mỗi khi tôi ra trận: các đầy tớ đã giữ thân thể cho được
thánh. Ðây là một chuyến đi thường, nhưng quả thật hôm nay họ đã giữ thân thể
cho được thánh.” 7 Bấy giờ tư tế cho ông của thánh, vì ở đó không có
bánh nào khác ngoài bánh tiến, thứ bánh đặt trước nhan Ðức Chúa, mà người ta
lấy đi để đặt bánh nóng vào, trong ngày thay bánh.
8
Chính
hôm ấy, ở đó có một người trong các bề tôi vua Sa-un, bị giữ lại trước nhan Ðức
Chúa. Nó tên là Ðô-ếch, người Ê-đôm, và đứng đầu các người chăn chiên của vua
Sa-un.
9
Ông
Ða-vít nói với ông A-khi-me-léc: "Ông không có sẵn ở đây một cây giáo hay
một thanh gươm ư? Tôi đã không mang theo cả gươm lẫn vũ khí của tôi, vì việc
của đức vua quá khẩn cấp!” 10 Tư tế nói: "Có thanh gươm của tên
Go-li-át người Phi-li-tinh, ông đã hạ tại thung lũng Cây Vân Hương; thanh gươm
đó ở kia, bọc trong một áo choàng, đàng sau ê-phốt. Nếu ông muốn lấy, thì cứ
lấy, vì ngoài nó ra, ở đây không có gươm nào khác." Ông Ða-vít nói:
"Ðó là thanh gươm có một không hai. Ông hãy đưa cho tôi."
Ông
Ða-vít đến với người Phi-li-tinh
11
Ông
Ða-vít lên đường và ngày hôm đó trốn vua Sa-un. Ông đến gặp A-khít, vua thành
Gát. 12 Triều thần vua A-khít thưa với vua: "Tên này chẳng phải
là Ða-vít, vua xứ đó sao? Người ta đã chẳng múa nhảy hát mừng nó rằng:
"Vua
Sa-un hạ được hàng ngàn,
ông
Ða-vít hàng vạn"?"
13
Ông
Ða-vít suy nghĩ về những lời ấy, và sợ A-khít, vua thành Gát lắm. 14 Bấy
giờ ông giả dại trước mắt chúng, và trong tay chúng, ông làm bộ khùng: ông viết
nguệch ngoạc trên các cánh cửa và để dãi chảy xuống râu.
15
Vua
A-khít bảo triều thần: "Ðấy các ngươi thấy nó là một thằng điên. Tại sao
các ngươi lại đưa nó đến với ta? 16 Ta đâu thiếu người điên mà các ngươi còn
đưa tên này đến để nó làm thằng điên bên ta? Tên này mà lại vào nhà ta ư?
Chương 22
3.
Ông Ða-Vít Cầm Ðầu Một Bọn Thủ Hạ
Ông
Ða-vít bắt đầu cuộc sống nay đây mai đó
1
Ông
Ða-vít đi khỏi đó và trốn thoát vào hang A-đu-lam. Các anh ông và tất cả nhà
cha ông nghe tin và xuống đó với ông. 2 Bấy giờ tất cả những người
cùng khốn, mắc nợ, bất mãn đều quy tụ quanh ông, và ông trở thành thủ lãnh của
họ. Có khoảng chừng bốn trăm người ở với ông.
3
Từ
nơi ấy ông Ða-vít đi Mít-pê thuộc Mô-áp. Ông nói với vua Mô-áp: "Xin cho
cha mẹ tôi sang với các ông cho đến khi tôi biết Thiên Chúa sẽ làm gì cho tôi.”
4 Ông dẫn họ đến trước mặt vua Mô-áp, và họ ở lại với vua suốt thời
gian ông Ða-vít ở trong nơi ẩn náu.
5
Ngôn
sứ Gát nói với Ða-vít: "Ông đừng ở lại trong nơi ẩn náu, hãy ra đi và trở
về miền Giu-đa." Ông Ða-vít ra đi và đến rừng Khe-rét.
Các
tư tế thành Nốp bị tàn sát
6
Vua
Sa-un nghe tin là người ta đã tìm ra ông Ða-vít và những người ở với ông. Vua
Sa-un đang ngồi ở Ghíp-a, dưới cây liễu bách, tại nơi cao, tay cầm cây giáo, có
toàn thể triều thần đứng bên. 7 Vua Sa-un nói với triều thần đang
đứng bên: "Nghe đây, hỡi các người Ben-gia-min, có phải thằng con của
Gie-sê cũng sẽ cho tất cả các ngươi những cánh đồng và vườn nho, sẽ đặt các
ngươi làm chỉ huy một ngàn và chỉ huy một trăm quân không? 8 Sao tất cả các
ngươi đã âm mưu chống lại ta? Không có ai tiết lộ cho ta, khi con ta lập giao
ước với thằng con của Gie-sê; không ai trong các ngươi buồn cho ta, khi con ta
xui người đầy tớ của ta nổi lên gài bẫy hại ta, như hôm nay!"
9
Ðô-ếch,
người Ê-đôm, đang đứng bên triều thần vua Sa-un, lên tiếng nói: "Tôi đã
thấy thằng con của Gie-sê đến Nốp gặp ông A-khi-me-léc, con ông A-khi-túp. 10
Ông A-khi-me-léc đã thỉnh ý Ðức Chúa cho nó, đã tiếp tế lương thực cho
nó, và còn cho nó thanh gươm của Go-li-át, người Phi-li-tinh.” 11 Nhà
vua sai người đi đòi tư tế A-khi-me-léc, con ông A-khi-túp đến, cùng với toàn
thể nhà cha ông, là các tư tế ở Nốp. Tất cả những người đó đến với vua.
12
Vua
Sa-un nói: "Nghe đây, hỡi con của A-khi-túp." Ông đáp: "Thưa
chúa thượng, tôi đây.” 13 Vua Sa-un nói với ông: "Tại sao ngươi
và thằng con của Gie-sê, các ngươi đã âm mưu chống lại ta? Ngươi đã cho nó bánh
và gươm, lại thỉnh ý Thiên Chúa cho nó, để nó nổi lên gài bẫy hại ta, như hôm
nay?” 14 Ông A-khi-me-léc thưa với vua rằng: "Trong triều thần
của ngài, có ai trung tín như ông Ða-vít, con rể của nhà vua, chỉ huy cận vệ
của ngài, người được kính nể trong triều đình? 15 Có phải hôm nay tôi mới bắt
đầu thỉnh ý Thiên Chúa cho ông ấy? Không đời nào! Xin đức vua đừng buộc tội tôi
tớ ngài và toàn thể nhà cha tôi, vì tôi tớ ngài không biết một điều gì, lớn hay
nhỏ, về tất cả chuyện này.” 16 Vua nói: "A-khi-me-léc, ngươi sẽ
phải chết, ngươi và toàn thể nhà cha ngươi."
17
Vua
bảo các thị vệ đang đứng bên: "Hãy đi xử tử các tư tế của Ðức Chúa, vì cả
chúng cũng tiếp tay cho Ða-vít: chúng biết nó trốn đi mà không báo cho
ta." Nhưng triều thần không muốn tra tay giết các tư tế của Ðức Chúa. 18
Vua mới bảo Ðô-ếch: "Hãy đi giết các tư tế." Ðô-ếch, người
Ê-đôm, đi và chính nó giết các tư tế. Ngày hôm ấy, nó đã xử tử tám mươi lăm
người mặc ê-phốt vải gai. 19 Còn Nốp, thành của các tư tế, vua đã
dùng gươm mà giết từ đàn ông đến đàn bà, từ nhi đồng đến trẻ con đang bú, và
bò, lừa, chiên dê.
20
Chỉ
có một người là con ông A-khi-me-léc và là cháu ông A-khi-túp, thoát được.
Người ấy tên là Ép-gia-tha. Ông trốn đi theo ông Ða-vít. 21 Ông
Ép-gia-tha báo tin cho ông Ða-vít là vua Sa-un đã giết các tư tế của Ðức Chúa. 22
Ông Ða-vít nói với ông Ép-gia-tha: "Hôm ấy, tôi biết là Ðô-ếch,
người Ê-đôm, có ở đó và chắc chắn nó sẽ báo cho vua Sa-un. Chính tôi đã là
nguyên do khiến cả nhà cha ông phải thiệt mạng. 23 Ông cứ ở lại với
tôi, đừng sợ: ai tìm hại mạng sống ông là tìm hại mạng sống tôi. Ở bên tôi, ông
sẽ được bảo vệ."
Chương 23
Ông
Ða-vít đến Cơ-i-la
1
Người
ta báo tin cho ông Ða-vít biết rằng: "Kìa người Phi-li-tinh đang tấn công
Cơ-i-la và cướp phá các sân lúa.” 2 Ông thỉnh ý Ðức Chúa rằng:
"Con có nên đi không và có đánh bại được những tên Phi-li-tinh này
không?" Ðức Chúa phán với ông Ða-vít: "Cứ đi, ngươi sẽ đánh bại người
Phi-li-tinh và cứu được Cơ-i-la.” 3 Người của ông Ða-vít nói với
ông: "Ở đây, tại Giu-đa, mà chúng ta còn sợ hãi, huống chi là đi Cơ-i-la,
xông vào trận tuyến người Phi-li-tinh!” 4 Ông Ða-vít lại thỉnh ý Ðức
Chúa một lần nữa. Ðức Chúa trả lời ông rằng: "Ðứng lên! Hãy xuống Cơ-i-la,
vì Ta sắp trao người Phi-li-tinh vào tay ngươi.” 5 Ông Ða-vít cùng
với người của ông đi Cơ-i-la; ông tấn công người Phi-li-tinh, dẫn những bầy gia
súc của chúng đi và đánh chúng một đòn đau. Thế là ông Ða-vít cứu được dân
thành Cơ-i-la.
6
Khi
ông Ép-gia-tha, con ông A-khi-me-léc, trốn đến với ông Ða-vít, ông đã xuống
Cơ-i-la, tay cầm ê-phốt.
7
Người
ta báo tin cho vua Sa-un là ông Ða-vít đã vào Cơ-i-la, vua Sa-un nói:
"Thiên Chúa đã nộp nó vào tay ta, vì nó đã tự nhốt mình khi vào một thành
có cửa đóng then cài.” 8 Vua Sa-un triệu tập toàn dân đi giao chiến
để xuống Cơ-i-la vây ông Ða-vít và người của ông. 9 Ông Ða-vít biết
rằng chính để hại ông mà vua Sa-un đang ngầm mưu điều ác, ông bảo tư tế
Ép-gia-tha: "Ðem ê-phốt lại đây!” 10 Ông Ða-vít thưa: "Lạy
Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, tôi tớ Ngài đây đã nghe nói rằng vì con, vua
Sa-un đang tìm cách đến Cơ-i-la để phá huỷ thành này. 11 Các thân
hào Cơ-i-la có nộp con vào tay vua không? Vua Sa-un có xuống, như tôi tớ Ngài
đã nghe nói không? Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, xin cho tôi tớ Ngài
biết." Ðức Chúa phán: "Nó sẽ xuống.” 12 Ông Ða-vít lại
hỏi: "Các thân hào Cơ-i-la có nộp con và người của con vào tay vua Sa-un
không?" Ðức Chúa phán: "Chúng sẽ nộp.” 13 Ông Ða-vít đứng
lên cùng với người của ông, khoảng chừng sáu trăm người; họ ra khỏi Cơ-i-la và
đi lang thang. Người ta báo cho vua Sa-un là ông Ða-vít đã trốn thoát khỏi
Cơ-i-la, và vua thôi không ra trận nữa.
14
Ông
Ða-vít ở trong sa mạc, trên các đỉnh núi; ông ở trong núi, trong sa mạc Díp.
Trong suốt thời gian ấy, vua Sa-un tìm ông, nhưng Thiên Chúa không trao ông vào
tay vua.
Ông
Ða-vít ở Khoóc-sa. Ông Giô-na-than tới gặp.
15
Ông
Ða-vít thấy rằng vua Sa-un đã ra trận để tìm hại mạng sống ông. Ông Ða-vít ở
trong sa mạc Díp, tại Khoóc-sa. 16 Ông Giô-na-than, con vua Sa-un,
lên đường, đến gặp ông Ða-vít tại Khoóc-sa và khuyến khích ông nhân danh Thiên
Chúa. 17 Ông nói với ông Ða-vít: "Anh đừng sợ, vì bàn tay vua
Sa-un, cha tôi, sẽ không đụng tới anh được. Chính anh sẽ làm vua cai trị
Ít-ra-en, còn tôi sẽ làm phó cho anh; cả vua Sa-un, cha tôi, cũng biết như thế.”
18 Hai người lập giao ước trước nhan Ðức Chúa. Ông Ða-vít ở lại
Khoóc-sa, còn ông Giô-na-than thì đi về nhà.
Ông
Ða-vít thoát tay vua Sa-un
19
Có
những người vùng Díp lên gặp vua Sa-un tại Ghíp-a và thưa: "Ða-vít chẳng
trốn giữa chúng tôi, ở những đỉnh núi, tại Khoóc-sa, trên đồi Kha-khi-la ở phía
nam hoang địa đó sao? 20 Bây giờ, thưa đức vua, khi nào ngài muốn xuống thì xin
cứ xuống. Phận sự của chúng tôi là nộp nó vào tay đức vua.” 21 Vua
Sa-un nói: "Xin Ðức Chúa chúc phúc cho các ngươi, vì các ngươi đã động
lòng thương xót tôi. 22 Các ngươi hãy đi, điều tra nữa cho chắc
chắn; hãy tìm cho biết và xem nó đặt chân ở đâu, có ai đã thấy nó ở đấy không,
vì người ta nói với tôi rằng nó xảo quyệt lắm. 23 Các ngươi hãy xem
và tìm cho biết hết những nơi nó ẩn, những chỗ nó núp. Khi đã chắc rồi, thì hãy
trở lại gặp ta, và ta sẽ đi với các ngươi. Nếu như nó có ở trong xứ, thì ta sẽ
truy nã nó trong mọi thị tộc Giu-đa.” 24 Họ lên đường và đi Díp
trước vua Sa-un. Ông Ða-vít và người của ông thì ở trong sa mạc Ma-ôn, trong
thung lũng phía nam hoang địa. 25 Vua Sa-un và người của vua đi tìm
ông. Người ta báo tin cho ông Ða-vít, ông xuống Tảng Ðá và ở trong sa mạc
Ma-ôn. Vua Sa-un nghe biết thì đuổi theo ông Ða-vít trong sa mạc Ma-ôn. 26
Vua Sa-un đi phía sườn núi bên này, còn ông Ða-vít và người của ông đi
phía sườn núi bên kia. Ông Ða-vít vội vàng ra đi để thoát vua Sa-un. Vua Sa-un
và người của vua đang bao vây ông Ða-vít và người của ông để bắt họ, 27 thì
một người đưa tin đến nói với vua Sa-un: "Xin đức vua đến mau, vì người
Phi-li-tinh đã tràn vào xứ.” 28 Vua Sa-un thôi không đuổi theo ông
Ða-vít nữa, để ra nghênh chiến với người Phi-li-tinh. Vì thế người ta gọi chỗ
ấy là Tảng Ðá Phân Ly.
Chương 24
Ông
Ða-vít tha chết cho vua Sa-un
1
Ông
Ða-vít lên khỏi chỗ đó và ở trên những đỉnh núi Ên Ghe-đi. 2 Sau khi
vua Sa-un đuổi người Phi-li-tinh và trở về, người ta báo tin cho vua rằng:
"Này Ða-vít đang ở trong sa mạc Ên Ghe-đi.” 3 Vua Sa-un lấy
trong toàn thể Ít-ra-en ba ngàn quân tinh nhuệ, và lên đường để tìm bắt ông
Ða-vít và người của ông, ở phía đông các Mỏm Ðá Sơn Dương. 4 Vua đến
các bãi quây chiên dê bên đường. Ở đó có một cái hang và vua Sa-un vào đó để đi
việc cần. Ông Ða-vít và người của ông đang ngồi ở cuối hang. 5 Người
của ông Ða-vít nói với ông: "Ðây là ngày Ðức Chúa phán với ông: "Này
ta trao kẻ thù của ngươi vào tay ngươi, ngươi sẽ đối xử với nó thế nào tuỳ
ý." Ông Ða-vít đứng dậy và cắt vạt áo khoác của vua Sa-un. 6 Sau
đó, ông Ða-vít áy náy trong lòng vì đã cắt vạt áo của vua Sa-un. 7 Ông
bảo người của ông: "Xin Ðức Chúa đừng để tôi làm điều này cho chúa thượng
của tôi, đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong, là tra tay hại vua, vì người là
đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong.” 8 Nhờ những lời ấy, ông Ða-vít
đã ngăn chặn người của ông, không để cho họ xông vào vua Sa-un.
Vua
Sa-un đứng lên, ra khỏi hang và lên đường. 9 Sau đó, ông Ða-vít đứng
lên, ra khỏi hang và kêu đằng sau vua Sa-un rằng: "Thưa đức vua là chúa
thượng con!" Vua Sa-un ngoái lại đằng sau. Ông Ða-vít sấp mặt sát đất mà
lạy. 10 Ông Ða-vít nói với vua Sa-un: "Tại sao cha lại nghe lời
người ta nói rằng Ða-vít đang tìm cách hại cha? 11 Hôm nay đây, chính mắt cha
thấy Ðức Chúa đã trao cha vào tay con, hôm nay, trong hang; người ta nói đến chuyện
giết cha, nhưng con đã thương hại cha và nói: "Tôi sẽ không tra tay hại
chúa thượng tôi, vì người là đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong. 12 Thưa
cha, xin nhìn xem, vâng, xin nhìn xem vạt áo choàng của cha trong tay con. Vì
con đã cắt áo choàng của cha và không giết cha, thì xin cha biết và thấy cho
rằng tay con không làm điều ác, điều lỗi, và con đã không phạm tội hại cha,
trong khi cha mưu toan lấy mạng sống con. 13 Xin Ðức Chúa phân xử
giữa con và cha và xin Ðức Chúa phạt cha để trả thù cho con, nhưng tay con sẽ
không đụng đến cha. 14 Như tục ngữ người xưa có nói: "Ðiều ác
từ kẻ ác mà ra", nên tay con sẽ không đụng đến cha. 15 Ðức vua
Ít-ra-en đã ra trận để đánh ai? Cha đuổi theo ai? Một con chó chết! Một con bọ
chét! 16 Ðức Chúa sẽ là trọng tài, Người sẽ phân xử giữa con và cha. Xin Người
nhìn xem và biện hộ cho con, xin Người phân xử để con thoát khỏi tay cha!"
17
Khi
ông Ða-vít nói với vua Sa-un những lời đó xong, thì vua Sa-un hỏi: "Ða-vít
con cha, có phải tiếng của con đấy không?" Rồi vua Sa-un oà lên khóc. 18
Vua nói với ông Ða-vít: "Con công chính hơn cha, vì con xử tốt với
cha, còn cha thì xử ác với con. 19 Hôm nay con đã tỏ ra là con làm
điều tốt cho cha, vì Ðức Chúa đã nộp cha vào tay con mà con đã không giết cha. 20
Có ai gặp kẻ thù của mình mà cứ để nó đi yên lành không? Xin Ðức Chúa
thưởng con vì điều tốt con làm cho cha hôm nay. 21 Giờ đây cha biết
rằng chắc chắn con sẽ làm vua và vương quyền Ít-ra-en sẽ vững mãi trong tay con.
22 Vậy giờ đây con hãy lấy Ðức Chúa mà thề với cha là sẽ không loại
trừ dòng dõi cha sau này, và sẽ không xoá bỏ tên tuổi cha khỏi nhà của tổ phụ
cha.” 23 Ông Ða-vít thề với vua Sa-un. Rồi vua Sa-un đi về nhà, còn
ông Ða-vít và người của ông thì đi lên nơi ẩn náu.
Chương 25
Ông
Sa-mu-en qua đời
1
Ông
Sa-mu-en qua đời. Toàn thể Ít-ra-en tập hợp lại cử hành tang lễ cho ông. Họ
chôn cất ông tại quê nhà ông, ở Ra-ma.
Chuyện
ông Na-van và bà A-vi-ga-gin
Ông
Ða-vít lên đường và xuống sa mạc Pa-ran.
2
Ở
Ma-ôn có một người có cơ sở làm ăn tại Các-men. Người ấy rất giàu: ông có ba
ngàn con cừu và một ngàn con dê. Ông đang ở Các-men để xén lông cừu của ông. 3
Ông ấy tên là Na-van, còn vợ ông tên là A-vi-ga-gin. Người vợ thì khôn
khéo và có duyên, người chồng thì cứng cỏi và ưa làm điều ác; ông ta là người
Ca-lếp.
4
Trong
sa mạc, ông Ða-vít nghe tin là ông Na-van đang xén lông cừu của ông ấy. 5 Ông
Ða-vít sai mười đầy tớ đi. Ông bảo các đầy tớ: "Các anh hãy lên Các-men,
đến gặp ông Na-van và nhân danh tôi vấn an ông ấy. 6 Các anh hãy nói
với người anh em tôi thế này: "Chúc ông được bình an, chúc gia đình ông
được bình an, chúc ông vạn sự bình an! 7 Bây giờ tôi nghe tin là có thợ đang
xén lông cừu cho ông. Khi người chăn súc vật của ông ở với chúng tôi, chúng tôi
đã không quấy nhiễu họ, họ đã không bị mất mát gì trong suốt thời gian ở
Các-men. 8 Ông cứ hỏi đầy tớ ông, họ sẽ nói cho ông biết. Mong rằng
đầy tớ tôi được đẹp lòng ông, vì chúng tôi đã tới vào một ngày lễ. Xin vui lòng
cho các đầy tớ ông và cho Ða-vít, con ông, cái gì ông sẵn có trong
tay"."
9
Các
đầy tớ ông Ða-vít đến và nói lại với ông Na-van tất cả những lời ấy nhân danh
ông Ða-vít, rồi họ đợi. 10 Ông Na-van trả lời cho tôi tớ ông Ða-vít
rằng: "Ða-vít là ai? Con ông Gie-sê là ai? Ngày nay có nhiều tôi tớ trốn
chủ mà đi. 11 Chẳng lẽ tôi lại phải lấy bánh của tôi, nước của tôi,
các con vật tôi đã làm thịt cho thợ xén lông của tôi, mà cho những người tôi
không biết từ đâu đến sao?” 12 Các đầy tớ ông Ða-vít quay lại đường
cũ và trở về. Khi đến nơi, họ thuật lại cho ông Ða-vít tất cả những lời đó. 13
Ông Ða-vít bảo người của ông: "Mỗi người hãy đeo gươm của mình
vào!" Mỗi người đã đeo gươm của mình, ông Ða-vít cũng đeo gươm của ông. Có
khoảng chừng bốn trăm người lên theo ông Ða-vít, còn hai trăm thì ở lại giữ đồ
đạc.
14
Một
trong số các đầy tớ báo tin cho bà A-vi-ga-gin, vợ ông Na-van rằng: "Này,
ông Ða-vít đã sai người từ sa mạc đến chào ông chủ, và ông chủ đã xông vào họ. 15
Những người ấy rất tốt với chúng tôi. Chúng tôi đã không bị quấy nhiễu,
đã không mất mát gì, suốt thời gian chúng tôi di chuyển bên họ, khi chúng tôi ở
ngoài đồng. 16 Họ đã là thành luỹ bảo vệ chúng tôi, cả đêm lẫn ngày,
suốt thời gian chúng tôi ở với họ mà chăn chiên dê. 17 Bây giờ xin
bà biết cho và xem phải làm gì, vì người ta đã quyết định hại ông chủ và cả nhà
ông. Còn ông ấy thì là một tên vô lại, không nói chuyện với ông ấy được."
18
Bà
A-vi-ga-gin vội vàng lấy hai trăm cái bánh, hai bầu da đầy rượu, năm con cừu đã
làm thịt, năm thúng gié lúa rang, một trăm bánh nho khô và hai trăm bánh vả, và
chất lên lưng lừa. 19 Bà bảo đầy tớ: "Các anh hãy đi đằng trước
tôi, còn tôi, tôi theo sau các anh." Nhưng bà không nói cho chồng bà là
ông Na-van biết.
20
Bà
đang cỡi lừa đi xuống, khuất sau ngọn núi thì kìa ông Ða-vít và người của ông
đang xuống về phía bà, và bà đã gặp họ. 21 Ông Ða-vít tự bảo:
"Thật uổng công tôi đã giữ tất cả những gì thuộc về tên này trong sa mạc,
và không để mất một cái gì của nó. Nó đã lấy oán đền ơn. 22 Xin
Thiên Chúa phạt các kẻ thù của Ða-vít thế này và còn thêm thế kia nữa, nếu cho
đến sáng mai, trong tất cả những người thuộc về nó, tôi còn để lại một tên đàn
ông con trai nào!” 23 Thấy ông Ða-vít, bà A-vi-ga-gin vội vàng xuống
lừa, sấp mình xuống trước mặt ông Ða-vít và sụp lạy sát đất. 24 Bà
phục xuống dưới chân ông và nói: "Thưa đức ông, tôi xin chịu tội! Nữ tỳ
ngài xin được nói thấu tai ngài! Xin ngài nghe nữ tỳ ngài nói. 25 Xin
đức ông đừng để tâm đến Na-van, kẻ vô lại ấy, vì tên nó thế nào, thì nó như
vậy: tên nó là Ngu và cái ngu gắn liền với nó. Nhưng tôi, nữ tỳ ngài, đã không
trông thấy các đầy tớ mà đức ông sai đến. 26 Giờ đây, thưa đức ông,
có Ðức Chúa hằng sống, và có ngài đang sống đó, Ðức Chúa đã ngăn cản không cho
ngài đi đến chỗ đổ máu và tự tay trả thù. Bây giờ, ước chi kẻ thù ngài, các kẻ
tìm cách hại đức ông, phải bị như Na-van! 27 Giờ đây, món quà này mà tớ nữ của
ngài đã đem đến cho đức ông, xin được giao cho các đầy tớ đi theo chân đức ông.
28 Xin vui lòng xá lỗi cho nữ tỳ ngài. Thật vậy, Ðức Chúa chắc chắn
sẽ làm cho đức ông một nhà kiên cố, vì đức ông chiến đấu những cuộc chiến của
Ðức Chúa, và suốt đời ngài, người ta không tìm được nơi ngài một điều ác nào. 29
Có người đứng lên để đuổi theo ngài và tìm hại mạng sống ngài, nhưng mạng
sống của đức ông sẽ được bọc trong bọc những kẻ sống bên Ðức Chúa, Thiên Chúa
của ngài; còn mạng sống các kẻ thù ngài, thì Ðức Chúa dùng dây phóng đá mà
phóng đi. 30 Vậy khi Ðức Chúa làm cho đức ông tất cả điều tốt lành
Người đã nói về ngài, và đặt ngài làm người lãnh đạo Ít-ra-en, 31 thì
đức ông sẽ không phải ân hận và áy náy lương tâm vì đã đổ máu vô cớ và trả thù
cho chính mình. Khi Ðức Chúa xử tốt với đức ông, thì xin ngài nhớ đến nữ tỳ
ngài."
32
Ông
Ða-vít nói với bà A-vi-ga-gin: "Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en,
hôm nay đã sai bà đến gặp tôi! 33 Bà được chúc phúc vì bà khôn ngoan, bà được
chúc phúc vì hôm nay đã giữ không cho tôi đi tới chỗ đổ máu và tự tay trả thù. 34
Nhưng có Ðức Chúa hằng sống là Thiên Chúa Ít-ra-en, Ðấng đã ngăn cản
không cho tôi làm hại bà! Giả như bà đã không vội vàng đến gặp tôi, thì cho đến
khi trời sáng, sẽ không còn lại một tên đàn ông con trai nào của Na-van.” 35
Ông Ða-vít nhận từ tay bà những gì bà mang đến cho ông, và ông nói với
bà: "Bà hãy lên nhà bà bình an. Bà xem đây: tôi đã nghe theo tiếng bà và
đã nể bà.” 36 Bà A-vi-ga-gin về với ông Na-van. Kìa ông đang mở tiệc
ở nhà ông, một bữa tiệc vương giả! Lòng ông Na-van vui vẻ. Ông say khướt nên bà
không kể lại cho ông điều gì, dù nhỏ hay lớn, cho đến khi trời sáng. 37 Sáng
hôm sau, khi ông Na-van tỉnh rượu, vợ ông mới kể lại cho ông các sự việc ấy.
Tim ông chết lặng trong lồng ngực, ông cứng đờ ra như đá. 38 Khoảng
mười ngày sau, Ðức Chúa đánh phạt ông Na-van và ông chết.
39
Ông
Ða-vít nghe tin ông Na-van đã chết, thì nói: "Chúc tụng Ðức Chúa, Ðấng đã
biện hộ cho tôi, khi tôi bị Na-van sỉ nhục, và đã ngăn không cho tôi tớ Người
làm điều ác. Còn điều ác Na-van đã làm, thì Ðức Chúa đã đổ lại trên đầu
nó."
Ông
Ða-vít sai người đi hỏi bà A-vi-ga-gin làm vợ. 40 Tôi tớ Ða-vít đến
với bà A-vi-ga-gin tại Các-men và nói với bà rằng: "Ông Ða-vít sai chúng
tôi đến xin cưới bà làm vợ.” 41 Bà đứng dậy, sấp mặt xuống đất và
nói: "Này nữ tỳ ngài xin làm tớ nữ để rửa chân cho tôi tớ của đức ông.” 42
Bà A-vi-ga-gin vội vã đứng dậy, lên lừa và có năm tớ gái theo chân bà. Bà
đi theo những người ông Ða-vít sai đến. Bà đã trở thành vợ ông.
43
Ông
Ða-vít cũng đã cưới bà A-khi-nô-am, người Gít-rơ-en. Cả hai bà đều là vợ ông. 44
Vua Sa-un đã gả bà Mi-khan là con gái vua và là vợ ông Ða-vít, cho ông
Pan-ti, con ông La-gít, người Ga-lim.
Chương 26
Ông
Ða-vít tha chết cho vua Sa-un
1
Người
vùng Díp đến gặp vua Sa-un tại Ghíp-a và thưa: "Ða-vít chẳng trốn trên đồi
Kha-khi-la, đối diện với hoang địa đó sao?” 2 Vua Sa-un lên đường và
xuống sa mạc Díp, cùng với ba ngàn quân tinh nhuệ của Ít-ra-en, để tìm bắt ông
Ða-vít trong sa mạc Díp. 3 Vua Sa-un đóng trại trên đồi Kha-khi-la,
đối diện với hoang địa, ở bên đường, còn ông Ða-vít thì ở trong sa mạc. Thấy
vua Sa-un đến đuổi theo ông trong sa mạc, 4 ông Ða-vít sai người đi
do thám và ông biết là vua Sa-un chắc chắn đã đến. 5 Ông Ða-vít lên
đường và đến nơi vua Sa-un đóng trại. Ông Ða-vít trông thấy chỗ vua Sa-un và
ông Áp-ne, con ông Ne, tướng chỉ huy quân đội của vua, đang nằm. Vua Sa-un nằm
trong trại binh; còn quân binh thì đóng trại chung quanh ông.
6
Ông
Ða-vít lên tiếng hỏi ông A-khi-me-léc, người Khết, và ông A-vi-sai là con bà Xơ-ru-gia
và là anh ông Giô-áp: "Ai muốn cùng tôi xuống chỗ vua Sa-un đóng
trại?" Ông A-vi-sai thưa: "Cháu xin xuống với cậu.” 7 Ðang
đêm, ông Ða-vít và ông A-vi-sai đến chỗ quân binh. Vua Sa-un đang nằm ngủ trong
trại binh, cây giáo của vua cắm xuống đất, ở phía đầu vua, còn ông Áp-ne và
quân binh thì nằm chung quanh.
8
Ông
A-vi-sai nói với ông Ða-vít: "Hôm nay Thiên Chúa đã nộp kẻ thù của cậu vào
tay cậu. Bây giờ, xin cho cháu dùng giáo ghim nó xuống đất, một nhát thôi; cháu
không cần đâm nhát thứ hai.” 9 Ông Ða-vít nói với ông A-vi-sai:
"Ðừng giết vua! Có ai tra tay hại đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong mà vô
sự đâu?” 10 Ông Ða-vít nói: "Có Ðức Chúa hằng sống! Chính Ðức
Chúa sẽ đánh phạt vua, hoặc khi ngày của vua đến mà vua phải chết, hoặc khi vua
xuống giao chiến mà vua thiệt mạng. 11 Nhưng xin Ðức Chúa đừng bao
giờ để tôi tra tay hại đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong! Bây giờ anh hãy lấy
cây giáo ở phía đầu vua, cùng với bình nước, rồi chúng ta đi.” 12 Ông
Ða-vít lấy cây giáo và bình nước ở phía đầu vua Sa-un, rồi cả hai người ra đi.
Không ai thấy, không ai hay, không ai thức dậy. Họ đều ngủ cả, vì Ðức Chúa đã
cho một giấc ngủ mê ập xuống trên họ.
13
Ông
Ða-vít đi sang phía bên kia và đứng trên đỉnh núi, ở đàng xa; có một khoảng
cách lớn giữa họ. 14 Ông Ða-vít gọi quân binh và ông Áp-ne, con ông
Ne, rằng: "Ông không trả lời sao, ông Áp-ne?" Ông Áp-ne trả lời rằng:
"Ngươi là ai mà dám gọi đức vua?” 15 Ông Ða-vít nói với ông
Áp-ne: "Ông không phải là nam nhi sao? Và trong Ít-ra-en, có ai được như
ông? Vậy tại sao ông đã không canh giữ đức vua, chúa thượng của ông? Có một
người dân đã đến để giết đức vua, chúa thượng của ông. 16 Ðiều ông
đã làm, thật không tốt. Có Ðức Chúa hằng sống! Các ông đáng chết vì đã không
canh giữ chúa thượng của các ông, đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong. Bây giờ
hãy xem: cây giáo của đức vua đâu rồi, và bình nước ở phía đầu người đâu
rồi?"
17
Vua
Sa-un nhận ra tiếng ông Ða-vít và nói: "Ða-vít con cha, có phải tiếng của
con đấy không?" Ông Ða-vít nói: "Thưa đức vua là chúa thượng của con,
vâng, tiếng con đó!” 18 Rồi ông nói: "Tại sao chúa thượng lại
đuổi theo tôi tớ ngài? Con đã làm gì và tay con đã làm điều gì ác? 19 Bây giờ
xin đức vua là chúa thượng của con vui lòng nghe tôi tớ ngài nói. Nếu là Ðức
Chúa đã xúi ngài chống con, thì xin Người ngửi mùi thơm của lễ phẩm. Nhưng nếu
là người phàm, thì xin cho chúng bị nguyền rủa trước nhan Ðức Chúa, vì chúng đã
xua đuổi con hôm nay, không cho con được dự phần cơ nghiệp của Ðức Chúa, khi
chúng bảo: "Hãy đi mà thờ các thần khác! 20 Bây giờ xin cho máu con đừng
chảy xuống đất xa nhan Ðức Chúa, vì đức vua Ít-ra-en đã ra trận để tìm bắt một
con bọ chét, như người ta đuổi theo một con chim cuốc trong vùng núi."
21
Vua
Sa-un nói: "Cha thật đắc tội! Ða-vít con cha, trở về đi! Cha sẽ không hại
con nữa, bởi vì ngày hôm nay con đã coi mạng sống của cha là quý. Phải, cha đã
hành động ngu xuẩn, cha đã sai lỗi nặng nề!” 22 Ông Ða-vít trả lời:
"Cây giáo của đức vua đây. Một trong các đầy tớ hãy sang mà lấy. 23 Xin
Ðức Chúa thưởng công cho mỗi người tuỳ theo sự công chính và lòng trung thành
của họ: hôm nay Ðức Chúa đã nộp cha vào tay con, nhưng con đã không muốn tra
tay hại đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong. 24 Hôm nay con đã coi
trọng mạng sống cha, thì xin Ðức Chúa cũng coi trọng mạng sống con như vậy, và
giải thoát con khỏi mọi cảnh ngặt nghèo."
25
Vua
Sa-un nói với ông Ða-vít: "Ða-vít con cha ơi, con được chúc phúc! Chắc
chắn con sẽ làm việc lớn, và sẽ thành công." Ông Ða-vít tiếp tục con đường
của mình, còn vua Sa-un thì trở về nhà.
Chương 27
4.
Ông Ða-Vít Ðến Với Người Phi-Li-Tinh
Ông
Ða-vít trốn đi Gát
1
Ông
Ða-vít tự bảo: "Giờ đây, một ngày nào đó, tôi sẽ phải mất mạng bởi tay vua
Sa-un. Không gì tốt hơn cho tôi là thoát sang đất người Phi-li-tinh. Vua Sa-un
sẽ thôi không tìm bắt tôi trong toàn lãnh thổ Ít-ra-en nữa, và tôi sẽ thoát
khỏi tay vua.” 2 Ông Ða-vít lên đường và cùng với sáu trăm người
theo ông, sang với vua thành Gát là A-khít, con ông Ma-ốc. 3 Ông
Ða-vít ở lại với vua A-khít tại Gát, cùng với các người của ông, mỗi người với
gia đình mình, ông Ða-vít với hai bà vợ là bà A-khi-nô-am người Gít-rơ-en, và
bà A-vi-ga-gin, vợ ông Na-van người Các-men. 4 Người ta báo cho vua
Sa-un là ông Ða-vít đã trốn đi Gát, và vua không còn tìm bắt ông Ða-vít nữa.
Ông
Ða-vít làm chư hầu người Phi-li-tinh
5
Ông
Ða-vít nói với vua A-khít: "Nếu tôi được đẹp lòng ngài, thì xin cho tôi
một chỗ trong thành nào đó ở vùng quê để tôi ở. Tôi tớ ngài ở gần ngài trong
hoàng thành sao được?” 6 Ngay hôm đó, vua A-khít cho ông thành
Xích-lắc; vì vậy Xích-lắc thuộc về các vua Giu-đa cho đến ngày nay. 7 Thời
gian ông Ða-vít ở vùng quê Phi-li-tinh là một năm bốn tháng.
8
Ông
Ða-vít và người của ông lên cướp phá vùng đất của người Gơ-sua, người Ghe-de và
người A-ma-lếch, vì đó là những dân ở miền ấy từ xa xưa, trên đường vào Sua cho
đến tận Ai-cập. 9 Ông Ða-vít đánh phá vùng đất ấy và không để một
người đàn ông hay đàn bà nào sống sót; ông lấy chiên dê bò lừa, lạc đà và quần
áo, rồi trở về và đến gặp vua A-khít. 10 Vua A-khít hỏi: "Hôm
nay các ông đi cướp phá ở đâu?" Ông trả lời là ở vùng Ne-ghép của Giu-đa,
hoặc ở vùng Ne-ghép của người Giơ-rác-mơ-ên, hoặc ở vùng Ne-ghép của người
Kê-ni. 11 Ông Ða-vít không để một người đàn ông hay đàn bà nào sống
sót mà đem về Gát; ông nói: "Sợ chúng báo cáo có hại cho chúng ta mà nói:
"Ông Ða-vít đã làm như thế"." Ðó là cách xử sự của ông Ða-vít
trong thời gian ông ở tại vùng quê Phi-li-tinh. 12 Vua A-khít tin
ông Ða-vít; vua nói: "Nó đã làm cho nó trở nên đáng ghét đối với Ít-ra-en,
dân của nó, và nó sẽ là tôi tớ ta mãi mãi."
Chương 28
Người
Phi-li-tinh đi đánh Ít-ra-en
1
Thời
ấy, người Phi-li-tinh tập hợp quân đội để ra trận giao chiến với Ít-ra-en. Vua
A-khít nói với ông Ða-vít: "Ông phải biết rằng ông và người của ông sẽ ra
quân với tôi.” 2 Ông Ða-vít nói với vua A-khít: "Thế thì ngài
sẽ biết tôi tớ ngài làm được gì." Vua A-khít bảo ông Ða-vít: "Vậy tôi
sẽ đặt ông làm người hộ vệ tôi suốt đời."
Vua
Sa-un và bà đồng bóng tại Ên Ðo
3
Ông
Sa-mu-en đã qua đời, toàn thể Ít-ra-en đã cử hành tang lễ cho ông và chôn cất
ông ở Ra-ma, thành của ông. Vua Sa-un trục xuất các người đồng bóng và thầy bói
ra khỏi xứ.
4
Người
Phi-li-tinh tập hợp lại và đến đóng trại ở Su-nêm. Vua Sa-un tập hợp toàn thể
Ít-ra-en, và họ đóng trại ở Ghin-bô-a. 5 Vua Sa-un thấy trại của
người Phi-li-tinh thì sợ và tim ông đập mạnh. 6 Ông thỉnh ý Ðức Chúa
nhưng Ðức Chúa không trả lời, dù bằng giấc mộng, bằng thẻ u-rim, hay qua trung
gian ngôn sứ. 7 Vua Sa-un bảo triều thần: "Hãy tìm cho ta một
bà đồng bóng, để ta thỉnh ý bà ấy." Triều thần nói với vua: "Thưa có
một bà đồng bóng ở Ên Ðo."
8
Vua
Sa-un cải trang, mặc áo khác rồi ra đi, có hai người cùng đi với vua. Ðang đêm,
họ đến nhà người đàn bà, và vua nói: "Xin bà ngồi đồng mà bói cho tôi, và
hãy gọi lên cho tôi người tôi sẽ nói cho bà biết.” 9 Người đàn bà
nói với vua: "Này chính ông biết điều vua Sa-un đã làm: vua đã diệt trừ
các người đồng bóng và các thầy bói trong xứ. Vậy tại sao ông lại gài bẫy hại
tôi để làm cho tôi phải chết?” 10 Vua Sa-un lấy Ðức Chúa mà thề với
bà ấy: "Có Ðức Chúa hằng sống, tôi xin thề rằng bà sẽ không mắc lỗi trong
việc này.” 11 Người đàn bà nói: "Tôi phải gọi ai lên cho
ông?" Vua trả lời: "Bà gọi ông Sa-mu-en lên cho tôi."
12
Người
đàn bà trông thấy ông Sa-mu-en và rú lên. Người đàn bà nói với vua Sa-un:
"Tại sao ngài lại đánh lừa tôi? Ngài là vua Sa-un!” 13 Vua nói
với bà: "Ðừng sợ! Bà đã trông thấy gì?" Người đàn bà trả lời vua
Sa-un: "Tôi đã trông thấy một thần linh đang từ đất đi lên.” 14 Vua
hỏi: "Hình dáng thế nào?" Bà đáp: "Một cụ già đi lên, mình quấn
áo choàng." Vua Sa-un biết đó là ông Sa-mu-en, liền sấp mặt sát đất mà lạy.
15 Ông Sa-mu-en hỏi vua Sa-un: "Tại sao ngài lại gọi tôi lên mà
quấy rầy tôi?" Vua Sa-un trả lời: "Tôi lâm vào cảnh rất ngặt nghèo.
Người Phi-li-tinh đang giao chiến với tôi, và Thiên Chúa đã rời khỏi tôi: Người
không trả lời tôi nữa, dù qua trung gian ngôn sứ, hay qua giấc mộng. Vậy tôi đã
gọi ông, để ông cho tôi biết tôi phải làm gì.” 16 Ông Sa-mu-en nói:
"Tại sao ngài thỉnh ý tôi, trong khi Ðức Chúa đã rời khỏi ngài và đã trở
nên thù địch với ngài? 17 Ðức Chúa đã hành động như Người đã dùng tôi mà phán:
Ðức Chúa đã giật vương quyền ra khỏi tay ngài và ban cho một người khác là
Ða-vít. 18 Bởi vì ngài đã không nghe tiếng Ðức Chúa và đã không trút
cơn thịnh nộ của Người xuống A-ma-lếch, cho nên hôm nay Ðức Chúa đã xử với ngài
như thế. 19 Cùng với ngài, Ðức Chúa sẽ trao cả Ít-ra-en nữa vào tay
người Phi-li-tinh. Ngày mai, ngài và các con trai ngài sẽ ở với tôi. Cả quân
đội Ít-ra-en nữa, Ðức Chúa cũng sẽ trao vào tay người Phi-li-tinh."
20
Lập
tức vua Sa-un ngã sóng sượt xuống đất: vua quá sợ hãi vì lời ông Sa-mu-en nói.
Hơn nữa, vua không còn sức, vì suốt ngày suốt đêm hôm ấy đã không ăn gì. 21
Người đàn bà đến bên vua Sa-un và thấy vua quá kinh hoàng thì nói với
vua: "Ngài coi, nữ tỳ ngài đã nghe theo ngài. Tôi đã liều mạng và vâng
nghe những lời ngài truyền cho tôi. 22 Vậy bây giờ, xin ngài cũng
vui lòng nghe theo nữ tỳ ngài: tôi xin dọn cho ngài miếng bánh, và xin ngài ăn
để có sức tiếp tục lên đường.” 23 Vua từ chối và nói: "Ta sẽ
không ăn đâu." Các người theo hầu cũng như người đàn bà nài nỉ vua, nên
vua nghe theo họ. Vua trỗi dậy từ dưới đất và ngồi lên giường. 24 Người
đàn bà có một con bê béo trong nhà. Bà vội vàng làm thịt, lấy bột mà nhồi, rồi
nướng bánh không men. 25 Bà dọn ra trước mặt vua Sa-un và trước mặt
các người theo hầu vua. Họ ăn rồi đứng dậy và đi ngay đêm ấy.
Chương 29
Các
người chỉ huy Phi-li-tinh cho ông Ða-vít về
1
Người
Phi-li-tinh tập họp toàn thể quân đội tại A-phếch, còn người Ít-ra-en thì đóng
trại tại suối nước ở Gít-rơ-en. 2 Các vương hầu người Phi-li-tinh
dẫn đầu các đoàn một trăm, một ngàn quân đi diễu hành; ông Ða-vít và người của
ông diễu hành sau cùng với vua A-khít. 3 Các người chỉ huy
Phi-li-tinh hỏi: "Bọn Híp-ri kia là gì vậy?" Vua A-khít nói với các
người chỉ huy Phi-li-tinh: "Ðó là Ða-vít, tôi tớ ông Sa-un, vua Ít-ra-en,
chứ ai! Hắn ở với tôi từ một hai năm nay, và tôi không thấy nơi hắn điều gì
đáng trách, từ ngày hắn về đầu hàng tôi cho đến hôm nay.” 4 Các
người chỉ huy Phi-li-tinh nổi giận với vua và nói: "Ông hãy cho người ấy
về, nó hãy về nơi ông đã chỉ định cho nó. Nó không được cùng với chúng ta xuống
giao chiến, kẻo nó trở nên địch thủ của chúng ta trong chiến trận. Nó sẽ dùng
gì mà lấy lòng chúa thượng nó, nếu không phải là dùng đầu của những người này?
5 Tên này chẳng phải là Ða-vít mà người ta đã múa nhảy hát mừng rằng:
"Vua
Sa-un hạ được hàng ngàn,
ông
Ða-vít hàng vạn"?"
6
Vua
A-khít gọi ông Ða-vít lại và nói với ông: "Có Ðức Chúa hằng sống, ông là
người ngay thẳng. Tôi lấy làm vui thấy ông cùng với tôi ra vào chiến đấu, vì
tôi không thấy điều gì xấu nơi ông, từ ngày ông đến với tôi cho đến ngày hôm
nay. Nhưng ông không được lòng các vương hầu. 7 Vậy ông hãy về và ra
đi bình an. Ông đừng làm điều gì phật lòng các vương hầu người Phi-li-tinh.” 8
Ông Ða-vít nói với vua: "Tôi đã làm gì? Từ ngày tôi phục vụ ngài cho
đến hôm nay ngài đã thấy điều gì đáng trách nơi tôi tớ ngài, khiến tôi không
thể đến giao chiến với các kẻ thù của đức vua là chúa thượng tôi?” 9 Vua
A-khít trả lời ông Ða-vít: "Tôi biết ông đẹp lòng tôi như một sứ giả của
Thiên Chúa. Có điều là các người chỉ huy Phi-li-tinh đã nói: "Nó không
được cùng với chúng ta lên giao chiến. 10 Vậy sáng mai ông hãy dậy
sớm, cũng như các tôi tớ của chủ ông đã đến với ông. Các ông hãy dậy sớm, và
khi trời sáng, hãy ra đi."
11
Ông
Ða-vít dậy sớm cùng với người của ông, để ra đi ngay từ sáng sớm và trở về đất
Phi-li-tinh. Còn người Phi-li-tinh thì lên Gít-rơ-en.
Chương 30
Ông
Ða-vít tiến đánh người A-ma-lếch
1
Sang
ngày thứ ba, khi ông Ða-vít và người của ông đến Xích-lắc, thì người A-ma-lếch
đã cướp phá miền Ne-ghép và thành Xích-lắc. Chúng phá phách Xích-lắc và phóng
hoả đốt thành. 2 Chúng bắt đàn bà và mọi người trong thành, từ nhỏ
đến lớn, làm tù, nhưng không giết ai. Chúng dẫn họ đi và tiếp tục lên đường. 3
Khi ông Ða-vít và người của ông đến thành thì thấy thành đã bị phóng hoả,
và vợ cùng con trai con gái của họ đã bị bắt làm tù. 4 Ông Ða-vít và
quân binh ở với ông oà lên khóc cho đến khi không còn sức khóc nữa. 5 Hai
bà vợ của ông Ða-vít cũng bị bắt làm tù, đó là bà A-khi-nô-am người Gít-rơ-en,
và bà A-vi-ga-gin, vợ ông Na-van người Các-men.
6
Ông
Ða-vít lâm vào cảnh rất ngặt nghèo vì người ta bàn chuyện ném đá ông; thật vậy,
tâm hồn ai cũng cay đắng khi nghĩ đến con trai con gái của mình. Nhưng ông
Ða-vít lấy lại can đảm, nhờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông. 7 Ông
Ða-vít bảo tư tế Ép-gia-tha, con ông A-khi-me-léc: "Xin ông đem ê-phốt lại
đây cho tôi." Ông Ép-gia-tha đem ê-phốt lại cho ông Ða-vít. 8 Ông
Ða-vít thỉnh ý Ðức Chúa rằng: "Con có nên rượt theo bọn cướp đó không? Con
có đuổi kịp chúng không?" Người phán với ông: "Cứ rượt theo, vì ngươi
sẽ đuổi kịp và chắc chắn ngươi sẽ giải thoát được tù.” 9 Ông Ða-vít
đi cùng với sáu trăm người theo ông; khi họ đến khe nước Bơ-xo thì một số người
đã dừng lại. 10 Ông tiếp tục rượt theo cùng với bốn trăm người. Hai
trăm người đã dừng lại vì quá mệt, không đủ sức sang qua khe nước Bơ-xo.
11
Người
ta thấy một tên Ai-cập ngoài đồng, liền bắt đem đến ông Ða-vít. Họ cho nó bánh,
nó ăn, rồi họ cho nó uống nước. 12 Họ cho nó một miếng bánh vả và
hai chùm nho khô. Ăn xong, nó hoàn hồn, vì đã ba ngày ba đêm nó chẳng ăn uống
gì. 13 Ông Ða-vít hỏi nó: "Anh là người của ai và quê ở
đâu?" Nó đáp: "Tôi là một thanh niên Ai-cập, nô lệ của một người
A-ma-lếch. Chủ tôi bỏ tôi lại vì tôi ngã bệnh, nay đã ba ngày. 14 Chúng
tôi đã cướp phá vùng Ne-ghép của người Cơ-rê-thi, vùng Ne-ghép của Giu-đa và
vùng Ne-ghép của Ca-lếp, và chúng tôi đã phóng hoả đốt Xích-lắc.” 15 Ông
Ða-vít nói: "Anh có muốn đưa tôi xuống chỗ bọn cướp ấy không?" Nó
đáp: "Ông hãy lấy Thiên Chúa mà thề với tôi là ông sẽ không giết tôi, và
sẽ không nộp tôi vào tay chủ tôi, thì tôi sẽ đưa ông xuống chỗ bọn cướp
đó."
16
Nó
đưa ông xuống, và kìa chúng đang tản mác khắp miền, chè chén, ăn mừng số chiến
lợi phẩm lớn đã cướp được ở đất Phi-li-tinh và ở đất Giu-đa. 17 Ông
Ða-vít đánh giết chúng từ hừng đông cho đến chiều hôm sau. Không tên nào thoát,
trừ bốn trăm thanh niên cưỡi lạc đà chạy trốn. 18 Ông Ða-vít giải
thoát tất cả những gì người A-ma-lếch đã cướp; ông cũng giải thoát hai bà vợ
của ông. 19 Họ không mất gì: từ người nhỏ đến người lớn, con trai,
con gái họ, chiến lợi phẩm và tất cả những gì chúng đã lấy của họ, ông Ða-vít
đem về tất cả. 20 Ông Ða-vít lấy tất cả chiên dê và bò. Người ta đi
trước, dẫn theo đàn vật và nói: "Ðây là chiến lợi phẩm của ông Ða-vít!"
21
Ông
Ða-vít đến chỗ hai trăm người đã quá mệt, không đủ sức đi theo ông Ða-vít, và
đã bị bỏ lại ở khe nước Bơ-xo. Họ ra đón ông Ða-vít và đón quân binh đi với
ông. Ông Ða-vít cùng với quân binh lại gần và vấn an họ. 22 Nhưng
tất cả những kẻ xấu và những tên vô lại trong đám người đã đi với ông Ða-vít
lên tiếng nói: "Bởi vì họ đã không đi với chúng tôi, nên chúng tôi sẽ
không cho họ phần chiến lợi phẩm chúng tôi đã lấy lại được, ngoại trừ vợ con
của mỗi người. Họ hãy dẫn những người ấy mà đi.” 23 Nhưng ông Ða-vít
nói: "Thưa anh em, đừng làm như thế với những thứ Ðức Chúa đã ban cho
chúng ta. Người đã gìn giữ chúng ta và trao vào tay chúng ta bọn cướp đến tấn
công chúng ta. 24 Ai có thể nghe anh em trong việc này? Vì
Phần
của người xuống giao chiến thế nào,
phần
của người ở lại giữ đồ đạc cũng vậy:
họ
sẽ cùng nhau chia phần."
25
Từ
ngày đó về sau, ông đặt điều ấy thành luật lệ và quy định cho Ít-ra-en cho đến
ngày nay.
26
Khi
ông Ða-vít đến Xích-lắc, ông gửi những phần chiến lợi phẩm cho các kỳ mục
Giu-đa, đồng bào của ông, mà nói: "Ðây là quà tặng anh em, lấy từ chiến
lợi phẩm cướp được của các kẻ thù Ðức Chúa.” 27 Ông gửi cho: những
người ở Bết Ên, những người ở Ra-mốt Ne-ghép, những người ở Giát-tia, 28 những
người ở A-rô-e, những người ở Xíp-mốt, những người ở Ét-tơ-mô-a, 29 những
người ở Các-men, những người ở các thành người Giơ-rác-mơ-ên, những người ở các
thành người Kê-ni, 30 những người ở Khoóc-ma, những người ở Bô
A-san, những người ở A-tác, 31 những người ở Khép-rôn, và tất cả
những nơi ông Ða-vít và người của ông đã thường qua lại.
Chương 31
Trận
Ghin-bô-a. Vua Sa-un tử trận. (1 Sb 10:1-12)
1
Người
Phi-li-tinh giao chiến với Ít-ra-en. Người Ít-ra-en chạy trốn trước mặt người
Phi-li-tinh và bị tử thương ngã gục trên núi Ghin-bô-a. 2 Người
Phi-li-tinh bám sát vua Sa-un cùng các con trai vua, và chúng giết ông
Giô-na-than, ông A-vi-na-đáp và ông Man-ki Su-a, các con vua Sa-un. 3 Áp
lực của mặt trận dồn về phía vua Sa-un. Lính bắn cung nhận ra vua. Vua rất run
sợ khi thấy lính bắn cung. 4 Vua Sa-un bảo người hầu cận: "Rút
gươm ra và đâm ta đi, kẻo bọn không cắt bì ấy đến đâm ta và ngạo ta."
Nhưng người hầu cận không dám vì quá sợ. Vua Sa-un mới lấy gươm ra và lao vào
mũi gươm. 5 Người hầu cận thấy vua đã chết cũng lao mình vào mũi
gươm của anh ta và chết theo vua. 6 Thế là vua Sa-un, với ba con
trai, người hầu cận và mọi người của vua đều cùng chết ngày hôm đó. 7 Người
Ít-ra-en ở bên kia thung lũng và ở bên kia sông Gio-đan, thấy người Ít-ra-en
chạy trốn và vua Sa-un cùng các con vua đã chết, thì bỏ các thành của họ mà
chạy trốn. Người Phi-li-tinh đến và chiếm cứ các thành ấy.
8
Ngày
hôm sau, người Phi-li-tinh đến lột các xác chết, thì tìm thấy vua Sa-un và ba
người con trai nằm trên núi Ghin-bô-a. 9 Chúng chặt đầu vua và tước
võ khí của vua. Rồi chúng sai người rảo quanh khắp xứ Phi-li-tinh, để báo tin
mừng cho đền thần của chúng và cho dân. 10 Chúng đặt võ khí của vua
Sa-un trong đền các thần Át-tô-rét, còn thi hài vua thì chúng bêu ở tường thành
Bết San.
11
Khi
dân thành Gia-vết miền Ga-la-át nghe biết cách người Phi-li-tinh đã đối xử với
vua Sa-un, 12 thì tất cả các người can đảm đã lên đường, đi suốt
đêm, lấy thi hài vua và thi hài các con vua khỏi tường thành Bết San, rồi trở
về Gia-vết và thiêu tại đó.13 Họ lấy hài cốt và chôn dưới cây liễu bách ở Gia-vết,
rồi ăn chay bảy ngày.
Sa-mu-en 2
Chương 01
Ông
Ða-vít nghe tin vua Sa-un chết
1
Sau
khi vua Sa-un chết, ông Ða-vít đánh thắng người A-ma-lếch trở về, và ở lại
Xích-lắc hai ngày. 2 Sang ngày thứ ba, có một người từ trại, từ bên
vua Sa-un đến, áo quần xé rách, đầu thì rắc đất. Khi đến gần ông Ða-vít, anh ta
sấp mình xuống đất và sụp lạy. 3 Ông Ða-vít hỏi anh: "Anh từ
đâu đến?" Anh trả lời ông: "Tôi đã chạy thoát từ trại Ít-ra-en.” 4
Ông Ða-vít nói với anh: "Chuyện gì đã xảy ra? Kể lại cho tôi
đi!" Anh nói: "Dân đã bỏ chiến trường mà chạy trốn; nhiều người trong
dân tử trận, cả vua Sa-un và con vua là ông Giô-na-than cũng đã chết."
5
Ông
hỏi người thanh niên đưa tin cho ông: "Làm sao anh biết được vua Sa-un và
con vua là ông Giô-na-than đã chết?” 6 Người thanh niên đưa tin cho
ông trả lời: "Tình cờ tôi ở trên núi Ghin-bô-a và thấy vua Sa-un đang tựa
vào cây giáo của vua, có chiến xa và kỵ binh bám sát vua. 7 Vua quay
lại, thấy tôi và gọi tôi. Tôi thưa: "Dạ, tôi đây!” 8 Vua hỏi
tôi: "Ngươi là ai?" Tôi thưa: "Tôi là người A-ma-lếch.” 9 Vua
bảo tôi: "Ngươi hãy đứng bên ta và kết liễu đời ta, vì ta bị choáng váng,
mặc dầu sinh lực vẫn còn nguyên vẹn nơi ta.” 10 Vậy tôi đứng bên vua
và kết liễu đời vua, vì biết rằng vua sẽ không sống được sau khi thất trận. Tôi
đã lấy huy hiệu trên đầu vua và cái vòng trên cánh tay vua và đem lại đây cho
chúa thượng."
11
Ông
Ða-vít nắm lấy áo mình mà xé ra, tất cả những người ở với ông cũng vậy. 12
Họ cử hành tang lễ, khóc lóc và ăn chay cho đến chiều để tỏ lòng thương
tiếc vua Sa-un và ông Giô-na-than, con vua, thương tiếc dân Ðức Chúa và nhà
Ít-ra-en, vì những người này đã ngã gục dưới lưỡi gươm.
13
Ông
Ða-vít hỏi người thanh niên báo tin cho ông: "Ngươi quê ở đâu?" Anh
đáp: "Tôi là con một người ngoại kiều A-ma-lếch.” 14 Ông Ða-vít
nói với anh: "Ngươi không sợ sao mà dám tra tay sát hại người Ðức Chúa đã
xức dầu tấn phong?” 15 Ông Ða-vít gọi một trong các đầy tớ và nói:
"Lại gần mà giết nó đi." Người này đâm anh ta và anh ta chết. 16
Ông Ða-vít bảo anh ta: "Máu ngươi đổ xuống đầu ngươi, vì chính miệng
ngươi đã cáo tội ngươi, khi ngươi nói: "Chính tôi đã kết liễu cuộc đời của
người Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong"."
Ông
Ða-vít làm văn tế khóc vua Sa-un và ông Giô-na-than
17
Bấy
giờ ông Ða-vít đọc bài văn tế này khóc vua Sa-un và ông Giô-na-than, con vua. 18
Ông nói: Ðể dạy cho con cái Giu-đa. Bài Cây Cung, được ghi chép trong
sách Người Công Chính.
19
"Hỡi
Ít-ra-en, trên các đồi của ngươi,
những
người con ưu tú đã bỏ mình.
Than
ôi! Anh hùng nay ngã gục!
20
Các
người đừng báo tin cho thành Gát,
đừng
công bố trong các phố phường Át-cơ-lôn,
kẻo
con gái người Phi-li-tinh vui mừng,
con
gái bọn không cắt bì hớn hở!
21
Hỡi
núi đồi Ghin-bô-a,
ước
gì trên các ngươi chẳng còn mưa rơi sương đọng,
chẳng
còn những cánh đồng phì nhiêu,
vì
tại đó khiên thuẫn các anh hùng đã bị vứt bỏ!
Khiên
thuẫn của Sa-un không được bôi dầu,
22
nhưng
vấy máu những người bị đâm,
dính
mỡ các anh hùng;
cây
cung của Giô-na-than không lùi lại,
thanh
gươm của Sa-un không trở về vô hiệu quả.
23
Sa-un
và Giô-na-than,
ôi
những con người dễ thương, dễ mến,
sống
chẳng xa nhau, chết cũng chẳng rời,
nhanh
hơn chim bằng, mạnh hơn sư tử!
24
Thiếu
nữ Ít-ra-en hỡi, hãy khóc Sa-un,
người
đã mặc cho các cô vải điều lộng lẫy,
đính
trên áo các cô đồ trang sức bằng vàng.
25
Than
ôi! Các anh hùng đã ngã gục giữa lúc giao tranh!
Trên
các đồi của ngươi, Giô-na-than đã bỏ mình!
26
Giô-na-than,
anh hỡi, lòng tôi se lại vì anh!
Tôi
thương anh biết mấy!
Tình
anh đối với tôi thật diệu kỳ hơn cả tình nhi nữ.
27
Than
ôi! Anh hùng nay ngã gục, võ khí đã tan tành! "
Chương 02
IV.
Vua Ða-Vít
1.
Vua Ða-Vít Trị Vì Giu-Ða
Ông
Ða-vít được xức dầu phong vương tại Khép-rôn
1
Sau
đó, ông Ða-vít thỉnh ý Ðức Chúa: "Con có nên đi lên một trong các thành
Giu-đa không?" Ðức Chúa phán với ông: "Cứ lên." Ông Ða-vít nói:
"Con phải lên đâu?" Người phán: "Lên Khép-rôn.” 2 Ông
Ða-vít lên đó, cùng với hai bà vợ, là bà A-khi-nô-am người Gít-rơ-en, và bà
A-vi-ga-gin, vợ ông Na-van người Các-men. 3 Còn những người đi theo
ông, ông Ða-vít cũng đưa họ lên, mỗi người cùng với gia đình mình, và họ ở các
thành vùng Khép-rôn. 4 Người Giu-đa kéo đến, và tại đó, họ xức dầu
tấn phong ông Ða-vít làm vua nhà Giu-đa.
Vua
Ða-vít sai sứ giả đi Gia-vết
5
Vua
Ða-vít sai sứ giả đến với người Gia-vết miền Ga-la-át và nói với họ: "Xin
Ðức Chúa chúc phúc cho anh em, vì anh em đã làm việc nghĩa ấy với chúa thượng
của anh em là vua Sa-un, và đã chôn cất vua. 6 Giờ đây, xin Ðức Chúa
lấy tình thương và lòng thành tín mà đối xử với anh em. Cả tôi nữa, tôi cũng sẽ
lấy lòng tốt như vậy mà đối xử với anh em, vì anh em đã làm điều ấy. 7 Giờ
đây, anh em hãy mạnh bạo lên, hãy tỏ ra là những người can đảm, vì chúa thượng
của anh em là vua Sa-un đã chết. Còn tôi thì nhà Giu-đa đã xức dầu tấn phong
làm vua của họ.
Ông
Áp-ne tôn ông Ít-bô-sét làm vua Ít-ra-en
8
Ông
Áp-ne là con ông Ne và là tướng chỉ huy quân đội vua Sa-un, đã rước ông
Ít-bô-sét, con vua Sa-un, đưa sang Ma-kha-na-gim, 9 và tôn làm vua
miền Ga-la-át, dân A-su-ri, miền Gít-rơ-en, Ép-ra-im, Ben-gia-min và toàn thể
Ít-ra-en. 10 Ông Ít-bô-sét, con vua Sa-un, được bốn mươi tuổi khi
lên làm vua Ít-ra-en, và trị vì hai năm. Chỉ có nhà Giu-đa theo vua Ða-vít. 11
Thời gian vua Ða-vít làm vua tại Khép-rôn, cai trị nhà Giu-đa, là bảy năm
sáu tháng.
Giu-đa
và Ít-ra-en giao chiến. Trận Ghíp-ôn.
12
Ông
Áp-ne, con ông Ne, cùng bề tôi vua Ít-bô-sét, con vua Sa-un, ra quân từ
Ma-kha-na-gim, tiến về phía Ghíp-ôn. 13 Ông Giô-áp, con bà
Xơ-ru-gia, cùng bề tôi vua Ða-vít, ra quân từ Khép-rôn và gặp họ gần hồ
Ghíp-ôn. Một phe đóng ở bên này hồ, một phe đóng ở bên kia.
14
Ông
Áp-ne nói với ông Giô-áp: "Các trai tráng hãy đứng dậy và đấu trước mặt
chúng ta!" Ông Giô-áp nói: "Họ hãy đứng dậy!” 15 Họ đứng
lên và đi qua cho người ta đếm: mười hai người Ben-gia-min thuộc phía vua
Ít-bô-sét, con vua Sa-un, mười hai người trong số bề tôi vua Ða-vít. 16 Mỗi
người túm lấy đầu đối thủ của mình và lấy gươm đâm vào sườn đối thủ, khiến họ
đều cùng ngã gục. Người ta gọi nơi ấy là Thửa Ðất Ðá Tảng; thửa đất ấy ở
Ghíp-ôn.
17
Ngày
hôm ấy, cuộc giao tranh diễn ra rất ác liệt. Ông Áp-ne và người Ít-ra-en bị bề
tôi vua Ða-vít đánh bại. 18 Ở đó có ba con trai bà Xơ-ru-gia là ông
Giô-áp, ông A-vi-sai và ông A-xa-hên. Ông A-xa-hên có đôi chân lanh lẹ như sơn
dương ngoài đồng. 19 Ông A-xa-hên đuổi theo ông Áp-ne, chạy sau ông
ấy, không trệch bên phải bên trái. 20 Ông Áp-ne ngoái lại và hỏi:
"Có phải mày đó không, A-xa-hên?" Ông này trả lời: "Tao đây.” 21
Ông Áp-ne bảo ông ấy: "Mày hãy đi trệch sang bên phải hay bên trái,
túm lấy một đứa trong các đầy tớ kia và lột lấy áo của nó." Nhưng ông
A-xa-hên không chịu ngưng đuổi theo ông ấy. 22 Ông Áp-ne lại bảo ông
A-xa-hên lần nữa rằng: "Mày hãy ngưng đuổi theo tao. Mày muốn tao quật mày
xuống đất sao? Tao sẽ còn mặt mũi nào mà nhìn Giô-áp, anh mày được?” 23 Nhưng
ông A-xa-hên từ chối không chịu ngưng, nên ông Áp-ne lấy giáo đâm ngược vào
bụng ông ấy, và giáo xuyên qua lưng. Ông ngã xuống đó và chết ngay tại chỗ. Mọi
kẻ đến chỗ ông A-xa-hên ngã xuống chết, thì dừng lại.
24
Ông
Giô-áp và ông A-vi-sai đuổi theo ông Áp-ne. Khi mặt trời lặn, họ tới đồi Am-ma,
ở phía đông Ghi-ác, trên đường đi sa mạc Ghíp-ôn. 25 Con cái
Ben-gia-min tập hợp lại sau lưng ông Áp-ne, họ làm thành một khối và đóng trên
một đỉnh đồi. 26 Ông Áp-ne gọi ông Giô-áp và nói: "Chẳng lẽ cứ
để gươm chém giết mãi sao? Ông không biết rằng rốt cuộc chỉ là cay với đắng ư?
Ðến bao giờ ông mới bảo quân binh thôi không đuổi theo anh em của họ nữa?” 27
Ông Giô-áp nói: "Có Thiên Chúa hằng sống! Ông mà không nói, thì mãi
đến sáng quân binh mới thôi không đuổi theo anh em của họ.” 28 Ông
Giô-áp cho thổi tù và, tất cả quân binh dừng lại, không đuổi theo Ít-ra-en nữa,
và họ không còn tiếp tục giao chiến.
29
Ông
Áp-ne và người của ông đi trong vùng A-ra-va suốt đêm ấy, họ sang sông Gio-đan,
đi xuyên qua cả vùng Bít-rôn và tới Ma-kha-na-gim. 30 Ông Giô-áp
thôi không đuổi theo ông Áp-ne; ông tập hợp toàn thể quân binh lại; trong số bề
tôi vua Ða-vít thiếu mười chín người và ông A-xa-hên. 31 Bề tôi vua
Ða-vít đã hạ được ba trăm sáu mươi người trong số người Ben-gia-min và người
của ông Áp-ne, và những người này đã chết. 32 Người ta mang ông
A-xa-hên đi và chôn cất ông trong mộ của cha ông, tại Bê-lem. Ông Giô-áp và
người của ông đi suốt đêm, và khi trời sáng thì đến Khép-rôn.
Chương 03
1
Chiến
tranh kéo dài giữa nhà Sa-un và nhà Ða-vít. Vua Ða-vít ngày càng mạnh thêm, còn
nhà Sa-un thì ngày càng yếu đi.
Các
con vua Ða-vít sinh ra tại Khép-rôn (1 Sb 3:1-3)
2
Tại
Khép-rôn, vua Ða-vít đã sinh được những người con trai: con đầu lòng là Am-nôn,
do bà A-khi-nô-am người Gít-rơ-en; 3 người thứ hai là Ki-láp, do bà
A-vi-ga-gin, vợ ông Na-van người Các-men; người thứ ba là Áp-sa-lôm, do bà
Ma-a-kha, ái nữ của Tan-mai, vua Gơ-sua; 4 người thứ tư là
A-đô-ni-gia, do bà Khác-ghít; người thứ năm là Sơ-phát-gia, do bà A-vi-tan; 5
người thứ sáu là Gít-rơ-am, do bà Éc-la, vợ vua Ða-vít. Ðó là những người
con trai vua Ða-vít đã sinh được tại Khép-rôn.
Ông
Áp-ne đoạn giao với vua Ít-bô-sét
6
Trong
khi có chiến tranh giữa nhà Sa-un và nhà Ða-vít, ông Áp-ne củng cố địa vị trong
nhà Sa-un. 7 Vua Sa-un trước kia có người tỳ thiếp tên là Rít-pa,
con gái ông Ai-gia. Vua Ít-bô-sét nói với ông Áp-ne: "Tại sao ông đi lại
với tỳ thiếp của cha tôi?” 8 Ông Áp-ne giận lắm vì những lời vua
Ít-bô-sét và nói: "Tôi là đầu chó của Giu-đa sao? Hôm nay tôi lấy tình
nghĩa mà đối xử với nhà của vua Sa-un, cha ngài, với anh em của người và với
các bạn của người; tôi đã không để ngài rơi vào tay Ða-vít. Thế mà hôm nay ngài
lại bắt lỗi tôi về chuyện một người đàn bà! 9 Xin Thiên Chúa phạt Áp-ne thế này
và còn thêm thế kia nữa, nếu tôi không làm cho Ða-vít điều Ðức Chúa đã thề với
ông ấy, 10 là cất vương quyền khỏi nhà Sa-un và thiết lập ngai vàng
của Ða-vít trên Ít-ra-en và trên Giu-đa, từ Ðan đến Bơ-e Se-va!” 11 Vua
Ít-bô-sét không thể đáp lại ông Áp-ne một lời, vì vua sợ ông.
Ông
Áp-ne điều đình với vua Ða-vít
12
Ông
Áp-ne sai sứ giả thay mặt mình đến nói với vua Ða-vít: "Ðất này thuộc về
ai?" Ông nói: "Ngài hãy lập giao ước với tôi, tôi sẽ giúp ngài một
tay để làm cho toàn thể Ít-ra-en quay về với ngài.” 13 Vua đáp:
"Tốt. Tôi sẽ lập giao ước với ông. Tôi chỉ xin ông một điều: ông sẽ không
được ra mắt tôi, nếu ông không đem đến cho tôi bà Mi-khan, con gái vua Sa-un,
khi ông đến ra mắt tôi.” 14 Vua Ða-vít sai sứ giả đến nói với vua
Ít-bô-sét, con vua Sa-un: "Hãy trả lại tôi vợ tôi là Mi-khan, người tôi đã
nộp một trăm bao qui đầu người Phi-li-tinh để cưới.” 15 Vua
Ít-bô-sét sai người đến nhà chồng bà là ông Pan-ti-ên, con ông La-gít, để đem
bà về. 16 Chồng bà đi với bà; ông vừa đi theo vừa khóc, cho đến
Ba-khu-rim. Ông Áp-ne bảo ông ấy: "Thôi, về đi!" Ông ấy trở về.
17
Ông
Áp-ne ngỏ lời với các kỳ mục Ít-ra-en: "Ðã từ lâu, anh em ao ước được ông
Ða-vít làm vua. 18 Vậy bây giờ anh em hãy hành động, vì Ðức Chúa đã
phán về ông Ða-vít rằng: "Chính nhờ tay Ða-vít, tôi tớ Ta, mà Ta sẽ cứu
Ít-ra-en, dân Ta, khỏi tay người Phi-li-tinh và khỏi tay mọi kẻ thù của
nó".” 19 Ông Áp-ne cũng đã nói cho người Ben-gia-min nghe. Rồi
ông Áp-ne đi Khép-rôn nói cho vua Ða-vít nghe tất cả những gì Ít-ra-en và toàn
thể nhà Ben-gia-min coi là tốt.
20
Ông
Áp-ne đến với vua Ða-vít tại Khép-rôn, có hai mươi người cùng đi với ông. Vua
Ða-vít làm tiệc đãi ông Áp-ne và những người cùng đi với ông. 21 Ông
Áp-ne nói với ông Ða-vít: "Tôi sẽ lên đường đi tập hợp toàn thể Ít-ra-en
về cho đức vua là chúa thượng tôi. Họ sẽ lập giao ước với ngài và ngài sẽ làm
vua cai trị mọi nơi lòng ngài ao ước." Vua Ða-vít cho ông Áp-ne về, và ông
ra đi bình an.
Ông
Áp-ne bị giết
22
Trong
khi đó, các bề tôi vua Ða-vít cùng với ông Giô-áp đi hành quân trở về, đem theo
chiến lợi phẩm rất lớn. Ông Áp-ne không còn ở với vua Ða-vít tại Khép-rôn, vì
vua đã cho ông về, và ông đã ra đi bình an. 23 Khi ông Giô-áp và
toàn thể quân đội cùng đi với ông trở về, người ta báo tin cho ông Giô-áp rằng:
"Ông Áp-ne, con ông Ne, đã đến gặp nhà vua. Nhà vua đã cho ông ấy về, và
ông đã ra đi bình an.” 24 Ông Giô-áp đến gặp vua và nói: "Ngài
đã làm gì thế? Kìa, Áp-ne đã đến gặp ngài. Tại sao ngài cho nó về và nó đã ra
đi như vậy? 25 Ngài thừa biết Áp-ne, con ông Ne: nó đến chính là để lừa dối
ngài, để biết đường đi nước bước của ngài, và để biết tất cả những gì ngài
làm!"
26
Ở
nhà vua Ða-vít ra, ông Giô-áp sai người chạy theo ông Áp-ne. Tới bể nước Xi-ra,
họ mời ông trở lại, nhưng vua Ða-vít không biết gì. 27 Khi ông Áp-ne
về đến Khép-rôn, ông Giô-áp kéo riêng ông vào phía trong cửa thành, như để nói
chuyện thân mật với ông. Tại đó ông Giô-áp đâm vào bụng ông ấy, và ông ấy đã
chết để trả nợ máu ông A-xa-hên, em ông Giô-áp. 28 Sau đó, vua
Ða-vít nghe biết sự việc thì nói: "Ta và vương quốc của ta mãi mãi vô can
trước mặt Ðức Chúa về máu ông Áp-ne, con ông Ne. 29 Ước gì máu đó đổ
xuống đầu Giô-áp và xuống toàn thể nhà cha nó! Ước gì trong nhà Giô-áp không
bao giờ hết người mắc bệnh lậu hay phong hủi, người chỉ biết cầm con suốt,
người ngã gục dưới lưỡi gươm hay người thiếu bánh ăn!” 30 Ông Giô-áp
và ông A-vi-sai, anh ông, đã giết ông Áp-ne, bởi vì ông này đã giết ông
A-xa-hên, em của họ, trong trận Ghíp-ôn. 31 Vua Ða-vít nói với ông
Giô-áp và toàn thể quân binh theo ông: "Hãy xé áo mình ra, quấn áo vải thô
và cử hành tang lễ cho ông Áp-ne." Vua Ða-vít theo sau đòn cáng. 32 Người
ta chôn cất ông Áp-ne tại Khép-rôn. Vua oà lên khóc bên mộ ông Áp-ne, và toàn
dân cũng khóc.
33
Vua
làm bài văn tế khóc ông Áp-ne; vua nói:
"Há
Áp-ne lại phải chết cái chết của một thằng ngu?
34
Hỡi
ông, tay ông không bị trói,
chân
ông chẳng bị xiềng.
Như
người ta ngã gục
trước
những quân gian ác,
ông
đã phải ngã gục!"
Toàn
dân lại khóc ông.
35
Toàn
dân đến ép vua Ða-vít ăn đôi chút khi còn ban ngày. Nhưng vua Ða-vít thề rằng:
"Xin Thiên Chúa phạt tôi thế này và còn thêm thế kia nữa, nếu tôi nếm bánh
hay bất cứ cái gì trước khi mặt trời lặn!” 36 Toàn dân ghi nhận điều
đó và tán thành, như toàn dân vẫn tán thành mọi điều vua làm. 37 Hôm
ấy, toàn dân và toàn thể Ít-ra-en biết rằng không phải do lệnh vua mà ông
Áp-ne, con ông Ne, đã bị giết. 38 Vua nói với triều thần: "Các
ngươi không biết rằng, hôm nay, một vị tướng, một vĩ nhân đã ngã gục tại
Ít-ra-en sao? 39 Phần ta, hôm nay, ta còn yếu thế, tuy đã được xức dầu phong
vương, nhưng những người này là các con bà Xơ-ru-gia, thì cứng cỏi hơn ta. Xin
Ðức Chúa đáp trả kẻ làm điều ác, xứng với lòng độc ác của nó! "
Chương 04
Vua
Ít-bô-sét bị giết
1
Khi
người con vua Sa-un nghe tin ông Áp-ne đã chết tại Khép-rôn, thì tay chân rụng
rời; toàn thể Ít-ra-en cũng kinh hoàng. 2 Người con vua Sa-un có hai
tướng cướp, một thằng tên là Ba-a-na, một thằng tên là Rê-kháp. Chúng là con
ông Rim-môn người thành Bơ-ê-rốt, và thuộc chi tộc Ben-gia-min, vì cả Bơ-ê-rốt
cũng được kể như thuộc Ben-gia-min. 3 Người Bơ-ê-rốt đã trốn đến
Ghít-ta-gim và là ngoại kiều ở đó cho đến ngày nay. 4 Ông
Giô-na-than, con vua Sa-un, có một con trai bại hai chân. Nó được năm tuổi khi
người ta từ Gít-rơ-en đến báo tin về vua Sa-un và ông Giô-na-than. Vú nuôi mang
nó đi trốn, nhưng trong lúc chị hoảng hốt chạy trốn, nó ngã và bị què. Nó tên
là Mơ-phi-bô-sét.
5
Các
con ông Rim-môn người Bơ-ê-rốt, là Rê-kháp và Ba-a-na, đã lên đường và đã đến
nhà vua Ít-bô-sét vào lúc nóng nực nhất trong ngày. Vua đang nằm ngủ trưa. 6
Chúng vào tận trong nhà, như để xúc lúa mì, đâm vào bụng vua, rồi Rê-kháp
và Ba-a-na, anh nó, trốn thoát. 7 Khi chúng vào nhà thì vua đang nằm
trên giường tại phòng ngủ, chúng đâm chết vua rồi chặt đầu. Rồi chúng mang đầu
vua và đi theo đường A-ra-va suốt đêm. 8 Chúng đem đầu vua Ít-bô-sét
đến cho vua Ða-vít tại Khép-rôn và nói với vua: "Ðây là đầu của Ít-bô-sét,
con vua Sa-un, kẻ thù của ngài, người đã tìm hại mạng sống ngài. Hôm nay Ðức
Chúa đã cho đức vua là chúa thượng tôi trả thù vua Sa-un và dòng dõi vua
ấy."
9
Vua
Ða-vít trả lời Rê-kháp và Ba-a-na, anh nó, là những người con ông Rim-môn người
Bơ-ê-rốt; vua nói: "Có Ðức Chúa hằng sống, Ðấng đã giải thoát ta khỏi mọi
cảnh ngặt nghèo! 10 Kẻ đưa tin cho ta rằng vua Sa-un đã chết, và coi mình là
người đưa tin mừng, thì ta đã túm lấy và giết đi ở Xích-lắc, để thưởng công nó
đã đem tin mừng. 11 Phương chi khi những kẻ ác ôn đã giết một người
công chính trong nhà người ấy, trên giường người ấy! Há bây giờ ta lại không
hỏi tội các ngươi về máu tay các ngươi đã đổ ra, và không khử trừ các ngươi
khỏi mặt đất sao?” 12 Vua Ða-vít ra lệnh cho đầy tớ. Họ giết chúng,
chặt tay chặt chân, rồi treo gần hồ Khép-rôn. Còn đầu vua Ít-bô-sét thì họ đem
đi và chôn trong mộ ông Áp-ne tại Khép-rôn.
Chương 05
2.
Vua Ða-Vít Trị Vì Giu-Ða Và Ít-Ra-En
Vua
Ða-vít được xức dầu tấn phong làm vua Ít-ra-en (1 Sb 11:1-3)
1
Toàn
thể các chi tộc Ít-ra-en đến gặp vua Ða-vít tại Khép-rôn và thưa: "Chúng
tôi đây là cốt nhục của ngài. 2 Ngay cả trước kia, khi ông Sa-un làm
vua cai trị chúng tôi, chính ngài đã chỉ huy các cuộc hành quân của Ít-ra-en.
Ðức Chúa đã phán với ngài: "Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta,
chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Ít-ra-en.” 3 Toàn thể kỳ mục
Ít-ra-en đến gặp vua tại Khép-rôn. Vua Ða-vít lập giao ước với họ tại Khép-rôn,
trước nhan Ðức Chúa. Rồi họ xức dầu tấn phong Ða-vít làm vua Ít-ra-en.
4
Vua
Ða-vít được ba mươi tuổi khi lên làm vua, và trị vì bốn mươi năm. 5 Tại
Khép-rôn, vua trị vì Giu-đa bảy năm sáu tháng. Tại Giê-ru-sa-lem, vua trị vì
toàn thể Ít-ra-en và Giu-đa ba mươi ba năm.
Chiếm
Giê-ru-sa-lem (1 Sb 11:4-9)
6
Vua
và người của vua tiến về Giê-ru-sa-lem đánh người Giơ-vút là dân bản xứ. Chúng
nói với vua Ða-vít: "Ông sẽ không vào đây được, vì người mù người què sẽ
đẩy lui ông." Nghĩa là: "Ông Ða-vít sẽ không vào đây được.” 7 Vua
Ða-vít đã chiếm được đồn luỹ Xi-on, đó là Thành vua Ða-vít. 8 Ngày
hôm đó, vua Ða-vít nói: "Mọi kẻ muốn đánh người Giơ-vút, thì hãy qua đường
hầm mà tấn công người mù người què, những kẻ mà lòng vua Ða-vít ghét." Vì
thế có câu: "Người mù người què sẽ không được vào Ðền.” 9 Vua
Ða-vít đóng tại đồn luỹ và gọi đó là Thành vua Ða-vít. Rồi vua Ða-vít xây chung
quanh, từ nền Mi-lô vào phía trong. 10 Vua Ða-vít ngày càng mạnh
thế, và Ðức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, ở với vua.
11
Ông
Khi-ram, vua thành Tia, sai sứ giả đến với vua Ða-vít, đem theo gỗ bá hương,
thợ mộc, thợ đẽo đá xây, và họ đã xây nhà cho vua Ða-vít. 12 Vua
Ða-vít biết rằng Ðức Chúa đã đặt mình làm vua cai trị Ít-ra-en, và vì dân Người
là Ít-ra-en, Người đã làm cho vương quyền của vua được vinh hiển.
Các
con vua Ða-vít sinh ra tại Giê-ru-sa-lem (1 Sb 14:3-7)
13
Sau
khi từ Khép-rôn tới, vua Ða-vít lấy thêm tỳ thiếp và vợ ở Giê-ru-sa-lem, và vua
Ða-vít sinh thêm con trai con gái. 14 Ðây là tên những người vua
sinh được tại Giê-ru-sa-lem: Sam-mu-a, Sô-váp, Na-than, Sa-lô-môn, 15 Gíp-kha,
Ê-li-su-a, Ne-phéc, Gia-phia,16 Ê-li-sa-ma, En-gia-đa và Ê-li-phe-lét.
Chiến
thắng quân Phi-li-tinh (1 Sb 14:8-16)
17
Khi
quân Phi-li-tinh nghe biết là người ta đã xức dầu tấn phong vua Ða-vít làm vua
Ít-ra-en, thì toàn thể quân Phi-li-tinh lên tìm bắt vua Ða-vít. Vua Ða-vít nghe
tin liền xuống nơi ẩn náu. 18 Quân Phi-li-tinh đến và tràn vào thung
lũng người Ra-pha. 19 Vua Ða-vít thỉnh ý Ðức Chúa: "Con có nên
tiến đánh quân Phi-li-tinh không? Ngài có trao chúng vào tay con không?"
Ðức Chúa trả lời vua Ða-vít: "Cứ lên, vì chắc chắn ta sẽ trao quân
Phi-li-tinh vào tay ngươi.” 20 Vua Ða-vít đến Ba-an Pơ-ra-xim, và
vua Ða-vít đánh bại chúng ở đó. Vua nói: "Ðức Chúa đã chọc thủng quân thù
trước mặt tôi, như chỗ bị nước chọc thủng." Vì thế, người ta đặt tên cho
nơi ấy là Ba-an Pơ-ra-xim. 21 Chúng đã bỏ lại đó các tượng thần của
chúng, và vua Ða-vít và người của vua đã mang đi.
22
Một
lần nữa, quân Phi-li-tinh lại lên và tràn vào thung lũng người Ra-pha. 23 Vua
Ða-vít thỉnh ý Ðức Chúa; Người phán: "Ðừng lên, nhưng hãy đi vòng, đánh
tập hậu, và tấn công chúng từ phía lùm cây sếu. 24 Khi nào ngươi
nghe tiếng chân bước trên ngọn các cây sếu, bấy giờ ngươi hãy mau mau tấn công,
vì bấy giờ Ðức Chúa sẽ ra trận trước mặt ngươi để đánh quân đội Phi-li-tinh.” 25
Vua Ða-vít làm như Ðức Chúa đã truyền cho vua, và vua đã đánh bại người
Phi-li-tinh từ Ghe-va cho đến lối vào Ghe-de.
Chương 06
Rước
Hòm Bia về Giê-ru-sa-lem (1 Sb 13:1-14; 15:25 -16:3.43)
1
Vua
Ða-vít lại quy tụ toàn thể tinh binh Ít-ra-en: ba mươi ngàn người. 2 Từ
Ba-a-lê Giu-đa, vua Ða-vít lên đường và cùng đi với toàn dân đang ở với vua, để
đưa Hòm Bia Thiên Chúa từ đó lên, Hòm Bia mang danh Ðức Chúa các đạo binh, Ðấng
ngự trên các thần hộ giá. 3 Người ta đặt Hòm Bia Thiên Chúa lên một
cỗ xe mới và mang đi từ nhà ông A-vi-na-đáp ở trên đồi. Các con ông A-vi-na-đáp
là Út-da và Ác-giô điều khiển cỗ xe mới. 4 Họ đưa xe đi từ nhà ông
A-vi-na-đáp ở trên đồi, trên xe có Hòm Bia Thiên Chúa, còn ông Ác-giô đi trước
Hòm Bia. 5 Vua Ða-vít và toàn thể nhà Ít-ra-en vui đùa trước nhan
Ðức Chúa, với mọi thứ nhạc cụ bằng gỗ trắc bá, với đàn cầm đàn sắt, trống con,
chũm choẹ, thanh la.
6
Khi
đoàn người tới sân lúa Na-khôn, thì ông Út-da giơ tay ra về phía Hòm Bia Thiên
Chúa và giữ lại, vì bò trượt chân. 7 Ðức Chúa nổi cơn thịnh nộ với
ông Út-da, và Thiên Chúa đánh phạt ông tại chỗ vì lầm lỗi đó. Ông chết tại đó,
bên Hòm Bia Thiên Chúa. 8 Vua Ða-vít buồn bực vì Ðức Chúa đã đột phá
hại ông Út-da. Người ta gọi nơi ấy là Pe-rét Út-da cho đến ngày nay.
9
Ngày
hôm đó, vua Ða-vít sợ Ðức Chúa, ông nói: "Hòm Bia Ðức Chúa đến với tôi thế
nào được?” 10 Vua Ða-vít không muốn đưa Hòm Bia Ðức Chúa về với mình
trong Thành vua Ða-vít, nên cho chuyển hướng sang nhà ông Ô-vết Ê-đôm, người
thành Gát. 11 Hòm Bia Ðức Chúa ở nhà ông Ô-vết Ê-đôm người thành Gát,
ba tháng, và Ðức Chúa giáng phúc cho ông Ô-vết Ê-đôm cùng cả nhà ông.
12
Người
ta báo tin cho vua Ða-vít rằng: "Vì Hòm Bia Thiên Chúa, Ðức Chúa đã giáng
phúc cho nhà ông Ô-vết Ê-đôm cùng tất cả những gì thuộc về ông." Vua
Ða-vít liền đi và rước Hòm Bia Thiên Chúa từ nhà ông Ô-vết Ê-đôm lên Thành vua
Ða-vít, trong niềm hân hoan. 13 Khi những người khiêng Hòm Bia của
Ðức Chúa đi được sáu bước, thì vua sát tế một con bò và một con bê béo. 14
Vua Ða-vít quấn ê-phốt vải gai, nhảy múa hết sức mình trước nhan Ðức Chúa.
15 Vua Ða-vít và toàn thể nhà Ít-ra-en rước Hòm Bia Ðức Chúa lên
giữa tiếng hò reo với tiếng tù và. 16 Khi Hòm Bia Ðức Chúa vào Thành
vua Ða-vít, bà Mi-khan, con gái vua Sa-un, từ cửa sổ nhìn xuống thấy vua Ða-vít
nhảy múa quay cuồng trước nhan Ðức Chúa, thì sinh lòng khinh dể. 17 Người
ta đưa Hòm Bia Ðức Chúa đặt vào chỗ đã dọn giữa lều vua Ða-vít đã dựng sẵn. Vua
Ða-vít dâng lên trước nhan Ðức Chúa những lễ toàn thiêu và những lễ kỳ an. 18
Khi đã hoàn tất việc dâng các lễ toàn thiêu và lễ kỳ an, vua Ða-vít nhân
danh Ðức Chúa các đạo binh chúc phúc cho dân. 19 Rồi vua phân phát
cho toàn dân, cho tất cả đám đông Ít-ra-en, đàn ông cũng như đàn bà, mỗi người
một cái bánh ngọt, một phần thịt và một cái bánh nho. Rồi toàn dân ai nấy về
nhà mình.
20
Khi
vua Ða-vít trở về để chúc phúc cho nhà mình, bà Mi-khan, con gái vua Sa-un, ra
đón vua và nói: "Vua Ít-ra-en hôm nay thật là danh giá, khi để hở hang
trước mắt các nữ tỳ của tôi tớ mình, như một đứa vô danh tiểu tốt để hở hang!” 21
Vua Ða-vít nói với bà Mi-khan: "Trước nhan Ðức Chúa, Ðấng đã chọn
tôi thay vì thân phụ bà và cả nhà thân phụ bà, để đặt tôi làm người lãnh đạo
dân Ðức Chúa là Ít-ra-en, trước nhan Ðức Chúa tôi sẽ vui đùa. 22 Tôi
sẽ còn hạ mình hơn thế nữa, tôi sẽ coi mình là thấp hèn; nhưng đối với các nữ
tỳ mà bà nói, đối với chúng, tôi sẽ được danh giá.” 23 Và bà
Mi-khan, con gái vua Sa-un, không có con cho đến ngày chết.
Chương 07
Lời
sấm của ông Na-than (1 Sb 17:1-15)
1
Khi
vua được yên cửa yên nhà và Ðức Chúa đã cho vua được thảnh thơi mọi bề, không
còn thù địch nào nữa, 2 thì vua nói với ngôn sứ Na-than: "Ông
xem, tôi được ở nhà bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì ở trong lều
vải.” 3 Ông Na-than thưa với vua: "Tất cả những gì ngài ấp ủ
trong lòng, xin ngài cứ đi mà thực hiện, vì Ðức Chúa ở với ngài."
4
Nhưng
ngay đêm ấy, có lời Ðức Chúa phán với ông Na-than rằng:
5
"Hãy
đi nói với tôi tớ của Ta là Ða-vít: Ðức Chúa phán thế này: Ngươi mà xây nhà cho
Ta ở sao? 6 Thật vậy, từ ngày Ta đưa con cái Ít-ra-en lên từ Ai-cập cho tới
ngày hôm nay, Ta không hề ở trong một ngôi nhà, nhưng Ta đã nay đây mai đó
trong một cái lều và trong một nhà tạm. 7 Trong suốt thời gian rày
đây mai đó với toàn thể con cái Ít-ra-en, có bao giờ Ta đã lên tiếng hỏi một
trong các thủ lãnh Ít-ra-en mà Ta đã đặt lên chăn dắt dân Ta là Ít-ra-en:
"Sao các ngươi không xây cho Ta một ngôi nhà bằng gỗ bá hương? 8 Bây giờ
ngươi hãy nói với tôi tớ Ta là Ða-vít như sau: Ðức Chúa các đạo binh phán thế
này: Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người
lãnh đạo dân Ta là Ít-ra-en. 9 Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi;
mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất mắt ngươi. Ta sẽ làm cho tên tuổi
ngươi lẫy lừng, như tên tuổi những bậc vĩ nhân trên mặt đất. 10 Ta
sẽ cho dân Ta là Ít-ra-en một chỗ ở, Ta sẽ định cư chúng, và chúng sẽ ở luôn
tại đó, chúng sẽ không còn run sợ, và quân gian ác cũng không còn tiếp tục áp
bức chúng như thuở ban đầu, 11 kể từ thời Ta đặt các thủ lãnh cai
quản dân Ta là Ít-ra-en. Ta sẽ cho ngươi được thảnh thơi, không còn thù địch
nào nữa, Ðức Chúa báo cho ngươi biết là Ðức Chúa lập cho ngươi một nhà. 12
Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ
cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi -một người do chính ngươi sinh ra-, và
Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. 13 Chính nó sẽ xây
một nhà để tôn kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi.
14 Ðối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Khi nó phạm
lỗi, Ta sẽ sửa phạt nó bằng roi của người phàm, bằng đòn của con người. 15
Tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó, như Ta đã cho rời khỏi Sa-un, kẻ
Ta đã bắt rời khỏi mặt ngươi. 16 Nhà của ngươi và vương quyền của
ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi
mãi."
17
Ông
Na-than đã nói lại với vua Ða-vít, đúng y như tất cả những lời ấy và tất cả thị
kiến ấy.
Vua
Ða-vít cầu nguyện (1 Sb 17:16 -27)
18
Vua
Ða-vít vào ngồi chầu trước nhan Ðức Chúa và thưa: "Lạy Ðức Chúa là Chúa
Thượng, con là ai và nhà của con là gì, mà Ngài đã đưa con tới địa vị này? 19
Nhưng lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng, Ngài còn coi đó là quá ít; Ngài lại hứa cho
nhà của tôi tớ Ngài một tương lai lâu dài. Phải chăng đó là luật chung cho con
người, lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng? 20 Ða-vít còn nói được gì thêm với Ngài?
Ngài biết tôi tớ Ngài, lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng! 21 Vì lời Ngài đã phán và
theo như lòng Ngài muốn, Ngài đã thực hiện tất cả công trình vĩ đại này, để làm
cho tôi tớ Ngài được biết. 22 Vì thế, lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng,
Ngài thật vĩ đại: không ai sánh được như Ngài; và không có Thiên Chúa nào khác
ngoại trừ Ngài, theo như mọi điều tai chúng con đã từng được nghe. 23 Dưới
đất có một dân tộc nào được như dân Ngài là Ít-ra-en? Thiên Chúa đã đến cứu
chuộc dân này để làm thành dân của Ngài, đặt tên cho nó, thực hiện cho nó những
điều vĩ đại và khủng khiếp, hầu xua đuổi các dân tộc và các thần của chúng cho
khuất mắt dân mà Ngài đã cứu chuộc từ Ai-cập về cho mình. 24 Ngài đã
lập Ít-ra-en, dân Ngài, để nó thành dân Ngài mãi mãi; còn Ngài, lạy Ðức Chúa,
Ngài đã trở thành Thiên Chúa của chúng. 25 Giờ đây, lạy Ðức Chúa là
Thiên Chúa, lời Ngài đã phán về tôi tớ Ngài và nhà của nó, xin Ngài giữ mãi
mãi, và xin hành động như Ngài đã phán. 26 Danh Ngài sẽ vĩ đại mãi
mãi và người ta sẽ nói: "Ðức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa thống trị
Ít-ra-en. Nhà của tôi tớ Ngài là Ða-vít sẽ vững bền trước nhan Ngài. 27 Thật
vậy, lạy Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa của Ít-ra-en, chính Ngài đã mặc khải
cho tôi tớ Ngài rằng: Ta sẽ xây cho ngươi một nhà. Vì thế tôi tớ Ngài đủ can
đảm dâng lên Ngài lời cầu nguyện ấy. 28 Giờ đây, lạy Ðức Chúa là
Chúa Thượng, chính Ngài là Thiên Chúa, những lời Ngài phán là chân lý, và Ngài
đã hứa ban cho tôi tớ Ngài điều tốt đẹp ấy. 29 Vậy giờ đây, cúi xin
Ngài giáng phúc cho nhà của tôi tớ Ngài, để nhà ấy được tồn tại mãi trước nhan
Ngài. Bởi vì, lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài đã phán, và nhờ Ngài
giáng phúc mà nhà của tôi tớ Ngài sẽ được chúc lành mãi mãi."
Chương 08
Các
cuộc chiến tranh thời vua Ða-vít (1 Sb 18:1-13)
1
Sau
đó, vua Ða-vít đánh bại người Phi-li-tinh, hạ nhục chúng và đoạt quyền bá chủ
từ tay người Phi-li-tinh. 2 Vua đánh bại người Mô-áp, bắt chúng nằm
rạp xuống đất và lấy dây đo: vua đo hai dây để giết và đủ một dây để cho sống.
Người Mô-áp phải làm nô lệ cho vua Ða-vít và triều cống vua.
3
Vua
Ða-vít đánh bại vua nước Xô-va là Ha-đát-e-de, con ông Rơ-khốp, khi vua này đi
tái lập chủ quyền trên vùng Sông Cả. 4 Vua Ða-vít bắt được của vua
ấy một ngàn bảy trăm kỵ binh và hai mươi ngàn bộ binh; và vua Ða-vít đã cắt gân
chân tất cả những con ngựa kéo xe, chỉ chừa lại một trăm. 5 Người
A-ram ở Ða-mát đến cứu viện Ha-đát-e-de, vua Xô-va, nhưng vua Ða-vít đã hạ của
A-ram hai mươi ngàn người. 6 Vua Ða-vít đặt những trấn thủ cai trị
người A-ram ở Ða-mát; người A-ram phải làm nô lệ cho vua Ða-vít và triều cống
vua. Ðức Chúa đã cho vua Ða-vít đi đâu thắng đó. 7 Vua Ða-vít lấy
các khiên vàng mà tôi tớ vua Ha-đát-e-de mang, và đưa về Giê-ru-sa-lem. 8 Tại
Be-tác và Bê-rô-thai, các thành của vua Ha-đát-e-de, vua Ða-vít đã lấy được rất
nhiều đồng.
9
Tô-i,
vua Kha-mát, nghe tin vua Ða-vít đã đánh bại toàn thể quân đội vua Ha-đát-e-de.
10 Vua Tô-i sai con là Giô-ram đến với vua Ða-vít để vấn an và chúc
mừng vua vì đã chiến đấu với vua Ha-đát-e-de và đánh bại vua ấy, vì vua
Ha-đát-e-de là kẻ thù của vua Tô-i. Giô-ram mang theo những đồ bạc, đồ vàng và
đồ đồng. 11 Các đồ ấy, vua Ða-vít cũng đã thánh hiến cho Ðức Chúa,
cùng với bạc và vàng vua đã thánh hiến, bạc vàng của mọi dân tộc vua đã khuất
phục, 12 là: A-ram, Mô-áp, con cái Am-mon, người Phi-li-tinh và
A-ma-lếch, cũng như từ chiến lợi phẩm thu được của vua Xô-va là Ha-đát-e-de,
con ông Rơ-khốp.
13
Vua
Ða-vít làm cho danh mình lẫy lừng, lúc trở về sau khi đánh bại mười tám ngàn
người Ê-đôm trong thung lũng Muối. 14 Vua Ða-vít đặt các trấn thủ
tại Ê-đôm; vua đặt các trấn thủ trong toàn xứ Ê-đôm, và toàn dân Ê-đôm phải làm
nô lệ cho vua Ða-vít. Ðức Chúa đã cho vua Ða-vít đi đâu thắng đó.
Việc
cai trị vương quốc (1 Sb 18:14 -17)
15
Vua
Ða-vít trị vì toàn thể Ít-ra-en. Vua Ða-vít thực hiện điều chính trực công minh
cho toàn dân. 16 Ông Giô-áp, con bà Xơ-ru-gia, chỉ huy quân đội. Ông
Giơ-hô-sa-phát, con ông A-khi-lút, làm quốc vụ khanh. 17 Ông Xa-đốc,
con ông A-khi-túp, và ông A-khi-me-léc con ông Ép-gia-tha, làm tư tế. Ông
Xơ-ra-gia làm ký lục. 18 Ông Bơ-na-gia-hu, con ông Giơ-hô-gia-đa,
chỉ huy quân Cơ-rê-thi và quân Pơ-lê-thi. Các con trai vua Ða-vít làm tư tế.
Chương 09
3.
Gia Ðình Vua Ða-Vít. Việc Kế Thừa Ngôi Vua.
A.
Mơ-phi-bô-sét
Vua
Ða-vít xử tốt với con trai ông Giô-na-than
1
Vua
Ða-vít nói: "Nhà Sa-un có còn người nào sống sót không? Vì ông
Giô-na-than, ta sẽ lấy tình mà đối xử với người ấy.” 2 Nhà Sa-un có
một người tôi tớ tên là Xi-va. Người ta mời ông đến gặp vua Ða-vít. Vua hỏi
ông: "Ngươi là Xi-va phải không? " Ông thưa: "Chính tôi tớ ngài
đây.” 3 Vua bảo ông: "Nhà Sa-un không còn người nào nữa sao, để
ta lấy tình mà đối xử với người ấy như Thiên Chúa đòi hỏi?" Ông Xi-va trả
lời vua: "Vẫn còn một người con trai của ông Giô-na-than, bị bại hai chân.”
4 Vua hỏi ông: "Ông ấy ở đâu?" Ông Xi-va trả lời vua:
"Ông ấy đang ở nhà ông Ma-khia, con ông A-mi-ên, tại Lô Ðơ-va.” 5 Vua
Ða-vít sai người đi đón ông về từ nhà ông Ma-khia, con ông Am-mi-ên, tại Lô
Ðơ-va.
6
Khi
ông Mơ-phi-bô-sét, con ông Giô-na-than, cháu vua Sa-un, đến gặp vua Ða-vít, ông
cúi rạp xuống mà lạy. Vua Ða-vít gọi: "Mơ-phi-bô-sét!" Ông thưa:
"Dạ, tôi tớ ngài đây!” 7 Vua Ða-vít bảo ông: "Ðừng sợ! Vì
ông Giô-na-than, cha cháu, ta muốn lấy tình mà đối xử với cháu. Ta sẽ trả cho
cháu tất cả ruộng đất của vua Sa-un, ông của cháu. Phần cháu, cháu sẽ luôn luôn
dùng bữa tại bàn ăn của ta.” 8 Ông lạy và nói: "Tôi tớ ngài là
gì, mà ngài quay về phía một con chó chết như cháu?"
9
Vua
Ða-vít gọi ông Xi-va, đầy tớ vua Sa-un, và bảo ông: "Tất cả những gì thuộc
về vua Sa-un và thuộc về toàn thể nhà Sa-un, ta ban cho con trai của chủ ngươi.
10 Ngươi, con cái ngươi và tôi tớ ngươi sẽ cày cấy đất đai cho ông
ấy. Ngươi sẽ thu hoạch và cái đó sẽ là lương thực cho con của chủ ngươi ăn. Còn
ông Mơ-phi-bô-sét, con của chủ ngươi, ông sẽ luôn luôn dùng bữa tại bàn ăn của
ta." Ông Xi-va có mười lăm con trai và hai mươi tôi tớ. 11 Ông
Xi-va thưa vua: "Tất cả những gì đức vua là chúa thượng tôi truyền cho tôi
tớ ngài, tôi tớ ngài sẽ làm như thế." Vậy ông Mơ-phi-bô-sét ăn tại bàn của
vua, như một trong các hoàng tử. 12 Ông Mơ-phi-bô-sét có một con
trai nhỏ tên là Mi-kha. Mọi người ở trong nhà ông Xi-va đều là tôi tớ ông
Mơ-phi-bô-sét. 13 Nhưng ông Mơ-phi-bô-sét ở Giê-ru-sa-lem, vì ông
luôn luôn ăn tại bàn của vua. Ông bị què hai chân.
Chương 10
B.
Chiến tranh với Am-mon. Vua Sa-lô-môn sinh ra.
Người
Am-mon làm nhục sứ giả vua Ða-vít (1 Sb 19:1-5)
1
Sau
đó, vua của con cái Am-mon qua đời, và Kha-nun, con vua ấy, lên ngôi kế vị. 2
Vua Ða-vít nói: "Ta sẽ lấy tình mà đối xử với vua Kha-nun, con vua
Na-khát, như cha vua ấy đã lấy tình mà đối xử với ta. Vua Ða-vít sai bề tôi
chuyển lời chia buồn với vua ấy về vua cha. Nhưng khi bề tôi vua Ða-vít đến đất
con cái Am-mon, 3 thì các tướng lãnh của con cái Am-mon thưa với vua
Kha-nun, chúa thượng của chúng: "Ngài tưởng là Ða-vít kính trọng vua cha
khi sai người đến chia buồn với ngài sao? Chẳng phải Ða-vít đã sai bề tôi đến
với ngài là để quan sát thành, dò thám và lật đổ thành sao?” 4 Vua
Kha-nun liền bắt bề tôi vua Ða-vít, cạo một nửa râu và cắt một nửa áo của họ
cho đến mông, rồi thả về. 5 Người ta báo tin cho vua Ða-vít, vua sai
người đi đón họ, vì những người ấy nhục nhã lắm. Vua bảo: "Các ngươi cứ ở
lại Giê-ri-khô chờ cho râu mọc lại rồi hãy về."
Chiến
dịch thứ nhất đánh người Am-mon (1 Sb 19:6-15)
6
Con
cái Am-mon thấy rằng mình đã trở nên đáng ghét đối với vua Ða-vít. Con cái
Am-mon đã sai người đi thuê của dân A-ram ở Bết Rơ-khốp và dân A-ram ở Xô-va:
hai mươi ngàn bộ binh; của vua thành Ma-a-kha: một ngàn người; của dân thành
Tốp: mười hai ngàn người. 7 Vua Ða-vít nghe tin thì sai ông Giô-áp
đi với toàn thể đạo binh các dũng sĩ. 8 Con cái Am-mon tiến ra và
dàn trận ở lối vào cửa thành. Quân A-ram Xô-va, quân A-ram Rơ-khốp, quân Tốp và
quân Ma-a-kha thì đóng riêng ngoài đồng. 9 Ông Giô-áp thấy rằng mình
phải đối phó với mặt trận cả phía trước lẫn phía sau, nên đã chọn trong toàn
thể tinh binh của Ít-ra-en một số người và dàn trận đối diện với người A-ram. 10
Phần quân còn lại, ông giao cho ông A-vi-sai, anh ông, để dàn trận đối
diện với con cái Am-mon. 11 Ông nói: "Nếu người A-ram mạnh hơn
tôi, thì bác sẽ cứu viện tôi. Còn nếu con cái Am-mon mạnh hơn bác, thì tôi sẽ
đến cứu viện bác. 12 Can đảm lên, chúng ta hãy tỏ ra can đảm, vì dân
chúng ta và vì các thành của Thiên Chúa chúng ta! Xin Ðức Chúa thực hiện điều
Người coi là tốt!” 13 Ông Giô-áp và quân binh của ông tiến lên giao
chiến với quân A-ram, và chúng chạy trốn trước mặt họ. 14 Khi con
cái Am-mon thấy quân A-ram chạy trốn, thì chúng cũng chạy trốn trước mặt ông
A-vi-sai và rút về thành. Sau khi thắng con cái Am-mon, ông Giô-áp trở về Giê-ru-sa-lem.
Thắng
quân A-ram (1 Sb 19:16 -19)
15
Người
A-ram thấy mình bị Ít-ra-en đánh bại, thì họp lại với nhau. 16 Vua
Ha-đát-e-de sai người đi chiêu mộ người A-ram ở bên kia Sông Cả. Chúng đến
Khê-lam, có Sô-vác, tướng chỉ huy quân đội của vua Ha-đát-e-de, cầm đầu. 17
Người ta báo tin cho vua Ða-vít. Vua quy tụ toàn thể Ít-ra-en, vượt sông
Gio-đan và đến Khê-lam. Người A-ram dàn trận đối diện với vua Ða-vít và giao
chiến với vua. 18 Người A-ram chạy trốn trước mặt Ít-ra-en. Vua
Ða-vít tiêu diệt của người A-ram bảy trăm chiến xa và bốn mươi ngàn kỵ binh.
Còn Sô-vác, tướng chỉ huy quân đội, thì bị vua hạ và chết tại đó. 19 Tất
cả các vua chư hầu của vua Ha-đát-e-de thấy mình bị Ít-ra-en đánh bại, thì cầu
hoà với Ít-ra-en và làm tôi họ. Người A-ram sợ không dám cứu viện con cái
Am-mon nữa.
Chương 11
Chiến
dịch thứ hai đánh người Am-mon. Vua Ða-vít phạm tội.
1
Lúc
xuân về, thời mà các vua ra quân, vua Ða-vít sai ông Giô-áp đi, cùng với các bề
tôi của vua và toàn thể Ít-ra-en. Họ giết hại con cái Am-mon và vây hãm Ráp-ba.
Còn vua Ða-vít thì ở lại Giê-ru-sa-lem.
2
Vào
một buổi chiều, vua Ða-vít từ trên giường trỗi dậy và đi bách bộ trên sân
thượng đền vua. Từ sân thượng, vua thấy một người đàn bà đang tắm. Nàng nhan
sắc tuyệt vời. 3 Vua Ða-vít sai người đi điều tra về người đàn bà,
và người ta nói: "Ðó chính là bà Bát Se-va, con gái ông Ê-li-am, vợ ông
U-ri-gia người Khết.” 4 Vua Ða-vít sai lính biệt phái đến đón nàng.
Nàng đến với vua và vua nằm với nàng; khi ấy nàng mới thanh tẩy sau thời kỳ ô
uế. Rồi nàng trở về nhà. 5 Người đàn bà thụ thai. Nàng sai người đến
báo tin cho vua Ða-vít rằng: "Tôi có thai."
6
Vua
Ða-vít sai người đến nói với ông Giô-áp: "Hãy sai U-ri-gia, người Khết, về
gặp ta." Ông Giô-áp sai ông U-ri-gia về gặp vua Ða-vít. 7 Khi
ông U-ri-gia đến với vua, vua Ða-vít hỏi thăm về ông Giô-áp, về quân binh, về
chiến sự. 8 Rồi vua Ða-vít bảo ông U-ri-gia: "Hãy xuống nhà của
ngươi và rửa chân." Ông U-ri-gia ra khỏi đền vua, có người bưng ra một
phần thức ăn của nhà vua theo sau. 9 Nhưng ông U-ri-gia nằm ở cửa
đền vua với tất cả các bề tôi của chúa thượng ông, và ông không xuống nhà mình.
10
Người
ta báo tin cho vua Ða-vít rằng: "Ông U-ri-gia đã không xuống nhà
ông." Vua Ða-vít hỏi ông U-ri-gia: "Chẳng phải ngươi đi đường xa mới
về ư? Tại sao ngươi không xuống nhà của ngươi?” 11 Ông U-ri-gia thưa
với vua Ða-vít: "Hòm Bia cũng như Ít-ra-en và Giu-đa đang ở lều, chủ tướng
tôi là ông Giô-áp và các bề tôi của chúa thượng đang đóng trại ở ngoài đồng
trống, mà tôi đây lại về nhà ăn uống và nằm với vợ tôi sao? Tôi xin lấy mạng
sống của ngài, lấy chính mạng sống của ngài mà thề: tôi sẽ không làm điều ấy!” 12
Vua Ða-vít bảo ông U-ri-gia: "Hãy ở lại đây hôm nay nữa, ngày mai ta
sẽ cho ngươi đi." Ông U-ri-gia ở lại Giê-ru-sa-lem ngày hôm đó. Ngày hôm
sau, 13 vua Ða-vít mời ông; ông ăn uống trước mặt vua, và vua cho
ông uống say. Ðến chiều, ông ra nằm giường của ông cùng với các bề tôi của chúa
thượng ông, nhưng không xuống nhà mình.
14
Sáng
hôm sau, vua Ða-vít viết thư cho ông Giô-áp và gửi ông U-ri-gia mang đi. 15
Trong thư, vua viết rằng: "Hãy đặt U-ri-gia ở hàng đầu, chỗ mặt trận
nặng nhất, rồi rút lui bỏ nó lại, để nó bị trúng thương mà chết.” 16 Ông
Giô-áp đang thám sát thành liền để ông U-ri-gia ở chỗ ông biết là có quân hùng
mạnh nhất. 17 Người trong thành xông ra, giao chiến với ông Giô-áp.
Một số người trong quân binh, trong các bề tôi vua Ða-vít đã ngã gục, và ông
U-ri-gia, người Khết, cũng chết.
18
Ông
Giô-áp sai người về báo cho vua Ða-vít biết tất cả diễn tiến trận đánh. 19
Ông ra lệnh cho người lính biệt phái rằng: "Khi anh kể tất cả diễn
tiến trận đánh cho đức vua xong, 20 nếu cơn giận đức vua nổi lên và
người hỏi anh: "Tại sao các ngươi lại đến gần thành mà giao chiến? Các
ngươi không biết là người ta bắn từ trên tường thành xuống sao? 21 Ai đã hạ
A-vi-me-léc, con ông Giơ-rúp-be-sét? Chẳng phải một người đàn bà đã liệng xuống
ông một thớt cối đá và ông đã chết tại Tê-vết đó sao? Tại sao các ngươi lại đến
gần tường thành?, thì anh sẽ nói: "Tôi tớ ngài là ông U-ri-gia, người
Khết, cũng đã chết"."
22
Người
lính biệt phái ra đi và đến báo cho vua Ða-vít biết mọi điều ông Giô-áp đã sai
anh về nói. 23 Người lính biệt phái nói với vua Ða-vít: "Những
người ấy đã mạnh hơn chúng tôi và đã xông ra đánh chúng tôi ở ngoài đồng, nhưng
chúng tôi đã đẩy lui chúng cho đến lối vào cửa thành. 24 Từ trên
tường thành, lính bắn cung đã bắn xuống các bề tôi của ngài. Một số bề tôi đức
vua đã chết, cả tôi tớ ngài là ông U-ri-gia, người Khết, cũng đã chết."
25
Vua
Ða-vít bảo người lính biệt phái: "Hãy nói với ông Giô-áp thế này:
"Ðừng bực mình về chuyện ấy, vì việc binh đao là thế: khi thì người này,
khi thì người kia bị chém. Hãy mạnh mẽ tấn công và phá huỷ thành. Ngươi hãy
khích lệ ông ấy."
26
Vợ
ông U-ri-gia nghe tin ông U-ri-gia, chồng mình, đã chết, thì làm ma cho chồng. 27
Khi tang lễ đã qua, vua Ða-vít sai người đi đón nàng về nhà mình. Nàng
trở thành vợ vua và sinh cho vua một con trai. Nhưng hành động của vua Ða-vít
không đẹp lòng Ðức Chúa.
Chương 12
Ngôn
sứ Na-than trách vua Ða-vít. Vua hối hận.
1
Ðức
Chúa sai ông Na-than đến với vua Ða-vít. Ông vào gặp vua và nói với vua:
"Có
hai người ở trong cùng một thành,
một
người giàu, một người nghèo.
2
Người
giàu thì có chiên dê và bò, nhiều lắm.
3
Còn
người nghèo chẳng có gì cả,
ngoài
con chiên cái nhỏ độc nhất ông đã mua.
Ông
nuôi nó, nó lớn lên ở bên ông, cùng với con cái ông,
nó
ăn chung bánh với ông, uống chung chén với ông,
ngủ
trong lòng ông: ông coi nó như một đứa con gái.
4
Có
khách đến thăm người giàu,
ông
này tiếc của, không bắt chiên dê hay bò của mình
mà
làm thịt đãi người lữ khách đến thăm ông.
Ông
bắt con chiên cái của người nghèo
mà
làm thịt đãi người đến thăm ông."
5
Vua
Ða-vít bừng bừng nổi giận với người ấy và nói với ông Na-than: "Có Ðức
Chúa hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết! 6 Nó phải đền gấp bốn con
chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng thương xót.” 7 Ông
Na-than nói với vua Ða-vít: "Kẻ đó chính là ngài! Ðức Chúa, Thiên Chúa của
Ít-ra-en, phán thế này: Chính Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua cai trị
Ít-ra-en, chính Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Sa-un. 8 Ta đã
ban cho ngươi nhà của chúa thượng ngươi, và đã đặt các người vợ của chúa thượng
ngươi vào vòng tay ngươi. Ta đã cho ngươi nhà Ít-ra-en và Giu-đa. Nếu bấy nhiêu
mà còn quá ít, thì Ta sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế nữa. 9 Vậy
tại sao ngươi lại khinh dể lời Ðức Chúa mà làm điều dữ trái mắt Người? Ngươi đã
dùng gươm đâm U-ri-gia, người Khết; vợ y, ngươi đã cướp làm vợ ngươi; còn chính
y, ngươi đã dùng gươm của con cái Am-mon mà giết. 10 Ấy vậy, gươm sẽ
không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi, bởi vì ngươi đã khinh dể Ta và
cướp vợ của U-ri-gia, người Khết, làm vợ ngươi.
11
"Ðức
Chúa phán thế này: Ta sắp dùng chính nhà của ngươi mà gây hoạ cho ngươi. Ta sẽ
bắt các vợ của ngươi trước mắt ngươi mà cho một người khác, và nó sẽ nằm với
các vợ của ngươi giữa thanh thiên bạch nhật. 12 Thật vậy, ngươi đã
hành động lén lút, nhưng Ta, Ta sẽ làm điều ấy trước mặt toàn thể Ít-ra-en và
giữa thanh thiên bạch nhật."
13
Bấy
giờ vua Ða-vít nói với ông Na-than: "Tôi đắc tội với Ðức Chúa." Ông
Na-than nói với vua Ða-vít: "Về phía Ðức Chúa, Người đã bỏ qua tội của
ngài; ngài sẽ không phải chết. 14 Thế nhưng vì trong việc này ngài
đã cả gan khinh thị Ðức Chúa, nên đứa trẻ ngài sinh được, chắc chắn sẽ phải
chết.” 15 Rồi ông Na-than trở về nhà.
Con
bà Bát Se-va chết. Vua Sa-lô-môn chào đời.
16
Vua
Ða-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà
ngủ đêm thì nằm dưới đất. 17 Các kỳ mục trong nhà của vua nài nỉ xin
vua trỗi dậy, nhưng vua không chịu và cũng chẳng ăn chút gì với họ. 18 Ðến
ngày thứ bảy, đứa bé chết. Triều thần vua Ða-vít sợ không dám báo tin cho vua
biết là đứa bé đã chết, vì họ bảo nhau: "Khi đứa trẻ còn sống, chúng ta đã
nói với đức vua và người đã không nghe chúng ta. Bây giờ làm thế nào để nói với
người là đứa bé đã chết? Hẳn người sẽ làm liều!” 19 Thấy triều thần
thì thầm với nhau, vua Ða-vít hiểu là đứa bé đã chết. Vua Ða-vít hỏi triều
thần: "Có phải đứa bé chết rồi không?" Họ thưa: "Vâng, chết
rồi!"
20
Bấy
giờ vua Ða-vít từ dưới đất trỗi dậy, tắm rửa, xức dầu thơm, thay quần áo; rồi
vua vào Nhà Ðức Chúa mà phủ phục. Trở về nhà, vua yêu cầu người ta dọn bữa, và
vua đã ăn. 21 Triều thần nói với vua: "Ngài làm gì vậy? Khi đứa
bé còn sống, thì ngài ăn chay và khóc lóc vì nó. Khi đứa bé chết rồi, thì ngài
lại trỗi dậy và dùng bữa!” 22 Vua trả lời: "Bao lâu đứa bé còn
sống, ta ăn chay và khóc lóc vì ta tự bảo: "Biết đâu Ðức Chúa sẽ thương
xót ta và đứa bé sẽ sống! 23 Bây giờ nó chết rồi, ta ăn chay làm gì? Hỏi rằng
ta còn có thể làm cho nó trở lại được không? Ta đi đến với nó, chứ nó không trở
lại với ta."
24
Vua
Ða-vít an ủi bà Bát Se-va, vợ mình. Vua đến với nàng và nằm với nàng. Nàng sinh
một con trai và vua gọi tên nó là Sa-lô-môn. Ðức Chúa yêu thương nó, 25 và
sai ngôn sứ Na-than đến cho biết điều đó. Vì Ðức Chúa, ông gọi tên nó là
Giơ-đi-đơ-gia.
Hạ
thành Ráp-ba (1 Sb 20:1-3)
26
Ông
Giô-áp tấn công thành Ráp-ba của con cái Am-mon và hạ được hoàng thành. 27
Ông Giô-áp sai lính biệt phái về nói với vua Ða-vít: "Tôi đã tấn
công Ráp-ba, tôi còn hạ được cả thành dưới, chỗ có nhiều nước. 28 Giờ
đây, xin ngài tập hợp số quân binh còn lại, bao vây và chiếm thành, kẻo chính
tôi sẽ hạ thành và nó sẽ mang tên tôi.” 29 Vua Ða-vít tập hợp toàn
thể quân binh, đi Ráp-ba, tấn công và hạ thành. 30 Vua lột vương
miện trên đầu vua chúng, vương miện cân nặng ba mươi ký vàng và có một viên
ngọc quý; viên ngọc ấy được đặt trên đầu vua Ða-vít. Vua lấy đi rất nhiều chiến
lợi phẩm của thành. 31 Còn dân trong thành thì vua đưa đi và bắt
phải làm những việc dùng đến cưa, cuốc sắt, rìu sắt, và phải đúc gạch. Vua xử
như thế với mọi thành của con cái Am-mon. Rồi vua Ða-vít và toàn thể quân binh
trở về Giê-ru-sa-lem.
Chương 13
C.
Truyện Áp-sa-lôm
Am-nôn
làm nhục em gái là Ta-ma
1
Sau
đó xảy ra chuyện này. Áp-sa-lôm, con trai vua Ða-vít, có một cô em gái xinh
đẹp, tên là Ta-ma. Am-nôn, con trai vua Ða-vít, yêu cô. 2 Am-nôn
khắc khoải đến ốm tương tư vì Ta-ma, em gái cậu, bởi cô là gái còn trinh và
Am-nôn thấy không có cách làm gì được cô. 3 Am-nôn có người bạn tên
là Giô-na-đáp, con ông Sim-a, ông này là anh vua Ða-vít. Giô-na-đáp là người
rất khôn lanh. 4 Cậu hỏi Am-nôn: "Này hoàng tử, sao mà sáng nào
cũng bơ phờ như thế? Không nói cho anh biết được sao?" Am-nôn nói với cậu:
"Em yêu Ta-ma, em gái của Áp-sa-lôm em trai em.” 5 Giô-na-đáp
bảo cậu: "Chú cứ nằm trên giường và giả bệnh. Cha của chú sẽ đến thăm chú,
chú sẽ thưa với người: "Xin cho phép Ta-ma, em con, đến lo việc ăn uống
cho con: em con sẽ làm món ăn trước mắt con, để con thấy, và sẽ tự tay mang đến
cho con ăn".” 6 Am-nôn đi nằm và giả bệnh. Vua đến thăm, và
Am-nôn thưa với vua: "Xin cho phép Ta-ma, em con, đến làm trước mắt con
hai cái bánh và tự tay mang đến cho con dùng.” 7 Vua Ða-vít sai
người đến nhà cô Ta-ma mà bảo: "Con hãy đến nhà Am-nôn, anh con, và làm
món ăn cho anh.” 8 Ta-ma đến nhà Am-nôn, anh cô. Cậu đang nằm. Cô
lấy bột, nhào, làm bánh trước mắt cậu và đem chiên. 9 Rồi cô cầm
chảo và đổ bánh ra trước mặt cậu, nhưng cậu từ chối không chịu ăn. Am-nôn nói:
"Hãy bảo mọi người ra khỏi đây." Mọi người ra khỏi đó. 10 Am-nôn
bảo Ta-ma: "Em đưa món ăn vào trong phòng, và tự tay mang đến cho anh
dùng." Ta-ma lấy những cái bánh cô đã làm, và đưa vào phòng cho Am-nôn,
anh cô. 11 Cô đang bưng đến cho cậu thì cậu nắm lấy cô và nói với
cô: "Ðến đây em, nằm với anh đi!” 12 Cô bảo cậu: "Ðừng,
anh! Ðừng cưỡng hiếp em; vì không được phép làm điều ấy trong Ít-ra-en. Chớ làm
chuyện đồi bại ấy. 13 Em đây, em sẽ mang nỗi hổ nhục của em đi đâu?
Còn anh, anh sẽ bị coi như một tên đồi bại trong Ít-ra-en. Bây giờ, xin anh cứ
thưa với đức vua, người sẽ không từ chối gả em cho anh đâu.” 14 Nhưng
cậu không muốn nghe lời cô. Mạnh hơn cô, cậu cưỡng hiếp cô và nằm với cô.
15
Bấy
giờ Am-nôn đâm ra ghét cô, ghét thậm tệ: cậu còn ghét cô hơn là đã yêu cô.
Am-nôn bảo cô: "Ðứng dậy! Cút đi!” 16 Cô nói với cậu:
"Ðừng, đuổi em như vậy còn ác hơn là điều ác anh vừa làm đối với em."
Nhưng cậu không muốn nghe cô. 17 Cậu gọi người đầy tớ hầu hạ cậu và
bảo: "Ðuổi cô này ra khỏi đây và khoá cửa lại sau khi cô ấy ra.” 18 Bấy
giờ cô đang mặc áo chùng dài tay, vì các công chúa còn trinh thường mặc như
thế. Người hầu của cậu cho cô ra ngoài, rồi khoá cửa lại sau khi cô ra.
19
Ta-ma
lấy tro bụi rắc lên đầu, xé cái áo chùng dài tay cô đang mặc, đặt tay lên đầu,
vừa đi vừa kêu la. 20 Áp-sa-lôm, anh cô, hỏi cô: "Có phải thằng
Am-nôn, anh của em, đã nằm với em không? Bây giờ, em ơi, nín đi: nó là anh của
em. Ðừng để tâm vào chuyện này." Ta-ma ở vậy trong nhà của Áp-sa-lôm, anh
cô. 21 Vua Ða-vít nghe biết tất cả sự việc ấy thì giận lắm. 22 Áp-sa-lôm
không nói bất cứ điều gì với Am-nôn, bởi lẽ Áp-sa-lôm ghét Am-nôn vì chuyện
cưỡng hiếp Ta-ma, em cậu.
Áp-sa-lôm
ám sát Am-nôn rồi trốn đi
23
Hai
năm sau, nhân dịp Áp-sa-lôm thuê thợ xén lông cừu tại Ba-an Kha-xo, gần
Ép-ra-im, Áp-sa-lôm mời tất cả các hoàng tử. 24 Áp-sa-lôm vào gặp
vua và thưa: "Tôi tớ ngài có thuê thợ xén lông cừu. Kính xin đức vua và
triều thần đến với tôi tớ ngài.” 25 Vua nói với Áp-sa-lôm:
"Không được, con ạ, chúng ta không nên đi cả, kẻo thành gánh nặng cho
con." Cậu nài nỉ vua, nhưng vua không muốn đi. Vua chúc phúc cho cậu. 26
Áp-sa-lôm nói: "Vậy ít là xin cho anh Am-nôn của con đi với chúng
con." Vua hỏi cậu: "Nó đi với con làm gì?” 27 Áp-sa-lôm
nài nỉ vua, nên vua cho Am-nôn và tất cả các hoàng tử đi với cậu.
28
Áp-sa-lôm
ra lệnh cho các đầy tớ của cậu rằng: "Các ngươi hãy để ý! Khi rượu đã làm
cho lòng Am-nôn vui vẻ, và ta bảo các ngươi: "Hạ Am-nôn! , thì các ngươi
hãy giết chết nó. Ðừng sợ! Chẳng phải là chính ta ra lệnh cho các ngươi sao?
Can đảm lên, hãy tỏ ra là những người dũng cảm!” 29 Các đầy tớ của
Áp-sa-lôm đã xử với Am-nôn như Áp-sa-lôm đã ra lệnh. Tất cả các hoàng tử đứng
lên, mỗi người cưỡi la của mình mà chạy trốn.
30
Khi
họ còn đang trên đường, thì có tin báo về cho vua Ða-vít rằng: "Áp-sa-lôm
đã hạ tất cả các hoàng tử, không người nào sống sót.” 31 Vua đứng
dậy, xé áo ra và nằm xuống đất. Toàn thể triều thần đứng chung quanh đều xé áo
ra. 32 Nhưng Giô-na-đáp, con ông Sim-a là anh vua Ða-vít, lên tiếng
nói: "Xin chúa thượng đừng nói rằng người ta đã giết chết tất cả các cậu
hoàng tử. Chỉ một mình Am-nôn chết thôi, vì Áp-sa-lôm đã quyết định điều ấy từ
ngày Ta-ma, em gái mình bị cưỡng hiếp. 33 Giờ đây, xin đức vua là
chúa thượng tôi đừng có tưởng rằng tất cả các hoàng tử đã chết. Không, chỉ một
mình Am-nôn chết thôi. 34 Còn Áp-sa-lôm thì đã trốn đi."
Người
đầy tớ đứng cạnh ngước mắt lên nhìn thì thấy một đám đông đi trên con đường sau
lưng mình, bên sườn núi. 35 Giô-na-đáp nói với vua: "Kìa, các
hoàng tử đang đến. Việc đã xảy ra như lời tôi tớ ngài nói.” 36 Cậu
vừa nói xong thì này các hoàng tử đến. Họ oà lên khóc. Cả vua và toàn thể triều
thần cũng lớn tiếng than khóc. 37 Còn Áp-sa-lôm thì trốn đi và đến
với ông Tan-mai, là con ông Am-mi-hút và là vua xứ Gơ-sua. Ngày ngày vua để
tang con.
Ông
Giô-áp điều đình cho Áp-sa-lôm trở về
38
Áp-sa-lôm
đã trốn đi, đến Gơ-sua và ở đó ba năm. 39 Vua Ða-vít hết giận
Áp-sa-lôm, vì vua đã khuây khoả được nỗi buồn mất Am-nôn.
Chương 14
1
Ông
Giô-áp, con bà Xơ-ru-gia, biết rằng lòng vua hướng về Áp-sa-lôm. 2 Ông
Giô-áp sai người đi Tơ-cô-a tìm một người đàn bà khôn lanh và bảo bà ấy:
"Xin bà giả bộ để tang: bà hãy mặc áo tang, đừng xức dầu thơm, và làm như
một người đàn bà đã từ lâu để tang một người chết. 3 Rồi bà đến gặp
đức vua và thưa với người lời lẽ thế này." Ông Giô-áp đặt lời lẽ vào miệng
bà.
4
Vậy
người đàn bà Tơ-cô-a đến nói với vua. Bà sấp mặt xuống đất mà lạy rồi thưa:
"Thưa đức vua, xin cứu tôi với!” 5 Vua hỏi bà: "Ngươi có
chuyện gì?" Bà thưa: "Than ôi! Tôi là đàn bà goá, chồng tôi đã chết. 6
Nữ tỳ ngài có hai con trai. Hai đứa xô xát ở ngoài đồng, không có ai can
ngăn chúng. Ðứa này đánh đứa kia và giết chết nó. 7 Và này toàn thể
thị tộc đã đứng lên chống lại nữ tỳ ngài và bảo: "Bà hãy nộp kẻ đã hạ
người anh em mình. Chúng tôi sẽ bắt nó chết để đền mạng người anh em nó đã
giết, và sẽ tiêu diệt luôn cả người thừa kế. Họ sẽ dập tắt chút than hồng còn
sót lại cho tôi, không để cho chồng tôi được duy trì tên tuổi và còn người nối
dõi trên mặt đất.” 8 Vua nói với người đàn bà: "Ngươi cứ về
nhà. Chính ta sẽ ra lệnh về việc của ngươi.” 9 Người đàn bà Tơ-cô-a
thưa vua: "Thưa đức vua là chúa thượng tôi, tội đổ xuống đầu tôi và xuống
nhà cha tôi! Còn đức vua và ngai vàng của người thì vô can.” 10 Vua
nói: "Kẻ nào nói gì với ngươi, cứ đưa nó đến với ta, và nó sẽ không còn
đụng tới ngươi nữa.” 11 Bà nói: "Xin đức vua lấy Ðức Chúa,
Thiên Chúa của ngài, mà thề, để kẻ đòi nợ máu đừng gây thêm chết chóc, và người
ta đừng tiêu diệt con trai tôi." Vua nói: "Có Ðức Chúa hằng sống!
Không một sợi tóc nào của con trai ngươi sẽ rơi xuống đất!"
12
Người
đàn bà nói: "Xin cho nữ tỳ ngài được thưa với đức vua là chúa thượng tôi
một lời." Vua bảo: "Cứ nói.” 13 Người đàn bà nói:
"Vậy tại sao ngài lại tính một chuyện có hại cho dân Thiên Chúa như thế?
Vì đã nói lời ấy, nên đức vua giống như một kẻ mắc tội, nếu đức vua không cho
kẻ ngài đã đày biệt xứ được trở về. 14 Thật vậy, thế nào chúng ta
cũng phải chết, như nước chảy xuống đất không thể hốt lại được. Nhưng Thiên
Chúa không lấy sự sống đi và Người định liệu cho kẻ bị đày biệt xứ khỏi bị biệt
xứ xa Người.
15
"Giờ
đây, nếu tôi đến thưa điều ấy với đức vua là chúa thượng tôi, chính là vì dân
đã làm cho tôi sợ. Nữ tỳ ngài tự nhủ: "Tôi phải thưa với đức vua, may ra
đức vua sẽ làm điều nữ tỳ người nói. 16 Thật vậy, đức vua sẽ nhận
lời mà giải thoát nữ tỳ người khỏi bàn tay kẻ muốn tiêu diệt tôi cùng với con
trai tôi, không cho hưởng cơ nghiệp của Thiên Chúa". 17 Nữ tỳ
ngài tự nhủ: "Ước chi lời của đức vua là chúa thượng tôi làm tôi yên lòng,
vì đức vua là chúa thượng tôi khác nào sứ giả Thiên Chúa để lắng nghe điều
thiện điều ác. Xin Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngài, ở với ngài."
18
Vua
trả lời người đàn bà rằng: "Ðừng giấu ta điều ta sắp hỏi ngươi."
Người đàn bà nói: "Xin đức vua là chúa thượng tôi cứ nói.” 19 Vua
hỏi: "Có phải bàn tay ông Giô-áp ở với ngươi trong tất cả việc này
không?" Người đàn bà thưa rằng: "Thưa đức vua là chúa thượng tôi, tôi
xin lấy mạng sống ngài mà thề: không ai có thể đi trệch bên phải bên trái ra
khỏi mọi điều đức vua là chúa thượng tôi đã nói. Phải, chính tôi tớ ngài là ông
Giô-áp đã truyền cho tôi và đã đặt vào miệng nữ tỳ ngài mọi lời ấy. 20 Chính
là để cho sự việc có một bộ mặt khác mà tôi tớ ngài là ông Giô-áp đã làm việc
đó. Nhưng sự khôn ngoan của chúa thượng sánh được với sự khôn ngoan của sứ giả
Thiên Chúa: ngài biết tất cả những gì xảy ra trên mặt đất."
21
Vua
bảo ông Giô-áp: "Ðược, ta làm ngay điều đó. Cứ đi, dẫn cậu Áp-sa-lôm về.” 22
Ông Giô-áp sấp mặt xuống đất mà lạy và chúc phúc cho vua. Ông Giô-áp nói:
"Ngày hôm nay tôi tớ ngài biết rằng tôi được đẹp lòng đức vua là chúa
thượng tôi, vì đức vua đã làm theo như lời của tôi tớ ngài.” 23 Ông
Giô-áp lên đường đi Gơ-sua và đưa Áp-sa-lôm về Giê-ru-sa-lem. 24 Vua
nói: "Nó hãy lui về nhà nó và sẽ không được gặp mặt ta." Áp-sa-lôm
lui về nhà mình và không được gặp mặt vua.
Một
vài chi tiết về Áp-sa-lôm
25
Trong
toàn thể Ít-ra-en, không có ai đẹp trai như Áp-sa-lôm, khiến người ta hết lời
ca tụng: từ bàn chân cho tới đỉnh đầu không có một khuyết điểm nào. 26 Khi
y cạo đầu -cuối mỗi năm y cạo đầu, vì tóc đè nặng trên đầu y và phải cạo- tóc
đầu y cân nặng hai ký, theo quả cân của nhà vua. 27 Áp-sa-lôm sinh
được ba con trai, và một con gái tên là Ta-ma. Nàng là một phụ nữ có nhan sắc.
Áp-sa-lôm
được tha thứ
28
Áp-sa-lôm
ở Giê-ru-sa-lem hai năm mà không được gặp mặt vua. 29 Áp-sa-lôm sai
người tìm ông Giô-áp để cử ông đến gặp vua, nhưng ông không chịu đến gặp y. Y
lại sai người đi tìm một lần nữa, nhưng ông không chịu đến. 30 Y bảo
các tôi tớ: "Hãy xem cánh đồng của ông Giô-áp, ở bên cánh đồng của ta, ông
ấy trồng lúa mạch ở đó. Hãy đi nổi lửa mà đốt." Tôi tớ của Áp-sa-lôm đã
nổi lửa đốt cánh đồng. 31 Ông Giô-áp đứng lên và đến nhà Áp-sa-lôm
mà hỏi y: "Tại sao tôi tớ của chú nổi lửa đốt cánh đồng của tôi?” 32 Áp-sa-lôm
nói với ông Giô-áp: "Anh xem: tôi đã sai người đến mời anh tới đây, để cử
anh đi thưa với đức vua: "Con từ Gơ-sua về làm gì? Thà con vẫn ở đó còn
hơn. Bây giờ tôi muốn được gặp mặt đức vua. Nếu tôi có lỗi gì, xin người cứ
giết tôi đi!” 33 Ông Giô-áp vào gặp vua và báo cho vua biết. Vua cho
gọi Áp-sa-lôm. Y vào gặp vua, sấp mặt xuống đất trước mặt vua mà lạy. Vua hôn
Áp-sa-lôm.
Chương 15
Thủ
đoạn của Áp-sa-lôm
1
Sau
đó, Áp-sa-lôm đóng cho mình một cỗ xe, với những con ngựa và năm mươi người hộ
tống. 2 Áp-sa-lôm dậy sớm và đứng ở bên đường vào cửa thành. Mỗi khi
người nào có kiện cáo mà đến với vua để xin xét xử, thì Áp-sa-lôm gọi người ấy
lại mà hỏi: "Ông người thành nào?" Người kia thưa: "Tôi tớ ngài
thuộc chi tộc này, chi tộc nọ trong Ít-ra-en.” 3 Áp-sa-lôm bảo người
ấy: "Ông xem: vụ kiện của ông đúng và hợp lý, nhưng không có ai thay mặt
đức vua để nghe ông đâu.” 4 Áp-sa-lôm nói: "Phải chi có ai đặt
tôi làm thẩm phán trong xứ này! Tất cả những người có kiện cáo và cần xét xử,
sẽ đến với tôi, và tôi sẽ xử công minh cho họ.” 5 Khi có người đến
lạy y thì y đưa tay ra, giữ lấy người ấy mà hôn. 6 Áp-sa-lôm làm như
thế với mọi người Ít-ra-en đến xin vua xét xử. Và Áp-sa-lôm đã mua chuộc lòng
người Ít-ra-en.
Áp-sa-lôm
làm loạn
7
Sau
bốn năm, Áp-sa-lôm thưa với vua: "Xin cho phép con đi Khép-rôn để con giữ
trọn lời đã khấn hứa với Ðức Chúa, 8 vì khi còn ở Gơ-sua miền A-ram,
tôi tớ ngài đã có lời khấn hứa rằng: "Nếu quả thực Ðức Chúa cho con trở về
Giê-ru-sa-lem, thì con sẽ thờ phượng Ðức Chúa".” 9 Vua bảo y:
"Con đi bình an." Y lên đường đi Khép-rôn.
10
Áp-sa-lôm
sai người bí mật đến tất cả các chi tộc Ít-ra-en mà nói: "Khi anh em nghe
thấy tiếng tù và thì hãy nói: Áp-sa-lôm đã lên ngôi vua tại Khép-rôn!” 11 Cùng
với Áp-sa-lôm có hai trăm người đi từ Giê-ru-sa-lem; họ là những khách được
mời, vô tình mà đến, không hay biết gì về chuyện đó. 12 Khi dâng các
hy lễ, Áp-sa-lôm sai người đi tìm A-khi-thô-phen, người thành Ghi-lô, cố vấn
của vua Ða-vít, và triệu y về từ thành của y là Ghi-lô. Bọn mưu phản thêm mạnh
và dân theo Áp-sa-lôm ngày càng đông.
Vua
Ða-vít chạy trốn
13
Người
đưa tin đến nói với vua Ða-vít: "Lòng người Ít-ra-en đã theo Áp-sa-lôm.” 14
Vua Ða-vít bảo toàn thể triều thần ở với vua tại Giê-ru-sa-lem:
"Ðứng lên! Chúng ta chạy trốn đi, vì chúng ta sẽ không thoát được
Áp-sa-lôm. Ði cho mau, kẻo chẳng mấy chốc nó đuổi kịp chúng ta, giáng tai hoạ
xuống chúng ta và dùng lưỡi gươm giết dân thành.” 15 Triều thần thưa
với vua: "Ðức vua là chúa thượng chọn cái gì, các tôi tớ ngài đây xin sẵn
sàng!” 16 Vua đi ra và cả nhà theo chân, nhưng vua để lại mười người
tỳ thiếp để giữ nhà. 17 Vua đi ra và toàn dân theo chân, họ dừng lại
ở ngôi nhà cuối cùng. 18 Toàn thể triều thần đi qua, sát bên cạnh
vua, tất cả quân Cơ-rê-thi, tất cả quân Pơ-lê-thi và tất cả quân Gát -tức là
sáu trăm người đã theo chân vua từ Gát đến- đi qua trước mặt vua. 19 Vua
nói với ông Ít-tai, người Gát: "Tại sao cả ngươi nữa cũng đi với chúng ta?
Hãy trở về và ở với nhà vua, bởi vì ngươi là người nước ngoài, ngươi còn bỏ quê
hương mà sống lưu vong. 20 Ngươi mới đến hôm qua, mà hôm nay ta lại
bắt ngươi phải đi lang thang với chúng ta, trong khi ta đi mà chẳng biết đi
đâu! Hãy trở về và đưa các anh em ngươi trở về cùng với ngươi. Xin Ðức Chúa lấy
tình thương và lòng thành tín mà đối xử với ngươi.” 21 Ông Ít-tai
trả lời vua rằng: "Có Ðức Chúa hằng sống và có đức vua là chúa thượng tôi
đang sống, tôi thề: đức vua là chúa thượng tôi ở đâu, thì dù sống dù chết, tôi
tớ ngài cũng ở đó!” 22 Vua Ða-vít bảo ông Ít-tai: "Hãy đi
qua!" Ông Ít-tai, người Gát, đã đi qua cùng với tất cả những người của ông
và mọi trẻ con theo ông. 23 Cả xứ khóc to tiếng và toàn dân đi qua.
Vua đi qua thung lũng Kít-rôn, và toàn dân đi qua phía trước con đường vào sa
mạc.
Hòm
Bia ở lại Giê-ru-sa-lem
24
Và
có cả ông Xa-đốc, và cùng với ông, có tất cả các thầy Lê-vi khiêng Hòm Bia Giao
Ước của Thiên Chúa. Họ đặt Hòm Bia Thiên Chúa xuống, và ông Ép-gia-tha tiến
lên, cho đến khi toàn dân ra khỏi thành đã đi qua hết. 25 Vua bảo
ông Xa-đốc: "Hãy đưa Hòm Bia Thiên Chúa về thành. Nếu ta được đẹp lòng Ðức
Chúa, thì Người sẽ đưa ta trở về và cho ta thấy Hòm Bia và nơi Người ngự. 26
Nhưng nếu Người nói là Người không thương ta nữa, thì này ta đây, Người
cứ làm cho ta điều Người cho là tốt.” 27 Vua nói với tư tế Xa-đốc:
"Ngươi thấy không? Cứ trở về thành bình an. Có hai con trai của các ngươi
ở với các ngươi: A-khi-ma-át, con của ngươi, và Giô-na-than, con của Ép-gia-tha.
28 Các ngươi xem: ta sẽ nán lại ở các chỗ qua sông vào sa mạc, chờ
khi có lời các ngươi gửi đến báo tin cho ta.” 29 Ông Xa-đốc và ông
Ép-gia-tha đưa Hòm Bia Thiên Chúa về Giê-ru-sa-lem, và họ ở lại đó.
Vua
Ða-vít nhờ ông Khu-sai giúp
30
Vua
Ða-vít lên dốc Cây Ô-liu, vừa lên vừa khóc, đầu trùm khăn, chân đi đất, và toàn
dân đi với vua ai cũng đầu trùm khăn, vừa lên vừa khóc. 31 Người ta
báo tin cho vua Ða-vít rằng: "A-khi-thô-phen ở trong đám những người âm
mưu cùng với Áp-sa-lôm." Vua Ða-vít nói: "Lạy ÐỨC CHÚA, xin làm cho
lời bàn của A-khi-thô-phen ra vô hiệu!"
32
Khi
vua Ða-vít lên tới đỉnh, nơi người ta thờ lạy Thiên Chúa, thì này ông Khu-sai,
người Ác-ki, đón gặp vua, áo chùng ông xé rách, đầu thì rắc đất. 33 Vua
Ða-vít nói với ông: "Nếu ông qua đây với ta, thì ông sẽ nên gánh nặng cho
ta. 34 Nhưng nếu ông trở về thành và nói với Áp-sa-lôm: "Thưa
đức vua, tôi là tôi tớ ngài; trước đây tôi là tôi tớ cha ngài, còn bây giờ tôi
là tôi tớ ngài", thì ông sẽ phá cho ta lời bàn của A-khi-thô-phen. 35
Nào các tư tế Xa-đốc và Ép-gia-tha sẽ chẳng có ở đó với ông sao? Tất cả
những gì nghe được từ đền vua, ông sẽ báo cho các tư tế Xa-đốc và Ép-gia-tha. 36
Họ có hai người con trai ở đó với họ là A-khi-ma-át, con Xa-đốc và
Giô-na-than, con Ép-gia-tha. Các ông sẽ nhờ chúng báo cho ta mọi điều các ông
nghe được.” 37 Ông Khu-sai, bạn vua Ða-vít, vào thành khi Áp-sa-lôm
đến Giê-ru-sa-lem.
Chương 16
Vua
Ða-vít và ông Xi-va
1
Khi
vua Ða-vít đi qua đỉnh được một chút, thì có ông Xi-va, đầy tớ ông
Mơ-phi-bô-sét đón gặp vua, dẫn theo hai con lừa thồ chở hai trăm cái bánh, một
trăm chùm nho khô, một trăm trái cây và một bầu da đầy rượu. 2 Vua
Ða-vít hỏi ông Xi-va: "Ngươi định làm gì với những thứ này?" Ông
Xi-va trả lời: "Lừa thì để cho hoàng gia cưỡi, bánh và trái cây thì để cho
các đầy tớ ăn, rượu thì để cho người mệt lả trong sa mạc uống.” 3 Vua
hỏi: "Người con của chủ ngươi đâu?" Ông Xi-va thưa với vua: "Ông
ấy ở lại Giê-ru-sa-lem, vì ông tự bảo: "Hôm nay nhà Ít-ra-en sẽ trả lại
cho ta vương quyền của cha ta.” 4 Vua bảo ông Xi-va: "Vậy tất
cả những gì là của Mơ-phi-bô-sét thì là của ngươi." Ông Xi-va nói:
"Tôi xin bái tạ. Ước chi tôi được đẹp lòng ngài, thưa đức vua là chúa
thượng tôi."
Sim-y
nguyền rủa vua Ða-vít
5
Khi
vua Ða-vít đến Ba-khu-rim thì kìa có một người từ đó đi ra. Y thuộc cùng một
thị tộc với nhà Sa-un, và tên là Sim-y, con ông Ghê-ra. Y vừa đi ra vừa nguyền
rủa. 6 Y ném đá vào vua Ða-vít và tất cả bề tôi vua, mặc dầu có toàn
thể quân đội và toàn thể các dũng sĩ ở bên phải và bên trái vua. 7 Sim-y
nói thế này trong lời nguyền rủa của y: "Cút đi, cút đi, tên khát máu,
thằng vô lại! 8 Ðức Chúa đã đổ xuống đầu mày tất cả máu của nhà Sa-un, người đã
bị mày chiếm ngôi, và Ðức Chúa đã trao vương quyền vào tay Áp-sa-lôm, con mày.
Và này, mày phải tai hoạ, vì mày là tên khát máu!” 9 Ông A-vi-sai,
con bà Xơ-ru-gia, thưa với vua: "Tại sao thằng chó chết này dám nguyền rủa
đức vua là chúa thượng tôi? Xin cho tôi qua chặt đầu nó!” 10 Vua
nói: "Chuyện của ta can gì đến các ngươi, hỡi các con bà Xơ-ru-gia? Nếu nó
nguyền rủa và nếu Ðức Chúa bảo nó: "Hãy nguyền rủa Ða-vít", thì ai
dám hỏi: "Tại sao mày làm như thế?” 11 Vua Ða-vít nói với ông
A-vi-sai và tất cả bề tôi: "Này con trai ta, do chính ta sinh ra mà còn
tìm hại mạng sống ta, huống chi là tên Ben-gia-min này! Cứ để nó nguyền rủa,
nếu Ðức Chúa đã bảo nó. 12 May ra Ðức Chúa sẽ đoái nhìn đến nỗi khổ
cực của ta và Ðức Chúa sẽ trả lại cho ta hạnh phúc, thay vì lời nguyền rủa của
nó hôm nay.” 13 Vua Ða-vít và người của vua vẫn đi trên đường, còn
Sim-y thì đi ở sườn núi, song song với vua, vừa đi vừa nguyền rủa và ném đá,
song song với vua; y làm bụi tung lên. 14 Vua và toàn dân theo vua
đi tới nơi thì mệt lả. Họ nghỉ lấy sức tại đó.
Ông
Khu-sai đến với Áp-sa-lôm
15
Áp-sa-lôm
và toàn thể quân binh người Ít-ra-en vào Giê-ru-sa-lem, có A-khi-thô-phen cùng
đi. 16 Khi ông Khu-sai, người Ác-ki, bạn vua Ða-vít, đến gặp
Áp-sa-lôm, thì ông Khu-sai nói với Áp-sa-lôm: "Vạn tuế đức vua! Vạn tuế
đức vua!” 17 Áp-sa-lôm hỏi ông Khu-sai: "Tình nghĩa của ông đối
với người bạn ông là như thế ư? Tại sao ông không đi với bạn ông?” 18 Ông
Khu-sai nói với ông Áp-sa-lôm: "Ðức Chúa, cũng như dân này và tất cả mọi
người Ít-ra-en đã chọn ai, thì tôi sẽ thuộc về người ấy và ở với người ấy. 19
Thứ đến, tôi sẽ phục vụ ai, nếu không phải là con của người ấy? Tôi đã
phục vụ cha ngài thế nào, thì tôi cũng sẽ phục vụ ngài như vậy."
Áp-sa-lôm
và các tỳ thiếp của vua Ða-vít
20
Áp-sa-lôm
bảo A-khi-thô-phen: "Các ngươi hãy bàn nhau xem chúng ta phải làm gì.” 21
A-khi-thô-phen nói với Áp-sa-lôm: "Xin ngài hãy đến với các tỳ thiếp
mà cha ngài đã để lại giữ nhà. Toàn thể Ít-ra-en sẽ nghe biết rằng ngài đã trở
nên đáng ghét đối với cha ngài, và mọi người theo ngài sẽ mạnh bạo lên.” 22
Người ta căng lều cho Áp-sa-lôm trên sân thượng, và Áp-sa-lôm đến với các
tỳ thiếp của cha mình trước mắt toàn thể Ít-ra-en. 23 Lời bàn mà
A-khi-thô-phen đưa ra trong những ngày ấy thì giống như lời Thiên Chúa phán,
khi người ta thỉnh ý. Mọi lời bàn của A-khi-thô-phen đều có giá trị như thế đối
với cả vua Ða-vít lẫn Áp-sa-lôm.
Chương 17
Ông
Khu-sai làm hỏng kế hoạch của A-khi-thô-phen
1
A-khi-thô-phen
nói với Áp-sa-lôm: "Xin để tôi tuyển mười hai ngàn người, tôi sẽ lên đường
đuổi theo Ða-vít ngay đêm nay. 2 Tôi sẽ đến tấn công ông ấy, trong
lúc ông ấy kiệt sức, tay chân rụng rời, tôi sẽ làm cho ông khiếp sợ, toàn dân
theo ông sẽ bỏ trốn, và tôi sẽ hạ một mình nhà vua. 3 Tôi sẽ đưa
toàn dân về với ngài. Hạ được người mà ngài đang tìm thì cũng như làm cho mọi
người trở về: toàn dân sẽ được bình an.” 4 Áp-sa-lôm và toàn thể các
kỳ mục Ít-ra-en thấy lời đó là phải.
5
Nhưng
Áp-sa-lôm nói: "Hãy mời cả ông Khu-sai, người Ác-ki, để chúng ta cũng nghe
cả ông ấy nữa, xem ông nói gì.” 6 Ông Khu-sai đến gặp Áp-sa-lôm.
Áp-sa-lôm nói với ông rằng: "Ông A-khi-thô-phen đã nói như vậy. Chúng ta
có nên làm điều ông ấy nói không? Nếu không thì chính ông nói đi.” 7 Ông
Khu-sai nói với Áp-sa-lôm: "Lần này lời bàn ông A-khi-thô-phen đưa ra
không hay.” 8 Rồi ông Khu-sai nói: "Ngài biết rằng cha ngài và
người của ông là những dũng sĩ và họ cay đắng trong tâm hồn như gấu mẹ mất con
ngoài đồng. Cha ngài là một chiến binh, ông sẽ không nghỉ đêm với dân. 9 Bây
giờ chắc ông đang ẩn núp trong một hầm hố hay một nơi nào đó. Nếu ngay từ đầu
có những người phe ta ngã gục, chắc chắn có người sẽ nghe biết và sẽ nói:
"Dân theo Áp-sa-lôm đã bị bại! 10 Bấy giờ cả người can đảm, có gan như gan
sư tử, cũng sẽ nản lòng, vì toàn thể Ít-ra-en biết rằng cha ngài là một dũng sĩ
và những kẻ theo ông là người can đảm. 11 Vậy tôi xin bàn thế này:
toàn thể Ít-ra-en, từ Ðan tới Bơ-e Se-va sẽ tập trung về với ngài, đông như cát
ngoài bãi biển, và ngài sẽ đích thân đi đánh trận. 12 Chúng ta sẽ
đến đánh ông tại bất cứ nơi nào ông đang ở, chúng ta sẽ đậu trên ông như sương
rơi trên đất đai, và ông cũng như những người theo ông sẽ không còn sót lại một
ai. 13 Nếu ông tập trung vào một thành, toàn thể Ít-ra-en sẽ đem dây
thừng đến thành đó và chúng ta sẽ lôi thành ấy xuống thung lũng, đến nỗi không
còn tìm thấy ở đó một hòn sỏi.” 14 Áp-sa-lôm và tất cả các người
Ít-ra-en nói: "Lời bàn của ông Khu-sai, người Ác-ki, hay hơn lời bàn của
ông A-khi-thô-phen." Thật vậy, Ðức Chúa đã quyết định phá lời bàn hay của
A-khi-thô-phen, để đem tai hoạ đến cho Áp-sa-lôm.
15
Ông
Khu-sai nói với các tư tế Xa-đốc và Ép-gia-tha: "A-khi-thô-phen đã bàn thế
này thế này với Áp-sa-lôm và các kỳ mục Ít-ra-en; còn tôi, tôi đã bàn thế kia
thế kia. 16 Bây giờ các ông hãy mau sai người đi báo tin cho vua
Ða-vít rằng: "Xin đức vua đừng dừng lại đêm nay tại các vùng đất hoang
trong sa mạc, nhưng ngài phải đi qua ngay, kẻo đức vua và toàn dân theo người
sẽ bị tiêu diệt"."
Ðược
tin báo, vua Ða-vít qua sông Gio-đan.
17
Giô-na-than
và A-khi-ma-át đứng sẵn ở Ên Rô-ghên. Một nữ tỳ đi báo tin cho họ, rồi họ đi
báo tin cho vua Ða-vít, họ không vào thành, vì không được để người ta nhìn thấy.
18 Nhưng một thanh niên thấy họ và báo cho Áp-sa-lôm. Cả hai vội
vàng đi và đến nhà một người ở Ba-khu-rim, người này có một cái giếng trong
sân. Họ xuống đó. 19 Vợ người ấy lấy tấm bố, trải ra trên miệng
giếng rồi rải hạt lên trên. Chẳng ai hay biết gì.
20
Các
tôi tớ Áp-sa-lôm vào nhà bà ấy và hỏi: "A-khi-ma-át và Giô-na-than
đâu?" Bà trả lời chúng: "Họ đã đi qua sông." Chúng tìm nhưng
không thấy, nên trở về Giê-ru-sa-lem. 21 Sau khi chúng đi rồi, thì
hai người lên khỏi giếng và đi báo tin cho vua Ða-vít. Họ nói với vua Ða-vít:
"Xin các ngài lên đường và mau mau qua sông, bởi vì A-khi-thô-phen đã bàn
thế này để hại các ngài.” 22 Vua Ða-vít và tất cả quân binh theo vua
đã lên đường qua sông Gio-đan. Khi trời sáng, mọi người đã qua sông, không sót
một ai.
23
A-khi-thô-phen
thấy người ta không làm theo lời bàn của mình thì thắng lừa, lên đường đi về
nhà, trong thành mình. Y thu xếp việc nhà, rồi thắt cổ tự tử. Y được chôn cất
trong phần mộ của cha y.
Áp-sa-lôm
qua sông Gio-đan. Vua Ða-vít tại Ma-kha-na-gim.
24
Vua
Ða-vít đến Ma-kha-na-gim, trong khi Áp-sa-lôm và toàn thể người Ít-ra-en cùng
với y qua sông Gio-đan. 25 Áp-sa-lôm đã đặt A-ma-xa chỉ huy quân đội
thay ông Giô-áp. A-ma-xa là con trai một người đàn ông tên là Gít-ra, người
Ít-ra-en; người này đã đi lại với bà A-vi-ga-gin là con gái ông Na-khát và là
chị em với bà Xơ-ru-gia, mẹ ông Giô-áp. 26 Ít-ra-en và Áp-sa-lôm
đóng trại ở đất Ga-la-át.
27
Khi
vua Ða-vít đến Ma-kha-na-gim, thì ông Sô-vi con ông Na-khát, từ thành Ráp-ba
của con cái Am-mon, ông Ma-khia con ông Am-mi-ên, từ Lô Ðơ-va, và ông
Bác-di-lai người Ga-la-át, từ Rốc-lim, 28 đem giường, chậu, bát đĩa,
lúa mì, lúa mạch, bột, gié lúa rang, đậu tằm, đậu nâu, 29 mật ong,
sữa chua, chiên dê và bê sữa, đến dâng cho vua Ða-vít và dân ở với vua, vì họ
nói: "Dân đói, mệt lả và khát trong sa mạc."
Chương 18
Phe
Áp-sa-lôm bại trận
1
Vua
Ða-vít duyệt đám quân binh theo ông và đặt những người chỉ huy một ngàn, chỉ
huy một trăm quân, để điều khiển họ. 2 Vua Ða-vít sai quân binh đi:
một phần ba giao cho ông Giô-áp, một phần ba giao cho ông A-vi-sai, là con bà
Xơ-ru-gia và là em ông Giô-áp, một phần ba giao cho ông Ít-tai, người Gát. Vua
nói với quân binh: "Ta sẽ đích thân ra trận với các ngươi.” 3 Nhưng
quân binh nói: "Ngài không được ra trận; vì nếu chúng tôi chạy trốn, người
ta sẽ không để tâm đến chúng tôi, nếu một nửa số chúng tôi chết, người ta sẽ
không để tâm đến chúng tôi, còn ngài, ngài bằng mười ngàn người chúng tôi; vậy
tốt hơn là ngài cứ ở trong thành mà tiếp viện chúng tôi. “ 4 Vua nói
với họ: "Ta sẽ làm điều các ngươi coi là tốt." Vua đứng ở bên cửa
thành, trong khi quân binh kéo ra từng đơn vị một trăm, một ngàn. 5 Vua
ra lệnh cho ông Giô-áp, ông A-vi-sai và ông Ít-tai rằng: "Vì ta, hãy nhẹ
tay với cậu Áp-sa-lôm!" Toàn thể quân binh nghe thấy vua ra lệnh cho tất
cả các tướng về Áp-sa-lôm.
6
Quân
binh ra ngoài đồng nghênh chiến với Ít-ra-en, và cuộc giao tranh xẩy ra trong
rừng Ép-ra-im. 7 Tại đó, quân binh Ít-ra-en bị bề tôi vua Ða-vít
đánh bại. Hôm ấy là một ngày đại bại: hai mươi ngàn người chết tại đó. 8 Cuộc
giao tranh tản ra khắp xứ, và ngày hôm ấy quân binh chết vì rừng nhiều hơn là
chết vì gươm.
Áp-sa-lôm
chết
9
Áp-sa-lôm
bị bề tôi vua Ða-vít bắt gặp. Áp-sa-lôm đang cưỡi con la đi vào dưới một cây
vân hương lớn, cành lá chằng chịt. Ðầu y mắc vào cây vân hương và y bị treo
giữa trời và đất, còn con la y cưỡi thì đi mất. 10 Một người trông
thấy và báo tin cho ông Giô-áp: "Này, tôi thấy Áp-sa-lôm treo trên một cây
vân hương.” 11 Ông Giô-áp nói với người đã báo tin cho ông:
"Này, anh đã thấy, sao anh không hạ nó ngay tại chỗ? Như thế, hẳn ta đã
phải cho anh ba lượng bạc và một cái thắt lưng rồi!” 12 Người kia
nói với ông Giô-áp: "Giả như người ta cân ngay vào tay tôi ba trăm lượng
bạc, tôi cũng không dám ra tay hại hoàng tử, vì chính tai chúng tôi đã nghe đức
vua ra lệnh cho ông, ông A-vi-sai và ông Ít-tai rằng: "Dù là ai đi nữa,
các người cũng phải giữ gìn cậu Áp-sa-lôm! 13 Cho dù tôi liều mạng làm điều
thất trung ấy, thì cũng chẳng có gì giấu được đức vua, còn ông, ông sẽ đứng xa.”
14 Ông Giô-áp nói: "Tôi không mất thời giờ với anh như thế
nữa", rồi ông cầm lấy ba cây thương trong tay, đâm vào tim Áp-sa-lôm, khi
y vẫn còn sống, treo trên cây vân hương. 15 Rồi mười thanh niên,
người hầu cận của ông Giô-áp, xúm lại đánh Áp-sa-lôm và giết y.
16
Ông
Giô-áp cho thổi tù và, cùng lúc đó quân binh thôi không đuổi theo Ít-ra-en nữa,
vì ông Giô-áp đã giữ quân binh lại. 17 Người ta đem Áp-sa-lôm quăng
vào một cái hố lớn trong rừng, rồi chất một đống đá rất lớn lên trên. Toàn thể
Ít-ra-en đã chạy trốn, ai nấy về lều mình.
18
Khi
còn sống, Áp-sa-lôm đã khởi công dựng cho mình một tấm bia trong thung lũng Nhà
Vua, vì y tự bảo: "Tôi không có con trai để lưu truyền tên tuổi." Y
đã lấy tên mình mà đặt cho tấm bia ấy. Người ta còn gọi là "đài
Áp-sa-lôm" cho đến ngày nay.
Vua
Ða-vít được tin Áp-sa-lôm chết
19
A-khi-ma-át,
con ông Xa-đốc, nói: "Xin cho phép tôi chạy đi báo tin mừng cho đức vua là
Ðức Chúa đã phân xử để đức vua thoát khỏi tay các kẻ thù của đức vua.” 20 Ông
Giô-áp nói với anh: "Hôm nay, anh sẽ không phải là người đem tin mừng. Hôm
khác, anh sẽ đem tin mừng, nhưng hôm nay anh sẽ không đem tin mừng, vì lý do là
hoàng tử đã chết.” 21 Ông Giô-áp bảo một người Cút: "Ði báo cho
đức vua điều anh đã thấy." Người Cút sụp xuống lạy ông Giô-áp rồi chạy đi.
22 Một lần nữa, A-khi-ma-át, con ông Xa-đốc, lại nói với ông Giô-áp:
"Ra sao thì ra! Xin cho phép tôi cũng chạy theo người Cút." Ông
Giô-áp nói: "Chạy làm gì, con ơi? Ðem tin mừng đó chẳng lợi lộc gì cho con
đâu!” 23 Anh nói: "Ra sao thì ra! Tôi cứ chạy đi!" Ông
bảo: "Thì chạy đi!" A-khi-ma-át chạy theo con đường vùng sông Gio-đan
và vượt qua người Cút.
24
Vua
Ða-vít đang ngồi giữa hai cửa thành. Người lính canh đi tới sân thượng cửa
thành, trên tường thành. Anh ngước mặt lên nhìn thì thấy một người đang chạy
một mình. 25 Người lính canh kêu lên và báo tin cho vua. Vua nói:
"Nếu nó chỉ có một mình, tức là nó có tin mừng để báo." Trong khi
người này tiếp tục đi đến gần, 26 thì người lính canh thấy một người
khác đang chạy. Anh gọi người giữ cửa và nói: "Kìa, một người nữa đang
chạy một mình." Vua nói: "Cả người ấy cũng báo tin mừng.” 27 Người
lính canh nói: "Tôi thấy kiểu chạy của người thứ nhất như kiểu chạy của
anh A-khi-ma-át, con ông Xa-đốc." Vua nói: "Anh ta là một người tốt,
anh đến để đem tin mừng, tin tốt đấy!"
28
A-khi-ma-át
kêu lên và nói với vua: "Kính chúc bình an! " Rồi anh sấp mặt xuống
đất lạy vua và nói: "Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa của ngài, đã nộp
những kẻ giơ tay chống lại đức vua là chúa thượng của con!” 29 Vua
hỏi: "Cậu Áp-sa-lôm có được bình an không?" A-khi-ma-át trả lời:
"Con thấy có đông người xôn xao khi ông Giô-áp sai một tôi tớ đức vua và
tôi tớ ngài đây, nhưng con không biết có chuyện gì.” 30 Vua nói:
"Hãy lui ra một bên và đứng đó." Anh lui ra một bên và đứng chờ.
31
Bấy
giờ người Cút đến. Người Cút nói: "Xin đức vua là chúa thượng tôi nghe tin
mừng. Hôm nay Ðức Chúa đã phân xử để ngài thoát khỏi tay tất cả những kẻ đứng
lên chống lại ngài.” 32 Ðức vua hỏi người Cút: "Cậu Áp-sa-lôm
có được bình an không?" Người Cút trả lời: "Ước chi các kẻ thù của
đức vua là chúa thượng tôi và mọi kẻ đứng lên chống lại ngài để làm hại ngài,
đều phải chung một số phận như cậu ấy! "
Chương 19
Vua
Ða-vít khóc con
1
Vua
Ða-vít run rẩy, đi lên lầu trên cửa thành và khóc. Vua vừa đi vừa nói:
"Áp-sa-lôm con ơi, con ơi, Áp-sa-lôm con ơi! Phải chi cha chết thay con!
Áp-sa-lôm con ơi, con ơi!” 2 Người ta báo cho ông Giô-áp: "Kìa
đức vua đang khóc, đang khóc thương Áp-sa-lôm!” 3 Hôm ấy, chiến
thắng đã trở thành tang tóc cho toàn thể quân binh, vì hôm ấy, quân binh được
nghe nói rằng: "Ðức vua buồn phiền vì mất con.” 4 Hôm ấy, quân
binh lén lút vào thành như một đám quân binh lén lút về, xấu hổ vì đã trốn chạy
trong khi giao chiến. 5 Còn vua thì che mặt và lớn tiếng kêu:
"Áp-sa-lôm con ơi, Áp-sa-lôm con ơi, con ơi!"
6
Ông
Giô-áp vào gặp vua trong nhà và nói: "Hôm nay ngài làm bẽ mặt tất cả bề
tôi ngài, là những kẻ hôm nay đã cứu sống ngài, cứu sống các con trai con gái
ngài, cứu sống các bà vợ và cứu sống các tỳ thiếp của ngài. 7 Ngài
yêu những kẻ ghét ngài và ghét những kẻ yêu ngài. Vâng, hôm nay ngài đã cho
thấy rằng tướng với binh chẳng là gì cả đối với ngài, vì hôm nay tôi biết, nếu
Áp-sa-lôm còn sống và tất cả chúng tôi có chết hôm nay thì ngài cũng coi là
đương nhiên. 8 Giờ đây, xin ngài đứng lên và ra uỷ lạo bề tôi ngài,
vì tôi xin lấy Ðức Chúa mà thề: nếu ngài không ra, thì sẽ không còn ai ở lại
với ngài đêm nay, và đối với ngài, đó sẽ là một tai hoạ lớn hơn mọi tai hoạ đã
xảy đến cho ngài, từ lúc ngài còn trẻ cho đến bây giờ.” 9 Vua đứng
lên và ra ngồi ở cửa thành. Người ta báo cho toàn thể quân binh rằng: "Kìa
đức vua đang ngồi ở cửa thành", và toàn thể quân binh đến trước mặt vua.
Chuẩn
bị đưa vua Ða-vít trở về
10
Trong
tất cả các chi tộc Ít-ra-en, toàn dân tranh luận với nhau, họ nói: "Ðức
vua đã giải thoát chúng ta khỏi bàn tay kẻ thù, người đã cứu chúng ta khỏi bàn
tay người Phi-li-tinh, và bây giờ người đã phải trốn khỏi xứ để thoát Áp-sa-lôm.
11 Còn Áp-sa-lôm, người mà chúng ta đã xức dầu tôn lên làm vua chúng
ta, thì đã tử trận. Bây giờ, sao anh em còn ngồi yên đó mà không đưa đức vua
về?"
12
Vua
Ða-vít sai người đi nói với các tư tế Xa-đốc và Ép-gia-tha rằng: "Các
ngươi hãy nói với các kỳ mục Giu-đa rằng: "Tại sao anh em lại là những
người cuối cùng để đưa đức vua về nhà người, trong khi điều mà toàn thể
Ít-ra-en nói đã đến tai đức vua tại nhà người? 13 Anh em là những anh em của
tôi, anh em là cốt nhục của tôi. Vậy tại sao anh em lại là những người cuối
cùng để đưa đức vua về? 14 Các ngươi hãy nói với A-ma-xa: "Ngươi chẳng
phải là cốt nhục của ta sao? Xin Thiên Chúa phạt ta thế này và còn thêm thế kia
nữa, nếu ngươi không mãi mãi là tướng quân chỉ huy quân đội ta, thay cho
Giô-áp!” 15 Vua làm cho mọi người Giu-đa, muôn người như một, phải
xiêu lòng, và họ sai người đến nói với vua: "Xin ngài và toàn thể bề tôi
trở về!"
Trên
đường về. Sim-y đón vua Ða-vít.
16
Vậy
vua trở về và tới sông Gio-đan. Người Giu-đa tới Ghin-gan để đón vua và đưa vua
qua sông Gio-đan. 17 Sim-y, con ông Ghê-ra, người Ben-gia-min ở
Ba-khu-rim, vội vàng xuống với người Giu-đa để đón vua Ða-vít. 18 Cùng
với y có một ngàn người Ben-gia-min. Ông Xi-va, đầy tớ nhà Sa-un, và cùng với
ông, mười lăm con trai và hai mươi đầy tớ, ào tới sông Gio-đan trước vua. 19
Họ đưa bè sang để đón hoàng gia qua và làm điều vua coi là tốt.
20
Y
thưa với vua: "Xin chúa thượng đừng hạch tội tôi. Xin đừng nhớ đến tội tôi
tớ ngài đã phạm ngày đức vua là chúa thượng tôi ra khỏi Giê-ru-sa-lem. Xin đức
vua đừng để tâm đến. 21 Quả thật, tôi tớ ngài biết rằng mình đã phạm
tội. Nhưng này, hôm nay tôi là người đầu tiên trong toàn thể nhà Giu-se đã tới
đón đức vua là chúa thượng tôi."
22
Ông
A-vi-sai, con bà Xơ-ru-gia, lên tiếng nói: "Có phải vì thế mà Sim-y, kẻ đã
nguyền rủa đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong, không bị xử tử sao?” 23 Vua
Ða-vít nói: "Chuyện của ta can gì đến các ngươi, hỡi các con bà Xơ-ru-gia,
khiến hôm nay các ngươi trở nên người chống đối ta? Hôm nay mà lại có người
trong Ít-ra-en bị xử tử sao? Ta chẳng biết rằng hôm nay ta là vua Ít-ra-en sao?”
24 Vua nói với Sim-y: "Ngươi sẽ không phải chết." Và vua
đã thề với y.
Ông
Mơ-phi-bô-sét
25
Ông
Mơ-phi-bô-sét, con cháu vua Sa-un, xuống đón vua. Ông đã không cắt móng chân,
không xén râu ria, không giặt áo, từ ngày vua đi cho đến ngày vua về bình an. 26
Vậy khi ông tới Giê-ru-sa-lem để đón vua, thì vua hỏi ông: "Tại sao
ngươi đã không đi với ta, Mơ-phi-bô-sét?” 27 Ông trả lời: "Thưa
đức vua là chúa thượng tôi, người đầy tớ của tôi đã đánh lừa tôi. Thật vậy, tôi
tớ ngài đã tự bảo: "Ta sẽ thắng cho mình con lừa cái, ta sẽ cưỡi lừa và đi
với đức vua", vì tôi tớ ngài bị què. 28 Nó đã vu khống tôi tớ
ngài trước mặt đức vua là chúa thượng tôi. Nhưng đức vua là chúa thượng tôi
khác nào sứ giả Thiên Chúa, xin ngài cứ làm điều ngài coi là tốt. 29 Thật
vậy, đối với đức vua là chúa thượng tôi, tất cả nhà cha tôi chỉ toàn những
người đáng chết; thế mà đức vua lại đặt tôi tớ ngài vào số những kẻ ăn tại bàn
của ngài. Tôi còn quyền gì nữa? Tôi còn có thể kêu xin đức vua gì nữa?” 30
Vua bảo ông: "Ngươi còn nói những chuyện ấy làm gì nữa? Ta bảo:
ngươi và Xi-va, các ngươi hãy chia đất với nhau.” 31 Ông
Mơ-phi-bô-sét nói với vua: "Nó cứ lấy cả đi, vì nay đức vua là chúa thượng
tôi đã trở về nhà bình an."
Ông
Bác-di-lai
32
Ông
Bác-di-lai, người Ga-la-át, đã từ Rốc-lim xuống. Ông đã qua sông Gio-đan với
vua, để tiễn vua gần sông Gio-đan. 33 Ông Bác-di-lai bấy giờ đã già
lắm, ông được tám mươi tuổi. Chính ông đã cấp dưỡng cho vua, khi vua ở
Ma-kha-na-gim, vì ông là người rất giàu. 34 Vua nói với ông
Bác-di-lai: "Ông hãy đi tiếp với ta, ta sẽ đưa ông về ở với ta tại
Giê-ru-sa-lem và sẽ cấp dưỡng cho ông.” 35 Ông Bác-di-lai trả lời
vua: "Tôi còn sống được bao nhiêu năm nữa, để lên Giê-ru-sa-lem cùng với
đức vua? 36 Hôm nay, tôi đã tám mươi tuổi rồi. Tôi còn phân biệt được tốt xấu
nữa không? Tôi tớ ngài còn thưởng thức được của ăn thức uống nữa không? Tôi còn
nghe được giọng hát của các nam ca sĩ với nữ ca sĩ nữa không? Tôi tớ ngài còn
trở nên gánh nặng cho đức vua là chúa thượng tôi làm gì nữa? 37 Tôi tớ ngài sẽ
chỉ đi với đức vua mấy bước qua sông Gio-đan. Ðức vua ban cho tôi phần thưởng
đó làm gì? 38 Xin cho phép tôi tớ ngài trở về, để được chết trong thành của tôi
bên phần mộ cha mẹ tôi. Ðây có tôi tớ ngài là Kim-ham. Xin cho nó đi tiếp với
đức vua là chúa thượng tôi, ngài cứ làm cho nó điều ngài coi là tốt.” 39 Vua
nói: "Kim-ham sẽ đi tiếp với ta. Ta sẽ làm cho nó điều ông coi là tốt, và
tất cả những gì ông muốn xin ta, ta sẽ làm cho ông.” 40 Toàn dân qua
sông Gio-đan, và vua cũng qua. Vua hôn ông Bác-di-lai và chúc phúc cho ông, rồi
ông trở về nhà.
Giu-đa
và Ít-ra-en tranh nhau đón vua
41
Vua
đi tiếp tới Ghin-gan và Kim-ham đi tiếp với vua. Toàn dân Giu-đa cũng như một
nửa dân Ít-ra-en đã đưa vua đi qua. 42 Mọi người Ít-ra-en đến gặp
vua và nói với vua: "Tại sao anh em chúng tôi, những người Giu-đa, đã bắt
cóc và đưa đức vua cùng với hoàng gia và mọi người phò Ða-vít qua sông Gio-đan?”
43 Mọi người Giu-đa trả lời người Ít-ra-en: "Vì đức vua là bà
con gần với tôi. Sao anh lại tức giận vì điều ấy? Chúng tôi đâu có ăn bám đức
vua, hoặc được người mang đến cho cái gì?” 44 Người Ít-ra-en trả lời
người Giu-đa rằng: "Tôi có quyền trên đức vua gấp mười lần, ngay cả trên
vua Ða-vít, tôi cũng có quyền hơn anh. Sao anh lại khinh tôi? Tôi chẳng phải là
người đầu tiên nói đến chuyện đưa đức vua của tôi về sao?" Nhưng lời lẽ
của người Giu-đa thì cứng cỏi hơn lời lẽ của người Ít-ra-en.
Chương 20
Se-va
làm loạn
1
Tình
cờ ở đó có một đứa vô lại tên là Se-va, con của Bích-ri, người Ben-gia-min. Y
thổi tù và và nói:
"Chúng
ta không chung phần với Ða-vít, chúng ta chẳng chung gia tài với con của
Gie-sê. Hỡi Ít-ra-en, ai nấy về lều mình!"
2
Mọi
người Ít-ra-en bỏ vua Ða-vít mà lên theo Se-va, con của Bích-ri. Nhưng người
Giu-đa thì theo sát vua của họ, từ sông Gio-đan tới Giê-ru-sa-lem.
3
Vua
Ða-vít về nhà tại Giê-ru-sa-lem. Vua bắt mười người tỳ thiếp mà vua đã để lại
giữ nhà, và cho họ vào một nhà có người canh giữ. Vua cấp dưỡng cho họ nhưng
không đi lại với họ. Họ bị giam cho tới ngày chết, goá bụa khi chồng vẫn sống.
Ông
A-ma-xa bị giết
4
Vua
bảo ông A-ma-xa: "Trong vòng ba ngày, ngươi hãy triệu tập các người Giu-đa
lại cho ta, rồi ngươi hãy có mặt ở đây.” 5 Ông A-ma-xa đi triệu tập
Giu-đa, nhưng ông đã chậm trễ quá hạn vua ấn định. 6 Vua Ða-vít nói
với ông A-vi-sai: "Bây giờ, Se-va, con của Bích-ri, sẽ làm hại chúng ta
hơn Áp-sa-lôm. Phần ngươi, hãy đem các bề tôi của chúa thượng ngươi mà đuổi
theo nó, kẻo nó tìm được những thành kiên cố và thoát khỏi tầm mắt chúng ta.” 7
Theo ông ra trận, có người của ông Giô-áp, quân Cơ-rê-thi, quân Pơ-lê-thi
và toàn thể các dũng sĩ. Họ từ Giê-ru-sa-lem đi ra để đuổi theo Se-va, con của
Bích-ri. 8 Khi họ ở gần tảng đá lớn tại Ghíp-ôn, thì ông A-ma-xa đến
trước mặt họ. Ông Giô-áp mặc quân phục, trên có một thắt lưng với một thanh
gươm để trong bao đeo ngang lưng. Khi ông bước ra thì gươm rơi xuống. 9 Ông
Giô-áp nói với ông A-ma-xa: "Thưa anh, anh có được bình an không?"
Rồi ông Giô-áp đưa tay phải cầm lấy râu ông A-ma-xa mà hôn. 10 Ông
A-ma-xa không để ý đến thanh gươm ở trong tay ông Giô-áp. Ông này dùng gươm đâm
vào bụng ông A-ma-xa, khiến ruột gan lòi ra rơi xuống đất. Ông không cần đâm
nhát thứ hai mà ông A-ma-xa cũng chết. Rồi ông Giô-áp và anh ông là A-vi-sai
đuổi theo Se-va, con của Bích-ri.
11
Một
người trong các đầy tớ ông Giô-áp đứng bên ông A-ma-xa và nói: "Ai thích
ông Giô-áp, ai phò vua Ða-vít, hãy theo ông Giô-áp!” 12 Ông A-ma-xa
nằm giữa đường cái, mình bê bết máu, và người kia thấy dân ai cũng đứng lại.
Anh lôi ông A-ma-xa từ đường cái xuống cánh đồng và phủ một cái áo lên trên, vì
anh thấy ai đến bên ông cũng đứng lại. 13 Khi anh đã đem ông ra khỏi
đường cái, thì ai nấy đều đi qua luôn theo ông Giô-áp, để đuổi bắt Se-va, con
của Bích-ri.
Cuộc
nổi loạn chấm dứt
14
Y
đi qua tất cả các chi tộc Ít-ra-en cho đến A-vên Bết Ma-a-kha. Mọi người Bê-rim
tụ tập lại và cũng theo y vào thành. 15 Người ta đến vây hãm y trong
thành A-vên Bết Ma-a-kha. Họ đắp luỹ đánh thành, luỹ đó dựa vào tường ngoài.
Tất cả quân binh theo ông Giô-áp đang tìm cách phá sập tường thành, 16 thì
một người đàn bà khôn lanh từ trong thành gọi ra: "Nghe đây, nghe đây! Xin
nói với ông Giô-áp: Mời ông đến gần đây. Tôi muốn nói với ông.” 17 Ông
Giô-áp đến gần chỗ bà. Người đàn bà hỏi: "Có phải ông là ông Giô-áp
không?" Ông đáp: "Tôi đây." Bà nói với ông: "Xin nghe những
lời của nữ tỳ ông." Ông nói: "Tôi nghe đây.” 18 Bà nói
rằng: "Người xưa quen nói: "Cứ đến A-vên mà thỉnh ý, và như vậy là
xong việc. 19 Chúng tôi thuộc số những người hiền hoà và trung tín
nhất tại Ít-ra-en. Còn ông, ông lại tìm cách giết hại một thành, một thành mẹ
tại Ít-ra-en. Sao ông muốn tiêu diệt cơ nghiệp của Ðức Chúa?” 20 Ông
Giô-áp trả lời rằng: "Không đời nào! Không đời nào tôi muốn tiêu diệt hay
phá huỷ! 21 Không phải vậy đâu! Nhưng một người từ miền núi Ép-ra-im, tên là
Se-va, con của Bích-ri, đã giơ tay chống lại vua Ða-vít. Các người hãy nộp nó,
một mình nó thôi, thì tôi sẽ rút đi không vây thành nữa." Người đàn bà nói
với ông Giô-áp: "Ðây, đầu nó sẽ được ném qua tường thành xuống cho ông.” 22
Với sự khôn ngoan của mình, người đàn bà đến gặp toàn dân. Người ta chặt
đầu Se-va, con của Bích-ri, và ném xuống cho ông Giô-áp. Ông cho thổi tù và, rồi
họ bỏ thành mà phân tán đi, ai nấy về lều mình, còn ông Giô-áp thì về
Giê-ru-sa-lem với vua.
Các
quan trong triều vua Ða-vít (2 Sm 8:16 -18)
23
Ông
Giô-áp chỉ huy toàn thể quân đội Ít-ra-en. Ông Bơ-na-gia, con ông
Giơ-hô-gia-đa, chỉ huy quân Cơ-rê-thi và quân Pơ-lê-thi. 24 Ông
A-đô-ram phụ trách việc lao dịch. Ông Giơ-hô-sa-phát, con ông A-khi-lút, làm
quốc vụ khanh. 25 Ông Sơ-va làm ký lục. Ông Xa-đốc và ông Ép-gia-tha
làm tư tế. 26 Cả ông I-ra, người Gia-ia, cũng là tư tế của vua
Ða-vít.
Chương 21
V.
Phụ Lục
Nạn
đói. Dòng dõi vua Sa-un bị xử tử.
1
Vào
thời vua Ða-vít, xảy ra một nạn đói kéo dài ba năm. Vua tìm kiếm thánh nhan Ðức
Chúa và Ðức Chúa phán: "Tại Sa-un và nhà của nó có nợ máu, vì nó đã xử tử
người thành Ghíp-ôn.” 2 Vua triệu tập người Ghíp-ôn đến và nói với
họ. - Người Ghíp-ôn không phải là con cái Ít-ra-en, nhưng thuộc số người
E-mô-ri còn sót lại. Con cái Ít-ra-en đã có lời thề với họ, nhưng vua Sa-un, vì
lòng nhiệt thành với con cái Ít-ra-en và Giu-đa, đã tìm cách đánh giết họ. - 3
Vua Ða-vít nói với người Ghíp-ôn: "Ta phải làm gì cho các ngươi, và phải
lấy gì làm lễ xá tội, để các ngươi chúc phúc cho cơ nghiệp của Ðức Chúa?” 4
Người Ghíp-ôn nói với vua Ða-vít: "Giữa chúng tôi với vua Sa-un và
nhà của vua ấy, không có chuyện bạc vàng. Cũng chẳng có chuyện chúng tôi muốn
giết chết ai trong Ít-ra-en." Vua nói: "Các ngươi nói gì, ta sẽ làm
như vậy cho các ngươi.” 5 Họ thưa với vua: "Con người đã tận
diệt chúng tôi và định huỷ diệt chúng tôi, để chúng tôi không còn tồn tại trên
lãnh thổ Ít-ra-en, 6 thì xin người ta nộp cho chúng tôi bảy người
trong số con cháu của người ấy, và chúng tôi sẽ treo chúng trước mặt Ðức Chúa
tại Ghíp-a thành của vua Sa-un, là người Ðức Chúa tuyển chọn." Vua nói:
"Ta sẽ nộp.” 7 Vua tha chết cho ông Mơ-phi-bô-sét, con ông
Giô-na-than là con vua Sa-un, vì giữa hai người, nghĩa là giữa vua Ða-vít và
ông Giô-na-than, con vua Sa-un, có lời thề trước mặt Ðức Chúa. 8 Vua
bắt Ác-mô-ni và Mơ-phi-bô-sét là hai người con trai mà bà Rít-pa, con gái ông
Ai-gia, đã sinh cho vua Sa-un, và bắt năm người con trai của bà Mi-khan, con
gái vua Sa-un, đã sinh cho ông Át-ri-ên, con ông Bác-di-lai người Mơ-khô-la. 9
Vua nộp chúng vào tay người Ghíp-ôn, và họ treo chúng trên núi, trước
nhan Ðức Chúa. Chúng đã mất mạng, cả bảy người một trật. Chúng đã bị xử tử vào
những ngày đầu mùa gặt, khi người ta khởi sự gặt lúa mạch.
10
Bà
Rít-pa, con gái ông Ai-gia, lấy tấm vải thô và trải ra trên tảng đá, từ đầu mùa
gặt cho đến khi mưa từ trời trút xuống trên chúng. Bà không để cho chim trời
đậu xuống trên chúng ban ngày hay dã thú đụng tới chúng ban đêm. 11 Người
ta báo cho vua Ða-vít biết hành động của bà Rít-pa, con gái ông Ai-gia, tỳ
thiếp của vua Sa-un. 12 Vua Ða-vít đến lấy hài cốt vua Sa-un và hài
cốt ông Giô-na-than, con vua ấy, từ tay các thân hào thành Gia-vết miền
Ga-la-át. Các người này đã lấy trộm xác hai cha con vua, từ quảng trường Bết
San, nơi người Phi-li-tinh đã treo hai cha con, vào ngày người Phi-li-tinh hạ
vua Sa-un ở Ghin-bô-a. 13 Vua đưa hài cốt vua Sa-un và hài cốt ông
Giô-na-than, con vua ấy, từ đó lên. Người ta cũng thu hài cốt của những người
đã bị treo 14 và mai táng cùng với hài cốt của vua Sa-un và của ông
Giô-na-than, con vua ấy, ở đất Ben-gia-min, tại Xê-la, trong phần mộ ông Kít,
cha của vua ấy. Người ta đã làm mọi điều vua truyền. Sau đó, Thiên Chúa đã
thương đến xứ sở.
Các
anh hùng trong cuộc chiến chống người Phi-li-tinh (1 Sb 20:4-8)
15
Lại
có giao tranh giữa người Phi-li-tinh và Ít-ra-en. Vua Ða-vít cùng với bề tôi
xuống chiến đấu với người Phi-li-tinh. Vua Ða-vít đã mệt mỏi. 16 Có
tên Gít-bi Bơ-nốp, một người con cháu Ra-pha; cây giáo đồng của nó cân nặng ba
ký, nó trang bị toàn đồ mới và nói tới chuyện hạ vua Ða-vít. 17 Nhưng
ông A-vi-sai, con bà Xơ-ru-gia, đã đến giúp vua. Ông đâm tên Phi-li-tinh và
giết nó. Bấy giờ người của vua Ða-vít thề mà nói với vua: "Ngài sẽ không
ra trận với chúng tôi nữa, kẻo ngài dập tắt ngọn đèn của Ít-ra-en."
18
Sau
đó lại có giao tranh ở Gốp với người Phi-li-tinh. Bấy giờ ông Xíp-bơ-khai,
người Khu-sa, hạ tên Xáp, con cháu Ra-pha.
19
Lại
có giao tranh ở Gốp với người Phi-li-tinh. Ông En-kha-nan, con ông Gia-rê
O-ghim, người Bê-lem, hạ tên Go-li-át, người Gát; cán giáo của nó như trục
khung cửi thợ dệt.
20
Lại
có giao tranh ở Gát. Có một người cao lớn, tay chân đều có sáu ngón, vị chi hai
mươi bốn ngón; nó cũng là con cháu Ra-pha. 21 Nó thách Ít-ra-en, và
ông Giơ-hô-na-than, con ông Sim-a là anh vua Ða-vít, đã hạ nó.
22
Bốn
tên ấy là con cháu Ra-pha, ở Gát, và chúng đã ngã gục do tay vua Ða-vít và do
tay bề tôi của vua.
Chương 22
Thánh
vịnh của vua Ða-vít (Thi 18:1-50)
1
Vua
Ða-vít dâng lên Ðức Chúa những lời của bài ca này, vào ngày Ðức Chúa đã giải
thoát vua khỏi bàn tay mọi kẻ thù của vua và khỏi bàn tay vua Sa-un. 2 Vua
nói:
"Lạy
Ðức Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Ðấng giải thoát con;
3
Lạy
Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn,
là
khiên mộc, là Ðấng cứu độ quyền năng,
là
thành trì bảo vệ, là chốn con nương mình,
là
Ðấng cứu độ con, Ngài cứu con khỏi quân tàn bạo.
4
Tôi
kêu cầu Ðức Chúa, là Ðấng xứng muôn lời ngợi khen,
và
tôi được cứu thoát khỏi quân thù.
5
Sóng
tử thần dồn dập chung quanh,
thác
diệt vong làm tôi kinh hãi,
6
màng
lưới âm ty bủa vây tứ phía,
bẫy
tử thần ập xuống trên tôi.
7
Lúc
ngặt nghèo tôi kêu cầu Ðức Chúa,
kêu
cầu Người là Thiên Chúa của tôi.
Từ
thánh điện, Người nghe tiếng tôi cầu cứu,
lời
tôi khẩn nguyện vọng đến tai Người.
8
Trái
đất bỗng ầm ầm rung chuyển,
nền
móng các tầng trời chấn động lung lay, vì Chúa nổi lôi đình.
9
Từ
thánh nhan Người, khói bốc lửa thiêu,
và
than hồng tung toé.
10
Chúa
nghiêng trời ngự xuống, chân đạp lớp mây mù,
11
ngự
trên thần hộ giá, Người bay
và
xuất hiện trên cánh gió.
12
Chúa
dùng bóng tối chung quanh,
dùng
khối nước tụ và mây đen nghịt, để làm trướng che Người.
13
Từ
chớp loé đi trước mặt Chúa, than hồng cháy bừng lên.
14
Ðức
Chúa nổi sấm từ trời, Ðấng Tối Cao lớn tiếng.
15
Người
bắn tên, khiến địch thù tán loạn,
phóng
chớp ra làm chúng phải tan tành.
16
Lòng
đại dương xuất hiện, thềm lục địa phơi trần,
khi
thấy Ðức Chúa doạ nạt ngăm đe và bừng bừng nổi giận.
17
Từ
chốn cao vời, Chúa đưa tay nắm lấy,
vớt
tôi lên khỏi nước lũ mênh mông,
18
cứu
tôi thoát đối phương tàn bạo, và kẻ thù mạnh thế hơn tôi.
19
Chúng
tấn công tôi ngày tôi lâm nạn,
nhưng
Ðức Chúa thương bênh đỡ phù trì,
20
Người
kéo tôi ra chỗ thảnh thơi,
vì
yêu thương tôi nên Người giải thoát.
21
Ðức
Chúa xử tốt với tôi bởi tôi sống ngay lành,
Người
ban thưởng cho tôi vì tay tôi trong sạch.
22
Chính
bởi tôi đã theo đường lối Ðức Chúa,
không
lỗi đạo cùng Thiên Chúa tôi thờ.
23
Mọi
quyết định của Người luôn ở trước mặt tôi,
thánh
chỉ Người truyền, tôi không lìa bỏ.
24
Trước
mặt Chúa, tôi là kẻ thập toàn, và tránh xa tội lỗi.
25
Ðức
Chúa thưởng cho tôi bởi tôi sống ngay lành,
và
vì tôi trong sạch như mắt người đã thấy.
26
Lạy
Chúa, Ngài tín trung với kẻ tín trung,
xử
tuyệt hảo với người tuyệt hảo.
27
Ngài
ở liêm khiết cùng người liêm khiết,
nhưng
dùng mưu mẹo với kẻ gian ngoan.
28
Vì
Chúa cứu độ dân nghèo hèn,
quắc
mắt nhìn xuống kẻ tự cao.
29
Vâng,
Ngài là ngọn đèn của con, lạy Ðức Chúa,
Ðức
Chúa soi chiếu vào đời con tăm tối mịt mù.
30
Cậy
sức Ngài, con tấn công bọn giặc,
nhờ
ơn Ngài là Thiên Chúa của con,
con
vượt thành vượt luỹ.
31
Ðường
lối Thiên Chúa quả là toàn thiện,
lời
Ðức Chúa hứa được chứng nghiệm tỏ tường.
Chính
Người là khiên che thuẫn đỡ
cho
những ai ẩn náu bên Người.
32
Ngoài
Ðức Chúa, hỏi ai là Thiên Chúa?
Ai
là núi đá độ trì, ngoài Thiên Chúa của ta?
33
Chính
Thiên Chúa là nơi trú ẩn vững chắc của tôi,
mở
ra cho tôi đường lối thiện toàn.
34
Chúa
cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân nai,
Người
đặt tôi đứng vững trên đỉnh núi,
35
tập
cho tôi thạo phép binh đao,
luyện
đôi tay rành nghề cung nỏ.
36
Lạy
Chúa, Ngài ban ơn cứu độ làm khiên mộc chở che con,
săn
sóc ân cần giúp con lớn mạnh.
37
Ðường
con đi, Chúa mở rộng thênh thang,
chân
con bước không bao giờ lảo đảo.
38
Con
đuổi theo, huỷ diệt quân thù,
chỉ
trở về khi chúng bị dẹp tan;
39
con
dẹp tan chúng, đánh cho quỵ, không sao dậy nữa,
chúng
ngã gục, nằm dưới chân con.
40
Chúa
làm cho con nên hùng dũng để xông ra chiến trường,
Ngài
cho con đè bẹp đối phương.
41
Ngài
bắt cừu địch con quay lưng chạy trốn;
con
tiêu diệt những kẻ oán thù con.
42
Chúng
kêu cứu mà không ai cứu chữa,
kêu
lên Ðức Chúa, nhưng Chúa chẳng đáp lời.
43
Con
nghiền tan chúng như bụi đất,
giẫm
nát, chà đạp chúng như bùn ở ngoài đường.
44
Dân
của con phản loạn, Ngài cứu con thoát khỏi,
vẫn
giữ con làm đầu các nước;
dân
xa lạ phải thần phục con,
45
người
nước ngoài cầu thân nịnh bợ,
vừa
nghe con ra lệnh, chúng đã tuân hành;
46
người
nước ngoài tiêu tan nhuệ khí,
từ
trong đồn luỹ, run rẩy kéo nhau ra.
47
Ðức
Chúa vạn vạn tuế!
Chúc
tụng Người là núi đá cho tôi trú ẩn.
Tôn
vinh Thiên Chúa là núi đá độ trì tôi,
48
là
Thượng đế giúp tôi rửa sạch hận thù,
đặt
chư dân ở dưới quyền tôi.
49
Lạy
Chúa, Ngài gỡ con ra khỏi tay thù địch,
cho
thắng cả đối phương, cứu khỏi người tàn bạo.
50
Vì
thế giữa muôn dân, con cảm tạ Ngài, lạy Ðức Chúa,
dâng
điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa.
51
Chúa
ban nhiều chiến thắng lớn lao
cho
Ðức Vua chính Người đã lập.
Chúa
hằng ưu ái Ðấng Người đã xức dầu tấn phong,
là
Ða-vít cùng dòng dõi đến muôn đời."
Chương 23
Những
lời cuối cùng của vua Ða-vít
1
Ðây
là những lời cuối cùng của vua Ða-vít:
"Sấm
ngôn của vua Ða-vít, con ông Gie-sê,
sấm
ngôn của người được đặt lên cao,
của
người được Thiên Chúa nhà Gia-cóp xức dầu tấn phong,
của
người ca sĩ được Ít-ra-en ái mộ.
2
Thần
khí Ðức Chúa dùng tôi mà phán,
lời
Người ở trên lưỡi tôi.
3
Thiên
Chúa của Ít-ra-en đã nói,
Núi
Ðá của Ít-ra-en đã phán cùng tôi:
Ai
cai trị con người với đức công minh,
ai
cai trị với lòng kính sợ Thiên Chúa,
4
thì
khác nào ánh ban mai lúc mặt trời mọc,
một
buổi sáng không mây,
ánh
sáng chói loà sau cơn mưa,
làm
cỏ xanh mọc lên từ lòng đất.
5
Nhà
Ða-vít bên Thiên Chúa chẳng như thế sao,
vì
Người đã lập với tôi một giao ước vĩnh cửu,
được
sắp đặt chi li và được duy trì?
Mọi
chiến thắng của tôi và mọi ước vọng,
Người
chẳng làm cho nẩy mầm đó sao?
6
Nhưng
phường vô lại đều như gai bị vứt bỏ:
người
ta chẳng bắt chúng bằng tay.
7
Người
nào đụng đến chúng,
phải
mang sắt và cán giáo nơi mình,
chúng
sẽ bị quăng vào lửa mà thiêu rụi tại chỗ."
Các
dũng sĩ của vua Ða-vít (1 Sb 11:10-41)
8
Ðây
là tên các dũng sĩ của vua Ða-vít: ông Ít-bô-sét, một người Tác-cơ-môn, đứng
đầu Bộ Ba; chính ông đã vung giáo đâm chết tám trăm người cùng một lúc. 9 Kế
đến là ông E-la-da, con ông Ðô-đô, con một người A-khô-ác. Ông ở trong số ba
dũng sĩ đi theo vua Ða-vít khi họ thách người Phi-li-tinh, lúc chúng tập trung
tại đó để giao chiến. Người Ít-ra-en đã rút đi, 10 nhưng ông đứng
vững và chém giết người Phi-li-tinh, cho đến khi bàn tay ông mệt mỏi dính chặt
vào gươm. Và ngày đó Ðức Chúa đã thắng lớn. Quân binh trở lại phía sau ông,
nhưng chỉ là để lột các xác chết. 11 Sau ông là ông Sam-ma, con ông
A-ghê, người Ha-ra. Người Phi-li-tinh đã tập trung thành một đạo quân. Ở đó có
một thửa đất trồng toàn đậu nâu. Quân binh đã chạy trốn người Phi-li-tinh, 12
nhưng ông đứng giữa thửa đất, đuổi người Phi-li-tinh ra khỏi đó, và đánh
bại chúng. Ðức Chúa đã thắng lớn.
13
Ba
người trong Nhóm Ba Mươi làm thành một tốp đi xuống và đến gặp vua Ða-vít ở
hang A-đu-lam, vào mùa gặt. Một đạo quân Phi-li-tinh đóng trại ở thung lũng
người Ra-pha. 14 Vua Ða-vít bấy giờ đang ở nơi ẩn náu, còn người
Phi-li-tinh bấy giờ đóng đồn ở Bê-lem. 15 Vua Ða-vít ước ao và nói:
"Phải chi có ai cho ta uống nước lấy ở giếng tại cổng thành Bê-lem!” 16
Ba dũng sĩ đã đột nhập trại Phi-li-tinh, lấy nước ở giếng tại cổng thành
Bê-lem, đưa về cho vua Ða-vít. Nhưng vua không muốn uống mà đổ nước ấy làm lễ
rưới dâng Ðức Chúa. 17 Vua nói: "Xin Ðức Chúa đừng để ta làm
điều ấy! Ðó là máu của những người đã liều mạng đi lấy!" Vậy vua không
muốn uống nước. Ðó là việc ba dũng sĩ đã làm.
18
Ông
A-vi-sai, em ông Giô-áp, con bà Xơ-ru-gia, là người chỉ huy Nhóm Ba Mươi. Chính
ông đã vung giáo đâm chết ba trăm người, và được nổi danh trong Nhóm Ba Mươi. 19
Ông được vinh dự nhất trong Nhóm Ba Mươi, nên ông được đứng đầu, nhưng
không được vào Bộ Ba.
20
Ông
Bơ-na-gia-hu, con ông Giơ-hô-gia-đa, con một người dũng cảm, nhiều thành tích,
xuất thân từ Cáp-xơ-ên. Chính ông đã hạ sát hai anh hùng Mô-áp. Chính ông đã
xuống đập chết con sư tử ở trong giếng vào một ngày có tuyết. 21 Chính
ông đã hạ một tên Ai-cập tướng mạo khác thường. Tên Ai-cập cầm giáo trong tay.
Ông xuống đánh nó với một cây gậy, cướp giáo khỏi tay tên Ai-cập và lấy giáo
của nó mà giết nó. 22 Ðó là những việc ông Bơ-na-gia-hu, con ông
Giơ-hô-gia-đa đã làm, và ông được nổi danh trong Nhóm Ba Mươi dũng sĩ. 23 Ông
được vinh dự nhất trong Nhóm Ba Mươi, nhưng không được vào Bộ Ba. Vua Ða-vít
đặt ông vào số cận vệ của vua.
24
A-xa-hên,
em của Giô-áp, ở trong Nhóm Ba Mươi, En-kha-nan, con của Ðô-đô, người Bê-lem, 25
Sam-ma, người Kha-rốt, Ê-li-ca, người Kha-rốt, 26 Khe-lét,
người Pan-ti, I-ra, con của Ích-kết, người Tơ-cô-a, 27 A-vi-e-de,
người A-na-thốt, Mơ-vun-nai, người Khu-sa, 28 Xan-môn, người
A-khô-khi, Ma-rai, người Nơ-tô-pha, 29 Khê-lép, con của Ba-a-na,
người Nơ-tô-pha, Ít-tai, con của Ri-vai, quê ở Ghíp-a thuộc con cái Ben-gia-min,
30 Bơ-na-gia-hu, người Pia-a-thôn, Hít-đai, quê ở khe núi Ga-át, 31
A-vi An-vôn, người A-ra-va, Át-ma-vét, người Bác-khum, 32 En-giác-ba,
người Sa-an-vôn, các con của Gia-sên: Giơ-hô-na-than, 33 Sam-ma,
người Ha-ra, A-khi-am, con của Sa-ra, người A-ra-ri, 34 Ê-li-phe-lét,
con của A-khát-bai, người Ma-a-kha, Ê-li-am, con của A-khi-thô-phen, người
Ghi-lô, 35 Khét-rai, người Các-men, Pa-a-rai, người A-ráp, 36 Gích-an,
con của Na-than, quê Xô-va, Ba-ni, người Gát, 37 Xe-léc, người
Am-mon, Nác-rai, người Bơ-ê-rốt, người hầu cận của Giô-áp là con bà Xơ-ru-gia, 38
I-ra, người Gít-ri, Ga-rếp, người Gít-ri, 39 U-ri-gia, người
Khết. Tất cả là ba mươi bảy.
Chương 24
Cuộc
điều tra dân số (1 Sb 21:1-6)
1
Ðức
Chúa lại nổi giận với Ít-ra-en, và Người xúi giục vua Ða-vít gây hoạ cho họ.
Người phán: "Hãy đi đếm dân Ít-ra-en và người Giu-đa.” 2 Vua
bảo ông Giô-áp, tướng chỉ huy quân lực, đang ở với vua: "Hãy rảo khắp các
chi tộc Ít-ra-en, từ Ðan tới Bơ-e Se-va, và điều tra nhân khẩu để ta biết dân
số.” 3 Ông Giô-áp thưa với vua: "Ước chi Ðức Chúa, Thiên Chúa
của ngài, làm cho dân tăng lên gấp trăm lần con số hiện nay, và ước chi chính
mắt của đức vua là chúa thượng tôi được thấy! Nhưng tại sao đức vua là chúa
thượng tôi lại muốn điều ấy?” 4 Tuy nhiên, lời vua buộc ông Giô-áp
và các tướng chỉ huy quân lực; ông Giô-áp và các tướng chỉ huy quân lực đang ở
trước mặt vua đã ra đi điều tra dân số Ít-ra-en.
5
Họ đi
qua sông Gio-đan và đóng trại ở A-rô-e, ở phía nam của thành nằm giữa thung
lũng Gát, rồi đi về phía Gia-de. 6 Họ đến miền Ga-la-át và Vùng đất
thấp ở Khót-si, rồi đến Ðan Gia-an và vòng về Xi-đôn. 7 Họ đến Tia,
một thành luỹ kiên cố, và mọi thành của người Khi-vi và của người Ca-na-an, rồi
họ ra vùng Ne-ghép của Giu-đa, tại Bơ-e Se-va. 8 Họ đã rảo qua khắp
xứ, và sau chín tháng hai mươi ngày, họ về Giê-ru-sa-lem. 9 Ông
Giô-áp nộp cho vua con số của cuộc điều tra dân số: Ít-ra-en có tám trăm ngàn
chiến binh biết tuốt gươm, và Giu-đa có năm trăm ngàn.
Bệnh
dịch. Thiên Chúa tha thứ. (1 Sb 21:7-17)
10
Vua
Ða-vít áy náy trong lòng sau khi đã kiểm tra dân số như vậy. Vua Ða-vít thưa
cùng Ðức Chúa: "Con đã phạm tội nặng khi làm như thế. Giờ đây, lạy Ðức
Chúa, xin bỏ qua lỗi lầm của tôi tớ Ngài, vì con đã hành động rất ngu xuẩn.” 11
Sáng hôm sau, khi vua Ða-vít dậy, đã có lời Ðức Chúa phán với ngôn sứ
Gát, thầy chiêm của vua Ða-vít, rằng: 12 "Hãy đi nói với
Ða-vít: Ðức Chúa phán thế này: "Ta đưa ra cho ngươi ba điều. Ngươi hãy
chọn lấy một trong ba, và Ta sẽ thực hiện cho ngươi.” 13 Vậy ông Gát
đến gặp vua Ða-vít, báo cho vua và nói: "Ngài muốn điều gì xảy ra: hoặc
bảy năm đói trong toàn nước ngài, hoặc ba tháng chạy trốn trước mặt kẻ thù đuổi
theo ngài, hoặc ba ngày ôn dịch? Bây giờ xin ngài suy nghĩ xem tôi phải trả lời
thế nào cho Ðấng đã sai tôi.” 14 Vua Ða-vít nói với ông Gát:
"Tôi lâm vào cảnh rất ngặt nghèo. Thà chúng ta sa vào tay Ðức Chúa còn
hơn, vì lòng thương của Người bao la, nhưng ước chi tôi đừng sa vào tay người
phàm!"
15
Ðức
Chúa giáng ôn dịch xuống Ít-ra-en từ sáng hôm đó cho đến lúc đã định, và từ Ðan
tới Bơ-e Se-va, có bảy mươi ngàn người trong dân đã chết. 16 Thiên
sứ đưa tay về phía Giê-ru-sa-lem để tàn phá thành, nhưng Ðức Chúa hối tiếc vì
tai hoạ đó, và Người bảo thiên sứ có nhiệm vụ tiêu diệt dân: "Ðủ rồi! Bây
giờ rút tay lại." Thiên sứ của Ðức Chúa đang ở gần sân lúa của ông
A-rau-na, người Giơ-vút. 17 Vua Ða-vít thưa với Ðức Chúa, khi thấy
thiên sứ có nhiệm vụ đánh phạt dân, ông nói: "Ngài coi, chính con đã phạm
tội, chính con có lỗi; nhưng đàn chiên đó đã làm gì? Xin tay Ngài cứ đè trên
con và nhà cha con!"
Vua
Ða-vít dựng bàn thờ (1 Sb 21:18 -27)
18
Ngày
hôm đó, ông Gát đến gặp vua Ða-vít và nói với vua: "Xin ngài lên dựng một
bàn thờ để kính Ðức Chúa tại sân lúa của ông A-rau-na, người Giơ-vút.” 19 Vua
Ða-vít đi lên theo lời ông Gát, như Ðức Chúa đã truyền. 20 Ông
A-rau-na nhìn xuống, thấy vua và bề tôi đang đi qua phía mình. Ông A-rau-na
liền đi ra và sấp mặt xuống đất lạy vua. 21 Ông A-rau-na nói:
"Chẳng hay đức vua là chúa thượng tôi đến gặp tôi tớ người có mục đích
gì?" Vua Ða-vít nói: "Ðến mua sân lúa của ngươi và xây một bàn thờ để
kính Ðức Chúa, hầu chấm dứt tai ương đang làm hại dân.” 22 Ông
A-rau-na thưa với vua Ða-vít: "Xin đức vua là chúa thượng tôi cứ lấy sân
lúa và dâng lên cái gì ngài coi là tốt. Ngài xem: đây có bò làm lễ toàn thiêu,
có bàn đạp lúa và ách bò làm củi. 23 Thưa đức vua, tất cả những cái
đó, A-rau-na xin dâng đức vua." Ông A-rau-na thưa với vua: "Xin Ðức
Chúa, Thiên Chúa của ngài, khứng nhận cho ngài!"
24
Nhưng
vua nói với ông A-rau-na: "Không! Ta muốn mua của ngươi, giá cả sòng
phẳng, và ta không muốn dâng lên Ðức Chúa, Thiên Chúa của ta, những lễ toàn
thiêu mà ta không mất tiền mua." Vua Ða-vít đã trả mười lăm lượng bạc để
mua sân lúa và bò. 25 Vua Ða-vít xây một bàn thờ ở đó để kính Ðức
Chúa và dâng những lễ toàn thiêu và những lễ kỳ an. Ðức Chúa đã thương đến xứ
sở, và tai ương đã chấm dứt không làm hại Ít-ra-en nữa.
Các Vua 1
Chương 01
I.
Việc Kế Vị Vua Ða-Vít
Tuổi
già của vua Ða-vít và những âm mưu của A-đô-ni-gia-hu
1
Vua
Ða-vít đã già nua, tuổi tác; áo mặc bao nhiêu cũng không đủ ấm. 2 Các
bề tôi của vua mới thưa vua rằng: "Xin được tìm cho đức vua, chúa thượng
của hạ thần một cô trinh nữ, để nàng túc trực bên ngài và săn sóc cho ngài; có
nàng nằm trong lòng ngài, ngài sẽ cảm thấy ấm.” 3 Vậy họ đã tìm khắp
nơi trong toàn cõi Ít-ra-en để kiếm một thiếu nữ trẻ đẹp, và họ đã gặp cô
A-vi-sác, người Su-nêm. Họ dẫn nàng vào chầu vua. 4 Ðó là một thiếu
nữ cực kỳ xinh đẹp; thế là nàng trở thành người săn sóc và hầu hạ vua; nhưng
vua vẫn để nàng trinh nguyên. 5 Còn hoàng tử A-đô-ni-gia, con của bà
Khác-ghít, thì tự xưng vương mà rằng: "Ta sẽ làm vua!" Chàng sắm xe,
ngựa, và kiếm được năm mươi người chạy đàng trước mình. 6 Suốt đời
chàng, vua cha không hề cấm cản chàng, như nói: "Sao con lại làm
thế?" Vả lại trông chàng cũng khôi ngô tuấn tú, và bà mẹ chàng đã sinh ra
chàng sau Áp-sa-lôm. 7 Chàng móc nối với ông Giô-áp, con bà
Xơ-ru-gia và với tư tế Ép-gia-tha; họ đã theo phe A-đô-ni-gia. 8 Còn
tư tế Xa-đốc, ông Bơ-na-gia-hu, con ông Giơ-hô-gia-đa, ngôn sứ Na-than, ông
Sim-y, ông Rê-y và các anh hùng của vua Ða-vít, không ai ủng hộ A-đô-ni-gia-hu.
9
Khi
A-đô-ni-gia-hu sát tế chiên, bò và dê béo gần tảng đá Dô-khe-lét bên cạnh Ên
Rô-ghên, thì chàng mời tất cả các hoàng tử anh em mình cùng tất cả nhân sĩ
Giu-đa đang phục vụ nhà vua. 10 Nhưng ngôn sứ Na-than, ông
Bơ-na-gia-hu, các anh hùng và cả Sa-lô-môn em chàng, chàng cũng không mời.
Âm
mưu của ông Na-than và bà Bát Se-va
11
Bấy
giờ ông Na-than nói với bà Bát Se-va mẹ của Sa-lô-môn: "Bà không nghe biết
sao: A-đô-ni-gia-hu, con bà Khác-ghít đã làm vua, mà vua Ða-vít chúa thượng của
chúng ta không hay biết gì hết? 12 Bây giờ, này, tôi xin góp ý với bà để bà tự
cứu lấy mạng mình và mạng Sa-lô-môn con bà nữa. 13 Bà hãy đi yết
kiến vua Ða-vít và thưa với người: "Thưa đức vua, chúa thượng của tiện
thiếp, nào chẳng phải chính ngài đã thề với tiện thiếp rằng: Chắc chắn
Sa-lô-môn, con của ái khanh sẽ lên kế vị trên ngai báu ta? Vậy tại sao hoàng tử
A-đô-ni-gia-hu lại đã làm vua? 14 Này, khi bà còn đang ở đó hầu chuyện đức vua,
thì tôi sẽ vào sau, và bổ túc cho lời bà."
15
Bà
Bát Se-va vào chầu vua tại ngự phòng. (Vua đã quá già, và nàng A-vi-sác, người
Su-nêm, hầu hạ vua). 16 Bà Bát Se-va quỳ gối phủ phục trước mặt vua;
vua hỏi: "Có chuyện gì thế, ái khanh?” 17 Bà thưa với vua:
"Thưa chúa thượng, ngài đã nhân danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngài mà thề
với nữ tỳ của ngài rằng: "Sa-lô-môn con của ái khanh sẽ làm vua kế vị ta
trên ngai báu của ta. 18 Nhưng bây giờ, này, A-đô-ni-gia đã làm vua,
thế mà đức vua chúa thượng của tiện thiếp vẫn không hay biết. 19 Hoàng
tử đã sát tế bò, bê béo, chiên cừu nhiều vô kể, rồi mời tất cả các hoàng tử,
mời tư tế Ép-gia-tha, ông Giô-áp chỉ huy quân đội; còn Sa-lô-môn tôi tớ ngài
thì hoàng tử không mời. 20 Nhưng, chính nơi ngài, tâu đức vua chúa
thượng của tiện thiếp, nơi ngài toàn thể Ít-ra-en đều để mắt trông chờ, xem
ngài sẽ phán quyết cho ai lên kế vị ngài trên ngai báu của đức vua chúa thượng
của tiện thiếp. 21 Thành ra khi đức vua chúa thượng của tiện thiếp
đã an nghỉ với tổ tiên, thì tiện thiếp cùng với Sa-lô-môn con của tiện thiếp sẽ
phải mang tội."
22
Bà
còn đang trình bày với vua, thì ngôn sứ Na-than đến. 23 Người ta báo
tin cho vua hay có ngôn sứ Na-than đến. Ông đi vào phủ phục trước mặt vua, mặt
sát đất. 24 Ông Na-than nói: "Thưa đức vua chúa thượng tôi, thế
ra chính ngài đã phán quyết: "A-đô-ni-gia-hu sẽ làm vua kế vị ta, nó sẽ
ngồi trên ngai của ta. 25 Vì hôm nay hoàng tử đã xuống sát tế bò, bê
béo, chiên cừu nhiều vô kể, rồi mời tất cả các hoàng tử, các người chỉ huy quân
đội, tư tế Ép-gia-tha. Này họ đang ăn uống trước mặt hoàng tử ấy và hoan hô:
"Vua A-đô-ni-gia-hu muôn năm! 26 Còn bề tôi ngài là hạ thần đây, rồi tư tế
Xa-đốc, ông Bơ-na-gia-hu con ông Giơ-hô-gia-đa cũng như Sa-lô-môn bề tôi của
ngài, thì hoàng tử không mời. 27 Nếu sự việc này đã do đức vua chúa
thượng tôi quyết định, thì đúng là ngài đã không cho các bề tôi của ngài biết:
ai sẽ lên kế vị trên ngai báu của đức vua chúa thượng tôi."
28
Vua
Ða-vít lên tiếng nói: "Mời Bát Se-va vào cho ta." Bà vào chầu vua và
đứng trước mặt vua. 29 Bấy giờ vua thề và nói: "Ta thề nhân
danh Ðức Chúa, Ðấng đã giải thoát ta khỏi mọi cơn quẫn bách: 30 đúng
như ta đã thề với ái khanh nhân danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, rằng
Sa-lô-môn của ái khanh sẽ làm vua kế vị ta; chính nó sẽ ngự trên ngai ta, thay
thế ta, và ngay hôm nay ta sẽ thi hành như thế.” 31 Bà Bát Se-va quỳ
xuống phủ phục trước mặt vua, mặt sát đất, và nói: "Ðức vua Ða-vít chúa
thượng của tiện thiếp muôn muôn năm!” 32 Vua Ða-vít nói: "Gọi
vào đây cho ta tư tế Xa-đốc, ngôn sứ Na-than, ông Bơ-na-gia-hu con ông
Giơ-hô-gia-đa." Những người này vào chầu vua. 33 Vua nói với
họ: "Hãy đưa các bề tôi của chúa thượng các ngươi đi theo các ngươi; để
Sa-lô-môn con ta cỡi con la cái của ta, rồi đưa nó xuống Ghi-khôn. 34 Ở
đấy tư tế Xa-đốc và ngôn sứ Na-than sẽ xức dầu phong nó làm vua Ít-ra-en; các
ngươi sẽ rúc tù và và hô: "Vua Sa-lô-môn muôn năm! 35 Rồi các ngươi sẽ
theo nó đi lên, nó sẽ vào ngự trên ngai của ta, nó sẽ làm vua thay thế ta, vì
nó chính là người mà ta đã đặt lên cai quản Ít-ra-en và Giu-đa.” 36 Ông
Bơ-na-gia-hu con ông Giơ-hô-gia-đa thưa lại với vua và nói: "A-men, xin
Ðức Chúa, Thiên Chúa của đức vua chúa thượng của hạ thần phán như vậy! 37 Xin
Ðức Chúa cũng ở với vua Sa-lô-môn như đã ở với đức vua chúa thượng của hạ thần
và làm cho ngai báu của người trở nên vĩ đại hơn ngai báu của đức vua Ða-vít
chúa thượng của hạ thần."
38
Tư
tế Xa-đốc, ngôn sứ Na-than, ông Bơ-na-gia-hu con ông Giơ-hô-gia-đa, cùng với
quân Cơ-rê-thi và Pơ-lê-thi đi xuống; họ để hoàng tử Sa-lô-môn cỡi con la cái
của vua Ða-vít và đưa hoàng tử xuống Ghi-khôn. 39 Tư tế Xa-đốc lấy
sừng đựng dầu từ Nhà Lều và xức cho Sa-lô-môn. Người ta đã rúc tù và; toàn dân
hô: "Vua Sa-lô-môn muôn năm!” 40 Toàn dân tiến lên theo sau
vua. Dân chúng thổi sáo và reo vui đến nỗi đất cũng chuyển động vì tiếng hò la
của họ.
A-đô-ni-gia-hu
khiếp sợ
41
Ông
A-đô-ni-gia-hu cùng tất cả các người được mời đang ở với ông, vừa ăn xong, thì
nghe thấy; ông Giô-áp nghe tiếng tù và, thì nói: "Tiếng gì làm náo động
nội thành vậy?” 42 Họ còn đang nói, thì này, ông Giô-na-than con tư
tế Ép-gia-tha đi vào; ông A-đô-ni-gia-hu liền nói: "Vào đi, vì anh là một
dũng sĩ và là người mang tin mừng.” 43 Ông Giô-na-than trả lời và
nói với ông A-đô-ni-gia-hu: "Nguy to! Ðức vua Ða-vít chúa thượng của chúng
ta đã đặt Sa-lô-môn làm vua! 44 Ðức vua đã sai tư tế Xa-đốc, ngôn sứ Na-than,
ông Bơ-na-gia-hu con ông Giơ-hô-gia-đa, quân Cơ-rê-thi và Pơ-lê-thi cùng đi với
ông; họ để ông cỡi con la cái của đức vua. 45 Tư tế Xa-đốc và ngôn
sứ Na-than đã xức dầu phong ông làm vua, tại Ghi-khôn; rồi họ hò la kéo lên và
cả thành náo động. Ðó là tiếng ồn ào mà quý vị đã nghe thấy. 46 Hơn
nữa, Sa-lô-môn còn được ngồi trên ngai vua. 47 Quần thần đến chúc
mừng vua Ða-vít chúa thượng của chúng ta rằng: "Xin Thiên Chúa của ngài
làm cho danh Sa-lô-môn rạng ngời hơn danh ngài, cho ngai báu của người vĩ đại
hơn ngai báu của ngài." Vua phủ phục trên long sàng. 48 Vua nói
như thế này: "Chúc tụng Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, Ðấng hôm nay đã
ban cho mắt ta được thấy trong dòng dõi ta có người ngồi trên ngai ta!"
49
Bấy
giờ tất cả những người được A-đô-ni-gia-hu mời đều run sợ; họ đứng lên, bỏ đi,
mỗi người một ngả. 50 Còn A-đô-ni-gia-hu, vì sợ Sa-lô-môn, đã đứng
lên đi bám chặt lấy góc bàn thờ. 51 Người ta báo tin cho Sa-lô-môn
rằng: "Này A-đô-ni-gia-hu sợ vua Sa-lô-môn, nên đã bám chặt lấy góc bàn
thờ mà nói: "Hôm nay xin vua Sa-lô-môn thề hứa với tôi là người sẽ không
dùng gươm giết tôi tớ người.” 52 Sa-lô-môn nói: "Nếu ông ấy là
người lương thiện, thì không một sợi tóc nào trên đầu ông sẽ rơi xuống đất; còn
nếu người ta phát giác ông có tội, thì ông sẽ phải chết.” 53 Rồi vua
Sa-lô-môn truyền đưa ông xuống khỏi bàn thờ; ông đến sấp mình trước vua
Sa-lô-môn, và Sa-lô-môn bảo ông: "Về nhà ngươi đi!"
Chương 02
Di
chúc của vua Ða-vít
1
Khi
thấy mình đã gần đất xa trời, vua Ða-vít truyền dạy Sa-lô-môn con mình rằng: 2
"Cha sắp bước vào đoạn đường mà mọi người trên đời phải đi qua; con
hãy can đảm lên và sống cho xứng bậc nam nhi. 3 Hãy tuân giữ các
huấn lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của con, mà đi theo đường lối của Người, là
giữ các giới răn, mệnh lệnh, luật pháp, và chỉ thị của Người, như đã ghi trong
Luật Mô-sê. Như thế con sẽ thành công trong mọi việc con làm và trong mọi hướng
con đi, 4 và Ðức Chúa sẽ thực hiện lời Người đã phán với cha rằng:
"Nếu con cái ngươi sống cho phải đạo là hết lòng hết dạ bước đi trung thực
trước nhan Ta, thì ngươi sẽ không bao giờ thiếu người ngự trên ngai Ít-ra-en. 5
Con cũng đã biết Giô-áp, con của Xơ-ru-gia, đã làm gì cho cha, nó đã làm
gì cho hai người chỉ huy quân đội Ít-ra-en là Áp-ne, con của Ne, và A-ma-xa,
con của Gie-the; nó đã giết họ. Như thế trong thời bình nó đã đổ máu người như
trong thời chiến, làm cho đai lưng và giầy nó mang vấy máu chiến tranh. 6 Con
sẽ đối xử theo sự khôn ngoan của con, và đừng để cho đầu bạc của nó xuống âm
phủ bình an. 7 Còn đối với các con của Bác-di-lai, người Ga-la-át,
thì con sẽ cư xử nhân hậu, cho chúng được hưởng lộc của con, vì khi cha trốn
Áp-sa-lôm anh con, nó đã tiếp cứu cha như thế. 8 Và này, con còn vụ
Sim-y, con của Ghê-ra, người Ben-gia-min, thuộc Ba-khu-rim. Nó đã chửi rủa cha
thậm tệ hôm cha đến Ma-kha-na-gim; nhưng rồi nó lại xuống đón gặp cha ở sông
Gio-đan, và cha đã nhân danh Ðức Chúa mà thề với nó rằng: "Ta sẽ không
dùng gươm giết ngươi. 9 Nhưng con, con đừng để nó vô can, bởi vì con
là người khôn ngoan, và biết phải xử với nó như thế nào để bắt nó xuống âm phủ
với đầu bạc vấy máu."
10
Vua
Ða-vít đã an nghỉ với tổ tiên ông, và được chôn cất trong Thành vua Ða-vít. 11
Thời gian vua Ða-vít trị vì Ít-ra-en là bốn mươi năm: vua trị vì tại
Khép-rôn bảy năm và tại Giê-ru-sa-lem ba mươi ba năm.
Ông
A-đô-ni-gia-hu bị giết
12
Vua
Sa-lô-môn ngự trên ngai vua Ða-vít, thân phụ ông, và vương quyền của ông thật
là vững chắc. 13 Ông A-đô-ni-gia-hu, con bà Khác-ghít, đến gặp bà
Bát Se-va, mẹ vua Sa-lô-môn; bà hỏi ông: "Anh đến nói chuyện bình an
chứ?" Ông thưa: "Bình an.” 14 Ông nói tiếp: "Tôi có
việc muốn thưa với bà." Bà đáp: "Anh cứ nói.” 15 Ông nói:
"Hẳn bà cũng biết là vương quyền phải thuộc về tôi; và toàn thể Ít-ra-en
đều hướng về tôi, trông chờ tôi làm vua. Nhưng vương quyền ấy đã xoay chiều và
thuộc về em tôi, vì Ðức Chúa đã muốn như thế. 16 Vậy bây giờ tôi chỉ
có một điều xin bà, bà đừng ngoảnh mặt đi." Bà bảo ông: "Anh cứ nói.”
17 Ông liền nói: "Xin bà nói với vua Sa-lô-môn - vì người không
ngoảnh mặt từ chối bà đâu - xin người ban cho tôi nàng A-vi-sác, người Su-nêm,
làm vợ.” 18 Bà Bát Se-va nói: "Ðược, tôi sẽ thưa với vua hộ
anh.” 19 Bà Bát Se-va vào yết kiến vua Sa-lô-môn để thưa chuyện với
vua giúp A-đô-ni-gia-hu. Vua đứng lên, ra đón và sấp mình chào bà; đoạn vua
ngồi trên ngai, đồng thời cũng truyền đặt một ngai cho bà thái hậu, bà ngồi bên
hữu vua. 20 Bà nói: "Có một điều nhỏ mọn mẹ xin với con; con
đừng ngoảnh mặt đi." Vua nói với bà: "Thưa mẹ, mẹ cứ xin, vì con sẽ
không ngoảnh mặt từ chối mẹ.” 21 Bà liền nói: "Xin cho nàng
A-vi-sác, người Su-nêm, được làm vợ A-đô-ni-gia-hu, anh con.” 22 Vua
Sa-lô-môn trả lời và nói với mẹ: "Sao mẹ lại xin nàng A-vi-sác, người
Su-nêm, cho A-đô-ni-gia-hu? Mẹ xin cho anh ấy vương quyền luôn đi, vì anh ấy là
anh con mà, và đã có tư tế Ép-gia-tha cũng như Giô-áp, con Xơ-ru-gia, ủng hộ.” 23
Rồi vua Sa-lô-môn lấy danh Ðức Chúa mà thề: "Xin Thiên Chúa phạt ta
thế này và thế kia nữa, nếu A-đô-ni-gia-hu không mất mạng vì câu nói đó!” 24
Vậy bây giờ, có Ðức Chúa hằng sống! Ðấng đã làm cho ta được vững, và đặt
ta trên ngai Ða-vít phụ vương ta, Người cũng đã tạo lập cho ta một triều đại
như Người đã phán, ta thề rằng ngay hôm nay A-đô-ni-gia-hu sẽ phải chết!” 25
Ðoạn vua Sa-lô-môn sai ông Bơ-na-gia-hu, con ông Giơ-hô-gia-đa, đi hạ sát
ông A-đô-ni-gia-hu và ông này đã chết.
Số
phận ông Ép-gia-tha và ông Giô-áp
26
Còn
tư tế Ép-gia-tha thì vua bảo: "Ngươi hãy về A-na-thốt với ruộng đất của
ngươi, vì ngươi là con người đáng chết, nhưng hôm nay ta không giết ngươi, bởi
vì ngươi đã khiêng Hòm Bia của Ðức Chúa là Chúa Thượng ta, trước mặt Ða-vít phụ
vương ta, và ngươi đã chia sẻ mọi nỗi gian lao với phụ vương ta.” 27 Thế
là ông Sa-lô-môn cách chức ông Ép-gia-tha không cho làm tư tế Ðức Chúa nữa,
khiến cho lời Ðức Chúa đã phán về gia đình Ê-li tại Si-lô nên ứng nghiệm.
28
Hay
tin ấy, ông Giô-áp, người đã từng theo phe A-đô-ni-gia, tuy không ngả theo
Áp-sa-lôm, liền trốn vào Lều của Ðức Chúa và bám chặt lấy góc bàn thờ. 29 Người
ta báo tin cho Sa-lô-môn biết là ông Giô-áp đã trốn vào Lều của Ðức Chúa, và
này ông đang ở bên cạnh bàn thờ. Vua Sa-lô-môn sai ông Bơ-na-gia-hu, con ông
Giơ-hô-gia-đa và bảo: "Ði hạ sát hắn!” 30 Ông Bơ-na-gia-hu vào
Lều của Ðức Chúa và nói với ông Giô-áp: "Ðức vua phán thế này: Ði
ra!" Nhưng ông đáp: "Không, tôi sẽ chết ở đây." Ông Bơ-na-gia-hu
tường trình sự việc với vua: "Giô-áp đã nói và trả lời tôi như thế.” 31
Vua nói với ông: "Cứ làm như hắn nói; hạ sát hắn, rồi chôn hắn đi.
Như thế, ngươi sẽ làm cho ta và nhà cha ta được sạch vết máu vô tội Giô-áp đã
đổ ra. 32 Xin Ðức Chúa làm cho máu hắn lại đổ trên đầu hắn, vì hắn
đã hạ sát hai người công chính và tốt lành hơn hắn; hắn đã dùng gươm thủ tiêu
họ mà Ða-vít, thân phụ ta, không hay biết: đó là ông Áp-ne, con ông Ne, chỉ huy
quân đội Ít-ra-en, và ông A-ma-xa, con ông Gie-the, chỉ huy quân đội Giu-đa. 33
Như thế máu của họ lại đổ trên đầu Giô-áp và trên đầu dòng dõi hắn đến
muôn đời; còn Ða-vít và dòng dõi người, cũng như triều đại và ngai báu của
người sẽ được Ðức Chúa ban bình an đến muôn đời.” 34 Bấy giờ ông
Bơ-na-gia-hu, con ông Giơ-hô-gia-đa, đi lên, hạ sát, rồi chôn ông Giô-áp tại
nhà ông này trong sa mạc. 35 Vua đặt ông Bơ-na-gia-hu con ông
Giơ-hô-gia-đa thay thế ông Giô-áp đứng đầu quân đội và tư tế Xa-đốc thay thế
ông Ép-gia-tha.
Sim-y
thất lời và bị giết
36
Vua
sai người gọi Sim-y đến và bảo: "Ngươi hãy xây cho mình một ngôi nhà tại
Giê-ru-sa-lem mà ở, và không được rời khỏi đây, để đi bất cứ nơi nào khác. 37
Ngày nào ngươi rời khỏi đó và qua suối Kít-rôn, thì ngày ấy ngươi biết
chắc rằng ngươi sẽ phải chết; máu ngươi sẽ đổ trên đầu ngươi.” 38 Sim-y
thưa với vua: "Lời ngài nói thật là phải. Ðức vua, chúa thượng tôi, đã nói
thế nào, thì xin ngài cứ thi hành như vậy với bề tôi của ngài." Và Sim-y
cư ngụ lâu ngày tại Giê-ru-sa-lem.
39
Nhưng
rồi sau ba năm có hai người đầy tớ của Sim-y bỏ trốn, đến với ông A-khít, con
ông Ma-a-kha, vua Gát; và người ta báo cho Sim-y: "Này, các đầy tớ của ông
đang ở Gát.” 40 Sim-y liền trỗi dậy, thắng lừa, đi Gát, đến nhà ông
A-khít, để tìm đầy tớ; ông đến đó và đưa các đầy tớ của mình từ Gát trở về. 41
Người ta báo cho vua Sa-lô-môn biết Sim-y đã bỏ Giê-ru-sa-lem đi Gát và
đã trở về.
42
Vua
mới sai người gọi Sim-y đến và bảo: "Ta lại đã không bắt ngươi lấy Ðức
Chúa mà thề và ta đã cảnh giác ngươi rằng: ngày nào ngươi rời khỏi đây và đi
bất cứ nơi nào khác, thì ngươi biết chắc rằng ngươi sẽ phải chết; ngươi cũng đã
thưa với ta: "Lời ngài nói thật là phải, tôi xin tuân hành. 43 Vậy,
tại sao ngươi không giữ lời đã thề trước mặt Ðức Chúa và lệnh ta đã truyền cho
ngươi?” 44 Rồi vua nói với Sim-y: "Chính ngươi đã biết tất cả
sự độc ác - hẳn lòng ngươi quá rõ - mà ngươi đã làm cho Ða-vít thân phụ ta; xin
Ðức Chúa làm cho sự độc ác của ngươi lại giáng xuống đầu ngươi. 45 Còn
vua Sa-lô-môn thì được chúc phúc, và ngai báu của Ða-vít bền vững trước nhan
Ðức Chúa đến muôn đời.” 46 Vua ra lệnh cho ông Bơ-na-gia-hu con ông
Giơ-hô-gia-đa, và ông đã đi hạ sát Sim-y và y đã chết.
Vua
Sa-lô-môn nắm vững vương quyền trong tay.
Chương 03
II.
Tiểu Sử Sa-Lô-Môn Ðại Ðế
1.
Sa-Lô-Môn, Con Người Khôn Ngoan
Tiểu
dẫn
1
Sa-lô-môn
thành con rể của Pha-ra-ô vua Ai-cập, vì đã cưới công chúa vua Ai-cập, và đưa
nàng về Thành của Ða-vít, cho đến khi hoàn thành việc xây cất cung điện của
ông, cũng như Ðền Thờ Ðức Chúa và tường thành quanh Giê-ru-sa-lem. 2 Chỉ
có điều là dân chúng vẫn tế lễ trên các nơi cao, vì cho đến nay ông vẫn chưa
xây được ngôi đền nào kính Danh Ðức Chúa. 3 Tuy Sa-lô-môn yêu mến
Ðức Chúa, bước theo các lời chỉ dạy của Ða-vít, thân phụ ông; nhưng ông vẫn tế
lễ và đốt hương trên các nơi cao.
Giấc
mộng ở Ghíp-ôn (2 Sb 1:3-12)
4
Vua
đi Ghíp-ôn để tế lễ vì chỗ ấy là nơi cao quan trọng nhất; Sa-lô-môn dâng một
ngàn lễ vật toàn thiêu trên bàn thờ ấy. 5 Tại Ghíp-ôn, đang đêm Ðức
Chúa hiện ra báo mộng cho vua Sa-lô-môn, Thiên Chúa phán: "Ngươi cứ xin
đi, Ta sẽ ban cho.” 6 Vua Sa-lô-môn thưa: "Chính Ngài đã lấy
lòng nhân hậu lớn lao mà xử với tôi tớ Chúa là Ða-vít thân phụ con, như người
đã bước đi trước nhan Chúa cách trung thực, công chính, với tâm hồn ngay thẳng.
Chúa đã duy trì lòng nhân hậu lớn lao ấy đối với người, khi ban cho người có
một đứa con ngồi trên ngai của người hôm nay. 7 Và bây giờ, lạy Ðức
Chúa là Thiên Chúa của con, chính Chúa đã đặt tôi tớ Chúa đây lên ngôi kế vị
Ða-vít, thân phụ con, mặc dầu con chỉ là một thanh niên bé nhỏ, không biết cầm
quyền trị nước. 8 Con lại ở giữa dân mà Chúa đã chọn, một dân đông
đúc, đông không kể xiết, cũng không đếm nổi. 9 Xin ban cho tôi tớ
Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải
trái; chẳng vậy, nào ai có đủ sức cai trị dân Chúa, một dân quan trọng như thế?”
10 Chúa hài lòng vì vua Sa-lô-môn đã xin điều đó. 11 Thiên
Chúa phán với vua: "Bởi vì ngươi đã xin điều đó, ngươi đã không xin cho
được sống lâu, hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết,
nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, 12 thì này, Ta làm
theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi
trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp. 13
Cả điều ngươi không xin, Ta cũng sẽ ban cho ngươi: giàu có, vinh quang,
đến nỗi suốt đời ngươi không có ai trong các vua được như ngươi. 14 Và
nếu ngươi bước theo các đường lối của Ta, là tuân giữ các giới răn và mệnh lệnh
của Ta, như Ða-vít thân phụ ngươi, thì Ta sẽ kéo dài ngày đời của ngươi.” 15
Sa-lô-môn tỉnh dậy, thì ra đó là một giấc mộng. Ông trở về Giê-ru-sa-lem
và đứng trước Hòm Bia Giao Ước của Chúa; ông thượng tiến lễ toàn thiêu, dâng lễ
kỳ an và thết tất cả các bề tôi của mình một bữa tiệc.
Vua
Sa-lô-môn xử kiện
16
Bấy
giờ có hai người gái điếm vào chầu vua. Khi đứng trước mặt vua, 17 thì
một người nói: "Ôi, thưa chúa thượng tôi, tôi và người đàn bà này cùng ở
một nhà; và tôi sinh một đứa con, trong lúc chị này cùng ở đó với tôi. 18 Tôi
sinh được ba ngày, thì người đàn bà này cũng sinh. Chúng tôi ở chung với nhau;
ngoài hai chúng tôi ra, không có ai khác trong nhà. 19 Ðêm nọ, đứa
con của chị này chết, vì chị đè lên nó; 20 giữa đêm chị thức dậy, và
trong khi nữ tỳ của ngài vẫn ngủ, thì chị bế đứa con của tôi đang nằm cạnh tôi,
và đặt trong lòng mình, còn đứa con đã chết của chị, chị đặt vào lòng tôi. 21
Ðến sáng khi tôi thức dậy cho con bú, thì này đứa bé đã chết. Nhưng khi
tôi nhìn kỹ nhờ ánh sáng ban ngày, thì ra nó không phải là đứa con tôi đã sinh
ra.” 22 Người đàn bà kia trả lời: "Không phải thế, vì con tôi
còn sống, con chị mới là đứa chết." Nhưng người này lại nói: "Không
phải, con chị mới là đứa chết, đứa sống là con tôi." Và họ cãi nhau trước
mặt vua. 23 Bấy giờ vua nói: "Chị này bảo: "Ðứa sống này
là con tôi, con chị mới là đứa chết. Chị kia đáp lại: "Không phải thế, con
chị mới là đứa chết, nhưng con tôi còn sống.” 24 Rồi vua ra lệnh:
"Ðưa cho ta chiếc gươm." Người ta đưa tới trước mặt vua một chiếc
gươm. 25 Và vua quyết định: "Phân đứa trẻ còn sống ra làm hai,
và cho mỗi người một nửa!” 26 Bấy giờ người mẹ của đứa trẻ còn sống,
động lòng thương con mình, liền thưa với vua: "Ôi! thưa chúa thượng tôi,
xin ngài cho chị ấy đứa trẻ còn sống; còn giết chết nó, thì xin đừng!"
Người kia nói: "Chẳng phải con tôi, cũng chẳng phải con chị, cứ chia ra!” 27
Bấy giờ vua lên tiếng nói: "Trao đứa trẻ còn sống cho người nói
trước, và đừng giết nó, chính nàng mới là mẹ nó.” 28 Toàn thể
Ít-ra-en nghe biết vụ án vua đã xử, đều kính sợ vua, vì thấy rằng Thiên Chúa đã
phú bẩm cho vua một sự khôn ngoan lạ lùng để người xét xử.
Chương 04
& 05
04
Các
viên chức cao cấp của vua Sa-lô-môn
1
Vua
Sa-lô-môn cai trị toàn cõi Ít-ra-en. 2 Và đây là các viên chức của
vua: A-dác-gia-hu, con của Xa-đốc, làm tư tế.
3
Ê-li-khô-rép
và A-khi-gia, hai người con của Si-sa làm ký lục.
Giơ-hô-sa-phát,
con của A-khi-lút, làm ngự sử.
4
Bơ-na-gia-hu,
con của Giơ-hô-gia-đa, chỉ huy quân đội.
Xa-đốc
và Ép-gia-tha làm tư tế.
5
A-dác-gia-hu,
con của Na-than, chỉ huy các trưởng vùng.
Da-vút,
con tư tế Na-than, làm cố vấn của vua.
6
A-khi-sa
đặc trách cung điện.
A-đô-ni-ram,
con của Áp-đa, đặc trách dân công.
Các
trưởng vùng của vua Sa-lô-môn
7
Vua
Sa-lô-môn có mười hai trưởng vùng trên toàn cõi Ít-ra-en. Họ cống hiến lương
thực cho vua và triều đình, hằng năm mỗi người cống hiến một tháng.
8
Ðây
là danh sách họ:
Con
ông Khua trong vùng núi Ép-ra-im.
9
Con
ông Ðe-ke, ở Ma-cát, Sa-an-vim, Bết Se-mét và Ê-lôn cho đến Bết Kha-nan.
10
Con
ông Khe-xét tại A-rúp-bốt; Xô-khô và tất cả miền Khê-phe cũng thuộc quyền ông.
11
Con
ông A-vi-na-đáp coi tất cả cao nguyên vùng Ðo. Vợ ông là công chúa Ta-phát, ái
nữ của vua Sa-lô-môn.
12
Ông
Ba-a-na, con ông A-khi-lút coi Ta-nác, Mơ-ghít-đô đến tận bên kia Gióc-mơ-am và
tất cả Bết San gần Xác-than, bên dưới Gít-rơ-en từ Bết San cho đến A-vên
Mơ-khô-la.
13
Con
ông Ghe-ve tại Ra-mốt Ga-la-át; ông coi các thôn làng của ông Gia-ia con ông
Mơ-na-se nằm trong miền Ga-la-át, và vùng đất Ác-gốp tại Ba-san, tất cả là sáu
mươi thành lớn có tường vây và then cài bằng đồng.
14
Ông
A-khi-na-đáp, con ông Ít-đô, ở Ma-kha-na-gim.
15
Ông
A-khi-ma-át tại Náp-ta-li; ông cũng cưới công chúa Ba-xơ-mát, ái nữ của vua
Sa-lô-môn làm vợ.
16
Ông
Ba-a-na, con ông Khu-sai, ở A-se và Bơ-a-lốt.
17
Ông
Giơ-hô-sa-phát, con ông Pa-ru-ác, ở Ít-xa-kha.
18
Ông
Sim-y, con ông Ê-la, ở Ben-gia-min.
19
Ông
Ghe-ve, con ông U-ri, trong đất Ga-la-át, đất của Xi-khôn vua dân E-mô-ri và Ốc
vua Ba-san.
Và
trong xứ chỉ có một trưởng vùng.
05
7
Các
trưởng vùng này, mỗi người một tháng, cống hiến lương thực cho vua Sa-lô-môn và
cho tất cả những người được lui tới bàn ăn của vua Sa-lô-môn, họ không để cho
vua phải thiếu gì. 8 Lúa mạch và rơm rạ cho ngựa tải đồ và ngựa
trận, nơi nào có nhu cầu, họ cũng phải cung cấp, theo mức quy định cho mỗi
người. 2 Thực phẩm cung cấp cho vua Sa-lô-môn mỗi ngày là: sáu trăm
thùng tinh bột, một ngàn hai trăm thùng bột thường, 3 mười con bò
thịt và hai mươi con bò nuôi, một trăm con cừu, không kể nai, linh dương, sơn
dương và chim gáy béo để ăn thịt. 4 Vì vua thống trị khắp Vùng bên
kia Sông Cả, từ Típ-xác đến Ga-da, thống trị hết, các vua bên kia Sông Cả, và
vua sống bình an với mọi vùng ranh giới chung quanh. 5 Giu-đa và
Ít-ra-en được an cư, mỗi người dưới cây nho và cây vả của mình, từ Ðan tới Bơ-e
Se-va trong suốt thời vua Sa-lô-môn cai trị.
04
20
Giu-đa
và Ít-ra-en thật đông dân, đông như cát ngoài bãi biển. Họ ăn, họ uống và vui
sướng thoả thuê.
05
1
Vua
Sa-lô-môn có quyền trên tất cả các nước, từ Sông Cả đến đất của người
Phi-li-tinh, và đến ranh giới Ai-cập. Họ phải triều cống và phục vụ vua
Sa-lô-môn suốt đời vua. 6 Vua Sa-lô-môn có bốn ngàn ngăn chuồng cho
ngựa kéo và mười hai ngàn con ngựa cưỡi.
Danh
tiếng vua Sa-lô-môn
9
Thiên
Chúa cho vua Sa-lô-môn được dồi dào khôn ngoan, thông thạo, và một trái tim bao
la như cát ngoài bãi biển. 10 Sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn trổi
vượt hơn sự khôn ngoan của tất cả mọi người Phương Ðông và hơn tất cả sự khôn
ngoan của Ai-cập. 11 Ông khôn ngoan hơn bất cứ ai, hơn ông Ê-than
người Ét-ra, hơn ông Hê-man, ông Can-côn, ông Ðác-đa, ba người con của ông
Ma-khôn; danh tiếng vua đồn ra khắp các dân tộc chung quanh. 12 Vua
đọc được ba ngàn câu cách ngôn, và các bài ca của vua là một ngàn không trăm lẻ
năm bài. 13 Vua nói về các thứ cây, từ cây bá hương ở Li-băng cho
tới cây ngưu tất mọc ở bờ tường; vua cũng bàn tới các thú vật, các loài chim,
các thứ rắn rết và các loại cá. 14 Từ mọi dân tộc, thiên hạ kéo tới
nghe sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn; vua nhận được tặng phẩm của tất cả các
vua trên mặt đất đã nghe biết sự khôn ngoan của vua.
2.
Sa-Lô-Môn, Con Người Xây Cất.
Chuẩn
bị xây Ðền Thờ (2 Sb 2:2-15)
15
Khi-ram,
vua thành Tia, sai bề tôi của mình đến yết kiến vua Sa-lô-môn, khi vua biết ông
được xức dầu phong vương kế vị thân phụ ông; vì vua Khi-ram vốn là bạn thân của
vua Ða-vít lúc sinh thời. 16 Vua Sa-lô-môn sai sứ đi thưa với vua
Khi-ram rằng: 17 "Ngài biết là Ða-vít thân phụ tôi không thể
xây Ðền Thờ kính danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của người được, vì chiến tranh bao
bọc tư bề, bao lâu Ðức Chúa chưa cho người đè bẹp quân thù dưới chân. 18 Nay
thì Ðức Chúa cho tôi được bốn bề yên ổn, không có người chống đối, cũng chẳng
gặp số phận rủi ro. 19 Vậy tôi nghĩ phải xây một Ðền Thờ kính danh
Ðức Chúa, Thiên Chúa của tôi, như Ðức Chúa đã phán bảo Ða-vít thân phụ tôi
rằng: "Con của ngươi, người Ta sẽ cho kế vị ngươi trên ngai báu, chính nó
sẽ xây Ðền Thờ kính Danh Ta. 20 Vậy bây giờ, xin ngài ra lệnh đốn
cho tôi những cây bá hương Li-băng. Bề tôi của tôi sẽ hợp tác với bề tôi của ngài,
và tôi sẽ trả tiền công cho bề tôi của ngài, như ngài ấn định. Hẳn ngài đã rõ
không ai trong chúng tôi biết đốn cây như người Xi-đôn.” 21 Khi nghe
những lời của vua Sa-lô-môn, vua Khi-ram rất đỗi vui mừng và nói: "Hôm nay
xin chúc tụng Ðức Chúa, vì Người đã ban cho Ða-vít một người con khôn ngoan cai
trị dân đông đảo này.” 22 Rồi vua Khi-ram sai người đến nói với vua
Sa-lô-môn: "Tôi đã nghe biết điều ngài sai sứ giả đến nói với tôi. Tôi sẽ
thi hành mọi ước muốn của ngài về gỗ bá hương và gỗ trắc. 23 Bề tôi
của tôi sẽ đưa những thứ đó từ Li-băng xuống biển; tôi sẽ đóng bè ngoài biển,
chở tới chỗ ngài yêu cầu, ở đấy tôi sẽ phá bè và ngài sẽ lấy đi. Còn ngài, xin
cũng thực hiện điều tôi ước muốn, là cung cấp thực phẩm cho triều đình tôi.” 24
Thế là vua Khi-ram cung cấp cho vua Sa-lô-môn tất cả gỗ bá hương và gỗ
trắc như vua Sa-lô-môn muốn. 25 Và vua Sa-lô-môn trao cho vua
Khi-ram bốn trăm ngàn thùng lúa miến làm lương thực cho triều đình của vua này,
với bốn mươi ngàn thùng dầu nguyên chất. Vua Sa-lô-môn cung cấp cho vua Khi-ram
như thế hằng năm. 26 Ðức Chúa cho vua Sa-lô-môn được khôn ngoan như
Người đã phán với vua; vua Sa-lô-môn và vua Khi-ram giao hảo với nhau và hai
bên đã kết ước.
27
Vua
Sa-lô-môn ra lệnh cho toàn thể Ít-ra-en đi dân công: có ba mươi ngàn người đi
dân công. 28 Vua sai họ thay phiên nhau đi Li-băng mỗi tháng mười
ngàn người, họ ở Li-băng một tháng, rồi ở nhà hai tháng. Ông A-đô-ni-ram đặc
trách dân công. 29 Vua Sa-lô-môn có bảy mươi ngàn phu khuân vác và
tám mươi ngàn thợ đục đá trong núi, 30 không kể những người chỉ huy
do các trưởng vùng của vua Sa-lô-môn đặt phụ trách công việc; số người này là
ba ngàn ba trăm người: họ điều khiển dân chúng tiến hành công việc 31 Vua ra
lệnh phải đẽo những phiến đá lớn, đá lựa riêng để xây nền móng Ðền thờ, được
đục đẽo vuông vắn. 32 Thợ nề của vua Sa-lô-môn cùng với thợ nề của
vua Khi-ram và những người Gơ-van đẽo và chuẩn bị sẵn sàng gỗ đá để xây Ðền
Thờ.
Chương 06
Xây
cất Ðền Thờ
1
Năm
thứ bốn trăm tám mươi từ khi con cái Ít-ra-en ra khỏi đất Ai-cập, năm thứ tư
triều đại vua Sa-lô-môn cai trị Ít-ra-en tháng Diu tức là tháng thứ hai, vua
xây Ðền Thờ kính Ðức Chúa. 2 Ðền vua Sa-lô-môn xây kính Ðức Chúa dài
ba mươi thước, rộng mười thước và cao mười lăm thước. 3 Tiền đình ở
trước gian Cung Thánh của Ðền Thờ dài mười thước nằm theo chiều rộng của Ðền
Thờ, rộng năm thước nằm theo chiều dài của Ðền Thờ. 4 Vua làm Ðền
Thờ có cửa sổ với khung và chấn song. 5 Vua xây dựa vào tường Ðền
Thờ một cái chái bọc các tường chung quanh gian Cung Thánh và Nơi Cực Thánh, và
làm các tầng chái chung quanh. 6 Tầng dưới rộng hai thước rưỡi, tầng
giữa rộng ba thước, và tầng thứ ba rộng ba thước rưỡi, vì chung quanh Ðền Thờ,
phía ngoài, vua đã xây thụt vào để khỏi đóng đà vào tường Ðền Thờ. 7 Khi
xây Ðền Thờ, người ta dùng đá đẽo toàn khối, đang khi xây, trong Ðền Thờ không
hề nghe thấy tiếng búa tiếng rìu, hay bất cứ dụng cụ nào bằng sắt. 8 Cửa
vào tầng giữa nằm bên hông phải Ðền Thờ, và người ta dùng thang xoáy đi lên
tầng giữa; rồi từ tầng giữa lên tầng ba. 9 Khi xây Ðền Thờ xong, vua
dùng gỗ bá hương chạm trổ mỹ thuật mà đóng trần Ðền Thờ. 10 Rồi vua
xây hành lang chung quanh Ðền Thờ, cao hai thước rưỡi, và được nối liền với Ðền
Thờ bằng những cái đà gỗ bá hương. 11 Có lời Ðức Chúa phán bảo vua
Sa-lô-môn rằng: 12 "Vì Ðền Thờ ngươi đang xây đây, nếu ngươi
tiến bước theo các giới răn, thực hành các huấn lệnh của Ta và tuân giữ các
mệnh lệnh Ta truyền, mà bước theo các điều ấy, thì Ta sẽ thực hiện cho ngươi
các lời Ta đã phán với Ða-vít, thân phụ ngươi. 13 Ta sẽ lưu ngự giữa
con cái Ít-ra-en; Ta sẽ không bỏ Ít-ra-en, dân Ta.” 14 Vua Sa-lô-môn
đã hoàn thành việc xây cất Ðền Thờ.
Trần
thiết bên trong - Nơi Cực Thánh (2 Sb 3:8-9)
15
Vua
dùng ván bá hương ghép mặt trong của Ðền Thờ, từ nền cho tới đà của trần nhà;
như thế toàn bộ mặt trong của Ðền Thờ được ghép gỗ; nền nhà thì vua lát ván gỗ
trắc. 16 Vua dùng ván bá hương lát mười thước phần sau của Ðền Thờ,
từ nền cho tới trần nhà; và dành phần đó làm Ðơ-via, tức là Nơi Cực Thánh. 17
Cung Thánh, tức là Hê-can, ở trước Ðơ-via, được hai mươi thước. 18 Gỗ
bá hương ghép bên trong Cung Thánh được trạm trổ hình trái mướp đắng và nhành
hoa; toàn là gỗ bá hương, chứ không thấy đá. 19 Vua lập một Nơi Cực
Thánh ở giữa Ðền Thờ, phía trong, để đặt Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa. 20
Nơi Cực Thánh dài mười thước, rộng mười thước, và cao mười thước, và vua
dát vàng ròng; vua cũng làm bàn thờ bằng gỗ bá hương. 21 Vua
Sa-lô-môn dát vàng ròng phía trong Cung Thánh, trước Nơi Cực Thánh vua cũng dát
vàng. 22 Tất cả Ðền Thờ vua đều dát vàng, không trừ một chỗ nào; bàn
thờ Nơi Cực Thánh vua cũng dát toàn vàng.
Các
Kê-ru-bim (2 Sb 3:10 -14)
23
Trong
Nơi Cực Thánh vua làm hai Kê-ru-bim bằng gỗ ô-liu, cao năm thước. 24 Một
cánh của một Kê-ru-bim dài hai thước rưỡi, cánh kia cũng hai thước rưỡi; thành
ra từ đầu cánh này tới đầu cánh kia là năm thước. 25 Kê-ru-bim thứ
hai cũng đo được năm thước; hai Kê-ru-bim có một kích thước và hình thể như
nhau. 26 Chiều cao của một Kê-ru-bim là năm thước; Kê-ru-bim thứ hai
cũng thế. 27 Vua đặt các Kê-ru-bim ở giữa Nhà, phía bên trong; cánh
xoè ra: một cánh của Kê-ru-bim thứ nhất đụng tường bên này, và một cánh của
Kê-ru-bim thứ hai đụng tường bên kia; hai cánh khác giao nhau ở giữa Nhà, cánh
nọ chạm cánh kia. 28 Vua cũng dát vàng các Kê-ru-bim. 29 Trên
khắp các tường chung quanh Nhà, vua chạm trổ những hình Kê-ru-bim, hình cây chà
là và nhành hoa, cả trong lẫn ngoài. 30 Sàn Nhà, vua cũng dát vàng,
cả phía trong lẫn phía ngoài.
Cửa
- Sân
31
Ở
lối vào Nơi Cực Thánh, vua làm cánh cửa bằng gỗ ô-liu quý, khung cửa có năm
cạnh. 32 Trên hai cánh cửa bằng gỗ ô-liu, vua chạm trổ những hình
Kê-ru-bim, hình cây chà là và nhành hoa, rồi vua dát vàng; vua trải mỏng vàng
trên các Kê-ru-bim và các cây chà là. 33 Cửa vào Cung Thánh, vua
cũng làm như thế; trụ khung cửa bằng gỗ ô-liu, nhưng có bốn cạnh, 34 hai
cánh cửa bằng gỗ trắc: một cánh có hai tấm xoay được, và cánh kia cũng có hai
tấm xoay được. 35 Vua chạm trổ hình Kê-ru-bim, hình cây chà là và
nhành hoa, và dát vàng hoàn toàn khít với hình nổi.
36
Vua
xây sân trong: ba hàng đá, đục đẽo mỹ thuật và một hàng thanh gỗ trắc.
Thời
gian xây Ðền Thờ
37
Năm
thứ tư, tháng Diu, người ta đặt nền móng Ðền Thờ Ðức Chúa; 38 năm
thứ mười một, tháng Bun, tức là tháng thứ tám, công trình xây cất Ðền Thờ, cả
quy mô lẫn chi tiết, đều được hoàn thành. Vua đã xây cất Ðền Thờ trong bảy năm.
Chương 07
Cung
điện vua Sa-lô-môn
1
Vua
Sa-lô-môn xây dựng cung điện của mình mất mười ba năm mới xong. 2 Vua
đã xây Cung Rừng Li-băng, dài năm mươi thước, rộng hai mươi lăm thước, cao mười
lăm thước, với bốn hàng cột bằng gỗ bá hương; trên các cột có ghép các thanh gỗ
bá hương. 3 Trần nhà bằng gỗ bá hương được đặt trên bốn mươi lăm
chiếc đà, mỗi khoang mười lăm chiếc, có cột chống đỡ. 4 Ba hàng cửa
sổ, hàng này đối diện với hàng kia, thành bộ ba. 5 Tất cả các cửa và
khung cửa đều có bốn cạnh, bên này đối diện với bên kia, thành bộ ba. 6 Vua
cũng làm hành lang nhiều cột, dài hai mươi lăm thước, rộng mười lăm thước, và
phía mặt tiền hành lang có một mái hiên với tường hoa. 7 Vua còn làm
hành lang đặt ngai vàng, là nơi vua xét xử, và cũng là hành lang công lý, được
ghép gỗ bá hương từ sàn tới mái nhà. 8 Và cung điện nơi vua cư ngụ
cũng như sân bên trong hành lang, đều cùng một kiểu như nhau. Còn phòng vua làm
cho ái nữ Pha-ra-ô mà vua đã cưới làm vợ, thì cũng giống như các hành lang ấy.
9
Tất
cả đều bằng đá phiến, đẽo gọt theo kích thước và xẻ bằng cưa, bên trong cũng
như bên ngoài, từ nền cho tới kèo nhà. 10 Nền nhà lát đá hảo hạng,
đá lớn, đá rộng năm thước và đá rộng bốn thước.11 Phần trên thì bằng đá quý,
đẽo gọt theo kích thước và bằng gỗ bá hương. 12 Chung quanh sân lớn
có ba hàng đá đẽo và một hàng ván bá hương; sân trong Ðền Thờ Ðức Chúa và tiền
đình cung điện cũng vậy.
Ông
thợ đồng Khi-ram
13
Vua
Sa-lô-môn sai người đi Tia mời ông Khi-ram đến; 14 ông là con một bà
goá thuộc chi tộc Náp-ta-li; thân phụ ông là người Tia và làm thợ gò đồng. Ông
rất khôn ngoan, thành thạo và tài khéo trong mọi công việc thuộc nghề đồng. Vậy
ông vào chầu vua Sa-lô-môn và làm mọi công việc của vua.
Các
trụ đồng (2 Sb 3:15 -17)
15
Ông
đúc hai trụ đồng; trụ thứ nhất cao chín thước; lấy dây mà đo chu vi trụ thì
được sáu thước; trụ thứ hai cũng thế. 16 Ông đúc hai đầu trụ bằng
đồng, để đặt trên các trụ, chiều cao của đầu trụ thứ nhất là hai thước rưỡi,
chiều cao của đầu trụ thứ hai cũng hai thước rưỡi. 17 Ông làm những
màng lưới mắt cáo, kiểu lưới bằng thừng xoắn lại, kết thành những dây hoa đeo
lên đầu trụ nằm trên đỉnh trụ, bảy dây hoa cho đầu trụ thứ nhất và bảy dây hoa
cho đầu trụ thứ hai. 18 Ông làm hai hàng trái thạch lựu chung quanh
lưới mắt cáo bọc đầu trụ nằm trên đỉnh trụ, và đầu trụ thứ hai ông cũng làm như
thế. 19 Còn các đầu trụ trên đỉnh trụ thì ông làm tất cả theo hình
bông huệ, dài hai thước. 20 Phần thượng các đầu trụ trên hai trụ,
sát với bầu trụ, ông cũng làm một hàng hai trăm trái thạch lựu chung quanh cả
hai đầu trụ. 21 Ông dựng cột tiền đình của Cung Thánh, ông dựng cột
bên phải và đặt tên là Gia-khin, rồi dựng cột bên trái và gọi là Bô-át. 22
Trên đầu các cột ông làm hình bông huệ. Công việc làm cột thế là hoàn
tất.
Bể
nước bằng đồng (2 Sb 4:2-5)
23
Ông
đúc một bể nước rộng năm thước từ mép nọ tới mép kia, hình tròn, cao hai thước
rưỡi; lấy dây mà đo chu vi của bể thì được mười lăm thước. 24 Bên
dưới mép bể có những hình trái mướp đắng chạy vòng quanh bể, cứ nửa thước là
mười trái, khắp chung quanh bể; hai hàng trái mướp đắng cùng đúc một lượt với
bể. 25 Bể được đặt trên mười hai con bò: ba con quay mặt về hướng
Bắc, ba con quay mặt về hướng Tây, ba con quay mặt về hướng Nam, và ba con quay
mặt về hướng Ðông; bể đặt bên trên chúng, và các phần mông của chúng đều quay
vào trong. 26 Chiều dày của bể là một tấc, và mép nó giống như mép
một cái chén hình hoa huệ. Bể chứa được bốn ngàn thùng.
Giàn
lăn và bồn nước bằng đồng
27
Ông
làm mười giàn bằng đồng; mỗi cái dài hai thước, rộng hai thước và cao một thước
rưỡi. 28 Các giàn ấy được làm như thế này: giàn có những đòn ngang
ghép thành khung. 29 Trên những đòn ngang ghép thành khung ấy có
khắc hình sư tử, bò và Kê-ru-bim; trên các khung, phía trên phía dưới các con
sư tử và bò có những nhành hoa rủ xuống như đeo. 30 Mỗi giàn có bốn
bánh xe bằng đồng, với những cái trục; bốn chân của nó có bờ vai đỡ bồn nước;
các bờ vai này đều được đúc và bên kia mỗi bờ vai là những nhành hoa. 31 Bên
trong vòng là cái miệng giàn cao nửa thước; miệng nó tròn, đo được bảy tấc
rưỡi. Trên miệng nó cũng có những hình nổi. Các đòn ngang thì lại vuông chứ
không tròn. 32 Bên dưới các đòn ngang có bốn bánh xe; các chốt bánh
xe được gắn với giàn; chiều cao của mỗi bánh xe là bảy tấc rưỡi. 33 Người
ta làm các bánh xe này cũng như bánh xe thường; chốt, vành, thang bánh xe và
đùm bánh xe, tất cả đều đúc. 34 Có bốn bờ vai ở bốn góc của mỗi
giàn; các bờ vai này được gắn thành một với giàn. 35 Trên đỉnh giàn
có một vòng tròn cao hai tấc rưỡi; trên đỉnh giàn những cái mộng và các đòn
ngang làm thành một khối với giàn. 36 Trên mặt các mộng, ông trạm
trổ hình các Kê-ru-bim, sư tử và những trái chà là; giữa khoảng cách mỗi vật có
những nhành hoa chạy chung quanh. 37 Ông làm mười giàn đều như thế:
cùng đúc một kiểu, một kích thước, một hình thể như nhau.
38
Ông
làm mười bồn nước bằng đồng; mỗi bồn chứa được tám mươi thùng, và mỗi bồn cao
hai thước; mỗi bồn được đặt trên một trong mười giàn. 39 Ông đặt năm
giàn bên hông phải Ðền Thờ và năm giàn bên hông trái; còn bể thì ông đặt bên
phải Ðền Thờ, hướng đông nam.
Vật
dụng trong Ðền Thờ - Tóm lược (2 Sb 4:11 -5:1)
40
Ông
Khi-ram làm những chiếc vạc, những cái xẻng và bình rảy. Ông Khi-ram hoàn thành
tất cả công trình mà ông đã thực hiện cho vua Sa-lô-môn trong Ðền Thờ Ðức Chúa:
41
Hai
trụ, các bầu của các đầu trụ trên hai đỉnh trụ, hai màng lưới bọc hai bầu của
các đầu trụ trên đỉnh trụ. 42 Bốn trăm trái thạch lựu cho hai màng
lưới, mỗi màng lưới hai hàng thạch lựu, để bọc hai bầu của các đầu trụ trên
đỉnh trụ.
43
Mười
cái giàn và mười cái bồn đặt trên giàn.
44
Một
cái bể và mười hai con bò đỡ phía dưới.
45
Những
cái vạc, xẻng và bình rảy.
46
Vua
đúc các vật ấy tại đồng bằng Gio-đan, trên mặt đất sét, giữa Xúc-cốt và
Xác-than. 47 Vua Sa-lô-môn xếp đặt tất cả các vật ấy, chúng nhiều vô
kể, nên không tính được số lượng đồng.
48
Vua
Sa-lô-môn đã làm tất cả các vật dụng cho Ðền Thờ Ðức Chúa: bàn thờ bằng vàng,
bàn đặt bánh tiến cũng bằng vàng. 49 Các chân đèn: năm chiếc bên
phải và năm chiếc bên trái, trước Nơi Cực Thánh, tất cả bằng vàng ròng; hoa, đèn,
kéo cắt bấc đều bằng vàng; 50 chén, dao, bình rảy, bình hương, khay
đựng tro bằng vàng ròng; các chốt cánh cửa Ðền Thờ bên trong, tức là Nơi Cực
Thánh, và các chốt cánh cửa Ðền Thờ, tức là Cung Thánh, cũng bằng vàng.
51
Thế
là hoàn thành toàn bộ công trình mà vua Sa-lô-môn đã thực hiện cho Ðền Thờ Ðức
Chúa. Vua Sa-lô-môn đưa vào đó các vật thánh mà vua Ða-vít, thân phụ ông đã
dâng: bạc, vàng, các vật dụng; vua đặt các vật ấy trong kho Ðền Thờ Ðức Chúa.
Chương 08
Di
chuyển Hòm Bia Giao Ước (2 Sb 5:2-10)
1
Bấy
giờ vua Sa-lô-môn triệu tập bên mình, tại Giê-ru-sa-lem, các kỳ mục Ít-ra-en,
gồm tất cả các người đứng đầu các chi tộc cùng các trưởng tộc con cái Ít-ra-en,
để đưa Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa lên, từ Thành vua Ða-vít tức là Xi-on. 2
Mọi người Ít-ra-en tập hợp lại bên vua Sa-lô-môn trong tháng Ê-ta-nim tức
là tháng thứ bảy để mừng Lễ. 3 Tất cả các kỳ mục Ít-ra-en đều tới;
các tư tế thì khiêng Hòm Bia, 4 và đưa Hòm Bia của Ðức Chúa cũng như
Lều Hội Ngộ và tất cả các vật dụng thánh trong Lều lên. Các tư tế và các thầy
Lê-vi đưa những thứ ấy lên. 5 Vua Sa-lô-môn và toàn thể cộng đồng
Ít-ra-en tụ họp lại bên cạnh vua trước Hòm Bia, sát tế chiên bò nhiều vô kể,
không sao đếm nổi. 6 Các tư tế đưa Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa vào
nơi đã dành sẵn trong cung Ðơ-via của Ðền Thờ, tức là Nơi Cực Thánh, dưới cánh
các Kê-ru-bim. 7 Quả vậy, các Kê-ru-bim xoè cánh ra bên trên Hòm
Bia, che phía trên Hòm Bia và các đòn khiêng. 8 Các đòn này dài đến
nỗi từ Cung Thánh, trước Nơi Cực Thánh, có thể nhìn thấy các đầu đòn, nhưng từ
bên ngoài thì không thấy được. Các đòn này vẫn còn đó cho tới ngày nay. 9 Trong
Hòm Bia không có gì ngoài hai Bia đá ông Mô-sê đã đặt vào đó, trên núi Khô-rếp,
khi Ðức Chúa lập Giao Ước với con cái Ít-ra-en vào thời họ ra khỏi đất Ai-cập.
Thiên
Chúa ngự xuống Ðền Thờ (2 Sb 5:11-6:2)
10
Khi
các tư tế ra khỏi Cung Thánh, thì có đám mây toả đầy Ðền Thờ Ðức Chúa. 11 Các
tư tế không thể tiếp tục thi hành nhiệm vụ được vì đám mây: quả thật, vinh
quang Ðức Chúa đã tràn ngập Ðền Thờ Ðức Chúa.
12
Bấy
giờ vua Sa-lô-môn nói:
"Ðức
Chúa đã phán: Người sẽ ngự trong đám mây dày đặc. Vâng,
13
Con
đã xây cho Ngài một ngôi nhà cao sang. Một nơi để Ngài ngự muôn đời."
Vua
Sa-lô-môn hiệu triệu dân chúng (2Sb 6 :3-11)
14
Rồi
vua quay mặt lại chúc lành cho toàn thể cộng đồng Ít-ra-en, trong khi cả cộng
đồng Ít-ra-en đều đứng. 15 Vua nói: "Chúc tụng Ðức Chúa, Thiên
Chúa của Ít-ra-en, Ðấng đã ra tay hoàn thành điều chính miệng Người đã phán với
Ða-vít, thân phụ ta, rằng: 16 "Từ ngày Ta đưa Ít-ra-en dân Ta
ra khỏi Ai-cập, Ta đã không chọn một thành nào trong tất cả các chi tộc
Ít-ra-en để xây một ngôi nhà kính Danh Ta ở đó, nhưng Ta đã chọn Ða-vít đứng
đầu Ít-ra-en dân Ta. 17 Vậy Ða-vít thân phụ ta đã có ý xây một ngôi
nhà để kính Danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en. 18 Nhưng Ðức
Chúa lại phán với Ða-vít thân phụ ta: "Ngươi định tâm xây một ngôi nhà để
kính Danh Ta; ngươi định tâm như thế là tốt. 19 Có điều là ngươi sẽ
không xây nhà ấy, mà con của ngươi, kẻ từ lòng ngươi sinh ra, chính nó sẽ xây
nhà để kính Danh Ta. 20 Ðức Chúa đã thực hiện lời Người phán; ta đã
lên kế vị Ða-vít thân phụ ta và ngồi trên ngai Ít-ra-en, như Ðức Chúa đã phán;
ta đã xây nhà để kính Danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en; 21 tại
đó, ta đã chỉ định một nơi để đặt Hòm Bia có Giao Ước của Ðức Chúa, giao ước
Người đã thiết lập với cha ông chúng ta, khi Người đưa họ ra khỏi đất Ai-cập.
Vua
Sa-lô-môn cầu nguyện (2 Sb 6:12 -20)
22
Vua
Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của Ðức Chúa, trước toàn thể cộng đồng Ít-ra-en,
giơ hai tay lên trời và 23 thưa: "Lạy Ðức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en,
chốn trời cao cũng như nơi đất thấp, chẳng có thần nào giống như Ngài. Ngài vẫn
giữ giao ước và tình thương đối với các tôi tớ Ngài, khi họ hết lòng bước đi
trước nhan Ngài. 24 Ngài đã giữ lời Ngài đã phán tôi tớ Ngài là
Ða-vít thân phụ con, vì điều chính miệng Ngài phán, thì tay Ngài đã thực hiện,
như thấy hôm nay. 25 Giờ đây, lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en,
xin Ngài cũng giữ điều Ngài đã hứa với tôi tớ Ngài là Ða-vít thân phụ con là:
"Bao lâu con cái ngươi giữ đúng đường lối của chúng, là bước đi trước nhan
Ta như ngươi đã bước đi trước nhan Ta, thì ngươi sẽ không bao giờ thiếu người
ngồi trên ngai báu Ít-ra-en. 26 Vậy, lạy Thiên Chúa của Ít-ra-en,
xin thực hiện lời Ngài đã phán với Ða-vít thân phụ con. 27 Có thật
Thiên Chúa cư ngụ dưới đất chăng? Này, trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi
Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây! 28 Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của con!
Xin đoái đến lời tôi tớ Chúa cầu xin khẩn nguyện, mà lắng nghe tiếng kêu cầu
của tôi tớ Ngài dâng trước tôn nhan hôm nay. 29 Xin Ngài để mắt nhìn
đến ngôi nhà này đêm ngày, nhìn đến nơi này, vì Ngài đã phán "Danh Ta sẽ ở
đấy"; xin Ngài lắng nghe lời nguyện tôi tớ Ngài dâng ở nơi đây."
Cầu
cho dân (2 Sb 6:21 -31)
30
Xin
nghe lời nài van của tôi tớ Ngài và của Ít-ra-en dân Ngài dâng lên ở nơi đây.
Từ trời, nơi Ngài ngự, xin lắng nghe; xin lắng nghe và tha thứ.
31
Nếu
có ai xúc phạm đến đồng loại, và người ta lấy lời thề độc mà buộc nó phải đến
thề trước Bàn Thờ của Ngài trong Ðền Thờ này, 32 thì từ trời xin
Ngài lắng nghe và hành động; xin phân xử cho các tôi tớ Ngài, là lên án kẻ có
lỗi mà bắt nó phải cúi đầu chịu tội; còn người vô tội thì Ngài minh oan cho họ
được vô can.
33
Nếu
Ít-ra-en dân Ngài bị quân thù đánh bại vì đã xúc phạm đến Ngài, và nếu họ trở
lại với Ngài mà tuyên xưng Danh Ngài và cầu xin, khẩn nài trong Ðền Thờ này, 34
thì từ trời xin Ngài lắng nghe, thứ tha tội lỗi Ít-ra-en dân Ngài và đưa
họ về đất Ngài đã ban cho cha ông họ.
35
Khi
trời đóng lại và không có mưa vì họ đã xúc phạm đến Ngài, nếu họ cầu nguyện nơi
đây, tuyên xưng Danh Ngài, bỏ tội lỗi mà trở về, vì Ngài đã làm cho họ khổ cực,
36 thì từ trời xin Ngài lắng nghe và tha thứ tội lỗi cho các tôi tớ
Ngài và cho Ít-ra-en dân Ngài, để họ thấy con đường lành phải theo, và xin cho
mưa nhuần tưới xuống trên phần đất Ngài đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.
37
Khi
trong xứ có nạn đói kém, dịch hạch, khi mùa màng hư hoại, khi có nạn châu chấu
cào cào, khi quân thù vây hãm một thành nào của họ, trong bất cứ tai hoạ hay
bệnh tật nào; 38 mọi lời cầu nguyện, khấn xin của bất cứ ai hoặc
toàn thể Ít-ra-en dân Ngài dâng lên, vì thấy lương tâm cắn rứt mà giơ tay hướng
về Ðền Thờ này, 39 thì từ trời là nơi Ngài ngự, xin Ngài lắng nghe
và tha thứ; xin Ngài hành động và ban ơn cho mỗi người tuỳ theo lối sống của
họ, bởi vì Ngài biết lòng họ, quả thật chỉ mình Ngài biết rõ lòng con cái loài
người, 40 ngõ hầu họ kính sợ Ngài, bao lâu họ còn sống trên phần đất
mà Ngài đã ban cho cha ông chúng con.
Phụ
trương (2 Sb 6:32 -39)
41
Ngay
cả với người ngoại kiều, không thuộc về Ít-ra-en dân Ngài, nếu nó từ phương xa
tới vì Danh Ngài, - 42 vì người ta sẽ nghe biết Danh Ngài cao cả, bàn tay Ngài
dũng mãnh và cánh tay Ngài giương cao -, nếu nó đến cầu nguyện trong Ðền Thờ
này, 43 thì từ trời nơi Ngài ngự xin Ngài lắng nghe và thực hiện mọi
điều kẻ ngoại kiều ấy kêu xin, để cho mọi dân trên mặt đất nhận biết Danh Ngài
và kính sợ Ngài, như Ít-ra-en dân Ngài và để họ biết là Danh Ngài được kêu cầu
nơi Ðền Thờ con đã xây lên đây.
44
Nếu
dân Ngài xuất trận chống quân thù theo đường lối Ngài sai họ đi, và nếu họ cầu
nguyện với Ðức Chúa, hướng về kinh thành Ngài đã chọn, và Ðền Thờ con đã xây
kính Danh Ngài, 45 thì từ trời xin Ngài nghe lời họ cầu nguyện van
xin mà xét xử công minh cho họ.
46
Nếu
họ xúc phạm đến Ngài - thật thì không người nào mà không phạm tội -, khiến Ngài
phải thịnh nộ với họ, mà trao họ cho địch, và những kẻ chiến thắng đày họ sang
một xứ thù địch, xa hay gần; 47 nhưng rồi trên đất lưu đày, họ hồi
tâm trở lại và van xin Ngài trên đất lưu đày rằng: "Chúng con đã phạm tội,
đã làm điều gian ác, chúng con thật đáng tội! 48 Nếu trên đất địch, nơi họ bị
lưu đày, họ hết lòng hết sức trở về với Ngài, và cầu nguyện với Ngài; hướng về
xứ sở Ngài đã ban cho tổ tiên họ, về kinh thành Ngài đã chọn, và Ðền Thờ con đã
xây kính Danh Ngài, 49 thì từ trời, nơi Ngài ngự, xin Ngài nghe lời
họ cầu nguyện van xin mà xét xử công minh cho họ, 50 và tha cho dân
tội xúc phạm đến Ngài cũng như mọi tội phản bội đối với Ngài; xin Ngài tỏ lòng
thương xót họ trước mặt quân chiến thắng, khiến chúng cũng phải thương xót họ, 51
vì họ là dân, là gia nghiệp của Ngài, gia nghiệp Ngài đã đưa ra từ
Ai-cập, từ giữa lò nung sắt.
Kết
thúc lời nguyện - Chúc lành cho dân
52
Vậy,
lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng, xin ghé mắt nhìn đến tôi tớ Ngài đang nài van, đến
Ít-ra-en dân Ngài đang cầu nguyện, mà lắng nghe mọi điều họ kêu xin, 53 vì,
từ giữa mọi dân tộc trên mặt đất, Ngài đã tách họ ra làm sản nghiệp riêng, như
Ngài đã dùng ông Mô-sê tôi tớ Ngài mà phán, khi đưa cha ông chúng con ra khỏi
Ai-cập."
54
Sau
khi dâng tất cả những lời cầu nguyện và nài van ấy lên Ðức Chúa, thì vua
Sa-lô-môn phủ phục rồi đứng lên trước bàn thờ Ðức Chúa, giơ hai tay lên trời, 55
quay xuống, cất lớn tiếng chúc lành cho toàn thể cộng đoàn Ít-ra-en: 56
"Chúc tụng Ðức Chúa, Ðấng đã ban cho Ít-ra-en dân Người được nghỉ
ngơi, đúng y như Người đã phán, không sai một lời nào trong tất cả những lời
tốt lành Người đã dùng ông Mô-sê, tôi tớ Người, mà phán. 57 Xin Ðức
Chúa là Thiên Chúa chúng ta, ở cùng chúng ta như Người đã ở với tổ tiên chúng
ta; xin Người đừng để mặc, cũng đừng bỏ rơi chúng ta, 58 nhưng xin
hướng lòng chúng ta về với Người, để chúng ta bước đi trên mọi nẻo đường của
Người, và tuân giữ các mệnh lệnh, giới răn và luật pháp Người đã truyền cho tổ
tiên chúng ta. 59 Ước chi những lời ta khẩn khoản dâng lên Ðức Chúa,
Thiên Chúa chúng ta ở trước Tôn Nhan Người đêm ngày, để Người bênh vực quyền
lợi tôi tớ Người và quyền lợi Ít-ra-en dân Người, ngày này qua ngày khác. 60
Như thế mọi dân trên mặt đất sẽ nhìn nhận Ðức Chúa chính là Thiên Chúa, không
có Chúa nào khác. 61 Các ngươi phải hết lòng với Ðức Chúa, Thiên
Chúa chúng ta mà bước đi theo các giới răn và tuân giữ các mệnh lệnh của Người
như ngày hôm nay."
Hiến
tế trong ngày Cung hiến Ðền Thờ (2Sb 7 :4-10)
62
Vua
cùng toàn thể Ít-ra-en dâng hy lễ trước nhan Ðức Chúa. 63 Vua
Sa-lô-môn sát tế hai mươi hai ngàn con bò và một trăm hai mươi ngàn con chiên
làm lễ kỳ an dâng lên Ðức Chúa; vua và toàn thể con cái Ít-ra-en cung hiến Ðền
Thờ Ðức Chúa. 64 Ngày hôm ấy, vua thánh hiến phần giữa của Tiền đình
ở trước Nhà Ðức Chúa; chính tại đây, vua dâng lễ toàn thiêu, lễ phẩm và mỡ của
lễ kỳ an, vì bàn thờ bằng đồng trước nhan Ðức Chúa quá nhỏ không đủ chứa lễ
toàn thiêu, lễ phẩm và mỡ của lễ kỳ an. 65 Dịp này, vua Sa-lô-môn
cùng với toàn thể Ít-ra-en mừng lễ trước nhan Ðức Chúa là Thiên Chúa chúng ta
trong bảy ngày, rồi bảy ngày nữa là mười bốn ngày. Thật là một công hội vĩ đại
quy tụ từ lối vào Cửa Ải Kha-mát tới suối Ai-cập. 66 Ngày thứ tám,
vua giải tán dân. Họ cầu chúc vua khang an rồi ai nấy trở về lều mình, lòng vui
mừng hân hoan vì mọi sự tốt lành Ðức Chúa đã làm cho Ða-vít tôi tớ Người và
Ít-ra-en dân Người.
Chương 09
Thiên
Chúa lại hiện ra với vua Sa-lô-môn (2 Sb 7:11 -22)
1
Sau
khi vua Sa-lô-môn hoàn tất việc xây Ðền Thờ Ðức Chúa và cung điện nhà vua, cùng
mọi công trình vua dự tính, 2 thì Ðức Chúa lại hiện ra với vua lần
thứ hai, giống y như lần hiện ra với vua ở Ghíp-ôn. 3 Ðức Chúa phán
với vua: "Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện và van nài trước nhan Ta; Ta đã
thánh hoá ngôi nhà này mà ngươi đã xây để cho Danh Ta ngự ở đó muôn đời; Ta sẽ
nhìn xem và ưa thích ở đấy mọi ngày. 4 Còn ngươi, nếu ngươi bước đi
trước nhan Ta, như Ða-vít thân phụ ngươi, với tâm hồn trong sạch và ngay thẳng,
mà thi hành mọi điều Ta truyền cho ngươi và tuân giữ các giới răn và luật pháp
của Ta, 5 thì Ta sẽ củng cố ngai vàng của ngươi trên Ít-ra-en đến
muôn đời, như Ta đã hứa với Ða-vít, thân phụ ngươi, rằng: "Ngươi sẽ không
thiếu người ngự trên ngai Ít-ra-en". 6 Nhưng nếu các ngươi và
con cháu các ngươi tráo trở bỏ đường lối của Ta, không giữ các mệnh lệnh, các
giới răn Ta đã đặt cho các ngươi, lại đi làm tôi các thần ngoại và thờ lạy
chúng, 7 thì Ta sẽ tiêu diệt Ít-ra-en khỏi phần đất mà Ta đã ban cho
chúng; còn Ðền Thờ Ta đã thánh hoá để kính Danh Ta, Ta sẽ loại trừ khỏi nhan Ta,
và Ít-ra-en sẽ thành bia miệng cho mọi dân tộc đàm tiếu; 8 Ðền Thờ
này sẽ thành đống hoang tàn, khiến mọi kẻ qua lại phải sững sờ, huýt sáo mà
nói: "Tại sao Ðức Chúa đã xử như thế với đất nước và Ðền Thờ này? 9 Người
ta sẽ trả lời: Tại chúng đã bỏ Ðức Chúa Thiên Chúa của chúng, Ðấng đã đưa tổ
tiên chúng ra khỏi đất Ai-cập; chúng đã gắn bó với các thần ngoại, sụp lạy và
làm tôi các thần ấy, nên Ðức Chúa đã giáng xuống trên chúng tất cả tai hoạ
này."
Buôn
bán với vua Khi-ram (2 Sm 8:1-2)
10
Trong
hai mươi năm vua Sa-lô-môn xây hai ngôi nhà, là Ðền Thờ Ðức Chúa và cung điện
nhà vua, 11 thì Khi-ram vua Tia cung cấp cho vua Sa-lô-môn gỗ bá
hương, gỗ trắc và vàng tuỳ thích; còn vua Sa-lô-môn thì trao cho vua Khi-ram
hai mươi thành trong miền Ga-li-lê. 12 Từ Tia vua Khi-ram đi ra xem
các thành vua Sa-lô-môn đã trao cho, nhưng vua không thích các thành ấy. 13
Vua nói: "Này ông anh, thành gì mà ông cho tôi vậy? " Rồi vua
gọi các thành ấy là "đất Ca-vun" cho tới ngày nay. 14 Vua
Khi-ram gửi tới cho vua Sa-lô-môn ba ngàn sáu trăm ký vàng.
Dân
công để xây cất (2 Sb 8:3-11)
15
Ðây
là dịch vụ dân công vua Sa-lô-môn đã đặt ra để xây Ðền Thờ Ðức Chúa, cung điện
của mình, công trình Mi-lô, tường thành Giê-ru-sa-lem, Kha-xo, Mơ-ghít-đô và
Ghe-de. 16 Pha-ra-ô vua Ai-cập đã tiến quân chiếm Ghe-de, thiêu huỷ
thành và sát hại dân Ca-na-an cư ngụ ở đó; rồi vua tặng làm của hồi môn cho ái
nữ là phu nhân của vua Sa-lô-môn. 17 Vua Sa-lô-môn xây dựng lại
Ghe-de và Bết Khô-rôn Hạ,18 rồi Ba-a-lát và Ta-ma ở sa mạc, trong xứ, 19 và
tất cả các thành làm kho dự trữ mà vua Sa-lô-môn sẵn có, các thành giữ xe trận,
các thành nuôi ngựa và tất cả những gì vua Sa-lô-môn muốn xây cất ở
Giê-ru-sa-lem, ở Li-băng và trong toàn lãnh thổ thuộc quyền vua. 20 Tất
cả những người còn sót lại thuộc các dân E-mô-ri, Khết, Pơ-rít-di, Khi-vi và
Giơ-vút, những người không phải là con cái Ít-ra-en, 21 những người
này đã để lại con cháu chúng trong xứ, vì con cái Ít-ra-en không tiêu diệt hết
được. Vua Sa-lô-môn bắt tất cả những người đó phải lao động khổ sai đến ngày
nay. 22 Phần con cái Ít-ra-en vua Sa-lô-môn không bắt ai phải làm nô
dịch cho vua; họ là những chiến sĩ, những cận thần, những tướng lãnh, những
viên chức, những người chỉ huy chiến xa và kỵ binh của vua. 23 Họ
chỉ huy các đốc công phụ trách công trình của vua Sa-lô-môn, tất cả là năm trăm
năm mươi người, giám sát dân chúng làm việc trong các công trình. 24 Khi
công chúa của Pha-ra-ô từ Thành Ða-vít lên cung điện đã xây cho bà, thì vua
Sa-lô-môn bắt đầu xây công trình Mi-lô.
Phục
vụ Ðền Thờ (2 Sb 8:12 -16)
25
Mỗi
năm ba lần, vua Sa-lô-môn dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an trên bàn thờ vua đã
dựng lên để kính Ðức Chúa; vua thường đốt hương trên bàn thờ trước nhan Ðức
Chúa. Thế là vua chu toàn bổn phận đối với Ðền Thờ.
3.
Vua Sa-Lô-Môn, Nhà Kinh Doanh
Vua
Sa-lô-môn, người tổ chức thương thuyền (2 Sb 8:17 -18)
26
Ngoài
ra, vua Sa-lô-môn còn trang bị một đoàn tàu tại E-xi-ôn Ghe-ve, gần Ê-lát, bên
bờ Biển Sậy trong đất Ê-đôm. 27 Vua Khi-ram phái tới đoàn tàu các
tôi tớ của mình là những thủy thủ thạo nghề biển, cùng với các tôi tớ của vua
Sa-lô-môn. 28 Họ đi Ô-phia, mang vàng về và nộp cho vua Sa-lô-môn,
tất cả là mười hai tấn.
Chương 10
Cuộc
viếng thăm của nữ hoàng Sơ-va (2 Sb 9:1-12)
1
Nữ
hoàng Sơ-va nghe biết vua Sa-lô-môn nổi tiếng vì danh Ðức Chúa, thì đến đặt câu
đố để thử tài vua. 2 Bà đến Giê-ru-sa-lem cùng với đoàn tuỳ tùng
đông đảo, nhiều lạc đà chở đầy hương liệu, và một số lượng rất lớn vàng cùng đá
quý. Bà vào hội kiến với vua Sa-lô-môn và nói với vua tất cả những gì bà suy
nghĩ trong lòng. 3 Vua Sa-lô-môn giải đáp tất cả những vấn đề bà đưa
ra; không có chuyện gì là bí ẩn mà vua không giải đáp được cho bà. 4 Nữ
hoàng Sơ-va thấy tất cả sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn và cung điện vua đã xây,
5 những món ăn trên bàn của vua, dinh thự của quần thần, cung cách
và trang phục của họ, các thứ rượu của vua, các lễ toàn thiêu vua tiến dâng tại
Ðền Thờ Ðức Chúa, bà hết hồn, 6 bà nói với vua: "Những điều tôi
đã nghe nói ở nước tôi về ngài và sự khôn ngoan của ngài quả là sự thật. 7
Tôi đã không tin những điều người ta nói, cho tới khi tôi đến và thấy tận
mắt; nhưng thực ra người ta cho tôi biết chưa tới một nửa. Ngài còn khôn ngoan
và giàu có hơn tiếng đồn tôi đã nghe. 8 Phúc thay thần dân của ngài!
Phúc thay quần thần của ngài, những kẻ luôn luôn được túc trực trước mặt ngài
và nghe biết sự khôn ngoan của ngài! 9 Chúc tụng Ðức Chúa Thiên Chúa của ngài,
Ðấng đã ưu ái đặt ngài lên ngai Ít-ra-en; chính vì lòng yêu thương Ít-ra-en đến
muôn đời, mà Ðức Chúa đã đặt ngài làm vua, để ngài thi hành luật pháp và công
lý.” 10 Và bà tặng vua ba ngàn sáu trăm ký vàng, một số rất lớn
hương liệu và đá quý. Chưa từng có một số lượng hương liệu nhiều như nữ hoàng
Sơ-va đã tặng vua Sa-lô-môn. 11 Cả đoàn tàu của vua Khi-ram, mang
vàng từ Ô-phia về, cũng đưa rất nhiều gỗ đàn hương và đá quý từ Ô-phia về nữa. 12
Vua dùng gỗ đàn hương làm các cột trụ Ðền Thờ Ðức Chúa, cung điện nhà
vua, đàn lia đàn hạc cho các ca sĩ; thứ gỗ đàn hương ấy không còn và cũng không
thấy nữa cho tới ngày nay. 13 Vua Sa-lô-môn tặng lại nữ hoàng Sơ-va
tất cả những gì bà ngỏ ý thích, chưa kể những gì vua tặng bà xứng với danh vua
Sa-lô-môn hào hiệp. Sau đó bà lui gót, cùng với đoàn tuỳ tùng trở về xứ sở.
Sự
giàu sang của vua Sa-lô-môn (2 Sb 9:13 -24)
14
Số
vàng vua Sa-lô-môn thu nhập hàng năm là hai mươi ngàn ký, 15 không
kể vàng do khách vãng lai, do các thương gia, do tất cả các vua Ả-rập và các
quan thái thú trong nước đem nộp. 16 Vua Sa-lô-môn làm hai trăm
chiếc thuẫn lớn bằng vàng gò; mỗi chiếc thuẫn phải dùng tới sáu ký vàng. 17
Vua còn làm ba trăm chiếc thuẫn nhỏ bằng vàng gò; mỗi chiếc mất một ký
rưỡi vàng. Và vua đặt các thuẫn ấy trong Cung Rừng Li-băng. 18 Vua
lại làm một cái ngai lớn bằng ngà và dát vàng ròng rất tinh vi. 19 Ngai
có sáu cấp, phần trên của lưng ngai thì tròn; hai bên chỗ ngồi có tay tựa, đứng
sát tay tựa là hai con sư tử, 20 và mười hai con sư tử đứng trên sáu
cấp ở hai bên. Chẳng vương quốc nào làm được như thế.
21
Tất
cả các chén để uống của vua Sa-lô-môn đều bằng vàng, và tất cả các vật dụng
trong Cung Rừng Li-băng cũng bằng vàng ròng. Không có bạc, vì thời vua
Sa-lô-môn bạc không có giá trị gì cả. 22 Quả vậy, vua Sa-lô-môn có
một đoàn tàu biển đi Tác-sít, cùng với đoàn tàu của vua Khi-ram; và cứ ba năm
một lần, đoàn tàu Tác-sít đến, mang theo vàng, bạc, ngà, khỉ và công. 23 Vua
Sa-lô-môn là người trổi vượt hơn tất cả các đế vương trên mặt đất về sự giàu có
và khôn ngoan. 24 Thiên hạ ai nấy đều mong diện kiến vua Sa-lô-môn
để được nghe sự khôn ngoan mà Thiên Chúa đã ban cho vua. 25 Mỗi vị
đều mang lễ vật: đồ bạc, đồ vàng, y phục, vũ khí, hương liệu, ngựa và lừa. Cứ
thế từ năm này qua năm khác.
Xa
mã của vua Sa-lô-môn (2 Sb 1:24-17; 9:25-28)
26
Vua
Sa-lô-môn tập trung xe và ngựa, xe có một ngàn bốn trăm cỗ, và ngựa có mười hai
ngàn con. Vua để chúng ở các thành có xe, bên cạnh vua tại Giê-ru-sa-lem. 27
Vua đã làm cho bạc ở Giê-ru-sa-lem ra thường như sỏi đá, còn bá hương thì
nhiều như sung ở miền Sơ-phê-la. 28 Ngựa của vua Sa-lô-môn được nhập
từ Ai-cập và Cơ-vê. Các thương gia của vua đến tận Cơ-vê mua ngựa theo đúng giá.
29 Một chiếc xe bán ra từ Ai-cập là sáu trăm se-ken bạc, và một con
ngựa là một trăm năm mươi. Ðối với tất cả các vua Khết và các vua A-ram, nhờ
các thương gia làm trung gian mua vào, thì cũng thế.
Chương 11
4.
Bóng Mây Ðen Trên Vương Quốc
Các
hậu phi của vua Sa-lô-môn
1
Vua
Sa-lô-môn yêu nhiều người đàn bà ngoại bang; ngoài ái nữ của Pha-ra-ô, còn có
các bà thuộc dân Mô-áp, Am-mon, Ê-đôm, Xi-đôn, Khết, 2 những dân mà
Ðức Chúa đã truyền cho con cái Ít-ra-en là "các ngươi không được đi lại
với chúng, và chúng cũng chẳng được đi lại với các ngươi; vì chắc chắn chúng sẽ
làm cho lòng các ngươi ngả theo các thần của chúng." Nhưng vua Sa-lô-môn
thì lại mê những người đàn bà ấy; 3 vua có bảy trăm bà vợ chính thức
và ba trăm cung phi. Và các bà ấy làm cho lòng vua ra hư hỏng. 4 Quả
vậy, khi vua Sa-lô-môn về già, các bà vợ của vua đã làm cho lòng vua ngả theo
các thần ngoại; lòng vua không còn chung thủy với Ðức Chúa Thiên Chúa của vua,
như lòng phụ vương Ða-vít nữa. 5 Vua Sa-lô-môn đi theo nữ thần
Át-tô-rét của dân Xi-đôn, theo thần Min-côm ghê tởm của dân Am-mon. 6 Như
thế, vua Sa-lô-môn làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, chứ không theo Ðức Chúa trọn
vẹn như phụ vương Ða-vít. 7 Bấy giờ vua Sa-lô-môn xây trên núi đối
diện với Giê-ru-sa-lem một nơi cao cho thần Cơ-mốt ghê tởm của dân Mô-áp, cho
thần Mô-léc ghê tởm của con cái Am-mon. 8 Vua làm như thế với tất cả
các bà vợ ngoại đạo của vua; họ đốt hương và sát tế kính các thần của họ.
9
Ðức
Chúa nổi giận với vua Sa-lô-môn, vì lòng vua rời xa Ðức Chúa, Thiên Chúa của
Ít-ra-en, Ðấng đã hiện ra với vua hai lần, 10 và truyền cho vua là
đừng đi theo các thần ngoại, nhưng vua không giữ điều Ðức Chúa đã truyền. 11
Ðức Chúa phán với vua Sa-lô-môn: "Vì ngươi đã như vậy và đã không
giữ giao ước cũng như các giới răn Ta truyền cho ngươi, thì chắc chắn Ta sẽ
giựt lấy vương quốc ngươi mà trao cho một thuộc hạ của ngươi. 12 Tuy
nhiên, vì thân phụ ngươi, Ta sẽ không làm điều đó trong đời ngươi, nhưng sẽ
giựt vương quốc khỏi tay con của ngươi. 13 Hơn nữa, vì nể Ða-vít tôi
tớ Ta, và vì Giê-ru-sa-lem, thành đô Ta đã chọn, Ta sẽ không giựt lấy cả vương
quốc, nhưng sẽ để lại cho con của ngươi một chi tộc."
Những
kẻ thù bên ngoài
14
Ðức
Chúa xui khiến cho có một người chống lại vua Sa-lô-môn: đó là Ha-đát người
Ê-đôm, thuộc hoàng tộc Ê-đôm. 15 Khi vua Ða-vít đã đánh bại Ê-đôm và
ông Giô-áp chỉ huy quân đội lên chôn cất các tử thi, thì ông tàn sát mọi đàn
ông con trai ở Ê-đôm. 16 Quả vậy, ông Giô-áp cùng toàn thể Ít-ra-en
đã ở lại đấy sáu tháng cho tới khi tiêu diệt hoàn toàn mọi đàn ông con trai ở
Ê-đôm. 17 Bấy giờ, Ha-đát cùng với mấy người Ê-đôm trong số các tôi
tớ của cha mình đã chạy trốn được sang Ai-cập, vì lúc đó Ha-đát là một thiếu
niên. 18 Chúng rời Ma-đi-an và tới Pa-ran; từ Pa-ran chúng lấy một
số người đi theo mình xuống Ai-cập, vào chầu Pha-ra-ô vua Ai-cập; vua này cung
cấp cho chúng nhà ở, bảo đảm lương thực và cho chúng cả đất đai nữa. 19 Ha-đát
rất được lòng Pha-ra-ô, nên vua gả em gái vợ mình cho ông, tức là em gái bà
Tác-pơ-nết hay là Bà Hoàng. 20 Em gái bà Tác-bơ-nết sinh ra cho ông
một người con tên là Gơ-nu-vát; bà Tác-pơ-nết nuôi nấng người con này ngay
trong cung điện Pha-ra-ô. Gơ-nu-vát sống trong cung điện Pha-ra-ô giữa các con
cái Pha-ra-ô. 21 Ðang khi ở Ai-cập, Ha-đát nghe tin vua Ða-vít đã an
nghỉ với tổ tiên và tướng Giô-áp chỉ huy quân đội cũng đã chết, thì thưa với
Pha-ra-ô: "Xin để tôi về đất nước tôi.” 22 Pha-ra-ô nói với
ông: "Ở với ta, ngươi có thiếu gì mà phải tìm về đất nước ngươi? "
Ông thưa: "Không thiếu gì, nhưng xin cứ để tôi đi.” 25b Ðiều ác của Ha-đát
là ông gớm ghét Ít-ra-en mà ông lại làm vua cai trị Ê-đôm.
23
Thiên
Chúa còn xui khiến cho vua có một địch thủ là Rơ-dôn, con của En-gia-đa, người
đã bỏ chủ mình là Ha-đát-e-de, vua Xô-va mà trốn. 24 Một số người tụ
họp bên ông và ông trở thành đầu đảng. Vì vua Ða-vít muốn tiêu diệt họ, nên ông
đến Ða-mát cư ngụ tại đó và làm vua ở Ða-mát. 25 Ông thù nghịch với
Ít-ra-en suốt thời vua Sa-lô-môn.
Cuộc
nổi dậy của Gia-róp-am
26
Ông
Gia-róp-am là con ông Nơ-vát, người Ép-ra-im, thuộc Xơ-rê-đa; bà Xơ-ru-a mẹ ông
là một quả phụ. Ông đã từng phục vụ vua Sa-lô-môn, nhưng lại nổi dậy chống vua.
27 Chuyện ông nổi dậy chống vua như sau:
28
Bấy
giờ Gia-róp-am là người có khả năng. Vua Sa-lô-môn thấy chàng trai ấy đảm đang
công việc, thì đặt chàng phụ trách toàn thể dân công nhà Giu-se. 29 Một
hôm, khi Gia-róp-am từ Giê-ru-sa-lem đi ra, thì dọc đường gặp ngôn sứ
A-khi-gia, người Si-lô; ông này khoác một chiếc áo choàng mới. Lúc ấy chỉ có
hai ông ở ngoài đồng. 30 Ông A-khi-gia lấy chiếc áo mới mình đang
mặc, xé ra làm mười hai mảnh. 31 Rồi ông nói với Gia-róp-am:
"Anh cầm lấy mười mảnh, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en phán như sau:
"Này Ta sẽ giựt vương quốc khỏi tay Sa-lô-môn để trao cho ngươi mười chi
tộc. 32 Nó vẫn còn được một chi tộc, vì nể Ða-vít, tôi tớ Ta, và vì
Giê-ru-sa-lem thành đô Ta đã chọn trong tất cả chi tộc Ít-ra-en. 33 Vì
nó đã bỏ Ta mà thờ lạy thần Át-tô-rét của dân Xi-đôn, thần Cơ-mốt của Mô-áp,
thần Min-côm của con cái Am-mon, và không đi theo đường lối của Ta, là thi hành
điều chính trực trước nhan Ta, cũng như các giới răn và luật pháp của Ta như
Ða-vít thân phụ nó. 34 Nhưng Ta sẽ không cất hết vương quốc khỏi tay
nó, mà sẽ để nó làm thủ lãnh cho đến cuối đời, vì nể Ða-vít tôi tớ Ta, người Ta
đã chọn, kẻ đã tuân giữ các mệnh lệnh và các giới răn của Ta. 35 Ta
sẽ giựt lấy vương quốc khỏi tay con nó, sẽ cho ngươi mười chi tộc 36 và cho con
nó một chi tộc, để Ða-vít tôi tớ Ta luôn luôn có một ngọn đèn trước nhan Ta ở
Giê-ru-sa-lem, thành đô Ta đã chọn làm nơi danh Ta ngự trị. 37 Vậy
Ta sẽ đặt ngươi làm người cai trị mọi sự như lòng ngươi muốn, và ngươi sẽ làm
vua Ít-ra-en. 38 Nếu ngươi vâng nghe tất cả những điều Ta truyền cho
ngươi và bước đi theo đường lối của Ta, thi hành điều chính trực trước nhan Ta
mà tuân giữ các giới răn và mệnh lệnh của Ta như Ða-vít tôi tớ Ta đã làm, thì
Ta sẽ ở với ngươi và xây cho ngươi một ngôi nhà bền vững như Ta đã xây cho
Ða-vít, và Ta sẽ trao Ít-ra-en cho ngươi. 39 Như thế, Ta sẽ hạ dòng
dõi Ða-vít xuống, nhưng không phải mãi đâu!"
40
Vua
Sa-lô-môn tìm cánh giết Gia-róp-am; nhưng Gia-róp-am chỗi dậy và trốn sang
Ai-cập, đến với Si-sắc vua Ai-cập, và ở Ai-cập cho tới khi vua Sa-lô-môn qua
đời.
Kết
thúc triều đại Sa-lô-môn (2Sb 9 :29-31)
41
Các
truyện khác về vua Sa-lô-môn và tất cả những gì vua đã thực hiện cũng như sự
khôn ngoan của vua đều đã được ghi chép trong sách Sử biên niên của vua
Sa-lô-môn. 42 Thời gian vua Sa-lô-môn trị vì toàn thể Ít-ra-en tại
Giê-ru-sa-lem là bốn mươi năm. 43 Vua Sa-lô-môn đã an nghỉ với tổ
tiên và được chôn cất trong Thành Ða-vít thân phụ vua; và thái tử Rơ-kháp-am
lên ngôi kế vị vua.
Chương 12
III.
Cuộc Ly Khai Về Chính Trị Và Tôn Giáo
Ðại
hội tại Si-khem (2 Sb 10:1-19)
1
Rơ-kháp-am
đi Si-khem, vì toàn thể Ít-ra-en tụ họp ở Si-khem để tôn ông lên làm vua. 2
Lúc ấy Gia-róp-am con ông Nơ-vát nghe biết chuyện ấy, -ông còn đang ở bên
Ai-cập vì ông đã trốn vua Sa-lô-môn sang đó- ông liền bỏ Ai-cập trở về. 3 Người
ta cho mời ông Gia-róp-am. Ông và toàn thể cộng đoàn Ít-ra-en tới. Họ thưa với
Rơ-kháp-am rằng: 4 "Phụ vương ngài đã bắt chúng tôi mang một
cái ách quá nặng. Bây giờ nếu ngài giảm bớt khổ dịch và ách nặng nề phụ vương
đã đặt trên chúng tôi, thì chúng tôi sẽ phục dịch ngài.” 5 Vua nói
với họ: "Các ngươi cứ đi đi, ba ngày nữa trở lại đây gặp ta." Dân
chúng liền rút lui.
6
Vua
Rơ-kháp-am bàn hỏi với các kỳ mục là những người đã từng hầu cận phụ vương
Sa-lô-môn, khi vua này còn sống; vua Rơ-kháp-am nói: "Các ngươi góp ý với
ta thế nào, để ta còn trả lời cho dân này?” 7 Họ thưa với vua:
"Nếu hôm nay ngài làm đầy tớ cho dân này, nếu ngài phục vụ và để ý tới
dân, dùng lời lẽ ôn tồn mà nói với dân, thì dân sẽ làm tôi ngài mãi mãi.” 8
Nhưng vua không đếm xỉa gì đến ý kiến các kỳ mục đưa ra, lại đi bàn hỏi
với đám người trẻ, là những bạn thiếu thời hiện đang hầu cận vua. 9 Vua
nói với họ: "Các ngươi góp ý với ta thế nào, để ta còn trả lời cho dân
này, vì nó đã nói với ta rằng: Xin ngài giảm bớt cái ách nặng phụ vương đã đặt
trên chúng tôi!” 10 Ðám người trẻ, những bạn thiếu thời của vua,
thưa vua rằng: "Ngài sẽ trả lời cho dân đã từng nói với ngài: "Phụ
vương ngài đã đặt ách nặng trên chúng tôi, nhưng xin ngài giảm bớt cho chúng
tôi", xin ngài nói với chúng thế này: "Ngón tay nhỏ của ta còn lớn
hơn cả lưng của phụ vương ta. 11 Vậy phụ vương ta đã đặt ách nặng
trên các ngươi, còn ta, ta chất cho nặng hơn nữa; phụ vương ta trừng phạt các
ngươi bằng roi, còn ta, ta sẽ trừng phạt các ngươi bằng bọ cạp."
12
Ngày
thứ ba, Gia-róp-am cùng toàn dân đến yết kiến vua Rơ-kháp-am như vua đã hẹn
rằng: "Ba ngày nữa trở lại gặp ta.” 13 Vua trả lời cứng cỏi với
dân; vua không đếm xỉa gì đến ý kiến các kỳ mục đã đưa ra, 14 nhưng
nói với họ theo ý kiến đám người trẻ rằng: "Phụ vương ta đã đặt ách nặng
trên các ngươi, còn ta, ta chất nặng hơn nữa trên các ngươi; phụ vương ta trừng
phạt các ngươi bằng roi, còn ta, ta sẽ trừng phạt các ngươi bằng bọ cạp.” 15
Thế là vua không chịu nghe dân: Ðức Chúa đã để như vậy cho lời Người được
ứng nghiệm, lời mà Ðức Chúa đã dùng ông A-khi-gia người Si-lô mà phán với ông
Gia-róp-am con ông Nơ-vát. 16 Khi toàn thể Ít-ra-en thấy vua không
thèm nghe họ, thì dân đáp lại vua rằng:
"Chúng
tôi có liên hệ chi với Ða-vít? Chẳng có phần gì với con của Gie-sê! Ít-ra-en
ơi, ai về lều nấy! Này Ða-vít hãy liệu lấy nhà của ngươi!"
17
Còn
con cái Ít-ra-en cư ngụ tại các thành của Giu-đa, thì vua Rơ-kháp-am vẫn làm
vua cai trị họ. 18 Vua Rơ-kháp-am cử ông A-đô-ram phụ trách việc dân
công, nhưng toàn thể Ít-ra-en ném đá ông và ông đã chết; còn vua Rơ-kháp-am thì
vội vã lên xe trốn về Giê-ru-sa-lem. 19 Thế là Ít-ra-en ly khai với
nhà Ða-vít cho tới ngày nay.
Ly
khai về chính trị (2 Sb 11:1-4)
20
Khi
toàn thể Ít-ra-en nghe tin ông Gia-róp-am đã về nước, thì sai người mời ông tới
đại hội và phong ông làm vua cai trị toàn thể Ít-ra-en; chỉ còn một mình chi
tộc Giu-đa là theo nhà Ða-vít.
21
Về
tới Giê-ru-sa-lem, vua Rơ-kháp-am tập họp toàn thể nhà Giu-đa và chi tộc
Ben-gia-min, được một trăm tám mươi ngàn quân tinh nhuệ để giao chiến với nhà
Ít-ra-en và thu hồi vương quốc về cho Rơ-kháp-am con vua Sa-lô-môn. 22 Nhưng
có lời Thiên Chúa phán với ông Sơ-ma-gia, người của Thiên Chúa rằng: 23 "Hãy
nói với Rơ-kháp-am con của Sa-lô-môn vua Giu-đa, với toàn thể nhà Giu-đa và
Ben-gia-min cùng phần còn lại của dân rằng: 24 "Ðức Chúa phán
thế này: Các ngươi không được lên giao chiến với con cái Ít-ra-en là anh em các
ngươi; ai nấy cứ về nhà mình, vì mọi chuyện là do Ta." Họ nghe lời Ðức
Chúa và quay về như Ðức Chúa đã phán. 25 Vua Gia-róp-am xây dựng
Si-khem trong vùng núi Ép-ra-im và ở lại đó. Ðoạn vua rời nơi ấy, đi xây dựng
Pơ-nu-ên.
Ly
khai về tôn giáo
26
Vua
Gia-róp-am nghĩ bụng rằng: "Rồi vương quốc lại trở về nhà Ða-vít mất thôi!
27 Nếu dân này cứ lên tế lễ tại Ðền Thờ Ðức Chúa ở Giê-ru-sa-lem, thì lòng họ
lại quay về với chủ mình là Rơ-kháp-am vua Giu-đa, và họ sẽ giết ta để trở về
với Rơ-kháp-am vua Giu-đa.” 28 Sau khi quyết định, vua làm hai con
bò mộng bằng vàng, rồi nói với dân: "Các ngươi lên Giê-ru-sa-lem như thế
là đủ rồi! Này, Ít-ra-en, Thiên Chúa của ngươi đây, Ðấng đã đưa ngươi lên từ
đất Ai-cập.” 29 Vua đặt một tượng ở Bết Ên, còn tượng kia ở Ðan. 30
Ðó là nguyên cớ gây ra tội, vì dân đi tới mãi tận Ðan để thờ một trong
hai tượng đó. 31 Vua thiết lập những nơi cao và đặt các tư tế lấy từ
đám thường dân, không thuộc hàng con cháu Lê-vi. 32 Vua Gia-róp-am
còn lập một lễ vào ngày mười lăm tháng tám, giống như lễ vẫn mừng ở Giu-đa, và
vua tiến lên bàn thờ. Vua đã làm như thế tại Bết Ên mà dâng lễ tế cho các con
bò mộng vua đã làm ra. Vua đặt ở Bết Ên các tư tế để phục vụ tại các nơi cao mà
vua đã thiết lập. 33 Vua tiến lên bàn thờ đã lập ở Bết Ên, vào ngày
mười lăm tháng tám, tháng vua chọn theo sở thích; vua lập nên một ngày lễ cho
con cái Ít-ra-en và lên bàn thờ đốt hương.
Chương 13
Kết
án bàn thờ tại Bết Ên
1
Do
lệnh của Ðức Chúa, có một người của Thiên Chúa từ Giu-đa đến Bết Ên vào lúc
Gia-róp-am đang đứng gần bàn thờ đốt hương, 2 và theo lệnh Ðức Chúa,
người ấy la lên chống bàn thờ rằng: "Bàn thờ, bàn thờ! Ðức Chúa phán thế
này: Rồi đây một người con sẽ sinh ra cho nhà Ða-vít, tên là Giô-si-gia-hu;
trên ngươi, nó sẽ sát tế các tư tế phục vụ tại các nơi cao, là những kẻ đã đốt
hương trên ngươi; trên ngươi, nó sẽ đốt xương người.” 3 Ngay hôm ấy,
ông cho một dấu hiệu, mà rằng: "Ðây là dấu Ðức Chúa đã phán: Này bàn thờ
sẽ rạn nứt và tro trên đó sẽ đổ ra.” 4 Khi vua nghe biết lời mà
người của Thiên Chúa la lên chống bàn thờ Bết Ên, thì từ bàn thờ, vua Gia-róp-am
giơ tay ra và nói: "Bắt lấy nó!" Nhưng bàn tay giơ ra đe ông liền khô
cứng, không co lại được nữa. 5 Và bàn thờ rạn nứt, tro từ bàn thờ đổ
ra, đúng như dấu hiệu mà người của Thiên Chúa đã cho, theo lệnh Ðức Chúa. 6
Vua đáp lại và nói với người của Thiên Chúa: "Xin ông làm cho nét
mặt Ðức Chúa dịu lại, khẩn nài Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, và xin cho ta co
tay lại được." Người của Thiên Chúa đã làm cho nét mặt Ðức Chúa dịu lại và
tay vua co lại được như trước. 7 Bấy giờ vua nói với người của Thiên
Chúa: "Về nhà với ta để bổ sức, và ta sẽ tặng cho một món quà.” 8 Nhưng
người của Thiên Chúa thưa với vua: "Ngài có cho tôi phân nửa nhà của ngài,
tôi cũng sẽ không đi với ngài, hoặc ăn bánh hay uống nước tại đây; 9 vì
Ðức Chúa đã truyền lệnh cho tôi rằng: "Ngươi không được ăn bánh, không
được uống nước, cũng chẳng được trở về qua con đường ngươi đã đi trước.” 10
Vậy, ông ra đi theo con đường khác, không trở về qua ngả đường đã dẫn ông
đến Bết Ên.
Người
của Thiên Chúa và vị ngôn sứ
11
Có
một ngôn sứ già cư ngụ tại Bết Ên. Mấy người con của cụ đến kể cho cụ nghe mọi
việc người của Thiên Chúa đã làm hôm đó tại Bết Ên, những lời ông ta đã nói với
vua, họ cũng kể cho cha họ nghe. 12 Người cha nói: "Ông ta đã
đi đường nào?" Họ chỉ cho cụ con đường người của Thiên Chúa đã ra đi, sau
khi từ Giu-đa tới. 13 Cụ liền nói với các con: "Thắng lừa cho
cha." Họ thắng lừa cho cụ; cụ cỡi lừa 14 và đi tìm người của Thiên Chúa.
Gặp được ông đang ngồi dưới cây sồi, cụ liền nói với ông: "Ông là người
của Thiên Chúa từ Giu-đa tới phải không?" Người ấy đáp: "Thưa phải.” 15
Cụ bảo ông: "Ði với lão về nhà và ăn một chút bánh.” 16 Người
ấy nói: "Tôi không thể cùng với cụ quay trở lại và đến nhà cụ; tôi sẽ
không ăn bánh và uống nước với cụ tại đó, 17 vì có lời Ðức Chúa phán
với tôi: "Ngươi không được ăn bánh, không được uống nước tại đó; không
được trở về qua con đường mà ngươi đã đến.” 18 Cụ nói với ông:
"Lão cũng là ngôn sứ như ông, và một thiên thần đã nói với lão theo lệnh
Ðức Chúa rằng: "Hãy đưa nó cùng với ngươi quay trở lại nhà ngươi để nó ăn
bánh, uống nước." Cụ đã nói dối ông. 19 Vậy ông cùng với cụ
quay trở lại; ông đã ăn bánh ở nhà cụ và uống nước nữa.
20
Khi
họ đang ngồi ở bàn ăn, thì có lời Ðức Chúa phán với vị ngôn sứ đã đưa người kia
quay trở lại. 21 Cụ liền kêu người của Thiên Chúa đã từ Giu-đa đến
mà bảo: "Ðức Chúa phán thế này: bởi vì ngươi đã trái lệnh Ðức Chúa, không
tuân giữ điều Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đã truyền cho ngươi, 22 ngươi
đã quay trở lại, ăn bánh, uống nước, tại nơi Người đã truyền cho ngươi không
được ăn bánh uống nước, cho nên thây của ngươi sẽ không được vào chung mồ với
tổ tiên ngươi.” 23 Ăn uống xong, cụ thắng lừa cho vị ngôn sứ mà cụ
đã đưa quay trở lại. 24 Ông ra đi, và dọc đường, một con sư tử bắt
gặp ông, đã vồ ông chết và bỏ thây ông nằm giữa đường. Con lừa vẫn đứng bên
cạnh ông, cả con sư tử cũng đứng gần xác chết. 25 Chợt có mấy người
đi qua, thấy xác chết bỏ giữa đường và con sư tử đứng bên, thì vào kể lại trong
thành, nơi vị ngôn sứ già cư ngụ. 26 Khi vị ngôn sứ già, người đã
làm cho ông bỏ đường quay trở lại biết chuyện, thì nói: "Ông ấy là người
của Thiên Chúa, nhưng đã trái lệnh Ðức Chúa, nên Ðức Chúa đã để cho sư tử vồ
chết, như lời Ðức Chúa đã phán với ông trước.” 27 Rồi cụ bảo các
con: "Thắng lừa cho cha!" Họ thắng lừa cho cụ. 28 Cụ đi và
thấy xác người kia bỏ giữa đường, có con lừa và con sư tử đứng bên cạnh; con sư
tử không ăn thây người chết, cũng không cắn xé con lừa. 29 Vị ngôn
sứ lấy xác người của Thiên Chúa đặt lên lừa, đưa trở lại thành của vị ngôn sứ
già để làm đám tang và chôn cất. 30 Cụ đặt thi hài ông trong chính
mộ của cụ, và người ta khóc thương ông: "Ôi! người anh em của tôi ơi!” 31
Chôn cất xong, cụ nói với các con: "Khi cha chết, các con hãy chôn
cất cha trong cùng một ngôi mộ mà người của Thiên Chúa đã được chôn cất; hãy
đặt hài cốt cha bên cạnh hài cốt ông. 32 Vì chắc chắn sẽ ứng nghiệm
lời ông đã theo lệnh Ðức Chúa kết án bàn thờ ở Bết Ên và tất cả các đền thờ tại
các nơi cao trong thành của Sa-ma-ri."
33
Sau
sự việc này, vua Gia-róp-am cũng không chịu bỏ đường lối xấu xa của mình, nhưng
vẫn cứ đặt những người dân thường làm tư tế tại các nơi cao. Ưa ai thì ông
phong làm tư tế tại các nơi cao. 34 Sự việc này là nguyên cớ cho nhà
Gia-róp-am phạm tội, rồi bị sụp đổ và tiêu ma khỏi mặt đất.
Chương 14
IV.
Lịch Sử Hai Vương Quốc Cho Tới Thời Ngôn Sứ Ê-Li-A
Giai
đoạn kế tiếp triều đại vua Gia-róp-am I (931-910)
1
Bấy
giờ hoàng tử A-vi-gia, con vua Gia-róp-am, lâm bệnh; 2 vua
Gia-róp-am nói với phu nhân: "Này! Xin bà đứng lên và cải trang để người
ta không biết được bà là vợ của Gia-róp-am, rồi đi tới Si-lô. Ở đấy có ngôn sứ
A-khi-gia là người đã báo trước cho tôi biết tôi sẽ làm vua dân này. 3 Bà
hãy mang theo mười ổ bánh, một ít bánh ngọt, một bình mật ong và đến gặp ông.
Ông sẽ nói cho bà biết về số phận đứa trẻ; 4 phu nhân vua Gia-róp-am
làm như vậy. Bà trỗi dậy đi tới Si-lô, đến nhà ông A-khi-gia-hu. Ông
A-khi-gia-hu không nhìn thấy được nữa, vì tuổi già đã làm cho mắt ông đờ ra. 5
Ðức Chúa phán với ông A-khi-gia-hu: "Này, vợ của Gia-róp-am đến hỏi
ngươi về đứa con của nó, vì đứa trẻ lâm bệnh. Ngươi sẽ trả lời nó thế này, thế
này." Khi đến, bà ấy giả làm một người khác. 6 Nhưng khi ông
A-khi-gia-hu nghe tiếng chân bà bước qua cửa thì nói: "Xin mời phu nhân
vua Gia-róp-am vào! Tại sao bà lại giả làm người khác? Tôi được lệnh báo cho bà
một tin buồn. 7 Xin bà về nói với vua Gia-róp-am: "Ðức Chúa,
Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: Ta đã cất nhắc ngươi lên từ đám dân
thường, đặt ngươi làm đầu Ít-ra-en dân Ta; 8 Ta đã giựt vương quốc
khỏi nhà Ða-vít để ban cho ngươi nhưng ngươi đã không được như Ða-vít, tôi tớ
Ta, là người đã tuân giữ các giới răn của Ta và hết lòng đi theo Ta, chỉ làm
những điều ngay chính trước mặt Ta. 9 Còn ngươi, thì làm sự dữ, hành
động xấu xa hơn mọi kẻ đi trước ngươi, vì ngươi đã đi tới chỗ làm ra các thần
ngoại, những hình tượng đúc để chọc giận Ta và vứt bỏ Ta sau lưng ngươi. 10
Vì thế, này Ta sẽ giáng hoạ xuống nhà Gia-róp-am: Ta sẽ tiêu diệt khỏi
nhà ấy mọi đàn ông con trai, tự do hay nô lệ trong dân Ít-ra-en, sẽ quét sạch
dòng dõi nhà Gia-róp-am như người ta quét phân rác, cho đến khi nó bị tận diệt.
11 Kẻ nào thuộc về nhà Gia-róp-am mà chết trong thành thì sẽ bị chó
ăn thịt; người chết ngoài đồng sẽ bị chim trời rỉa thây. Vì đó là lời Ðức Chúa.
12 Còn bà, bà hãy đứng dậy mà về nhà. Khi bà bước chân vào thành thì
đứa trẻ sẽ chết. 13 Toàn thể Ít-ra-en sẽ khóc thương nó, và người ta
sẽ chôn cất nó; chỉ một mình đứa con này của Gia-róp-am được chôn trong mồ, bởi
vì trong cả nhà Gia-róp-am, nó là người còn có một chút gì đẹp lòng Ðức Chúa,
Thiên Chúa của Ít-ra-en. 14 Ðức Chúa sẽ cho một vua đứng lên cai trị
Ít-ra-en, ông sẽ tiêu diệt nhà Gia-róp-am vào ngày ấy. Biết nói gì nữa bây giờ?
15 Ðức Chúa sẽ đánh Ít-ra-en ngả nghiêng như cây sậy trong dòng nước; Người sẽ
bứng Ít-ra-en khỏi đất đai màu mỡ mà Người đã ban cho tổ tiên họ, và sẽ phân
tán họ sang bên kia Sông, vì họ đã làm ra các cột thần mà chọc giận Ðức Chúa. 16
Vì các tội vua Gia-róp-am đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo, thì
Người sẽ trao nộp Ít-ra-en.” 17 Phu nhân vua Gia-róp-am đứng dậy, ra
đi và tới Tia-xa. Bà vừa bước qua ngưỡng cửa nhà thì đứa trẻ chết. 18 Người
ta chôn cất nó, và toàn thể Ít-ra-en khóc thương nó, đúng như lời Ðức Chúa đã
dùng ngôn sứ A-khi-gia-hu tôi tớ Người mà phán.
19
Các
truyện còn lại về vua Gia-róp-am, các cuộc chiến và cách thức cai trị của vua
đều được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en. 20 Thời
vua Gia-róp-am trị nước là hai mươi hai năm. Vua nằm xuống với tổ tiên; con vua
là Na-đáp lên ngôi kế vị.
Triều
đại vua Rơ-kháp-am (931-913) (2 Sb 11:5; 12:1-2,9-16)
21
Con
vua Sa-lô-môn là Rơ-kháp-am trị vì nước Giu-đa. Khi lên ngôi, vua Rơ-kháp-am
được bốn mươi mốt tuổi; vua trị vì mười bảy năm tại Giê-ru-sa-lem là thành đô
Ðức Chúa đã chọn làm nơi đặt Danh Người trong tất cả các chi tộc Ít-ra-en. Thân
mẫu vua là bà Na-a-ma, người Am-mon. 22 Giu-đa đã làm sự dữ trái mắt
Ðức Chúa và vì tất cả các tội của họ, họ đã chọc giận Ðức Chúa còn hơn mọi điều
cha ông họ đã phạm. 23 Họ lại xây cất những nơi cao, những trụ thờ
và những cột thần trên khắp đồi cao và dưới mọi cây xanh rậm. 24 Trong
xứ có cả bọn trai điếm phục vụ đền thần. Chúng làm những điều ghê tởm như các
dân ngoại mà Ðức Chúa đã đuổi đi cho khuất mắt Ít-ra-en.
25
Năm
thứ năm triều vua Rơ-kháp-am, vua Ai-cập là Si-sắc, đã tiến đánh Giê-ru-sa-lem.
26 Ông chiếm đoạt các kho tàng của Ðền Thờ Ðức Chúa cũng như kho
tàng của hoàng cung. Ông lấy hết, chiếm đoạt tất cả các khiên thuẫn bằng vàng
vua Sa-lô-môn đã làm. 27 Vua Rơ-kháp-am làm các khiên thuẫn bằng
đồng để thay thế và giao cho các người chỉ huy thị vệ canh gác cửa hoàng cung. 28
Mỗi khi vua vào Ðền Thờ Ðức Chúa thì các thị vệ mang ra, rồi lại đưa về
phòng thị vệ.
29
Các
truyện còn lại về vua Rơ-kháp-am và mọi việc vua làm đã chẳng được ghi chép
trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 30 Giữa vua Rơ-kháp-am và vua
Gia-róp-am luôn luôn có giao tranh. 31 Vua Rơ-kháp-am đã an nghỉ với
tổ tiên và được chôn cất với các ngài trong Thành Ða-vít. Thân mẫu của vua là
bà Na-a-ma, người Am-mon. Con vua là A-vi-giam lên ngôi kế vị.
Chương 15
Triều
đại vua A-vi-giam tại Giu-đa (913-911) (2 Sb 13:1-14:1)
1
Năm
thứ mười tám triều vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát là A-vi-giam lên làm vua
Giu-đa, 2 và trị vì tại Giê-ru-sa-lem ba năm; thân mẫu vua là bà
Ma-a-kha, ái nữ ông Áp-sa-lôm. 3 Vua rập theo con đường tội lỗi vua
cha đã đi trước, mà không trọn tình với Ðức Chúa, Thiên Chúa của vua, như
Ða-vít tổ tiên vua. 4 Nhưng, vì nể Ða-vít, Ðức Chúa, Thiên Chúa của
vua, cũng ban cho vua một ngọn đèn tại Giê-ru-sa-lem là gầy dựng cho vua một
người con kế vị và làm cho Giê-ru-sa-lem đứng vững; 5 chỉ vì Ða-vít
đã làm điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa, không bỏ qua một điều nào trong tất
cả những điều Người đã truyền cho vua suốt thời gian vua còn sống, ngoài truyện
ông U-ri-gia, người Khết.
6
Giữa
vua Rơ-kháp-am và vua Gia-róp-am luôn luôn có giao tranh trong buổi sinh thời. 7
Các truyện còn lại về vua A-vi-giam và mọi việc vua làm đã chẳng được ghi
chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? Và chiến tranh cũng xảy ra
giữa vua A-vi-giam và vua Gia-róp-am. 8 Vua A-vi-giam đã an nghỉ với
tổ tiên, và được chôn cất trong Thành Ða-vít; con vua là A-xa lên ngôi kế vị.
Triều
đại vua A-xa tại Giu-đa (911-870) (2 Sb 15:16 -16:6,11 -14)
9
Năm
thứ hai mươi triều vua Gia-róp-am cai trị Ít-ra-en thì vua A-xa lên làm vua
Giu-đa. 10 Vua trị vì tại Giê-ru-sa-lem bốn mươi mốt năm. Bà nội của
vua là Ma-a-kha, ái nữ ông Áp-sa-lôm. 11 Vua A-xa làm điều ngay
chính trước mắt Ðức Chúa, như Ða-vít tổ tiên vua. 12 Vua đuổi ra
khỏi xứ bọn trai điếm phục vụ đền thần, dẹp hết các tượng thần cha ông của vua
đã làm. 13 Ngay cả bà nội của vua là Ma-a-kha, cũng bị vua cách chức
quốc mẫu, vì bà đã làm một vật kinh tởm kính thần A-sê-ra. Vua A-xa phá huỷ vật
kinh tởm đó và đem đốt trong thung lũng Kít-rôn. 14 Các nơi cao chưa
biến đi, nhưng vua A-xa vẫn suốt đời trọn tình vẹn nghĩa với Ðức Chúa. 15 Vua
đưa vào Ðền Thờ Ðức Chúa các vật thánh mà vua cha cũng như chính vua dâng cúng:
bạc, vàng và các vật dụng.
16
Giữa
vua A-xa và vua Ba-sa của Ít-ra-en luôn luôn có giao tranh suốt buổi sinh thời
hai vua. 17 Ba-sa vua Ít-ra-en tiến đánh Giu-đa và vua kiến thiết
Ra-ma, để không cho ai ra vào liên lạc với A-xa vua Giu-đa. 18 Bấy
giờ vua A-xa lấy tất cả bạc, vàng còn lại trong các kho tàng Ðền Thờ Ðức Chúa
và các kho tàng của hoàng cung, trao vào tay bề tôi của vua, rồi vua A-xa sai
họ đến với vua A-ram là Ben Ha-đát, con ông Táp-rim-môn, con ông Khét-giôn, cư
ngụ tại Ða-mát và nói rằng: 19 "Nên có hiệp ước giữa tôi với
ngài, cũng như giữa thân phụ tôi với thân phụ ngài! Ðây, tôi xin gửi tặng ngài
bạc vàng làm quà. Xin ngài huỷ bỏ hiệp ước giữa ngài với Ba-sa vua Ít-ra-en, để
ông ấy bỏ tôi mà rút về!” 20 Vua Ben Ha-đát nghe lời vua A-xa và sai
các vị chỉ huy quân đội đánh các thành của Ít-ra-en; vua đánh chiếm I-giôn Ðan,
A-vên Bết Ma-a-kha, tất cả Kin-nơ-rốt, mãi cho đến vùng đất Náp-ta-li. 21 Nghe
biết chuyện này, vua Ba-sa ngưng kiến thiết Ra-ma, mà trở về Tia-xa. 22 Bấy
giờ vua A-xa triệu tập toàn thể Giu-đa, không trừ một ai, và họ lấy đi đá, gỗ ở
Ra-ma mà vua Ba-sa dùng để xây cất. Vua A-xa dùng các thứ ấy mà kiến thiết
Ghe-va thuộc Ben-gia-min và Mít-pa.
23
Các
truyện còn lại về vua A-xa, tất cả chiến công của vua, mọi việc vua làm, các
thành vua xây, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó
sao? Chỉ có điều về già vua bị đau chân. 24 Vua A-xa nằm xuống với
tổ tiên và được chôn cất với các ngài trong Thành vua Ða-vít tổ tiên vua. Con
vua là Giơ-hô-sa-phát lên ngôi kế vị.
Triều
đại vua Na-đáp tại Ít-ra-en (910-909)
25
Năm
thứ hai triều vua A-xa, vua Giu-đa, Na-đáp, con vua Gia-róp-am lên làm vua Ít-ra-en
và cai trị Ít-ra-en hai năm. 26 Vua làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa,
đi theo con đường của vua cha, phạm các tội vua ấy đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en
phạm theo. 27 Ba-sa, con ông A-khi-gia, thuộc nhà Ít-xa-kha âm mưu
chống lại vua. Khi vua Na-đáp và toàn dân Ít-ra-en bao vây Ghíp-bơ-thôn, ông
Ba-sa đã giết vua tại Ghíp-bơ-thôn thuộc Phi-li-tinh. 28 Ông Ba-sa
đã giết vua vào năm thứ ba triều A-xa, vua Giu-đa, và ông đã lên ngôi thế vị. 29
Lên ngôi rồi, vua hạ sát tất cả nhà Gia-róp-am, không để sót một mạng nào
mà không tiêu diệt, như lời Ðức Chúa đã dùng tôi tớ Người là A-khi-gia, người
Si-lô, mà phán trước, 30 vì tội vua Gia-róp-am đã phạm và lôi kéo
Ít-ra-en phạm theo, cũng như vì vua đã chọc giận Ðức Chúa, Thiên Chúa của
Ít-ra-en.
31
Các
truyện còn lại về vua Na-đáp và mọi việc vua làm, đã chẳng được ghi chép trong
sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 32 Giữa vua A-xa và vua Ba-sa vua
Ít-ra-en luôn luôn có giao tranh suốt buổi sinh thời hai vua.
Triều
đại vua Ba-sa tại Ít-ra-en (909-886)
33
Năm
thứ ba triều A-xa, vua Giu-đa, Ba-sa, con ông A-khi-gia lên làm vua toàn cõi
Ít-ra-en, trị vì tại Tia-xa hai mươi năm. 34 Vua làm điều dữ trái
mắt Ðức Chúa đi theo con đường của vua Gia-róp-am, phạm các tội vua ấy đã phạm
và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.
Chương 16
1
Có
lời Ðức Chúa phán với ông Giê-hu, con ông Kha-na-ni, chống lại vua Ba-sa, rằng:
2 "Từ bụi đất Ta đã kéo ngươi lên và đặt ngươi làm thủ lãnh
Ít-ra-en dân Ta, nhưng ngươi đã đi theo con đường của Gia-róp-am, và đã lôi kéo
Ít-ra-en dân Ta phạm tội, mà chọc giận Ta, vì thế 3 này Ta sẽ quét sạch hậu duệ
của Ba-sa và con cháu nhà nó, Ta sẽ làm cho nhà ngươi nên như nhà của
Gia-róp-am, con của Nơ-vát. 4 Kẻ nào thuộc về Ba-sa mà chết trong
thành thì sẽ bị chó ăn thịt, người chết ngoài đồng sẽ bị chim trời rỉa
thây."
5
Các
truyện còn lại về vua Ba-sa, và mọi việc làm, và các chiến công của vua, đã
chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 6 Vua
Ba-sa nằm xuống với tổ tiên và được chôn cất tại Tia-xa. Con vua là Ê-la lên
ngôi kế vị.
7
Lại
có lời Ðức Chúa dùng ngôn sứ Giê-hu, con ông Kha-na-ni, mà phán để chống vua
Ba-sa và dòng họ: vì tất cả điều dữ vua đã làm trái mắt Ðức Chúa mà chọc giận
Người, vì các việc vua đã làm chẳng hơn gì nhà Gia-róp-am, và vì vua đã tiêu
diệt nhà ấy.
Triều
đại vua Ê-la tại Ít-ra-en (886-885)
8
Năm
hai mươi sáu triều A-xa, vua Giu-đa, Ê-la, con vua Ba-sa lên ngôi làm vua
Ít-ra-en. Vua trị vì tại Tia-xa hai năm. 9 Dim-ri, bầy tôi của vua,
chỉ huy phân nửa chiến xa, đã âm mưu chống lại vua. Khi vua uống rượu say ở
Tia-xa, tại nhà ông Ác-xa, quản đốc hoàng cung tại Tia-xa, 10 thì
Dim-ri đi vào hạ sát vua, năm hai mươi bảy triều A-xa, vua Giu-đa, rồi lên làm
vua thế vị. 11 Lên ngôi rồi, vua liền hạ sát tất cả nhà vua Ba-sa
không để sót một đàn ông con trai, thân thích hay bạn bè nào. 12 Vua
Dim-ri tiêu diệt hết dòng họ nhà vua Ba-sa, đúng như lời Ðức Chúa dùng ngôn sứ
Giê-hu mà phán để chống lại vua Ba-sa, 13 bởi tất cả các tội của
Ba-sa và các tội của Ê-la con vua, các tội họ đã phạm và đã lôi kéo Ít-ra-en
phạm theo mà chọc giận Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, vì các ngẫu tượng của
họ.
14
Các
truyện còn lại về vua Ê-la và mọi việc vua làm đã chẳng được ghi chép trong
sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao?
Triều
đại vua Dim-ri tại Ít-ra-en (885)
15
Năm
hai mươi bảy triều A-xa, vua Giu-đa, Dim-ri lên làm vua trị vì tại Tia-xa được
bảy ngày. Bấy giờ dân đang bao vây Ghíp-bơ-thôn, thuộc Phi-li-tinh. 16 Ðang
khi bao vây và nghe biết ông Dim-ri mưu phản, hơn nữa đã giết cả vua, thì dân
liền tôn ông Om-ri, tổng chỉ huy quân đội Ít-ra-en, lúc bấy giờ đang ở trong
doanh trại, lên làm vua. 17 Ông Om-ri cùng toàn thể Ít-ra-en từ
Ghíp-bơ-thôn kéo lên bao vây Tia-xa. 18 Khi vua Dim-ri thấy thành đã
bị chiếm, thì rút vào vọng lâu của hoàng cung, rồi nổi lửa đốt hoàng cung, tự
thiêu, và vua đã chết, 19 vì các tội vua đã phạm là làm điều dữ trái
mắt Ðức Chúa và đi theo con đường vua Gia-róp-am, và vì tội vua này đã phạm và
lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.
20
Các
truyện còn lại về vua Dim-ri và cuộc nổi loạn của vua đã được ghi chép trong
sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en.
21
Bấy
giờ dân Ít-ra-en chia làm hai phe: một phe theo Típ-ni, con ông Ghi-nát, tôn
ông lên làm vua; còn phe kia thì theo Om-ri. 22 Phe theo Om-ri mạnh
hơn phe theo Típ-ni, con ông Ghi-nát. Ông Típ-ni đã chết và ông Om-ri lên làm
vua.
Triều
đại Om-ri tại Ít-ra-en (885-874)
23
Năm
ba mươi mốt triều A-xa, vua Giu-đa, Om-ri lên làm vua Ít-ra-en, trị vì mười hai
năm. Vua trị vì tại Tia-xa sáu năm. 24 Vua mua vùng núi Sa-ma-ri của
ông Se-me với giá sáu mươi ký bạc, rồi kiến thiết và đặt tên thành đã xây là
Sa-ma-ri, theo tên người chủ của núi là Se-me. 25 Vua Om-ri làm điều
dữ trái mắt Ðức Chúa và còn ăn ở tệ hơn tất cả các tiên đế. 26 Vua
đi theo mọi đường lối của vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, phạm các tội vua ấy đã
phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo, mà chọc giận Ðức Chúa, Thiên Chúa của
Ít-ra-en, vì các ngẫu tượng.
27
Các
truyện còn lại về vua Om-ri, các việc vua làm, các chiến công của vua đều được
ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en. 28 Vua Om-ri nằm
xuống với tổ tiên và được chôn cất tại Sa-ma-ri. Con vua là A-kháp lên ngôi kế
vị.
Dẫn
vào triều đại vua A-kháp (874-853)
29
Năm
ba mươi tám triều A-xa, vua Giu-đa, A-kháp, con vua Om-ri, lên làm vua
Ít-ra-en. Vua A-kháp, con vua Om-ri, làm vua cai trị Ít-ra-en tại Sa-ma-ri hai
mươi hai năm. 30 Vua A-kháp, con vua Om-ri, đã làm điều dữ trái mắt
Ðức Chúa, hơn tất cả các tiên đế. 31 Vua không chỉ phạm những tội
như vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, nhưng đã cưới công chúa I-de-ven, ái nữ của
Ét-ba-an, vua Xi-đôn, lại còn đi làm tôi thần Ba-an và sụp lạy nó. 32 Vua
lập một bàn thờ để kính Ba-an trong đền thờ vua đã xây cất tại Sa-ma-ri. 33
Vua A-kháp làm cả trụ thần, và như thế lại càng chọc giận Ðức Chúa, Thiên
Chúa của Ít-ra-en, hơn tất cả các vua Ít-ra-en trước. 34 Trong thời
vua, ông Khi-ên, người Bết Ên, xây cất lại Giê-ri-khô, nhưng ông đã phải mất
người con đầu lòng là A-vi-ram, khi đặt nền, và mất đứa con út là Xơ-gúp, khi
dựng cửa, như lời Ðức Chúa đã dùng ông Giô-suê, con ông Nun, mà phán.
Chương 17
V.
Truyện Ngôn Sứ Ê-Li-A
1.
Cơn Ðại Hạn
Báo
trước tai ương
1
Ông
Ê-li-a, người Tít-be, trong số dân cư ngụ tại Ga-la-át, nói với vua A-kháp
rằng: "Có Ðức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của Ít-ra-en, Ðấng tôi phục vụ:
trong những năm sắp tới, sẽ chẳng có mưa, có sương, nếu tôi không ra
lệnh."
Tại
suối Cơ-rít
2
Có
lời Ðức Chúa phán với ông như sau: 3 "Ngươi hãy bỏ đây đi về
phía đông, và ẩn mình trong thung lũng Cơ-rít, phía đông sông Gio-đan. 4 Ngươi
sẽ uống nước suối. Ta đã truyền cho quạ nuôi ngươi ở đấy.” 5 Ông ra
đi và làm như Ðức Chúa truyền: là đến ở thung lũng Cơ-rít, phía đông sông
Gio-đan. 6 Buổi sáng, quạ mang bánh và thịt cho ông; rồi buổi chiều,
cũng mang bánh và thịt cho ông. Ông uống nước suối.
Tại
Xa-rép-ta. Phép lạ bột và dầu.
7
Nhưng
sau một thời gian, suối cạn khô, vì trong xứ không có mưa. 8 Bấy giờ
có lời Ðức Chúa phán bảo ông: 9 "Ngươi hãy đứng dậy đi
Xa-rép-ta, thuộc Xi-đôn, và ở lại đấy. Này Ta truyền cho một bà goá ở đó nuôi
ngươi.” 10 Ông liền đứng dậy đi Xa-rép-ta. Khi đến cổng thành, ông
thấy có một bà goá đang lượm củi. Ông gọi bà ấy và nói: "Bà làm ơn đem
bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống.” 11 Bà ấy liền đi lấy nước.
Ông gọi bà và nói: "Bà làm ơn lấy cho tôi miếng bánh nữa!” 12 Bà
trả lời: "Có Ðức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không
có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm
vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi
chết.” 13 Ông Ê-li-a nói với bà: "Bà đừng sợ, cứ về làm như bà
vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi một chiếc
bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà. 14 Vì
Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này:
"Hũ
bột sẽ không vơi
vò
dầu sẽ chẳng cạn
cho
đến ngày Ðức Chúa
đổ
mưa xuống trên mặt đất."
15
Bà
ấy đi và làm như ông Ê-li-a nói; thế là bà ấy cùng với ông Ê-li-a và con bà có
đủ ăn lâu ngày. 16 Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng
như lời Ðức Chúa đã dùng ông Ê-li-a mà phán.
Hồi
sinh đứa con của bà goá
17
Sau
các sự việc đó, đứa con trai của bà ngã bệnh. Bệnh tình trầm trọng đến nỗi nó
tắt thở. 18 Bà nói với ông Ê-li-a: "Hỡi người của Thiên Chúa,
việc gì đến ông mà ông tới nhà tôi để nhắc lại tội tôi, và làm cho con tôi phải
chết?” 19 Ông Ê-li-a trả lời: "Bà đưa cháu cho tôi." Ông
bồng lấy đứa trẻ bà đang ẵm trong tay, đem lên phòng trên chỗ ông ở, và đặt nó
nằm lên giường. 20 Rồi ông kêu cầu Ðức Chúa rằng: "Lạy Ðức
Chúa, Thiên Chúa của con. Chúa nỡ hại cả bà goá đã cho con ở nhờ, mà làm cho
con bà ấy phải chết sao?” 21 Ba lần ông nằm lên trên đứa trẻ, và kêu
cầu Ðức Chúa rằng: "Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của con, xin cho hồn vía đứa
trẻ này lại trở về với nó!” 22 Ðức Chúa nghe tiếng ông Ê-li-a kêu
cầu, hồn vía đứa trẻ trở về với nó, và nó sống. 23 Ông Ê-li-a liền
bồng đứa trẻ từ phòng trên xuống nhà dưới, trao cho mẹ nó, và nói: "Bà
xem, con bà đang sống đây!” 24 Bà nói với ông Ê-li-a: "Vâng,
bây giờ tôi biết ông là người của Thiên Chúa, và lời Ðức Chúa do miệng ông nói
ra là đúng."
Chương 18
Cuộc
gặp gỡ giữa ông Ê-li-a và ông Ô-vát-gia-hu
1
Thời
gian dài qua đi, lại có lời Ðức Chúa phán với ông Ê-li-a vào năm thứ ba, rằng:
"Ngươi hãy đi tới gặp A-kháp, Ta sẽ cho mưa xuống trên mặt đất.” 2 Ông
Ê-li-a đi tới gặp vua A-kháp.
3
Bấy
giờ, vua A-kháp kêu ông Ô-vát-gia-hu, quản đốc hoàng cung vào. Ông Ô-vát-gia-hu
là người rất kính sợ Ðức Chúa; 4 vì khi bà I-de-ven giết hại các
ngôn sứ của Ðức Chúa, ông Ô-vát-gia-hu đã đem một trăm ngôn sứ giấu từng năm
mươi người một trong những cái hang rồi cung cấp bánh và nước cho họ. 5 Vậy,
vua A-kháp nói với ông Ô-vát-gia-hu: "Ngươi hãy đi khắp xứ, đến tất cả các
mạch nước và các suối, may ra chúng ta sẽ tìm được cỏ, hầu nuôi sống lừa ngựa,
bằng không, súc vật sẽ chết hết.” 6 Họ chia nhau đi rảo quanh khắp
xứ. Một mình vua A-kháp đi một đường, và một mình ông Ô-vát-gia hu đi một nẻo. 7
Ông Ô-vát-gia-hu đang đi, thì này ông Ê-li-a đón gặp ông. Khi nhận ra
Ê-li-a, ông liền phục xuống đất và nói: "Thưa ngài, ngài có phải là Ê-li-a
không?” 8 Ông này đáp: "Tôi đây! Ông hãy đi nói với chủ của ông
rằng: Ê-li-a đang ở đây!” 9 Ông Ô-vát-gia-hu thưa: "Tôi có tội
gì mà ngài tính nộp tôi tớ ngài vào tay vua A-kháp để vua ấy giết tôi? 10 Có
Ðức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ngài! Không có dân nào, nước nào mà chủ tôi
lại đã không sai người tới đó để lùng bắt ngài; khi người ta nói: "Không
có", thì vua bắt nước đó và dân đó phải thề rằng đã không tìm thấy ngài. 11
Thế mà bây giờ ngài lại bảo tôi: đi nói với chủ của ông: Ê-li-a đang ở
đây. 12 Rồi khi tôi bỏ ngài ra đi, thần khí của Ðức Chúa sẽ đưa ngài
đi đâu tôi chẳng biết, còn tôi thì phải đi báo cáo cho vua A-kháp, và khi không
gặp được ngài, thì vua sẽ giết tôi, mà tôi thì từ niên thiếu vẫn kính sợ Ðức
Chúa. 13 Ngài lại không được người ta cho biết việc tôi đã làm, khi
bà I-de-ven sát hại các ngôn sứ của Ðức Chúa sao? Tôi đã giấu một trăm người
trong số các ngôn sứ của Ðức Chúa, từng năm mươi người một, trong các hang, và
đã cung cấp bánh và nước cho họ. 14 Và bây giờ ngài bảo tôi: Hãy đi
nói với chủ ông: ông Ê-li-a đang ở đây, để vua ấy giết tôi.” 15 Nhưng
ông Ê-li-a nói: "Có Ðức Chúa hằng sống của các đạo binh, Ðấng tôi phục vụ!
Ngay hôm nay tôi sẽ ra mắt vua."
Ngôn
sứ Ê-li-a và vua A-kháp
16
Ông
Ô-vát-gia-hu đi gặp vua A-kháp và báo cho vua biết sự việc. Vua A-kháp đi đón
ông Ê-li-a. 17 Khi nhận ra ông Ê-li-a, vua A-kháp nói với ông rằng:
"Tên mang hoạ cho Ít-ra-en, nhà ngươi đấy phải không?” 18 Ông
đáp: "Tôi không mang hoạ cho Ít-ra-en, nhưng chính là ngài và nhà thân phụ
ngài, vì các người đã bỏ không giữ mệnh lệnh Ðức Chúa truyền, còn ngài thì đã
đi theo các thần Ba-an. 19 Bây giờ, ngài hãy cho triệu tập toàn dân
Ít-ra-en lại bên tôi ở núi Các-men, cùng với bốn trăm năm mươi ngôn sứ của thần
Ba-an và bốn trăm ngôn sứ của thần A-sê-ra, những người được hưởng lộc của bà
I-de-ven."
Hy
lễ trên núi Các-men
20
Vua
A-kháp sai người đi mời toàn thể con cái Ít-ra-en và triệu tập các ngôn sứ trên
núi Các-men. 21 Bấy giờ, ông Ê-li-a đến bên dân và nói: "Các
ngươi nhảy khập khiễng hai chân cho tới bao giờ? Nếu Ðức Chúa là Thiên Chúa,
hãy theo Người; còn nếu là Ba-an thì cứ theo nó!" Nhưng dân chúng không
đáp lại lời nào. 22 Ông Ê-li-a lại nói với dân: "Chỉ sót lại
mình tôi là ngôn sứ của Ðức Chúa, còn ngôn sứ của Ba-an có những bốn trăm năm
mươi người. 23 Hãy cho chúng tôi hai con bò mộng; họ hãy chọn lấy
một con, chặt ra và đặt trên củi, nhưng đừng châm lửa; tôi cũng làm thịt con bò
kia, rồi đặt trên củi, nhưng sẽ không châm lửa. 24 Ðoạn các ngươi
hãy kêu cầu danh thần của các ngươi; còn tôi, tôi kêu cầu danh Ðức Chúa. Vị
thần nào đáp lại bằng lửa thì vị đó chính là Thiên Chúa. Toàn dân trả lời và
nói: "Ðề nghị hay đó!” 25 Bấy giờ, ông Ê-li-a nói với các ngôn
sứ Ba-an: "Các người chọn lấy một con bò và làm trước đi, vì các người
đông hơn. Rồi hãy kêu cầu danh thần của các người nhưng đừng châm lửa.” 26
Vậy, họ lấy con bò người ta đưa cho họ, làm thịt, rồi kêu cầu danh thần
Ba-an từ sáng tới trưa: "Lạy thần Ba-an, xin đáp lời chúng tôi!"
Nhưng không một tiếng nói, không một ai trả lời, và họ nhảy khập khiễng bên
cạnh bàn thờ họ đã dựng. 27 Ðến trưa, ông Ê-li-a chế nhạo họ rằng:
"Kêu lớn tiếng lên, vì người là một vị thần mà! Người đang mải suy nghĩ,
hay là đi vắng hoặc trẩy đường xa; có khi người đang ngủ, thì sẽ thức dậy thôi!”
28 Họ càng kêu lớn tiếng hơn và theo thói tục của họ, họ dùng gươm,
giáo rạch mình đến chảy máu. 29 Quá trưa rồi mà họ vẫn tiếp tục nói
liên miên cho tới giờ dâng lễ; nhưng vẫn không một tiếng nói, không ai trả lời,
không người để ý.
30
Bấy
giờ ông Ê-li-a nói với toàn dân: "Các người hãy lại đây." Toàn dân
tiến lại gần ông. Ông dọn lại bàn thờ Ðức Chúa đã bị phá huỷ. 31 Ông
Ê-li-a lấy mười hai phiến đá, theo số các chi tộc con cháu ông Gia-cóp, người
đã được Ðức Chúa phán bảo rằng: "Tên ngươi sẽ là Ít-ra-en.” 32 Ông
dùng các phiến đá ấy xây lại một bàn thờ kính Ðức Chúa. Ông đào một đường mương
chung quanh bàn thờ rộng cỡ hai thúng hạt giống. 33 Ông xếp củi lên,
rồi làm thịt con bò mộng và đặt trên đống củi. 34 Ông nói: "Hãy
đổ nước đầy bốn lu và tưới lên lễ vật và củi." Họ làm như vậy. Ông nói:
"Lần thứ hai nữa", họ làm lần thứ hai. Ông lại nói: "Lần thứ
ba!" và họ làm lần thứ ba. 35 Nước chảy tràn quanh bàn thờ,
khiến đường mương cũng đầy nước. 36 Ðến giờ dâng lễ, ngôn sứ Ê-li-a
tiến ra và nói: "Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và
Ít-ra-en! Ước chi hôm nay người ta biết rằng trong Ít-ra-en Ngài là Thiên Chúa
và con là tôi tớ Ngài. Cũng vì lời Ngài phán mà con đã làm tất cả các việc này.
37 Xin đáp lời con, lạy Ðức Chúa, xin đáp lời con, để dân này nhận
biết Ngài là Ðức Chúa, Thiên Chúa thật, và Ngài đã khiến họ thay lòng đổi dạ.” 38
Bấy giờ lửa của Ðức Chúa ập xuống, thiêu rụi của lễ, củi, đá và bụi, cả
nước trong mương cũng hút cạn luôn. 39 Toàn dân thấy vậy, liền phủ
phục sát đất và nói: "Ðức Chúa quả là Thiên Chúa! Ðức Chúa quả là Thiên
Chúa!” 40 Ông Ê-li-a nói với họ: "Bắt lấy các ngôn sứ Ba-an,
đừng để tên nào thoát." Họ bắt lấy chúng và ông Ê-li-a đem giết chúng tại
suối Ki-sôn.
Thời
đại hạn chấm dứt
41
Ông
Ê-li-a nói với vua A-kháp: "Xin mời vua lên mà ăn uống, bởi vì có tiếng
mưa rào!” 42 Vua A-kháp liền lên ăn uống; còn ông Ê-li-a thì lên
đỉnh Các-men, ông cúi xuống đất, gục mặt vào hai đầu gối. 43 Ðoạn
ông bảo đứa tiểu đồng của ông: "Con đi lên và nhìn về phía biển." Nó
đi lên, nhìn và nói: "Không có gì cả!" Ông bảo: "Hãy trở lại bảy
lần.” 44 Lần thứ bảy, nó nói: "Kìa có một đám mây nhỏ bằng bàn
tay người đang từ biển bốc lên." Ông nói: "Con hãy lên thưa với vua
A-kháp: xin vua thắng xe và xuống kẻo bị kẹt mưa.” 45 Lập tức trời
kéo mây đen nghịt và nổi gió, rồi trút mưa lớn. Vua A-kháp cỡi xe đi Gít-rơ-en.
46 Tay Ðức Chúa đặt trên ông Ê-li-a; ông thắt lưng và chạy trước vua
A-kháp cho tới lúc vào Gít-rơ-en.
Chương 19
2.
Ngôn Sứ Ê-Li-A Tại Khô-Rếp
Trên
đường lên núi Khô-rếp
1
Vua
A-kháp kể cho I-de-ven nghe mọi chuyện ông Ê-li-a đã làm và tất cả sự việc ông
dùng gươm hạ sát hết các ngôn sứ. 2 Bà I-de-ven liền sai sứ giả đến
nói với ông Ê-li-a rằng: "Xin các thần minh làm cho ta thế này, và còn hơn
thế nữa, nếu giờ này sáng mai ta không biến mạng ngươi ra như mạng một trong
các người ấy.” 3 Thấy vậy, ông Ê-li-a trỗi dậy, ra đi để thoát mạng.
Khi tới Bơ-e Se-va thuộc Giu-đa, ông để đứa tiểu đồng lại đấy, 4 còn
ông thì đi một ngày đường trong sa mạc. Ông đến ngồi dưới gốc một cây kim tước.
Ông xin cho được chết và nói: "Lạy Ðức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy
mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con.” 5 Rồi ông
nằm dưới cây kim tước đó và thiếp đi. Nhưng này có một thiên sứ đụng vào người
ông và nói: "Dậy mà ăn!” 6 Ông đưa mắt nhìn thì thấy ở phía đầu
ông có một chiếc bánh nướng trên những hòn đá nung và một hũ nước. Ông ăn bánh,
uống nước, rồi lại nằm xuống. 7 Thiên sứ của Ðức Chúa trở lại lần
nữa, đụng vào người ông và nói: "Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa.”
8 Ông dậy, ăn bánh và uống nước. Rồi nhờ lương thực ấy bổ dưỡng, ông
đi suốt bốn mươi ngày, bốn mươi đêm tới Khô-rếp, là núi của Thiên Chúa.
Cuộc
gặp gỡ Thiên Chúa
9
Ông
vào một cái hang và nghỉ đêm tại đó. Có lời Ðức Chúa phán với ông: "Ê-li-a
ngươi làm gì ở đây?” 10 Ông thưa: "Lòng nhiệt thành đối với Ðức
Chúa, Thiên Chúa các đạo binh nung nấu con, vì con cái Ít-ra-en đã bỏ giao ước
với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ còn sót
lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng sống con.” 11 Người
nói với ông: "Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Ðức Chúa. Kìa Ðức
Chúa đang đi qua." Gió to bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan
Ðức Chúa, nhưng Ðức Chúa không ở trong cơn gió bão. Sau đó là động đất, nhưng
Ðức Chúa không ở trong trận động đất. 12 Sau động đất là lửa, nhưng
Ðức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa có tiếng gió hiu hiu. 13 Vừa
nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang.
Bấy giờ có tiếng hỏi ông: "Ê-li-a, ngươi làm gì ở đây?” 14 Ông
thưa: "Lòng nhiệt thành đối với Ðức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, nung
nấu con, vì con cái Ít-ra-en đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng
gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt
để lấy mạng con."
15
Ðức
Chúa phán với ông: "Ngươi hãy đi con đường ngươi đã đi trước qua sa mạc
cho tới Ða-mát mà về. Tới nơi, ngươi sẽ xức dầu phong Kha-da-ên làm vua A-ram; 16
còn Giê-hu con của Nim-si, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm vua
Ít-ra-en. Ê-li-sa con Sa-phát, người A-vên Mơ-khô-la, ngươi sẽ xức dầu tấn
phong nó làm ngôn sứ thay cho ngươi. 17 Kẻ thoát gươm của Kha-da-ên
sẽ bị Giê-hu giết; người thoát tay Giê-hu sẽ bị Ê-li-sa giết. 18 Nhưng
Ta, Ta sẽ dành ra cho Ta bảy nghìn người trong Ít-ra-en: tất cả những kẻ đã
không hề bái gối trước Ba-an, những môi miệng không hề hôn kính nó."
Ê-li-sa
được gọi
19
Ông
Ê-li-a bỏ đó ra đi và gặp ông Ê-li-sa là con ông Sa-phát đang cày ruộng; trước
mặt ông Ê-li-sa có mười hai cặp bò; chính ông thì đi theo cặp thứ mười hai. Ông
Ê-li-a đi ngang qua, ném tấm áo choàng của mình lên người ông Ê-li-sa. 20 Ông
này liền để bò lại, chạy theo ông Ê-li-a và nói: "Xin cho con về hôn cha
mẹ để từ giã, rồi con sẽ đi theo ông." Ông Ê-li-a trả lời: "Cứ về đi!
Thầy có làm gì anh đâu?” 21 Ông Ê-li-sa bỏ ông Ê-li-a mà về, bắt cặp
bò giết làm lễ tế, lấy cày làm củi nấu thịt đãi người nhà. Rồi ông đứng dậy, đi
theo ông Ê-li-a và phục vụ ông.
Chương 20
3.
Các Cuộc Chiến Với Người A-Ram
Vây
hãm Sa-ma-ri
1
Ben
Ha-đát, vua A-ram tập họp tất cả quân đội lại. Cùng với ba mươi hai vua, có cả
xe lẫn ngựa, vua tiến lên vây hãm Sa-ma-ri và tấn công thành ấy. 2 Vua
sai sứ giả vào thành yết kiến A-kháp, vua Ít-ra-en, 3 và nói với vua
này rằng: "Ben Ha-đát nói thế này: bạc, vàng của ông thuộc về ta; các
người vợ đẹp con khôn của ông cũng thuộc về ta.” 4 Vua Ít-ra-en trả
lời và nói: "Xin tuân lời ngài, thưa đức vua, chúa thượng tôi! Bản thân
tôi và mọi sự tôi có đều thuộc về ngài."
5
Các
sứ giả trở lại và nói: "Vua Ben Ha-đát bảo thế này: Ta đã sai sứ nói với
ông rằng: "Bạc vàng của ông, phải nộp cho ta; các vợ con của ông, cũng
phải nộp cho ta". 6 Ngày mai giờ này thế nào ta cũng sai tôi tớ
ta đến với ông; chúng sẽ lục soát nhà ông và nhà tôi tớ ông. Những gì chúng cho
là quý, chúng sẽ lấy hết và đem đi."
7
Bấy
giờ vua Ít-ra-en triệu tập tất cả kỳ mục trong xứ lại và nói: "Các ông
phải biết và thấy rõ là vua ấy đang tìm cách hại chúng ta, vì ông đã sai người
đến đòi ta phải nộp vợ con, bạc vàng của ta, dù ta đã chẳng từ chối.” 8 Tất
cả kỳ mục và toàn dân thưa với vua: "Xin ngài đừng nghe, cũng đừng chấp
thuận!” 9 Vua trả lời các sứ giả của vua Ben Ha-đát rằng: "Xin
các ông về thưa với đức vua, chúa thượng tôi: tất cả những gì ngài đã sai sứ
nói với tôi tớ ngài đây lần đầu, thì tôi sẽ làm; còn chuyện này thì tôi không
thể làm được." Các sứ giả ra về mang theo lời phúc đáp.
10
Bấy
giờ vua Ben Ha-đát sai sứ đến nói với vua: "Xin các thần minh làm cho ta
thế này và còn hơn thế nữa, nếu ở Sa-ma-ri có đủ bụi cho tất cả đám dân theo ta
mỗi người một nắm!” 11 Nhưng vua Ít-ra-en đáp lại rằng: "Hãy
bảo kẻ đang thắt lưng, chớ tự hào như kẻ đã cởi thắt lưng ra!” 12 Khi
vua Ben Ha-đát nghe biết việc này -bấy giờ vua đang uống rượu với các vua trong
lều- thì ra lệnh cho bầy tôi của vua: "Chuẩn bị!" Và họ chuẩn bị tấn
công thành.
Chiến
thắng của Ít-ra-en
13
Nhưng
này, có một ngôn sứ đến gặp A-kháp, vua Ít-ra-en, và thưa với vua: "Ðức Chúa
phán thế này: Ngươi có thấy đám dân đông đảo kia không? Này, hôm nay Ta trao
chúng vào tay ngươi, để ngươi biết Ta là Ðức Chúa.” 14 Vua A-kháp
nói: "Nhờ ai?" Ngôn sứ đáp: "Ðức Chúa phán thế này: Nhờ trai
tráng dưới quyền các vị chỉ huy khu vực." Vua lại hỏi: "Ai sẽ khai
chiến?" Ngôn sứ trả lời: "Chính ngài!"
15
Vua
A-kháp duyệt lại trai tráng dưới quyền các vị chỉ huy khu vực, tính được hai
trăm ba mươi hai người. Ngoài số người này, vua cũng duyệt lại toàn quân, tất
cả con cái Ít-ra-en, tính được bảy ngàn. 16 Họ xuất quân vào buổi
trưa lúc Ben Ha-đát đang say sưa trong lều với ba mươi hai vua đồng minh của
mình. 17 Các trai tráng dưới quyền các vị chỉ huy khu vực xuất quân
trước. Vua Ben Ha-đát sai người đi xem xét, và họ báo cáo với vua rằng:
"Có những người đi ra từ thành Sa-ma-ri.” 18 Vua nói: "Nếu
chúng đi ra để cầu hoà, thì hãy bắt sống chúng: còn nếu chúng đi ra để khiêu
chiến, thì cũng bắt sống luôn!” 19 Vậy các trai tráng dưới quyền các
vị chỉ huy khu vực cùng với đoàn quân theo sau tiến ra ngoài thành. 20 Họ
đánh nhau. Quân A-ram tháo chạy, bị quân Ít-ra-en đuổi theo; Ben Ha-đát, vua
A-ram cỡi ngựa chạy thoát thân cùng với mấy kỵ binh. 21 Vua Ít-ra-en
cũng ra và đánh giết ngựa xe, gây tổn thất nặng nề cho A-ram.
Thời
gian sau đó
22
Vị
ngôn sứ đến gặp vua Ít-ra-en và thưa với vua: "Mời vua đi! Xin vua can đảm
lên! Xin cân nhắc và xem xét điều ngài phải thực hiện, vì mùa xuân tới vua
A-ram sẽ tấn công ngài."
23
Các
bầy tôi của vua A-ram thưa với vua rằng: "Thần của chúng là thần đồi núi,
vì thế chúng mạnh hơn chúng ta. Nhưng nếu chúng ta đánh nhau với chúng dưới
đồng bằng, thì chắc chắn chúng ta sẽ thắng. 24 Vậy, xin ngài làm thế
này là truất phế các vua và đặt các quan đầu tỉnh thay vào. 25 Còn
ngài, thì xin lập một đạo quân như đạo quân đã bỏ ngài trước đây, với số ngựa
và xe cũng như thế. Chúng ta sẽ giao tranh với chúng nơi đồng bằng, chắc chắn
chúng ta sẽ thắng." Vua nghe và làm như lời họ nói.
Chiến
thắng tại A-phếch
26
Khi
mùa xuân tới, vua Ben Ha-đát kiểm tra người A-ram và tiến lên A-phếch giao
chiến với Ít-ra-en. 27 Con cái Ít-ra-en cũng được kiểm tra và được
tiếp tế lương thực; họ đã lên đường nghênh chiến. Con cái Ít-ra-en như hai bầy
dê cái đóng trại đối diện với chúng, trong khi người A-ram tràn ngập khắp xứ.
28
Bấy
giờ người của Thiên Chúa đến gặp vua Ít-ra-en và nói: "Ðức Chúa phán thế
này: vì người A-ram nói Ðức Chúa là thần núi, chứ không phải thần thung lũng
nên Ta sẽ trao tất cả đám quân đông đảo ấy vào tay ngươi, để các ngươi biết Ta
là Ðức Chúa.” 29 Hai bên đóng trại đối diện nhau trong bảy ngày.
Ngày thứ bảy giao tranh bùng nổ; con cái Ít-ra-en giết được một trăm ngàn bộ
binh của A-ram trong một ngày. 30 Những kẻ sống sót chạy trốn về
A-phếch vào nội thành; nhưng tường thành đổ xuống đè lên hai mươi bảy ngàn
người còn sót lại.
Vua
Ben Ha-đát cũng trốn vào thành, ẩn núp hết chỗ này đến chỗ khác. 31 Bề
tôi của vua nói với vua: "Này, chúng tôi nghe nói các vua nhà Ít-ra-en là
những vua nhân từ; chúng ta hãy lấy vải bố thắt lưng và cột dây lên đầu rồi ra
trình diện vua Ít-ra-en. Có khi vua ấy sẽ để cho ngài an toàn tính mệnh.” 32
Vậy họ lấy vải bố thắt lưng và cột dây lên đầu, rồi ra trình diện vua
Ít-ra-en và nói: "Tôi tớ ngài là Ben Ha-đát nói: Xin để tôi sống!"
Vua đáp: "Thế ra ông ấy còn sống ư? Ông là anh em ta đó.” 33 Những
người kia cảm thấy có điềm tốt, liền vội vàng dựa vào lời ấy mà nói: "Vua
Ben Ha-đát là anh em của ngài!" Vua nói: "Các ngươi đi tìm ông ấy cho
ta." Vua Ben Ha-đát ra gặp vua A-kháp. Vua A-kháp mời vua Ben Ha-đát lên
xe của mình. 34 Vua Ben Ha-đát nói: "Các thành thân phụ tôi đã
lấy của thân phụ ngài, tôi xin hoàn lại; xin ngài cứ dựng lên những dãy phố tại
Ða-mát, như thân phụ tôi đã làm ở Sa-ma-ri." Vua A-kháp nói: "Còn
tôi, dựa vào giao ước, tôi sẽ để cho ngài đi." Vậy vua A-kháp lập một giao
ước với ông và để cho ông đi.
Một
ngôn sứ lên án cách cư xử của vua A-kháp
35
Theo
lệnh Ðức Chúa, một người trong nhóm các ngôn sứ nói với bạn mình: "Ðánh
tôi đi." Nhưng người kia không chịu đánh. 36 Ông này nói:
"Vì anh không vâng nghe tiếng Ðức Chúa, thì này khi anh bỏ tôi mà đi, một
con sư tử sẽ vồ chết anh." Khi người ấy bỏ bạn mà đi, thì gặp một con sư
tử và bị nó vồ chết. 37 Vị ngôn sứ gặp một người khác, liền nói:
"Ðánh tôi đi!" Người ấy đánh ông, làm ông bị thương. 38 Vị
ngôn sứ ra đường chờ vua - ông cột tấm băng bên trên mắt để khỏi bị nhận diện -.
39 Khi vua đi qua, ông kêu lên: "Tôi tớ của ngài ra trận thì
bỗng có kẻ bỏ hàng ngũ dẫn đến cho tôi một người, và bảo: "Hãy canh giữ
người này! Nếu mất nó, thì mạng anh sẽ đền mạng nó, hoặc anh sẽ phải trả ba
mươi ký bạc. 40 Thế nhưng, khi tôi tớ ngài đang bận chuyện này
chuyện khác, thì nó biến mất." Vua Ít-ra-en liền nói với người ấy:
"Ngươi đã phán quyết rồi đó! Chính ngươi đã tuyên án!” 41 Người
ấy vội vàng gỡ tấm băng trên mắt, và vua Ít-ra-en nhận ra đó là một trong các
ngôn sứ. 42 Người ấy nói với vua: "Ðức Chúa phán thế này: Vì
ngươi đã để cho kẻ bị Ta lên án biệt tru, thoát khỏi tay ngươi, thì mạng ngươi
sẽ đền mạng nó, dân ngươi sẽ thay cho dân nó.” 43 Vua Ít-ra-en buồn
rầu và bực bội trở về nhà. Vua vào Sa-ma-ri.
Chương 21
4.
Vườn Nho Của Ông Na-Vốt
Ông
Na-vốt từ chối, không chịu nhượng vườn nho của mình
1
Sau
những sự việc đó, thì xảy ra chuyện ông Na-vốt người Gít-rơ-en có một vườn nho
bên cạnh cung điện vua A-kháp, vua Sa-ma-ri. 2 Vua A-kháp nói với
ông Na-vốt rằng: "Hãy nhượng vườn nho của ngươi cho ta, để ta làm vườn
rau, vì nó ở ngay sát cạnh nhà ta. Ðể bù lại, ta sẽ cho ngươi một vườn nho tốt
hơn, hay là, nếu ngươi muốn, giá bao nhiêu, ta sẽ trả bằng bạc.” 3 Nhưng
ông Na-vốt thưa với vua A-kháp: "Xin Ðức Chúa đừng để tôi nhượng gia sản
của tổ tiên tôi cho ngài!"
Vua
A-kháp và hoàng hậu I-de-ven
4
Vua
A-kháp trở về nhà buồn rầu và bực bội vì lời ông Na-vốt, người Gít-rơ-en đã nói
với vua: "Tôi sẽ không nhượng gia sản của tổ tiên tôi cho vua." Vua
nằm trên giường, quay mặt đi, và không chịu ăn uống gì. 5 Hoàng hậu
I-de-ven đi vào, nói với vua: "Tại sao tâm thần vua buồn rầu, và vua không
chịu ăn uống gì như vậy?” 6 Vua trả lời: "Tôi đã nói chuyện với
Na-vốt người Gít-rơ-en và bảo nó: Hãy nhượng vườn nho của ngươi cho ta mà lấy
tiền, hoặc, nếu ngươi muốn, ta sẽ đổi cho một vườn nho khác. Nhưng nó lại nói:
"Tôi không nhượng vườn nho của tôi cho vua được.” 7 Bấy giờ
hoàng hậu I-de-ven nói với vua: "Vua cai trị Ít-ra-en hay thật! Mời vua
dậy mà ăn cho lòng phấn khởi lên! Thiếp sẽ tặng vua vườn nho của Na-vốt người
Gít-rơ-en.
Ông
Na-vốt bị giết
8
Bấy
giờ, bà nhân danh vua A-kháp viết thơ, rồi dùng con dấu của vua mà đóng ấn, và
gửi cho các kỳ mục và thân hào cư ngụ trong thành với ông Na-vốt. 9 Trong
thơ bà viết rằng: "Hãy công bố một thời kỳ chay tịnh và đặt Na-vốt ngồi ở
hàng đầu dân chúng. 10 Hãy đặt hai đứa vô lại ngồi đối diện với nó,
để chúng tố cáo nó: "Ông đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua. Và hãy đem
nó ra ngoài ném đá cho chết."
11
Dân
chúng, kỳ mục và thân hào cư ngụ trong thành làm theo lệnh bà I-de-ven như
trong thơ bà đã viết gửi cho họ. 12 Họ công bố thời kỳ chay tịnh và
đặt ông Na-vốt ngồi ở hàng đầu dân chúng. 13 Rồi có hai kẻ vô lại đi
vào, ngồi đối diện với ông. Những kẻ vô lại ấy tố cáo ông Na-vốt trước mặt dân
rằng: "Na-vốt đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua." Họ liền đưa ông
ra ngoài thành và ném đá ông. Ông đã chết. 14 Họ sai người đi nói
với bà I-de-ven: "Na-vốt đã bị ném đá chết.” 15 Khi bà I-de-ven
nghe biết ông Na-vốt đã bị ném đá chết, thì nói với vua A-kháp: "Xin vua
đứng dậy và chiếm đoạt vườn nho của Na-vốt, người Gít-rơ-en, kẻ đã từ chối
không chịu nhượng cho ngài để lấy tiền, vì Na-vốt không còn sống nữa, nó chết
rồi.” 16 Khi nghe biết ông Na-vốt đã chết, vua A-kháp đứng dậy,
xuống chiếm đoạt vườn nho của ông Na-vốt, người Gít-rơ-en.
Ngôn
sứ Ê-li-a tuyên cáo án lệnh của Thiên Chúa
17
Có
lời Ðức Chúa phán với ông Ê-li-a, người Tít-be, rằng: 18 "Ngươi
hãy đứng dậy, xuống gặp A-kháp, vua Ít-ra-en, ở Sa-ma-ri. Này, nó đang ở trong
vườn nho của Na-vốt, vì nó đã xuống chiếm đoạt vườn nho ấy. 19 Ngươi
hãy nói với nó rằng: "Ðức Chúa phán thế này: Ngươi đã giết hại, lại còn
chiếm đoạt nữa ư? - ngươi hãy nói với nó -, Ðức Chúa phán thế này: Tại chính
nơi chó đã liếm máu Na-vốt, thì chó cũng sẽ liếm máu ngươi".” 20 Vua
A-kháp nói với ông Ê-li-a: "Hỡi kẻ thù của ta, ngươi đã bắt được ta."
Ông đáp: "Tôi đã bắt được ngài làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa. 21 Này,
Ta sẽ giáng tai hoạ xuống trên ngươi: Ta sẽ xoá sạch hậu duệ ngươi, Ta sẽ tiêu
diệt các đàn ông con trai của A-kháp trong Ít-ra-en, đang bị ràng buộc hay được
tự do. 22 Ta sẽ làm cho nhà ngươi nên như nhà Gia-róp-am, con của
Nơ-vát, và như nhà Ba-sa con của A-khi-gia, vì ngươi đã chọc giận Ta và đã làm
cho Ít-ra-en phạm tội.” 23 Ðức Chúa cũng tuyên án phạt I-de-ven
rằng: "Chó sẽ ăn thịt I-de-ven trong cánh đồng Gít-rơ-en. 24 Kẻ
nào thuộc về A-kháp mà chết trong thành thì sẽ bị chó ăn thịt, người chết ngoài
đồng sẽ bị chim trời rỉa thây."
25
Thật,
không hề có ai như vua A-kháp, đã liều lĩnh làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, vì
bị hoàng hậu I-de-ven xúi giục. 26 Vua sẽ làm chuyện rất ghê tởm là
đi theo các tượng thần, như dân E-mô-ri, những kẻ Ðức Chúa đã đuổi khuất mắt
con cái Ít-ra-en.
Vua
A-kháp hối hận
27
Khi
nghe những lời ấy, vua A-kháp xé áo mình ra, khoác áo vải bố bám sát vào thịt,
ăn chay, nằm ngủ với bao bì và bước đi thiểu não. 28 Bấy giờ có lời
Ðức Chúa phán với ông Ê-li-a, người Tít-be, rằng: 29 "Ngươi có
thấy A-kháp đã hạ mình trước mặt Ta thế nào không? Vì nó đã hạ mình trước mặt
Ta, nên Ta sẽ không giáng hoạ trong buổi sinh thời của nó, nhưng đến đời con
nó, Ta sẽ giáng hoạ xuống nhà nó."
Chương 22
5.
Lại Giao Tranh Với Người A-Ram
Vua
A-kháp quyết định tấn công Ra-mốt Ga-la-át (2 Sb 18:1-3)
1
Suốt
ba năm, không có giao tranh giữa A-ram và Ít-ra-en. 2 Năm thứ ba,
Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa, xuống thăm vua Ít-ra-en. 3 Vua Ít-ra-en
nói với bề tôi mình rằng: "Các ngươi biết: Ra-mốt Ga-la-át là của chúng
ta, thế mà chúng ta cứ để yên không lấy lại khỏi tay vua A-ram.” 4 Rồi
vua nói với vua Giơ-hô-sa-phát: "Ngài có đi tấn công Ra-mốt Ga-la-át với
tôi không?" Vua Giơ-hô-sa-phát nói với vua Ít-ra-en: "Tôi cũng làm
như ngài, dân tôi cũng như dân ngài, ngựa của tôi cũng như ngựa của ngài."
Các
ngôn sứ tiên báo thành công (2 Sb 18:4-11)
5
Nhưng
vua Giơ-hô-sa-phát nói với vua Ít-ra-en: "Hôm nay, xin ngài thỉnh vấn sấm
ngôn của Ðức Chúa.” 6 Vua Ít-ra-en tập họp các ngôn sứ, khoảng bốn
trăm người, và nói với họ: "Ta có phải đi đánh Ra-mốt Ga-la-át không hay
là phải ngưng lại?" Họ thưa: "Xin vua cứ lên, Chúa sẽ trao thành ấy
vào tay vua.” 7 Nhưng vua Giơ-hô-sa-phát nói: "Ở đây không có
ngôn sứ nào khác của Ðức Chúa nữa, để chúng ta nhờ ông thỉnh vấn cho hay sao?” 8
Vua Ít-ra-en trả lời vua Giơ-hô-sa-phát: "Còn một người nữa chúng ta
có thể nhờ thỉnh vấn Ðức Chúa được, nhưng tôi ghét ông ta, vì ông ta không hề
tiên báo cho tôi điều lành, mà chỉ toàn điều dữ. Ðó là Mi-kha-giơ-hu, con của
Gim-la." Vua Giơ-hô-sa-phát nói: "Ðức vua đừng nói như vậy.” 9 Vua
Ít-ra-en gọi một hoạn quan tới và bảo: "Mau đưa Mi-kha-giơ-hu, con của
Gim-la, đến đây."
10
Vua
Ít-ra-en và Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa, lúc ấy mỗi vua đang ngồi trên ngai,
mình mặc cẩm bào, ở sân lúa tại cổng thành Sa-ma-ri; và tất cả các ngôn sứ đều
đang nói liên miên trước mặt các vua. 11 Ông Xít-ki-gia, con ông Cơ-na-a-na,
đã làm một cặp sừng bằng sắt và nói: "Ðức Chúa phán như sau: Với những
chiếc sừng này, ngươi sẽ húc A-ram cho đến khi tiêu diệt chúng.” 12 Và
tất cả các ngôn sứ đều nói tiên tri như thế mà rằng: "Xin vua cứ đi lên
Ra-mốt Ga-la-át là sẽ gặp may. Ðức Chúa sẽ trao thành ấy vào tay vua."
Ngôn
sứ Mi-kha-giơ-hu báo trước cuộc thất trận (2 Sb 18:12 -27)
13
Người
được sai đi mời ông Mi-kha-giơ-hu nói với ông rằng: "Này, lời các ngôn sứ
đều đồng thanh báo cho vua điều may; mong sao lời của ông cũng giống như lời
của họ. Xin ông cũng báo điều may.” 14 Ông Mi-kha-giơ-hu nói:
"Có Ðức Chúa hằng sống! Ðức Chúa phán sao, tôi sẽ nói vậy.” 15 Rồi
ông vào gặp vua, vua nói với ông: "Này, Mi-kha-giơ-hu, chúng ta có nên đi
đánh Ra-mốt Ga-la-át không, hay là ngưng lại?" Ông thưa với vua: "Xin
vua cứ lên, vua sẽ gặp may. Ðức Chúa sẽ trao thành ấy vào tay vua.” 16 Vua
liền nói với ông: "Ðã bao lần, ta thề buộc ngươi là, nhân danh Ðức Chúa,
ngươi chỉ được nói thật với ta?” 17 Ông Mi-kha-giơ-hu mới nói:
"Tôi
đã thấy toàn thể Ít-ra-en tán loạn trên núi
như
chiên không người chăn
Ðức
Chúa phán: chúng không còn chủ nữa.
Ai
nấy hãy về nhà bình an!"
18
Vua
Ít-ra-en nói với vua Giơ-hô-sa-phát: "Tôi đã chẳng nói với ngài rằng: ông
ta không hề tiên báo cho tôi điều may, mà chỉ toàn điều rủi đó sao?” 19 Ông
Mi-kha-giơ-hu lại nói: "Vì thế, hãy nghe lời Ðức Chúa: tôi đã thấy Ðức
Chúa ngự trên ngai, và toàn thể đạo thiên binh đứng chầu Người ở hai bên tả hữu.
20 Và Ðức Chúa phán: "Ai sẽ dụ A-kháp tiến lên, cho nó gục ngã
tại Ra-mốt Ga-la-át? Và kẻ nói thế này, người nói thế kia. 21 Bấy
giờ thần khí xuất hiện, đứng trước Ðức Chúa và nói: "Tôi sẽ dụ y. Ðức Chúa
hỏi thần khí: "Bằng cách nào? 22 Thần khí đáp: "Tôi sẽ xuất hiện làm
thần khí dối trá trên môi miệng tất cả các ngôn sứ của vua ấy. Ðức Chúa liền
phán: "Ngươi sẽ lừa dối được nó và ngươi sẽ thành công. Cứ đi và làm như
thế. 23 Này Ðức Chúa đã đặt thần khí dối trá trên môi miệng tất cả
những ngôn sứ này của vua, vì Ðức Chúa đã phán quyết điều dữ hại vua."
24
Bấy
giờ Xít-ki-gia-hu, con ông Cơ-na-a-na, đến gần vả vào mặt ông Mi-kha-giơ-hu và
nói: "Thần khí của Ðức Chúa từ nơi ta đã qua ngả nào mà nói với mi?” 25
Ông Mi-kha-giơ-hu nói: "Rồi ngươi sẽ thấy vào ngày ngươi phải chui
rúc hết phòng này sang phòng khác, để lẩn trốn.” 26 Vua Ít-ra-en
liền nói: "Bắt lấy Mi-kha-giơ-hu và dẫn nó tới thị trưởng A-môn, và tới
hoàng tử Giô-át. 27 Ngươi sẽ nói thế này: Ðức vua nói như sau: Giam
tên này vào nhà tù và cho nó ăn uống ít thôi, cho tới khi ta về bình an.” 28
Ông Mi-kha-giơ-hu liền nói: "Nếu vua trở về bình an, thì Ðức Chúa đã
không dùng tôi mà phán." Ông nói tiếp: "Toàn thể các dân tộc, xin hãy
nghe cho!"
Vua
A-kháp tử trận tại Ra-mốt Ga-la-át (2 Sb 18:28 -34)
29
Vua
Ít-ra-en và Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa, lên Ra-mốt Ga-la-át. 30 Vua
Ít-ra-en nói với vua Giơ-hô-sa-phát: "Tôi sẽ cải trang và ra trận; còn
ngài, thì xin cứ mặc áo của ngài." Vua Ít-ra-en cải trang và ra trận. 31
Vua A-ram đã ra lệnh cho ba mươi hai người chỉ huy chiến xa của vua rằng:
"Các ngươi không đánh ai, dù nhỏ hay lớn, chỉ đánh một mình vua Ít-ra-en
thôi.” 32 Khi các người chỉ huy chiến xa nhìn thấy vua
Giơ-hô-sa-phát thì nói: "Ðúng là vua Ít-ra-en đây rồi," và dồn lực
lượng tấn công vua, nhưng vua Giơ-hô-sa-phát thét lên. 33 Khi thấy
rằng đó không phải là vua Ít-ra-en thì các người chỉ huy chiến xa không đuổi
theo nữa.
34
Một
người giương cung bắn đại, lại trúng ngay vua Ít-ra-en vào giữa khớp của áo
giáp. Vua liền bảo người đánh xe: "Quay xe lại, đưa ta ra khỏi chiến
trường, vì ta đã bị thương.” 35 Nhưng trận chiến hôm ấy trở nên ác
liệt, và người ta đã cho vua đứng trên xe, đối diện với quân A-ram, và đến
chiều thì vua chết; máu từ vết thương chảy cả vào lòng xe. 36 Lúc
mặt trời lặn, có tiếng kêu vang lên khắp trại rằng: "Ai nấy về thành mình,
ai nấy về xứ mình! 37 Vì vua đã chết!" Họ đưa vua về Sa-ma-ri và chôn cất
vua tại đó. 38 Người ta xối nước rửa xe, cạnh hồ nước ở Sa-ma-ri;
chó liếm máu vua và gái điếm tắm rửa trong hồ ấy, đúng như lời Ðức Chúa đã
phán.
6.
Sau Khi Vua A-Kháp Qua Ðời
Kết
thúc triều vua A-kháp
39
Các
truyện còn lại về vua A-kháp, các việc vua làm, điện ngà vua xây, các thành vua
kiến thiết đều đã được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en. 40
Vua A-kháp an nghỉ với tổ tiên. Con vua là A-khát-gia-hu lên ngôi kế vị.
Triều
đại vua Giơ-hô-sa-phát ở Giu-đa (876-848) (2 Sb 20:31-21:1)
41
Năm
thứ tư triều A-kháp, vua Ít-ra-en, Giơ-hô-sa-phát con vua A-xa lên làm vua
Giu-đa. 42 Giơ-hô-sa-phát lên ngôi vua khi được ba mươi lăm tuổi,
vua trị vì tại Giê-ru-sa-lem hai mươi lăm năm. Thân mẫu vua là bà A-du-va, ái
nữ ông Sin-khi. 43 Vua hoàn toàn theo đường lối phụ vương A-xa đã
đi, không sai trệch, tức là làm điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa. 44 Thế
nhưng, các nơi cao không biến đi hết, dân chúng vẫn tiếp tục tế lễ và dâng
hương tại các nơi đó. 45 Vua Giơ-hô-sa-phát giao hảo với vua
Ít-ra-en.
46
Các
truyện còn lại về vua Giơ-hô-sa-phát, các chiến công của vua, các cuộc chiến
vua đã thực hiện, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa
đó sao? 47 Vua còn quét sạch khỏi xứ bọn trai điếm phục vụ đền thần còn sót lại
từ thời phụ vương A-xa. 48 Bấy giờ ở Ê-đôm không có vua; nhưng có
một vị thủ lãnh nhiếp chính. 49 Vua Giơ-hô-sa-phát đóng một đoàn tàu
Tác-sít để đi Ô-phia tìm vàng, nhưng không đi được, vì tàu bị vỡ tại E-xi-ôn
Ghe-ve. 50 Bấy giờ vua A-khát-gia-hu, con vua A-kháp, nói với vua
Giơ-hô-sa-phát: "Xin để cho tôi tớ của tôi cùng đi tàu với tôi tớ của
ngài." Nhưng vua Giơ-hô-sa-phát không muốn. 51 Vua
Giơ-hô-sa-phát an nghỉ với tổ tiên, và được chôn cất với các ngài trong Thành
vua Ða-vít, tổ phụ vua. Con vua là Giơ-hô-ram lên ngôi kế vị.
A-khát-gia-hu
vua Ít-ra-en (853-852) và ngôn sứ Ê-li-a
52
Năm
thứ mười bảy triều vua Giơ-hô-sa-phát cai trị Giu-đa, A-khát-gia-hu con vua
A-kháp lên làm vua cai trị Ít-ra-en tại Sa-ma-ri; vua trị vì Ít-ra-en được hai
năm. 53 Vua làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, vì vua theo đường lối của
thân phụ và thân mẫu vua, đường lối của con ông Nơ-vát là Gia-róp-am, người đã
lôi kéo Ít-ra-en phạm tội. 54 Vua làm tôi Ba-an và phục lạy nó; vua
chọc giận Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, y như thân phụ vua đã làm.
Các Vua 2
Chương 01
1
Sau
khi vua A-kháp qua đời, Mô-áp nổi loạn chống Ít-ra-en. 2 Vua
A-khát-gia ngã xuống từ lan can phòng trên của lầu vua ở Sa-ma-ri, nên bị đau
ốm. Vua sai sứ giả đi và bảo họ: "Các ngươi hãy đi thỉnh ý Ba-an Dơ-vúp,
thần của Éc-rôn, để xem ta có thể qua khỏi cơn bệnh này không?” 3 Nhưng
sứ giả của Ðức Chúa nói với ông Ê-li-a người Tít-be: "Hãy trỗi dậy, lên
gặp các sứ giả của vua Sa-ma-ri, và bảo họ: Ở Ít-ra-en không có Thiên Chúa hay
sao, mà các anh lại đi thỉnh ý Ba-an Dơ-vúp, thần của Éc-rôn? 4 Vì thế Ðức Chúa
phán thế này: Ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên nằm, vì thế nào
ngươi cũng chết." Rồi ông Ê-li-a đi khỏi đó.
5
Các
sứ giả trở về với vua. Vua bảo họ: "Sao các ngươi lại trở về?” 6 Họ
đáp: "Một người đã lên gặp chúng tôi và nói với chúng tôi: Hãy đi về với
ông vua đã sai các anh đi và thưa với vua: Ðức Chúa phán thế này: Ở Ít-ra-en
không có Thiên Chúa hay sao, mà ngươi lại sai sứ giả đi thỉnh ý Ba-an Dơ-vúp,
thần của Éc-rôn? Vì thế, ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên nằm,
vì thế nào ngươi cũng chết.” 7 Vua hỏi họ: "Người đã lên gặp
các ngươi và nói với các ngươi những lời đó, ăn mặc thế nào?” 8 Họ
trả lời: "Ðó là một người mặc áo da lông, đóng khố da." Vua nói:
"Ðó là ông Ê-li-a người Tít-be!"
9
Vua
sai một sĩ quan chỉ huy năm mươi quân đem theo năm mươi quân của mình đến với
ông Ê-li-a. Viên sĩ quan này đi lên với ông Ê-li-a đang ngồi trên đỉnh núi.
Viên sĩ quan thưa ông Ê-li-a: "Hỡi người của Thiên Chúa, vua bảo: Xin mời
ông xuống!” 10 Ông Ê-li-a trả lời sĩ quan chỉ huy năm mươi quân:
"Nếu ta là người của Thiên Chúa, thì chớ gì một ngọn lửa từ trời xuống
thiêu đốt ngươi và năm mươi quân của ngươi!" Một ngọn lửa từ trời liền
xuống thiêu đốt viên sĩ quan và năm mươi quân của ông. 11 Vua lại
sai một sĩ quan khác chỉ huy năm mươi quân đem năm mươi quân của mình đến với
ông Ê-li-a. Viên sĩ quan đó lên tiếng nói: "Hỡi người của Thiên Chúa, vua
nói thế này: Xin ông xuống mau!” 12 Ông Ê-li-a trả lời họ: "Nếu
ta là người của Thiên Chúa, thì chớ gì một ngọn lửa từ trời xuống thiêu đốt
ngươi và năm mươi quân của ngươi!" Một ngọn lửa từ trời liền xuống thiêu
đốt viên sĩ quan và năm mươi người của ông. 13 Vua lại sai viên sĩ
quan thứ ba chỉ huy năm mươi quân đem theo năm mươi quân của mình. Viên sĩ quan
thứ ba đi lên, và khi đến nơi, thì quỳ gối trước mặt ông Ê-li-a và khẩn nài:
"Hỡi người của Thiên Chúa, ước gì mạng tôi và mạng của năm mươi tôi tớ
ngài đây được coi là quý trước mắt ngài! 14 Một ngọn lửa đã từ trời xuống thiêu
đốt hai sĩ quan trước, mỗi người cùng với năm mươi quân của họ. Nhưng bây giờ,
ước gì mạng tôi được coi là quý trước mắt ngài!” 15 Sứ giả của Ðức
Chúa nói với ông Ê-li-a: "Hãy xuống với người này, đừng sợ gì nó!"
Ông trỗi dậy, cùng với viên sĩ quan xuống gặp vua. 16 Ông Ê-li-a nói
với vua: "Ðức Chúa phán thế này: Vì ngươi đã sai sứ giả đi thỉnh ý Ba-an
Dơ-vúp, thần của Éc-rôn, - ở Ít-ra-en không có Thiên Chúa hay sao, mà lại đi
thỉnh lời sấm của nó? -, nên ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên
nằm, vì thế nào ngươi cũng chết!"
17
Vua
đã chết, như lời của Ðức Chúa mà ông Ê-li-a đã truyền lại. Vì vua A-khát-gia
không có con, nên ông Giô-ram lên ngôi kế vị, vào năm thứ hai triều vua
Giô-ram, con ông Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa. 18 Các truyện còn lại
của vua A-khát-gia, những gì vua làm, đã chẳng được ghi trong sách Sử biên niên
các vua Ít-ra-en đó sao?
Chương 02
VI.
Truyện Ông Ê-Li-Sa
1.
Những Bước Ðầu
Ngôn
sứ Ê-li-a được đem đi. Ông Ê-li-sa thay thế.
1
Vào
thời Ðức Chúa đem ông Ê-li-a lên trời trong cơn gió lốc, ông Ê-li-a và ông
Ê-li-sa rời Ghin-gan. 2 Ông Ê-li-a nói với ông Ê-li-sa: "Xin
anh ở lại đây, vì Ðức Chúa sai thầy đến Bết Ên." Nhưng ông Ê-li-sa thưa:
"Có Ðức Chúa hằng sống và có thầy đang sống đây, con xin thề sẽ không bỏ
thầy!" Rồi các ông đi xuống Bết Ên. 3 Các anh em ngôn sứ ở Bết
Ên ra gặp ông Ê-li-sa và nói: "Ông có biết không, hôm nay Ðức Chúa sẽ đem
thầy của ông lên cao ngay trên đầu ông?" Ông nói: "Tôi cũng biết chứ,
im đi!” 4 Ông Ê-li-a bảo ông: "Này Ê-li-sa, xin anh ở lại đây,
vì Ðức Chúa sai thầy đi Giê-ri-khô." Nhưng ông Ê-li-sa thưa: "Có Ðức
Chúa hằng sống và có thầy đang sống đây, con xin thề sẽ không bỏ thầy!" Và
các ông đã đến Giê-ri-khô. 5 Các anh em ngôn sứ ở Giê-ri-khô đến gần
ông Ê-li-sa và nói: "Ông có biết không, hôm nay Ðức Chúa sẽ đem thầy của
ông lên cao, ngay trên đầu ông?" Ông nói: "Tôi cũng biết chứ, im đi!”
6 Ông Ê-li-a bảo: "Xin anh ở lại đây, vì Ðức Chúa sai thầy đến
sông Gio-đan." Nhưng ông thưa: "Có Ðức Chúa hằng sống và có thầy đang
sống đây, con xin thề sẽ không bỏ thầy! " Rồi cả hai ông cùng đi.
7
Năm
mươi anh em ngôn sứ cũng đi, đứng ở đằng xa, phía trước hai ông, còn hai ông
thì đứng bên bờ sông Gio-đan. 8 Ông Ê-li-a lấy áo choàng của mình,
cuộn lại mà đập xuống nước. Nước rẽ ra hai bên. Hai ông đã đi qua ráo chân. 9
Vậy, khi đã đi qua, ông Ê-li-a nói với ông Ê-li-sa: "Anh cứ xin đi:
thầy có thể làm gì cho anh trước khi thầy được đem đi, rời xa anh?" Ông
Ê-li-sa nói: "Xin cho con được hai phần thần khí của thầy!” 10 Ông
Ê-li-a đáp: "Anh xin một điều khó đấy! Nếu anh thấy thầy khi thầy được đem
đi, rời xa anh, thì sẽ được như thế; bằng không, thì không được.” 11 Các
ông còn đang vừa đi vừa nói, thì này một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ
như lửa tách hai người ra. Và ông Ê-li-a lên trời trong cơn gió lốc. 12 Thấy
thế, ông Ê-li-sa kêu lên: "Cha ơi! Cha ơi! Hỡi chiến xa và chiến mã của
Ít-ra-en!" Rồi ông không thấy thầy mình nữa. Ông túm lấy áo mình và xé ra
làm hai mảnh. 13 Ông lượm lấy áo choàng của ông Ê-li-a rơi xuống.
Ông trở về và đứng bên bờ sông Gio-đan.
14
Ông
lấy áo choàng của ông Ê-li-a đã rơi xuống mà đập xuống nước và nói: "Ðức
Chúa, Thiên Chúa của ông Ê-li-a ở đâu?" Ông đập xuống nước, nước rẽ ra hai
bên, và ông Ê-li-sa đi qua. 15 Các anh em ngôn sứ Giê-ri-khô thấy
ông ở đằng xa thì nói: "Thần khí của ông Ê-li-a đã ngự xuống trên ông
Ê-li-sa." Họ đến đón ông và sụp xuống đất lạy ông. 16 Họ thưa
ông: "Tại đây có năm mươi người dũng cảm đang ở với các tôi tớ ngài. Xin
cho phép họ đi tìm thầy của ngài. Có lẽ thần khí của Ðức Chúa đã đem người đi,
rồi thả xuống một ngọn núi hay một thung lũng nào đó." Nhưng ông nói:
"Ðừng sai ai đi cả!” 17 Họ cứ một mực nài ép ông, nên ông bảo:
"Thì cứ sai đi!" Họ sai năm mươi người đi kiếm suốt ba ngày, nhưng
không tìm thấy ông Ê-li-a. 18 Họ trở về với ông. Ông đang ở
Giê-ri-khô, ông nói với họ: "Tôi đã chẳng bảo các anh là đừng đi đó
sao?"
Hai
phép lạ của ông Ê-li-sa
19
Người
trong thành nói với ông Ê-li-sa: "Như ngài thấy đó, địa thế của thành thì
tốt, nhưng nước thì độc và xứ sở bị nạn vô sinh.” 20 Ông Ê-li-sa bảo:
"Lấy cho tôi một cái tô mới và bỏ muối vào đó." Họ đi lấy cho ông. 21
Ông đi ra suối nước, đổ muối xuống và nói: "Ðức Chúa phán thế này:
Ta làm cho nước hoá lành, và nước này sẽ không còn gây chết chóc và nạn vô sinh
nữa.” 22 Và nước hoá lành cho đến ngày nay, theo lời ông Ê-li-sa đã
nói.
23
Ông
rời nơi đó lên Bết Ên. Và khi ông đi lên, thì dọc đường có những trẻ con từ
thành đi ra, chúng nhạo ông và nói: "Lên đi, ông hói đầu ơi! Lên đi, ông
hói đầu ơi!” 24 Ông quay lại, và khi thấy chúng thì nguyền rủa chúng
nhân danh Ðức Chúa. Bấy giờ, có hai con gấu từ trong rừng đi ra và xé xác bốn
mươi hai đứa trẻ. 25 Từ nơi đó, ông đi tới núi Các-men, rồi trở lại
Sa-ma-ri.
Chương 03
2.
Cuộc Chiến Chông Mô-Áp
Thời
vua Giô-ram cai trị Ít-ra-en (852-841)
1
Vua
Giô-ram, con vua A-kháp, lên ngôi tại Sa-ma-ri cai trị Ít-ra-en, vào năm thứ
mười tám triều vua Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa. Vua trị vì được mười hai năm. 2
Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, nhưng không như cha như mẹ của vua,
vì vua đã cất bỏ trụ đá thần Ba-an mà vua cha đã dựng. 3 Tuy nhiên,
vua vẫn bám lấy tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo
Ít-ra-en phạm theo; và vua không dứt ra được.
Cuộc
viễn chinh của Giu-đa và Ít-ra-en đánh Mô-áp
4
Mê-sa,
vua Mô-áp, là người nuôi chiên cừu. Ông thường cống nộp cho vua Ít-ra-en một
trăm ngàn con chiên và một trăm ngàn con cừu len. 5 Nhưng sau khi
vua A-kháp qua đời, thì vua Mô-áp nổi loạn chống lại vua Ít-ra-en.
6
Ngày
ấy, vua Giô-ram ra khỏi Sa-ma-ri và kiểm tra dân số toàn thể Ít-ra-en. 7 Rồi
vua đi, sai người đến nói với vua Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa: "Vua Mô-áp
nổi loạn chống tôi. Ngài có cùng với tôi đi đánh Mô-áp không?" Vua
Giơ-hô-sa-phát đáp: "Tôi sẽ lên. Tôi cũng làm như ngài, dân tôi cũng như
dân ngài, ngựa của tôi cũng như ngựa của ngài.” 8 Rồi vua nói tiếp:
"Chúng ta sẽ đi đường nào mà lên?" Vua Giô-ram trả lời: "Ðường
sa mạc Ê-đôm."
9
Vua
Ít-ra-en, vua Giu-đa và vua Ê-đôm lên đường. Họ đi vòng quanh bảy ngày đường;
không còn nước cho quân lính và thú vật đi theo nữa. 10 Vua Ít-ra-en
mới nói: "Than ôi! Ðức Chúa đã triệu tập ba vua chúng ta đây để nộp vào
tay Mô-áp!” 11 Vua Giơ-hô-sa-phát nói: "Ở đây không có một ngôn
sứ nào của Ðức Chúa có thể giúp chúng ta thỉnh ý Người sao?" Một trong
những tôi tớ của vua Ít-ra-en trả lời: "Ở đây có ông Ê-li-sa, con ông
Sa-phát, người đã đổ nước trên tay ông Ê-li-a.” 12 Vua
Giơ-hô-sa-phát nói: "Ông ấy có lời của Ðức Chúa." Vua Ít-ra-en, vua
Giơ-hô-sa-phát và vua Ê-đôm đi xuống gặp ông. 13 Ông Ê-li-sa nói với
vua Ít-ra-en: "Chuyện đó can gì đến vua và tôi? Vua hãy đi gặp các ngôn sứ
của vua cha, các ngôn sứ của thái hậu." Vua Ít-ra-en nói: "Không, vì
Ðức Chúa đã triệu tập ba vua chúng tôi đây để nộp vào tay Mô-áp.” 14 Ông
Ê-li-sa nói: "Có Ðức Chúa, Chúa Tể càn khôn, hằng sống, Ðấng tôi phụng
thờ, tôi xin thề: Nếu tôi không nể vua Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa, thì tôi sẽ
không để ý đến vua và cũng chẳng nhìn mặt vua. 15 Bây giờ, hãy dẫn
đến tôi một người gảy đàn." Người gảy đàn vừa đánh đàn, thì bàn tay Ðức
Chúa ở trên ông. 16 Ông nói: "Ðức Chúa phán thế này: Hãy đào
trong khe này thật nhiều hố. 17 Vì Ðức Chúa phán thế này: Các ngươi
không thấy có gió, các ngươi không thấy có mưa; nhưng khe này sẽ đầy nước, và
các ngươi sẽ được uống, các ngươi, súc vật và lừa ngựa của các ngươi. 18 Ðối
với Ðức Chúa, đó còn là quá ít. Người sẽ nộp Mô-áp vào tay các ngươi. 19 Các
ngươi sẽ hạ mọi thành kiên cố, mọi thành quan trọng, sẽ chặt mọi cây cối tươi
tốt, lấp mọi giếng nước và rải đá để tàn phá mọi ruộng đồng phì nhiêu.” 20
Quả thật, ban sáng, vào giờ dâng lễ tiến, thì nước từ phía Ê-đôm đến, và
toàn xứ đều ngập nước.
21
Khi
nghe tin các vua lên đánh chúng, mọi người Mô-áp, những người đến tuổi mang vũ
khí và cả những người đã quá tuổi đó, đều được gọi nhập ngũ và đóng ở biên giới.
22 Sáng sớm họ thức dậy; Và khi mặt trời mọc lên, chiếu sáng trên
mặt nước, người Mô-áp thấy nước đằng trước chúng đỏ như máu, 23 thì
nói: "Máu đó! Chắc chắn các vua đã đánh nhau, chém giết lẫn nhau. Bây giờ,
hỡi Mô-áp, đi hôi của đi!"
24
Chúng
đến trại người Ít-ra-en. Nhưng người Ít-ra-en đã vùng dậy, đánh quân Mô-áp,
khiến chúng phải tẩu thoát trước mặt họ. Họ tiến vào Mô-áp mà đánh. 25 Họ
phá huỷ các thành, mỗi người nhặt đá quăng xuống lấp đầy mọi đồng ruộng phì
nhiêu; họ bịt mọi giếng nước và chặt mọi cây cối tốt tươi. Cuối cùng, ở Kia
Kha-re-xét chỉ còn trơ lại một đống đá. Lính phóng đá bao vây thành đó và đánh
phá. 26 Khi vua Mô-áp thấy cuộc chiến ác liệt, không cầm cự nổi, thì
dẫn theo bảy trăm người mang kiếm, mở đường máu đi tới vua Ê-đôm. Nhưng chúng
không làm nổi chuyện đó. 27 Khi ấy, vua mới bắt con đầu lòng, là
người có quyền lên ngôi kế vị, mà tế trên tường thành làm lễ vật toàn thiêu.
Một cơn thịnh nộ lớn giáng xuống Ít-ra-en. Quân Ít-ra-en nhổ trại, rút lui mà
trở về xứ.
Chương 04
3.
Vài Phép Lạ Của Ông Ê-Li-Sa
Dầu
của bà goá
1
Có
người vợ của một trong những anh em ngôn sứ kêu cứu ông Ê-li-sa: "Tôi tớ
ngài là chồng tôi đã chết. Và ngài biết là tôi tớ ngài kính sợ Ðức Chúa. Nhưng
chủ nợ đã đến bắt hai đứa con tôi làm nô lệ.” 2 Ông Ê-li-sa nói với
bà: "Tôi có thể làm gì cho chị đây? Hãy cho tôi biết: trong nhà chị còn có
gì không?" Bà thưa: "Trong nhà nữ tỳ của ngài chẳng còn gì cả, trừ
một lọ dầu.” 3 Ông nói: "Chị hãy đi ra ngoài mượn bà con láng
giềng các thứ bình, những bình rỗng, đừng có ít quá! 4 Rồi chị trở về, chị và
các con cái chị vào nhà đóng cửa lại. Chị sẽ đổ dầu vào tất cả các bình đó,
bình nào đầy thì để riêng ra.” 5 Bà từ giã ông mà đi; bà và con cái
bà vào nhà đóng cửa lại. Chúng đem bình đến cho bà, còn bà thì đổ vào.6 Khi các
bình đã đầy, bà nói với con: "Ðem bình nữa cho mẹ." Nhưng nó thưa:
"Hết bình rồi." Dầu liền ngưng chảy. 7 Bà đến trình cho
người của Thiên Chúa biết. Ông nói: "Chị đi bán dầu ấy mà trả nợ; phần còn
lại thì mẹ con dùng để sinh sống."
Ông
Ê-li-sa và mẹ con người phụ nữ Su-nêm
8
Một
hôm, ông Ê-li-sa đi qua Su-nêm. Ở đó có một phụ nữ giàu sang. Bà ta giữ ông lại
dùng bữa. Từ đó, mỗi lần đi qua, ông đều ghé vào dùng bữa. 9 Bà ấy
nói với chồng: "Này ông! Tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một
thánh nhân của Thiên Chúa. 10 Mình phải làm cho ông một căn phòng
nhỏ trên lầu có tường có vách, rồi kê ở đó một cái giường, đặt bàn ghế và để
một cái đèn cho ông dùng. Như thế, khi nào đến nhà mình, ông sẽ lui vào đó.” 11
Một hôm, ông đến nơi ấy, ông lui vào phòng trên lầu và nghỉ ở đó. 12
Ông nói với Giê-kha-di, tiểu đồng của ông: "Ði gọi bà Su-nêm."
Nó đi gọi bà và bà đến trước mặt nó. 13 Ông Ê-li-sa bảo nó:
"Hãy nói với bà ấy: Bà đã quá lo lắng bận rộn vì chúng tôi. Chúng tôi biết
phải làm gì cho bà đây? Có cần chúng tôi phải nói một lời với đức vua hay với
tướng chỉ huy quân đội cho bà không?" Bà trả lời: "Tôi sống yên hàn
giữa dân tôi.” 14 Ông Ê-li-sa nói với tiểu đồng: "Nên làm gì
cho bà ấy?" Giê-kha-di đáp: "Tội nghiệp, bà ấy không có con trai, mà
chồng thì đã già.” 15 Ông Ê-li-sa bảo: "Ði gọi bà ấy." Nó
đi gọi bà, và bà ấy đến đứng ngoài cửa. 16 Ông Ê-li-sa nói:
"Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ được bế con trai." Bà
mới nói: "Không, thưa ngài, người của Thiên Chúa, xin đừng lừa dối nữ tỳ
ngài!” 17 Quả nhiên, bà ấy có thai, và năm sau, vào thời kỳ, vào độ
mà ông Ê-li-sa đã nói, thì bà sinh con trai.
18
Ðứa
trẻ lớn lên. Một ngày kia, khi đi kiếm cha nó ở giữa những người thợ gặt,19 nó
nói với cha: "Ôi, cái đầu con! Cái đầu con!" Người cha bảo anh đầy
tớ: "Bồng nó về cho mẹ nó.” 20 Người tớ trai bồng nó, đem về
cho bà mẹ. Ðứa trẻ ngồi trên đầu gối bà đến trưa, rồi nó chết. 21 Bà
đem nó lên đặt trên giường dành cho người của Thiên Chúa, đóng cửa lại, để nó ở
trong rồi đi ra. 22 Bà đi gọi chồng và nói: "Xin ông sai đến
tôi một anh đầy tớ và một con lừa cái. Tôi chạy đến người của Thiên Chúa, rồi
sẽ về.” 23 Người chồng bảo: "Tại sao bà lại đi gặp ngài ngày
hôm nay? Không phải là ngày đầu tháng, cũng chẳng phải là ngày sa-bát."
Nhưng bà trả lời: "Ông cứ yên tâm!” 24 Rồi bà cho thắng lừa và
nói với anh đầy tớ: "Hãy đưa tôi đi và lên đường! Chỉ dừng xe lại khi tôi
bảo.” 25 Bà lên đường và đi đến với người của Thiên Chúa ở núi
Các-men. Vừa thấy bà đằng xa, người của Thiên Chúa nói với Giê-kha-di, tiểu
đồng của ông: "Kìa bà Su-nêm. 26 Con hãy chạy ra đón và nói với
bà ấy: "Bà có được mạnh khoẻ không? Ông nhà có được mạnh khoẻ không? Cậu
bé có được mạnh khoẻ không?" Bà trả lời: "Vâng, mạnh khoẻ cả.” 27
Khi đến gần người của Thiên Chúa ở trên núi, bà ôm lấy chân ông.
Giê-kha-di tiến tới, đẩy bà ra, nhưng người của Thiên Chúa bảo: "Ðể yên
cho bà ấy, vì tâm hồn bà đang phải cay đắng. Ðức Chúa đã giấu ta điều ấy, Người
không cho ta biết.” 28 Khi ấy, bà nói: "Nào tôi có xin ngài cho
tôi được đứa con đâu? Tôi đã chẳng nói: "Xin đừng đánh lừa tôi, đó
sao?"
29
Ông
Ê-li-sa bảo Giê-kha-di: "Hãy thắt lưng, cầm gậy của ta mà đi! Gặp ai thì
đừng có chào, ai chào thì đừng đáp lại. Ngươi sẽ đặt gậy của ta trên mặt cậu
bé.” 30 Mẹ cậu bé nói: "Có Ðức Chúa hằng sống và có ngài đang
sống đây, tôi xin thề sẽ không rời xa ngài." Ông trỗi dậy và đi theo bà. 31
Giê-kha-di đã đi trước hai người và đặt gậy trên mặt cậu bé; nhưng không
nghe thấy tiếng, không thấy động đậy. Anh ta quay lại đón ông Ê-li-sa và trình
ông: "Cậu bé đã không thức dậy.” 32 Khi ông Ê-li-sa tới nhà thì
cậu bé đã chết, nằm trên giường của ông. 33 Ông đi vào chỗ cậu bé,
đóng cửa lại, chỉ có hai người ở bên trong, rồi cầu nguyện với Ðức Chúa. 34
Ông lên giường nằm lên trên đứa trẻ, kề miệng ông trên miệng nó, kề mắt
ông trên mắt nó, đặt bàn tay ông trên bàn tay nó. Ông cứ nằm trên đứa trẻ, da
thịt nó nóng lên. 35 Ông đi đi lại lại trong nhà, rồi lại lên nằm
trên nó; cậu bé hắt hơi đến bảy lần, và mở mắt ra. 36 Ông Ê-li-sa
gọi Giê-kha-di và bảo: "Ði gọi bà Su-nêm." Nó đi gọi bà; bà đến với
ông, ông nói: "Bà hãy đem con đi!” 37 Bà đi vào, quỳ dưới chân
ông, rồi sụp xuống đất lạy ông. Sau đó, bà đem con đi và ra khỏi phòng.
Nồi
cháo độc
38
Ông
Ê-li-sa trở về Ghin-gan, khi nạn đói đang xảy ra trong xứ. Lúc anh em ngôn sứ
đang ngồi trước mặt ông, ông nói với tiểu đồng: "Bắc nồi lớn lên bếp và
nấu cháo cho anh em ngôn sứ.” 39 Một người trong nhóm ra đồng hái
rau, tìm thấy một thứ cây giống như nho dại, thì hái trái dưa đắng ấy, đầy một
vạt áo, rồi về nhà, thái nhỏ ra, bỏ vào nồi nấu cháo, vì họ không biết đó là
thứ gì. 40 Sau đó, họ múc ra cho mọi người ăn. Vừa ăn chút cháo, họ
kêu lên: "Người của Thiên Chúa ơi, thần chết ở trong nồi!" Và họ
không thể ăn được nữa. 41 Ông Ê-li-sa bảo: "Ðem bột đến
đây!" Ông bỏ bột vào và bảo: "Múc ra cho người ta ăn." Trong nồi
liền hết chất độc.
Phép
lạ hoá bánh ra nhiều
42
Có
một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem bánh đầu mùa biếu người của Thiên Chúa:
hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông Ê-li-sa nói: "Phát
cho người ta ăn.” 43 Nhưng tiểu đồng hỏi ông: "Có bằng này, sao
con có thể phát cho cả trăm người ăn được?" Ông bảo: "Cứ phát cho
người ta ăn! Vì Ðức Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư.” 44 Tiểu
đồng phát cho người ta. Họ đã ăn, mà vẫn còn dư, như lời Ðức Chúa phán.
Chương 05
Ông
Na-a-man được chữa khỏi bệnh phung hủi
1
Ông
Na-a-man, tướng chỉ huy quân đội của vua A-ram, là người có thần thế và uy tín
trước mặt chúa thượng của ông, vì Ðức Chúa đã dùng ông mà ban chiến thắng cho
A-ram. Nhưng ông lại mắc bệnh phung hủi. 2 Khi những người A-ram đi
càn quét, họ đã bắt được một cô bé từ đất Ít-ra-en đưa về. Nó vào giúp việc cho
vợ ông Na-a-man. 3 Nó nói với bà chủ: "Ôi, phải chi ông chủ con
được giáp mặt vị ngôn sứ ở Sa-ma-ri, thì chắc ngôn sứ sẽ chữa ông khỏi bệnh
phung hủi!” 4 Ông Na-a-man đến tường trình với chúa thượng của ông:
"Một thiếu nữ xuất thân từ đất Ít-ra-en đã nói thế này thế này.” 5 Vua
A-ram bảo: "Ngươi cứ lên đường và trẩy đi. Ta sẽ gửi thư cho vua
Ít-ra-en." Ông Na-a-man lên đường, mang theo ba trăm ký bạc, sáu mươi ký
vàng và mười bộ quần áo để thay đổi. 6 Ông trình thư lên vua
Ít-ra-en. Thư viết: "Cùng với bức thư mà tôi gửi tới ngài đây, tôi sai
Na-a-man, thuộc hạ của tôi, đến với ngài, để ngài chữa người này khỏi bệnh
phung hủi.” 7 Vua Ít-ra-en đọc thư xong thì xé áo mình ra và nói:
"Ta đâu có phải là vị thần cầm quyền sinh tử, mà ông ấy lại sai người này
đến nhờ ta chữa hắn khỏi bệnh phung hủi? Các ngươi phải biết, phải thấy rằng
ông ấy muốn sinh sự với ta."
8
Vậy,
khi ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, nghe biết là vua Ít-ra-en đã xé áo mình
ra, thì sai người đến nói với vua: "Sao vua lại xé áo mình ra? Người ấy cứ
đến với tôi, thì sẽ biết là có một ngôn sứ ở Ít-ra-en.” 9 Ông
Na-a-man đi đến cùng với cả xe và ngựa. Ông đứng trước cửa nhà ông Ê-li-sa. 10
Ông Ê-li-sa sai sứ giả ra nói với ông: "Ông hãy đi tắm bảy lần trong
sông Gio-đan. Da thịt ông sẽ trở lại như trước, và ông sẽ được sạch.” 11 Ông
Na-a-man nổi giận bỏ đi và nói: "Ta cứ nghĩ bụng là thế nào ông ấy cũng
đích thân đi ra, rồi đứng mà cầu khẩn danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông ta. Ông
ta sẽ quơ tay lên đúng chỗ phung hủi mà chữa khỏi. 12 Nước các sông
A-va-na và Pác-pa ở Ða-mát chẳng tốt hơn tất cả nước sông ở Ít-ra-en sao? Ta
lại không thể tắm ở các sông ấy để được sạch hay sao?" Ông quay lưng lại
và tức tối ra đi. 13 Bấy giờ, các tôi tớ của ông đến gần và nói:
"Cha ơi, giả như ngôn sứ bảo cha làm một điều gì khó, chẳng lẽ cha lại
không làm? Phương chi ngôn sứ chỉ nói: Ông hãy đi tắm, thì sẽ được sạch!” 14
Vậy ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Gio-đan, theo lời người của
Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Ông đã được sạch.
15
Cùng
với đoàn tuỳ tùng, ông trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ông vào, đứng trước
mặt ông ấy và nói: "Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có
Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en. Bây giờ, xin ngài vui lòng nhận món quà của
tôi tớ ngài đây.” 16 Ông Ê-li-sa nói: "Có Ðức Chúa hằng sống là
Ðấng tôi phụng sự, tôi thề sẽ không nhận gì cả." Ông Na-a-man nài ép ông
nhận, nhưng ông vẫn từ chối. 17 Ông Na-a-man nói: "Nếu ngài từ
chối, thì xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa
chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào
khác ngoài Ðức Chúa. 18 Nhưng xin Ðức Chúa tha thứ điều này cho tôi
tớ ngài: Khi ông chủ tôi vào điện của thần Rim-môn để sụp xuống lạy, và khi ông
ấy vịn vào cánh tay tôi, thì tôi cũng phải sụp xuống lạy trong điện của thần
Rim-môn cùng lúc với ông. Xin Ðức Chúa tha thứ điều ấy cho tôi tớ ngài!” 19
Ông Ê-li-sa bảo: "Ông đi bằng an!" và ông Na-a-man đi khỏi chỗ
ông Ê-li-sa được một quãng đường.
20
Khi
đó, Giê-kha-di, tiểu đồng của ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, nghĩ bụng:
"Chủ ta đã giữ gìn không nhận những gì ông Na-a-man, người A-ram, tự tay
đem dâng. Có Ðức Chúa hằng sống, ta sẽ chạy theo ông ấy để nhận được chút gì
chứ!” 21 Giê-kha-di liền đuổi theo ông Na-a-man. Khi thấy Giê-kha-di
chạy theo mình, ông Na-a-man từ trên xe nhảy xuống gặp nó, và hỏi: "Mọi sự
đều yên ổn chứ?” 22 Nó trả lời: "Mọi sự đều yên ổn. Chủ tôi sai
tôi đi nói với ông: "Vừa rồi có hai thanh niên thuộc nhóm các ngôn sứ đến
với tôi từ vùng núi Ép-ra-im. Xin ông cho họ ba mươi ký bạc và hai bộ quần áo
để thay đổi.” 23 Ông Na-a-man nói: "Anh vui lòng nhận lấy sáu
mươi ký." Rồi ông ép nó nhận. Ông nhét sáu mươi ký bạc trong hai bị cùng
với hai bộ quần áo để thay đổi, rồi đưa cho hai người tớ trai mang đi trước mặt
nó. 24 Khi tới Ô-phen, nó lấy những thứ đó từ tay họ, đem cất vào
nhà, rồi từ giã những người ấy, và họ trẩy đi.
25
Còn
nó, nó vào hầu chủ. Ông Ê-li-sa hỏi: "Giê-kha-di, mày đi đâu về?" Nó
đáp: "Tôi tớ ngài không có đi đâu cả.” 26 Ông Ê-li-sa bảo:
"Trí ta đã chẳng ở đó khi có người xuống xe gặp mày sao? Giờ đây, mày đã
nhận tiền bạc, mày có thể sắm quần áo, tậu vườn, vườn ô-liu và vườn nho, mua bò
dê chiên cừu và tôi trai tớ gái. 27 Nhưng bệnh phung hủi của ông
Na-a-man sẽ mãi mãi bám lấy mày và dòng dõi mày." Giê-kha-di rời ông
Ê-li-sa; nó mắc bệnh phung hủi, mốc thếch như tuyết.
Chương 06
Cái
rìu đã mất lại tìm thấy
1
Các
anh em ngôn sứ nói với ông Ê-li-sa: "Thầy coi, nơi chúng tôi ngồi nghe
thầy đây đã ra quá hẹp, so với số người chúng tôi. 2 Vậy xin cho
chúng tôi đi ra bờ sông Gio-đan; ở đó, mỗi người chúng tôi sẽ lấy một cái xà,
rồi làm một nơi để ngồi nghe." Ông bảo: "Các anh cứ đi!” 3 Một
người trong nhóm nói: "Xin thầy vui lòng cùng đi với các tôi tớ
thầy." Ông đáp: "Ðược, tôi sẽ đi", 4 rồi ông cùng đi
với họ. Tới sông Gio-đan, họ đốn cây. 5 Khi một người trong nhóm
đang hạ cây làm xà, thì lưỡi rìu bằng sắt văng xuống nước. Người ấy liền kêu
lên: "Chết rồi, ngài ơi! Cái rìu này tôi mượn của người ta!” 6 Người
của Thiên Chúa hỏi: "Nó văng đi đâu?" Người ấy chỉ chỗ cho ông. Ông
chặt một khúc gỗ, ném xuống đó và làm cho lưỡi rìu bằng sắt nổi lên. 7 Ông
bảo: "Vớt lên đi!" Người kia đưa tay ra cầm lấy.
4.
Chiến Tranh Với A-Ram
Ông
Ê-li-sa tóm gọn một toán quân A-ram
8
Hồi
ấy, vua A-ram đang giao chiến với Ít-ra-en. Vua bàn với các thuộc hạ và bảo
chúng: "Ta sẽ đặt trại quân chỗ này, chỗ nọ.” 9 Nhưng người của
Thiên Chúa nhắn tin cho vua Ít-ra-en: "Xin ngài đề phòng, đừng đi qua chỗ
ấy, vì quân A-ram đi xuống đó.” 10 Vua Ít-ra-en mới sai lính tới chỗ
người của Thiên Chúa đã nói, đã báo cho biết; vua đề phòng, không phải chỉ một
hay hai lần mà thôi.
11
Lòng
vua A-ram rất nao núng vì chuyện này. Vua gọi các thuộc hạ lại và bảo:
"Chẳng lẽ các ngươi không báo cho ta biết ai trong chúng ta đã bỏ theo vua
Ít-ra-en sao?” 12 Một người trong nhóm thuộc hạ đáp: "Thưa đức
vua, chúa công tôi, chẳng có ai đâu! Chính ông Ê-li-sa, ngôn sứ của Ít-ra-en,
đã cho vua Ít-ra-en biết những lời ngài nói trong phòng ngủ của ngài.” 13 Vua
nói: "Ði coi xem ông ấy ở đâu! Ta sẽ sai người đi bắt." Người ta cho
vua biết: "Ông ấy đang ở Ðô-than.” 14 Vua liền phái tới đó một
đạo quân lớn, có cả ngựa xe. Chúng đến nơi ban đêm và bao vây thành.
15
Sáng
hôm sau, người của Thiên Chúa dậy sớm và đi ra ngoài. Và kìa một toán quân có
cả ngựa xe đang vây quanh thành. Người đầy tớ nói với ông: "Chết rồi, ngài
ơi! Làm sao bây giờ?” 16 Ông trả lời: "Ðừng sợ, vì những người
đi theo chúng ta thì đông hơn những người đi theo chúng.” 17 Ông
Ê-li-sa cầu xin rằng: "Lạy Ðức Chúa, xin mở mắt cho nó thấy!" Ðức
Chúa mở mắt người đầy tớ của ông và nó thấy núi đầy những ngựa và xe đỏ như lửa
vây quanh ông Ê-li-sa.
18
Khi
quân A-ram kéo xuống phía ông Ê-li-sa, thì ông cầu xin Ðức Chúa: "Xin Chúa
đánh mờ mắt những quân này." Và Ðức Chúa đã đánh mờ mắt chúng, theo lời
ông Ê-li-sa xin. 19 Khi đó, ông Ê-li-sa bảo chúng: "Ðây không
phải là đường, cũng không phải là thành. Các anh đi theo tôi, tôi sẽ dẫn các
anh đến người các anh đang tìm kiếm." Và ông đã dẫn chúng tới Sa-ma-ri. 20
Khi chúng vào Sa-ma-ri, ông Ê-li-sa lại nói: "Lạy Ðức Chúa, xin mở
mắt cho những người này, cho chúng thấy được." Ðức Chúa đã mở mắt chúng và
chúng thấy là mình đang ở giữa thành Sa-ma-ri!
21
Thấy
chúng, vua Ít-ra-en nói với ông Ê-li-sa: "Thưa cha, có phải giết chúng
không?” 22 Ông đáp: "Ðừng giết! Thử hỏi những kẻ vua đã dùng
gươm dùng nỏ bắt làm tù binh, thì vua có giết không? Vua hãy đem bánh và nước
tới cho chúng ăn uống, rồi để chúng trở về với chủ của chúng!” 23 Vua
dọn tiệc lớn đãi chúng. Khi chúng ăn uống xong, vua cho chúng đi và chúng trở
về với chủ của chúng. Những toán quân A-ram không còn xâm nhập Ít-ra-en nữa.
Nạn
đói trong thành Sa-ma-ri bị bao vây
24
Sau
đó, Ben Ha-đát, vua A-ram, tập họp tất cả quân đội lại, tiến lên vây thành
Sa-ma-ri. 25 Ở Sa-ma-ri, đang có một nạn đói lớn; thành bị địch bao
vây gắt gao đến nỗi một đầu lừa lên tới hai mươi bốn lượng bạc, và một dúm hành
dại cũng lên tới mười lăm chỉ bạc.
26
Khi
vua Ít-ra-en đang đi lại trên tường thành, thì một phụ nữ kêu với vua rằng:
"Thưa đức vua, chúa thượng tôi, xin cứu tôi với!” 27 Vua trả
lời: "Nếu Ðức Chúa không cứu ngươi, thì ta biết lấy gì để cứu ngươi? Chẳng
lẽ lấy sân lúa hay bồn đạp nho?” 28 Rồi vua hỏi chị ta: "Chuyện
gì vậy?" Chị ấy thưa: "Mụ này đã nói với tôi: "Ðưa con chị đây,
chúng ta ăn thịt nó hôm nay; ngày mai, chúng ta sẽ ăn thịt con tôi! 29 Chúng
tôi đã nấu chín con tôi và ăn thịt nó. Hôm sau, tôi bảo mụ: "Ðưa con chị
đây, chúng ta ăn thịt nó! Nhưng mụ đã giấu con đi.” 30 Vừa nghe
người phụ nữ nói những lời ấy, vua liền xé áo mình ra. Vì vua đang đi lại trên
tường thành, nên dân thấy được là bên trong vua mặc áo lót bằng vải thô. 31
Vua nói: "Xin Thiên Chúa phạt ta thế này và thêm thế kia nữa, nếu
hôm nay đầu của Ê-li-sa, con Sa-phát, còn nằm trên cổ của hắn!"
Ông
Ê-li-sa báo tin cơn thử thách sắp chấm dứt
32
Ông
Ê-li-sa đang ngồi trong nhà và có những kỳ mục ngồi với ông, thì vua sai người
đến với ông. Nhưng trước khi sứ giả đến nơi, ông Ê-li-sa nói với các kỳ mục:
"Các ông thấy không: Kẻ sát nhân ấy sai người đến lấy đầu tôi! Vậy thế
này: Khi nào sứ giả đến, thì đóng cửa lại, lấy cửa đẩy nó ra. Nhưng tiếng chân
chủ nó chẳng đang theo sau nó đấy ư?” 33 Ông còn đang nói, thì vua
đã xuống gặp ông và bảo: "Tai hoạ này do Ðức Chúa giáng xuống, thế thì tôi
còn biết trông đợi gì nữa nơi Ðức Chúa?"
Chương 07
1
Ông
Ê-li-sa nói: "Hãy nghe lời của Ðức Chúa: Ðức Chúa phán thế này: Ngày mai,
cũng vào giờ này, tại cửa thành Sa-ma-ri, cứ ba chỉ bạc sẽ mua được một thúng
tinh bột lúa miến; cứ ba chỉ bạc sẽ mua được hai thúng lúa mạch!” 2 Viên
giám mã đỡ tay vua đáp lời người của Thiên Chúa: "Cho dù Ðức Chúa có mở
cống trên trời, điều đó liệu có xảy ra không?" Ông Ê-li-sa nói:
"Chính ông sẽ thấy tận mắt, nhưng sẽ không được ăn!"
Trại
quân A-ram bỏ trống
3
Có bốn
người phung hủi đang ở lối vào cửa thành. Họ nói với nhau: "Sao chúng ta
cứ ở lại đây mà chờ chết? 4 Nếu chúng ta quyết định vào thành, thì chúng ta sẽ
chết trong thành, vì ở đó đang có nạn đói; nếu chúng ta ở lại đây, thì chúng ta
cũng sẽ chết. Vậy bây giờ, đến đây, chúng ta cùng trốn sang trại quân A-ram.
Nếu chúng để chúng ta sống, thì chúng ta sẽ sống; mà nếu chúng giết chúng ta,
thì chúng ta sẽ chết.” 5 Lúc chập tối, những người phung hủi lên
đường đi đến trại quân A-ram. Nhưng khi tới đầu trại quân A-ram, thì họ chẳng
thấy có ai! 6 Vì Ðức Chúa đã cho tiếng xe, tiếng ngựa, tiếng một đạo binh lớn
vang lên trong trại quân A-ram. Chúng bảo nhau: "Này vua Ít-ra-en đã thuê
các vua Khết và các vua Ai-cập vào đánh chúng ta.” 7 Vậy chúng đã
lên đường, chạy trốn lúc chập tối, bỏ lại lều, ngựa, lừa; tóm lại, chúng để cả
trại y nguyên mà chạy thục mạng. 8 Khi tới đầu trại, những người
phung hủi kia vào một lều; họ ăn uống, rồi mang bạc, vàng và quần áo đi giấu.
Họ trở lại, vào một lều khác, rồi mang đồ vật trong đó đi giấu.
Hết
cuộc bao vây và hết nạn đói
9
Bấy
giờ, họ nói với nhau: "Chúng ta làm thế thì không phải. Hôm nay là ngày
mang lại tin vui. Nếu chúng ta làm thinh và chần chừ mãi cho tới khi trời sáng,
thì chúng ta sẽ mắc tội. Bây giờ, đến đây, chúng ta cùng đi báo tin cho đền
vua.” 10 Họ vào gọi những người canh cửa thành và báo tin:
"Chúng tôi đã vào trại quân A-ram. Chúng tôi chẳng thấy có ai, cũng không
nghe tiếng người; chỉ có ngựa còn cột đó, lừa còn cột đó; các lều còn y nguyên.”
11 Những người canh cửa thành hô lên và báo tin cho đền vua ở bên
trong.
12
Ðang
đêm, vua trỗi dậy, nói với các thuộc hạ: "Ðể ta giải thích cho các ngươi
nghe những gì quân A-ram làm để hại chúng ta. Chúng biết chúng ta đang bị đói,
nên đã ra khỏi trại để nấp ở ngoài đồng, nghĩ bụng rằng: "Họ sẽ ra khỏi
thành; chúng ta sẽ bắt sống họ, rồi vào thành".” 13 Một người
trong các thuộc hạ vua trả lời: "Xin để người ta lấy năm con ngựa trong số
những con sống sót còn lại đây, - nếu không, những con ấy cũng sẽ cùng chung số
phận với toàn đám dân Ít-ra-en sống sót trong thành đang chờ chết -; chúng ta
cứ gửi đi xem sao.” 14 Người ta lấy hai cỗ xe, rồi vua sai người
đuổi theo quân A-ram, và nói: "Hãy đi, xem thế nào!” 15 Họ đã
đuổi theo chúng cho đến sông Gio-đan. Trên tất cả quãng đường ấy đều la liệt
quần áo và vật dụng quân A-ram đã liệng xuống trong lúc vội vã. Các sứ giả trở
về trình lại các sự việc cho vua.
16
Dân
đi ra hôi của trong trại quân A-ram. Quả thật, theo như lời của Ðức Chúa, cứ ba
chỉ bạc sẽ mua được một thúng tinh bột lúa miến; cứ ba chỉ bạc sẽ mua được hai
thúng lúa mạch. 17 Vua đã đặt một viên giám mã canh cửa thành, người
đó là người đã đỡ tay vua. Dân chúng giẫm lên người đó ở cửa thành, làm cho
người đó chết, đúng y như lời người của Thiên Chúa đã nói khi vua xuống gặp ông.
18 Quả thật, khi người của Thiên Chúa nói với vua: "Ngày mai,
cũng vào giờ này, tại cửa thành Sa-ma-ri, ba chỉ bạc sẽ mua được hai thúng lúa
mạch, ba chỉ bạc sẽ mua được một thúng tinh bột lúa miến", 19 thì
viên giám mã trả lời cho người của Thiên Chúa: "Cho dù Ðức Chúa có mở cống
trên trời, điều đó liệu có xảy ra không?" Ông Ê-li-sa nói: "Ông sẽ
thấy tận mắt, nhưng ông sẽ không được ăn!” 20 Ðiều đó đã xảy ra cho
viên giám mã: dân chúng giẫm lên ông ở cửa thành, làm ông chết.
Chương 08
Kết
thúc truyện người phụ nữ Su-nêm
1
Ông
Ê-li-sa nói với người phụ nữ có đứa con trai ông đã làm cho sống lại: "Bà
hãy trỗi dậy, lên đường, đem theo gia đình của bà. Hãy ra nước ngoài, ở tạm nơi
nào ở được, vì Ðức Chúa đã khiến nạn đói xảy ra, hơn nữa nạn đói còn xảy ra
trong xứ suốt bảy năm.” 2 Người phụ nữ trỗi dậy và làm theo lời
người của Thiên Chúa dạy. Bà và gia đình bà đã đi và ở tạm bên xứ người
Phi-li-tinh bảy năm. 3 Sau bảy năm, người phụ nữ bỏ xứ người
Phi-li-tinh trở về. Bà đi cầu cứu với vua về chuyện nhà cửa ruộng đất của bà.
4
Vua
nói với Giê-kha-di, tiểu đồng của ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa: "Hãy
kể cho ta nghe tất cả những chuyện lớn lao ông Ê-li-sa đã làm.” 5 Giê-kha-di
đang kể cho vua nghe chuyện ông Ê-li-sa đã làm cho người chết sống lại thế nào,
thì người phụ nữ có đứa con trai ông đã làm sống lại, đến cầu cứu với vua về
chuyện nhà cửa ruộng đất của bà. Giê-kha-di liền trình vua: "Thưa đức vua,
chúa thượng của con, đây là người phụ nữ, và đây là người con trai mà ông
Ê-li-sa đã làm cho sống lại.” 6 Vua hỏi người phụ nữ, và bà kể hết
cho vua nghe. Vua chỉ định một viên thái giám lo việc cho bà và nói:
"Ngươi giúp bà này lấy lại tất cả tài sản của bà, cũng như mọi lợi tức
ruộng đất, kể từ ngày bà rời xứ cho đến nay."
Ông
Ê-li-sa và ông Kha-da-ên thành Ða-mát
7
Ông
Ê-li-sa vào Ða-mát. Vua A-ram là Ben Ha-đát đang bị bệnh. Người ta báo tin cho
vua: "Người của Thiên Chúa đã đến tận đây.” 8 Vua nói với ông
Kha-da-ên: "Ngươi hãy mang quà và đi gặp người của Thiên Chúa. Ngươi sẽ
nhờ ông thỉnh ý Ðức Chúa và thưa Người: "Con có được khỏi bệnh này
không?"
9
Ông
Kha-da-ên đi gặp ông Ê-li-sa, đem theo tất cả những gì tốt nhất ở Ða-mát làm
quà, chất trên lưng bốn mươi con lạc đà. Khi tới nơi, ông Kha-da-ên đứng trước
ông Ê-li-sa và nói: "Con của ngài là Ben Ha-đát, vua A-ram, đã sai tôi đến
thưa ngài: "Tôi có được khỏi bệnh này không?” 10 Ông Ê-li-sa
nói: "Ông đi nói với vua: "Chắc chắn ngài sẽ sống! Nhưng Ðức Chúa đã
cho tôi thấy chắc chắn vua sẽ chết.” 11 Người của Thiên Chúa nghiêm
nét mặt, nhìn chằm chằm khiến ông Kha-da-ên phát ngượng. Ông Ê-li-sa khóc. 12
Ông Kha-da-ên mới hỏi: "Tại sao ngài lại khóc?" Ông đáp:
"Vì tôi biết tai hoạ ông sẽ gây cho con cái Ít-ra-en. Ông sẽ phóng hoả đốt
các thành trì, sẽ dùng gươm chém giết các trai tráng, ném trẻ con xuống đất cho
chết và mổ bụng đàn bà có thai.” 13 Ông Kha-da-ên nói: "Tôi tớ
ngài, con chó này, là chi mà làm được điều quá thể như vậy?" Ông Ê-li-sa
đáp: "Ðức Chúa đã cho tôi thấy ông làm vua A-ram.” 14 Ông
Kha-da-ên từ giã ông Ê-li-sa và lại về với chủ mình, vua hỏi: "Ông Ê-li-sa
đã nói gì với ngươi?" Ông Kha-da-ên đáp: "Ông ấy nói với tôi là chắc
chắn ngài sẽ sống.” 15 Hôm sau, ông Kha-da-ên đã lấy chăn, nhúng
nước, rồi phủ lên mặt vua. Vua đã chết, và ông Kha-da-ên lên ngôi kế vị.
Vua
Giô-ram cai trị Giu-đa (848-841) (2 Sb 21:1-20)
16
Năm
thứ năm triều Giô-ram, con vua A-kháp làm vua Ít-ra-en, ông Giơ-hô-ram, con vua
Giơ-hô-sa-phát lên làm vua Giu-đa. 17 Ông lên ngôi vua khi được ba
mươi hai tuổi, và trị vì ở Giê-ru-sa-lem tám năm. 18 Vua đi theo
đường lối các vua Ít-ra-en, hành động như nhà A-kháp, vì vua đã lấy một người
con gái của vua A-kháp làm vợ. Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa. 19 Nhưng
vì vua Ða-vít, tôi trung của người, Ðức Chúa không muốn huỷ diệt Giu-đa, theo
lời Người đã phán với vua, là sẽ ban cho vua và con cháu vua một ngọn đèn luôn
cháy sáng mọi ngày.
20
Dưới
thời của vua, Ê-đôm thoát ách thống trị của Giu-đa và đặt một vua lên cai trị
mình. 21 Vua Giô-ram sang Xa-ia cùng với toàn bộ chiến xa. Ban đêm,
vua trỗi dậy, đánh quân Ê-đôm đang bao vây vua và những người chỉ huy chiến xa.
Dân chạy trốn về lều của họ. 22 Như thế, Ê-đôm đã thoát ách thống
trị của Giu-đa cho đến ngày nay. Rồi Líp-na cũng đã thoát ách thống trị vào lúc
ấy.
23
Những
truyện còn lại của vua Giô-ram và mọi việc vua làm đã chẳng được ghi chép trong
sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 24 Vua Giô-ram đã an nghỉ với tổ tiên
và được chôn cất với các ngài trong Thành Ða-vít. Ông A-khát-gia-hu, con của
vua, lên ngôi kế vị vua cha.
Vua
A-khát-gia-hu cai trị Giu-đa (841) (2 Sb 22:1-6)
25
Năm
thứ mười hai triều Giô-ram, con vua A-kháp, làm vua Ít-ra-en, ông
A-khát-gia-hu, con vua Giơ-hô-ram, lên làm vua Giu-đa. 26 A-khát-gia-hu
lên ngôi vua khi được hai mươi hai tuổi, và trị vì ở Giê-ru-sa-lem được một
năm. Thân mẫu vua là bà A-than-gia-hu, ái nữ của Om-ri, vua Ít-ra-en. 27 Vua
đi theo đường lối nhà A-kháp, đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa như nhà A-kháp,
vì có họ hàng với nhà A-kháp.
28
Cùng
với vua Giô-ram, con vua A-kháp, vua đi đánh vua A-ram là Kha-da-ên, ở Ra-mốt
Ga-la-át. Nhưng quân A-ram đã đánh vua Giô-ram bị thương. 29 Vua
Giô-ram đã quay về Gít-rơ-en để chữa trị, vì các thương tích quân A-ram đã gây
cho vua ở Ra-ma, trong lúc giao chiến với vua A-ram là Kha-da-ên. Vua Giu-đa là
A-khát-gia-hu, con vua Giơ-hô-ram, đã xuống Gít-rơ-en thăm vua Giô-ram, con vua
A-kháp, vì vua này đang bị bệnh.
Chương 09
5.
Truyện Vua Giê-Hu
Xức
dầu phong vương cho ông Giê-hu
1
Ngôn
sứ Ê-li-sa gọi một người trong nhóm anh em ngôn sứ và bảo: "Hãy thắt lưng
và cầm theo lọ dầu này, mà đi tới Ra-mốt Ga-la-át. 2 Khi đến nơi,
anh hãy tìm cách nhận mặt ông Giê-hu, con ông Giơ-hô-sa-phát, cháu ông Nim-si.
Anh đến và mời ông ấy đứng lên, ra khỏi chỗ các anh em đồng đội, rồi dẫn vào
một phòng kín đáo. 3 Sau đó, anh lấy lọ dầu mà đổ trên đầu ông và
nói: "Ðức Chúa phán thế này: Ta xức dầu phong ngươi làm vua Ít-ra-en. Rồi
anh mở cửa, trốn ngay đi, đừng chậm trễ."
4
Người
thanh niên, một ngôn sứ trẻ, trẩy đi Ra-mốt Ga-la-át. 5 Khi anh đến
nơi, thì các tướng lãnh quân đội đang ngồi với nhau. Người thanh niên nói:
"Thưa tướng quân, tôi có điều phải nói với ngài." Ông Giê-hu hỏi:
"Với ai trong chúng tôi?" Anh trả lời: "Thưa, với tướng quân.” 6
Khi đó, ông Giê-hu đứng lên, đi vào trong nhà. Người thanh niên đổ dầu
lên đầu ông và nói: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này:
"Ta xức dầu phong ngươi làm vua cai trị Ít-ra-en là dân của Ðức Chúa. 7
Ngươi sẽ đánh phạt nhà A-kháp, chủ ngươi, để ta đòi I-de-ven đền nợ máu
các tôi tớ Ta là các ngôn sứ và mọi tôi tớ của Ðức Chúa. 8 Toàn thể
nhà A-kháp sẽ bị diệt vong. Ta sẽ diệt trừ mọi đàn ông con trai của nhà A-kháp,
nô lệ cũng như tự do ở Ít-ra-en. 9 Ta sẽ xử với nhà A-kháp như với
nhà Gia-róp-am, con Nơ-vát, như với nhà Ba-sa, con A-khi-gia. 10 Còn
I-de-ven, thì chó sẽ ăn thịt nó ngoài đồng Gít-rơ-en, mà không có người chôn
cất." Sau đó, người thanh niên mở cửa, chạy trốn.
Ông
Giê-hu được tôn làm vua
11
Ông
Giê-hu ra gặp các thuộc hạ của chủ mình. Họ hỏi ông: "Bình an chứ? Tại sao
tên khùng ấy lại đến gặp ông?" Ông Giê-hu đáp: "Các ông biết con
người ấy và bài ca lải nhải của y mà!” 12 Nhưng họ bảo: "Ông
nói dối! Kể lại cho chúng tôi đi!" Ông nói: "Y nói với tôi thế này
thế này; y bảo Ðức Chúa phán rằng: Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua Ít-ra-en.”
13 Họ vội vàng lấy áo choàng trải lên đầu thềm cấp, dưới chân ông.
Họ thổi tù và, rồi hô lên: "Giê-hu làm vua!"
Ông
Giê-hu chuẩn bị tiếm quyền
14
Ông
Giê-hu, con ông Giơ-hô-sa-phát, cháu ông Nim-si, âm mưu chống lại vua Giô-ram.
Lúc đó, vua Giô-ram và toàn thể Ít-ra-en đang bảo vệ Ra-mốt Ga-la-át chống lại
vua A-ram là Kha-da-ên. 15 Nhưng vua Giơ-hô-ram đã về điều trị ở
Gít-rơ-en, vì các thương tích quân A-ram đã gây cho vua, trong lúc vua giao
chiến với vua A-ram là Kha-da-ên. Ông Giê-hu nói: "Nếu thực sự các ông
đồng lòng với tôi, thì đừng ai thoát khỏi thành mà đi báo tin cho Gít-rơ-en.” 16
Ông Giê-hu lên xe đi Gít-rơ-en, vì vua Giô-ram đang liệt giường ở đó; vua
Giu-đa là A-khát-gia đã xuống thăm vua Giô-ram.
17
Người
lính canh đứng trên tháp Gít-rơ-en nhìn thấy đoàn quân của ông Giê-hu đang đến,
thì nói: "Tôi nhìn thấy một đoàn quân." Vua Giơ-hô-ram bảo: "Hãy
chọn một kỵ binh, sai đi gặp họ và hỏi: Bình an chứ?” 18 Người kỵ
binh đi gặp ông Giê-hu và nói: "Vua phán thế này: Bình an chứ?" Ông
Giê-hu trả lời: "Bình an hay không, việc gì đến ngươi! Lui ra đằng sau
ta!" Người lính canh lại báo tin: "Sứ giả đã tới chỗ họ, nhưng không
trở về.” 19 Vua lại sai người kỵ binh thứ hai, người ấy đến với họ
và nói: "Vua phán thế này: Bình an chứ?" Ông Giê-hu đáp: "Bình
an hay không, việc gì đến ngươi! Lui ra đằng sau ta!” 20 Người lính
canh lại báo tin: "Sứ giả đã tới chỗ họ, nhưng không trở về. Kiểu đánh xe
thì giống như kiểu của ông Giê-hu, con ông Nim-si: Ông ấy đánh xe như điên!” 21
Vua Giơ-hô-ram bảo: "Thắng xe đi!" Và người ta thắng xe. Vua
Ít-ra-en là Giơ-hô-ram và vua Giu-đa là A-khát-gia-hu đi ra, mỗi người ngồi
trên xe mình. Hai vua đi ra gặp ông Giê-hu và thấy ông ở thửa đất ông Na-vốt,
người Gít-rơ-en.
Vua
Giơ-hô-ram bị sát hại
22
Vậy
vua Giơ-hô-ram vừa thấy ông Giê-hu, thì nói: "Ông Giê-hu, bình an
chứ?" Ông Giê-hu trả lời: "Bình an thế nào được, bao lâu I-de-ven, mẹ
ông, còn dở những trò dâm đãng và làm bao nhiêu chuyện phù phép như thế!” 23
Vua Giơ-hô-ram liền cho quay xe lại và chạy trốn. Vua nói với vua
A-khát-gia-hu: "Phản loạn, ông A-khát-gia ơi!” 24 Nhưng ông
Giê-hu, đang cầm sẵn cung trong tay, bắn trúng khoảng giữa hai vai vua
Giơ-hô-ram; mũi tên xuyên qua tim vua Giơ-hô-ram mà đi ra, khiến vua gục ngã
trong xe. 25 Ông Giê-hu bảo viên sĩ quan Bít-ca: "Lôi nó ra,
ném vào thửa đất ông Na-vốt, người Gít-rơ-en. Anh còn nhớ chứ: Khi tôi và anh
cưỡi ngựa song song tháp tùng cha nó là A-kháp, Ðức Chúa đã tuyên sấm về nó như
thế này: 26 Hôm qua, Ta đã chẳng thấy máu của Na-vốt, và của con cái
Na-vốt sao? - Sấm ngôn của Ðức Chúa. Ta sẽ bắt ngươi phải trả nợ máu như thế,
ngay tại thửa đất ấy- Sấm ngôn của Ðức Chúa! Vậy bây giờ, lôi nó ra, ném vào
thửa đất ấy, theo lời Ðức Chúa!"
Vua
A-khát-gia bị sát hại
27
Thấy
thế, vua Giu-đa là A-khát-gia chạy trốn theo đường Bết Ha Gan. Ông Giê-hu đuổi
theo và nói: "Giết cả nó nữa!" Và người ta đã đánh vua bị thương ngay
trên xe, ở dốc Gua gần Gíp-lơ-am. Vua chạy trốn vào Mơ-ghít-đô và chết ở đó. 28
Các thuộc hạ của vua đưa vua lên xe chở về Giê-ru-sa-lem, và chôn cất vua
trong mồ bên cạnh tổ tiên vua trong Thành vua Ða-vít. 29 Vua
A-khát-gia đã lên ngôi cai trị Giu-đa vào năm thứ mười một triều vua Giô-ram,
con vua A-kháp.
Bà
I-de-ven bị sát hại
30
Ông
Giê-hu vào Gít-rơ-en. Nghe tin đó, bà I-de-ven đánh phấn tô mắt và trang điểm
mái tóc, rồi từ cửa sổ nhìn xuống. 31 Khi ông Giê-hu đi vào cửa
thành, bà nói: "Bình an chứ, Dim-ri, tên giết chủ?” 32 Ông
Giê-hu ngẩng mặt lên phía cửa sổ và nói: "Có ai theo ta không, có ai
không?" Có hai hoặc ba viên thái giám nhìn xuống phía ông. 33 Ông
nói: "Quẳng nó xuống!" Họ quẳng bà xuống; máu của bà bắn vào tường và
vào các con ngựa. Ông đạp chân lên bà,34 rồi đi vào mà ăn uống. Sau đó, ông
nói: "Các anh lo vụ con khốn kiếp ấy đi và chôn cất nó, vì nó là công
chúa.” 35 Họ đi chôn bà, nhưng chỉ tìm thấy cái sọ, hai chân và hai
bàn tay của bà. 36 Họ về báo tin cho ông Giê-hu. Ông nói: "Ðây
là lời Ðức Chúa đã dùng tôi trung Người là ông Ê-li-a, người Tít-be, mà phán:
"Trong thửa đất Gít-rơ-en, chó sẽ ăn thịt I-de-ven. 37 Xác
I-de-ven sẽ ra như phân trên mặt đồng ruộng, trong thửa đất Gít-rơ-en, khiến
người ta không thể nói được: Ðó là I-de-ven!"
Chương 10
Hoàng
tộc Ít-ra en bị sát hại
1
Vua
A-kháp có bảy mươi người con ở Sa-ma-ri. Ông Giê-hu viết thư gửi đến Sa-ma-ri
cho các thủ lãnh của Gít-rơ-en, các kỳ mục và các tổng trấn của vua A-kháp. Thư
viết: 2 "Vì các ông có các hoàng tử của chủ các ông ủng hộ, vì
các ông có nào xe, nào ngựa, nào thành trì kiên cố, nào khí giới, cho nên khi
thư này đến tay các ông, 3 các ông hãy xem ai là người ưu tú và xứng
đáng nhất trong số các hoàng tử của chủ các ông, thì đặt người đó lên ngôi kế
vị vua cha. Các ông hãy đến chiến đấu cho nhà của chủ các ông.” 4 Họ
hết sức kinh hãi, họ nói với nhau: "Hai vua còn không đứng vững trước mặt
ông ấy, thì làm sao chúng ta đứng vững được?” 5 Quan đại nội thị
thần, ông thị trưởng, các kỳ mục và tổng trấn liền sai người đến nói với ông
Giê-hu: "Chúng tôi là thuộc hạ của ông. Tất cả những gì ông nói với chúng
tôi, chúng tôi sẽ làm. Chúng tôi sẽ không tôn ai lên làm vua cả. Ông cứ làm
những gì ông thấy nên làm."
6
Ông
Giê-hu viết cho họ bức thư thứ hai, trong đó ông nói: "Nếu các ông ủng hộ
tôi và nghe lời tôi kêu gọi, thì hãy lấy đầu các người con của chủ các ông, rồi
đến gặp tôi ngày mai vào giờ này, ở Gít-rơ-en." Bảy mươi người con của vua
đang ở tại nhà các quan lớn trong thành. Các quan lớn này có nhiệm vụ dưỡng dục
họ. 7 Vậy, thư ấy vừa đến nơi, các quan lớn liền bắt bảy mươi người
con của vua, cắt cổ, rồi bỏ đầu vào giỏ mà gửi cho ông Giê-hu ở Gít-rơ-en.
8
Sứ
giả đến báo tin cho ông: "Họ đã mang đầu các con vua tới rồi." Ông
bảo: "Hãy chất làm hai đống nơi cửa thành cho đến sáng.” 9 Sáng
hôm sau, ông ra ngoài, đứng nói với toàn dân: "Các ngươi đều vô can! Chính
tôi đã âm mưu hại chủ của tôi và đã giết ông ấy! Nhưng ai đã hạ sát tất cả
những người này? 10 Vậy các người hãy biết rằng không có lời nào của Ðức Chúa,
không có lời nào của Ðức Chúa chống lại nhà A-kháp mà lại ra vô hiệu: Ðức Chúa
thực hiện những gì Người đã dùng ông Ê-li-a, tôi trung của Người, mà phán.” 11
Ông Giê-hu hạ sát tất cả những người còn sót lại của nhà A-kháp ở
Gít-rơ-en, mọi quan lớn, những người quen biết và tư tế của vua; không để một
mạng nào sống sót.
Các
ông hoàng Giu-đa bị hạ sát
12
Rồi
ông Giê-hu lên đường đi Sa-ma-ri. Trên đường đi, lúc ở Bết E-két Ha-rô-im, 13
ông gặp các anh em của ông A-khát-gia-hu, vua Giu-đa, thì hỏi: "Các
ông là ai?" Họ đáp: "Chúng tôi là anh em của vua A-khát-gia-hu. Chúng
tôi xuống hỏi thăm các hoàng tử và các con bà hoàng thái hậu.” 14 Ông
nói: "Bắt sống lấy chúng!" Người ta bắt sống họ và cắt cổ ở bể nước
Bết E-két, tất cả là bốn mươi hai người, không sót một ai.
Ông
Giê-hu và ông Giơ-hô-na-đáp
15
Ông
rời đó mà đi và gặp ông Giơ-hô-na-đáp, con ông Rê-kháp, ra đón ông. Ông chào và
nói: "Ông có thực lòng với tôi như tôi thực lòng với ông không?" Ông
Giơ-hô-na-đáp nói: "Có" Ông Giê-hu nói: "Nếu có, thì hãy bắt tay
tôi." Ông Giơ-hô-na-đáp liền bắt tay ông Giê-hu. Ông này đưa ông lên xe,
cho ngồi bên cạnh. 16 Ông Giê-hu nói: "Hãy đi với tôi và chứng
kiến lòng nhiệt thành của tôi đối với Ðức Chúa!" Rồi ông đưa ông ấy lên xe.
17 Vào Sa-ma-ri, ông hạ sát tất cả những người còn lại của nhà
A-kháp ở Sa-ma-ri, ông tiêu diệt hết, như lời Ðức Chúa đã phán với ông Ê-li-a.
Sát
hại các tín đồ thần Ba-an và phá huỷ đền thờ
18
Ông
Giê-hu tập họp toàn dân lại và nói với họ: "A-kháp phụng sự thần Ba-an còn
ít, chứ Giê-hu đây sẽ phụng sự người nhiều. 19 Vậy bây giờ, hãy
triệu tập lại đây cho tôi tất cả các ngôn sứ của thần Ba-an, mọi tín đồ và tư
tế của thần, đừng có ai vắng mặt, vì tôi sẽ dâng một hy lễ lớn kính thần Ba-an.
Ai vắng mặt, sẽ không được sống." Ông Giê-hu lập mưu diệt trừ những kẻ
phụng sự thần Ba-an. 20 Ông Giê-hu nói: "Hãy triệu tập một buổi
họp long trọng kính thần Ba-an." Và người ta đã triệu tập buổi họp đó. 21
Ông Giê-hu sai người đi khắp Ít-ra-en. Mọi tín đồ thần Ba-an đều đến,
chẳng còn ai mà lại không đến. Họ vào đền Ba-an. Ðền này chỗ nào cũng chật ních
người. 22 Ông Giê-hu bảo người phụ trách phòng lễ phục: "Ðem lễ
phục ra, phát cho mọi người phụng sự thần Ba-an." Người ấy đem lễ phục ra
cho họ. 23 Ông Giê-hu cùng với ông Giơ-hô-na-đáp, con ông Rê-kháp,
vào đền Ba-an, ông nói với những người phụng sự thần Ba-an: "Hãy lục soát
xem: đừng để những người phụng sự Ðức Chúa có mặt ở đây với các người; chỉ để
những người phụng sự Ba-an mà thôi.” 24 Rồi người ta vào dâng hy lễ
và lễ toàn thiêu.
Nhưng
ông Giê-hu đã đặt tám mươi người bên ngoài và nói: "Ai để cho một người
nào trong các kẻ ta sắp nộp vào tay các người thoát được, thì phải lấy mạng thế
mạng.” 25 Vậy, khi lễ toàn thiêu đã hoàn tất, ông Giê-hu bảo các thị
vệ và sĩ quan: "Vào giết chúng đi! Ðừng để cho ai ra ngoài!" Các thị
vệ và sĩ quan dùng lưỡi gươm mà giết chúng, quăng xác đi. Rồi họ vào tận cung
thánh của đền Ba-an; 26 họ lôi trụ thờ của đền Ba-an ra mà đốt đi. 27
Họ phá huỷ trụ đá kính thần Ba-an, phá huỷ đền Ba-an, biến thành nhà tiêu
cho đến ngày nay.
Ông
Giê-hu làm vua Ít-ra-en (841-814)
28
Như
thế, vua Giê-hu làm cho thần Ba-an biến khỏi Ít-ra-en. 29 Tuy nhiên,
vua Giê-hu không dứt bỏ các tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và
lôi kéo Ít-ra-en phạm theo: đó là thờ những con bê bằng vàng ở Bết Ên và ở Ðan.
30 Ðức Chúa phán với vua Giê-hu: "Vì ngươi đã làm đúng những
điều Ta coi là ngay thẳng, và ngươi đã xử với nhà A-kháp y như lòng Ta muốn,
thì con cháu ngươi sẽ ngự trên ngai cai trị Ít-ra-en cho đến đời thứ bốn.” 31
Nhưng vua Giê-hu đã không hết lòng hết dạ chú tâm đi theo lề luật Ðức
Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en: vua đã không dứt bỏ các tội mà vua Gia-róp-am đã
phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.
32
Trong
những ngày ấy, Ðức Chúa bắt đầu cắt xén lãnh thổ Ít-ra-en. Ông Kha-da-ên đánh
bại họ trên toàn lãnh thổ Ít-ra-en, 33 từ sông Gio-đan đến phía mặt
trời mọc, toàn miền Ga-la-át, những vùng thuộc các chi tộc Gát, Rưu-vên và
Mơ-na-se, từ A-rô-e trên bờ suối Ác-nôn, miền Ga-la-át và Ba-san.
34
Những
truyện còn lại của vua Giê-hu, mọi việc vua làm, cũng như mọi chiến công của
vua, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 35
Vua Giê-hu nằm xuống với tổ tiên và được chôn cất ở Sa-ma-ri. Con vua là
Giơ-hô-a-khát đã lên ngôi kế vị vua cha. 36 Thời gian vua Giê-hu cai
trị Ít-ra-en ở Sa-ma-ri là hai mươi tám năm.
Chương 11
6.
Từ Triều A-Than-Gia Ðến Khi Ông Ê-Li-Sa Qua Ðời
Truyện
bà A-than-gia (841-835) (2 Sb 22:10-23:21)
1
Bà
A-than-gia, thân mẫu vua A-khát-gia-hu, thấy con mình đã chết, thì đứng lên tiêu
diệt tất cả hoàng tộc. 2 Nhưng bà Giơ-hô-se-va, ái nữ vua Giô-ram và
là chị của vua A-khát-gia-hu, đã ẵm Giô-át, con vua A-khát-gia-hu, lén đưa cậu
ra khỏi số các hoàng tử sẽ bị sát hại, giấu trong phòng ngủ cùng với người vú
nuôi. Như thế, người ta đã giấu được cậu bé khuất mắt bà A-than-gia, và cậu
không bị giết. 3 Cậu Giô-át ở lại với bà Giơ-hô-se-va trong Nhà Ðức
Chúa, lẩn trốn ở đó sáu năm, suốt thời bà A-than-gia cai trị xứ sở.
4
Năm
thứ bảy, ông Giơ-hô-gia-đa sai người đi mời các vị chỉ huy một trăm quân thuộc
đạo binh Ca-ri và thuộc đoàn thị vệ. Ông cho họ vào trong Nhà Ðức Chúa với ông.
Ông kết ước với họ, bắt họ tuyên thệ trong Nhà Ðức Chúa, và cho họ được thấy
hoàng tử. 5 Ông truyền lệnh cho họ như sau: "Ðây là điều các
ông phải làm: Một phần ba các ông, những người đang phiên trực ngày sa-bát, sẽ
canh giữ đền vua, 6 một phần ba sẽ đứng ở cửa Xua, và một phần ba ở
cửa phía sau đoàn thị vệ. Các ông sẽ luân phiên nhau canh giữ đền vua. 7 Hai
đội khác của các ông, những người hết phiên trực ngày sa-bát, sẽ canh giữ Nhà
Ðức Chúa. 8 Các ông sẽ đứng chung quanh vua, ai nấy đều cầm khí giới
trong tay. Kẻ nào xâm phạm hàng ngũ các ông, thì sẽ bị xử tử. Khi vua đi ra đi
vào, các ông luôn phải ở bên cạnh vua."
9
Các
vị chỉ huy một trăm quân làm đúng mọi điều tư tế Giơ-hô-gia-đa đã truyền. Mỗi
vị chỉ huy đem theo người của họ, những người đang phiên trực ngày sa-bát, cùng
với những người hết phiên trực ngày sa-bát. Họ đến với tư tế Giơ-hô-gia-đa. 10
Tư tế trao cho các vị chỉ huy trăm quân, giáo và thuẫn của vua Ða-vít để
trong Nhà Ðức Chúa. 11 Các thị vệ ai nấy đều cầm khí giới trong tay,
đứng dàn từ phía nam đến phía bắc Nhà Ðức Chúa, trước bàn thờ và trước Nhà Ðức
Chúa cốt để bao quanh vua. 12 Ông Giơ-hô-gia-đa rước hoàng tử ra,
đội vương miện và trao cuộn Chứng Ước. Người ta phong vương và xức dầu cho
hoàng tử, rồi vỗ tay hô lên: "Vạn tuế đức vua!"
13
Khi
bà A-than-gia nghe tiếng dân chúng la, bà đi về phía họ đang ở trong Nhà Ðức
Chúa. 14 Bà nhìn lên, thì kìa vua đứng trên bệ cao theo nghi lễ
thường dùng, các vị chỉ huy và các người thổi kèn ở bên cạnh vua. Toàn dân
trong xứ hân hoan reo hò giữa tiếng kèn trỗi vang. Bà A-than-gia liền xé áo
mình ra và kêu lên: "Phản bội! Phản bội!” 15 Tư tế
Giơ-hô-gia-đa truyền lệnh cho các vị chỉ huy một trăm quân đứng đầu toán binh,
ông bảo họ: "Lôi nó ra khỏi hàng quân! Ai theo nó, thì lấy gươm chém
chết!" Tư tế nói: "Nó không được chết trong Nhà Ðức Chúa!” 16 Họ
liền túm lấy bà. Và khi bà đi qua lối Cửa Ngựa để tới đền vua; thì họ giết bà ở
đó.
17
Ông
Giơ-hô-gia-đa lập giao ước giữa Ðức Chúa, vua và dân, nhờ đó dân trở thành dân
của Ðức Chúa. Ông cũng lập giao ước giữa vua và dân. 18 Rồi toàn dân
trong xứ kéo tới đền Ba-an mà phá huỷ các bàn thờ và tượng thần. Còn Mát-tan,
tư tế của thần Ba-an, thì họ giết ngay trước các bàn thờ.
Tư
tế Giô-hô-gia-đa đặt những trạm canh để giữ Nhà Ðức Chúa. 19 Rồi ông
đem theo các vị chỉ huy một trăm quân, quân Ca-ri, các thị vệ và toàn dân trong
xứ. Họ rước vua từ Nhà Ðức Chúa xuống, sau đó đi qua Cửa Các Thị Vệ mà tới đền
vua. Vua Giô-át ngự lên ngai vua. 20 Toàn dân trong xứ thì vui mừng,
còn thành vẫn không động tĩnh. Về phần bà A-than-gia, họ đã lấy gươm giết chết
trong đền vua.
Chương 12
Vua
Giô-át cai trị Giu-đa (835-796) (2 Sb 24:1-16)
1
Giô-át
lên làm vua khi được bảy tuổi. 2 Năm thứ bảy triều vua Giê-hu, vua
Giô-át lên ngôi và đã trị vì ở Giê-ru-sa-lem bốn mươi năm. Thân mẫu vua là bà
Xíp-gia, người Bơ-e Se-va. 3 Suốt cả đời, vua Giô-át đã làm điều
ngay chính trước mắt Ðức Chúa, vì vua đã được tư tế Giơ-hô-gia-đa dạy dỗ. 4
Tuy nhiên, các tế đàn ở nơi cao không bị phá huỷ; dân chúng vẫn còn tế lễ
và đốt hương trên các nơi cao đó.
5
Vua
Giô-át nói với các tư tế: "Tất cả số bạc nộp thuế cho Nhà Ðức Chúa, số bạc
mỗi người phải dâng, và tất cả số bạc mỗi người tự ý dâng cho Nhà Ðức Chúa, 6
mỗi tư tế sẽ nhận từ những người mình quen biết, và các tư tế sẽ sửa chữa
những chỗ hư hại trong Nhà Ðức Chúa, ở bất cứ nơi nào thấy hư hại.” 7 Ðến
năm thứ hai mươi ba đời vua Giô-át, các tư tế vẫn không sửa chữa những chỗ hư
hại trong Nhà Ðức Chúa. 8 Vua Giô-át mới triệu tập tư tế
Giơ-hô-gia-đa và các tư tế khác, rồi nói với họ: "Sao các ông lại không
sửa chữa những chỗ hư hại trong Nhà Ðức Chúa? Vậy từ nay, các ông đừng nhận bạc
từ những người quen biết nữa, nhưng hãy trao lại để sửa chữa những chỗ hư hại
trong Nhà Ðức Chúa.” 9 Các tư tế bằng lòng không nhận bạc của dân và
khỏi phải lo sửa chữa những chỗ hư hại trong Nhà Ðức Chúa.
10
Tư
tế Giơ-hô-gia-đa lấy một cái hòm, khoét lỗ trên nắp và đặt hòm đó bên cạnh trụ
đá, phía bên phải cửa vào Nhà Ðức Chúa. Các tư tế canh ngưỡng cửa bỏ vào hòm
tất cả số bạc người ta dâng vào Nhà Ðức Chúa. 11 Khi nào các ông
thấy có nhiều bạc trong hòm, thì viên thư ký của vua đi lên cùng với vị thượng
tế. Người ta đúc thành thoi, rồi đếm số thoi bạc có trong Nhà Ðức Chúa. 12
Sau khi kiểm lại số bạc, người ta trao cho những người lo công việc sửa
chữa, những người phụ trách Nhà Ðức Chúa. Những người này chi bạc cho các thợ
mộc, các người thợ làm việc tại nhà Ðức Chúa, 13 cho các thợ nề và
thợ đá; họ cũng chi bạc để mua gỗ và đá đẽo, để sửa chữa những chỗ hư hại trong
Nhà Ðức Chúa; tóm lại, họ chi bạc cho mọi phí tổn liên quan đến việc sửa chữa
Nhà Ðức Chúa. 14 Nhưng người ta không lấy bạc dâng vào Nhà Ðức Chúa
để làm chậu bạc, dao, bình rảy, kèn, hay bất cứ đồ vật nào bằng vàng, bằng bạc
dùng trong Nhà Ðức Chúa. 15 Người ta trao số bạc ấy cho những người
lo công việc sửa chữa, và họ dùng để sửa chữa Nhà Ðức Chúa. 16 Những
người nhận bạc cứ trả cho các người lo công việc sửa chữa, mà không ai đòi họ
phải tính sổ, vì họ hành động liêm chính. 17 Còn số bạc người ta xin
lễ đền tội và lễ tạ tội, thì không nộp vào Nhà Ðức Chúa: số bạc ấy thuộc về các
tư tế.
18
Bấy
giờ, vua A-ram là Kha-da-ên tiến quân đánh thành Gát và chiếm được thành này.
Sau đó, vua Kha-da-ên định tiến đánh Giê-ru-sa-lem. 19 Vua Giu-đa là
Giô-át lấy mọi đồ vật thánh mà các vua Giu-đa tổ tiên mình là Giơ-hô-sa-phát,
Giơ-hô-ram và A-khát-gia-hu, đã dâng cúng, cũng như các đồ vật mà chính vua đã
dâng cúng, và tất cả vàng có trong kho Nhà Ðức Chúa và trong đền vua. Vua gửi
tất cả những thứ đó cho vua A-ram là Kha-da-ên, và vua này rời khỏi
Giê-ru-sa-lem.
20
Những
truyện còn lại của vua Giô-át và tất cả những gì vua làm, đã chẳng được ghi
chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 21 Các thuộc hạ của vua
Giô-át đứng lên, âm mưu chống lại vua và hạ sát vua ở Bết Mi-lô, khi vua xuống
Xi-la. 22 Các thuộc hạ của vua là Giô-da-vát, con bà Sim-át, và
Giơ-hô-da-vát, con ông Sô-me, hạ sát vua, và vua đã chết. Người ta chôn cất vua
bên cạnh tổ tiên vua trong Thành Ða-vít. Con vua là A-mát-gia lên ngôi kế vị
vua cha.
Chương 13
Vua
Giơ-hô-a-khát cai trị Ít-ra-en (814-798)
1
Năm
thứ hai mươi ba triều vua Giô-át, con vua A-khát-gia-hu, vua Giu-đa, ông
Giơ-hô-a-khát, con vua Giê-hu, lên làm vua ở Sa-ma-ri, trị vì Ít-ra-en được mười
bảy năm. 2 Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, đã bắt chước vua
Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, phạm thứ tội trước kia vua Gia-róp-am, đã lôi kéo
Ít-ra-en phạm theo; và vua không dứt ra được.
3
Ðức
Chúa đã nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en. Người nộp họ vào tay vua Kha-da-ên, vua
A-ram, và vua Ben Ha-đát, con vua Kha-da-ên, trong suốt triều đại hai vua này. 4
Vua Giơ-hô-a-khát cố làm cho nét mặt Ðức Chúa dịu lại. Và Ðức Chúa nhận
lời vua, vì Người đã thấy cảnh Ít-ra-en bị vua A-ram áp bức. 5 Ðức
Chúa ban cho Ít-ra-en một vị cứu tinh giải thoát họ khỏi ách đô hộ của A-ram.
Con cái Ít-ra-en lại được ở trong lều trại của họ như trước. 6 Nhưng
họ không dứt bỏ các tội nhà Gia-róp-am đã lôi kéo họ phạm theo. Họ cứ đi theo
đường tội lỗi đó. Ngay cả cột thờ vẫn còn đứng sừng sững ở Sa-ma-ri. 7 Ðức
Chúa chỉ để lại cho vua Giơ-hô-a-khát năm mươi kỵ binh, mười xe trận, và mười
ngàn bộ binh, bởi vì vua A-ram đã tiêu diệt quân Ít-ra-en và nghiền nát họ ra
như tro bụi người ta chà đạp.
8
Những
truyện còn lại của vua Giơ-hô-a-khát và mọi việc vua làm, cũng như các chiến
công của vua, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en
đó sao? 9 Vua Giơ-hô-a-khát đã nằm xuống với tổ tiên và được chôn cất ở
Sa-ma-ri. Con vua là Giô-át lên ngôi kế vị vua cha.
Vua
Giô-át cai trị Ít-ra-en (798-783)
10
Năm
thứ ba mươi bảy triều vua Giô-át, vua Giu-đa, con vua Giơ-hô-a-khát là Giô-át
lên làm vua ở Sa-ma-ri, trị vì Ít-ra-en được mười sáu năm. 11 Vua đã
làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa. Vua không dứt bỏ các tội mà vua Gia-róp-am, con
ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo. Vua cứ đi theo đường tội lỗi
đó.
12
Các
truyện còn lại của vua Giô-át và tất cả mọi việc vua làm, cũng như chiến công
của vua trong cuộc giao chiến với vua Giu-đa là A-mát-gia, đã chẳng được ghi
chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 13 Vua Giô-át đã an nghỉ
với tổ tiên, và vua Gia-róp-am lên ngôi. Vua Giô-át được chôn cất ở Sa-ma-ri
bên cạnh các vua Ít-ra-en.
Ngôn
sứ Ê-li-sa qua đời
14
Ông
Ê-li-sa lâm bệnh. Cơn bệnh sẽ làm cho ông chết. Vua Ít-ra-en là Giô-át xuống
gặp ông, áp sát mặt vào mặt ông mà khóc. Vua nói: "Cha ơi! Cha ơi! Hỡi
chiến xa và chiến mã của Ít-ra-en!” 15 Ông Ê-li-sa bảo: "Vua
cầm lấy cung tên!" Vua liền cầm lấy cung tên. 16 Ông Ê-li-sa
nói với vua Ít-ra-en: "Vua giương cung lên!" Vua liền giương cung.
Ông Ê-li-sa đặt tay lên tay vua 17 và nói: "Vua mở cửa sổ về hướng
đông", và vua mở cửa sổ. Ông Ê-li-sa bảo: "Vua bắn đi!" và vua
bắn. Ông Ê-li-sa lại bảo: "Mũi tên chiến thắng của Ðức Chúa! Mũi tên chiến
thắng A-ram! Vua sẽ đánh A-ram ở A-phếch cho tới mức tận diệt chúng."
18
Ông
Ê-li-sa nói: "Vua cầm lấy tên", Và vua đã cầm lấy tên. Ông Ê-li-sa
lại bảo vua Ít-ra-en: "Vua đập xuống đất!", và vua đã đập xuống ba
lần, rồi ngưng. 19 Người của Thiên Chúa nổi giận với vua, ông nói:
"Ðáng lẽ phải đập năm sáu lần, thì bấy giờ vua mới đánh A-ram cho tới mức
tận diệt chúng. Nhưng bây giờ, vua chỉ đánh được A-ram ba lần thôi."
20
Ông
Ê-li-sa qua đời và người ta đã chôn cất ông. Hàng năm, các toán quân Mô-áp xâm
nhập xứ sở. 21 Vậy, có lần người ta đang đem một người chết đi chôn,
thì thấy một toán quân của bọn đó, họ liền vất người chết vào mộ ông Ê-li-sa,
rồi bỏ đi. Người chết vừa đụng phải hài cốt của ông Ê-li-sa thì sống lại và
đứng thẳng dậy.
Vua
Giô-át chiến thắng quân A-ram
22
Suốt
triều vua Giơ-hô-a-khát, vua A-ram là Kha-da-ên đã áp bức người Ít-ra-en. 23
Nhưng Ðức Chúa tỏ lòng nhân từ và chạnh lòng thương đoái nhìn họ, vì
Người đã lập giao ước với các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Người không
muốn diệt trừ họ, và cho đến nay vẫn không xua đuổi họ cho khuất nhan Người. 24
Vua A-ram là Kha-da-ên qua đời, và con vua là Ben Ha-đát lên ngôi kế vị
vua cha. 25 Vua Giô-át, con vua Giơ-hô-a-khát, lấy lại được những
thành mà vua Kha-da-ên trong một cuộc chiến, đã chiếm được của vua
Giơ-hô-a-khát, cha vua Giô-át. Những thành này khi đó nằm trong tay vua Ben
Ha-đát, con vua kha-da-ên. Vua Giô-át đã đánh bại vua Ben Ha-đát ba lần và thu
hồi được các thành của Ít-ra-en.
Chương 14
VII.
Hai Vương Quốc
Cho
Tới Ngày Sa-Ma-Ri Thất Thủ
Vua
A-mát-gia-hu cai trị Giu-đa (796-781) (2 Sb 25:1-28)
1
Năm
thứ hai triều vua Giô-át, con vua Giơ-hô-a-khát, vua Ít-ra-en, thì con vua
Giô-át, vua Giu-đa, là A-mát-gia-hu, lên làm vua. 2 Khi lên ngôi,
vua được hai mươi lăm tuổi và trị vì tại Giê-ru-sa-lem hai mươi chín năm. Thân
mẫu của vua là bà Giơ-hô-át-đan người Giê-ru-sa-lem. 3 Vua đã điều
ngay chính trước mắt Ðức Chúa, tuy không bằng vua Ða-vít, tổ tiên vua. Trong
mọi sự, vua đã làm như vua cha là Giô-át. 4 Tuy nhiên, các tế đàn ở
nơi cao không bị phá huỷ; dân chúng vẫn còn tế lễ và đốt hương trên các nơi cao
đó.
5
Vậy
khi đã nắm vững vương quyền trong tay, vua A-mát-gia-hu hạ sát những thuộc hạ
đã hạ sát vua cha. 6 Nhưng vua không xử tử con cái những kẻ sát nhân
ấy, như đã chép trong sách Luật Mô-sê, chiếu theo lệnh Ðức Chúa truyền rằng:
"Cha sẽ không bị xử tử vì con, và con sẽ không bị xử tử vì cha: mỗi người
sẽ bị xử tử về tội của mình."
7
Chính
vua đã hạ sát mười ngàn quân Ê-đôm tại thung lũng Muối, và trong cuộc chiến vua
đã chiếm được thành luỹ Tảng Ðá, mà vua đặt tên cho là Gióc-thơ-ên; tên này vẫn
tồn tại đến ngày nay.
8
Khi
ấy, vua A-mát-gia sai sứ giả đến vua Giô-át con vua Giơ-hô-a-khát, cháu vua
Ít-ra-en là Giê-hu, và nói: "Nào đến đây, ta đọ sức với nhau!” 9 Vua
Ít-ra-en là Giô-át mới sai người đến nói với vua A-mát-gia-hu, vua Giu-đa:
"Cỏ gai trên núi Li-băng sai người đến nói với cây bá hương Li-băng:
"Xin gả con gái của ngài cho con trai tôi. Nhưng một con dã thú Li-băng đi
qua đã đạp lên cỏ gai. 10 Vì đã đánh bại Ê-đôm, nên ông lên mặt. Ông
cứ vênh vang mà ở nhà! Chứ sao ông lại muốn khiêu chiến, để rồi bị ngã gục cùng
với Giu-đa?"
11
Nhưng
vua A-mát-gia-hu không chịu nghe. Bấy giờ, vua Ít-ra-en là Giô-át mới tiến lên;
vua Giô-át và vua Giu-đa là A-mát-gia-hu đọ sức với nhau ở Bết Se-mét thuộc
Giu-đa. 12 Giu-đa bị Ít-ra-en đánh bại; quân Giu-đa chạy trốn, ai về
lều nấy. 13 Còn vua Giu-đa là A-mát-gia-hu, con vua Giô-át, cháu vua
A-khát-gia-hu, thì bị vua Ít-ra-en là Giô-át bắt ở Bết Se-mét, và điệu về
Giê-ru-sa-lem. Vua đập phá tường thành Giê-ru-sa-lem, tạo ra một chỗ hổng dài
hai trăm thước, từ Cửa Ép-ra-im đến Cửa Góc thành. 14 Sau đó, vua
lấy tất cả vàng bạc cùng mọi đồ vật có trong Nhà Ðức Chúa và trong các kho của
đền vua, bắt các con tin, rồi trở về Sa-ma-ri.
15
Các
truyện còn lại của vua Giô-át, những gì vua làm, cũng như chiến công của vua
trong cuộc giao chiến với vua Giu-đa là A-mát-gia-hu, đã chẳng được ghi chép
trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 16 Vua Giô-át đã an nghỉ với
tổ tiên và được chôn cất ở Sa-ma-ri bên cạnh các vua Ít-ra-en. Con vua là
Gia-róp-am lên ngôi kế vị.
17
Vua
A-mát-gia-hu, con vua Giô-át, vua Giu-đa, còn sống mười lăm năm nữa sau khi vua
Giô-át, con vua Giơ-hô-a-khát, vua Ít-ra-en, qua đời.
18
Các
truyện còn lại của vua A-mát-gia-hu đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên
niên các vua Giu-đa đó sao? 19 Người ta âm mưu hại vua ở Giê-ru-sa-lem, nên vua
chạy trốn về hướng La-khít, nhưng người ta sai người đuổi theo vua đến tận
La-khít và giết vua ở đó. 20 Người ta cho ngựa chở vua về
Giê-ru-sa-lem và chôn cất vua ở đó, bên cạnh tổ tiên vua trong Thành vua Ða-vít.
21 Toàn dân Giu-đa đặt A-dác-gia mới mười sáu tuổi lên ngôi kế vị
vua cha là A-mát-gia-hu. 22 Chính vua đã tái thiết Ê-lát và trả lại
cho Giu-đa, sau khi vua A-mát-gia-hu an nghỉ bên cạnh tổ tiên.
Vua
Gia-róp-am II cai trị Ít-ra-en (783-743)
23
Năm
thứ mười lăm triều vua A-mát-gia-hu, con vua Giô-át, vua Giu-đa, con vua
Giô-át, vua Ít-ra-en, là Gia-róp-am lên làm vua, và trị vì bốn mươi mốt năm ở
Sa-ma-ri. 24 Vua đã làm sự dữ trái mắt Ðức Chúa, đã không dứt bỏ mọi
tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.
25
Chính
vua đã tái lập biên giới Ít-ra-en từ Cửa Ải Kha-mát cho đến biển A-ra-va, như
lời Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, đã dùng tôi trung của Người là ngôn sứ
Giô-na, con ông A-mít-tai, quê ở Gát Khê-phe, mà phán. 26 Vì Ðức
Chúa đã nhìn thấy cảnh bần cùng của Ít-ra-en phản nghịch; chẳng có một ai, nô
lệ hay tự do, đến cứu giúp Ít-ra-en. 27 Ðức Chúa đã không nói là sẽ
xoá tên Ít-ra-en không còn dấu vết trong thiên hạ, nên Người đã cứu họ nhờ tay
vua Gia-róp-am, con vua Giô-át.
28
Các
truyện còn lại của vua Gia-róp-am và mọi việc vua làm, cũng như chiến công nhờ
đó vua đánh chiếm và đem Ða-mát cùng Kha-mát về lại cho Ít-ra-en, những truyện
đó đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 29
Vua Gia-róp-am đã nằm xuống với tổ tiên là các vua Ít-ra-en. Con vua là
Dơ-khác-gia lên ngôi kế vị vua cha.
Chương 15
Vua
A-dác-gia cai trị Giu-đa (781-740) (2 Sb 26:1-23)
1
Năm
thứ hai mươi bảy triều Gia-róp-am, vua Ít-ra-en, con vua A-mát-gia, vua Giu-đa,
là A-dác-gia lên làm vua. 2 Ông lên ngôi vua khi được mười sáu tuổi,
và trị vì năm mươi hai năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Giơ-khôn-gia-hu,
người Giê-ru-sa-lem. 3 Vua đã làm điều ngay chính trước mắt Ðức
Chúa, hoàn toàn đúng như vua cha là A-mát-gia-hu đã làm. 4 Tuy
nhiên, các tế đàn ở nơi cao đã không bị phá huỷ, dân chúng vẫn còn tế lễ và đốt
hương trên các nơi cao đó.
5
Ðức
Chúa đánh phạt vua; vua mắc bệnh phung hủi cho đến ngày qua đời, và sống cô lập
trong một căn nhà. Chính ông Giô-tham, con vua, làm đại nội thị thần và cai trị
dân trong xứ.
6
Các
truyện còn lại của vua A-dác-gia-hu và mọi việc vua làm đã chẳng được ghi chép
trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 7 Vua A-dác-gia đã nằm xuống với
tổ tiên và được chôn cất bên cạnh tổ tiên trong Thành vua Ða-vít. Con vua là
Giô-tham lên ngôi kế vị vua cha.
8
Năm
thứ ba mươi tám triều vua A-dác-gia-hu, vua Giu-đa, con vua Gia-róp-am là
Dơ-khác-gia lên làm vua Ít-ra-en và trị vì sáu tháng ở Sa-ma-ri. 9 Vua
đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa như tổ tiên vua. Vua đã không dứt bỏ các tội
mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo. 10
Ông Sa-lum, con ông Gia-vết, âm mưu hại vua. Ông đã đánh chết vua trước
mặt dân, rồi lên ngôi thay vua. 11 Các truyện còn lại của vua
Dơ-khác-gia đã được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en. 12 Ðức
Chúa đã phán với vua Giê-hu rằng: "Con cháu ngươi sẽ ngự trên ngai cai trị
Ít-ra-en cho đến đời thứ bốn"; lời ấy đã ứng nghiệm.
Vua
Sa-lum cai trị Ít-ra-en (743)
13
Con
ông Gia-vết là Sa-lum lên làm vua năm thứ ba mươi chín triều vua Út-di-gia, vua
Giu-đa. Vua trị vì được một tháng ở Sa-ma-ri.
14
Ông
Mơ-na-khêm, con ông Ga-đi, đi lên từ Tia-xa và tiến vào Sa-ma-ri. Tại Sa-ma-ri,
ông đánh chết vua Sa-lum, con ông Gia-vết, và lên làm vua thay vua ấy.
15
Những
truyện còn lại của vua Sa-lum và cuộc âm mưu vua đã chủ xướng, những sự việc ấy
đã được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en. 16 Bấy
giờ, vua Mơ-na-khêm đánh phạt Táp-pu-ác, mọi người ở trong đó cũng như lãnh thổ
của thành bắt đầu từ Tia-xa, vì người trong thành đã không mở cửa cho vua; vua
đã mổ bụng tất cả phụ nữ có thai.
Vua
Mơ-na-khêm cai trị Ít-ra-en (743-738)
17
Năm
thứ ba mươi chín triều vua A-dác-gia, vua Giu-đa, con ông Ga-đi là Mơ-na-khêm
lên làm vua cai trị Ít-ra-en mười năm, ở Sa-ma-ri. 18 Vua đã làm
điều dữ trái mắt Ðức Chúa; vua không dứt bỏ các tội mà vua Gia-róp-am, con ông
Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.
19
vua
Át-sua là Pun xâm nhập xứ sở, và vua Mơ-na-khêm nộp cho vua Pun ba mươi ngàn ký
bạc để vua này nâng đỡ và củng cố vương quyền vua đang nắm trong tay. 20 Vua
Mơ-na-khêm thu bạc ấy của Ít-ra-en, của mọi phú hào, để nộp cho vua Át-sua: mỗi
người mười lăm lượng bạc. Vì thế, vua Át-sua đã trở về nước, không ở lại trong
xứ.
21
Các
truyện còn lại của vua Mơ-na-khêm, và mọi việc vua làm, đã chẳng được ghi chép
trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 22 Vua Mơ-na-khêm đã nằm xuống
với tổ tiên. Con vua là Pơ-các-gia lên ngôi kế vị vua cha.
Vua
Pơ-các-gia cai trị Ít-ra-en (738-737)
23
Năm
thứ năm mươi triều vua A-dác-gia, vua Giu-đa, con vua Mơ-na-khêm là Pơ-các-gia
lên làm vua cai trị Ít-ra-en hai năm, ở Sa-ma-ri. 24 Vua đã làm điều
dữ trái mắt Ðức Chúa, vua không dứt bỏ những tội mà vua Gia-róp-am, con ông
Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.
25
Giám
mã của vua là ông Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, âm mưu chống lại vua và hạ sát
vua ở Sa-ma-ri, trong tháp chính của đền vua... Có năm mươi người dân Ga-la-át
cùng theo ông. Ông giết vua và lên ngôi thay thế.
26
Các
truyện còn lại của vua Pơ-các-gia, và mọi việc vua làm, đã được ghi chép trong
sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en.
Vua
Pe-các cai trị Ít-ra-en (737-732)
27
Năm
thứ năm mươi hai triều vua A-dác-gia, vua Giu-đa, con ông Rơ-man-gia-hu là
Pe-các lên làm vua cai trị Ít-ra-en hai mươi năm, ở Sa-ma-ri. 28 Vua
đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, vua không dứt bỏ những tội mà vua Gia-róp-am,
con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.
29
Trong
thời gian vua Pe-các, vua Ít-ra-en, vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe đến xâm
chiếm I-giôn, A-vên Bết Ma-a-kha, Gia-nô-ác, Ke-đét, Kha-xo, miền Ga-la-át và
Ga-li-lê, toàn xứ Náp-ta-li, rồi đày dân sang Át-sua. 30 Ông Hô-sê,
con ông Ê-la, âm mưu chống lại vua Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, đánh chết vua
và lên ngôi thay thế, vào năm thứ hai mươi triều vua Giô-tham, con vua
Út-di-gia.
31
Các
truyện còn lại của vua Pe-các, và mọi việc vua làm, đã được ghi chép trong sách
Sử biên niên các vua Ít-ra-en.
Vua
Giô-tham cai trị Giu-đa (740-736) (2 Sb 27:1-9)
32
Năm
thứ hai triều Pe-các, vua Ít-ra-en, con ông Rơ-man-gia-hu, thì con vua
Út-di-gia-hu, vua Giu-đa, là Giô-tham lên làm vua. 33 Ông lên ngôi
vua khi được hai mươi lăm tuổi, và trị vì mười sáu năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua
tên là Giơ-ru-sa, con gái ông Xa-đốc. 34 Vua đã làm điều ngay chính
trước mắt Ðức Chúa, đúng như vua cha là Út-di-gia-hu đã làm. 35 Tuy
nhiên, các tế đàn ở nơi cao không bị phá huỷ; dân chúng vẫn còn tế lễ và đốt
hương trên các nơi cao đó.
Chính
vua đã xây Cửa Trên của Nhà Ðức Chúa.
36
Các
truyện còn lại của vua Giô-tham, những việc vua làm, đã chẳng được ghi chép
trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 37 Vào thời ấy, Ðức Chúa bắt đầu
sai vua A-ram là Rơ-xin và vua Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, đến đánh Giu-đa. 38
Vua Giô-tham đã an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất bên cạnh tổ tiên
trong Thành Ða-vít, tổ phụ vua. Con vua là A-khát lên ngôi kế vị.
Chương 16
Vua
A-khát cai trị Giu-đa (736-716) (2 Sb 28:1-27)
1
Năm
thứ mười bảy triều vua Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, con vua Giô-tham, vua
Giu-đa, là A-khát, lên làm vua. 2 A-khát lên ngôi vua khi được hai
mươi tuổi, và trị vì mười sáu năm ở Giê-ru-sa-lem. Vua đã không làm điều ngay
chính trước mắt Ðức Chúa, Thiên Chúa của vua, như vua Ða-vít, tổ phụ vua. 3
Vua đã đi theo đường lối các vua Ít-ra-en, và thậm chí còn làm lễ thiêu
con trai mình, theo các thói ghê tởm của các dân mà Ðức Chúa đã trục xuất cho
khuất mắt con cái Ít-ra-en. 4 Vua đã tế lễ và đốt hương trên các nơi
cao, trên các ngọn đồi và dưới mọi cây xanh.
5
Bấy
giờ, vua A-ram là Rơ-xin, và vua Ít-ra-en là Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, lên
đánh Giê-ru-sa-lem. Họ vây hãm vua A-khát, nhưng không đánh thắng được. 6 Thuở
ấy, vua A-ram là Rơ-xin đem Ê-lát về lại cho A-ram. Vua đuổi người Giu-đa khỏi
Ê-lát. Người A-ram lại vào Ê-lát và tiếp tục ở đó cho đến ngày nay. 7 Vua
A-khát sai sứ giả đến nói với vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe: "Tôi là tôi
tớ, là con cái của ngài. Xin ngài lên cứu tôi khỏi tay vua A-ram và vua
Ít-ra-en, họ nổi lên chống tôi.” 8 Vua A-khát lấy bạc vàng có trong
Nhà Ðức Chúa và trong kho đền vua mà gửi tặng vua Át-sua. 9 Vua
Át-sua nhận lời, tiến lên đánh Ða-mát và chiếm được thành đó. Vua đày dân đến
thành Kia và giết vua Rơ-xin.
10
Vua
A-khát đi Ða-mát gặp vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe. Khi nhìn thấy bàn thờ ở
Ða-mát, vua A-khát gửi cho tư tế U-ri-gia hoạ đồ kiểu mẫu của bàn thờ, và mọi
chi tiết chỉ dẫn cách làm. 11 Tư tế U-ri-gia xây bàn thờ: tất cả
những chỉ thị vua A-khát gửi về từ Ða-mát, tư tế U-ri-gia đều thi hành đúng như
thế, trong khi chờ vua A-khát từ Ða-mát về. 12 Khi từ Ða-mát về, vua
nhìn thấy bàn thờ, lại gần, rồi tiến lên. 13 Vua cho đốt của lễ toàn
thiêu, lễ phẩm, tưới rượu tế và lấy máu những con vật của hy lễ kỳ an rảy lên
bàn thờ. 14 Còn bàn thờ bằng đồng ở trước nhan Ðức Chúa, ở giữa bàn
thờ mới và Nhà Ðức Chúa, vua dời đi khỏi phía trước Nhà Ðức Chúa, và đặt bên
cạnh bàn thờ mới, ở phía bắc. 15 Rồi vua A-khát truyền lệnh cho tư
tế U-ri-gia rằng: "Trên bàn thờ lớn, ông sẽ cho đốt của lễ toàn thiêu ban
sáng và lễ phẩm ban chiều, lễ toàn thiêu, lễ phẩm của vua, lễ toàn thiêu, lễ
phẩm và các lễ tưới rượu của toàn dân trong xứ. Ông sẽ rảy trên bàn thờ tất cả
máu của các lễ toàn thiêu và của các hy lễ. Còn bàn thờ bằng đồng thì ta sẽ
tính sau.” 16 Tư tế U-ri-gia đã thi hành đúng mệnh lệnh vua A-khát.
17
Vua
A-khát bẻ gẫy các đòn ngang và các giàn: vua cất các bồn nước đặt ở trên đi. Bể
nước bằng đồng kê trên những con bò, thì vua hạ xuống mà đặt trên một nền đá. 18
Ðể được lòng vua Át-sua, vua thay đổi vị trí trong Nhà Ðức Chúa: hành
lang ngày sa-bát xây trong Nhà Ðức Chúa, và lối vào của vua nằm ở bên ngoài.
19
Các
truyện còn lại của vua A-khát, những việc vua làm, đã chẳng được ghi chép trong
sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 20 Vua A-khát đã an nghỉ với tổ tiên
và được chôn cất bên cạnh tổ tiên trong Thành Ða-vít. Con vua là Khít-ki-gia-hu
lên ngôi kế vị.
Chương 17
Vua
Hô-sê cai trị Ít-ra-en (732-724)
1
Năm
thứ mười hai triều A-khát, vua Giu-đa, con ông Ê-la là Hô-sê lên làm vua cai
trị Ít-ra-en chín năm, ở Sa-ma-ri. 2 Vua đã làm diều dữ trái mắt Ðức
Chúa, tuy không bằng các vua Ít-ra-en trước. 3 Vua Át-sua là
San-ma-ne-xe tiến lên đánh vua. Vua Hô-sê đã phải làm tôi và triều cống vua ấy.
4 Nhưng vua Át-sua khám phá ra là vua Hô-sê âm mưu phản loạn: vua đã
sai sứ giả đến với vua Ai-cập là Xô, và không còn triều cống vua Át-sua như
hằng năm trước đây. Vua Át-sua cho bắt vua Hô-sê, xiềng lại và bỏ tù.
Sa-ma-ri
thất thủ (721)
5
Vua
Át-sua tiến đánh cả xứ, đến Sa-ma-ri và vây hãm thành này ba năm. 6 Năm
thứ chín triều vua Hô-sê, vua Át-sua chiếm được Sa-ma-ri và đày Ít-ra-en sang
Át-sua. Vua cho họ định cư ở Khơ-lác, và ở ven sông Kha-vo thuộc vùng Gô-dan,
và trong các thành xứ Mê-đi.
Suy
gẫm về vương quốc Ít-ra-en suy tàn
7
Sự
việc đó xảy ra, vì con cái Ít-ra-en đã đắc tội với Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ,
là Ðấng đã đem họ lên từ đất Ai-cập, đã giải thoát họ khỏi tay Pha-ra-ô, vua
Ai-cập, và vì họ đã kính sợ các thần khác. 8 Họ theo những thói tục
của các dân Ðức Chúa đã trục xuất cho khuất mắt con cái Ít-ra-en và những thói
tục các vua Ít-ra-en đã tạo ra. 9 Con cái Ít-ra-en đã thốt những lời
bất xứng phạm đến Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ; họ xây cho mình các tế đàn ở nơi
cao trong mọi thành của họ, từ tháp canh cho đến thành trì kiên cố. 10 Họ
đã dựng các trụ đá và cột thờ trên mọi đồi cao và dưới mọi cây xanh. 11 Ở
đó, trên mọi tế đàn ở nơi cao, họ đã đốt hương như các dân Ðức Chúa đã đày cho
khuất mặt họ, và họ đã làm những việc xấu xa để trêu giận Người. 12 Họ
phụng thờ những ngẫu tượng, mặc dù Ðức Chúa đã phán với họ: "Các ngươi sẽ
không được làm điều đó."
13
Nhưng
Ðức Chúa đã dùng tất cả các ngôn sứ và các thầy chiêm mà cảnh cáo Ít-ra-en và
Giu-đa: "Hãy trở lại, bỏ con đường tà của các ngươi, hãy tuân giữ các mệnh
lệnh và quy tắc của Ta, đúng theo Lề Luật Ta đã truyền cho cha ông các ngươi,
và Ta đã chuyển đến các ngươi nhờ các ngôn sứ tôi trung của Ta.” 14 Nhưng
họ đã không nghe lời, họ cứng đầu cứng cổ như cha ông họ, những người không tin
vào Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ. 15 Họ đã khinh dể những quy luật
của Người, cũng như giao ước Người đã lập với cha ông họ và những chỉ thị Người
đã truyền cho họ. Họ đã đi theo thần hư ảo, và chính họ cũng trở nên hư ảo,
theo các dân ngoại ở chung quanh họ, mặc dầu Ðức Chúa đã truyền cho họ không
được làm như các dân đó. 16 Họ đã bỏ tất cả các mệnh lệnh của Ðức
Chúa, Thiên Chúa của họ, và họ đã đúc cho mình tượng hai con bê; họ đã dựng cột
thờ, sụp xuống lạy toàn thể thiên binh và phụng thờ Ba-an. 17 Họ đã
làm lễ thiêu con trai con gái họ; họ làm nghề bói toán, nghề phù thuỷ, và họ
bán mình để làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, để trêu giận Người. 18 Ðức
Chúa nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và đẩy Ít-ra-en cho khuất nhan Người. Chỉ
còn lại chi tộc Giu-đa.
19
Cả
Giu-đa nữa cũng không tuân giữ các mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của mình,
và theo những thói tục Ít-ra-en đã tạo ra. 20 Vì thế, Ðức Chúa đã từ
bỏ toàn thể dòng giống Ít-ra-en; Người đã hành hạ và nộp họ vào tay quân cướp
cho đến khi xua đuổi họ cho khuất nhan Người. 21 Người đã tách
Ít-ra-en khỏi nhà Ða-vít và họ đã tôn con ông Nơ-vát là Gia-róp-am làm vua. Vua
Gia-róp-am đã thúc đẩy Ít-ra-en rời bỏ Ðức Chúa và làm cho họ phạm một tội lớn.
22 Con cái Ít-ra-en đã bắt chước vua mà phạm mọi tội vua đã phạm, họ
không dứt bỏ các tội đó, 23 đến nỗi Ðức Chúa đẩy Ít-ra-en đi cho
khuất nhan Người, như Người đã dùng mọi ngôn sứ, tôi trung của Người, mà phán.
Ít-ra-en đã bị đày biệt xứ sang Át-sua cho đến ngày nay.
Nguồn
gốc người Sa-ma-ri
24
Vua
Át-sua đã đưa người từ Ba-by-lon, Cu-tha, A-va, Kha-mát và Xơ-phác-va-gim đến
định cư ở các thành xứ Sa-ma-ri, thế vào chỗ con cái Ít-ra-en. Họ chiếm
Sa-ma-ri và ở trong các thành của xứ này.
25
Ban
đầu, khi mới định cư ở đó, họ không kính sợ Ðức Chúa, nên Người đã sai sư tử
đến phá phách họ và giết hại nhiều người. 26 Họ nói với vua Át-sua:
"Các dân mà vua đã cho đi đày, và định cư ở thành xứ Sa-ma-ri, không biết
cách tôn thờ vị thần của xứ. Vì thế, vị thần đó đã sai sư tử đến phá phách và
giết chết họ, bởi họ không biết cách tôn thờ vị thần của xứ.” 27 Vua
Át-sua mới truyền lệnh sau đây: "Hãy đưa một trong những tư tế mà ta đã
cho đi đày, trở lại đó; tư tế ấy phải đến định cư ở đó và dạy họ biết cách tôn
thờ vị thần của xứ.” 28 Bấy giờ, một trong những tư tế Sa-ma-ri, đã
bị đi đày, tới định cư ở Bết Ên và dạy họ biết cách kính sợ Ðức Chúa.
29
Nhưng
mỗi dân lại tạc tượng thần của mình và đặt trong các miếu ở nơi cao mà người
Sa-ma-ri đã xây; họ đã làm như vậy trong thành họ ở. 30 Người
Ba-by-lon tạc tượng thần Xúc-cốt Bơ-nốt, người Cu-tha tạc tượng thần Néc-gan,
người Kha-mát tạc tượng thần A-si-ma, 31 Người A-va tạc tượng thần
Níp-khát và Tác-tắc; còn người Xơ-phác-va-gim thì làm lễ thiêu con trai của họ
để kính Át-ram-me-léc và A-nam-me-léc, các thần của dân Xơ-phác-va-gim. 32
Họ cũng kính sợ Ðức Chúa, và chọn những người cùng nhóm làm tư tế phục vụ
tại các tế đàn ở nơi cao và tế lễ cho họ trong các miếu ở nơi cao. 33 Họ
kính sợ Ðức Chúa nhưng cũng phụng thờ các thần của họ, theo cách tôn thờ của
các dân mà họ đã rời bỏ khi bị đi đày. 34 Cho đến ngày nay họ vẫn
theo cách tôn thờ xưa kia của họ.
Người
Ít-ra-en đã không kính sợ Ðức Chúa, cũng không hành động theo những quy tắc,
những quyết định, Lề Luật và mệnh lệnh Ðức Chúa đã truyền cho con cái ông
Gia-cóp, người cũng được gọi tên là Ít-ra-en. 35 Ðức Chúa đã lập
giao ước với họ và truyền lệnh cho họ: "Các ngươi không được kính sợ các
thần khác và không được sụp xuống lạy chúng; các ngươi không được phụng thờ và
tế lễ chúng. 36 Nhưng chính Ðức Chúa, Ðấng đã dùng sức mạnh lớn lao
và cánh tay uy quyền đưa các ngươi lên từ Ai-cập, chính Người là Ðấng các ngươi
phải kính sợ, phải sụp xuống lạy và phải tế lễ. 37 Những quy luật,
những quyết định, Lề Luật và mệnh lệnh Người đã truyền ghi chép cho các ngươi,
các ngươi phải tuân giữ, phải thi hành mọi ngày. Các ngươi không được kính sợ
các thần khác. 38 Giao Ước Ta đã lập với các ngươi, các ngươi không
được quên; và các ngươi không được kính sợ các thần khác. 39 Nhưng
chính Ðức Chúa, Thiên Chúa các ngươi, là Ðấng các ngươi phải kính sợ. Người sẽ
giải thoát các ngươi khỏi tay mọi địch thù của các ngươi.” 40 Người
Sa-ma-ri đã không nghe lời, họ cứ theo cách tôn thờ xưa kia của họ.
41
Như
thế, các dân ấy đã kính sợ Ðức Chúa, nhưng cũng phụng thờ các ngẫu tượng của
họ; con cái cháu chắt họ cũng làm như cha ông họ cho đến ngày nay.
Chương 18
VIII.
Những Giai Ðoạn Cuối Cùng
Của
Vương Quốc Giu-Ða
1.
Vua Khít-Ki-Gia, Ngôn Sứ I-Sai-A Và Nước Át-Sua
Dẫn
nhập vào triều vua Khít-ki-gia (716-687) (2 Sb 29:1-2; 31:1)
1
Năm
thứ ba triều vua Hô-sê, con ông Ê-la, vua Ít-ra-en, con vua A-khát, vua Giu-đa,
là Khít-ki-gia lên làm vua. 2 Khi lên ngôi, vua được hai mươi lăm
tuổi và trị vì hai mươi chín năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là A-vi, con gái
ông Dơ-khác-gia. 3 Vua đã làm điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa,
đúng như vua Ða-vít, tổ phụ vua đã làm. 4 Chính vua đã dẹp các tế
đàn ở nơi cao, đập bể các trụ đá, bổ các cột thờ và đập tan con rắn đồng ông
Mô-sê đã làm, vì cho đến thời đó, con cái Ít-ra-en vẫn đốt hương kính nó; người
ta gọi nó là Nơ-khút-tan.
5
Vua
đã đặt niềm tin tưởng vào Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en. Sau vua, chẳng có
vua Giu-đa nào được như thế, cũng như trước vua chẳng có ai được như vậy. 6
Vua gắn bó với Ðức Chúa, không bỏ Người; vua tuân giữ các mệnh lệnh Ðức
Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 7 Vì thế, Ðức Chúa đã ở với vua; vua
tra tay làm việc gì thì cũng thành công. Vua nổi lên chống lại vua Át-sua và
không còn chịu phục tùng vua ấy nữa. 8 Chính vua đã đánh đuổi quân
Phi-li-tinh cho đến Ga-da và ranh giới của thành ấy, từ tháp canh cho đến thành
trì kiên cố.
Nhắc
lại chuyện Sa-ma-ri thất thủ
9
Năm
thứ tư triều vua Khít-ki-gia, tức là năm thứ bảy triều vua Hô-sê, con ông Ê-la,
vua Ít-ra-en, vua Át-sua là San-ma-ne-xe tiến lên đánh và vây thành Sa-ma-ri. 10
Sau ba năm, người ta chiếm được thành. Sa-ma-ri thất thủ vào năm thứ sáu
triều vua Khít-ki-gia, tức là năm thứ chín triều vua Hô-sê, vua Ít-ra-en. 11
Vua Át-sua đày Ít-ra-en sang Át-sua và cho lập cư tại Khơ-lác, và ở ven
sông Kha-vo thuộc vùng Gô-dan, và trong các thành xứ Mê-đi, 12 vì họ
đã không nghe lời Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ, và đã vi phạm giao ước của
Người; tất cả những gì ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, đã truyền, họ đều
không nghe theo và thi hành.
Cuộc
xâm lăng của vua Xan-khê-ríp (Es 36:1)
13
Năm
thứ mười bốn triều vua Khít-ki-gia, vua Át-sua là Xan-khê-ríp tiến lên đánh mọi
thành kiên cố của Giu-đa và đã chiếm được. 14 Vua Giu-đa là
Khít-ki-gia mới sai người đến nói với vua Át-sua ở La-khít: "Tôi có tội,
xin ngài lui binh cho, ngài bắt nộp gì, tôi cũng chịu." Vua Át-sua bắt vua
Khít-ki-gia phải nộp chín ngàn ký bạc và chín trăm ký vàng. 15 Vua
Khít-ki-gia nộp tất cả số bạc có trong Nhà Ðức Chúa và trong kho đền vua. 16
Chính vào thời đó, vua Khít-ki-gia đập gẫy các cánh cửa của đền thờ Ðức
Chúa, cũng như các khung cửa mà..., vua Giu-đa, đã bọc bằng kim khí, lấy nộp
cho vua Át-sua.
Sứ
mạng của quan chánh chước tửu (2 Sb 32:9-19; Es 36:2-22)
17
Từ
La-khít, vua Át-sua sai tướng tổng tư lệnh, quan thái giám và quan chánh chước
tửu, cùng với một đạo binh hùng hậu, đến gặp vua Khít-ki-gia ở Giê-ru-sa-lem.
Họ tiến lên và đến Giê-ru-sa-lem. Họ đứng gần kênh dẫn nước của hồ trên, phía
đường dẫn tới cánh đồng Thợ Nện Dạ. 18 Họ cho mời vua đến. Ra đón
tiếp họ có ông En-gia-kim, con ông Khin-ki-gia-hu, đại nội thị thần, cũng như
viên ký lục Sép-na và viên quản lý văn khố Giô-ác, con ông A-xáp. 19 Viên
chánh chước tửu bảo họ: "Hãy nói với vua Khít-ki-gia: đại đế là vua Át-sua
phán thế này: "Dựa vào niềm tin nào mà ông tin tưởng như thế? 20 Ông tưởng
rằng trong cuộc chiến, lời nói suông ngoài miệng thay thế được cho mưu kế và
sức mạnh sao? Giờ đây, ông tin tưởng vào ai mà dám nổi loạn chống ta? 21 Hoá ra
ông tin tưởng vào cây gậy sậy dập nát là Ai-cập; nó sẽ đâm thủng bàn tay kẻ vịn
vào nó! Pha-ra-ô vua Ai-cập là vậy đó, đối với mọi kẻ tin tưởng vào ông ta. 22
Có thể ông sẽ nói với tôi: "Chúng tôi tin tưởng vào Ðức Chúa, Thiên
Chúa chúng tôi. Thế chẳng phải Khít-ki-gia đã dẹp các nơi cao và các bàn thờ
của Người đó sao? Ông ta đã chẳng nói với Giu-đa và Giê-ru-sa-lem rằng: Các
ngươi sẽ sụp lạy trước bàn thờ này ở Giê-ru-sa-lem? 23 Bây giờ ông hãy đánh
cuộc với vua Át-sua chúa thượng tôi: Tôi cho ông hai ngàn con ngựa nếu ông tìm
được người cưỡi. 24 Liệu ông có thể đẩy lui được một người thuộc
hạng dở nhất trong nhóm bộ hạ của chúa thượng tôi không? Thế mà ông lại cậy vào
Ai-cập để có xe, có ngựa! 25 Bây giờ có phải ngoài ý muốn của Ðức Chúa mà ta đã
tiến đánh để tàn phá nơi này không? Chính Ðức Chúa đã phán với ta: "Hãy
tiến đánh và tàn phá xứ này!"
26
Ông
En-gia-kim, con ông Khin-ki-gia-hu, ông Sép-na và ông Giô-ác nói với viên chánh
chước tửu: "Xin ngài dùng tiếng A-ram mà nói vì các tôi tớ ngài đây hiểu
được. Ngài đừng nói tiếng Giu-đa với chúng tôi, kẻo dân ở trên tường thành nghe
được.” 27 Viên chánh chước tửu nói: "Chẳng lẽ Chúa thượng tôi
sai tôi đến nói những lời như thế với chúa thượng của ông hay với ông sao?
Chẳng phải là để nói với những người đang ngồi trên tường thành kia, đang phải
ăn phân và uống nước tiểu của mình, cùng với các ông sao?"
28
Bấy
giờ, viên chánh chước tửu đứng thẳng và hô lớn bằng tiếng Giu-đa rằng:
"Hãy nghe lời đại đế, vua Át-sua: 29 Ðức vua phán thế này: Ðừng
để Khít-ki-gia lừa dối các ngươi, vì ông ta không thể nào giải thoát các ngươi
khỏi tay ta được. 30 Cũng đừng để Khít-ki-gia dụ dỗ các ngươi tin
tưởng vào Ðức Chúa khi ông ta nói: Chắc chắn Ðức Chúa sẽ giải thoát chúng ta,
và thành này sẽ không bị nộp vào tay vua Át-sua. 31 Ðừng nghe lời
Khít-ki-gia, vì vua Át-sua phán thế này: Hãy làm hoà với ta và ra đây; ai nấy
trong các ngươi vẫn được ăn hoa trái trong vườn nho, vườn vả của mình, vẫn được
uống nước bể nhà mình, 32 cho tới khi ta đến đem các ngươi tới một
xứ giống như xứ các ngươi, một xứ có lúa mì và rượu, xứ có bánh, có vườn nho và
vườn ô-liu, xứ có dầu tươi và mật ong; như vậy, các ngươi sẽ được sống và khỏi
phải chết. Ðừng nghe lời Khít-ki-gia, vì ông ta phỉnh gạt các ngươi khi nói:
Ðức Chúa sẽ giải thoát chúng ta. 33 Hỏi rằng trong các thần của chư
dân, đã có vị nào thực sự giải thoát xứ mình khỏi tay vua Át-sua chưa? 34 Các
thần của Kha-mát và Ác-pát ở đâu? Các thần của Xơ-phác-va-gim, của Hê-na và
I-va ở đâu? Họ có giải thoát được Sa-ma-ri khỏi tay ta chăng? 35 Trong tất cả
các thần của các xứ, hỏi đã có thần nào cứu được xứ của họ thoát khỏi tay ta
chưa? Vậy Ðức Chúa cứu nổi Giê-ru-sa-lem khỏi tay ta sao?"
36
Dân
làm thinh, không đáp một lời; vì vua đã ra lệnh: "Các ngươi đừng đáp lại
hắn!” 37 Ông En-gia-kim, đại nội thị thần, con ông Khin-ki-gia vào
yết kiến vua Khít-ki-gia-hu cùng với ông Sép-na, ký lục, và ông Giô-ác, quản lý
văn khố, con ông A-xáp. Họ xé áo mình ra, kể lại cho vua nghe những lời viên
chánh chước tửu đã nói.
Chương 19
Cầu
cứu ngôn sứ I-sai-a (Es 37:1-7)
1
Nghe
thế, vua Khít-ki-gia liền xé áo mình ra, khoác áo vải thô, vào Nhà Ðức Chúa. 2
Vua sai ông En-gia-kim, đại nội thị thần, ông Sép-na, ký lục, và các kỳ
mục trong hàng tư tế, tất cả đều khoác áo vải thô, đến gặp ngôn sứ I-sai-a, con
ông A-mốc. 3 Họ thưa: "Vua Khít-ki-gia phán thế này: Hôm nay là
một ngày khốn quẫn, ngày trừng phạt, ngày ô nhục. Vì đã đến lúc con lọt lòng,
mà mẹ lại không có sức sinh! 4 Ước chi Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông nghe thấy
tất cả những lời của viên chánh chước tửu là người đã được vua Át-sua, chúa
thượng hắn, sai đến thoá mạ Thiên Chúa hằng sống; ước gì Ðức Chúa, Thiên Chúa
của ông, trừng phạt vì những lời Người đã nghe thấy. Xin ông dâng lời cầu
nguyện cho số sót còn lại."
5
Khi
các thuộc hạ của vua Khít-ki-gia đến gặp ông I-sai-a, 6 ông I-sai-a
bảo họ: "Các vị sẽ thưa với chúa thượng của các vị như sau: Ðức Chúa phán
thế này: "Ðừng sợ những lời ngươi đã nghe, những lời mà các tên hầu của
vua Át-sua đã xúc phạm đến Ta. 7 Này Ta sẽ đặt nơi nó một thần khí;
khiến nó vừa nghe một tin đồn, liền rút lui về nước. Ta sẽ làm cho nó bị gươm
đâm gục ngã ngay tại xứ sở nó."
Viên
chánh chước tửu trở về (Es 37:8-9a)
8
Viên
chánh chước tửu trở về gặp lúc vua Át-sua đang giao chiến với Líp-na. Quả thật,
ông nghe biết vua đã rời La-khít, 9 vì vua nhận được tin nói về vua
Cút là Tia-ha-ca: "Kìa vua ấy đã ra quân để giao chiến với ngài."
Thư
của Xan-khê-ríp gửi vua Khít-ki-gia (Is 37 :9b-20)
Vua
Xan-khê-ríp lại sai sứ giả đến với vua Khít-ki-gia, vua bảo họ: 10 "Các
ngươi sẽ nói với Khít-ki-gia, vua Giu-đa, thế này: Ðừng để Thiên Chúa của ông
là Ðấng ông tin tưởng, lừa dối ông rằng: Giê-ru-sa-lem sẽ không bị nộp vào tay
vua Át-sua. 11 Này, ông thừa biết các vua Át-sua đã xử thế nào với
tất cả các nước: Các vị ấy đã tru hiến chúng; còn ông, ông thoát sao được? 12
Thế các thần của chư dân mà cha ông ta đã tiêu diệt, tức là các dân Gô-dan,
Kha-ran, Re-xép, và con cái ông E-đen ở Tơ-la-xa, có giải thoát được các dân ấy
không? 13 Các vua của Kha-mát, của Ác-pát, của La-ia, Xơ-phác-va-gim, Hê-na,
I-va đâu cả rồi?"
14
Vua
Khít-ki-gia cầm lấy thư từ tay các sứ giả trao cho mà đọc, rồi lên Nhà Ðức
Chúa, mở thư ra trước nhan Ðức Chúa. 15 Vua cầu nguyện trước nhan
Ðức Chúa rằng: "Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en, Ðấng ngự trên các
Kê-ru-bim, chính Ngài, và chỉ mình Ngài mới là Thiên Chúa thống trị mọi vương
quốc trần gian. Chính Ngài đã làm nên trời đất. 16 Lạy Ðức Chúa, xin
lắng tai nghe, lạy Ðức Chúa, xin đưa mắt nhìn. Xin nghe rõ những lời
Xan-khê-ríp là kẻ đã sai người đến thoá mạ Thiên Chúa hằng sống. 17 Quả
thật, lạy Ðức Chúa, các vua Át-sua đã tàn phá các dân và xứ sở của họ, 18 quăng
các tượng thần của họ vào lửa, vì chúng không phải là thần, mà chỉ là tác phẩm
bằng gỗ đá do tay người phàm làm ra, cho nên các vua ấy đã phá huỷ được. 19
Nhưng giờ đây, lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng con, xin đoái thương cứu
chúng con khỏi tay vua ấy, để mọi vương quốc trần gian nhận biết rằng chính
Ngài, và chỉ một mình Ngài mới là Thiên Chúa, lạy Ðức Chúa!"
Ông
I-sai-a can thiệp (Es 37:21-35)
20
Ông
I-sai-a con ông A-mốc, sai người đến tâu vua Khít-ki-gia rằng: "Ðức Chúa,
Thiên Chúa Ít-ra-en, phán thế này: Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện về vụ
Xan-khê-ríp, vua Át-sua. 21 Ðây lời Ðức Chúa kết tội nó:
Trinh
nữ, cô gái Xi-on khinh dể, nhạo báng ngươi;
sau
lưng ngươi, cô gái Giê-ru-sa-lem lắc đầu!
22
Ngươi
đã thoá mạ, lăng nhục ai,
đã
lớn tiếng, vênh mặt khinh khi ai,
nếu
không phải là chính Ðấng Thánh của Ít-ra-en!
23
Ngươi
đã dùng sứ giả mà phỉ báng Chúa Thượng,
và
ngươi nói rằng: "Với vô vàn chiến xa, ta trèo lên đỉnh núi,
lên
những ngọn cao chót vót của Li-băng.
Ta
đốn những cây bá hương cao vút,
những
ngọn tùng bách đẹp tuyệt.
Ta
vào tận sào huyệt cuối cùng, tới rừng cây thăm thẳm.
24
Chính
ta đã đào giếng, đã uống nước của ngoại bang;
ta
đã làm cạn khô mọi sông ngòi Ai-cập dưới đôi bàn chân ta.
25
Phải
chăng ngươi không hề nghe biết
Ta
đã làm những điều ấy từ lâu?
Những
điều Ta dự tính từ những ngày xa xưa,
giờ
đây Ta thực hiện:
là
phá tan những thành trì kiên cố,
khiến
chúng trở nên đống đá vụn hoang tàn.
26
Cư
dân của chúng đành bó tay và thẹn thùng khiếp đảm.
Khác
nào cỏ đồng nội, tựa đám cỏ xanh tươi,
đám
cỏ mọc mái nhà, hoặc như cây lúa héo
chưa
kịp vươn lên cao.
27
Khi
ngươi ngồi, ngươi đứng, lúc ngươi ra, lúc ngươi vào,
Ta
đều biết rõ cả; ngay lúc ngươi nổi giận với Ta, Ta cũng biết.
28
Bởi
vì ngươi nổi giận với Ta,
và
những lời ngạo mạn đã thấu tận tai Ta,
nên
Ta sẽ xỏ vòng vào mũi, tra hàm thiếc vào môi ngươi.
Trên
chính con đường ngươi đã tới, Ta sẽ bắt ngươi phải lui về.
29
Ðây
sẽ là dấu hiệu cho ngươi:
Năm
nay ăn lúa chét;
năm
tới có lúa trổi;
đến
năm thứ ba, hãy gieo, hãy gặt,
hãy
trồng nho mà ăn trái.
30
Trong
nhà Giu-đa, những gì đã thoát chết,
những
gì còn sót lại, sẽ cứ tiếp tục đâm rễ sâu
và
trên cao trổ sinh hoa trái.
31
Vì
từ Giê-ru-sa-lem, sẽ nảy sinh số còn sót lại,
và
từ núi Xi-on, sẽ xuất hiện những người thoát chết.
Vì
yêu thương cuồng nhiệt, Ðức Chúa sẽ thực hiện điều đó.
32
Về
vua Át-sua Ðức Chúa phán như sau:
Nó
sẽ không vào được thành này,
không
bắn được mũi tên tới đó,
không
núp sau thuẫn mà xông lên,
cũng
chẳng đắp ụ để công phá.
33
Nó
sẽ phải quay về, theo chính con đường nó đã đến,
chứ
thành này thì nó không vào được.
Sấm
ngôn của Ðức Chúa.
34
Vì
Ta và vì Ða-vít, tôi tớ của Ta
chính
Ta sẽ che chở và sẽ cứu thành này."
Vua
Xan-khê-ríp bại trận và chết (Es 37:36-38)
35
Chính
đêm ấy, thiên sứ của Ðức Chúa ra đánh chết một trăm tám mươi lăm ngàn người
trong trại quân Át-sua. Ban sáng, khi người ta thức dậy, thì kìa, toàn là thây
ma xác chết.
36
Vua
Át-sua là Xan-khê-ríp nhổ trại và lên đường. Ông rút về Ni-ni-vê và ở lại đó. 37
Nhưng rồi, khi ông đang sụp xuống lạy thần Nít-rốc của ông trong đền thờ,
thì các con ông là Át-ram-me-léc và Sa-re-xe dùng gươm đâm ông chết, rồi trốn
sang xứ A-ra-rát. Con vua là Ê-xa-khát-đôn lên ngôi kế vị.
Chương 20
Vua
Khít-ki-gia lâm bệnh và được khỏi (Es 38:1-8,21-22;2 Sb 32:24-26)
1
Trong
những ngày ấy, vua Khít-ki-gia lâm bệnh nguy tử. Ngôn sứ I-sai-a, con ông
A-mốc, đến gặp vua và nói: "Ðức Chúa phán thế này: Hãy lo thu xếp việc
nhà, vì ngươi chết chứ không sống nổi đâu.” 2 Vua quay mặt vào
tường, và cầu nguyện với Ðức Chúa như sau: 3 "Ôi, lạy Ðức Chúa,
xin Ngài nhớ cho, con đã trung tín và thành tâm bước đi trước nhan Ngài, đã thi
hành điều đẹp mắt Ngài." Rồi vua Khít-ki-gia khóc, khóc thật to.
4
Ông
I-sai-a chưa ra đến sân giữa, thì lời Ðức Chúa phán với ông: 5 "Hãy
quay lại nói với Khít-ki-gia, thủ lãnh dân Ta: Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ða-vít,
tổ tiên ngươi, phán thế này: Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện, Ta đã thấy nước
mắt của ngươi. Này Ta chữa lành ngươi, ba ngày nữa, ngươi sẽ lên Nhà Ðức Chúa. 6
Ta sẽ cho ngươi sống thêm mười lăm năm nữa. Ta sẽ giải thoát ngươi cùng
với thành này khỏi tay vua Át-sua, và sẽ che chở thành này, vì Ta và vì Ða-vít,
tôi tớ của Ta."
7
Ông
I-sai-a nói: "Hãy lấy một cái bánh vả." Người ta đi lấy, đặt trên ung
nhọt và vua sống được.
8
Vua
Khít-ki-gia nói với ông I-sai-a: "Tôi dựa vào dấu hiệu nào để biết Ðức
Chúa sẽ chữa lành tôi, và ba ngày nữa tôi sẽ lên Nhà Ðức Chúa?” 9 Ông
I-sai-a trả lời: "Ðây là dấu Ðức Chúa ban cho ngài, chứng tỏ Ðức Chúa sẽ
thực hiện điều Người đã phán: Vua muốn bóng tiến mười độ hay lùi mười độ?” 10
Vua Khít-ki-gia nói: "Bóng ngả thêm mười độ: điều đó quá dễ! Không!
Xin cho bóng lùi mười độ!” 11 Ngôn sứ I-sai-a cầu khẩn Ðức Chúa, và
Người cho bóng lùi lại mười độ, so với bóng đã ngả trên bậc thang mà vua A-khát
đã xây.
Các
sứ giả của vua Mơ-rô-đác Ba-la-đan (Es 39:1-8)
12
Khi
ấy, vua Ba-by-lon là Mơ-rô-đác Ba-la-đan, con ông Ba-la-đan, sai người đem thư
và quà tặng cho vua Khít-ki-gia, vì nghe tin vua bị bệnh. 13 Sau khi
nghe các sứ giả, vua Khít-ki-gia cho họ xem mọi kho tàng của vua, vàng bạc,
hương liệu, dầu quý, kho vũ khí và tất cả những gì có trong các nơi dự trữ của
vua, không có gì trong cung điện và trong toàn lãnh thổ mà vua Khít-ki-gia
không cho họ xem.
14
Ngôn
sứ I-sai-a vào gặp vua Khít-ki-gia và nói: "Những người ấy đã nói gì với
vua, và họ từ đâu tới?" Vua Khít-ki-gia đáp: "Họ từ một xứ xa xôi,
mãi tận Ba-by-lon đến đây.” 15 Ông hỏi: "Họ thấy gì trong cung
điện của ngài?" Vua đáp: "Trong cung điện của tôi có gì, họ thấy hết
cả. Không có gì trong các kho dự trữ mà tôi không cho họ xem."
16
Bấy
giờ, ông I-sai-a nói với vua Khít-ki-gia: "Xin vua nghe lời của Ðức Chúa: 17
Này, sẽ đến những ngày mọi sự trong cung điện ngươi, tất cả những gì xưa
nay tổ tiên ngươi đã tích trữ đều bị đem đi Ba-by-lon, không còn lại một thứ
gì, Ðức Chúa phán. 18 Một số con cái ngươi, xuất thân từ ngươi, do
chính ngươi sinh ra, sẽ bị bắt đi làm thái giám trong hoàng cung của vua
Ba-by-lon.” 19 Vua Khít-ki-gia nói với ông I-sai-a: "Lời Ðức
Chúa ông vừa truyền lại quả là tốt." Vua tự nhủ: "Sao lại không? Miễn
là có hoà bình và an ninh trong đời ta."
Kết
thúc triều vua Khít-ki-gia (2 Sb 32:32-33)
20
Những
truyện còn lại của vua Khít-ki-gia, mọi chiến công của vua, cũng như việc xây
hồ và kênh dẫn nước vào thành, những điều ấy đã chẳng được ghi chép trong sách
Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 21 Vua Khít-ki-gia đã an nghỉ với tổ tiên.
Con vua là Mơ-na-se, lên ngôi kế vị.
Chương 21
2.
Hai Vua Bất Trung
Vua
Mơ-na-se cai trị Giu-đa (687-642) (2 Sb 33:1-10,18-20)
1
Mơ-na-se
lên ngôi vua khi được mười hai tuổi, và trị vì năm mươi lăm năm ở
Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là
5
Trong
hai sân của Nhà Ðức Chúa vua đã xây các tế đàn kính toàn thể các thiên binh. 6
Vua làm lễ thiêu con trai mình, làm nghề chiêm tinh và phù thuỷ, lập ra
cô đồng và thầy bói; vua làm nhiều điều dữ trái mắt Ðức Chúa để trêu giận Người.
7 Vua đặt tượng thần A-sê-ra, mà vua đã tạc, trong Nhà Ðức Chúa, Nhà
mà Ðức Chúa đã phán với vua Ða-vít và vua Sa-lô-môn, con vua: "Tại Nhà này
và ở Giê-ru-sa-lem, nơi Ta đã chọn giữa mọi chi tộc Ít-ra-en, Ta sẽ đặt Danh Ta
mãi mãi. 8 Ta sẽ không để chân Ít-ra-en phiêu bạt đây đó, xa miền
đất Ta đã ban cho tổ tiên chúng, chỉ cần chúng lo làm đúng theo những gì Ta đã
truyền cho chúng, và đúng theo tất cả Lề Luật mà Mô-sê, tôi trung của Ta, đã
truyền cho chúng.” 9 Nhưng họ đã không nghe theo, và vua Mơ-na-se đã
làm cho họ lạc đường, khiến họ làm điều dữ hơn cả những nước mà Ðức Chúa đã
tiêu diệt trước mặt con cái Ít-ra-en.
10
Ðức
Chúa đã dùng các ngôn sứ, tôi trung của Người, mà phán: 11 "Vì
Mơ-na-se, vua Giu-đa, đã làm những điều ghê tởm ấy, vì nó đã hành động tệ hơn
cả những người E-mô-ri ở đấy trước nó đã làm, vì nó cũng đã dùng các ngẫu tượng
mà lôi kéo Giu-đa phạm tội, 12 thì Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en
phán thế này: Này đây Ta sẽ giáng xuống Giê-ru-sa-lem và Giu-đa một tai hoạ, mà
bất cứ ai nghe nói cũng phải ù cả hai tai. 13 Ta sẽ san bằng
Giê-ru-sa-lem, như đã san bằng Sa-ma-ri và nhà A-kháp; Ta sẽ vét sạch
Giê-ru-sa-lem, như người ta vét sạch đĩa rồi úp xuống sau khi vét sạch. 14
Ta sẽ từ bỏ gia nghiệp sót lại của Ta; Ta sẽ nộp chúng vào tay kẻ thù
chúng, chúng sẽ thành mồi, thành chiến lợi phẩm cho mọi kẻ thù chúng, 15 vì
chúng đã làm những gì Ðức Chúa coi là xấu, và chúng không ngừng trêu giận Ta từ
ngày tổ tiên chúng ra khỏi đất Ai-cập cho đến ngày nay."
16
Vua
Mơ-na-se cũng đã đổ máu người vô tội, rất nhiều đến nỗi máu ấy tràn ngập
Giê-ru-sa-lem từ đầu thành đến cuối thành; đó là không kể đến tội vua đã lôi
kéo Giu-đa phạm theo, khi vua làm các điều dữ trái mắt Ðức Chúa.
17
Những
truyện còn lại của vua Mơ-na-se và mọi việc vua làm, cũng như tội vua đã phạm,
tất cả những điều ấy đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua
Giu-đa đó sao? 18 Vua Mơ-na-se đã an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất trong
vườn thuộc cung điện vua, vườn của ông Út-da. Con vua là A-môn lên ngôi kế vị.
Vua
A-môn cai trị Giu-đa (642-640) (2 Sb 33:21-25)
19
A-môn
lên làm vua khi được hai mươi hai tuổi, và trị vì hai năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ
vua tên là Mơ-su-le-mét, con gái ông Kha-rút; bà là người Giót-va. 20 Vua
đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, như vua cha là Mơ-na-se. 21 Trong
mọi sự, vua đã đi theo đường lối của vua cha, đã phụng thờ các ngẫu tượng mà
vua cha đã phụng thờ và sụp lạy chúng. 22 Vua đã bỏ Ðức Chúa, Thiên
Chúa của tổ tiên, và không đi theo đường lối của Ðức Chúa.
23
Các
thuộc hạ vua A-môn đã âm mưu chống lại vua và giết chết vua trong cung điện. 24
Dân trong xứ hạ sát mọi kẻ đã âm mưu chống lại vua A-môn, và tôn con vua
là Giô-si-gia lên ngôi kế vị.
25
Những
truyện còn lại của vua A-môn, những việc vua làm, đã chẳng được ghi chép trong
sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 26 Người ta đã chôn cất vua trong mộ
vua, trong vườn của ông Út-da. Con vua là Giô-si-gia lên ngôi kế vị vua cha.
Chương 22
3.
Vua Giô-Si-Gia Với Việc Cải Cách Tôn Giáo
Dẫn
nhập vào triều vua Giô-si-gia (640-609) (2 Sb 34:1-2)
1
Giô-si-gia
lên làm vua khi được tám tuổi, và trị vì ba mươi mốt năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ
vua tên là Giơ-đi-đa, con ông A-đa-gia; bà là người Bót-cát. 2 Vua
đã làm những điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa, và trong mọi sự vua đi theo
đường lối vua Ða-vít, tổ tiên vua; vua không đi trệch bên phải bên trái.
Tìm
thấy sách Luật (2 Sb 34:8-18)
3
Năm
thứ mười tám triều Giô-si-gia, vua sai ký lục Sa-phan, con ông A-xan-gia-hu, cháu
ông Mơ-su-lam, đến Nhà Ðức Chúa và nói: 4 "Hãy lên gặp thượng
tế Khin-ki-gia-hu, xin thượng tế cộng lại số bạc dâng vào Nhà Ðức Chúa, mà các
tư tế canh ngưỡng cửa đã nhận của dân; 5 người ta phải trao số bạc
đó cho những người lo việc sửa chữa, những người phụ trách Nhà Ðức Chúa; rồi
những người này phải trả cho những người lo việc sửa chữa Nhà Ðức Chúa, để họ
sửa chữa những chỗ hư hại trong đó; 6 cũng phải trả cho thợ mộc, thợ
xây nhà và thợ nề, để họ mua gỗ và đá đẽo mà sửa chữa Nhà Ðức Chúa. 7 Nhưng
đừng đòi họ tính sổ về số bạc đã trao cho họ, vì họ hành động liêm chính."
8
Thượng
tế Khin-ki-gia-hu nói với ký lục Sa-phan: "Tôi đã tìm thấy sách Luật trong
Nhà Ðức Chúa." Ông Khin-ki-gia-hu trao sách cho ông Sa-phan đọc. 9 Ký
lục Sa-phan đến gặp vua và trình lên vua rằng: "Bầy tôi của vua đã đúc số
bạc tìm thấy trong Nhà Ðức Chúa, và đã trao cho những người lo việc sửa chữa,
những người phụ trách Nhà Ðức Chúa.” 10 Rồi ký lục Sa-phan báo tin
cho vua như sau: "Tư tế Khin-ki-gia-hu đã đưa cho tôi một cuốn sách."
Sau đó, ông Sa-phan đọc sách trước mặt vua.
Thỉnh
ý nữ ngôn sứ Khun-đa (2 Sb 34:19-28)
11
Nghe
những lời ghi chép trong sách Luật, vua xé áo mình ra, 12 rồi truyền
lệnh sau đây cho tư tế Khin-ki-gia-hu, cho ông A-khi cam, con ông Sa-phan, cho
ông Ác-bo, con ông Mi-kha-gia, cho ký lục Sa-phan và ông A-xa-gia, tôi tớ của
vua: 13 "Hãy đi thỉnh ý Ðức Chúa cho ta, cho dân và toàn thể
Giu-đa về những lời ghi chép trong sách đã tìm thấy đây, vì Ðức Chúa đã bừng
bừng nổi cơn thịnh nộ chống lại chúng ta, bởi lẽ tổ tiên chúng ta đã không vâng
nghe các lời trong sách này mà làm theo mọi điều đã viết trong đó."
14
Tư
tế Khin-ki-gia-hu, các ông A-khi-cam, Ác-bo, Sa-phan và A-xa-gia đi gặp nữ ngôn
sứ Khun-đa, vợ người phụ trách phòng lễ phục là ông Sa-lum, con ông Tích-va;
cháu ông Khác-khát; bà ở tại khu vực phụ thuộc thành Giê-ru-sa-lem. Họ thưa
chuyện với bà; 15 rồi bà bảo họ: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của
Ít-ra-en, phán thế này: "Hãy nói với người đã cử các ngươi đến gặp Ta: 16
Ðức Chúa phán thế này: Ta sắp giáng hoạ xuống nơi đó, xuống dân cư ở nơi
đó, đúng như mọi lời ghi chép trong sách vua Giu-đa đã đọc. 17 Vì
chúng đã bỏ Ta và đã đốt hương kính các thần khác để trêu giận Ta bằng mọi việc
tay chúng làm, nên Ta đã bừng bừng nổi giận chống lại nơi này, và cơn giận đó
sẽ khôn nguôi. 18 Các ông hãy nói thế này với vua Giu-đa đã sai các
ông đi thỉnh ý Ðức Chúa: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này:
những lời mà ngươi đã nghe... 19 Vì ngươi đã mềm lòng và hạ mình
trước nhan Ðức Chúa, khi nghe những gì Ta đã nói chống lại nơi đó và dân cư ở
đó, những kẻ sẽ trở thành kinh tởm và đáng nguyền rủa; vì ngươi đã xé áo mình
ra và khóc lóc trước nhan Ta, thì Ta, Ta cũng đã nghe, sấm ngôn của Ðức Chúa. 20
Bởi thế, này Ta sẽ cho ngươi sum họp với tổ tiên ngươi, ngươi sẽ được
bình yên sum họp nơi phần mộ ngươi. Mắt ngươi sẽ không thấy gì về tất cả tai
hoạ Ta sắp giáng xuống nơi này." Họ đã trình lại cho vua câu trả lời ấy.
Chương 23
Ðọc
sách Luật (2 Sb 34:29-32)
1
Vua
sai người tập họp chung quanh vua mọi kỳ mục của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 2
Rồi cùng với mọi người Giu-đa và mọi dân cư ở Giê-ru-sa-lem, cùng với các
tư tế, các ngôn sứ và toàn dân từ người nhỏ nhất cho đến người lớn nhất. Vua
lên Nhà Ðức Chúa, đọc cho họ nghe tất cả các lời trong sách Giao Ước đã tìm
thấy trong Nhà Ðức Chúa. 3 Ðứng trên bệ cao, vua lập giao ước trước
nhan Ðức Chúa, cam kết đi theo Ðức Chúa và hết lòng hết dạ tuân giữ các mệnh
lệnh, chỉ thị và quy tắc của Người, để chu toàn các khoản của Giao Ước được ghi
chép trong sách đó. Toàn dân chấp nhận giao ước.
Việc
cải cách tôn giáo ở Giu-đa (2 Sb 34:3-5)
4
Vua
truyền cho thượng tế Khin-ki-gia-hu, cho các tư tế bậc hai và các tư tế canh
ngưỡng cửa, phải đem ra khỏi đền thờ Ðức Chúa mọi đồ vật đã làm để kính thần
Ba-an, thần A-sê-ra và toàn thể thiên binh. Vua thiêu huỷ các đồ vật đó ở ngoài
Giê-ru-sa-lem, trong các cánh đồng Kít-rôn, rồi đem tro về Bết Ên. 5 Vua
dẹp bỏ hàng tư tế bất hợp pháp mà các vua Giu-đa đã lập; chúng đã đốt hương
trên các tế đàn ở nơi cao, trong các thành của Giu-đa và vùng ngoại ô
Giê-ru-sa-lem; vua cũng đã dẹp bỏ những kẻ đốt hương kính thần Ba-an, kính mặt
trời, mặt trăng, các chòm sao và toàn thể thiên binh. 6 Vua đưa cột
thờ ra khỏi Nhà Ðức Chúa, khỏi Giê-ru-sa-lem, đưa đến thung lũng Kít-rôn; vua
thiêu huỷ cột thờ đó trong thung lũng Kít-rôn, biến thành tro, rồi vứt tro ấy
vào mồ tập thể. 7 Vua phá huỷ những nơi chứa trai điếm trong Nhà Ðức
Chúa, nơi phụ nữ dệt khăn áo cho thần A-sê-ra.
8
Vua
đưa mọi tư tế từ các thành của Giu-đa về, và làm ô uế các tế đàn ở nơi cao, chỗ
các tư tế ấy đã đốt hương, từ Ghe-va đến Bơ-e Se-va. Vua phá huỷ các tế đàn ở
nơi cao kính các thần dê, chỗ vào Cửa Giơ-hô-su-a, -tên ông thị trưởng của
thành-, nằm phía trái khi người ta vào cửa thành. 9 Nhưng các tư tế
của những tế đàn ở nơi cao không được lên bàn thờ Ðức Chúa ở Giê-ru-sa-lem, mà
chỉ được ăn bánh không men ở giữa anh em của họ. 10 Vua làm ô uế
Tô-phét trong thung lũng Ben Hin-nôm, để đừng có ai làm lễ thiêu con trai, con
gái mình mà kính thần Mô-léc. 11 Vua dẹp bỏ những con ngựa mà các
vua Giu-đa đã dâng kính mặt trời, chỗ vào Nhà Ðức Chúa, gần phòng thái giám
Nơ-than Me-léc, trong dãy nhà phụ thuộc; vua cũng phóng hoả đốt xe của mặt trời.
12 Các tế đàn ở trên mái nhà, tại phòng trên của vua A-khát mà các
vua Giu-đa đã lập, cũng như các tế đàn mà vua Mơ-na-se đã lập trong hai sân Nhà
Ðức Chúa, thì vua đã phá huỷ, đập bể tại chỗ, rồi vứt các mảnh vụn xuống suối
Kít-rôn. 13 Vua làm ô uế các tế đàn ở nơi cao, đối diện với
Giê-ru-sa-lem, phía nam Núi Tàn Phá, đó là những tế đàn mà vua Sa-lô-môn, vua
Ít-ra-en, đã xây kính các thần: Át-tô-rét, đồ gớm ghiếc của dân Xi-đôn, Cơ-mốt,
đồ gớm ghiếc của Mô-áp, và Min-côm, đồ ghê tởm của con cái Am-mon. 14 Vua
đập tan các trụ đá, bổ các cột thờ và chất đầy xương người vào chỗ đó.
Việc
cải cách lan rộng tới vương quốc miền Bắc (2 Sb 34:6-7)
15
Vua
cũng phá huỷ tế đàn ở Bết Ên và tế đàn ở nơi cao mà vua Gia-róp-am, con ông
Nơ-vát, đã lập, - vua này đã lôi kéo Ít-ra-en phạm tội. Vua thiêu huỷ tế đàn ở
nơi cao, biến thành tro, và thiêu huỷ cột thờ.
16
Khi
quay lại, vua Giô-si-gia nhìn thấy những mồ mả tại đó, ở trên núi. Vua sai
người đi quật mả lấy xương cốt ra, đốt trên tế đàn. Như vậy, vua đã làm ô uế tế
đàn đó, theo lời của Ðức Chúa mà người của Thiên Chúa đã lớn tiếng loan báo,
ông đã lớn tiếng loan báo những điều ấy. 17 Vua hỏi: "Lăng mà
ta đang thấy đó là lăng nào vậy?" Các người trong thành thưa: "Ðó là
mộ người của Thiên Chúa đã từ Giu-đa đến và đã lớn tiếng loan báo những điều
ấy, những điều mà vua đã thực hiện để phá tế đàn Bết Ên. 18 Vua nói:
"Hãy để yên người ở đó; đừng ai đụng đến xương cốt của người." Người
ta đã để nguyên xương cốt của ông, cũng như xương cốt của ngôn sứ xuất thân từ
xứ Sa-ma-ri.
19
Vua
Giô-si-gia cũng dẹp mọi nhà cửa phụ thuộc các tế đàn ở nơi cao trong các thành
của Sa-ma-ri, do các vua Ít-ra-en dựng lên để trêu giận Ðức Chúa. Ðối với những
nơi đó, vua đã xử sự hệt như đối với Bết Ên. 20 Mọi tư tế của các tế
đàn ở nơi cao đang có mặt ở đó đã bị vua sát tế trên các tế đàn; vua đã thiêu
huỷ xương người trên đó, rồi trở về Giê-ru-sa-lem.
Cử
hành lễ Vượt Qua (2 Sb 35 :1,18-19)
21
Vua
truyền lệnh sau đây cho toàn dân: "Hãy cử hành lễ Vượt Qua kính Ðức Chúa,
Thiên Chúa của các ngươi, theo nghi thức ghi chép trong sách Giao Ước này.” 22
Người ta chưa bao giờ cử hành một lễ Vượt Qua nào như thế từ ngày các thủ
lãnh cai trị Ít-ra-en, cũng như suốt thời các vua Ít-ra-en và các vua Giu-đa. 23
Mãi đến năm thứ mười tám triều Giô-si-gia, người ta mới cử hành lễ Vượt
Qua kính Ðức Chúa như vậy tại Giê-ru-sa-lem.
Kết
luận về việc cải cách tôn giáo
24
Ngoài
ra, vua Giô-si-gia còn khử trừ các cô đồng và thầy bói, các tượng thần, các
ngẫu tượng và mọi đồ gớm ghiếc trông thấy ở xứ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, để thực
hiện những lời của Lề Luật chép trong sách mà tư tế Khin-ki-gia-hu đã tìm thấy
trong Nhà Ðức Chúa. 25 Trước vua, không có vua nào đã trở lại với
Ðức Chúa hết lòng, hết dạ và hết sức mình, theo đúng Luật Mô-sê, như vua; và
sau vua, cũng chẳng thấy xuất hiện vua nào được như vua.
26
Nhưng
Ðức Chúa không nguôi cơn thịnh nộ của Người, cơn thịnh nộ đã bừng lên chống lại
Giu-đa, vì những hành động của vua Mơ-na-se đã trêu giận Người. 27 Ðức
Chúa phán: "Ta cũng sẽ đẩy cả Giu-đa đi cho khuất nhan Ta, như Ta đã đẩy
Ít-ra-en đi; Ta sẽ từ bỏ Giê-ru-sa-lem, thành Ta đã chọn, cũng như Nhà mà Ta đã
nói: Danh Ta sẽ ngự ở đó."
Triều
vua Giô-si-gia chấm dứt (2Sb 35 :20-36 :1)
28
Các
truyện còn lại của vua Giô-si-gia, và mọi việc vua đã làm, đã chẳng được ghi
chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao?
29
Vào
thời vua Giô-si-gia, vua Ai-cập là Pha-ra-ô Nơ-khô lên gặp vua Át-sua bên bờ
sông Êu-phơ-rát. Vua Giô-si-gia đi đón vua Nơ-khô; nhưng vua Nơ-khô giết chết
vua Giô-si-gia ở Mơ-ghít-đô, khi vừa thấy vua này. 30 Các thuộc hạ
của vua này chở thi hài vua lên xe, rồi đưa từ Mơ-ghít-đô về Giê-ru-sa-lem và
chôn trong mộ của vua. Dân trong xứ chọn con vua Giô-si-gia là Giơ-hô-a-khát,
xức dầu tôn làm vua kế vị vua cha.
4.
Giê-Ru-Sa-Lem Bị Tàn Phá
Vua
Giơ-hô-a-khát cai trị Giu-đa (609) (2 Sb 36 :2-4)
31
Giơ-hô-a-khát
lên ngôi vua khi được hai mươi ba tuổi, và trị vì ba tháng ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ
vua tên là Kha-mu-tan, con gái ông Giếc-mơ-gia-hu; bà là người Líp-na. 32 Vua
đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa hệt như tổ tiên vua.
33
Pha-ra-ô
Nơ-khô xiềng vua lại ở Ríp-la, trong xứ Kha-mát, không cho vua trị vì ở
Giê-ru-sa-lem, và bắt xứ phải nộp ba ngàn ký bạc và ba mươi ký vàng. 34 Pha-ra-ô
Nơ-khô đặt con vua Giô-si-gia là En-gia-kim làm vua kế vị vua cha là
Giô-si-gia, và cho đổi tên là Giơ-hô-gia-kim. Pha-ra-ô bắt vua Giơ-hô-a-khát
đưa sang Ai-cập, và vua này chết tại đó.
35
Vua
Giơ-hô-gia-kim nộp vàng bạc cho Pha-ra-ô. Nhưng để có thể nộp số bạc theo lệnh
Pha-ra-ô, vua bắt dân trong xứ phải đóng thuế: vua đòi dân trong xứ, mỗi người
theo khả năng mình, phải góp vàng bạc để nộp cho Pha-ra-ô Nơ-khô.
Vua
Giơ-hô-gia-kim cai trị Giu-đa (609-598) (2 Sb 36 :5-8)
36
Giơ-hô-gia-kim
lên ngôi vua khi được hai mươi lăm tuổi, và trị vì mười một năm ở
Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Dơ-vi-đa, con gái ông Pơ-đa-gia; bà là người Ru-ma.
37 Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, hệt như tổ tiên vua.
Chương 24
1
Trong
thời vua Giơ-hô-gia-kim, vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-nô-xo tiến lên đánh vua
Giơ-hô-gia-kim; vua này phải chịu lệ thuộc trong vòng ba năm rồi lại nổi lên
chống vua Ba-by-lon. 2 Ðức Chúa sai những toán quân Can-đê, A-ram,
Mô-áp và những toán quân của con cái Am-mon đến hại vua Giơ-hô-gia-kim. Người
sai chúng đến tấn công Giu-đa để huỷ diệt xứ này, theo lời Ðức Chúa đã dùng các
ngôn sứ, tôi trung của Người mà phán. 3 Ðiều ấy đã xảy ra cho Giu-đa
hoàn toàn do mệnh lệnh của Ðức Chúa với mục đích đẩy Giu-đa đi cho khuất nhan
Người, vì các tội vua Mơ-na-se đã phạm, vì mọi việc vua đã làm, 4 và
cũng vì máu vô tội vua đã đổ làm cho Giê-ru-sa-lem ngập tràn máu vô tội, và Ðức
Chúa không muốn tha thứ.
5
Các
truyện còn lại của vua Giơ-hô-gia-kim và mọi việc vua làm đã chẳng được ghi
chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 6 Vua Giơ-hô-gia-kim đã an
nghỉ với tổ tiên, và con vua là Giơ-hô-gia-khin lên ngôi kế vị.
7