THÁNH LỄ TRỰC TUYẾN

BÀI VIẾT MỚI

Kinh Thánh Tân Ước và Cựu Ước Công Giáo

 Tin Mừng

Mát-thêu

Chương 1

I. GIÁNG SINH VÀ THỜI THƠ ẤU CỦA ĐỨC GIÊ-SU

Gia phả Đức Giê-su Ki-tô (Lc 3:23-38)

1 Đây là gia phả Đức Giê-su Ki-tô, con cháu vua Đa-vít, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham:

2 Ông Áp-ra-ham sinh I-xa-ác; I-xa-ác sinh Gia-cóp; Gia-cóp sinh Giu-đa và các anh em ông này; 3 Giu-đa ăn ở với Ta-ma sinh Pe-rét và De-rác; Pe-rét sinh Khét-xơ-ron; Khét-xơ-ron sinh A-ram; 4 A-ram sinh Am-mi-na-đáp; Am-mi-na-đáp sinh Nác-son; Nác-son sinh Xan-môn; 5 Xan-môn lấy Ra-kháp sinh Bô-át; Bô-át lấy Rút sinh Ô-vết; Ô-vết sinh Gie-sê; 6 ông Gie-sê sinh Đa-vít. 1 Vua Đa-vít lấy vợ ông U-ri-gia sinh Sa-lô-môn; 7 Sa-lô-môn sinh Rơ-kháp-am; Rơ-kháp-am sinh A-vi-gia; A-vi-gia sinh A-xa; 8 A-xa sinh Giơ-hô-sa-phát; Giơ-hô-sa-phát sinh Giô-ram; Giô-ram sinh Út-di-gia; 9 Út-di-gia sinh Gio-tham; Gio-tham sinh A-khát; A-khát sinh Khít-ki-gia; 10 Khít-ki-gia sinh Mơ-na-se; Mơ-na-se sinh A-môn; A-môn sinh Giô-si-gia; 11 Giô-si-gia sinh Giơ-khon-gia và các anh em vua này; kế đó là thời lưu đày ở Ba-by-lon.

12 Sau thời lưu đày ở Ba-by-lon, Giơ-khon-gia sinh San-ti-ên; San-ti-ên sinh Dơ-rúp-ba-ven; 13 Dơ-rúp-ba-ven sinh A-vi-hút; A-vi-hút sinh En-gia-kim; En-gia-kim sinh A-do; 14 A-do sinh Xa-đốc; Xa-đốc sinh A-khin; A-khin sinh Ê-li-hút; 15 Ê-li-hút sinh E-la-da; E-la-da sinh Mát-than; Mát-than sinh Gia-cóp; 16 Gia-cóp sinh Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô.

17 Như thế, tính chung lại thì: từ tổ phụ Áp-ra-ham đến vua Đa-vít, là mười bốn đời; từ vua Đa-vít đến thời lưu đày ở Ba-by-lon, là mười bốn đời; và từ thời lưu đày ở Ba-by-lon đến Đức Ki-tô, cũng là mười bốn đời.


Truyền tin cho ông Giu-se (Lc 2:1-7)

18 Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. 19 Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. 20 Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: ”Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. 21 Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” 22 Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: 23 Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” 24 Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. 25 Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su.

Chương 2

Các nhà chiêm tinh đến bái lạy Đức Giê-su Hài Nhi

1 Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, 2 và hỏi: ”Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” 3 Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. 4 Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. 5 Họ trả lời: ”Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: 6 “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.”

7 Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. 8 Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: ”Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” 9 Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. 10 Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. 11 Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. 12 Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.

Đức Giê-su trốn sang Ai-cập và các anh hài bị giết

13 Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giu-se rằng: ”Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!” 14 Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập. 15 Ông ở đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.

16 Bấy giờ vua Hê-rô-đê thấy mình bị các nhà chiêm tinh đánh lừa, thì đùng đùng nổi giận, nên sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh. 17 Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a: 18 “Ở Ra-ma, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Ra-khen khóc thương con mình và không chịu để cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa.

Từ Ai-cập về đất Ít-ra-en

19 Sau khi vua Hê-rô-đê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giu-se bên Ai-cập, 20 báo mộng cho ông rằng: ”Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi.” 21 Ông liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en. 22 Nhưng vì nghe biết Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Ga-li-lê, 23 và đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi là người Na-da-rét.

Chương 3

II. CÔNG BỐ NƯỚC TRỜI

1. PHẦN KÝ THUẬT

Ông Gio-an Tẩy Giả rao giảng (Mc 1:1-8; Lc 3:1-18; Gi 1:19-28)

1 Hồi ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng: 2 “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” 3 Ông chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.

4 Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. 5 Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông. 6 Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan. 7 Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: ”Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? 8 Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. 9 Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: ”Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham.” Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham. 10 Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. 11 Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. 12 Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.”

Đức Giê-su chịu phép rửa (Mc 1:9-11; Lc 3:21-22)

13 Bấy giờ, Đức Giê-su từ miền Ga-li-lê đến sông Gio-đan, gặp ông Gio-an để xin ông làm phép rửa cho mình. 14 Nhưng ông một mực can Người và nói: ”Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” 15 Nhưng Đức Giê-su trả lời: ”Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính.” Bấy giờ ông Gio-an mới chiều theo ý Người.

16 Khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. 17 Và có tiếng từ trời phán: ”Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.”

Chương 4

Đức Giê-su chịu cám dỗ (Mc 1:12-13; Lc 4:1-13)

1 Bấy giờ Đức Giê-su được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ. 2 Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói. 3 Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: ”Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!” 4 Nhưng Người đáp: ”Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.”

5 Sau đó, quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền thờ, 6 rồi nói với Người: ”Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.”

7 Đức Giê-su đáp: ”Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.”

8 Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, 9 và bảo rằng: ”Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi.” 10 Đức Giê-su liền nói: ”Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.”

11 Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi, và có các sứ thần tiến đến hầu hạ Người.

Đức Giê-su lánh qua miền Ga-li-lê (Mc 1:14-15; Lc 4:14-15)

12 Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gio-an đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê. 13 Rồi Người bỏ Na-da-rét, đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê, thuộc địa hạt Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, 14 để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a nói: 15 Này đất Dơ-vu-lun, và đất Náp-ta-li, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Gio-đan, hỡi Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại! 16 Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.

17 Từ lúc đó, Đức Giê-su bắt đầu rao giảng và nói rằng: ”Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.”

Đức Giê-su kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (Mc 1:16-20; Lc 5:1-11)

18 Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy hai anh em kia, là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, và người anh là ông An-rê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. 19 Người bảo các ông: ”Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” 20 Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.

21 Đi một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dê-bê-đê, là ông Gia-cô-bê và người em là ông Gio-an. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dê-bê-đê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. 22 Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người.

Đức Giê-su giảng dạy và chữa bệnh (Lc 6:17-19)

23 Thế rồi Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân. 24 Danh tiếng Người đồn ra khắp xứ Xy-ri. Thiên hạ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người đã chữa họ. 25 Từ miền Ga-li-lê, vùng Thập Tỉnh, thành Giê-ru-sa-lem, miền Giu-đê và vùng bên kia sông Gio-đan, dân chúng lũ lượt kéo đến đi theo Người.

Chương 5

2. BÀI GIẢNG TRÊN NÚI

Tám mối Phúc (Lc 6:20-23)

1 Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. 2 Người mở miệng dạy họ rằng:

3 “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,

vì Nước Trời là của họ.

4 Phúc thay ai hiền lành,

vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.

5 Phúc thay ai sầu khổ,

vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.

6 Phúc thay ai khát khao nên người công chính,

vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.

7 Phúc thay ai xót thương người,

vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.

8 Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch,

vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.

9 Phúc thay ai xây dựng hoà bình,

vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

10 Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính,

vì Nước Trời là của họ.

11 Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại

và vu khống đủ điều xấu xa.

12 Anh em hãy vui mừng hớn hở,

vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.

Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế.

Muối cho đời và ánh sáng cho trần gian (Mc 9:50; Lc 14:34-35)

13 “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.

14 “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. 15 Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. 16 Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.

Đức Giê-su kiện toàn Luật Mô-sê

17 “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. 18 Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. 19 Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời.

Đức công chính của người môn đệ

20 “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.

Đừng giận ghét (Lc 12:57-59)

21 “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. 22 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt. 23 Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, 24 thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. 25 Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. 26 Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng.

Chớ ngoại tình

27 “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. 28 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. 29 Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. 30 Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục.

Đừng ly dị (Mt 19:9; Mc 10:11-12; Lc 16:18)

31 “Luật còn dạy rằng: Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. 32 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình.

Đừng thề thốt

33 “Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. 34 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. 35 Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giê-ru-sa-lem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. 36 Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. 37 Nhưng hễ”có” thì phải nói”có”,”không” thì phải nói”không” . Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.

Chớ trả thù (Lc 62:9-30)

38 “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. 39 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. 40 Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. 41 Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. 42 Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt

Phải yêu kẻ thù (Lc 6:27-28,32-36 )

43 "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. 44 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. 45 Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. 46 Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? 47 Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? 48 Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.

Chương 6

Bố thí cách kín đáo

1 “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. 2 Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. 3 Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, 4 để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.

Cầu nguyện nơi kín đáo

5 “Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. 6 Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.

Kinh Lạy Cha” (Lc 11:2-4)

7 “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. 8 Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin.

9 “Vậy, anh em hãy cầu nguyện như thế này:

“ Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời,

xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển,

10 triều đại Cha mau đến,

ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

11 Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày;

12 xin tha tội cho chúng con

như chúng con cũng tha

cho những người có lỗi với chúng con;

13 xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ,

nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.

14 “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. 15 Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em.

Ăn chay cách kín đáo

16 “Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. 17 Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, 18 để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.

Của cải trên trời (Lc 12:33-34)

19 “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. 20 Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. 21 Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó.

Đèn của thân thể (Lc 11:34-36)

22 “Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt anh sáng, thì toàn thân anh sẽ sáng. 23 Còn nếu mắt anh xấu, thì toàn thân anh sẽ tối. Vậy nếu ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối, thì tối biết chừng nào!

Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của (Lc 16, 13)

24 “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.

Tin tưởng vào Chúa quan phòng (Lc 12:22-31)

25 “Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? 26 Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? 27 Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? 28 Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; 29 thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. 30 Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! 31 Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? 32 Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. 33 Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. 34 Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.

Chương 7

Đừng xét đoán (Lc 6:37-38, 41-42)

1 “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, 2 vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em. 3 Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? 4 Sao anh lại nói với người anh em: ”Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn”, trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh? 5 Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.

Đừng quăng của thánh cho chó

6 “Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em.

Cứ xin thì sẽ được (Lc 11:9-13)

7 “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. 8 Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho. 9 Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? 10 Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? 11 Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?

Khuôn vàng thước ngọc (Lc 6:31)

12 “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó.

Hai con đường (Lc 13:24)

13 “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. 14 Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.

Cây nào trái ấy (Lc 6:43-44)

15 “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. 16 Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Ở bụi gai, làm gì có nho mà hái? Trên cây găng, làm gì có vả mà bẻ? 17 Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. 18 Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt. 19 Cây nào không sinh quả tốt, thì bị chặt đi và quăng vào lửa. 20 Vậy, cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai.

Môn đệ chân chính (Lc 6:47-49; 13:25-27)

21 “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ”Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. 22 Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ”Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?” 23 Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!

24 “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. 25 Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. 26 Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. 27 Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành.”

Cách giảng dạy của Đức Giê-su

28 Khi Đức Giê-su giảng dạy những điều ấy xong, dân chúng sửng sốt về lời giảng dạy của Người, 29 vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ.

Chương 8

III. RAO GIẢNG NƯỚC TRỜI

1. PHẦN KÝ THUẬT

Đức Giê-su chữa người bị phong hủi (Mc 1:40-45; Lc 5:12-14)

1 Khi Đức Giê-su ở trên núi xuống, đám đông lũ lượt đi theo Người. 2 Bỗng có một người phong hủi tiến lại, bái lạy Người và nói: ”Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” 3 Người giơ tay đụng vào anh và bảo: ”Tôi muốn, anh sạch đi.” Lập tức, anh được sạch bệnh phong hủi. 4 Rồi Đức Giê-su bảo anh: ”Coi chừng, đừng nói với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế và dâng của lễ, như ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.”

Đức Giê-su chữa đầy tớ của một đại đội trưởng (Lc 7:1-10)

5 Khi Đức Giê-su vào thành Ca-phác-na-um, có một viên đại đội trưởng đến gặp Người và nài xin: 6 “Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm.” 7 Người nói: ”Chính tôi sẽ đến chữa nó.” Viên đại đội trưởng đáp: 8 “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh. 9 Vì tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: ”Đi!”, là nó đi, bảo người kia: ”Đến!”, là nó đến, và bảo người nô lệ của tôi: ”Làm cái này!”, là nó làm.” 10 Nghe vậy, Đức Giê-su ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: ”Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một người Ít-ra-en nào có lòng tin như thế. 11 Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. 12 Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.” 13 Rồi Đức Giê-su nói với viên đại đội trưởng rằng: ”Ông cứ về đi! Ông tin thế nào thì được như vậy!” Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh.

Đức Giê-su chữa bà mẹ vợ ông Phê-rô (Mc 1:29-31; Lc 4:38-39)

14 Đức Giê-su đến nhà ông Phê-rô, thấy bà mẹ vợ ông đang nằm liệt và lên cơn sốt. 15 Người đụng vào tay bà, cơn sốt dứt ngay và bà chỗi dậy phục vụ Người.

Đức Giê-su chữa lành mọi kẻ ốm đau (Mc 1:32-34; Lc 4:40-41)

16 Chiều đến, người ta đem nhiều kẻ bị quỷ ám tới gặp Đức Giê-su. Người nói một lời là trừ được các thần dữ và Người chữa lành mọi kẻ ốm đau, 17 để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a: Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta.

Người môn đệ phải bỏ mọi sự (Lc 9:57-62)

18 Thấy xung quanh có đám đông, Đức Giê-su ra lệnh sang bờ bên kia. 19 Một kinh sư tiến đến thưa Người rằng: ”Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” 20 Đức Giê-su trả lời: ”Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”

21 Một môn đệ khác thưa với Người: ”Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã.” 22 Đức Giê-su bảo: ”Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ.”

Đức Giê-su dẹp yên biển động (Mc 4:35-41; Lc 8:22-25)

23 Đức Giê-su xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người. 24 Bỗng nhiên biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền, nhưng Người vẫn ngủ. 25 Các ông lại gần đánh thức Người và nói: ”Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất!” 26 Đức Giê-su nói: ”Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!” Rồi Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ.

27 Người ta ngạc nhiên và nói: ”Ông này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”

Hai người bị quỷ ám (Mc 5:1-20; Lc 8:26-39)

28 Khi Đức Giê-su sang bờ bên kia, và đến miền Ga-đa-ra, thì có hai người bị quỷ ám từ trong đám mồ mả ra đón Người; chúng rất dữ tợn, đến nỗi không ai dám qua lại lối ấy. 29 Chúng la lên rằng: ”Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện chúng tôi can gì đến ông? Chưa tới lúc mà ông đã đến đây làm khổ chúng tôi sao?” 30 Khi ấy, ở đàng xa, có một bầy heo rất đông đang ăn. 31 Bọn quỷ nài xin Người rằng: ”Nếu ông đuổi chúng tôi, thì xin sai chúng tôi nhập vào bầy heo kia.” 32 Người bảo: ”Đi đi!” Chúng liền ra khỏi hai người đó và nhập vào bầy heo. Thế là tất cả bầy heo từ trên sườn núi lao xuống biển và chết đuối hết. 33 Các người chăn heo chạy trốn vào thành, kể lại mọi sự, và những gì đã xảy ra cho những người bị quỷ ám. 34 Bấy giờ, cả thành ra đón Đức Giê-su, và khi gặp Người, họ xin Người rời khỏi vùng đất của họ.

Chương 9

Đức Giê-su chữa người bại liệt (Mc 2:1-12; Lc 5:17-26)

1 Đức Giê-su xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình. 2 Người ta liền khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: ”Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!” 3 Có mấy kinh sư nghĩ bụng rằng: ”Ông này nói phạm thượng.” 4 Nhưng Đức Giê-su biết ý nghĩ của họ, liền nói: ”Sao các ông lại nghĩ xấu trong bụng như vậy? 5 Trong hai điều: một là bảo: ”Con đã được tha tội rồi”, hai là bảo: ”Đứng dậy mà đi”, điều nào dễ hơn? 6 Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội- bấy giờ Đức Giê-su bảo người bại liệt: ”Đứng dậy, vác giường đi về nhà!” 7 Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà. 8 Thấy vậy, dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người được quyền năng như thế.

Đức Giê-su kêu gọi ông Mát-thêu (Mc 2:13-14; Lc 5:27-28)

9 Bỏ nơi ấy, Đức Giê-su đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Mát-thêu đang ngồi tại trạm. Người bảo ông: ”Anh hãy theo tôi!” Ông đứng dậy đi theo Người.

Đức Giê-su dùng bữa với những người tội lỗi (Mc 2:15-17; Lc 5:29-32)

10 Khi Đức Giê-su đang dùng bữa tại nhà ông ấy, có nhiều người thu thuế và tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ. 11 Thấy vậy, những người Pha-ri-sêu nói với các môn đệ Người rằng: ”Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?” 12 Nghe thấy thế, Đức Giê-su nói: ”Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. 13 Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: ”Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.”

Tranh luận về việc ăn chay (Mc 2:18-22; Lc 5:33-39)

14 Bấy giờ, các môn đệ ông Gio-an tiến lại hỏi Đức Giê-su rằng: ”Tại sao chúng tôi và các người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?” 15 Đức Giê-su trả lời: ”Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay. 16 Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì miếng vá mới sẽ co lại, khiến áo rách lại càng rách thêm. 17 Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới: thế là giữ được cả hai.”

Đức Giê-su chữa người đàn bà bị băng huyết và cho con gái một vị thủ lãnh sống lại (Mc 5:21-43; Lc 8:40-56)

18 Người còn đang nói với họ như thế, thì bỗng một vị thủ lãnh đến gần bái lạy Người và nói: ”Con gái tôi vừa mới chết. Nhưng xin Ngài đến đặt tay lên cháu, là nó sẽ sống.” 19 Đức Giê-su đứng dậy đi theo ông ấy, và các môn đệ cũng đi với Người.

20 Bỗng một người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm tiến đến phía sau Người và sờ vào tua áo của Người, 21 vì bà nghĩ bụng: ”Tôi chỉ cần sờ được vào áo của Người thôi là sẽ được cứu!” 22 Đức Giê-su quay lại thấy bà thì nói: ”Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con.” Và ngay từ giờ ấy, bà được cứu chữa.

23 Đức Giê-su đến nhà viên thủ lãnh; thấy phường kèn và đám đông xôn xao, Người nói: 24 “Lui ra! Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” Nhưng họ chế nhạo Người. 25 Khi đám đông bị đuổi ra rồi, thì Người đi vào, cầm lấy tay con bé, nó liền trỗi dậy. 26 Và tin ấy đồn ra khắp cả vùng.

Đức Giê-su chữa hai người mù

27 Đang khi Đức Giê-su ra khỏi nơi đó, thì có hai người mù đi theo kêu lên rằng: ”Lạy Con Vua Đa-vít, xin thương xót chúng tôi!” 28 Khi Đức Giê-su về tới nhà, thì hai người mù ấy tiến lại gần. Người nói với họ: ”Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?” Họ đáp: ”Thưa Ngài, chúng tôi tin.” 29 Bấy giờ Người sờ vào mắt họ và nói: ”Các anh tin thế nào thì được như vậy.” 30 Mắt họ liền mở ra. Người nghiêm giọng bảo họ: ”Coi chừng, đừng cho ai biết!” 31 Nhưng vừa ra khỏi đó, họ đã nói về Người trong khắp cả vùng.

Đức Giê-su chữa người câm bị quỷ ám

32 Họ vừa đi ra thì người ta đem đến cho Đức Giê-su một người câm bị quỷ ám. 33 Khi quỷ bị trục xuất rồi, thì người câm nói được. Dân chúng kinh ngạc, nói rằng: ”Ở Ít-ra-en, chưa hề thấy thế bao giờ!” 34 Nhưng người Pha-ri-sêu lại bảo: ”Ông ấy dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ.”

Đức Giê-su thương dân chúng lầm than

35 Đức Giê-su đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.

36 Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. 37 Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng: Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. 38 Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.”

Chương 10

2. BÀI GIẢNG VỀ SỨ MỆNH TRUYỀN GIÁO

Đức Giê-su sai mười hai Tông Đồ đi giảng (Mc 3:13-19; 6:7-13; Lc 6:12-16; 9:1-6)

1 Rồi Đức Giê-su gọi mười hai môn đệ lại, để ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.

2 Sau đây là tên của mười hai Tông Đồ: đứng đầu là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê và ông Gio-an, em của ông; 3 ông Phi-líp-phê và ông Ba-tô-lô-mê-ô; ông Tô-ma và ông Mát-thêu người thu thuế; ông Gia-cô-bê con ông An-phê và ông Ta-đê-ô; 4 ông Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, là chính kẻ nộp Người. 5 Đức Giê-su sai mười hai ông ấy đi và chỉ thị rằng:

6 Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en. 7 Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. 8 Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy. 9 Đừng kiếm vàng bạc hay tiền giắt lưng. 10 Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn.

11 “Khi anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi xem ở đó ai là người xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi. 12 Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. 13 Nếu nhà ấy xứng đáng, thì-bình an của anh em sẽ đến với họ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em. 14 Nếu người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi nhà hay thành ấy, anh em hãy giũ bụi chân lại. 15 Thầy bảo thật anh em, trong Ngày phán xét, đất Xơ-đôm và Gô-mô-ra còn được xử khoan hồng hơn thành đó. 16 Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu.

Đức Giê-su tiên báo những cuộc bách hại (Mc 13:9-13; Lc 21:12-19).

17 “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. 18 Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết. 19 Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: 20 thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.

21 “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. 22 Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.

23 “Khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật anh em: anh em chưa đi hết các thành của Ít-ra-en, thì Con Người đã đến.

24 “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. 25 Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bê-en-dê-bun, huống chi là người nhà.

Hãy nói giữa ban ngày, đừng có sợ (Lc 12:2-9)

26 “Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. 27 Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng.

28 “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục. 29 Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. 30 Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. 31 Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.

32 “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. 33 Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.

Đức Giê-su đến để gây chia rẽ (Lc 12:51-53)

34 “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. 35 Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. 36 Kẻ thù của mình chính là người nhà.

Từ bỏ mình để theo Đức Giê-su (Lc 14:26-27)

37 “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. 38 Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. 39 Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.

Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy (Mc 9, 41)

40 “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.

41 “Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính.

42 “Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”

Chương 11

IV. MẦU NHIỆM NƯỚC TRỜI

1. PHẦN KÝ THUẬT

Nhập đề

1 Ra chỉ thị cho mười hai môn đệ xong, Đức Giê-su rời chỗ đó, đi dạy dỗ và rao giảng trong các thành thị trong miền.

Câu hỏi của ông Gio-an Tẩy Giả và câu trả lời của Đức Giê-su (Lc 7, 18-28)

2 Ông Gio-an lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: 3 “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” 4 Đức Giê-su trả lời: ”Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: 5 Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, 6 và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”

7 Họ đi rồi, Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về ông Gio-an rằng: ”Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? 8 Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. 9 Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. 10 Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.

11 “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông. 12 Từ thời ông Gio-an Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được. 13 Cho đến ông Gio-an, tất cả các ngôn sứ cũng như Lề Luật đều đã nói tiên tri. 14 Và nếu anh em chịu tin lời tôi, thì ông Gio-an chính là Ê-li-a, người phải đến. 15 Ai có tai thì nghe.

Đức Giê-su phán đoán về thế hệ của Người (Lc 7:31-35)

16 “Tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác, 17 và nói:

“ Tụi tôi thổi sáo cho các anh,

mà các anh không nhảy múa;

tụi tôi hát bài đưa đám,

mà các anh không đấm ngực khóc than.”

18 Thật vậy, ông Gio-an đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: ”Ông ta bị quỷ ám.” 19 Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: ”Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.” Nhưng đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động.”

Khốn cho những thành đã chứng kiến các phép lạ mà không sám hối (Lc 10, 13-15)

20 Bấy giờ Người bắt đầu quở trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người làm mà không sám hối:

21 “Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. 22 Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xi-đôn còn được xử khoan hồng hơn các ngươi. 23 Còn ngươi nữa, hỡi Ca-phác-na-um, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi ngươi mà được làm tại Xơ-đôm, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. 24 Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, đất Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn các ngươi.”

Chúa Cha và người Con (Lc 10:21-22)

25 Vào lúc ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói: ”Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. 26 Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.

27 “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.

Hãy mang lấy ách của tôi

28 “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. 29 Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. 30 Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.”

Chương 12

Môn đệ bứt lúa ăn ngày sa-bát (Mc 2:23-28; Lc 6:1-5)

1 Hôm ấy, vào ngày sa-bát, Đức Giê-su đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ thấy đói và bắt đầu bứt lúa ăn. 2 Người Pha-ri-sêu thấy vậy, mới nói với Đức Giê-su: ”Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm ngày sa-bát!” 3 Người đáp: ”Các ông chưa đọc trong Sách sao? Ông Đa-vít đã làm gì, khi ông và thuộc hạ đói bụng? 4 Ông vào nhà Thiên Chúa, và đã cùng thuộc hạ ăn bánh tiến. Thứ bánh này, họ không được phép ăn, chỉ có tư tế mới được ăn mà thôi. 5 Hay các ông chưa đọc trong sách Luật rằng ngày sa-bát, các tư tế trong Đền Thờ vi phạm luật sa-bát mà không mắc tội đó sao? 6 Tôi nói cho các ông hay: ở đây còn lớn hơn Đền Thờ nữa. -7 Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông đã chẳng lên án kẻ vô tội. 8 Quả thế, Con Người làm chủ ngày sa-bát.”

Đức Giê-su chữa người bị bại tay trong ngày sa-bát (Mc 3:1-6; Lc 6:6-11)

9 Đức Giê-su bỏ đó mà đi vào hội đường của họ. 10 Tại đây, có người bị bại một tay. Người ta hỏi Đức Giê-su rằng: ”Có được phép chữa bệnh ngày sa-bát không?” Họ hỏi thế là để tố cáo Người. 11 Người đáp: ”Ai trong các ông có một con chiên độc nhất bị sa hố ngày sa-bát, lại không nắm lấy nó và kéo lên sao? 12 Mà người thì quý hơn chiên biết mấy! Vì thế, ngày sa-bát được phép làm điều lành.” 13 Rồi Đức Giê-su bảo người bại tay: ”Anh giơ tay ra!” Người ấy giơ ra và tay liền trở lại bình thường lành mạnh như tay kia. 14 Ra khỏi đó, nhóm Pha-ri-sêu bàn bạc để tìm cách giết Đức Giê-su.

Đức Giê-su, người Tôi Trung của Thiên Chúa

15 Biết vậy, Đức Giê-su lánh khỏi nơi đó. Dân chúng theo Người đông đảo và Người chữa lành hết. 16 Người còn cấm họ không được tiết lộ Người là ai. 17 Như thế là để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a đã nói: 18 “Đây là người Tôi Trung Ta đã tuyển chọn, đây là người Ta yêu dấu: Ta hài lòng về Người. Ta cho Thần Khí Ta ngự trên Người. Người sẽ loan báo công lý trước muôn dân. 19 Người sẽ không cãi vã, không kêu to, chẳng ai nghe thấy Người lên tiếng giữa phố phường. 20 Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Người đưa công lý đến toàn thắng, 21 và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Người.

Đức Giê-su và quỷ vương Bê-en-dê-bun (Mc 3:20-30; Lc 11:14-23)

22 Bấy giờ họ đem đến cho Đức Giê-su một người bị quỷ ám vừa mù lại vừa câm. Người chữa anh ta, khiến anh nói và thấy được. 23 Tất cả dân chúng đều sửng sốt và nói: ”Ông này chẳng phải là Con vua Đa-vít sao?” 24 Nghe vậy, những người Pha-ri-sêu nói rằng: ”Ông này trừ được quỷ chỉ là nhờ dựa thế quỷ vương Bê-en-dê-bun.”

25 Biết ý nghĩ của họ, Đức Giê-su nói: ”Bất cứ nước nào tự chia rẽ, thì sẽ điêu tàn. Bất cứ thành nào hay nhà nào tự chia rẽ, thì sẽ không tồn tại. 26 Nếu Xa-tan trừ Xa-tan, thì Xa-tan tự chia rẽ: nước nó tồn tại sao được? 27 Nếu tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ, thì đệ tử các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy, chính họ sẽ xét xử các ông. 28 Còn nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.

29 “Làm sao người ta có thể vào nhà một kẻ mạnh và cướp của được, nếu không trói kẻ mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó?

30 “Ai không đi với tôi, là chống lại tôi; và ai không cùng tôi thu góp, là phân tán. 31 Vì thế, tôi nói cho các ông hay: mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. 32 Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau.

Lòng có đầy, miệng mới nói ra (Lc 6:43-45)

33 “Cây mà tốt thì quả cũng tốt; cây mà sâu thì quả cũng sâu, vì xem quả thì biết cây. 34 Loài rắn độc kia, xấu như các người, thì làm sao nói điều tốt được? Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra. 35 Người tốt thì rút cái tốt từ kho tàng tốt của mình; kẻ xấu thì rút cái xấu từ kho tàng xấu của mình. 36 Tôi nói cho các người hay: đến Ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lời về mọi điều vô ích mình đã nói. 37 Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án; và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án.”

Dấu lạ ngôn sứ Giô-na (Mc 8:11-12; Lc 11:29-32)

38 Bấy giờ có mấy kinh sư và mấy người Pha-ri-sêu nói với Đức Giê-su rằng: ”Thưa Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ.” 39 Người đáp: ”Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ngôn sứ Giô-na. 40 Quả thật, ông Giô-na đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy. 41 Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa. 42 Trong cuộc phán xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với thế hệ này, và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-môn nữa.

Quỷ phản công (Lc 11:24-26)

43 “Khi thần ô uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi mà tìm không ra. 44 Bấy giờ nó nói: ”Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi.” Khi đến nơi, nó thấy nhà để trống, lại được quét tước, trang hoàng hẳn hoi. 45 Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc, tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước. Thế hệ gian ác này rồi cũng sẽ bị như vậy.”

Ai thuộc gia đình của Đức Giê-su? (Mc 3:31-35; Lc 8:19-21)

46 Người còn đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm cách nói chuyện với Người. 47 Có kẻ thưa Người rằng: ”Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy.” 48 Người bảo kẻ ấy rằng: ”Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” 49 Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói: ”Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. 50 Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi.”

Chương 13

2. BÀI GIẢNG BẰNG DỤ NGÔN

Nhập đề (Mc 4:1-2; Lc 8:4)

1 Hôm ấy, Đức Giê-su từ trong nhà đi ra ngồi ở ven Biển Hồ. 2 Dân chúng tụ họp bên Người rất đông, nên Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng thì đứng trên bờ. 3 Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều.

Dụ ngôn người gieo giống (Mc 4:3-9; Lc 8:5-8)

4 Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. 5 Có những hạt rơi trên nơi sỏi đá, chỗ đất không có nhiều; nó mọc ngay, vì đất không sâu; 6 nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. 7 Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt. 8 Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục. 9 Ai có tai thì nghe.”

Tại sao Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói? (Mc 4:10-12; Lc 8, 9-10)

10 Các môn đệ đến gần hỏi Đức Giê-su rằng: ”Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?” 11 Người đáp: ”Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. 12 Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất. 13 Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu. 14 Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ I-sai-a, rằng: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; 15 vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành.

16 “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe. 17 Quả thế, Thầy bảo thật anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.

Giải nghĩa dụ ngôn người gieo giống (Mc 4:13-20; Lc 8:11-15)

18 “Vậy anh em hãy nghe dụ ngôn người gieo giống. 19 Hễ ai nghe lời rao giảng Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy: đó là kẻ đã được gieo bên vệ đường. 20 Còn kẻ được gieo trên nơi sỏi đá, đó là kẻ nghe Lời và liền vui vẻ đón nhận. 21 Nhưng nó không đâm rễ mà là kẻ nhất thời: khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, nó vấp ngã ngay. 22 Còn kẻ được gieo vào bụi gai, đó là kẻ nghe Lời, nhưng nỗi lo lắng sự đời, và bả vinh hoa phú quý bóp nghẹt, khiến Lời không sinh hoa kết quả gì. 23 Còn kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục.”

Dụ ngôn cỏ lùng

24 Đức Giê-su trình bày cho dân chúng nghe một dụ ngôn khác: ”Nước Trời ví như chuyện người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. 25 Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi mất. 26 Khi lúa mọc lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng xuất hiện. 27 Đầy tớ mới đến thưa chủ nhà rằng: ”Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?” Ông đáp: ”Kẻ thù đã làm đó!” Đầy tớ nói: ”Vậy ông có muốn chúng tôi ra đi gom lại không?” 29 Ông đáp: ”Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. 30 Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi.”

Dụ ngôn hạt cải (Mc 4:30-32; Lc 13:18-19)

31 Đức Giê-su còn trình bày cho họ nghe một dụ ngôn khác. Người nói: ”Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. 32 Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được.”

Dụ ngôn men trong bột (Lc 13:20-21)

33 Người còn kể cho họ một dụ ngôn khác: ”Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men.”

Tại sao Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói? (Mc 4:33-34)

34 Tất cả các điều ấy, Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói với đám đông; và Người không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn, 35 hầu ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ: Mở miệng ra, tôi sẽ kể dụ ngôn, công bố những điều được giữ kín từ tạo thiên lập địa.

Giải nghĩa dụ ngôn cỏ lùng

36 Bấy giờ, Đức Giê-su bỏ đám đông mà về nhà. Các môn đệ lại gần Người và thưa rằng: ”Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe.” 37 Người đáp: ”Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. 38 Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái Ác Thần. 39 Kẻ thù đã gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. 40 Vậy, như người ta nhặt cỏ lùng rồi lấy lửa đốt đi thế nào, thì đến ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy. 41 Con Người sẽ sai các thiên thần của Người tập trung mọi kẻ làm gương mù gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác, mà tống ra khỏi Nước của Người, 42 rồi quăng chúng vào lò lửa; ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng. 43 Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ. Ai có tai thì nghe.

Dụ ngôn kho báu và ngọc quý

44 “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.

45 “Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. 46 Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.

Dụ ngôn chiếc lưới

47 “Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. 48 Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. 49 Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, 50 rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.

Kết thúc

51 “Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?” Họ đáp: ”Thưa hiểu.” 52 Người bảo họ: ”Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ.”

V. GIÁO HỘI, BƯỚC ĐẦU CỦA NƯỚC TRỜI

1. PHẦN KÝ THUẬT

Đức Giê-su về thăm Na-da-rét (Mc 6:1-6; Lc 4:16-30)

53 Khi Đức Giê-su kể các dụ ngôn ấy xong, Người đi khỏi nơi đó. 54 Người về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói: ”Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? 55 Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao? 56 Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế?” 57 Và họ vấp ngã vì Người. Nhưng Đức Giê-su bảo họ: ”Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi.” 58 Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin.

Chương 14

Vua Hê-rô-đê và Đức Giê-su (Mc 6:14-16; Lc 9:7-9)

1 Thời ấy, tiểu vương Hê-rô-đê nghe danh tiếng Đức Giê-su, 2 thì nói với những kẻ hầu cận rằng: ”Đó chính là ông Gio-an Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ.”

Ông Gio-an Tẩy Giả bị chém đầu (Mc 6:17-29)

3 Số là vua Hê-rô-đê đã bắt trói ông Gio-an và tống ngục vì bà Hê-rô-đi-a, vợ ông Phi-líp-phê, anh của nhà vua. 4 Ông Gio-an có nói với vua: ”Ngài không được phép lấy bà ấy.” 5 Vua muốn giết ông Gio-an, nhưng lại sợ dân chúng, vì họ coi ông là ngôn sứ. 6 Vậy, nhân ngày sinh nhật của vua Hê-rô-đê, con gái bà Hê-rô-đi-a đã biểu diễn một điệu vũ trước mặt quan khách, làm cho nhà vua vui thích. 7 Bởi đó, vua thề là hễ cô xin gì, vua cũng ban cho. 8 Nghe lời mẹ xui bảo, cô thưa rằng: ”Xin ngài ban cho con, ngay tại chỗ, cái đầu ông Gio-an Tẩy Giả đặt trên mâm.” 9 Nhà vua lấy làm buồn, nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên truyền lệnh ban cho cô. 10 Vua sai người vào ngục chặt đầu ông Gio-an. 11 Người ta đặt đầu ông trên mâm, mang về trao cho cô, và cô ta đem đến cho mẹ. 12 Môn đệ ông đến lấy thi hài ông đem đi mai táng, rồi đi báo cho Đức Giê-su.

Đức Giê-su hoá bánh ra nhiều lần thứ nhất (Mc 6:30-44; Lc 9:10-17; Ga 6:1-14)

13 Nghe tin ấy, Đức Giê-su lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy, đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người. 14 Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ.

15 Chiều đến, các môn đệ lại gần thưa với Người: ”Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn.” 16 Đức Giê-su bảo: ”Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.” 17 Các ông đáp: ”Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!” 18 Người bảo: ”Đem lại đây cho Thầy!” 19 Rồi sau đó, Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho dân chúng. 20 Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. 21 Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.

Đức Giê-su đi trên mặt nước (Mc 6:45-52; Ga 6:16-21)

22 Đức Giê-su liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. 23 Giải tán họ xong, Người lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình. 24 Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió. 25 Vào khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. 26 Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: ”Ma đấy!”, và sợ hãi la lên. 27 Đức Giê-su liền bảo các ông: ”Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” 28 Ông Phê-rô liền thưa với Người: ”Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.” 29 Đức Giê-su bảo ông: ”Cứ đến!” Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giê-su. 30 Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: ”Thưa Ngài, xin cứu con với!” 31 Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông và nói: ”Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” 32 Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. 33 Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: ”Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!”

Đức Giê-su chữa nhiều người đau ốm tại Ghen-nê-xa-rét (Mc 6:53-56)

34 Khi qua biển rồi, thầy trò lên đất liền, vào Ghen-nê-xa-rét. 35 Dân địa phương nhận ra Đức Giê-su, liền tung tin ra khắp vùng, và người ta đem tất cả những kẻ đau ốm đến với Người. 36 Họ nài xin Người cho họ chỉ sờ vào tua áo của Người thôi, và ai đã sờ vào thì đều được khỏi.

Chương 15

Tranh luận về truyền thống (Mc 7:1-13)

1 Bấy giờ có mấy người Pha-ri-sêu và mấy kinh sư từ Giê-ru-sa-lem đến gặp Đức Giê-su và nói rằng: 2 “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?” 3 Người trả lời: ”Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa? 4 Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. 5 Còn các ông, các ông lại bảo: ”Ai nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, 6 thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa” . Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa. 7 Những kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng: 8 “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. 9 Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.

Cái gì làm cho con người ra ô uế? (Mc 7:14-23)

10 Sau đó, Đức Giê-su gọi đám đông lại mà bảo: ”Hãy nghe và hiểu cho rõ: 11 Không phải cái vào miệng làm cho con người ra ô uế, nhưng cái từ miệng xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế.”

12 Bấy giờ các môn đệ đến gần Đức Giê-su mà thưa rằng: ”Thầy có biết không? Những người Pha-ri-sêu đã vấp phạm khi nghe Thầy nói lời ấy.” 13 Đức Giê-su đáp: ”Cây nào mà Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời, đã không trồng, thì sẽ bị nhổ đi. 14 Cứ để mặc họ. Họ là những người mù dắt người mù. Mù mà lại dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố.”

15 Ông Phê-rô thưa với Người: ”Xin Thầy giải thích dụ ngôn cho chúng con.” 16 Đức Giê-su đáp: ”Cả anh em nữa, bây giờ mà anh em vẫn còn ngu tối sao? 17 Anh em không hiểu rằng bất cứ cái gì vào miệng thì xuống bụng, rồi bị thải ra ngoài sao? 18 Còn những cái gì từ miệng xuất ra, là phát xuất tự lòng, chính những cái ấy mới làm cho con người ra ô uế. 19 Vì tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. 20 Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế; còn ăn mà không rửa tay thì không làm cho con người ra ô uế.”

Đức Giê-su chữa con gái người đàn bà Ca-na-an (Mc 7:24-30)

21 Ra khỏi đó, Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn, 22 thì này có một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: ”Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” 23 Nhưng Người không đáp lại một lời.

24 Người đáp: ”Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” 25 Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: ”Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” 26 Người đáp: ”Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” 27 Bà ấy nói: ”Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” 28 Bấy giờ Đức Giê-su đáp: ”Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.

Đức Giê-su chữa nhiều bệnh nhân tại ven Biển Hồ Ga-li-lê

29 Đức Giê-su xuống khỏi miền ấy, đến ven Biển Hồ Ga-li-lê. Người lên núi và ngồi ở đó. 30 Có những đám người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những kẻ ấy dưới chân Người và Người chữa lành, 31 khiến đám đông phải kinh ngạc vì thấy kẻ câm nói được, người tàn tật được lành, người què đi được, người mù xem thấy. Và họ tôn vinh Thiên Chúa của Ít-ra-en.

Đức Giê-su hoá bánh ra nhiều lần thứ hai (Mc 8:1-10)

32 Đức Giê-su gọi các môn đệ lại mà nói: ”Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường.” 33 Các môn đệ thưa: ”Trong nơi hoang vắng này, chúng con lấy đâu ra đủ bánh cho đám đông như vậy ăn no?” 34 Đức Giê-su hỏi: ”Anh em có mấy chiếc bánh?” Các ông đáp: ”Thưa có bảy chiếc bánh và một ít cá nhỏ.” 35 Bấy giờ, Người truyền cho đám đông ngồi xuống đất. 36 Rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông. 37 Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được bảy thúng đầy. 38 Số người ăn có tới bốn ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con. 39 Sau khi giải tán đám đông, Đức Giê-su lên thuyền, sang miền Ma-ga-đan.

Chương 16

Người Do-thái đòi dấu lạ từ trời (Mc 8:11-13; Lc 12:54-56)

1 Bấy giờ, có những người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc lại gần Đức Giê-su, và để thử Người, thì xin Người cho thấy một dấu lạ từ trời. 2 Người đáp: ”Chiều đến, các ông nói: ”Ráng vàng thì nắng”, 3 rồi sớm mai, các ông nói: ”Ráng trắng thì mưa” . Cảnh sắc bầu trời thì các ông biết cắt nghĩa, còn thời điềm thì các ông lại không cắt nghĩa nổi. 4 Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na.” Rồi Người bỏ họ mà đi.

Men Pha-ri-sêu và Xa-đốc (Mc 8:14-21)

5 Khi sang bờ bên kia, các môn đệ quên đem bánh. 6 Đức Giê-su bảo các ông: ”Anh em phải cẩn thận, phải coi chừng men Pha-ri-sêu và Xa-đốc.” 7 Các môn đệ nghĩ thầm rằng: ”Tại chúng ta không đem bánh.” 8 Nhưng, biết thế, Đức Giê-su nói: ”Sao anh em lại nghĩ đến chuyện không có bánh, người đâu mà kém tin vậy? 9 Anh em chưa hiểu ư? Anh em không nhớ chuyện năm chiếc bánh nuôi năm ngàn người sao? Và anh em còn thu lại được bao nhiêu giỏ? 10 Rồi chuyện bảy chiếc bánh nuôi bốn ngàn người nữa? Và anh em còn thu lại được bao nhiêu thúng? 11 Tại sao anh em không hiểu rằng Thầy chẳng có ý nói về bánh, khi Thầy nói: Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu và Xa-đốc?” 12 Bấy giờ các ông mới hiểu là Người không bảo phải coi chừng men bánh, mà phải coi chừng giáo lý Pha-ri-sêu và Xa-đốc.

Ông Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa (Mc 8:27-30; Lc 9:18-21)

13 Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: ”Người ta nói Con Người là ai?” 14 Các ông thưa: ”Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.” 15 Đức Giê-su lại hỏi: ”Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” 16 Ông Si-môn Phê-rô thưa: ”Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” 17 Đức Giê-su nói với ông: ”Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. 18 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. 19 Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” 20 Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô.

Đức Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ nhất (Mc 8:31-33; Lc 9:22)

21 Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. 22 Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: ”Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” 23 Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: ”Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”

Điều kiện phải có để theo Đức Giê-su (Mc 8:34- 9:1; Lc 9:23-27)

24 Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ: ”Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. 25 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. 26 Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?

27 “Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giơ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm. 28 Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị.”

Chương 17

Đức Giê-su hiển dung (Mc 9:2-8; Lc 9:28-36)

1 Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. 2 Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. 3 Và bỗng các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người. 4 Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: ”Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.” 5 Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: ”Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” 6 Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. 7 Bấy giờ Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: ”Chỗi dậy đi, đừng sợ!” 8 Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi.

Câu hỏi về ngôn sứ Ê-li-a (Mc 9:9-13)

9 Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông rằng: ”Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy.” 10 Các môn đệ hỏi Người rằng: ”Vậy sao các kinh sư lại nói Ê-li-a phải đến trước?” 11 Người đáp: ”Ông Ê-li-a phải đến để chỉnh đốn mọi sự. 12 Nhưng Thầy nói cho anh em biết: ông Ê-li-a đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế.” 13 Bấy giờ các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông Gio-an Tẩy Giả.

Đức Giê-su chữa đứa trẻ bị kinh phong (Mc 9:14-29; Lc 9:37-43 a)

14 Khi thầy trò đến với đám đông, thì có một người tới quỳ xuống trước mặt Đức Giê-su 15 và nói: ”Thưa Ngài, xin thương xót con trai tôi, vì cháu bị kinh phong và bệnh tình nặng lắm: nhiều lần ngã vào lửa, và cũng nhiều lần ngã xuống nước. 16 Tôi đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài chữa, nhưng các ông không chữa được.” 17 Đức Giê-su đáp: ”Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin và gian tà! Tôi còn phải ở với các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa? Đem cháu lại đây cho tôi.” 18 Đức Giê-su quát mắng tên quỷ, quỷ liền xuất, và đứa bé được khỏi ngay từ giờ đó.

19 Bấy giờ các môn đệ đến gần hỏi riêng Đức Giê-su rằng: ”Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?” 20 Người nói với các ông: ”Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ”rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được. (21 Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện).”

Đức Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ hai (Mc 9:30-32; Lc 9:43 b-45)

22 Khi thầy trò tụ họp ở miền Ga-li-lê, Đức Giê-su nói với các ông: ”Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, 23 họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ trỗi dậy.” Các môn đệ buồn phiền lắm.

Đức Giê-su và ông Phê-rô nộp thuế

24 Khi thầy trò tới Ca-phác-na-um, thì những người thu thuế cho đền thờ đến hỏi ông Phê-rô: ”Thầy các ông không nộp thuế sao?” 25 Ông đáp: ”Có chứ!” Ông về tới nhà, Đức Giê-su hỏi đón ông: ”Anh Si-môn, anh nghĩ sao? Vua chúa trần gian bắt ai đóng sưu nộp thuế? Con cái mình hay người ngoài?” 26 Ông Phê-rô đáp: ”Thưa, người ngoài.” Đức Giê-su liền bảo: ”Vậy thì con cái được miễn. 27 Nhưng để khỏi làm gai mắt họ, anh ra biển thả câu; con cá nào câu được trước hết, thì bắt lấy, mở miệng nó ra: anh sẽ thấy một đồng tiền bốn quan; anh lấy đồng tiền ấy, nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của anh.”

Chương 18

2. BÀI GIẢNG VỀ GIÁO HỘI

Ai là người lớn nhất trong Nước Trời? (Mc 9:33-37; Lc 9:46-48)

1 Lúc ấy, các môn đệ lại gần hỏi Đức Giê-su rằng: ”Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời?” 2 Đức Giê-su liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông 3 và bảo: ”Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.

4 “Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.

Đừng làm cớ cho người ta sa ngã (Mc 9:42-48; Lc 17:1-2)

5 “Còn ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. 6 Nhưng ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà treo cối đá lớn vào cổ nó mà xô cho chìm xuống đáy biển còn hơn. 7 Khốn cho thế gian, vì làm cớ cho người ta sa ngã. Tất nhiên phải có những cớ gây sa ngã, nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã.

8 “Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời. 9 Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục.

10 “Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. 11 Vì Con Người đến để cứu cái gì đã hư mất).

Con chiên lạc (Lc 15:4-7)

12 “Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? 13 Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc. 14 Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.

Sửa lỗi anh em

15 “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em. 16 Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. 17 Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.

18 “Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy.

Hiệp lời cầu nguyện

19 “Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. 20 Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”

Anh em tha thứ cho nhau (Lc 17:3b-4)

21 Bấy giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: ”Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” 22 Đức Giê-su đáp: ”Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.”

Dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót

23 Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. 24 Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. 25 Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. 26 Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: ”Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết.” 27 Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ. 28 Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: ”Trả nợ cho tao!” 29 Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: ”Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh.” 30 Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. 31 Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. 32 Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo: ”Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, 33 thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?” 34 Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. 35 Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình.”

Chương 19

VI. NƯỚC TRỜI: TRIỀU ĐẠI THIÊN CHÚA ĐÃ ĐẾN GẦN

1. PHẦN KÝ THUẬT

Câu hỏi về việc ly dị (Mc 10:1-12)

1 Khi Đức Giê-su giảng dạy những điều ấy xong, Người rời khỏi miền Ga-li-lê và đi đến miền Giu-đê, bên kia sông Gio-đan. 2 Dân chúng lũ lượt đi theo Người, và Người đã chữa họ ở đó. 3 Có mấy người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giê-su để thử Người. Họ nói: ”Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?” 4 Người đáp: ”Các ông không đọc thấy điều này sao: ”Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ”, 5 và Người đã phán: ”Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt.” 6 Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” 7 Họ thưa với Người: ”Thế sao ông Mô-sê lại truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ?” 8 Người bảo họ: ”Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu. 9 Tôi nói cho các ông biết: Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình.”

Tự nguyện sống khiết tịnh

10 Các môn đệ thưa Người: ”Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ còn hơn.” 11 Nhưng Người nói với các ông: ”Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu. 12 Quả vậy, có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu.”

Đức Giê-su và trẻ em (Mc 10:13-16; Lc 18:15-17)

13 Bấy giờ người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng và cầu nguyện. Các môn đệ la rầy chúng. 14 Nhưng Đức Giê-su nói: ”Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai giống như chúng.” 15 Người đặt tay trên chúng, rồi đi khỏi nơi đó.

Người thanh niên có nhiều của cải (Mc 10, 17-22; Lc 18:18-23)

16 Bấy giờ có một người đến thưa Đức Giê-su rằng: ”Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?” 17 Đức Giê-su đáp: ”Sao anh hỏi tôi về điều tốt? Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi. Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn.” 18 Người ấy hỏi: ”Điều răn nào?” Đức Giê-su đáp: ”Ngươi không được giết người. Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian. 19 Ngươi phải thờ cha kính mẹ”, và “Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình.” 20 Người thanh niên ấy nói: ”Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ, tôi còn thiếu điều gì nữa không?” 21 Đức Giê-su đáp: ”Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” 22 Nghe lời đó, người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.

Người giàu có khó vào Nước Trời (Mc 10:23-27; Lc 18:24-27)

23 Bấy giờ Đức Giê-su nói với các môn đệ của Người: ”Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. 24 Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” 25 Nghe nói vậy, các môn đệ vô cùng sửng sốt và nói: ”Thế thì ai có thể được cứu?” 26 Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: ”Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.”

Phần thưởng dành cho ai bỏ mọi sự mà theo Đức Giê-su (Mc 10:28-31; Lc 18:28-30)

27 Bấy giờ ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: ”Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” 28 Đức Giê-su đáp: ”Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự toà vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en. 29 Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp.

30 “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu.”

Chương 20

Dụ ngôn thợ làm vườn nho

1 “Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. 2 Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. 3 Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. 4 Ông cũng bảo họ: ”Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng.” 5 Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. 6 Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: ”Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?” 7 Họ đáp: ”Vì không ai mướn chúng tôi.” Ông bảo họ: ”Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!” 8 Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: ”Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.” 9 Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. 10 Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. 11 Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: 12 “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.” 13 Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: ”Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? 14 Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. 15 Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” 16 Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. (Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít. )

Đức Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ ba (Mc 10:32-34; Lc 18:31-34)

17 Lúc sắp lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đưa Nhóm Mười Hai đi riêng với mình, và dọc đường, Người nói với các ông: 18 “Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, 19 sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và, ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy.”

Bà mẹ của hai người con ông Dê-bê-đê (Mc 10:35-40)

20 Bấy giờ bà mẹ của các con ông Dê-bê-đê đến gặp Đức Giê-su, có các con bà đi theo; bà bái lạy và kêu xin Người một điều. 21 Người hỏi bà: ”Bà muốn gì?” Bà thưa: ”Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây, một người ngồi bên hữu, một người bên tả Thầy trong Nước Thầy.” 22 Đức Giê-su bảo: ”Các người không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” Họ đáp: ”Thưa uống nổi.” 23 Đức Giê-su bảo: ”Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được.”

Ai làm lớn phải phục vụ (Mc 10:40-45)

24 Nghe vậy, mười môn đệ kia tức tối với hai anh em đó. 25 Nhưng Đức Giê-su gọi các ông lại và nói: ”Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. 26 Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. 27 Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. 28 Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.”

Đức Giê-su chữa hai người mù tại Giê-ri-khô (Mc 10:46-52; Lc 18:35-43)

29 Khi Đức Giê-su và môn đệ ra khỏi thành Giê-ri-khô, dân chúng lũ lượt đi theo Người. 30 Và kìa có hai người mù ngồi ở vệ đường, vừa nghe Đức Giê-su đi ngang qua đó, liền kêu lên rằng: ”Lạy Ngài, lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương chúng tôi!” 31 Đám đông quát nạt, bảo họ im đi, nhưng họ càng kêu lớn hơn nữa: ”Lạy Ngài, lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương chúng tôi!” 32 Đức Giê-su dừng lại, gọi họ đến và nói: ”Các anh muốn tôi làm gì cho các anh?” 33 Họ thưa: ”Lạy Ngài, xin cho mắt chúng tôi được mở ra!” 34 Đức Giê-su chạnh lòng thương, sờ vào mắt họ; tức khắc, họ nhìn thấy được và đi theo Người.

Chương 21

Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a (Mc 11:1-11; Lc 19:28-38; Ga 12:12-16)

1 Khi thầy trò đến gần thành Giê-ru-sa-lem và tới làng Bết-pha-ghê, phía núi Ô-liu, Đức Giê-su sai hai môn đệ và 2 bảo: ”Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh cởi dây ra và dắt về cho Thầy. 3 Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời là Chúa cần đến chúng, Người sẽ gởi lại ngay.” 4 Sự việc đó xảy ra như thế để ứng nghiệm lời ngôn sứ: 5 “Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ.

6 Các môn đệ ra đi và làm theo lời Đức Giê-su đã truyền. 7 Các ông dắt lừa mẹ và lừa con về, trải áo choàng của mình trên lưng chúng, và Đức Giê-su cỡi lên. 8 Một đám người rất đông cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá mà rải lên lối đi. 9 Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời.

10 Khi Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: ”Ông này là ai vậy?” 11 Dân chúng trả lời: ”Ngôn sứ Giê-su, người Na-da-rét, xứ Ga-li-lê đấy.”

Đức Giê-su đuổi những người đang mua bán trong Đền Thờ (Mc 11:15-19; Lc 19:45-48; Ga 2:13-22)

12 Đức Giê-su vào Đền Thờ, đuổi tất cả những người đang mua bán trong Đền Thờ, lật bàn của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu. 13 Rồi Người bảo họ: ”Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp.” 14 Có những kẻ mù loà, què quặt đến với Người trong Đền Thờ, và Người đã chữa họ lành. 15 Nhưng các thượng tế và kinh sư thấy những việc lạ lùng Người đã làm và thấy lũ trẻ reo hò trong Đền Thờ: ”Hoan hô Con vua Đa-vít!”, thì tức tối 16 và nói với Người rằng: ”Ông có nghe chúng nói gì không?” Đức Giê-su đáp: ”Có; nhưng còn lời này, các ông chưa bao giờ đọc sao: Ta sẽ cho miệng con thơ trẻ nhỏ cất tiếng ngợi khen?” 17 Rồi Người bỏ họ mà ra khỏi thành, đến Bê-ta-ni-a và qua đêm tại đó.

Cây vả không ra trái (Mc 11:12-14, 20-24)

18 Sáng sớm, khi trở vào thành, Người cảm thấy đói. 19 Trông thấy cây vả ở bên đường, Người lại gần nhưng không tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi. Nên Người nói: ”Từ nay, không bao giờ mày có trái nữa!” Cây vả chết khô ngay lập tức. 20 Thấy vậy, các môn đệ ngạc nhiên nói: ”Sao cây vả lại chết khô ngay lập tức như thế?” 21 Đức Giê-su trả lời: ”Thầy bảo thật anh em, nếu anh em tin và không chút nghi nan, thì chẳng những anh em làm được điều Thầy vừa làm cho cây vả, mà hơn nữa, anh em có bảo núi này: ”Dời chỗ đi, nhào xuống biển!”, thì sự việc sẽ xảy ra như thế. 22 Tất cả những gì anh em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì anh em sẽ được.”

Câu hỏi về quyền bính của Đức Giê-su (Mc 11:27-33; Lc 20:1-8)

23 Đức Giê-su vào Đền Thờ, và trong khi Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ mục trong dân đến gần Người và hỏi: ”Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?” 24 Đức Giê-su đáp: ”Còn tôi, tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi; nếu các ông trả lời được cho tôi, thì tôi cũng sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. 25 Vậy, phép rửa của ông Gio-an do đâu mà có? Do Trời hay do người ta?” Họ mới nghĩ thầm: ”Nếu mình nói: ”Do Trời”, thì ông ấy sẽ vặn lại: ”Thế sao các ông lại không tin ông ấy?” 26 Còn nếu mình nói: ”Do người ta”, thì mình sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gio-an là một ngôn sứ.” 27 Họ mới trả lời Đức Giê-su: ”Chúng tôi không biết.” Người cũng nói với họ: ”Tôi cũng vậy, tôi không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy.”

Dụ ngôn hai người con

28 Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: ”Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.” 29 Nó đáp: ”Con không muốn đâu!” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. 30 Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: ”Thưa ngài, con đây!” nhưng rồi lại không đi. 31 Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” Họ trả lời: ”Người thứ nhất.” Đức Giê-su nói với họ: ”Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. 32 Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.”

Dụ ngôn những tá điền sát nhân (Mc 12:1-12; Lc 20:9-19)

33 Các ông hãy nghe một dụ ngôn khác: ”Có gia chủ kia trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. 34 Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi. 35 Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. 36 Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy. 37 Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng: ”Chúng sẽ nể con ta.” 38 Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: ”Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!” 39 Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi. 40 Vậy xin hỏi: Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?” 41 Họ đáp: ”Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông.” 42 Đức Giê-su bảo họ: ”Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.

43 Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi. 44 Ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát thịt).”

45 Nghe những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pha-ri-sêu hiểu là Người nói về họ. 46 Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng cho Người là một ngôn sứ.

Chương 22

Dụ ngôn tiệc cưới (Lc 14:15-24)

1 Đức Giê-su lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: 2 “Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. 3 Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không chịu đến. 4 Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi, và dặn họ: ”Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!” 5 Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn, 6 còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết. 7 Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng. 8 Rồi nhà vua bảo đầy tớ: ”Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. 9 Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới.” 10 Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.

11 “Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, 12 mới hỏi người ấy: ”Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” Người ấy câm miệng không nói được gì. 13 Nhà vua liền bảo những người phục dịch: ”Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng! 14 Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.”

Nộp thuế cho Xê-da (Mc 12:13-17; Lc 20:20-26)

15 Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giê-su phải lỡ lời mà mắc bẫy.

16 Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hê-rô-đê, đến nói với Đức Giê-su rằng: ”Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. 17 Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?”

18 Nhưng Đức Giê-su biết họ có ác ý, nên Người nói: ”Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình! 19 Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế!” Họ liền đưa cho Người một quan tiền. 20 Người hỏi họ: ”Hình và danh hiệu này là của ai đây?” 21 Họ đáp: ”Của Xê-da.” Bấy giờ, Người bảo họ: ”Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” 22 Nghe vậy, họ ngạc nhiên và để Người lại đó mà đi.

Kẻ chết sống lại (Mc 12:18-27; Lc 20:27-40)

23 Hôm đó, có những người thuộc nhóm Xa-đốc, đen gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. Họ hỏi Người: 24 “Thưa Thầy, ông Mô-sê có nói: Nếu ai chết mà không có con, thì anh hay em của người ấy phải cưới lấy người vợ goá, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. 25 Mà, trong chúng tôi, nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, rồi chết, và vì không có con nối dòng, nên để vợ lại cho em. 26 Người thứ hai, rồi người thứ ba, cho đến hết bảy người, người nào cũng vậy. 27 Sau hết, người đàn bà ấy cũng chết. 28 Vậy, trong ngày sống lại, bà ấy sẽ là vợ ai trong số bảy người, vì tất cả đều đã lấy bà?” 29 Đức Giê-su trả lời họ: ”Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. 30 Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời. 31 Còn về vấn đề kẻ chết sống lại, thì các ông không đọc lời Thiên Chúa đã phán cùng các ông sao? 32 Người phán: Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống.” 33 Dân chúng kinh ngạc khi nghe lời Người dạy.

Điều răn trọng nhất (Mc 12:28-34; Lc 10:25-28)

34 Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại. -35 Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: 36 “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” 37 Đức Giê-su đáp: ”Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. 38 Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. 39 Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. 40 Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.”

Đức Ki-tô là Con và cũng là Chúa của vua Đa-vít (Mc 12:35-37; Lc 20:41-44)

41 Những người Pha-ri-sêu đang tụ tập thì Đức Giê-su hỏi họ42 rằng: ”Các ông nghĩ sao về Đấng Ki-tô? Người là con của ai?” Họ thưa: ”Con của vua Đa-vít.” 43 Người hỏi: ”Vậy tại sao vua Đa-vít, được Thần Khí soi sáng, lại gọi Người là Chúa Thượng, khi nói rằng: 44 Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi: bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con?

45 “Vậy nếu vua Đa-vít gọi Đấng Ki-tô là Chúa Thượng, thì làm sao Đấng Ki-tô lại là con vua ấy được?” 46 Không ai đáp lại Người được một tiếng. Và từ ngày ấy, chẳng ai còn dám chất vấn Người nữa.

Chương 23

Các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình (Mc 12:38-40; Lc 11:43-46; 20:45-47)

1 Bấy giờ, Đức Giê-su nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: 2 “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. 3 Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm. 4 Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. 5 Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. 6 Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, 7 ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi” .

8 “Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “ráp-bi”, vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. 9 Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. 10 Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Ki-tô. 11 Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. 12 Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.

Đức Giê-su khiển trách các kinh sư và người Pha-ri-sêu (Mc 12:40; Lc 11:39-48; 20:47)

13 “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và ngươi Pha-ri-sêu giả hình! Các người khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào. (14 Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các người sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn).

15 “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người.

16 “Khốn cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng! Các người bảo: ”Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc.” 17 Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn? 18 Các người còn nói: ”Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, thì bị ràng buộc.” 19 Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh, cái nào trọng hơn? 20 Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề, là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề. 21 Và ai chỉ Đền Thờ mà thề, là chỉ Đền Thờ và Đấng ngự ở đó mà thề. 22 Và ai chỉ trời mà thề, là chỉ ngai Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề.

23 “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ. 24 Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.

25 “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ. 26 Hỡi người Pha-ri-sêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch.

27 “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. 28 Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!

29 “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người xây mồ cho các ngôn sứ và tô mả cho những người công chính. 30 Các người nói: ”Nếu như chúng ta sống vào thời của tổ tiên, hẳn chúng ta đã không thông đồng với các ngài mà đổ máu các ngôn sứ.” 31 Như vậy, các người tự làm chứng rằng các người đúng là con cháu của những kẻ đã giết các ngôn sứ. 32 Thì các người đổ thêm cho đầy đấu tội của tổ tiên các người đi!

Tội ác và hình phạt (Lc 11:49-51)

33 “Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia! Các người trốn đâu cho khỏi hình phạt hoả ngục? 34 Vì thế, này tôi sai ngôn sứ, hiền nhân và kinh sư đến cùng các người: các người sẽ giết và đóng đinh người này vào thập giá, đánh đòn người kia trong hội đường và lùng bắt họ từ thành này đến thành khác. 35 Như vậy, máu của tất cả những người công chính đã đổ xuống đất, thì cũng đổ xuống đầu các người, từ máu ông A-ben, người công chính, đến máu ông Da-ca-ri-a, con ông Be-réc-gia, mà các người đã giết giữa đền thánh và bàn thờ. 36 Tôi bảo thật các người: tất cả những tội ấy sẽ đổ xuống đầu thế hệ này.

Đức Giê-su thương tiếc thành Giê-ru-sa-lem (Lc 13:34-35)

37 “Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi! Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu. 38 Thì này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang mặc cho các ngươi. 39 Thật vậy, Ta nói cho các ngươi hay, từ nay các ngươi sẽ không còn thấy Ta nữa, cho đến khi các ngươi nói: Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!”

Chương 24

2. BÀI GIẢNG VỀ THỜI CÁNH CHUNG

Nhập đề (Mc 13:1-4; Lc 21:5-7)

1 Khi Đức Giê-su từ trong Đền Thờ đi ra, thì các môn đệ của Người lại gần chỉ cho Người xem công trình kiến trúc Đền Thờ. 2 Nhưng Người nói: ”Anh em nhìn thấy tất cả những cái đó, phải không? Thầy bảo thật anh em: tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ.” 3 Sau đó, lúc Người ngồi trên núi Ô-liu, các môn đệ tới gặp riêng Người và thưa: ”Xin Thầy nói cho chúng con biết khi nào những sự việc ấy xảy ra, và cứ điềm nào mà biết ngày Thầy quang lâm và ngày tận thế?”

Những cơn đau đớn khởi đầu (Mc 13:5-13; Lc 21:8-19)

4 Đức Giê-su đáp: ”Anh em hãy coi chừng, đừng để ai lừa gạt anh em, 5 vì sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: ”Chính Ta đây là Đấng Ki-tô”, và họ sẽ lừa gạt được nhiều người. 6 Anh em sẽ nghe có giặc giã và tin đồn giặc giã; coi chừng, đừng khiếp sợ, vì những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là tận cùng. 7 Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có những cơn đói kém, và những trận động đất ở nhiều nơi. 8 Nhưng tất cả những sự việc ấy chỉ là khởi đầu các cơn đau đớn.

9 “Bấy giờ, người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, va người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy. 10 Bấy giờ sẽ có nhiều người vấp ngã. Người ta sẽ nộp nhau và thù ghét nhau. 11 Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiện và lừa gạt được nhiều người. 12 Vì tội ác gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. 13 Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.

14 “Tin Mừng này về Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc được biết. Và bấy giờ sẽ là tận cùng.”

Cơn gian nan khốn khổ tại Giê-ru-sa-lem (Mc 13:14-23; Lc 21:20-24)

15 “Vậy, khi anh em thấy đặt trong nơi thánh Đồ Ghê Tởm Khốc Hại mà ngôn sứ Đa-ni-en đã nói đến người đọc hay lo mà hiểu! 16 thì bấy giờ ai ở miền Giu-đê, hãy trốn lên núi, 17 ai ở trên sân thượng thì đừng xuống lấy đồ đạc trong nhà, 18 ai ở ngoài đồng, đừng trở lại phía sau lấy áo choàng của mình. 19 Khốn cho những người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó! 20 Anh em hãy cầu xin cho khỏi phải chạy trốn vào mùa đông hay ngày sa-bát. 21 Vì khi ấy sẽ có cơn gian nan khốn khổ đến mức từ thuở khai thiên lập địa cho đến bây giờ chưa khi nào xảy ra, và sẽ không bao giờ xảy ra như vậy nữa. 22 ếu những ngày ấy không được rút ngắn lại, thì không ai được cứu thoát; nhưng, vì những người được tuyển chọn, các ngày ấy sẽ được rút ngắn

23 “Bấy giờ, nếu có ai bảo anh em: ”Này, Đấng Ki-tô ở đây” hoặc”ở đó”, thì anh em đừng tin. 24 Thật vậy, sẽ có những Ki-tô giả và ngôn sứ giả xuất hiện, đưa ra những dấu lạ lớn lao và những điềm thiêng, đến nỗi chúng lừa gạt cả những người đã được tuyển chọn, nếu có thể. 25 Thầy báo trước cho anh em đấy!

Cuộc quang lâm của Con Người (Lc 17:23-24)

26 “Vậy, nếu người ta bảo anh em: ”Này, Người ở trong hoang địa”, anh em chớ ra đó;”Kìa, Người ở trong phòng kín”, anh em cũng đừng tin. 27 Vì, như chớp loé ra từ phương đông và chiếu sáng đến phương tây thế nào, thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy. 28 Xác chết nằm đâu, diều hâu tụ đó.

Hiện tượng của ngày Quang Lâm (Mc 13:24-27; Lc 21:25-28)

29 “Ngay sau những ngày gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. 30 Bấy giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến. 31 Người sẽ sai các thiên sứ của Người thổi loa vang dậy, tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương, từ chân trời này đến chân trời kia.

Thí dụ cây vả (Mc 13:28-32; Lc 21:29-33)

32 “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. 33 Cũng vậy, khi thấy tất cả những điều đó, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi. 34 Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. 35 Trời đat sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu. 36 Còn về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi.

Phải canh thức và sẵn sàng (Mc 13:32-37; Lc 17:26-30, 35-36)

37 “Quả thế, thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. 38 Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đen ngày ông Nô-ê vào tàu. 39 Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. 40 Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; 41 hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại.

42 “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. 43 Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. 44 Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.

Dụ ngôn người đầy tớ trung tín (Lc 12:42-46)

45 “Vậy thì ai là người đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà ông chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cấp phát lương thực cho họ đúng giờ đúng lúc? 46 Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta đang làm như vậy. 47 Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. 48 Nhưng nếu tên đầy tớ xấu xa ấy nghĩ bụng: ”Còn lâu chủ ta mới về”, 49 thế rồi hắn bắt đầu đánh đập các đồng bạn, và chè chén với những bọn say sưa, 50 chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không chờ, vào giờ hắn không biết, 51 và ông sẽ loại hắn ra, bắt chung số phận với những tên giả hình: ở đó, người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”

Chương 25

Dụ ngôn mười trinh nữ

1 “Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. 2 Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. 3 Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. 4 Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo. 5 Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả. 6 Nửa đêm, có tiếng la lên: ”Chú rể kia rồi, ra đón đi!” 7 Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. 8 Các cô dại nói với các cô khôn rằng: ”Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!” 9 Các cô khôn đáp: ”Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn.” 10 Đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. 11 Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: ”Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với!” 12 Nhưng Người đáp: ”Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!” 13 Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.

Dụ ngôn những yến bạc (Lc 19:12-27)

14 “Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. 15 Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, 16 người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. 17 Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. 18 Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. 19 Sau một thời gian lâu dài, ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ. 20 Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói: ”Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây.” 21 Ông chủ nói với người ấy: ”Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” 22 Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: ”Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây.” 23 Ông chủ nói với người ấy: ”Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” 24 Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói: ”Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. 25 Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!” 26 Ông chủ đáp: ”Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, 27 thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! 28 Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. 29 Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. 30 Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”

Cuộc Phán Xét chung

31 “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. 32 Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. 33 Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. 34 Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: ”Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. 35 Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; 36 Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” 37 Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: ”Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; 38 có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? 39 Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?” 40 Đức Vua sẽ đáp lại rằng: ”Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” 41 Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: ”Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. 42 Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; 43 Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng.” 44 Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: ”Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?” 45 Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: ”Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy.” 46 Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời.”

Chương 26

VII. THƯƠNG KHÓ VÀ PHỤC SINH

Âm mưu hại Đức Giê-su (Mc 14:1-2; Lc 22:1-2; Ga 11:45-53)

1 Khi Đức Giê-su giảng dạy tất cả những điều ấy xong, Người bảo các môn đệ của Người rằng: 2 “Anh em biết còn hai ngày nữa là đến lễ Vượt Qua, và Con Người sắp bị nộp để chịu đóng đinh vào thập giá.”

3 Lúc ấy, các thượng tế và kỳ mục trong dân nhóm họp tại dinh của vị thượng tế tên là Cai-pha, 4 và cùng nhau quyết định dùng mưu bắt Đức Giê-su và giết đi. 5 Nhưng họ lại nói: ”Không nên làm vào chính ngày lễ, kẻo gây náo động trong dân.”

Đức Giê-su được xức dầu thơm tại Bê-ta-ni-a (Mc 14:3-9; Ga 12:1-8)

6 Đức Giê-su đang ở làng Bê-ta-ni-a tại nhà ông Si-mon Cùi, 7 thì có một người phụ nữ đến gần Người, mang theo một bình bạch ngọc, đựng một thứ dầu thơm đắt giá. Cô đổ dầu thơm trên đầu Người, lúc Người đang dùng bữa. 8 Thấy vậy, các môn đệ lấy làm bực tức nói: ”Sao lại phí của như thế? 9 Dầu đó có thể bán được nhiều tiền mà cho người nghèo.” 10 Biết thế, Đức Giê-su bảo các ông: ”Sao lại muốn gây chuyện với người phụ nữ này? Quả thật, cô ấy vừa làm cho Thầy một việc nghĩa. 11 Người nghèo thì lúc nào anh em cũng có với anh em; còn Thầy, thì không phải lúc nào anh em cũng có đâu! 12 Cô ấy đổ dầu thơm trên mình Thầy là hướng về ngày mai táng Thầy. 13 Thầy bảo thật anh em: Tin Mừng này được loan báo bất cứ nơi nào trong khắp thiên hạ, thì người ta cũng sẽ kể lại việc cô vừa làm mà nhớ tới cô.”

Giu-đa nộp Đức Giê-su (Mc 14:10-11; Lc 22:3-6)

14 Bấy giờ, một người trong Nhóm Mười Hai tên là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, đi gặp các thượng tế 15 mà nói: ”Tôi nộp ông ấy cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu.” Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc. 16 Từ lúc đó, hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giê-su.

Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua (Mc 14:12-16; Lc 22:7-13)

17 Ngày thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Đức Giê-su: ”Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?” 18 Người bảo: ”Các anh đi vào thành, đến nhà một người kia và nói với ông ấy: ”Thầy nhắn: thời của Thầy đã gần tới, Thầy sẽ đến nhà ông để ăn mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ của Thầy.” 19 Các môn đệ làm y như Đức Giê-su đã truyền, và dọn tiệc Vượt Qua.

Đức Giê-su tiên báo Giu-đa sẽ nộp Thầy (Mc 14:17-21; Lc 22:21-23; Ga 13:21-30)

20 Chiều đến, Đức Giê-su vào bàn tiệc với mười hai môn đệ. 21 Đang bữa ăn, Người nói: ”Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp Thầy.” 22 Các môn đệ buồn rầu quá sức, lần lượt hỏi Người: ”Thưa Ngài, chẳng lẽ con sao?” 23 Người đáp: ”Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy. 24 Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn!” 25 Giu-đa, kẻ nộp Người cũng hỏi: ”Ráp-bi, chẳng lẽ con sao?” Người trả lời: ”Chính anh nói đó!”

Đức Giê-su lập bí tích Thanh Thể (Mc 14:22-25; Lc 22 19-20; ICo 11:23-25)

26 Cũng trong bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: ”Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy.” 27 Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: ”Tất cả anh em hãy uống chén này, 28 vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội. 29 Thầy bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy.”

Đức Giê-su tiên báo thánh Phê-rô sẽ chối Thầy (Mc 14:26-31; Lc 22:31-34; Ga 13:36-38)

30 Hát thánh vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra núi Ô-liu. 31 Bấy giờ Đức Giê-su nói với các ông: ”Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có lời đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác. 32 Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em.” 33 Ông Phê-rô liền thưa: ”Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã.” 34 Đức Giê-su bảo ông: ”Thầy bảo thật anh: nội đêm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.” 35 Ông Phê-rô lại nói: ”Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy.

Đức Giê-su cầu nguyện tại vườn Ghết-sê-ma-ni (Mc 14:32-42; Lc 22:39-46)

36 Bấy giờ Đức Giê-su đi cùng với các ông đến một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni. Người nói với các môn đệ: ”Anh em ngồi lại đây, Thầy đến đàng kia cầu nguyện.” 37 Rồi Người đưa ông Phê-rô và hai người con ông Dê-bê-đê đi theo. Người bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến. 38 Bấy giờ Người nói với các ông: ”Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy.” 39 Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện rằng: ”Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” 40 Rồi Người đến chỗ các môn đệ, thấy các ông đang ngủ, liền nói với ông Phê-rô: ”Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? 41 Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” 42 Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai và nói: ”Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha.” 43 Rồi Người lại đến, thấy các môn đệ vẫn đang ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. 44 Người để mặc các ông mà đi cầu nguyện lần thứ ba, nói lại cũng một lời đó. 45 Bấy giờ Người đến chỗ các môn đệ và nói với các ông: ”Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Này, đến giờ Con Người bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi. 46 Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!”

Đức Giê-su bị bắt (Mc 14:43-50; Lc 22:47-53; Ga 18:3-11)

47 Người còn đang nói, thì Giu-đa, một người trong nhóm Mười Hai, đã đến. Cùng đi với hắn, có cả một đám người đông đảo mang gươm giáo gậy gộc. Họ được các thượng tế và kỳ mục trong dân sai đến. 48 Kẻ nộp Người đã cho họ một dấu hiệu, hắn dặn rằng: ”Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy!” 49 Ngay lúc đó, Giu-đa tiến lại gần Đức Giê-su và nói: ”Ráp-bi, xin chào Thầy!”, rồi hôn Người. 50 Đức Giê-su bảo hắn: ”Này bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi!” Bấy giờ họ tiến đến, tra tay bắt Đức Giê-su. 51 Một trong những kẻ theo Đức Giê-su liền vung tay tuốt gươm ra, chém phải tên đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai. 52 Đức Giê-su bảo người ấy: ”Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm. 53 Hay anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần! 54 Nhưng như thế, thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được? Vì theo đó, mọi sự phải xảy ra như vậy.” 55 Vào giờ ấy Đức Giê-su nói với đám đông: ”Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến bắt? Ngày ngày tôi vẫn ngồi giảng dạy ở Đền Thờ thì các ông không bắt. 56 Nhưng tất cả sự việc này xảy ra là để ứng nghiệm những lời chép trong Sách Các Ngôn Sứ.” Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết.

Đức Giê-su ra trước Thượng Hội Đồng (Mc 14:53-65; Lc 22:54-55, 63-71; Ga 18:13-14, 19-24)

57 Họ bắt Đức Giê-su, rồi điệu đến thượng tế Cai-pha. Các kinh sư và kỳ mục đã tề tựu sẵn đó. 58 Ông Phê-rô theo Người xa xa, đến tận dinh thượng tế. Ông vào bên trong ngồi với bọn thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao.

59 Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình. 60 Nhưng họ tìm không ra, mặc dầu có nhiều kẻ đã đứng ra làm chứng gian. Sau cùng, có hai người bước ra, 61 khai rằng: ”Tên này đã nói: tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày, sẽ xây cất lại.” 62 Bấy giờ vị thượng tế đứng lên hỏi Đức Giê-su: ”Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?” 63 Nhưng Đức Giê-su vẫn làm thinh. Vị thượng tế nói với Người: ”Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa không?” 64 Đức Giê-su trả lời: ”Chính ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.” 65 Bấy giờ vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: ”Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, 66 quý vị nghĩ sao?” Họ liền đáp: ”Hắn đáng chết!”

67 Rồi họ khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Người. Có kẻ lai tát Người68 và nói: ”Ông Ki-tô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó?”

Thánh Phêrô chối Thầy

69 Lúc đó ông Phê-rô đang ngồi ngoài sân. Một người đầy tớ gái đến bên ông và nói: ”Cả bác nữa, bác cũng đã ở với ông Giê-su, người Ga-li-lê đó chứ gì?” 70 Ông liền chối trước mặt mọi người mà nói: ”Tôi không biết cô nói gì!” 71 Ông đi ra đến cổng, thì một người tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó: ”Bác này cũng đã ở với ông Giê-su người Na-da-rét đấy.” 72 Nhưng ông Phê-rô lại thề mà chối: ”Tôi không biết người ấy.” 73 Một lát sau, những người đứng đó xích lại gần ông Phê-rô mà nói: ”Đúng là bác cũng thuộc bọn họ. Cứ nghe giọng nói của bác là biết ngay.” 74 Bấy giờ ông Phê-rô liền thề độc mà quả quyết rằng: ”Tôi thề là không biết người ấy.” Ngay lúc đó, có tiếng gà gáy. 75 Ông Phê-rô sực nhớ lời Đức Giê-su đã nói: ”Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần.” Ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.

Chương 27

Đức Giê-su bị giải đến tổng trấn Phi-la-tô (Mc 15:1; Lc 23, 1; Ga 18:28)

1 Trời vừa sáng, tất cả các thượng tế và kỳ mục trong dân cùng nhau bàn kế hại Đức Giê-su, để xử tử Người. 2 Sau đó, họ cho trói Người lại và giải đi nộp cho tổng trấn Phi-la-tô.

Giu-đa đi thắt cổ (Cv 1:18-19)

3 Bấy giờ, Giu-đa, kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận. Hắn đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ mục4 mà nói: ”Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan.” Nhưng họ đáp: ”Can gì đến chúng tôi. Mặc kệ anh!” 5 Giu-đa ném số bạc vào Đền Thờ và ra đi thắt cổ. 6 Các thượng tế lượm lấy số bạc ấy mà nói: ”Không được phép bỏ vào quỹ Đền Thờ, vì đây là giá máu.” 7 Sau khi bàn định với nhau, họ dùng tiền đó tậu”Thửa Ruộng Ông Thợ Gốm” để làm nơi chôn cất khách ngoại kiều. 8 Vì vậy mà thửa ruộng ấy gọi là “Ruộng Máu” cho đến ngày nay. 9 Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a: ”Họ đã lượm lấy ba mươi đồng bạc, tức là cái giá mà một số con cái Ít-ra-en đã đặt khi đánh giá Người. 10 Và họ lấy số bạc đó mà mua”Thửa Ruộng Ông Thợ Gốm”, theo những điều Đức Chúa đã truyền cho tôi.”

Đức Giê-su ra trước toà tổng trấn Phi-la-tô (Mc 15:2-15; Lc 23:3-5, 13-25; Ga 18:33-9:16)

11 Đức Giê-su bị điệu ra trước mặt tổng trấn; tổng trấn hỏi Người: ”Ông là vua dân Do-thái sao?” Đức Giê-su trả lời: ”Chính ngài nói đó.” 12 Nhưng khi các thượng tế và kỳ mục tố Người, thì Người không trả lời một tiếng. 13 Bấy giờ ông Phi-la-tô hỏi Người: ”Ông không nghe bao nhiêu điều họ làm chứng chống lại ông đó sao?” 14 Nhưng Đức Giê-su không trả lời ông về một điều nào, khiến tổng trấn rất đỗi ngạc nhiên.

15 Vào mỗi dịp lễ lớn, tổng trấn có lệ phóng thích cho dân chúng một người tù, tuỳ ý họ muốn. 16 Mà khi ấy có một người tù khét tiếng, tên là Ba-ra-ba. 17 Vậy khi đám đông đã tụ họp lại, thì tổng trấn Phi-la-tô nói với họ: ”Các ngươi muốn ta phóng thích ai cho các ngươi đây? Ba-ra-ba hay Giê-su, cũng gọi là Ki-tô?” 18 Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Người.

19 Lúc tổng trấn đang ngồi xử án, thì bà vợ sai người đến nói với ông: ”Ông đừng nhúng tay vào vụ xử người công chính này, vì hôm nay, tôi chiêm bao thấy mình phải khổ nhiều vì ông ấy.”

20 Nhưng các thượng tế và kỳ mục lại xúi đám đông đòi tha tên Ba-ra-ba mà giết Đức Giê-su. 21 Tổng trấn hỏi họ: ”Trong hai người này, các người muốn ta tha ai cho các người?” Họ thưa: ”Ba-ra-ba!” 22 Tổng trấn Phi-la-tô nói tiếp: ”Thế còn ông Giê-su, cũng gọi là Ki-tô, ta sẽ làm gì đây?” Mọi người đồng thanh: ”Đóng đinh nó vào thập giá!” 23 Tổng trấn lại nói: ”Thế ông ấy đã làm điều gì gian ác?” Họ càng la to: ”Đóng đinh nó vào thập giá!” 24 Tổng trấn Phi-la-tô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: ”Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!” 25 Toàn dân đáp lại: ”Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!” 26 Bấy giờ, tổng trấn phóng thích tên Ba-ra-ba cho họ, còn Đức Giê-su, thì ông truyền đánh đòn, rồi trao cho họ đóng đinh vào thập giá.

Đức Giê-su phải đội vòng gai (Mc 15:16-20; Ga 19:1-3)

27 Bấy giờ lính của tổng trấn đem Đức Giê-su vào trong dinh, và tập trung cả cơ đội quanh Người. 28 Chúng lột áo Người ra, khoác cho Người một tấm áo choàng đỏ, 29 rồi kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người, và trao vào tay mặt Người một cây sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Người mà nhạo rằng: ”Vạn tuế Đức Vua dân Do-thái!” 30 Rồi chúng khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy mà đập vào đầu Người. 31 Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra, và cho Người mặc áo lại như trước, rồi điệu Người đi đóng đinh vào thập giá.

Đức Giê-su chịu đóng đinh vào thập giá (Mc 15:21-28; Lc 23:26. 33-34. 36-38; Ga 19:17-24)

32 Đang đi ra, thì chúng gặp một người Ky-rê-nê, tên là Si-môn; chúng bắt ông vác thập giá của Người. 33 Khi đến nơi gọi là Gôn-gô-tha, nghĩa là Đồi Sọ, 34 chúng cho Người uống rượu pha mật đắng, nhưng Người chỉ nếm một chút mà không chịu uống. 35 Đóng đinh Người vào thập giá xong, chúng đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau. 36 Rồi chúng ngồi đó mà canh giữ Người.

37 Phía trên đầu Người, chúng đặt bản án xử tội viết rằng: ”Người này là Giê-su, vua dân Do-thái.” 38 Cùng bị đóng đinh với Người, có hai tên cướp, một tên bên phải, một tên bên trái.

Đức Giê-su bị nhục mạ (Mc 15:29-32; Lc 23:35)

39 Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu40 vừa nói: ”Mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!” 41 Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Người mà nói: 42 “Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là Vua Ít-ra-en! Hắn cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, chúng ta tin hắn liền! 43 Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: ”Ta là Con Thiên Chúa!” 44 Cả những tên cướp cùng bị đóng đinh với Người cũng sỉ vả Người như thế.

Đức Giê-su trút linh hồn (Mc 15:33-41; Lc 23:44-49; Ga 19:28-30)

45 Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. 46 Vào giờ thứ chín, Đức Giê-su kêu lớn tiếng: ”Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni”, nghĩa là “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” 47 Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: ”Hắn ta gọi ông Ê-li-a!” 48 Lập tức, một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm, buộc vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. 49 Còn những người khác lại bảo: ”Khoan đã, để xem ông Ê-li-a có đến cứu hắn không!” 50 Đức Giê-su lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn.

51 Ngay lúc đó, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Đất rung đá vỡ. 52 Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy. 53 Sau khi Chúa trỗi dậy, các ngài ra khỏi mồ, vào thành thánh, và hiện ra với nhiều người. 54 Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giê-su đều rất đỗi sợ hãi và nói: ”Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.”

55 Ở đó, cũng có nhiều người phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa. Các bà này đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê để giúp đỡ Người. 56 Trong số đó, có bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a mẹ các ông Gia-cô-bê và Giô-xếp, và bà mẹ các con ông Dê-bê-đê.

Mai táng Đức Giê-su (Mc 15:42-47; Lc 23:50-55; Ga 19:38-42)

57 Chiều đến, có một người giàu sang tới. Ông này là người thành A-ri-ma-thê, tên là Giô-xếp, và cũng là môn đệ Đức Giê-su. 58 Ông đến gặp ông Phi-la-tô để xin thi hài Đức Giê-su. Bấy giờ tổng trấn Phi-la-tô ra lệnh trao trả thi hài cho ông. 59 Khi đã nhận thi hài, ông Giô-xếp lấy tấm vải gai sạch mà liệm, 60 và đặt vào ngôi mộ mới, đã đục sẵn trong núi đá, dành cho ông. Ông lăn tảng đá to lấp cửa mồ, rồi ra về. 61 Còn bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a ở lại đó, quay mặt vào mồ.

Lính canh mồ

62 Hôm sau, tức là khi ngày áp lễ đã qua, các thượng tế và những người Pha-ri-sêu kéo nhau đến ông Phi-la-tô, 63 và nói: ”Thưa ngài, chúng tôi nhớ tên bịp bợm ấy khi còn sống có nói: ”Sau ba ngày, Ta sẽ trỗi dậy.” 64 Vậy xin quan lớn truyền canh mộ kỹ càng cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ hắn đến lấy trộm xác rồi phao trong dân là hắn đã từ cõi chết trỗi dậy. Và như thế, chuyện bịp cuối cùng này sẽ còn tệ hại hơn chuyện trước.” 65 Ông Phi-la-tô bảo họ: ”Thì có sẵn lính đó, các ngươi hãy đi mà canh giữ theo cách các ngươi biết!” 66 Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá và cắt lính canh mồ.

Chương 28

Ngôi mộ trống (Mc 16:1-8; Lc 24:1-10; Ga 20:1-10)

1 Sau ngày sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a, đi viếng mộ. 2 Thình lình, đất rung chuyển dữ dội: thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên; 3 diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. 4 Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy chết ngất đi. 5 Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: ”Này các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. 6 Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, 7 rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay.” 8 Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay.

Đức Giê-su hiện ra với các phụ nữ

9 Bỗng Đức Giê-su đón gặp các bà và nói: ”Chào chị em!” Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. 10 Bấy giờ, Đức Giê-su nói với các bà: ”Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó.”

Các thượng tế lừa đảo

11 Các bà đang đi, thì có mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các thượng tế biết mọi việc đã xảy ra. 12 Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn, 13 và bảo: ”Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. 14 Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự.” 15 Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do-thái cho đến ngày nay.

Đức Giê-su hiện ra tại Ga-li-lê, và sai môn đệ đi đến với muôn dân (Mc 16:14-18; Lc 24:36-49; Ga 20:19-23; Cv 1:6-8)

16 Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. 17 Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. 18 Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: ”Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. 19 Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, 20 dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”

Mác-cô

Chương 1

I. GIAI ĐOẠN DỌN ĐƯỜNG CHO SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊ-SU

Ông Gio-an Tẩy Giả rao giảng (Mt 3:1-12; Lc 3:1-18; Ga 1:19-28)

1 Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa:

2 Trong sách ngôn sứ I-sai-a có chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. 3 Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.

4 Đúng theo lời đó, ông Gio-an Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. 5 Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan.

6 Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. 7 Ông rao giảng rằng: ”Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. 8 Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần.”

Đức Giê-su chịu phép rửa (Mt 3:13-17; Lc 3:21-22)

9 Hồi ấy, Đức Giê-su từ Na-da-rét miền Ga-li-lê đến, và được ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan. 10 Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. 11 Lại có tiếng từ trời phán rằng: ”Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.”

Đức Giê-su chịu cám dỗ trong sa mạc (Mt 4:1-11; Lc 4:1-13)

12 Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. 13 Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.

II. SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊ-SU TẠI GA-LI-LÊ

Đức Giê-su khai mạc công việc rao giảng (Mt 4:12-17; Lc 4:14-15)

14 Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. 15 Người nói: ”Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”

Đức Giê-su kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (Mt 4:18-22; Lc 5:1-11)

16 Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-môn với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá. 17 Người bảo họ: ”Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” 18 Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.

19 Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gio-an. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. 20 Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người.

Đức Giê-su giảng dạy tại Ca-phác-na-um và chữa lành một người bị quỷ ám (Lc 4:31-37)

21 Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. 22 Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.

23 Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên 24 rằng: ”Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” 25 Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: ”Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” 26 Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. 27 Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: ”Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” 28 Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê.

Đức Giê-su chữa nhạc mẫu ông Si-môn (Mt 8:14-15; Lc 4:38-39)

29 Vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. 30 Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. 31 Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.

Đức Giê-su chữa cho nhiều người (Mt 8:16-17; Lc 4:40-41)

32 Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. 33 Cả thành xúm lại trước cửa. 34 Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.

Đức Giê-su âm thầm rời Ca-phác-na-um và đi khắp miền Ga-li-lê (Lc 4:42-44)

35 Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. 36 Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. 37 Khi gặp Người, các ông thưa: ”Mọi người đang tìm Thầy đấy!” 38 Người bảo các ông: ”Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” 39 Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.

Đức Giê-su chữa người bị phong hủi (Mt 8:1-4; Lc 5:12-16)

40 Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: ”Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” 41 Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: ”Tôi muốn, anh sạch đi!” 42 Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch. 43 Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, 44 và bảo anh: ”Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.” 45 Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Người không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người.

Chương 2

Đức Giê-su chữa người bại liệt (Mt 9:1-8; Lc 5:17-26)

1 Vài ngày sau, Đức Giê-su trở lại thành Ca-phác-na-um. Hay tin Người ở nhà, 2 dân chúng tụ tập lại, đông đến nỗi trong nhà ngoài sân chứa không hết. Người giảng lời cho họ. 3 Bấy giờ người ta đem đến cho Đức Giê-su một kẻ bại liệt, có bốn người khiêng. 4 Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ không sao khiêng đến gần Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người ngồi, làm thành một lỗ hổng, rồi thả người bại liệt nằm trên chõng xuống. 5 Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: ”Này con, con đã được tha tội rồi.” 6 Nhưng có mấy kinh sư đang ngồi đó, họ nghĩ thầm trong bụng rằng: 7 “Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng! Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?” 8 Tâm trí Đức Giê-su thấu biết ngay họ đang thầm nghĩ như thế, Người mới bảo họ: ”Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy? 9 Trong hai điều: một là bảo người bại liệt: ”Con đã được tha tội rồi”, hai là bảo: ”Đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi”, điều nào dễ hơn? 10 Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội,-Đức Giê-su bảo người bại liệt,-11 Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà!” 12 Người bại liệt đứng dậy, và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ bảo nhau: ”Chúng ta chưa thấy vậy bao giờ!”

Đức Giê-su kêu gọi ông Lê-vi (Mt 9:9; Lc 5:27-28)

13 Đức Giê-su lại đi ra bờ biển hồ. Toàn thể dân chúng đến với Người, và Người dạy dỗ họ. 14 Đi ngang qua trạm thu thuế, Người thấy ông Lê-vi là con ông An-phê, đang ngồi ở đó. Người bảo ông: ”Anh hãy theo tôi!” Ông đứng dậy đi theo Người.

Đức Giê-su dùng bữa với những người tội lỗi (Mt 9:10-13; Lc 5:29-32)

15 Người đến dùng bữa tại nhà ông. Nhiều người thu thuế và người tội lỗi cùng ăn với Đức Giê-su và các môn đệ: con số họ đông và họ đi theo Người. 16 Những kinh sư thuộc nhóm Pha-ri-sêu thấy Người ăn uống với những kẻ tội lỗi và người thu thuế, thì nói với các môn đệ Người: ”Sao! Ông ấy ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi!” 17 Nghe thấy thế, Đức Giê-su nói với họ: ”Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.”

Tranh luận về việc ăn chay (Mt 9:14-17; Lc 5:33-39)

18 Bấy giờ các môn đệ ông Gio-an và các người Pha-ri-sêu đang ăn chay; có người đến hỏi Đức Giê-su: ”Tại sao các môn đệ ông Gio-an và các môn đệ người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?” 19 Đức Giê-su trả lời: ”Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được. 20 Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay trong ngày đó. 21 Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì như vậy, miếng vá mới đã vá vào sẽ kéo vải cũ, khiến chỗ rách lại càng rách thêm. 22 Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu sẽ làm nứt bầu, thế là rượu cũng mất mà bầu cũng hư. Nhưng rượu mới, bầu cũng phải mới!”

Các môn đệ bứt lúa (Mt 12:1-8; Lc 6:1-5)

23 Vào ngày sa-bát, Đức Giê-su đi băng qua một cánh đồng lúa. Dọc đường, các môn đệ bắt đầu bứt lúa. 24 Người Pha-ri-sêu liền nói với Đức Giê-su: ”Ông coi, ngày sa-bát mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được phép!” 25 Người đáp: ”Các ông chưa bao giờ đọc trong Sách sao? Ông Đa-vít đã làm gì, khi ông và thuộc hạ bị thiếu thốn và đói bụng? 26 Dưới thời thượng tế A-bi-a-tha, ông vào nhà Thiên Chúa, ăn bánh tiến, rồi còn cho cả thuộc hạ ăn nữa. Thứ bánh này không ai được phép ăn ngoại trừ tư tế.”

27 Người nói tiếp: ”Ngày sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sa-bát. 28 Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày sa-bát.”

Chương 3

Đức Giê-su chữa người bị bại tay (Mt 12:9-14; Lc 6:6-11)

1 Đức Giê-su lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. 2 Họ rình xem Đức Giê-su có chữa người ấy ngày sa-bát không, để tố cáo Người. 3 Đức Giê-su bảo người bại tay: ”Anh trỗi dậy, ra giữa đây!” 4 Rồi Người nói với họ: ”Ngày sa-bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?” Nhưng họ làm thinh. 5 Đức Giê-su giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá. Người bảo anh bại tay: ”Anh giơ tay ra!” Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường. 6 Ra khỏi đó, nhóm Pha-ri-sêu lập tức bàn tính với phe Hê-rô-đê, để tìm cách giết Đức Giê-su.

Dân chúng đi theo Đức Giê-su

7 Đức Giê-su cùng với các môn đệ của Người lánh về phía Biển Hồ. Từ miền Ga-li-lê, người ta lũ lượt đi theo Người. Và từ miền Giu-đê, 8 từ Giê-ru-sa-lem, từ xứ I-đu-mê, từ vùng bên kia sông Gio-đan và vùng phụ cận hai thành Tia và Xi-đôn, người ta lũ lượt đến với Người, vì nghe biết những gì Người đã làm. 9 Người đã bảo các môn đệ dành sẵn cho Người một chiếc thuyền nhỏ, để khỏi bị đám đông chen lấn. 10 Quả thế, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, khiến ai ai có bệnh cũng đổ xô đến để sờ vào Người. 11 Còn các thần ô uế, hễ thấy Đức Giê-su, thì sấp mình dưới chân Người và kêu lên: ”Ông là Con Thiên Chúa!” 12 Nhưng Người cấm ngặt chúng không được tiết lộ Người là ai.

Đức Giê-su thành lập Nhóm Mười Hai (Mt 10:1-4; Lc 6:12-16)

13 Rồi Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. 14 Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, 15 với quyền trừ quỷ. 16 Người lập Nhóm Mười Hai và đặt tên cho ông Si-môn là Phê-rô, 17 rồi có ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê, và ông Gio-an em ông Gia-cô-bê-Người đặt tên cho hai ông là Bô-a-nê-ghê, nghĩa là con của thiên lôi-, 18 rồi đến các ông An-rê, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Ta-đê-ô, Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, 19 và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt là chính kẻ nộp Người.

Trình thuật: a) Các thân nhân coi Đức Giê-su là mất trí

20 Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. 21 Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.

b) Các kinh sư coi Đức Giê-su là người bị quỷ ám

22 Còn các kinh sư từ Giê-ru-sa-lem xuống thì lại nói rằng Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ.

c) Đức Giê-su trả lời

24 Người liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: ”Xa-tan làm sao trừ Xa-tan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; 25 nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững. 26 Vậy Xa-tan mà chống Xa-tan, Xa-tan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số. 27 Không ai vào nhà một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó.

28 “Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha. 29 Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời” . 30 Đó là vì họ đã nói”ông ấy bị thần ô uế ám.”

Ai mới thật là thân nhân của Đức Giê-su? (Mt 12:46-50; Lc 8:19-21)

31 Mẹ và anh em Đức Giê-su đến, đứng ở ngoài, cho gọi Người ra. 32 Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: ”Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!” 33 Nhưng Người đáp lại: ”Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” 34 Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: ”Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. 35 Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.”

Chương 4

Dụ ngôn người gieo giống (Mt 13:1-9; Lc 8:4-8)

1 Đức Giê-su lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ. Một đám người rất đông tụ họp chung quanh Người, nên Người phải xuống thuyền mà ngồi dưới biển, còn toàn thể đám đông thì ở trên bờ. 2 Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều. Trong lúc giảng dạy, Người nói với họ:

3 “Các người nghe đây! Người gieo giống đi ra gieo giống. 4 Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. 5 Có hạt rơi trên sỏi đá, chỗ không có nhiều đất; nó mọc ngay, vì đất không sâu; 6 nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. 7 Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt và không sinh hoa kết quả. 8 Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nó mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả: hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi, hạt thì được một trăm.” 9 Rồi Người nói: ”Ai có tai nghe thì nghe!”

Tại sao Đức Giê-su dùng dụ ngôn? (Mt 13:10-15; Lc 8:9-10)

10 Khi còn một mình Đức Giê-su, những người thân cận cùng với Nhóm Mười Hai mới hỏi Người về các dụ ngôn. 11 Người nói với các ông: ”Phần anh em, mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã được ban cho anh em; còn với những người kia là những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn, 12 để họ có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, có lắng tai nghe cũng không hiểu, kẻo họ trở lại và được ơn tha thứ.”

Cắt nghĩa dụ ngôn người gieo giống (Mt 13:18-23; Lc 8:11-15)

13 Người còn nói với các ông: ”Anh em không hiểu dụ ngôn này, thì làm sao hiểu được tất cả các dụ ngôn? 14 Người gieo giống đây là người gieo lời. 15 Những kẻ ở bên vệ đường, nơi lời đã gieo xuống, là những kẻ vừa nghe thì Xa-tan liền đến cất lời đã gieo nơi họ. 16 Còn những kẻ được gieo trên sỏi đá là những kẻ khi nghe lời thì liền vui vẻ đón nhận, 17 nhưng họ không đâm rễ mà là những kẻ nông nổi nhất thời; sau đó, khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì lời, họ vấp ngã ngay. 18 Những kẻ khác là những kẻ được gieo vào bụi gai: đó là những kẻ đã nghe lời, 19 nhưng những nỗi lo lắng sự đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác xâm chiếm lòng họ, bóp nghẹt lời khiến lời không sinh hoa kết quả gì. 20 Còn những người khác nữa là những người được gieo vào đất tốt: đó là những người nghe lời và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả, kẻ thì ba mươi, kẻ thì sáu mươi, kẻ thì một trăm.”

Dụ ngôn cái đèn, đấu đong (Lc 8:16-18)

21 Người nói với các ông: ”Chẳng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường? Nào chẳng phải là để đặt trên đế sao? 22 Vì chẳng có gì che giấu mà không phải là để được tỏ bày, chẳng có gì bí ẩn mà không phải là để đưa ra ánh sáng. 23 Ai có tai nghe thì nghe!”

24 Người nói với các ông: ”Hãy để ý tới điều anh em nghe. Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em, và còn cho anh em hơn nữa. 25 Vì ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy mất.”

Dụ ngôn hạt giống tự mọc lên

26 Người nói: ”Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. 27 Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. 28 Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. 29 Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa.”

Dụ ngôn hạt cải (Mt 13:31-32; Lc 13:18-19)

30 Rồi Người lại nói: ”Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được? 31 Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. 32 Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng.”

Kết luận về các dụ ngôn (Mt 13:34)

33 Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể nghe. 34 Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết.

Đức Giê-su dẹp sóng gió (Mt 8:23-27; Lc 8:22-25)

35 Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: ”Chúng ta sang bờ bên kia đi!” 36 Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người. 37 Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. 38 Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: ”Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” 39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: ”Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ. 40 Rồi Người bảo các ông: ”Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” 41 Các ông hoảng sợ và nói với nhau: ”Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”

Chương 5

Người bị quỷ ám ở Ghê-ra-sa (Mt 8:28-34; Lc 8:26-39)

1 Đức Giê-su và các môn đệ sang tới bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất của dân Ghê-ra-sa. 2 Người vừa ra khỏi thuyền, thì từ đám mồ mả, có một kẻ bị thần ô uế ám liền ra đón Người. 3 Anh này thường sống trong đám mồ mả và không ai có thể trói anh ta lại được, dầu phải dùng đến cả xiềng xích. 4 Thật vậy, nhiều lần anh bị gông cùm và bị xiềng xích, nhưng anh đã bẻ gãy xiềng xích, và đập tan gông cùm. Và không ai có thể kiềm chế anh được. 5 Suốt đêm ngày, anh ta cứ ở trong đám mồ mả và trên núi đồi, tru tréo và lấy đá đập vào mình. 6 Thấy Đức Giê-su tự đàng xa, anh ta chạy đến bái lạy Người7 và kêu lớn tiếng rằng: ”Lạy ông Giê-su, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến ông? Nhân danh Thiên Chúa, tôi van ông đừng hành hạ tôi!” 8 Thật vậy, Đức Giê-su đã bảo nó: ”Thần ô uế kia, xuất khỏi người này!” 9 Người hỏi nó: ”Tên ngươi là gì?” Nó thưa: ”Tên tôi là đạo binh, vì chúng tôi đông lắm.” 10 Nó khẩn khoản nài xin Người đừng đuổi chúng ra khỏi vùng ấy. 11 Ở đó có một bầy heo rất đông đang ăn bên sườn núi. 12 Đám thần ô uế nài xin Người rằng: ”Xin sai chúng tôi đến nhập vào những con heo kia.” 13 Người cho phép. Chúng xuất khỏi người đó và nhập vào bầy heo. Cả bầy heo-chừng hai ngàn con- từ trên sườn núi lao xuống biển và chết ngộp dưới đó. 14 Các kẻ chăn heo bỏ chạy, loan tin trong thành và thôn xóm. Thiên hạ đến xem việc gì đã xảy ra. 15 Họ đến cùng Đức Giê-su và thấy kẻ bị quỷ ám ngồi đó, ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo-chính người này đã bị đạo binh quỷ nhập vào. Họ phát sợ. 16 Những người chứng kiến đã kể lại cho họ nghe việc đã xảy ra thế nào cho người bị quỷ ám và chuyện bầy heo. 17 Bấy giờ họ lên tiếng nài xin Người rời khỏi vùng đất của họ.

18 Khi Người xuống thuyền, thì kẻ trước kia đã bị quỷ ám nài xin cho được ở với Người. 19 Nhưng Người không cho phép, Người bảo: ”Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào.” 20 Anh ta ra đi và bắt đầu rao truyền trong miền Thập Tỉnh tất cả những gì Đức Giê-su đã làm cho anh. Ai nấy đều kinh ngạc.

Đức Giê-su chữa một người bị băng huyết và cho con gái ông Gia-ia sống lại (Mt 9:18-26; Lc 8:40-56)

21 Đức Giê-su xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. 22 Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giê-su, ông ta sụp xuống dưới chân Người, 23 và khẩn khoản nài xin: ”Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống.” 24 Người liền ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người.

25 Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, 26 bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. 27 Được nghe đồn về Đức Giê-su, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người. 28 Vì bà tự nhủ: ”Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu.” 29 Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. 30 Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: ”Ai đã sờ vào áo tôi?” 31 Các môn đệ thưa: ”Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: ÀAi đã sờ vào tôi?” 32 Đức Giê-su ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó. 33 Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. 34 Người nói với bà ta: ”Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”

35 Đức Giê-su còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: ”Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” 36 Nhưng Đức Giê-su nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: ”Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.” 37 Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông này là ông Gio-an. 38 Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Đức Giê-su thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. 39 Người bước vào nhà và bảo họ: ”Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” 40 Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm. 41 Người cầm lấy tay nó và nói: ”Ta-li-tha kum”, nghĩa là: ”Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!” 42 Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta kinh ngạc sững sờ. 43 Đức Giê-su nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.

Chương 6

Đức Giê-su về thăm Na-da-rét (Mt 13:53-58; Lc 4:16-30)

1 Đức Giê-su ra khỏi đó và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. 2 Đến ngày sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: ”Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? 3 Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Và họ vấp ngã vì Người. 4 Đức Giê-su bảo họ: ”Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” 5 Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. 6 Người lấy làm lạ vì họ không tin.

Đức Giê-su sai Nhóm Mười Hai đi giảng (Mt 10:5-15; Lc 9:1-6)

7 Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. 8 Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; 9 được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. 10 Người bảo các ông: ”Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. 11 Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.” 12 Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. 13 Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.

Vua Hê-rô-đê và Đức Giê-su (Mt 14:1-2; Lc 9:7-9)

14 Vua Hê-rô-đê nghe biết về Đức Giê-su, vì Người đã nổi danh. Có kẻ nói: ”Đó là ông Gio-an Tẩy Giả từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ.” 15 Kẻ khác nói: ”Đó là ông Ê-li-a.” Kẻ khác nữa lại nói: ”Đó là một ngôn sứ như một trong các ngôn sứ.” 16 Vua Hê-rô-đê nghe thế, liền nói: ”Ông Gio-an, ta đã cho chém đầu, chính ông đã trỗi dậy!”

Ông Gio-an Tẩy Giả bị trảm quyết (Mt 14:3-12)

17 Số là vua Hê-rô-đê đã sai người đi bắt ông Gio-an và xiềng ông trong ngục. Lý do là vì vua đã lấy bà Hê-rô-đi-a, vợ của người anh là Phi-líp-phê, 18 mà ông Gio-an lại bảo: ”Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài!” 19 Bà Hê-rô-đi-a căm thù ông Gio-an và muốn giết ông, nhưng không được. 20 Thật vậy, vua Hê-rô-đê biết ông Gio-an là người công chính thánh thiện, nên sợ ông, và còn che chở ông. Nghe ông nói, nhà vua rất phân vân, nhưng lại cứ thích nghe.

21 Một ngày thuận lợi đến: nhân dịp mừng sinh nhật của mình, vua Hê-rô-đê mở tiệc thết đãi bá quan văn võ và các thân hào miền Ga-li-lê. 22 Con gái bà Hê-rô-đi-a vào biểu diễn một điệu vũ, làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui thích. Nhà vua nói với cô gái: ”Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con.” 23 Vua lại còn thề: ”Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được.” 24 Cô gái đi ra hỏi mẹ: ”Con nên xin gì đây?” Mẹ cô nói: ”Đầu Gio-an Tẩy Giả.” 25 Lập tức cô vội trở vào đến bên nhà vua và xin rằng: ”Con muốn ngài ban ngay cho con cái đầu ông Gio-an Tẩy Giả, đặt trên mâm.” 26 Nhà vua buồn lắm, nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên không muốn thất hứa với cô. 27 Lập tức, vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gio-an tới. Thị vệ ra đi, chặt đầu ông ở trong ngục, 28 bưng đầu ông trên một cái mâm trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ. 29 Nghe tin ấy, môn đệ đến lấy thi hài ông và đặt trong một ngôi mộ.

Đức Giê-su làm cho bánh hoá nhiều lần thứ nhất (Mt 14:13-21; Lc 9:10-17; Ga 6:1-13)

30 Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. 31 Người bảo các ông: ”Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. 32 Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. 33 Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. 34 Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. 35 Vì bấy giờ đã khá muộn, các môn đệ đến gần Người và thưa: ”Ở đây hoang vắng và bây giờ đã khá muộn. 36 Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn.” 37 Người đáp: ”Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi!” Các ông nói với Người: ”Chúng con phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh mà cho họ ăn sao?” 38 Người bảo các ông: ”Anh em có mấy chiếc bánh? Đi coi xem!” Khi biết rồi, các ông thưa: ”Có năm chiếc bánh và hai con cá.” 39 Người ra lệnh cho các ông bảo mọi người ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh. 40 Họ ngồi xuống thành từng đám, chỗ thì một trăm, chỗ thì năm mươi. 41 Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Người cũng chia hai con cá cho mọi người. 42 Ai nấy đều ăn và được no nê. 43 Người ta thu lại những mẩu bánh được mười hai thúng đầy, cùng với cá còn dư. 44 Số người ăn bánh là năm ngàn người đàn ông.

Đức Giê-su đi trên mặt biển hồ (Mt 14:22-33; Ga 6:16-21)

45 Lập tức, Đức Giê-su bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia về phía thành Bết-xai-đa trước, trong lúc Người giải tán đám đông. 46 Sau khi từ biệt các ông, Người lên núi cầu nguyện. 47 Chiều đến, chiếc thuyền đang ở giữa biển hồ, chỉ còn một mình Người ở trên đất. 48 Người thấy các ông phải vất vả chèo chống vì gió ngược, nên vào khoảng canh tư đêm ấy, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông và Người định vượt các ông. 49 Nhưng khi các ông thấy Người đi trên mặt biển, lại tưởng là ma, thì la lên. 50 Quả thế, tất cả các ông đều nhìn thấy Người và đều hoảng hốt. Lập tức, Người bảo các ông: ”Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” 51 Người lên thuyền với các ông, và gió lặng. Các ông cảm thấy bàng hoàng sửng sốt, 52 vì các ông đã không hiểu ý nghĩa phép lạ bánh hoá nhiều: lòng trí các ông còn ngu muội!

Đức Giê-su chữa nhiều người ở Ghen-nê-xa-rét (Mt 14:34-36)

53 Khi qua biển rồi, Đức Giê-su và các môn đệ ghé vào đất liền tại Ghen-nê-xa-rét và lên bờ. 54 Thầy trò vừa ra khỏi thuyền, thì lập tức người ta nhận ra Đức Giê-su. 55 Họ rảo khắp vùng ấy và nghe tin Người ở đâu, thì bắt đầu cáng bệnh nhân đến đó. 56 Người đi tới đâu, vào làng mạc, thành thị hay thôn xóm nào, người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở ngoài đường ngoài chợ, và xin Người cho họ ít là được chạm đến tua áo choàng của Người; và bất cứ ai chạm đến, thì đều được khỏi.

Chương 7

Tranh luận về những truyền thống người Pha-ri-sêu (Mt 15:1-9)

1 Có những người Pha-ri-sêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giê-su. Họ là những người từ Giê-ru-sa-lem đến. 2 Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. 3 Thật vậy, người Pha-ri-sêu cũng như mọi người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; 4 thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng. 5 Vậy, người Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi Đức Giê-su: ”Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” 6 Người trả lời họ: ”Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng:

Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,

còn lòng chúng thì lại xa Ta.

7 Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích,

vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.

8 Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm.” 9 Người còn nói: ”Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông. 10 Quả thế, ông Mô-sê đã dạy rằng: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử! 11 Còn các ông, các ông lại bảo: ”Người nào nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ đều là “co-ban” nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho Chúa” rồi, 12 và các ông không để cho người ấy làm gì để giúp cha mẹ nữa. 13 Thế là các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa. Các ông còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa!”

Cái gì làm cho con người ra ô uế? (Mt 15:10-20)

14 Sau đó, Đức Giê-su lại gọi đám đông tới mà bảo: ”Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: 15 Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. 16 Ai có tai nghe thì nghe!”

17 Khi Đức Giê-su đã rời đám đông mà vào nhà, các môn đệ hỏi Người về dụ ngôn ấy. 18 Người nói với các ông: ”Cả anh em nữa, anh em cũng ngu tối như thế sao? Anh em không hiểu sao? Bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm cho con người ra ô uế, 19 bởi vì nó không đi vào lòng, nhưng vào bụng người ta, rồi bị thải ra ngoài?” Như vậy là Người tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch. 20 Người nói: ”Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. 21 Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, 22 ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. 23 Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.”

III. NHỮNG CUỘC HÀNH TRÌNH CỦA ĐỨC GIÊ-SU Ở NGOÀI MIỀN GA-LI-LÊ

Đức Giê-su chữa con gái một bà gốc Phê-ni-xi xứ Xy-ri (Mt 15:21-28)

24 Đức Giê-su đứng dậy, rời nơi đó, đến địa hạt Tia. Người vào một nhà nọ mà không muốn cho ai biết, nhưng không thể giấu được. 25 Thật vậy, một người đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình dưới chân Người. 26 Bà là người Hy-lạp, gốc Phê-ni-xi thuộc xứ Xy-ri. Bà xin Người trừ quỷ cho con gái bà. 27 Người nói với bà: ”Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con.” 28 Bà ấy đáp: ”Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con.” 29 Người nói với bà: ”Vì bà nói thế, nên bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi.” 30 Về đến nhà, bà thấy đứa trẻ nằm trên giường và quỷ đã xuất.

Đức Giê-su chữa người vừa điếc vừa ngọng

31 Đức Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh. 32 Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giê-su, và xin Người đặt tay trên anh. 33 Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. 34 Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: ”Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra! 35 Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. 36 Đức Giê-su truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. 37 Họ hết sức kinh ngạc, và nói: ”Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.”

Chương 8

Đức Giê-su làm cho bánh hoá nhiều lần thứ hai (Mt 15:32-39)

1 Trong những ngày ấy, lại có một đám rất đông, và họ không có gì ăn, nên Đức Giê-su gọi các môn đệ lại mà nói: 2 “Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi mà không có gì ăn! 3 Nếu Thầy giải tán, để họ nhịn đói mà về nhà, thì họ sẽ bị xỉu dọc đường. Trong số đó, lại có những người ở xa đến.” 4 Các môn đệ thưa Người: ”Ở đây, trong nơi hoang vắng này, lấy đâu ra bánh cho họ ăn no?” 5 Người hỏi các ông: ”Anh em có mấy chiếc bánh?” Các ông đáp: ”Thưa có bảy chiếc.” 6 Người truyền cho họ ngồi xuống đất. Rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, dâng lời tạ ơn, và bẻ ra, trao cho các môn đệ để các ông dọn ra. Và các ông đã dọn ra cho đám đông. 7 Các ông cũng có mấy con cá nhỏ. Người đọc lời chúc tụng, rồi bảo các ông dọn cả cá ra. 8 Đám đông đã ăn và được no nê. Người ta nhặt lấy những mẩu bánh còn thừa: bảy giỏ! 9 Mà đám đông có khoảng bốn ngàn người. Người giải tán họ. 10 Lập tức, Đức Giê-su xuống thuyền với các môn đệ và đến miền Đan-ma-nu-tha.

Người Pha-ri-sêu xin một dấu trên trời (Mt 16:1-4)

11 Những người Pha-ri-sêu kéo ra và bắt đầu tranh luận với Đức Giê-su, họ đòi Người một dấu lạ từ trời để thử Người. 12 Người thở dài não nuột và nói: ”Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ? Tôi bảo thật cho các ông biết: thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả.” 13 Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền qua bờ bên kia.

Men Pha-ri-sêu và men Hê-rô-đê (Mt 16:5-12)

14 Các môn đệ quên đem bánh theo; trên thuyền, các ông chỉ có một chiếc bánh. 15 Người răn bảo các ông: ”Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pha-ri-sêu và men Hê-rô-đê!” 16 Và các ông bàn tán với nhau về chuyện các ông không có bánh. 17 Biết thế, Người nói với các ông: ”Sao anh em lại bàn tán về chuyện anh em không có bánh? Anh em chưa hiểu chưa thấu sao? Lòng anh em ngu muội thế! 18 Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư? Anh em không nhớ sao: 19 khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu thúng đầy mẩu bánh?” Các ông đáp: ”Thưa được mười hai.” 20 “Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu giỏ đầy mẩu bánh?” Các ông nói: ”Thưa được bảy.” 21 Người bảo các ông: ”Anh em chưa hiểu ư?”

Đức Giê-su chữa người mù ở Bết-xai-đa

22 Đức Giê-su và các môn đệ đến Bết-xai-đa. Người ta dẫn một người mù đến và nài xin Đức Giê-su sờ vào anh ta. 23 Người cầm lấy tay anh mù, đưa ra khỏi làng, rồi nhổ nước miếng vào mắt anh, đặt tay trên anh và hỏi: ”Anh có thấy gì không?” 24 Anh ngước mắt lên và thưa: ”Tôi thấy người ta, trông họ như cây cối, họ đi đi lại lại.” 25 Rồi Người lại đặt tay trên mắt anh, anh trông rõ và khỏi hẳn; anh thấy tỏ tường mọi sự. 26 Người cho anh về nhà và dặn: ”Anh đừng có vào làng.”

Ông Phê-rô tuyên xưng đức tin (Mt 16:13-20; Lc 9:18-21)

27 Đức Giê-su và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: ”Người ta nói Thầy là ai?” 28 Các ông đáp: ”Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” 29 Người lại hỏi các ông: ”Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phê-rô trả lời: ”Thầy là Đấng Ki-tô.” 30 Đức Giê-su liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người.

Đức Giê-su loan báo lần thứ nhất cuộc Thương Khó và Phục Sinh (Mt 16:21-23; Lc 9:22)

31 Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. 32 Người nói rõ điều đó, không úp mở. Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người. 33 Nhưng khi Đức Giê-su quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách ông Phê-rô: ”Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”

Những điều kiện để theo Đức Giê-su (Mt 16:24-28; Lc 9:23-27)

34 Rồi Đức Giê-su gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: ”Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. 35 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. 36 Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì? 37 Quả thật, người ta lấy gì mà đổi lại mạng sống mình? 38 Giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì tôi và những lời tôi dạy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh thiên thần, trong vinh quang của Cha Người.”

Chương 9

1 Đức Giê-su còn nói với họ: ”Tôi bảo thật các người: trong số những người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết, trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực.”

Đức Giê-su biến đổi hình dạng (Mt 17:1-8; Lc 9:28-36)

2 Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. 3 Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. 4 Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su. 5 Bấy giờ, ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: ”Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.” 6 Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. 7 Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: ”Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” 8 Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giê-su với các ông mà thôi.

Câu hỏi về ông Ê-li-a (Mt 17:9-12)

9 Ở trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. 10 Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu”từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì. 11 Các ông hỏi Đức Giê-su: ”Tại sao các kinh sư lại nói ông Ê-li-a phải đến trước?” 12 Người đáp: ”Đúng thế, ông Ê-li-a đến trước để chỉnh đốn mọi sự. Vậy sao có lời chép rằng Con Người phải chịu nhiều đau khổ và bị khinh chê? 13 Nhưng Thầy nói cho anh em biết: ông Ê-li-a đã đến, và họ đã xử với ông theo ý họ muốn, như Sách Thánh đã chép về ông.”

Đức Giê-su chữa người bị quỷ ám mắc bệnh động kinh (Mt 17:14-21; Lc 9:37-43 a)

14 Khi Đức Giê-su và ba môn đệ trở lại với các môn đệ khác, thì thấy một đám người rất đông đang vây quanh các ông, và các kinh sư tranh luận với các ông. 15 Thấy Đức Giê-su, lập tức tất cả đám đông kinh ngạc. Họ chạy lại chào Người. 16 Người hỏi các môn đệ: ”Anh em tranh luận gì với họ thế?” 17 Một người trong đám đông trả lời: ”Thưa Thầy, tôi đã đem con trai tôi lại cùng Thầy; cháu bị quỷ câm ám. 18 Bất cứ ở đâu, hễ quỷ nhập vào là vật cháu xuống. Cháu sùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ người ra. Tôi đã nói với các môn đệ Thầy để họ trừ tên quỷ đó, nhưng các ông không làm nổi.” 19 Người đáp: ”Ôi thế hệ cứng lòng, không chịu tin! Tôi phải ở cùng các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa? Đem nó lại đây cho tôi.” 20 Người ta đem nó lại cho Người. Vừa thấy Người, quỷ liền lay nó thật mạnh, nó ngã xuống đất, lăn lộn, sùi cả bọt mép. 21 Người hỏi cha nó: ”Cháu bị như thế từ bao lâu rồi?” Ông ấy đáp: ”Thưa từ thuở bé. 22 Nhiều khi quỷ xô nó vào lửa hoặc đẩy xuống nước cho nó chết. Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì, thì xin chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi.” 23 Đức Giê-su nói với ông ta: ”Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Mọi sự đều có thể đối với người tin.” 24 Lập tức, cha đứa bé kêu lên: ”Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi!” 25 Khi thấy đám đông tuôn đến, Đức Giê-su quát mắng tên quỷ: ”Thần câm điếc kia, Ta truyền cho ngươi: ra khỏi đứa bé và không được nhập vào nó nữa!” 26 Quỷ thét lên, lay nó thật mạnh, rồi ra khỏi. Đứa bé ra như chết, khiến cho nhiều người nói: ”Nó chết rồi!” 27 Nhưng Đức Giê-su cầm lấy tay nó, đỡ nó dậy, và nó đứng lên. 28 Khi Người vào nhà, các môn đệ mới hỏi riêng Người: ”Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?” 29 Người đáp: ”Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi.”

Đức Giê-su loan báo lần thứ hai cuộc Thương Khó và Phục Sinh (Mt 17:22-23; Lc 9:43 b-45)

30 Đức Giê-su và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Ga-li-lê. Nhưng Đức Giê-su không muốn cho ai biết, 31 vì Người đang dạy các môn đệ rằng: ”Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại.” 32 Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người.

Ai là người lớn hơn hết? (Mt 18:1-5; Lc 9:46-48)

33 Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Ca-phác-na-um. Khi về tới nhà, Đức Giê-su hỏi các ông: ”Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?” 34 Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. 35 Rồi Đức Giê-su ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: ”Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.” 36 Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: 37 “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy.”

Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta (Lc 9:49-50)

38 Ông Gio-an nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.” 39 Đức Giê-su bảo: ”Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. 40 Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.

Bác ái đối với môn đệ

41 “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Ki-tô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.

Đừng làm cớ cho người khác và cho mình sa ngã (Mt 18:6-9; Lc 17:1-2)

42 “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn. 43 Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. 44 [ ]45 Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. 46 [ ]47 Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, 48 nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt. 49 Quả thật, ai nấy sẽ được luyện bằng lửa như thể ướp bằng muối. 50 Muối là cái gì tốt. Nhưng muối mà hết mặn, thì anh em sẽ lấy gì ướp cho mặn lại? Anh em hãy giữ muối trong lòng anh em, và sống hoà thuận với nhau.”

Chương 10

Vấn đề ly dị (Mt 19:1-9; Lc 16:18)

1 Đức Giê-su bỏ nơi đó, đi tới miền Giu-đê và vùng bên kia sông Gio-đan. Đông đảo dân chúng lại tuôn đến với Người. Và như thường lệ, Người lại dạy dỗ họ. 2 Có mấy người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giê-su và hỏi rằng: ”Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” Họ hỏi thế là để thử Người. 3 Người đáp: ”Thế ông Mô-sê đã truyền dạy các ông điều gì?” 4 Họ trả lời: ”Ông Mô-sê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ.” 5 Đức Giê-su nói với họ: ”Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông. 6 Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; 7 vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, 8 và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. 9 Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” 10 Khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điều ấy. 11 Người nói: ”Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; 12 và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình.”

Đức Giê-su và các trẻ em (Mt 19:13-15; Lc 18:15-17)

13 Người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ la rầy chúng. 14 Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: ”Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. 15 Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào.” 16 Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng.

Người giàu có muốn theo Đức Giê-su (Mt 19:16-22; Lc 18:18-23)

17 Đức Giê-su vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: ”Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” 18 Đức Giê-su đáp: ”Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. 19 Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ.” 20 Anh ta nói: ”Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.” 21 Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: ”Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” 22 Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.

Người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa (Mt 19:23-26; Lc 18:24-27)

23 Đức Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: ”Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” 24 Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: ”Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! 25 Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” 26 Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: ”Thế thì ai có thể được cứu?” 27 Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: ”Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.”

Đức Giê-su hứa ban phần thưởng cho người biết từ bỏ (Mt 19:27-30; Lc 18:28-30)

28 Ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: ”Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” 29 Đức Giê-su đáp: ”Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, 30 mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau. 31 Quả thật, nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu.”

Đức Giê-su loan báo lần thứ ba cuộc Thương Khó và Phục Sinh (Mt 20:17-19; Lc 18:31-34)

32 Đức Giê-su và các môn đệ đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình: 33 “Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. 34 Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại.”

Lời xin của hai người con ông Dê-bê-đê (Mt 20:20-23)

35 Hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an đến gần Đức Giê-su và nói: ”Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây.” 36 Người hỏi: ”Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” 37 Các ông thưa: ”Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” 38 Đức Giê-su bảo: ”Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” 39 Các ông đáp: ”Thưa được.” Đức Giê-su bảo: ”Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. 40 Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.”

Người làm đầu phải hầu hạ (Mt 20:24-28)

41 Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Gia-cô-bê và ông Gio-an. 42 Đức Giê-su gọi các ông lại và nói: ”Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. 43 Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; 44 ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. 45 Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.”

Người mù ở Giê-ri-khô (Mt 20:29-34; Lc 18:35-43)

46 Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Giê-ri-khô. Khi Đức Giê-su cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giê-ri-khô, thì có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Ba-ti-mê, con ông Ti-mê. 47 Vừa nghe nói đó là Đức Giê-su Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: ”Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” 48 Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: ”Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” 49 Đức Giê-su đứng lại và nói: ”Gọi anh ta lại đây!” Người ta gọi anh mù và bảo: ”Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!” 50 Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giê-su. 51 Người hỏi: ”Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mù đáp: ”Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.” 52 Người nói: ”Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.

Chương 11

IV. SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊ-SU TẠI GIÊ-RU-SA-LEM

Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a (Mt 21:1-11; Lc 19:28-40; Ga 12, 12-19)

1 Khi Đức Giê-su và các môn đệ đến gần thành Giê-ru-sa-lem, gần làng Bết-pha-ghê và Bê-ta-ni-a, bên triền núi Ô-liu, Người sai hai môn đệ 2 và bảo: ”Các anh đi vào làng trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy ngay một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và đem nó về đây. 3 Nếu có ai bảo: ”Tại sao các anh làm như vậy?”, thì cứ nói là Chúa cần đến nó và Người sẽ gởi lại đây ngay.” 4 Các ông ra đi và thấy một con lừa con cột ngoài cửa ngõ, ngay mặt đường. Các ông liền cởi dây lừa ra. 5 Mấy người đứng đó nói với các ông: ”Các anh cởi con lừa ra làm gì vậy?” 6 Hai ông trả lời như Đức Giê-su đã dặn. Và họ để mặc các ông. 7 Hai ông đem con lừa về cho Đức Giê-su, lấy áo choàng của mình trải lên lưng nó, và Đức Giê-su cỡi lên. 8 Nhiều người cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá ngoài đồng mà rải. 9 Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: ”Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! 10 Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!” 11 Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem và đi vào Đền Thờ. Người rảo mắt nhìn xem mọi sự, và vì giờ đã muộn, Người đi ra Bê-ta-ni-a cùng với Nhóm Mười Hai.

Cây vả không sinh trái (Mt 21:18-19)

12 Hôm sau, khi thầy trò rời khỏi Bê-ta-ni-a, thì Đức Giê-su cảm thấy đói. 13 Trông thấy ở đàng xa có một cây vả tốt lá, Người đến xem có tìm được trái nào không. Nhưng khi lại gần, Người không tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi, vì không phải là mùa vả. 14 Người lên tiếng bảo cây vả: ”Muôn đời sẽ chẳng còn ai ăn trái của mày nữa!” Các môn đệ đã nghe Người nói thế.

Đức Giê-su xua đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ (Mt 21:12-17; Lc 19:45-48; Ga 2:13-22)

15 Thầy trò đến Giê-ru-sa-lem. Đức Giê-su vào Đền Thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang mua bán trong Đền Thờ, lật bàn của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu. 16 Người không cho ai được mang đồ vật gì đi qua Đền Thờ. 17 Người giảng dạy và nói với họ: ”Nào đã chẳng có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc sao? Thế mà các người đã biến thành sào huyệt của bọn cướp!” 18 Các thượng tế và kinh sư nghe thấy vậy, thì tìm cách giết Đức Giê-su. Quả thế, họ sợ Người, vì cả đám đông đều rất ngạc nhiên về lời giảng dạy của Người. 19 Chiều đến, Đức Giê-su và các môn đệ ra khỏi thành.

Cây vả bị khô héo. Đức tin và cầu nguyện (Mt 21:20-22)

20 Sáng sớm, khi đi ngang cây vả, các ngài thấy nó đã chết khô tận rễ. 21 Ông Phê-rô sực nhớ lại, liền thưa Đức Giê-su: ”Kìa Thầy xem: cây vả Thầy rủa đã chết khô rồi!” 22 Đức Giê-su nói với các ông: ”Anh em hãy tin vào Thiên Chúa. 23 Thầy bảo thật anh em: nếu có ai nói với núi này: ÀDời chỗ đi, nhào xuống biển!, mà trong lòng chẳng nghi nan, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì sẽ được như ý. 24 Vì thế, Thầy nói với anh em: tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý. 25 Khi anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất bình với ai, thì hãy tha thứ cho họ, để Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng tha lỗi cho anh em. (26 Nhưng nếu anh em không tha thứ, thì Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng sẽ không tha lỗi cho anh em).”

Người Do-thái chất vấn Đức Giê-su về thẩm quyền của Người (Mt 21:23-27; Lc 20:1-8)

27 Đức Giê-su và các môn đệ lại vào Giê-ru-sa-lem. Người đang đi trong Đền Thờ, thì các thượng tế, kinh sư và kỳ mục đến cùng Người và hỏi: 28 “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy, hay ai đã cho ông quyền làm các điều ấy?” 29 Đức Giê-su đáp: ”Tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi. Các ông trả lời đi, rồi tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. 30 Vậy, phép rửa của ông Gio-an là do Trời hay do người ta? Các ông trả lời cho tôi đi!” 31 Họ bàn với nhau: ”Nếu mình nói: ”Do Trời”, thì ông ấy sẽ vặn lại: ”Thế sao các ông lại không tin ông ấy? 32 Nhưng chẳng lẽ mình nói: ”Do người ta” ?” Họ sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gio-an thật là một ngôn sứ. 33 Họ mới trả lời Đức Giê-su: ”Chúng tôi không biết.” Đức Giê-su liền bảo họ: ”Tôi cũng vậy, tôi cũng không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy.”

Chương 12

Dụ ngôn những người làm vườn nho sát nhân (Mt 21:33-46; Lc 20:9-19)

1 Đức Giê-su bắt đầu dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: ”Có người kia trồng được một vườn nho; ông rào giậu chung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. 2 Đến mùa, ông sai một đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi vườn nho mà họ phải nộp. 3 Nhưng họ bắt người đầy tớ, đánh đập và đuổi về tay không. 4 Ông lại sai một đầy tớ khác đến với họ. Họ đánh vào đầu anh ta và hạ nhục. 5 Ông sai một người khác nữa, họ cũng giết luôn. Rồi ông lại sai nhiều người khác: kẻ thì họ đánh, người thì họ giết. 6 Ông chỉ còn một người nữa là người con yêu dấu: người này là người cuối cùng ông sai đến gặp họ; ông nói: ”Chúng sẽ nể con ta.” 7 Nhưng bọn tá điền ấy bảo nhau: ”Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và gia tài sẽ về tay ta.” 8 Thế là họ bắt cậu, giết chết rồi quăng ra bên ngoài vườn nho. 9 Vậy ông chủ vườn nho sẽ làm gì? Ông sẽ đến tiêu diệt các tá điền, rồi giao vườn nho cho người khác. 10 Các ông chưa đọc câu Kinh Thánh này sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. 11 Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta!

12 Họ tìm cách bắt Đức Giê-su, nhưng lại sợ dân chúng; quả vậy, họ thừa hiểu Người đã nhắm vào họ mà kể dụ ngôn ấy. Thế là họ để Người lại đó mà đi.

Vấn đề nộp thuế cho hoàng đế Xê-da (Mt 22:15-22; Lc 20:20-26)

13 Họ cử mấy người Pha-ri-sêu và mấy người thuộc phe Hê-rô-dê đến cùng Người để Người phải lỡ lời mà mắc bẫy. 14 Những người này đến và nói: ”Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Vậy có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không? Chúng tôi phải nộp hay không phải nộp?” 15 Nhưng Đức Giê-su biết họ giả hình, nên Người nói: ”Tại sao các người lại thử tôi? Đem một đồng bạc cho tôi xem!” 16 Họ liền đưa cho Người. Người hỏi: ”Hình và danh hiệu này là của ai đây?” Họ đáp: ”Của Xê-da.” 17 Đức Giê-su bảo họ: ”Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” Và họ hết sức ngạc nhiên về Người.

Vấn đề người chết sống lại (Mt 22:23-33; Lc 20:27-40)

18 Có những người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. Họ hỏi Người: 19 “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta rằng: ”Nếu anh hay em của người nào chết đi, để lại vợ mà không để lại con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình.” 20 Vậy có bảy anh em trai. Người thứ nhất lấy vợ, nhưng chết đi mà không để lại một đứa con nối dòng. 21 Người thứ hai lấy bà đó, rồi cũng chết mà không để lại một đứa con nối dòng. Người thứ ba cũng vậy. 22 Cả bảy người đều không để lại một đứa con nối dòng. Sau cùng, người đàn bà cũng chết. 23 Trong ngày sống lại, khi họ sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong số họ? Vì bảy người đó đã lấy bà làm vợ.”

24 Đức Giê-su nói: ”Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà các ông lầm sao? 25 Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời. 26 Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, các ông đã không đọc trong sách Mô-sê đoạn nói về bụi gai sao? Thiên Chúa phán với ông ấy thế nào? Người phán: Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp. 27 Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to!”

Điều răn đứng hàng đầu (Mt 23:34-40; Lc 10:25-28)

28 Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giê-su và những người thuộc nhóm Xa-đốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giê-su đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi: ”Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” 29 Đức Giê-su trả lời: ”Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. 30 Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. 31 Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” 32 Ông kinh sư nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. 33 Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.” 34 Đức Giê-su thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: ”Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa.

Đấng Ki-tô là Con và là Chúa của vua Đa-vít (Mt 22:41-46; Lc 20:41-44)

35 Khi giảng dạy trong Đền Thờ, Đức Giê-su lên tiếng hỏi: ”Sao các kinh sư lại nói Đấng Ki-tô là con vua Đa-vít? 36 Chính vua Đa-vít được Thánh Thần soi sáng đã nói: Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi: bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con.

37 Chính vua Đa-vít gọi Đấng Ki-tô là Chúa Thượng, thì Đấng Ki-tô lại là con vua ấy thế nào được?” Đám người đông đảo nghe Đức Giê-su cách thích thú.

Đức Giê-su lên án các kinh sư (Mt 23:1-36; Lc 20:45-47)

38 Trong lúc giảng dạy, Đức Giê-su nói rằng: ”Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. 39 Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. 40 Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.”

Tiền dâng cúng của bà goá nghèo (Lc 21:1-4)

41 Đức Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. 42 Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rô-ma. 43 Đức Giê-su liền gọi các môn đệ lại và nói: ”Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. 44 Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.”

Chương 13

Bài giảng cánh chung: Nhập đề (Mt 24:1-3; Lc 21:5-6)

1 Đang khi Đức Giê-su ra khỏi Đền Thờ, thì một trong các môn đệ nói với Người: ”Thưa Thầy, Thầy xem: đá lớn thật! Công trình kiến trúc vĩ đại thật!” 2 Đức Giê-su đáp: ”Anh nhìn ngắm công trình vĩ đại đó ư? Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ.”

3 Lúc Đức Giê-su ngồi trên núi Ô-liu, đối diện với Đền Thờ, các ông Phê-rô, Gia-cô-bê, Gio-an và An-rê hỏi riêng Người: 4 “Xin Thầy nói cho chúng con biết bao giờ các sự việc ấy sẽ xảy ra, và khi tất cả sắp đến hồi chung cục, thì có điềm gì báo trước?”

Khởi đầu các cơn đau đớn (Mt 24:4-13; Lc 21:8-19)

5 Đức Giê-su bắt đầu nói với các ông: ”Anh em hãy coi chừng kẻo bị người ta lừa gạt. 6 Sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: ”Chính Ta đây!”, và họ sẽ lừa gạt được nhiều người. 7 Khi anh em nghe có giặc giã và tin đồn giặc giã, thì đừng khiếp sợ. Những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là chung cục. 8 Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có động đất ở nhiều nơi, sẽ có những cơn đói kém. Những sự việc ấy là khởi đầu các cơn đau đớn.

9 “Phần anh em, anh em hãy coi chừng! Người ta sẽ nộp anh em cho các hội đồng và các hội đường; anh em sẽ bị đánh đòn; anh em sẽ phải ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ được biết. 10 Nhưng trước tiên, Tin Mừng phải được rao giảng cho mọi dân tộc.

11 “Khi người ta điệu anh em đi nộp, thì anh em đừng lo trước phải nói gì, nhưng trong giờ đó, Thiên Chúa cho anh em biết điều gì, thì hãy nói điều ấy: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thánh Thần nói. 12 Anh em sẽ nộp nhau cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. 13 Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.

Những ngày gian nan tại Giê-ru-sa-lem (Mt 24:15-28; Lc 21:20-24)

14 “Khi anh em thấy Đồ-Ghê-Tởm-Khốc-Hại đứng ở nơi nó không được phép đứng-người đọc hãy lo mà hiểu!-, thì bấy giờ ai ở miền Giu-đê, hãy trốn lên núi; 15 ai ở trên sân thượng thì đừng xuống và đừng vào lấy gì ra khỏi nhà; 16 ai ở ngoài đồng, đừng trở lại lấy áo choàng của mình. 17 Khốn thay những người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó! 18 Anh em hãy cầu xin cho điều ấy đừng xảy ra vào mùa đông. 19 Vì những ngày đó sẽ là những ngày gian nan đến mức từ lúc khởi đầu, khi Thiên Chúa tạo thành vạn vật cho đến bây giờ, chưa khi nào xảy ra và sẽ không còn xảy ra như vậy nữa. 20 Nếu Chúa không rút ngắn những ngày ấy lại, thì không ai được cứu thoát; nhưng vì những kẻ Người đã tuyển chọn, Người đã rút ngắn những ngày ấy lại. 21 Bấy giờ, nếu có ai bảo anh em: ”Này, Đấng Ki-tô ở đây! Kìa, Đấng Ki-tô ở đó!”, anh em đừng có tin. 22 Thật vậy, sẽ có những ki-tô giả và ngôn sứ giả xuất hiện, làm những dấu lạ và những việc phi thường, để lừa gạt những người đã được tuyển chọn, nếu có thể. 23 Phần anh em, hãy coi chừng: Thầy đã báo trước tất cả cho anh em!

Con Người quang lâm (Mt 24:29-31; Lc 21:25-28)

24 “Nhưng trong những ngày đó, sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, 25 các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. 26 Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. 27 Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời.

Dụ ngôn cây vả (Mt 24:32-36; Lc 21:29-33)

28 “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. 29 Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi. 30 Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. 31 Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu. 32 “Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi.

Phải tỉnh thức và sẵn sàng (Mt 24:36-44)

33 “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. 34 Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức. 35 Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. 36 Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ. 37 Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!”

Chương 14

V. CUỘC THƯƠNG KHÓ VÀ PHỤC SINH CỦA ĐỨC GIÊ-SU

Người Do-thái âm mưu hại Đức Giê-su (Mt 26:1-5; Lc 22:1-2; Ga 11:45-53)

1 Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu bắt Đức Giê-su và giết đi; 2 vì họ nói: ”Đừng làm vào chính ngày lễ, kẻo dân chúng náo động.”

Xức dầu tại Bê-ta-ni-a (Mt 26:6-13; Ga 12:1-8)

3 Lúc đó, Đức Giê-su đang ở làng Bê-ta-ni-a, tại nhà ông Si-mon Cùi. Giữa lúc Người dùng bữa, có một người phụ nữ đến, mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng nguyên chất thứ đắt tiền. Cô đập ra, đổ dầu thơm trên đầu Người. 4 Có vài người lấy làm bực tức, nói với nhau: ”Phí dầu thơm như thế để làm gì? 5 Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo.” Rồi họ gắt gỏng với cô. 6 Nhưng Đức Giê-su bảo họ: ”Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. 7 Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu! 8 Điều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng. 9 Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ, thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô.”

Giu-đa phản bội (Mt 26:14-16; Lc 22:3-6)

10 Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. 11 Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền. Giu-đa liền tìm cách nộp Người sao cho tiện.

Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua (Mt 26:17-19; Lc 22:7-13)

12 Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Đức Giê-su: ”Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?” 13 Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: ”Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. 14 Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: ”Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu? 15 Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta.” 16 Hai môn đệ ra đi. Vào đến thành, các ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua.

Đức Giê-su báo Giu-đa sẽ phản bội (Mt 26:20-25; Lc 22:21-23; Ga 13:21-30)

17 Chiều đến, Đức Giê-su và Nhóm Mười Hai cùng tới. 18 Đang khi dùng bữa, Người nói: ”Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy.” 19 Các môn đệ đâm ra buồn rầu, và lần lượt hỏi Người: ”Chẳng lẽ con sao?” 20 Người đáp: ”Chính là một trong Nhóm Mười Hai đây, mà là người chấm chung một đĩa với Thầy. 21 Đã hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!”

Đức Giê-su lập bí tích Thánh Thể (Mt 26:26-29; Lc 22:14-20; ICo 11:23-25)

22 Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: ”Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy.” 23 Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. 24 Người bảo các ông: ”Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. 25 Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa.”

Đức Giê-su tiên báo ông Phê-rô sẽ chối Người (Mt 26:30-35; Lc 22:31-34; Ga 13:36-38)

26 Hát thánh vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra núi Ô-liu. 27 Đức Giê-su nói với các ông: ”Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác. 28 Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em.” 29 Ông Phê-rô liền thưa: ”Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không.” 30 Đức Giê-su nói với ông: ”Thầy bảo thật anh: hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì chính anh, anh đã chối Thầy đến ba lần.” 31 Nhưng ông Phê-rô lại nói quả quyết hơn: ”Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy.

Tại vườn Ghết-sê-ma-ni (Mt 26:36-46; Lc 22:39-46)

32 Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni. Người nói với các ông: ”Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện.” 33 Rồi Người đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo. Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. 34 Người nói với các ông: ”Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức.” 35 Người đi xa hơn một chút, sấp mình xuống đất mà cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy, nếu có thể được. 36 Người nói: ”Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn.” 37 Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ đang ngủ, liền nói với ông Phê-rô: ”Si-mon, anh ngủ à? Anh không thức nổi một giờ sao? 38 Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối.” 39 Người lại đi cầu nguyện, kêu xin như lần trước. 40 Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ vẫn ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. Các ông chẳng biết trả lời làm sao với Người. 41 Lần thứ ba, Người trở lại và bảo các ông: ”Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Thôi, đủ rồi. Giờ đã điểm. Này Con Người bị nộp vào tay phường tội lỗi. 42 Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!”

Đức Giê-su bị bắt (Mt 26:47-56; Lc 22:47-53; Ga 18:3-11)

43 Ngay lúc đó, khi Người còn đang nói, thì Giu-đa, một người trong Nhóm Mười Hai, xuất hiện. Cùng đi với hắn, có một đám đông mang gươm giáo gậy gộc. Họ được các thượng tế, kinh sư và kỳ mục sai đến. 44 Kẻ nộp Đức Giê-su đã cho họ một ám hiệu, hắn dặn rằng: ”Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận.” 45 Vừa tới, Giu-đa tiến lại gần Người và nói: ”Thưa Thầy!”, rồi hôn Người. 46 Họ liền tra tay bắt Người. 47 Nhưng một trong những kẻ đang có mặt tại đó tuốt gươm ra, chém phải tên đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai.

48 Đức Giê-su nói với họ: ”Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến bắt? 49 Ngày ngày, tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy ở Đền Thờ, mà các ông không bắt. Nhưng thế này là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm.” 50 Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết. 51 Trong khi đó có một cậu thanh niên đi theo Người, mình khoác vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh. 52 Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng.

Đức Giê-su ra trước Thượng Hội Đồng (Mt 26:57-68; Lc 22:54-55, 63-71; Ga 18:13-14, 19-24)

53 Họ điệu Đức Giê-su đến vị thượng tế. Các thượng tế, kỳ mục và kinh sư tề tựu đông đủ. 54 Ông Phê-rô theo Người xa xa, vào tận bên trong dinh thượng tế, và ngồi sưởi bên đống lửa với đám thuộc hạ.

55 Bấy giờ các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm lời chứng buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình, nhưng họ tìm không ra, 56 vì tuy có nhiều kẻ đưa chứng gian tố cáo Người, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau. 57 Có vài kẻ đứng lên cáo gian Người rằng: 58 “Chúng tôi có nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!” 59 Nhưng ngay về điểm này, chứng của họ cũng không ăn khớp với nhau.

60 Bấy giờ vị thượng tế đứng lên giữa hội đồng hỏi Đức Giê-su: ”Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?” 61 Nhưng Đức Giê-su vẫn làm thinh, không đáp một tiếng. Vị thượng tế lại hỏi Người: ”Ông có phải là Đấng Ki-tô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?” 62 Đức Giê-su trả lời: ”Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.” 63 Vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: ”Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? 64 Quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?” Tất cả đều kết án Người đáng chết.

65 Thế là một số bắt đầu khạc nhổ vào Người, bịt mặt Người lại, vừa đánh đấm Người vừa nói: ”Hãy nói tiên tri đi!” Và đám thuộc hạ tát Người túi bụi.

26 Ông Phê-rô chối Thầy (Mt 26, 69-75; Lc 22:56-62; Ga 18:15-18, 25-27)66 Ông Phê-rô đang ở dưới sân, có một người tớ gái của thượng tế đi tới; 67 thấy ông ngồi sưởi, cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói: ”Cả bác nữa, bác cũng đã ở với cái ông người Na-da-rét, ông Giê-su đó chứ gì!” 68 Ông liền chối: ”Tôi chẳng biết, chẳng hiểu cô muốn nói gì!” Rồi ông bỏ đi ra phía tiền sảnh. Bấy giờ có tiếng gà gáy. 69 Người tớ gái thấy ông, lại bắt đầu nói với những người đứng đó: ”Bác này cũng thuộc bọn chúng đấy.” 70 Nhưng ông Phê-rô lại chối. Một lát sau, những người đứng đó lại nói với ông: ”Đúng là bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người Ga-li-lê!” 71 Nhưng ông Phê-rô liền thốt lên những lời độc địa và thề rằng: ”Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!” 72 Ngay lúc đó, gà gáy lần thứ hai. Ông Phê-rô sực nhớ điều Đức Giê-su đã nói với mình: ”Gà chưa kịp gáy hai lần, thì anh đã chối Thầy đến ba lần.” Thế là ông oà lên khóc.

Chương 15

Đức Giê-su ra trước tổng trấn Phi-la-tô (Mt 27:1-2. 11-26; Lc 23:1-5, 13-25; Ga 18:28- 19:16)

1 Vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giê-su lại và giải đi nộp cho ông Phi-la-tô.

2 Ông Phi-la-tô hỏi Người: ”Ông là vua dân Do-thái sao?” Người trả lời: ”Đúng như ngài nói đó.” 3 Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, 4 nên ông Phi-la-tô lại hỏi Người: ”Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!” 5 Nhưng Đức Giê-su không trả lời gì nữa, khiến ông Phi-la-tô phải ngạc nhiên.

6 Vào mỗi dịp lễ lớn, ông thường phóng thích cho dân một người tù, tuỳ ý họ xin. 7 Khi ấy có một người tên là Ba-ra-ba, đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi dậy. 8 Đám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. 9 Đáp lời họ yêu cầu, ông Phi-la-tô hỏi: ”Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Do-thái không?” 10 Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Người. 11 Nhưng các thượng tế sách động đám đông đòi ông Phi-la-tô phóng thích tên Ba-ra-ba thì hơn. 12 Ông Phi-la-tô lại hỏi: ”Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do-thái?” 13 Họ la lên: ”Đóng đinh nó vào thập giá!” 14 Ông Phi-la-tô lại hỏi: ”Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?” Họ càng la to: ”Đóng đinh nó vào thập giá!” 15 Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Phi-la-tô phóng thích tên Ba-ra-ba, truyền đánh đòn Đức Giê-su, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá.

Đức Giê-su đội vòng gai (Mt 27:27-31; Ga 19:2-3)

16 Lính điệu Đức Giê-su vào bên trong công trường, tức là dinh tổng trấn, và tập trung cả cơ đội lại. 17 Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. 18 Rồi chúng bái chào Người: ”Vạn tuế đức vua dân Do-thái!” 19 Chúng lấy cây sậy đập lên đầu Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy. 20 Chế giễu chán, chúng lột áo điều ra, và cho Người mặc áo lại như trước. Sau đó, chúng dẫn Người đi để đóng đinh vào thập giá.

Đường lên Gôn-gô-tha (Mt 27:32-33; Lc 23:26. 33; Ga 19:16 b-17)

21 Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Si-môn, gốc Ky-rê-nê. Ông là thân phụ hai ông A-lê-xan-đê và Ru-phô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Đức Giê-su. 22 Chúng đưa Người lên một nơi gọi là Gôn-gô-tha, nghĩa là Đồi Sọ.

Đức Giê-su chịu đóng đinh vào thập giá (Mt 27:34-38; Lc 23:33-34. 38; Ga 19:18-24)

23 Chúng trao rượu pha mộc dược cho Người, nhưng Người không uống. 24 Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì. 25 Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba. 26 Bản án xử tội Người viết rằng: ”Vua người Do-thái” . 27 Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. (28 Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp. )

Đức Giê-su ở trên thập giá bị sỉ vả nhạo cười (Mt 27:39-44; Lc 23:35-37)

29 Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: ”Ê, mi là kẻ phá Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, 30 có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!” 31 Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người như vậy, họ nói với nhau: ”Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. 32 Ông Ki-tô vua Ít-ra-en, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin.” Cả những tên cùng chịu đóng đinh với Người cũng nhục mạ Người.

Đức Giê-su chết trên thập giá (Mt 27:45-54; Lc 23:44-48; Ga 19:28-30)

33 Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. 34 Vào giờ thứ chín, Đức Giê-su kêu lớn tiếng: ”Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma xa-bác-tha-ni!” Nghĩa là: ”Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” 35 Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: ”Kìa hắn kêu cứu ông Ê-li-a.” 36 Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: ”Để xem ông Ê-li-a có đến đem hắn xuống không.” 37 Đức Giê-su lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. 38 Bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. 39 Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giê-su, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: ”Quả thật, người này là Con Thiên Chúa.”

Các phụ nữ đạo đức trên Gôn-gô-tha (Mt 27:55-56; Lc 23:49)

40 Nhưng cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a mẹ các ông Gia-cô-bê Thứ và Giô-xết, cùng bà Sa-lô-mê. 41 Các bà này đã đi theo và giúp đỡ Đức Giê-su khi Người còn ở Ga-li-lê. Lại có nhiều bà khác đã cùng với Người lên Giê-ru-sa-lem, cũng có mặt tại đó.

Đức Giê-su được mai táng (Mt 27:57-61; Lc 23:50-56; Ga 19:38-42)

42 Chiều đến, vì hôm ấy là ngày áp lễ, tức là hôm trước ngày sa-bát, 43 nên ông Giô-xếp tới. Ông là người thành A-ri-ma-thê, thành viên có thế giá của hội đồng, và cũng là người vẫn mong đợi Triều Đại của Thiên Chúa. Ông đã mạnh dạn đến gặp tổng trấn Phi-la-tô để xin thi hài Đức Giê-su. 44 Nghe nói Người đã chết, ông Phi-la-tô lấy làm ngạc nhiên, và cho đòi viên đại đội trưởng đến, hỏi xem Người đã chết lâu chưa. 45 Sau khi nghe viên sĩ quan cho biết sự việc, tổng trấn đã cho ông Giô-xếp lãnh lấy thi hài. 46 Ông này mua một tấm vải gai, hạ xác Đức Giê-su xuống, lấy tấm vải ấy liệm Người lại, đem đặt vào ngôi mộ đã đục sẵn trong núi đá, rồi lăn tảng đá lấp cửa mộ. 47 Còn bà Ma-ri-a Mác-đa-la và bà Ma-ri-a mẹ ông Giô-xết, thì để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người.

Chương 16

Ngôi mộ trống. Thiên thần báo tin (Mt 28:1-8; Lc 24:1-12; Ga 20:1-10)

1 Vừa hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su. 2 Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.

3 Các bà bảo nhau: ”Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?” 4 Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm. 5 Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ. 6 Nhưng người thanh niên liền nói: ”Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này! 7 Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông.” 8 Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi.

Đức Giê-su phục sinh hiện ra (Mt 28:9-20; Lc 24:13-53; Ga 20:11-23; Cv 1:6-11)

9 Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giê-su hiện ra trước tiên với bà Ma-ri-a Mác-đa-la, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ. 10 Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Người mà nay đang buồn bã khóc lóc. 11 Nghe bà nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin.

12 Sau đó, Người tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường đi về quê. 13 Họ trở về báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này.

14 Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy. 15 Người nói với các ông: ”Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. 16 Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. 17 Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. 18 Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.”

19 Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. 20 Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.

Lu-ca

Chương 1

Lời tựa

1 Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta. 2 Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta. 3 Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, 4 mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc.

I. THỜI THƠ ẤU: ÔNG GIO-AN TẨY GIẢ VÀ ĐỨC GIÊ-SU SINH RA VÀ SỐNG ẨN DẬT

Truyền tin cho ông Da-ca-ri-a

5 Thời vua Hê-rô-đê cai trị miền Giu-đê, có một vị tư tế thuộc nhóm A-vi-gia, tên là Da-ca-ri-a; vợ ông là Ê-li-sa-bét cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron. 6 Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì. 7 Nhưng họ lại không có con, vì bà Ê-li-sa-bét là người hiếm hoi. Vả lại, cả hai đều đã cao niên.

8 Sau đây là chuyện xảy ra trong lúc ông đang lo việc tế tự trước nhan Thiên Chúa khi đến phiên của nhóm ông: 9 Trong cuộc bắt thăm thường lệ của hàng tư tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của Đức Chúa. 10 Trong giờ dâng hương đó, toàn thể dân chúng cầu nguyện ở bên ngoài.

11 Bỗng một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. 12 Thấy vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối, và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. 13 Nhưng sứ thần bảo ông: ”Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an. 14 Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời. 15 Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. 16 Em sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. 17 Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa.” 18 Ông Da-ca-ri-a thưa với sứ thần: ”Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi.” 19 Sứ thần đáp: ”Tôi là Gáp-ri-en, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. 20 Và này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi.” 21 Dân chúng đợi ông Da-ca-ri-a, và lấy làm lạ sao ông ở lại trong cung thánh lâu như thế. 22 Lúc đi ra, ông không nói với họ được, và dân chúng biết là ông đã thấy một thị kiến trong cung thánh. Còn ông, ông chỉ làm hiệu cho họ và vẫn bị câm.

23 Khi thời gian phục vụ ở Đền Thờ đã mãn, ông trở về nhà. 24 Ít lâu sau, bà Ê-li-sa-bét vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng. 25 Bà tự nhủ: ”Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời.”

Truyền tin cho Đức Ma-ri-a

26 Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, 27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.

28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: ”Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” 29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.

30 Sứ thần liền nói: ”Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. 31 Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. 32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. 33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”

34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: ”Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”

35 Sứ thần đáp: ”Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. 36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. 37 Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”

38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: ”Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

Đức Ma-ri-a viếng thăm bà Ê-li-sa-bét

39 Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. 40 Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. 41 Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, 42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng: ”Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. 43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? 44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. 45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”

Bài ca”Ngợi Khen” (Magnificat)

46 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói:

“ Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,

47 thần trí tôi hớn hở vui mừng

vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

48 Phận nữ tỳ hèn mọn,

Người đoái thương nhìn tới;

từ nay, hết mọi đời

sẽ khen tôi diễm phúc.

49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi

biết bao điều cao cả,

danh Người thật chí thánh chí tôn!

50 Đời nọ tới đời kia,

Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.

51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,

dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế,

Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,

người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

54 Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,

55 như đã hứa cùng cha ông chúng ta,

vì Người nhớ lại lòng thương xót

dành cho tổ phụ Áp-ra-ham

và cho con cháu đến muôn đời.”

56 Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.

Ông Gio-an Tẩy Giả ra đời, láng giềng chia vui

57 Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Ê-li-sa-bét sinh hạ một con trai. 58 Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà.

Ông Gio-an Tẩy Giả chịu phép cắt bì

59 Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em. 60 Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: ”Không, phải đặt tên cháu là Gio-an.” 61 Họ bảo bà: ”Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả.” 62 Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì. 63 Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: ”Tên cháu là Gio-an.” Ai nấy đều bỡ ngỡ. 64 Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. 65 Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê. 66 Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: ”Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.

Bài ca”Chúc Tụng” (Benedictus)

67 Bấy giờ, người cha của em, tức là ông Da-ca-ri-a, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng:

68 “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en

đã viếng thăm cứu chuộc dân Người.

69 Từ dòng dõi trung thần Đa-vít,

Người đã cho xuất hiện

Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta,

70 như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ

mà phán hứa tự ngàn xưa:

71 sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù,

thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét;

72 sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên

và nhớ lại lời xưa giao ước;

73 Chúa đã thề với tổ phụ Áp-ra-ham

rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù,

74 và cho ta chẳng còn sợ hãi,

75 để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người,

mà phụng thờ Người suốt cả đời ta.

76 Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu

là ngôn sứ của Đấng Tối Cao:

con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người,

77 bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ

là tha cho họ hết mọi tội khiên.

78 Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn,

cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta,

79soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối

và trong bóng tử thần,

dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” .

Ông Gio-an Tẩy Giả sống ẩn dật

80 Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en.

Chương 2

Đức Giê-su ra đời. Những người chăn chiên đến viếng thăm (Mt 1:18-25)

1 Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. 2 Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri. 3 Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. 4 Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít tức là Bê-lem, miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đa-vít. 5 Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. 6 Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. 7 Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.

8 Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. 9 Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. 10 Nhưng sứ thần bảo họ: ”Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: 11 Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa. 12 Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” 13 Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:

14 “Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”

15 Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: ”Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết.” 16 Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. 17 Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. 18 Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. 19 Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. 20 Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.

Đức Giê-su chịu phép cắt bì

21 Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.

Tiến dâng Đức Giê-su cho Thiên Chúa

22 Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, 23 như đã chép trong Luật Chúa rằng: ”Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”, 24 và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. 25 Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. 26 Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. 27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, 28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

Bài ca”An Bình Ra Đi” (Nunc dimittis)

29 “Muôn lạy Chúa, giờ đây

theo lời Ngài đã hứa,

xin để tôi tớ này được an bình ra đi.

30 Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ

31 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:

32 Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,

là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.”

Ông Si-mê-ôn nói tiên tri

33 Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-ôn vừa nói về Người. 34 Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: ”Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; 35 và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.”

Bà An-na nói tiên tri

36 Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là An-na, con ông Pơ-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, 37 rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. 38 Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.

Đức Giê-su tiếp tục sống ẩn dật tại Na-da-rét

39 Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê. 40 Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.

Đức Giê-su ngồi giữa các bậc thầy Do-thái

41 Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua. 42 Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ. 43 Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết. 44 Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. 45 Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm.

46 Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. 47 Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu. 48 Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: ”Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” 49 Người đáp: ”Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” 50 Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.

Đức Giê-su còn sống ẩn dật tại Na-da-rét

51 Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. 52 Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.

Chương 3

II. ĐỨC GIÊ-SU CHUẨN BỊ THI HÀNH SỨ MỆNH

Ông Gio-an Tẩy Giả rao giảng (Mt 3:1-12; Mc 1:2-6; Ga 1:19-28)

1 Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô, thời Phong-xi-ô Phi-la-tô làm tổng trấn miền Giu-đê, Hê-rô-đê làm tiểu vương miền Ga-li-lê, người em là Phi-líp-phê làm tiểu vương miền I-tu-rê và Tra-khô-nít, Ly-xa-ni-a làm tiểu vương miền A-bi-lên, 2 Kha-nan và Cai-pha làm thượng tế, có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Da-ca-ri-a là ông Gio-an trong hoang địa. 3 Ông liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội, 4 như có lời chép trong sách ngôn sứ I-sai-a rằng: Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. 5 Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. 6 Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.

7 Đám đông lũ lượt kéo đến xin ông Gio-an làm phép rửa; ông nói với họ: ”Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? 8 Các anh hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối. Và đừng vội nghĩ bụng rằng: Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham; vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham. 9 Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.”

10 Đám đông hỏi ông rằng: ”Chúng tôi phải làm gì đây?” 11 Ông trả lời: ”Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.” 12 Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: ”Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?” 13 Ông bảo họ: ”Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.” 14 Binh lính cũng hỏi ông: ”Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?” Ông bảo họ: ”Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.”

15 Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gio-an lại chẳng là Đấng Mê-si-a! 16 Ông Gio-an trả lời mọi người rằng: ”Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa. 17 Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.” 18 Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ.

Ông Gio-an Tẩy Giả bị bỏ tù

19 Còn tiểu vương Hê-rô-đê thì bị ông Gio-an khiển trách vì đã lấy bà Hê-rô-đi-a là vợ của người anh, và vì tất cả các tội ác tiểu vương đã phạm. 20 Ngoài ra, tiểu vương còn phạm thêm tội này là bỏ tù ông Gio-an.

Đức Giê-su chịu phép rửa (Mt 3:13-17; Mc 1:9-11)

21 Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giê-su cũng chịu phép rửa, và đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra, 22 và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con.

Gia phả Đức Giê-su Ki-tô (Mt 1:1-17)

23 Khi Đức Giê-su khởi sự rao giảng, Người trạc ba mươi tuổi. Thiên hạ vẫn coi Người là con ông Giu-se. Giu-se là con Ê-li, 24 Ê-li con Mát-tát, Mát-tát con Lê-vi, Lê-vi con Man-ki, Man-ki con Gian-nai, Gian-nai con Giô-xếp. 25 Giô-xếp con Mát-tít-gia, Mát-tít-gia con A-mốt, A-mốt con Na-khum, Na-khum con Khét-li, Khét-li con Nác-gai. 26 Nác-gai con Ma-khát, Ma-khát con Mát-tít-gia, Mát-tít-gia con Sim-y, Sim-y con Giô-xếch, Giô-xếch con Giô-đa. 27 Giô-đa con Giô-kha-nan, Giô-kha-nan con Rê-sa, Rê-sa con Dơ-rúp-ba-ven, Dơ-rúp-ba-ven con San-ti-ên.

28 Nê-ri con Man-ki, Man-ki con Át-đi, Át-đi con Cô-xam, Cô-xam con En-mơ-đam, En-mơ-đam con E. 29 E con Giê-su, Giê-su con Ê-li-e-de, Ê-li-e-de con Giô-rim, Giô-rim con Mát-tát, Mát-tát con Lê-vi. 30 Lê-vi con Si-mê-ôn, Si-mê-ôn con Giu-đa, Giu-đa con Giô-xếp, Giô-xếp con Giô-nam, Giô-nam con En-gia-kim, 31 En-gia-kim con Ma-li-a, Ma-li-a con Mi-na, Mi-na con Mát-tát-ta, Mát-tát-ta con Na-than, Na-than con Đa-vít.

32 Đa-vít con Gie-sê. Gie-sê con Ô-vết, Ô-vết con Bô-át, Bô-át con Xan-môn, Xan-môn con Nác-sôn. 33 Nác-sôn con Am-mi-na-đáp, Am-mi-na-đáp con Át-min, Át-min con Ác-ni, Ác-ni con Khét-rôn, Khét-rôn con Pe-rét, Pe-rét con Giu-đa. 34 Giu-đa con Gia-cóp, Gia-cóp con I-xa-ác, I-xa-ác con Áp-ra-ham.

35 Na-kho con Xơ-rúc, Xơ-rúc con Rơ-u, Rơ-u con Pe-léc, Pe-léc con Ê-ve. Ê-ve con Se-lác. 36 Se-lác con Kê-nan, Kê-nan con Ác-pắc-sát, Ác-pắc-sát con Sêm, Sêm con Nô-ê, Nô-ê con La-méc. 37 La-méc con Mơ-thu-se-lác. Mơ-thu-se-lác con Kha-nốc, Kha-nốc con Gie-rét, Gie-rét con Ma-ha-lan-ên, Ma-ha-lan-ên con Kên-nan. 38 Kên-nan con E-nốt, E-nốt con Sết, Sết con A-đam và A-đam là con Thiên Chúa.

Chương 4

Đức Giê-su chịu cám dỗ (Mt 4:1-11; Mc 1:12-13)

1 Đức Giê-su được đầy Thánh Thần, từ sông Gio-đan trở về. 2 Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói. 3 Bấy giờ, quỷ nói với Người: ”Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi!” 4 Nhưng Đức Giê-su đáp lại: ”Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh.”

5 Sau đó, quỷ đem Đức Giê-su lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. 6 Rồi nó nói với Người: ”Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. 7 Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông.” 8 Đức Giê-su đáp lại: ”Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.”

9 Quỷ lại đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với Người: ”Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! 10 Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. 11 Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.” 12 Bấy giờ Đức Giê-su đáp lại: ”Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.”

13 Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ.

III. ĐỨC GIÊ-SU RAO GIẢNG TẠI MIỀN GA-LI-LÊ

Đức Giê-su bắt đầu rao giảng (Mt 4:12-17; Mc 1:14-15)

14 Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. 15 Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh.

Đức Giê-su tại Na-da-rét (Mt 13:53-58; Mc 6:1-6)

16 Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. 17 Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: 18 Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, 19 công bố một năm hồng ân của Chúa.

20 Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. 21 Người bắt đầu nói với họ: ”Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” 22 Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.

23 Người nói với họ: ”Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!” 24 Người nói tiếp: ”Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.

25 “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en; 26 thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. 27 Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi.”

28 Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. 29 Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành-thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. 30 Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.

Đức Giê-su giảng dạy tại Ca-phác-na-um và chữa lành một người bị quỷ ám (Mc 1:21-28)

31 Người xuống Ca-phác-na-um, một thành miền Ga-li-lê, và ngày sa-bát, Người giảng dạy dân chúng. 32 Họ sửng sốt về cách Người giảng dạy, vì lời của Người có uy quyền.

33 Trong hội đường, có một người bị quỷ thần ô uế nhập, la to lên rằng: 34 “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” 35 Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: ”Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” Quỷ vật người ấy ngã xuống giữa hội đường, rồi xuất khỏi anh ta, nhưng không làm hại gì anh. 36 Mọi người rất đỗi kinh ngạc và nói với nhau: ”Lời ấy là thế nào? Ông ấy lấy uy quyền và thế lực mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất!” 37 Và tiếng đồn về Người lan ra khắp nơi trong vùng.

Đức Giê-su chữa bà mẹ vợ ông Si-môn (Mt 8:14-15; Mc 1:29-31)

38 Đức Giê-su rời khỏi hội đường, đi vào nhà ông Si-môn. Lúc ấy, bà mẹ vợ ông Si-môn đang bị sốt nặng. Họ xin Người chữa bà. 39 Đức Giê-su cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến mất: tức khắc bà trỗi dậy phục vụ các ngài.

Đức Giê-su chữa lành nhiều người đau yếu (Mt 8:16-17; Mc 1:32-34)

40 Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ. 41 Quỷ cũng xuất khỏi nhiều người, và la lên rằng: ”Ông là Con Thiên Chúa!” Người quát mắng, không cho phép chúng nói, vì chúng biết Người là Đấng Ki-tô.

Đức Giê-su rao giảng tại miền Giu-đê (Mc 1:35-39)

42 Sáng ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến, và muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi. 43 Nhưng Người nói với họ: ”Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.” 44 Và Người rao giảng trong các hội đường miền Giu-đê.

Chương 5

Đức Giê-su kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (Mt 4:18-22; Mc 1:16-20)

1 Một hôm, Đức Giê-su đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa. 2 Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. 3 Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-môn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông.

4 Giảng xong, Người bảo ông Si-môn: ”Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá.” 5 Ông Si-môn đáp: ”Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.” 6 Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. 7 Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.

8 Thấy vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: ”Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” 9 Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. 10 Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-môn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn: ”Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.” 11 Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.

Đức Giê-su chữa người bị phong hủi (Mt 8:1-4; Mc 1:40-45)

12 Khi ấy, Đức Giê-su đang ở trong một thành kia; có một người đầy phong hủi vừa thấy Người, liền sấp mặt xuống, xin Người rằng: ”Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” 13 Người giơ tay đụng vào anh ta và bảo: ”Tôi muốn, anh sạch đi.” Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh. 14 Rồi Người truyền anh ta không được nói với ai, và Người bảo: ”Hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được sạch, thì hãy dâng của lễ như ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.”

15 Tiếng đồn về Người ngày càng lan rộng; đám đông lũ lượt tuôn đến để nghe Người và để được chữa bệnh. 16 Nhưng Người lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện.

Đức Giê-su chữa người bại liệt (Mt 9:1-8; Mc 2:1-12)

17 Một hôm, khi Đức Giê-su giảng dạy, có mấy người Pha-ri-sêu và luật sĩ ngồi đó; họ từ khắp các làng mạc miền Ga-li-lê, Giu-đê và từ Giê-ru-sa-lem mà đến. Quyền năng Chúa ở với Người, khiến Người chữa lành các bệnh tật. 18 Bỗng có mấy người khiêng đến một bệnh nhân bị bại liệt nằm trên giường, họ tìm cách đem vào đặt trước mặt Người. 19 Nhưng vì có đám đông, họ không tìm được lối đem người ấy vào, nên họ mới lên mái nhà, dỡ ngói ra, thả người ấy cùng với cái giường xuống ngay chính giữa, trước mặt Đức Giê-su. 20 Thấy họ có lòng tin như vậy, Người bảo: ”Này anh, anh đã được tha tội rồi.”

21 Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu suy nghĩ: ”Ông này là ai mà nói phạm thượng như thế? Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?” 22 Nhưng Đức Giê-su thấu biết họ đang suy nghĩ như thế, nên Người lên tiếng bảo họ rằng: ”Các ông đang nghĩ gì trong bụng vậy? 23 Trong hai điều: một là bảo: ”Anh đã được tha tội rồi”, hai là bảo: ”Đứng dậy mà đi”, điều nào dễ hơn? 24 Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội-Đức Giê-su bảo người bại liệt-: tôi truyền cho anh: Hãy đứng dậy, vác lấy giường của anh mà đi về nhà!” 25 Ngay lúc ấy, người bại liệt trỗi dậy trước mặt họ, vác cái anh đã dùng để nằm, vừa đi về nhà vừa tôn vinh Thiên Chúa.

26 Mọi người đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ kinh hãi bảo nhau: ”Hôm nay, chúng ta đã thấy những chuyện lạ kỳ!”

Đức Giê-su kêu gọi ông Lê-vi (Mt 9:9; Mc 2:13-14)

27 Sau đó, Đức Giê-su đi ra và trông thấy một người thu thuế, tên là Lê-vi, đang ngồi ở trạm thu thuế. Người bảo ông: ”Anh hãy theo tôi!” 28 Ông bỏ tất cả, đứng dậy đi theo Người.

Đức Giê–su dùng bữa với những người tội lỗi tại nhà ông Lê–vi (Mt 9, 10-13; Mc 2:15-17)

29 Ông Lê-vi làm tiệc lớn đãi Người tại nhà ông. Có đông đảo người thu thuế và những người khác cùng ăn với các ngài. 30 Những người Pha-ri-sêu và những kinh sư thuộc nhóm của họ mới lẩm bẩm trách các môn đệ Đức Giê-su rằng: ”Sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?” 31 Đức Giê-su đáp lại họ rằng: ”Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. 32 Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.”

Tranh luận về việc ăn chay (Mt 9:14-17; Mc 2:18-22)

33 Họ nói với Người: ”Môn đệ ông Gio-an năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pha-ri-sêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống!” 34 Đức Giê-su trả lời: ”Chẳng lẽ các ông lại có thể bắt khách dự tiệc cưới ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? 35 Sẽ có ngày chàng rể bị đem đi; ngày đó, họ mới ăn chay.”

36 Đức Giê-su còn kể cho họ nghe dụ ngôn này: ”Chẳng ai xé áo mới lấy vải vá áo cũ, vì như vậy, không những họ xé áo mới, mà miếng vải áo mới cũng không ăn với áo cũ.

37 “Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư. 38 Nhưng rượu mới thì phải đổ vào bầu mới. 39 Cũng không ai uống rượu cũ mà còn thèm rượu mới. Vì người ta nói: ”Rượu cũ ngon hơn.”

Chương 6

Môn đệ bứt lúa ăn ngày sa-bát (Mt 12:1-8; Mc 2:23-28)

1 Vào một ngày sa-bát, Đức Giê-su đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ bứt lúa, vò trong tay mà ăn. 2 Nhưng có mấy người Pha-ri-sêu nói: ”Tại sao các ông làm điều không được phép làm ngày sa-bát?”

3 Đức Giê-su trả lời: ”Các ông chưa đọc chuyện này trong Sách sao? Ông Đa-vít đã làm gì khi ông và thuộc hạ đói bụng? 4 Ông vào nhà Thiên Chúa lấy bánh tiến mà ăn và cho thuộc hạ ăn. Thứ bánh này, chỉ có tư tế mới được ăn mà thôi.” 5 Rồi Người nói: ”Con Người làm chủ ngày sa-bát.”

Đức Giê-su chữa người bại tay ngày sa-bát (Mt 12:9-14; Mc 3:1-6)

6 Một ngày sa-bát khác, Đức Giê-su cũng vào hội đường và giảng dạy. Ở đó có một người bị khô bại tay phải. 7 Các kinh sư và những người Pha-ri-sêu rình xem Đức Giê-su có chữa người ấy trong ngày sa-bát không, để tìm được cớ tố cáo Người. 8 Nhưng Người biết họ đang suy nghĩ như thế, nên bảo người bại tay: ”Anh trỗi dậy, ra đứng giữa đây!” Người ấy liền trỗi dậy và đứng đó. 9 Đức Giê-su nói với họ: ”Tôi xin hỏi các ông: ngày sa-bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt?” 10 Người rảo mắt nhìn họ tất cả, rồi bảo người bại tay: ”Anh giơ tay ra!” Anh ấy làm như vậy và tay anh liền trở lại bình thường. 11 Nhưng họ thì giận điên lên, và bàn nhau xem có làm gì được Đức Giê-su không.

Đức Giê-su tuyển chọn mười hai Tông Đồ (Mt 10:1-4; Mc 3:13-19)

12 Trong những ngày ấy, Đức Giê-su đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. 13 Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ. 14 Đó là ông Si-môn mà Người gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là các ông Gia-cô-bê, Gio-an, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, 15 Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn biệt danh là Quá Khích, 16 Giu-đa con ông Gia-cô-bê, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, người đã trở thành kẻ phản bội.

Dân chúng kéo đến cùng Đức Giê-su (Mt 4:23-25)

17 Đức Giê-su đi xuống cùng với các ông, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đôn 18 đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật. Những kẻ bị các thần ô uế quấy nhiễu cũng được chữa lành. 19 Tất cả đám đông tìm cách sờ vào Người, vì có một năng lực tự nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người.

Bài giảng khai mạc. Các mối phúc thật (Mt 5:1-12)

20 Đức Giê-su ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói:

“ Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó,

vì Nước Thiên Chúa là của anh em.

21 “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói,

vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng.

“ Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc,

vì anh em sẽ được vui cười.

22 “Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. 23 Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế.

Các mối hoạ

24 “Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi.

25 “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói.

“ Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than.

26 “Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế.

Yêu thương kẻ thù (Mt 5:38-48; 7:12 a)

27 “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, 28 hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. 29 Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. 30 Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. 31 Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy. 32 Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. 33 Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. 34 Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. 35 Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác.

Phải có lòng nhân từ (Mt 7:1-2)

36 “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. 37 Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. 38 Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.”

Mù mà lại dắt mù. Cái rác và cái xà (Mt 7:3-5)

39 Đức Giê-su còn kể cho môn đệ dụ ngôn này: ”Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố? 40 Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi. 41 Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? 42 Sao anh lại có thể nói với người anh em: ”Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra”, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!

Cây nào trái ấy (Mt 7:15-20; 12:33-35)

43 “Không có cây nào tốt mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây nào sâu mà lại sinh quả tốt. 44 Thật vậy, xem quả thì biết cây. Ở bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì hái được nho! 45 Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra.

Phải thực hành lời Đức Giê-su dạy (Mt 7:24-27)

46 “Tại sao anh em gọi Thầy: ”Lạy Chúa! Lạy Chúa!, mà anh em không làm điều Thầy dạy?

47 “Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết người ấy ví được như ai. 48 Người ấy ví được như một người khi xây nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lụt dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi, vì nhà đã xây vững chắc. 49 Còn ai nghe mà không thực hành, thì ví được như người xây nhà ngay mặt đất, không nền móng. Nước sông ùa vào, nhà sụp đổ ngay và bị phá huỷ tan tành.”

Chương 7

Đức Giê-su chữa người nô lệ của một đại đội trưởng (Mt 8:5-13)

1 Sau khi đã nói hết những lời ấy cho dân chúng nghe, Đức Giê-su vào thành Ca-phác-na-um. 2 Một viên đại đội trưởng kia có người nô lệ bệnh nặng gần chết. Ông ta yêu quý người ấy lắm. 3 Khi nghe đồn về Đức Giê-su, ông cho mấy kỳ mục của người Do-thái đi xin Người đến cứu sống người nô lệ của ông.

4 Họ đến gặp Đức Giê-su và khẩn khoản nài xin Người rằng: ”Thưa Ngài, ông ấy đáng được Ngài làm ơn cho. 5 Vì ông quý mến dân ta. Vả lại chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta.” 6 Đức Giê-su liền đi với họ. Khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này cho bạn hữu ra nói với Người: ”Thưa Ngài, không dám phiền Ngài quá như vậy, vì tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi. 7 Cũng vì thế, tôi không nghĩ mình xứng đáng đến gặp Ngài. Nhưng xin Ngài cứ nói một lời, thì đầy tớ của tôi được khỏi bệnh. 8 Vì chính tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: ”Đi! là nó đi; bảo người kia: ”Đến! là nó đến; và bảo người nô lệ của tôi: ”Làm cái này! là nó làm.” 9 Nghe vậy, Đức Giê-su thán phục ông ta, Người quay lại nói với đám đông đang theo Người rằng: ”Tôi nói cho các ông hay: ngay cả trong dân Ít-ra-en, tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế.” 10 Về đến nhà, những người đã được sai đi thấy người nô lệ đã khỏi hẳn.

Đức Giê-su cho con trai một bà goá thành Na-in sống lại

11 Sau đó, Đức Giê-su đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người. 12 Khi Đức Giê-su đến gần cửa thành, thì đang lúc người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. 13 Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: ”Bà đừng khóc nữa!” 14 Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giê-su nói: ”Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!” 15 Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ. 16 Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: ”Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” . 17 Lời này về Đức Giê-su được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận.

Câu hỏi của ông Gio-an Tẩy Giả và câu trả lời của Đức Giê-su (Mt 11:2-15)

18 Môn đệ của ông Gio-an báo cho ông biết tất cả những việc ấy; ông Gio-an liền gọi hai người trong nhóm môn đệ lại, 19 sai họ đến hỏi Chúa rằng: ”Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” 20 Khi đến gặp Đức Giê-su, hai người ấy nói: ”Ông Gio-an Tẩy Giả sai chúng tôi đến hỏi Thầy: ”Thầy có thật là “Đấng phải đến” không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” 21 Chính giờ ấy, Đức Giê-su chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám, và ban ơn cho nhiều người mù được thấy. 22 Người trả lời hai người ấy rằng: ”Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng, 23 và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”

24 Khi những người ông Gio-an sai đến đã ra về, Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về ông Gio-an rằng: ”Anh em đi xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? 25 Hẳn là không! Thế thì anh em đi xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Nhưng kẻ áo quần lộng lẫy, đời sống xa hoa thì ở trong cung trong điện. 26 Thế thì anh em đi xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết: đây còn hơn cả ngôn sứ nữa! 27 Chính ông là người Thiên Chúa đã nói tới trong Kinh Thánh rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến!

28 “Tôi nói cho anh em biết: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gio-an; tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông. 29 Nghe ông giảng, toàn dân, kể cả những người thu thuế, đều nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Công Chính và đã chịu phép rửa của ông. 30 Còn những người Pha-ri-sêu và các nhà thông luật thì khước từ ý định của Thiên Chúa về họ, và không chịu phép rửa của ông.

Đức Giê-su phán đoán về thế hệ của Người (Mt 11, 16-19)

31 “Vậy tôi phải ví người thế hệ này với ai? Họ giống ai? 32 Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói:

“ Tụi tôi thổi sáo cho các anh,

mà các anh không nhảy múa;

tụi tôi hát bài đưa đám,

mà các anh không khóc than.

33 “Thật vậy, ông Gio-an Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo: ”Ông ta bị quỷ ám. 34 Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo: ”Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi. 35 Nhưng Đức Khôn Ngoan đã được tất cả con cái mình biện minh cho.”

Người phụ nữ tội lỗi đã được tha thứ và đã yêu mến Chúa nhiều

36 Có người thuộc nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dùng bữa với mình. Đức Giê-su đến nhà người Pha-ri-sêu ấy và vào bàn ăn. 37 Bỗng một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pha-ri-sêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. 38 Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.

39 Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: ”Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!” 40 Đức Giê-su lên tiếng bảo ông: ”Này ông Si-môn, tôi có điều muốn nói với ông!” Ông ấy thưa: ”Dạ, xin Thầy cứ nói.” 41 Đức Giê-su nói: ”Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. 42 Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?” 43 Ông Si-môn đáp: ”Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn.” Đức Giê-su bảo: ”Ông xét đúng lắm.”

44 Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Si-môn: ”Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. 45 Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. 46 Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. 47 Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít.” 48 Rồi Đức Giê-su nói với người phụ nữ: ”Tội của chị đã được tha rồi.” 49 Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: ”Ông này là ai mà lại tha được tội?” 50 Nhưng Đức Giê-su nói với người phụ nữ: ”Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an.”

Chương 8

Những người phụ nữ đi theo Đức Giê-su

1 Sau đó, Đức Giê-su rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai 2 và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, 3 bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da quản lý của vua Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ.

Dụ ngôn người gieo giống (Mt 13:1-9; Mc 4:1-9)

4 Người ta tụ họp đông đảo. Từ khắp các thành thị, người ta kéo đến cùng Đức Giê-su. Bấy giờ Người dùng dụ ngôn mà nói rằng:

5 “Người gieo giống đi ra gieo hạt giống của mình. Trong khi người ấy gieo, thì có hạt rơi xuống vệ đường, người ta giẫm lên và chim trời ăn mất. 6 Hạt khác rơi trên đá, và khi mọc lên, lại héo đi vì thiếu ẩm ướt. 7 Có hạt rơi vào giữa bụi gai, gai cùng mọc lên, làm nó chết nghẹt. 8 Có hạt lại rơi nhằm đất tốt, và khi mọc lên, nó sinh hoa kết quả gấp trăm” . Nói xong, Người hô lên rằng: ”Ai có tai nghe thì nghe.”

Tại sao Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói (Mt 13:10-17; Mc 4:10-12)

9 Các môn đệ hỏi Người dụ ngôn ấy có ý nghĩa gì. 10 Người đáp: ”Anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Thiên Chúa; còn với kẻ khác thì phải dùng dụ ngôn để chúng nhìn mà không nhìn, nghe mà không hiểu.

Giải nghĩa dụ ngôn người gieo giống (Mt 13:18-23; Mc 4:13-20)

11 “Đây là ý nghĩa dụ ngôn: Hạt giống là lời Thiên Chúa. 12 Những kẻ ở bên vệ đường là những kẻ đã nghe nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. 13 Còn những kẻ ở trên đá là những kẻ khi nghe thì vui vẻ tiếp nhận Lời, nhưng họ không có rễ. Họ tin nhất thời, và khi gặp thử thách, họ bỏ cuộc. 14 Hạt rơi vào bụi gai: đó là những kẻ nghe, nhưng dọc đường bị những nỗi lo lắng và vinh hoa phú quý cùng những khoái lạc cuộc đời làm cho chết ngộp và không đạt tới mức trưởng thành. 15 Hạt rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả.

Lãnh nhận và truyền bá giáo huấn của Đức Giê-su thế nào (Mc 4:21-25)

16 “Chẳng có ai đốt đèn, rồi lấy hũ che đi hoặc đặt dưới gầm giường, nhưng đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng. 17 Vì chẳng có gì bí ẩn mà lại không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà người ta lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng. 18 Vậy hãy để ý tới cách thức anh em nghe. Vì ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái họ tưởng là có, cũng sẽ bị lấy mất.”

Những ai thật sự thuộc gia đình của Đức Giê-su (Mt 12:46-50; Mc 3:31-35)

19 Mẹ và anh em Đức Giê-su đến gặp Người, mà không làm sao lại gần được, vì dân chúng quá đông. 20 Người ta báo cho Người biết: ”Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn gặp Thầy.” 21 Người đáp lại: ”Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành.”

Đức Giê-su dẹp yên biển động (Mt 8:23-27; Mc 4:35-41)

22 Một ngày nọ, Đức Giê-su xuống thuyền với các môn đệ. Người nói: ”Chúng ta sang bên kia hồ đi!” Rồi thầy trò ra khơi. 23 Đang khi các ngài đi thuyền, thì Đức Giê-su thiếp ngủ. Một trận cuồng phong ập xuống hồ; các ngài bị ngập nước và lâm nguy. 24 Các môn đệ lại gần đánh thức Người dậy và nói: ”Thầy ơi, Thầy! Chúng ta chết mất!” Người thức dậy, ngăm đe sóng gió, sóng gió liền ngừng và biển lặng ngay. 25 Người bảo các ông: ”Đức tin anh em ở đâu?” Các ông hoảng sợ, kinh ngạc và nói với nhau: ”Vậy người này là ai mà ra lệnh cho cả sóng gió, và sóng gió phải tuân lệnh?”

Đức Giê-su chữa người bị quỷ ám tại Ghê-ra-xa (Mt 8:28-34; Mc 5:1-20)

26 Thầy trò ghé thuyền vào vùng đất của người Ghê-ra-xa, đối diện với miền Ga-li-lê. 27 Người vừa ra khỏi thuyền và đặt chân lên đất, thì có một người dân trong thành bị quỷ ám ra đón Người. Từ lâu, anh ta không mặc quần áo, không ở trong nhà, nhưng ở trong đám mồ mả.

28 Thấy Đức Giê-su, anh la lên, sấp mình dưới chân Người, và lớn tiếng nói rằng: ”Lạy ông Giê-su, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến ông? Tôi xin ông đừng hành hạ tôi!” 29 Ấy là vì Đức Giê-su đã truyền cho thần ô uế xuất khỏi người ấy. Thật vậy, đã nhiều lần quỷ bắt lấy anh ta, người ta dùng xiềng xích gông cùm mà trói và giữ anh; nhưng anh bứt tung dây trói và bị quỷ đưa vào những nơi hoang vắng. 30 Đức Giê-su hỏi anh: ”Tên anh là gì?” Anh thưa: ”Đạo Binh”, vì rất nhiều quỷ nhập vào anh. 31 Lũ quỷ nài xin Người đừng truyền cho chúng rút xuống vực thẳm.

32 Ở đó có một bầy heo khá đông đang ăn trên núi. Lũ quỷ nài xin Người cho phép chúng nhập vào bầy heo kia, và Người cho phép. 33 Lũ quỷ xuất khỏi người đó, nhập vào bầy heo. Cả bầy heo từ trên sườn núi lao xuống hồ và chết ngộp hết.

34 Thấy sự việc xảy ra, các người chăn heo bỏ chạy, loan tin trong thành và thôn xóm. 35 Thiên hạ ra xem sự việc đã xảy ra. Họ đến cùng Đức Giê-su và thấy kẻ đã được trừ quỷ đang ngồi dưới chân Đức Giê-su, ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo. Họ phát sợ. 36 Những người chứng kiến đã kể lại cho họ nghe người bị quỷ ám được cứu chữa thế nào. 37 Bấy giờ đông đảo dân chúng vùng Ghê-ra-xa xin Người rời họ, vì họ sợ quá. Thế nên Người xuống thuyền trở về.

38 Kẻ đã được trừ quỷ xin được ở với Người. Nhưng Người bảo anh ta về và nói: 39 “Anh cứ về nhà và kể lại mọi điều Thiên Chúa đã làm cho anh.” Anh ta ra đi, rao truyền cho cả thành biết mọi điều Đức Giê-su đã làm cho anh.

Đức Giê-su chữa người đàn bà bị băng huyết và cho con gái ông Gia-ia sống lại (Mt 9:18-26; Mc 5:21-43)

40 Khi Đức Giê-su trở về thì đám đông tiếp đón, vì ai ai cũng đợi chờ Người. 41 Bỗng có một người tên là Gia-ia đi tới; ông là trưởng hội đường. Ông sụp xuống dưới chân Đức Giê-su, nài xin Người vào nhà ông, 42 vì ông có một đứa con gái duy nhất độ mười hai tuổi, mà nó lại sắp chết. Trong khi Người đi, đám đông dân chúng chen lấn làm Người nghẹt thở.

43 Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, không ai có thể chữa được. 44 Bà tiến đến phía sau Người và sờ vào tua áo của Người. Tức khắc, máu ngừng chảy. 45 Đức Giê-su hỏi: ”Ai là người đã sờ vào tôi?” Mọi người đều chối, nên ông Phê-rô nói: ”Thưa Thầy, đám đông xô đẩy, chen lấn Thầy đấy!” 46 Nhưng Đức Giê-su nói: ”Có người đã đụng vào Thầy, vì Thầy biết có một năng lực tự nơi Thầy phát ra.” 47 Người đàn bà thấy mình không giữ kín được nữa, thì run rẩy đến phủ phục trước mặt Người, và loan báo trước mặt toàn dân lý do tại sao bà đã đụng vào Đức Giê-su, và bà đã được khỏi bệnh tức khắc như thế nào. 48 Đức Giê-su nói với bà: ”Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy đi bình an.”

49 Đức Giê-su còn đang nói, thì có người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo ông: ”Con gái ông chết rồi, đừng làm phiền Thầy nữa!” 50 Nghe vậy, Đức Giê-su bảo ông trưởng hội đường: ”Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi, là con gái ông sẽ được cứu.” 51 Khi đến nhà, Người không cho ai vào với mình, trừ ông Phê-rô, ông Gio-an, ông Gia-cô-bê và cha mẹ của đứa bé. 52 Mọi người đều đấm ngực khóc thương nó. Đức Giê-su nói: ”Đừng khóc! Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” 53 Họ chế nhạo Người, vì biết nó đã chết. 54 Nhưng Người cầm lấy tay nó, lên tiếng gọi: ”Này bé, trỗi dậy đi!” 55 Hồn đứa bé trở lại, và nó đứng dậy ngay. Đức Giê-su bảo người ta cho nó ăn. 56 Cha mẹ nó kinh ngạc. Nhưng Người ra lệnh cho họ không được nói với ai về việc đã xảy ra.

Chương 9

Đức Giê-su sai mười hai Tông Đồ đi giảng (Mt 10:1. 5-14; Mc 6:7-13)

1 Đức Giê-su tập họp Nhóm Mười Hai lại, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật. 2 Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. 3 Người nói: ”Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo. 4 Khi anh em vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó và cũng từ đó mà ra đi. 5 Hễ người ta không đón tiếp anh em, thì khi ra khỏi thành, anh em hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.” 6 Các ông ra đi, rảo qua các làng mạc loan báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi.

Vua Hê-rô-đê và Đức Giê-su (Mt 14:1-2; Mc 6:14-29)

7 Tiểu vương Hê-rô-đê nghe biết tất cả những gì đã xảy ra, thì phân vân lắm. Thật vậy, có kẻ nói: ”Đó là ông Gio-an từ cõi chết trỗi dậy.” 8 Kẻ khác nói: ”Ông Ê-li-a xuất hiện đấy!” Kẻ khác nữa lại nói: ”Đó là một ngôn sứ thời xưa sống lại.” 9 Còn vua Hê-rô-đê thì nói: ”Ông Gio-an, chính ta đã chém đầu rồi! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?” Rồi vua tìm cách gặp Đức Giê-su.

Các Tông Đồ trở về. Đức Giê-su hoá bánh ra nhiều (Mt 14:13-21; Mc 6:30-44; Ga 6:1-13)

10 Các Tông Đồ trở về thuật lại cho Đức Giê-su những việc các ông đã làm. Người đem các ông đi riêng với mình, lui về thành kia gọi là Bết-xai-đa. 11 Đám đông dân chúng biết thế, liền đi theo Người. Người tiếp đón họ, nói với họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa.

12 Ngày đã bắt đầu tàn. Nhóm Mười Hai đến bên Đức Giê-su thưa Người rằng: ”Xin Thầy cho đám đông về, để họ vào các làng mạc nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn, vì nơi chúng ta đang ở đây là nơi hoang vắng.” 13 Đức Giê-su bảo: ”Chính anh em hãy cho họ ăn.” Các ông đáp: ”Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá, trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này.” 14 Quả thật có tới chừng năm ngàn đàn ông. Đức Giê-su nói với các môn đệ: ”Anh em hãy bảo họ ngồi thành từng nhóm khoảng năm mươi người một.” 15 Các môn đệ làm y như vậy, và bảo mọi người ngồi xuống. 16 Bấy giờ Đức Giê-su cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông. 17 Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng.

Ông Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa (Mt 16:13-20; Mc 8:27-30).

18 Hôm ấy, Đức Giê-su cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng: ”Dân chúng nói Thầy là ai?” 19 Các ông thưa: ”Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại.” 20 Người lại hỏi: ”Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phê-rô thưa: ”Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa.” 21 Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai.

Đức Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ nhất (Mt 16:21; Mc 8:31)

22 Người còn nói: ”Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.”

Điều kiện phải có để theo Đức Giê-su (Mt 16:24-27; Mc 8:34-38)

23 Rồi Đức Giê-su nói với mọi người: ”Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. 24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. 25 Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì? 26 Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần.

Triều đại Thiên Chúa đã gần đến (Mt 16:28; Mc 9:1)

27 “Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa.”

Đức Giê-su hiển dung (Mt 17:1-8; Mc 9:2-8)

28 Khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, Đức Giê-su lên núi cầu nguyện đem theo các ông Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê. 29 Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. 30 Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a. 31 Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem. 32 Còn ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su, và hai nhân vật đứng bên Người. 33 Đang lúc hai vị này từ biệt Đức Giê-su, ông Phê-rô thưa với Người rằng: ”Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.” Ông không biết mình đang nói gì. 34 Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. 35 Và từ đám mây có tiếng phán rằng: ”Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” 36 Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giê-su. Còn các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.

Đức Giê-su chữa đứa trẻ bị kinh phong (Mt 17:14-18; Mc 9:14-27)

37 Hôm sau, khi Đức Giê-su và ba môn đệ ở trên núi xuống, có đám đông dân chúng tới đón Người. 38 Bỗng có một người đàn ông từ trong đám đông kêu lên rằng: ”Thưa Thầy, tôi xin Thầy đoái nhìn đứa con trai tôi, vì tôi chỉ có một mình cháu. 39 Thế mà quỷ nhập vào cháu, khiến cháu bỗng dưng la lên, vật mình vật mẩy, sùi cả bọt mép, và khó lắm nó mới chịu rời cháu, bỏ cháu lại đó mệt nhừ. 40 Tôi có xin các môn đệ Thầy trừ tên quỷ đó, nhưng các ông trừ không được.” 41 Đức Giê-su đáp: ”Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin và gian tà! Tôi phải ở cùng các người và chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa? Ông đem cháu lại đây!” 42 Đứa trẻ đang tiến lại, thì quỷ vật nó xuống và lay nó thật mạnh. Đức Giê-su quát mắng tên quỷ ô uế, chữa đứa trẻ, và trao lại cho cha nó. 43 Mọi người đều kinh ngạc trước quyền năng cao cả của Thiên Chúa.

Đức Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ hai (Mt 18:22-23; Mc 9:30-32)

44 “Phần anh em, hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời sau đây: Con Người sắp bị nộp vào tay người đời.” 45 Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì đối với các ông, lời đó còn bí ẩn, đến nỗi các ông không nhận ra ý nghĩa. Nhưng các ông sợ không dám hỏi lại Người về lời ấy.

Ai là người lớn nhất trong các môn đệ (Mt 18:1-5; Mc 9:33-37)

46 Một câu hỏi chợt đến với các ông: trong các ông, ai là người lớn nhất? 47 Đức Giê-su biết điều các ông đang tự hỏi trong lòng, liền đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình48 và nói với các ông: ”Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy. Thật vậy, ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất.”

Nhân danh Đức Giê-su mà trừ quỷ (Mc 9:38-40)

49 Ông Gio-an lên tiếng nói: ”Thưa Thầy, chúng con thấy có người nhân danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không cùng với chúng con đi theo Thầy.” 50 Đức Giê-su bảo ông: ”Đừng ngăn cản người ta. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta!”

IV. ĐỨC GIÊ-SU LÊN GIÊ-RU-SA-LEM

Một làng miền Sa-ma-ri không đón tiếp Đức Giê-su

51 Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem. 52 Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến. 53 Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem. 54 Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Gia-cô-bê và ông Gio-an nói rằng: ”Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” 55 Nhưng Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông. 56 Rồi Thầy trò đi sang làng khác.

Đức Giê-su đòi hỏi môn đệ phải bỏ mọi sự (Mt 8:19-22)

57 Đang khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Người rằng: ”Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” 58 Người trả lời: ”Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”

59 Đức Giê-su nói với một người khác: ”Anh hãy theo tôi!” Người ấy thưa: ”Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã.” 60 Đức Giê-su bảo: ”Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.”

61 Một người khác nữa lại nói: ”Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã.” 62 Đức Giê-su bảo: ”Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”

Chương 10

Đức Giê-su sai bảy mươi hai môn đệ đi giảng (Mt 11:20-24)

1 Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. 2 Người bảo các ông:

3 Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. 4 Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. 5 Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: ”Bình an cho nhà này!” 6 Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. 7 Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. 8 Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. 9 Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: ”Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.” 10 Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: 11 “Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.” 12 Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy, thành Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn thành đó.”

13 “Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì từ lâu họ đã mặc áo vải thô, ngồi trên tro tỏ lòng sám hối rồi. 14 Vì thế, trong cuộc Phán Xét, Tia và Xi-đôn sẽ được xử khoan hồng hơn các ngươi. 15 Còn ngươi nữa, hỡi Ca-phác-na-um, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Không, ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ!

16 “ Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy.”

“ Hãy mừng vì tên anh em được ghi trên trời”

17 Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: ”Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con.” 18 Đức Giê-su bảo các ông: ”Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống. 19 Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em. 20 Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời.”

Chúa Cha mặc khải cho những người bé mọn (Mt 11:25-26)

21 Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng và nói: ”Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.

Chúa Cha và Chúa Con (Mt 11:27)

22 “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.”

Đặc ân các môn đệ (Mt 13:16-17)

23 Rồi Đức Giê-su quay lại với các môn đệ và bảo riêng: ”Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy! 24 Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.”

Điều răn lớn

25 Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: ”Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia ì

26 Người đáp: ”Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” 27 Ông ấy thưa: ”Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” 28 Đức Giê-su bảo ông ta: ”Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.”

Dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành

29 Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: ”Nhưng ai là người thân cận của tôi?” 30 Đức Giê-su đáp: ”Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. 31 Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. 32 Rồi cũng thế, một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. 33 Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. 34 Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. 35 Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: ”Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.” 36 Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” 37 Người thông luật trả lời: ”Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy.” Đức Giê-su bảo ông ta: ”Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.”

Hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a

38 Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giê-su vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà. 39 Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. 40 Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: ”Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” 41 Chúa đáp: ”Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! 42 Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.”

Chương 11

“Kinh Lạy Cha” (Mt 6:9-13)

1 Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: ”Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông.” 2 Người bảo các ông: ”Khi cầu nguyện, anh em hãy nói:

“ Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển,

Triều Đại Cha mau đến,

3 xin Cha cho chúng con

ngày nào có lương thực ngày ấy;

4 xin tha tội cho chúng con,

vì chính chúng con cũng tha

cho mọi người mắc lỗi với chúng con,

và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.”

Người bạn quấy rầy

5 Người còn nói với các ông: ”Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: ”Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, 6 vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả”; 7 mà người kia từ trong nhà lại đáp: ”Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được. ? 8 Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó.

Cứ xin thì sẽ được (Mt 7:7-11)

9 “Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. 10 Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. 11 Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? 12 Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? 13 Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”

Đức Giê-su và quỷ vương Bê-en-dê-bun (Mt 12:22-29; Mc 3:22-27)

14 Bấy giờ Đức Giê-su trừ một tên quỷ, và nó là quỷ câm. Khi quỷ xuất rồi, thì người câm nói được. Đám đông lấy làm ngạc nhiên. 15 Nhưng trong số đó có mấy người lại bảo: ”Ông ấy dựa thế quỷ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ.” 16 Kẻ khác lại muốn thử Người, nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời. 17 Nhưng Người biết tư tưởng của họ, nên nói: ”Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nọ đổ xuống nhà kia. 18 Nếu Xa-tan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được? . . . bởi lẽ các ông nói tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ. 19 Nếu tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy, chính họ sẽ xét xử các ông. 20 Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông. 21 Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn. 22 Nhưng nếu có người mạnh thế hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được.

Không theo Đức Giê-su là chống lại Người (Mt 12:30)

23 “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.

Quỷ phản công (Mt 12:43-45)

24 “Khi thần ô uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi. Mà vì tìm không ra, nó nói: ”Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi.” 25 Khi đến nơi, nó thấy nhà được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi. 26 Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước.”

Thế nào là hạnh phúc thật

27 Khi Đức Giê-su đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một người phụ nữ lên tiếng thưa với Người: ”Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!” 28 Nhưng Người đáp lại: ”Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.”

Dấu lạ ngôn sứ Giô-na (Mt 12:38-42)

29 Khi dân chúng tụ họp đông đảo, Đức Giê-su bắt đầu nói: ”Thế hệ này là một thế hệ gian ác; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na. 30 Quả thật, ông Giô-na đã là một dấu lạ cho dân thành Ni-ni-vê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy. 31 Trong cuộc Phán Xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-môn nữa. 32 Trong cuộc Phán Xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa.

Hai lời nói về đèn (Mt 5:15; 6:22-23)

33 “Chẳng có ai đốt đèn lên rồi đặt vào chỗ khuất hoặc dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng.

34 “Đèn của thân thể là con mắt của anh. Khi mắt anh sáng, thì toàn thân anh cũng sáng. Nhưng khi mắt anh xấu, thì thân anh cũng tối. 35 Vậy hãy coi chừng kẻo ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối. 36 Nếu toàn thân anh sáng, không có phần nào tối tăm, thì nó sẽ sáng hoàn toàn, như khi đèn toả sáng chiếu soi anh.”

Đức Giê-su khiển trách các người Pha-ri-sêu và các nhà thông luật (Mt 23:1-36; Mc 12:38-40)

37 Đức Giê-su đang nói, thì có một ông Pha-ri-sêu mời Người đến nhà dùng bữa. Tới nơi, Người liền vào bàn ăn. 38 Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu lấy làm lạ vì Người không rửa tay trước bữa ăn. 39 Nhưng Chúa nói với ông ấy rằng: ”Thật, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa, thì các người rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà. 40 Đồ ngốc! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao? 41 Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người. 42 Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa. Các điều này phải làm, mà các điều kia cũng không được bỏ. 43 Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu! Các người thích ngồi ghế đầu trong hội đường, thích được người ta chào hỏi ở nơi công cộng. 44 Khốn cho các người! Các người như mồ mả không có gì làm dấu, người ta giẫm lên mà không hay.”

45 Một người trong số các nhà thông luật lên tiếng nói: ”Thưa Thầy, Thầy nói như vậy là nhục mạ cả chúng tôi nữa!” 46 Đức Giê-su nói: ”Khốn cho cả các người nữa, hỡi các nhà thông luật! Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào.

47 “Khốn cho các người! Các người xây lăng cho các ngôn sứ, nhưng cha ông các người đã giết chết các vị ấy! 48 Như vậy, các người vừa chứng thực vừa tán thành việc làm của cha ông các người, vì họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng.

49 “Vì thế mà Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã phán: ”Ta sẽ sai Ngôn Sứ và Tông Đồ đến với chúng: chúng sẽ giết người này, lùng bắt người kia. 50 Như vậy, thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu tất cả các ngôn sứ đã đổ ra từ tạo thiên lập địa, 51 từ máu ông A-ben đến máu ông Da-ca-ri-a, người đã bị giết giữa bàn thờ và Thánh Điện. Phải, tôi nói cho các người biết: thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu.

52 “Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết: các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản.”

53 Khi Đức Giê-su ra khỏi đó, các kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện, 54 gài bẫy để xem có bắt được Người nói điều gì sai chăng.

Chương 12

Hãy nói công khai và đừng sợ (Mt 10:26-33; 12:32; 10:17-20)

1 Trong lúc ấy, đám đông tụ họp hàng vạn người, đến nỗi giẫm lên nhau. Bấy giờ Đức Giê-su bắt đầu nói, trước hết là với các môn đệ: ”Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả. 2 Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết. 3 Vì thế, tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày; và điều anh em rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà.

4 “Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết: Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được nữa. 5 Thầy sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ ai: hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hoả ngục. Thật vậy, Thầy nói cho anh em biết: anh em hãy sợ Đấng ấy. 6 Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. 7 Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.

8 “Thầy nói cho anh em biết: phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa. 9 Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì sẽ bị chối trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa.

10 “Bất cứ ai nói phạm đến Con Người, thì còn được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ chẳng được tha.

11 “Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì, 12 vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói.”

Đừng thu tích của cải cho mình

13 Có người trong đám đông nói với Đức Giê-su rằng: ”Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi.” 14 Người đáp: ”Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?” 15 Và Người nói với họ: ”Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.”

16 Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này: ”Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, 17 mới nghĩ bụng rằng: ”Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu! 18 Rồi ông ta tự bảo: ”Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. 19 Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã! 20 Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: ”Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? 21 Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.”

Tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng (Mt 6:25-34)

22 Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: ”Vì vậy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; 23 vì mạng sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc. 24 Hãy nhìn những con quạ mà suy: chúng không gieo, không gặt, cũng không có kho có lẫm, thế mà Thiên Chúa vẫn nuôi chúng. Anh em còn quý giá hơn loài chim biết bao! 25 Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được một gang tay? 26 Vậy, việc nhỏ nhất mà anh em còn làm không được, thì anh em lo lắng về những việc khác làm gì? 27 Hãy nhìn hoa huệ mà suy: chúng không kéo sợi, không dệt vải, thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. 28 Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! 29 Phần anh em, đừng tìm xem mình sẽ ăn gì, uống gì, và đừng bận tâm. 30 Vì tất cả những thứ đó, dân ngoại trên thế gian vẫn tìm kiếm; nhưng Cha của anh em thừa biết anh em cần những thứ đó. 31 Vậy hãy lo tìm Nước của Người, còn các thứ kia, Người sẽ thêm cho.

32 “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em.

Bán của cải đi mà bố thí (Mt 6:19-21)

33 “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. 34 Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó.

Phải sẵn sàng chờ Chủ trở về (Mt 24:43-51)

35 “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. 36 Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. 37 Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. 38 Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ. 39 Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. 40 Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.”

41 Bấy giờ ông Phê-rô hỏi: ”Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?” 42 Chúa đáp: ”Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc? 43 Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. 44 Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. 45 Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: ”Chủ ta còn lâu mới về”, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, 46 chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín.

47 “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. 48 Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.

Thái độ của Đức Giê-su trước cuộc Thương Khó

49 “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! 50 Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!

Thầy đến để gây chia rẽ (Mt 10, 34-36)

51 “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. 52 Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba. 53 Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng.”

Nhận xét thời đại (Mt 16:2-3; 5:25-26)

54 Đức Giê-su cũng nói với đám đông rằng: ”Khi các người thấy mây kéo lên ở phía tây, các người nói ngay: ”Mưa đến nơi rồi”, và xảy ra đúng như vậy. 55 Khi thấy gió nồm thổi, các người nói: ”Trời sẽ oi bức”, và xảy ra đúng như vậy. 56 Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc đất trời, thì các người biết nhận xét, còn thời đại này, sao các người lại không biết nhận xét?

57 “Sao các người không tự mình xét xem cái gì là phải? 58 Thật vậy, khi anh đi cùng đối phương ra toà, thì dọc đường hãy cố gắng giải quyết với người ấy cho xong, kẻo người ấy lôi anh đến quan toà, quan toà lại nộp anh cho thừa phát lại, và thừa phát lại tống anh vào ngục. 59 Tôi bảo cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó trước khi trả hết đồng kẽm cuối cùng.”

Chương 13

Nếu không sám hối, thì sẽ chết hết

1 Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. 2 Đức Giê-su đáp lại rằng: ”Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao? 3 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. 4 Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? 5 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.”

Dụ ngôn cây vả không ra trái

6 Rồi Đức Giê-su kể dụ ngôn này: ”Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, 7 nên bảo người làm vườn: ”Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất? 8 Nhưng người làm vườn đáp: ”Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. 9 May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.”

Đức Giê-su chữa một phụ nữ còng lưng ngày sa-bát

10 Ngày sa-bát kia, Đức Giê-su giảng dạy trong một hội đường. 11 Ở đó, có một phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà không thể nào đứng thẳng lên được. 12 Trông thấy bà, Đức Giê-su gọi lại và bảo: ”Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền!” 13 Rồi Người đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa.

14 Ông trưởng hội đường tức tối vì Đức Giê-su đã chữa bệnh vào ngày sa-bát. Ông lên tiếng nói với đám đông rằng: ”Đã có sáu ngày để làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh những ngày đó, đừng có đến vào ngày sa-bát!” 15 Chúa đáp: ”Những kẻ đạo đức giả kia! Thế ngày sa-bát, ai trong các người lại không cởi dây, dắt bò lừa rời máng cỏ đi uống nước? 16 Còn bà này, là con cháu ông Áp-ra-ham, bị Xa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày sa-bát sao?” 17 Nghe Người nói thế, tất cả những kẻ chống đối Người lấy làm xấu hổ, còn toàn thể đám đông thì vui mừng vì mọi việc hiển hách Người đã thực hiện.

Dụ ngôn hạt cải (Mt 13:31-32; Mc 4:30-32)

18 Vậy Người nói: ”Nước Thiên Chúa giống cái gì đây? Tôi phải ví Nước ấy với cái gì? 19 Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người nọ lấy gieo trong vườn mình. Nó lớn lên và trở thành cây, chim trời làm tổ trên cành được.”

Dụ ngôn nắm men trong bột (Mt 13:33)

20 Người lại nói: ”Tôi phải ví Nước Thiên Chúa với cái gì? 21 Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men.”

Cửa hẹp. Thiên Chúa ruồng bỏ người Do-thái bất trung và kêu mời dân ngoại (Mt 7:13-14:1-23)

22 Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. 23 Có kẻ hỏi Người: ”Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” Người bảo họ: 24 “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.

25 “Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: ”Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!, thì ông sẽ bảo anh em: ”Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến! 26 Bấy giờ anh em mới nói: ”Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi. 27 Nhưng ông sẽ đáp lại: ”Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!

28 “Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. 29 Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. 30 “Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”

Con cáo già Hê-rô-đê

31 Cũng vào giờ ấy, có mấy người Pha-ri-sêu đến thưa Đức Giê-su rằng: ”Xin ông đi ra khỏi đây, vì vua Hê-rô-đê đang muốn giết ông!” 32 Người bảo họ: ”Các ông hãy đi nói với con cáo ấy thế này: ”Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất. 33 Tuy nhiên, hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi, vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giê-ru-sa-lem thì không được.

Đức Giê-su than trách thành Giê-ru-sa-lem (Mt 23:37-39)

34 “Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi! Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu. 35 Thì này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ mặc cho các ngươi. Mà Ta nói cho các ngươi hay: các ngươi sẽ không còn thấy Ta nữa cho đến thời các ngươi nói: Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!”

Chương 14

Ngày sa-bát Đức Giê-su chữa người mắc bệnh phù thũng

1 Một ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người. 2 Và kìa trước mặt Đức Giê-su, có một người mắc bệnh phù thũng. 3 Người lên tiếng nói với các nhà thông luật và những người Pha-ri-sêu: ”Có được phép chữa bệnh ngày sa-bát hay không?” 4 Nhưng họ làm thinh. Người đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về. 5 Rồi Người nói với họ: ”Ai trong các ông có đứa con trai hoặc có con bò sa xuống giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sa-bát?” 6 Và họ không thể đáp lại những lời đó.

“ Hãy ngồi chỗ cuối”

7 Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: 8 “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, 9 và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: ”Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. 10 Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: ”Xin mời ông bạn lên trên cho. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. 11Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”

“ Khi đãi khách, hãy mời những người nghèo khó”

12 Rồi Đức Giê-su nói với kẻ đã mời Người rằng: ”Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. 13 Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. 14 Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.”

Dụ ngôn khách được mời xin kiếu (Mt 22:1-10)

15 Nghe vậy, một trong những kẻ đồng bàn nói với Đức Giê-su: ”Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa!” 16 Người đáp: ”Một người kia làm tiệc lớn và đã mời nhiều người. 17 Đến giờ tiệc, ông sai đầy tớ đi thưa với quan khách rằng: ”Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn. 18 Bấy giờ mọi người nhất loạt bắt đầu xin kiếu. Người thứ nhất nói: ”Tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; cho tôi xin kiếu. 19 Người khác nói: ”Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây; cho tôi xin kiếu. 20 Người khác nói: ”Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được.

21 “Đầy tớ ấy trở về, kể lại sự việc cho chủ. Bấy giờ chủ nhà nổi cơn thịnh nộ bảo người đầy tớ rằng: ”Mau ra các nơi công cộng và đường phố trong thành, đưa các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào đây. 22 Đầy tớ nói: ”Thưa ông, lệnh ông đã được thi hành mà vẫn còn chỗ. 23 Ông chủ bảo người đầy tớ: ”Ra các đường làng, đường xóm, ép người ta vào đầy nhà cho ta. 24 Tôi nói cho các anh biết: Những khách đã được mời trước kia, không ai sẽ được dự tiệc của tôi.”

Vác thập giá mình mà đi theo Đức Giê-su (Mt 10:37-38)

25 Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giê-su. Người quay lại bảo họ:

26 “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. 27 Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.

Từ bỏ hết những gì mình có

28 “Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? 29 Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: 30 “Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc. 31 Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? 32 Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà. 33 Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.

Muối mà nhạt đi. . . (Mt 5:13; Mc 9:50)

34 “Muối quả là một cái gì tốt. Nhưng chính muối mà nhạt đi, thì lấy gì ướp nó cho mặn lại? 35 Dùng nó để bón ruộng hay trộn phân đều không thích hợp, nên người ta quăng nó ra ngoài. Ai có tai nghe thì nghe.”

Chương 15

Ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa

1 Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. 2 Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: ”Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” 3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này:

Dụ ngôn con chiên bị mất (Mt 18:12-14)

4 “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? 5 Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. 6 Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: ”Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó. 7 Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.

Dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất

8 “Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được? 9 Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: ”Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất. 10 Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.”

Dụ ngôn người cha nhân hậu

11 Rồi Đức Giê-su nói tiếp: ”Một người kia có hai con trai. 12 Người con thứ nói với cha rằng: ”Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. 13 Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.

14 “Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, 15 nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. 16 Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. 17 Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: ”Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! 18 Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ”Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, 19 chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy. 20 Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.

21 Bấy giờ người con nói rằng: ”Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. . . 22 Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: ”Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, 23 rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! 24 Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng.

25 “Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, 26 liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. 27 Người ấy trả lời: ”Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ. 28 Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. 29 Cậu trả lời cha: ”Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. 30 Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!

31 “Nhưng người cha nói với anh ta: ”Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. 32 Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.”

Chương 16

Dụ ngôn người quản gia bất lương

1 Đức Giê-su còn nói với các môn đệ rằng: ”Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông. 2 Ông mới gọi anh ta đến mà bảo: ”Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa! 3 Người quản gia liền nghĩ bụng: ”Mình sẽ làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. 4 Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!

5 “Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: ”Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy? 6 Người ấy đáp: ”Một trăm thùng dầu ô-liu. Anh ta bảo: ”Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi. 7 Rồi anh ta hỏi người khác: ”Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy? Người ấy đáp: ”Một ngàn giạ lúa. Anh ta bảo: ”Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.

8 “Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.

Trung tín trong việc sử dụng Tiền Của

9 “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. 10 Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. 11 Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? 12 Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?

13 “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.”

Đức Giê-su khiển trách người Pha-ri-sêu ham tiền

14 Người Pha-ri-sêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy, thì cười nhạo Đức Giê-su. 15 Người bảo họ: ”Các ông là những kẻ làm ra bộ công chính trước mặt người đời, nhưng Thiên Chúa thấu biết lòng các ông, bởi vì điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa.

Dùng sức mạnh mà vào Nước Thiên Chúa (Mt 11:12-13)

16 “Cho đến thời ông Gio-an, thì có Lề Luật và các ngôn sứ; còn từ thời đó, thì Tin Mừng Nước Thiên Chúa được loan báo, và ai cũng dùng sức mạnh mà vào.

Lề Luật sẽ không bao giờ ra vô hiệu (Mt 5:18)

17 “Trời đất qua đi còn dễ hơn là một cái phết của Lề Luật rụng mất.

Vấn đề ly dị (Mt 5:31-32; Mc 10:11-12)

18 “Bất cứ ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị chồng rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình.

Dụ ngôn ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó

19 “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. 20 Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, 21 thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. 22 Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.

23 “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. 24 Bấy giờ ông ta kêu lên: ”Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm! 25 Ông Áp-ra-ham đáp: ”Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. 26 Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.

27 “Ông nhà giàu nói: ”Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con, 28 vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này! 29 Ông Áp-ra-ham đáp: ”Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó. 30 Ông nhà giàu nói: ”Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối. 31 Ông Áp-ra-ham đáp: ”Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.”

Chương 17

Cớ vấp ngã (Mt 18:6-7; Mc 9:42)

1 Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: ”Không thể không có những cớ làm cho người ta vấp ngã; nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã! 2 Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi cho nó hơn là để nó làm cớ cho một trong những kẻ bé nhỏ này vấp ngã. 3 Anh em hãy đề phòng!

Sửa lỗi anh em (Mt 18:15, 21-22)

4 Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh: ”Tôi hối hận”, thì anh cũng phải tha cho nó.”

Sức mạnh của lòng tin

5 Các Tông Đồ thưa với Chúa Giê-su rằng: ”Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.” 6 Chúa đáp: ”Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ”Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc”, nó cũng sẽ vâng lời anh em.

Phục vụ cách khiêm tốn

7 “Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: ”Mau vào ăn cơm đi”, 8 chứ không bảo: ”Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau! ? 9 Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao? 10 Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”

Mười người phong hủi

11 Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê. 12 Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa 13 và kêu lớn tiếng: ”Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi!” 14 Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ: ”Hãy đi trình diện với các tư tế.” Đang khi đi thì họ được sạch. 15 Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. 16 Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri. 17 Đức Giê-su mới nói: ”Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? 18 Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” . 19 Rồi Người nói với anh ta: ”Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”

19 “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” 20 Người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giê-su bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến. Người trả lời: ”Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. 21 Và người ta sẽ không nói: ”Ở đây này! hay”Ở kia kìa!, vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.”

Ngày của Con Người (Mt 24:23-28, 37-41)

22 Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ: ”Sẽ đến thời anh em mong ước được thấy một trong những ngày của Con Người thôi, mà cũng không được thấy. 23 Người ta sẽ bảo anh em: ”Người ở kia kìa! hay”Người ở đây này! Anh em đừng đi, đừng chạy theo. 24 Vì ánh chớp chói loà chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong ngày của Người. 25 Nhưng trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ.

26 “Và cũng như thời ông Nô-ê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong những ngày của Con Người, sự việc cũng sẽ xảy ra như vậy. 27 Thiên hạ ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu, và nạn hồng thủy ập tới, tiêu diệt tất cả. 28 Sự việc cũng xảy ra giống như vậy trong thời ông Lót: thiên hạ ăn uống, mua bán, trồng trọt, xây cất. 29 Nhưng ngày ông Lót ra khỏi Xơ-đôm, thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả. 30 Sự việc cũng sẽ xảy ra như thế, ngày Con Người được mặc khải.

31 “Ngày ấy, ai ở trên sân thượng mà đồ đạc ở dưới nhà, thì đừng xuống lấy. Cũng vậy, ai ở ngoài đồng thì đừng quay trở lại. 32 Hãy nhớ chuyện vợ ông Lót. 33 Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống. 34 Thầy nói cho anh em biết: đêm ấy, hai người đang nằm chung một giường, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. 35 Hai người đàn bà đang cùng nhau xay bột, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. 36 Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại.” 37 Các môn đệ lên tiếng hỏi Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, ở đâu vậy?” Người nói với các ông: ”Xác nằm đâu, diều hâu tụ đó.”

Chương 18

Dụ ngôn quan toà bất chính và bà goá quấy rầy

1 Đức Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí. 2 Người nói: ”Trong thành kia, có một ông quan toà. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì. 3 Trong thành đó, cũng có một bà goá. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông: ”Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho. 4 Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng: ”Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, 5 nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc.”

6 Rồi Chúa nói: ”Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! 7 Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? 8Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”

Dụ ngôn người Pha-ri-sêu và người thu thuế

9 Đức Giê-su còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: 10 “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia làm nghề thu thuế. 11 Người Pha-ri-sêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: ”Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. 12 Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con. 13 Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: ”Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. 14 Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”

Đức Giê-su và các trẻ em (Mt 19:13-15; Mc 10:13-16)

15 Người ta còn đem cả trẻ thơ đến với Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng. Thấy vậy, các môn đệ la rầy chúng. 16 Nhưng Đức Giê-su gọi chúng lại mà nói: ”Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. 17 Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào.”

Người thủ lãnh giàu có (Mt 19:16-22; Mc 10:17-22)

18 Có một thủ lãnh hỏi Đức Giê-su: ”Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” 19 Đức Giê-su đáp: ”Sao ông nói tôi nhân lành? Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. 20 Hẳn ông biết các điều răn: Chớ ngoại tình, chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, hãy thờ cha kính mẹ.” 21 Ông ta nói: ”Tất cả những việc đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.” 22 Nghe vậy, Đức Giê-su bảo ông: ”Ông chỉ còn thiếu có một điều, là hãy bán tất cả những gì ông có mà phân phát cho người nghèo, và ông sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” 23 Nghe vậy, ông ta buồn lắm, vì ông rất giàu.

Người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa (Mt 19:23-26; Mc 10:23-27)

24 Đức Giê-su nhìn ông ta và nói: ”Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao! 25 Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” 26 Những người nghe Đức Giê-su nói liền hỏi: ”Thế thì ai có thể được cứu?” 27 Người đáp: ”Những gì không thể được đối với loài người, thì đều có thể được đối với Thiên Chúa.”

Phần thưởng dành cho ai bỏ mọi sự mà theo Đức Giê-su (Mt 19:27-29; Mc 10:28-30)

28 Ông Phê-rô thưa: ”Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ những gì là của mình mà theo Thầy.” 29 Người đáp: ”Thầy bảo thật anh em: chẳng hề có ai bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa, 30 mà lại không được gấp bội ở đời này và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.”

Đức Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ ba (Mt 20:17-19; Mc 10:32-34)

31 Đức Giê-su kéo riêng Nhóm Mười Hai ra và nói với các ông: ”Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất. 32 Quả vậy, Người sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, nhục mạ, khạc nhổ. 33 Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại.” 34 Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói.

Đức Giê-su chữa người mù tại Giê-ri-khô (Mt 20:29-34; Mc 10:46-52)

35 Khi Đức Giê-su gần đến Giê-ri-khô, có một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường. 36 Nghe thấy đám đông đi qua, anh ta hỏi xem có chuyện gì. 37 Họ báo cho anh biết là Đức Giê-su Na-da-rét đang đi qua đó. 38 Anh liền kêu lên rằng: ”Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” 39 Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi; nhưng anh càng kêu lớn tiếng: ”Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” 40 Đức Giê-su dừng lại, truyền dẫn anh ta đến. Khi anh đã đến gần, Người hỏi: 41 “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh ta đáp: ”Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được.” 42 Đức Giê-su nói: ”Anh nhìn thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” 43 Lập tức, anh ta nhìn thấy được và theo Người, vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa.

Chương 19

Ông Da-kêu

1 Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giê-su đi ngang qua thành phố ấy. 2 Ở đó có một người tên là Da-kêu; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. 3 Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. 4 Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó. 5 Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: ”Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” 6 Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. 7 Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: ”Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” 8 Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng: ”Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” 9 Đức Giê-su mới nói về ông ta rằng: ”Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. 10 Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.”

Dụ ngôn mười nén bạc (Mt 25:14-30)

11 Khi dân chúng đang nghe những điều ấy, thì Đức Giê-su lại kể thêm một dụ ngôn, vì Người đang ở gần Giê-ru-sa-lem và vì họ tưởng là Triều Đại Thiên Chúa sắp xuất hiện đến nơi rồi. 12 Vậy Người nói: ”Có một người quý tộc kia trẩy đi phương xa lãnh nhận vương quyền, rồi trở về. 13 Ông gọi mười người trong các tôi tớ của ông đến, phát cho họ mười nén bạc và nói với họ: ”Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến.” 14 Nhưng đồng bào ông ghét ông, nên họ cử một phái đoàn đến sau ông để nói rằng: ”Chúng tôi không muốn ông này làm vua chúng tôi.

15 “Sau khi lãnh nhận vương quyền, ông trở về. Bấy giờ ông truyền gọi những đầy tớ ông đã giao bạc cho, để xem mỗi người làm ăn sinh lợi được bao nhiêu. 16 Người thứ nhất đến trình: ”Thưa ngài, nén bạc của ngài đã sinh lợi được mười nén. 17 Ông bảo người ấy: ”Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi! Vì anh đã trung thành trong việc rất nhỏ, thì hãy cầm quyền cai trị mười thành. 18 Người thứ hai đến trình: ”Thưa ngài, nén bạc của ngài đã làm lợi được năm nén. 19 Ông cũng bảo người ấy: ”Anh cũng vậy, anh hãy cai trị năm thành.

20 Rồi người thứ ba đến trình: ”Thưa ngài, nén bạc của ngài đây, tôi đã bọc khăn giữ kỹ. 21 Tôi sợ ngài, vì ngài là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo. 22 Ông nói: ”Hỡi đầy tớ tồi tệ! Tôi cứ lời miệng anh mà xử anh. Anh đã biết tôi là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo. 23 Thế sao anh không gửi bạc của tôi vào ngân hàng? Có vậy, khi tôi đến, tôi mới rút ra được cả vốn lẫn lời chứ! 24 Rồi ông bảo những người đứng đó: ”Lấy lại nén bạc nó giữ mà đưa cho người đã có mười nén. 25 Họ thưa ông: ”Thưa ngài, anh ấy có mười nén rồi! 26-” Tôi nói cho các anh hay: phàm ai đã có, thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi.

27 “Còn bọn thù địch của tôi kia, những người không muốn tôi làm vua cai trị chúng, thì hãy dẫn chúng lại đây và giết chết trước mặt tôi.”

V. ĐỨC GIÊ-SU RAO GIẢNG TẠI GIÊ-RU-SA-LEM

Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là Mê-si-a (Mt 21:1-11; Mc 11:1-10; Ga 12:12-19)

28 Nói những lời ấy xong, Đức Giê-su đi đầu, tiến lên Giê-ru-sa-lem. 29 Khi đến gần làng Bết-pha-ghê và làng Bê-ta-ni-a, bên triền núi gọi là núi Ô-liu, Người sai hai môn đệ và bảo: 30 “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Khi vào sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và dắt nó đi. 31 Nếu có ai hỏi: ”Tại sao các anh cởi lừa người ta ra”, thì cứ nói: ”Chúa có việc cần dùng! 32 Hai người được sai liền ra đi và thấy y như Người đã nói. 33 Các ông đang cởi dây lừa, thì những người chủ nói với các ông: ”Tại sao các anh lại cởi lừa người ta ra?” 34 Hai ông đáp: ”Chúa có việc cần dùng.”

35 Các ông dắt lừa về cho Đức Giê-su, rồi lấy áo choàng của mình phủ trên lưng lừa, và giúp Người cỡi lên. 36 Người đi tới đâu, dân chúng cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường. 37 Khi Người đến gần chỗ dốc xuống núi Ô-liu, tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì các phép lạ họ đã được thấy. 38 Họ hô lên: Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!

Đức Giê-su tán thành việc các môn đệ hoan hô Người (Mt 21:15-16)

39 Trong đám đông, có vài người thuộc nhóm Pha-ri-sêu nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, Thầy trách môn đệ Thầy đi chứ!” 40 Người đáp: ”Tôi bảo các ông: họ mà làm thinh, thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên!”

Đức Giê-su thương tiếc thành Giê-ru-sa-lem

41 Khi đến gần Giê-ru-sa-lem và trông thấy thành, Đức Giê-su khóc thương42 mà nói: ”Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được. 43 Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. 44 Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm.”

Đức Giê-su đuổi những người đang buôn bán trong Đền Thờ (Mt 21:12-14; Mc 11:15-19; Ga 2:13-16)

45 Đức Giê-su vào Đền Thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán46 và nói với họ: ”Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp!”

Đức Giê-su giảng dạy tại Đền Thờ (Mc 11:18)

47 Hằng ngày, Người giảng dạy trong Đền Thờ. Các thượng tế và kinh sư tìm cách giết Người, cả các thân hào trong dân cũng vậy. 48 Nhưng họ không biết phải làm sao, vì toàn dân say mê nghe Người.

Chương 20

Câu hỏi về quyền bính của Đức Giê-su (Mt 21:23-27; Mc 11:27-33)

1 Một hôm, đang khi Đức Giê-su giảng dạy cho dân trong Đền Thờ và loan báo Tin Mừng, thì các thượng tế và kinh sư cùng các kỳ mục kéo đến 2 và nói với Người rằng: ”Xin ông cho chúng tôi biết: ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Hay ai là người đã cho ông quyền ấy?” 3 Đức Giê-su đáp: ”Tôi cũng vậy, tôi hỏi các ông một điều, xin nói cho tôi biết: 4 phép rửa của ông Gio-an là do Trời hay do người ta?” 5 Họ liền bàn tính với nhau: ”Nếu mình nói: ”Do Trời”, thì ông ấy sẽ vặn lại: ”Thế sao các ông lại không tin ông ấy? 6 Còn nếu mình nói: ”Do người ta”, thì toàn dân sẽ ném đá mình, vì họ xác tín rằng ông Gio-an là một Ngôn Sứ.” 7 Họ mới trả lời là họ không biết do đâu. 8 Đức Giê-su liền bảo họ: ”Tôi cũng vậy, tôi cũng không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy.”

Dụ ngôn những tá điền sát nhân (Mt 21:33-46; Mc 12:1-12)

9 Rồi Đức Giê-su bắt đầu kể cho dân nghe dụ ngôn này: ”Có người kia trồng được một vườn nho và cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa một thời gian khá lâu.

10 “Đến mùa, ông sai một đầy tớ đến gặp các tá điền để chúng nộp hoa lợi vườn nho cho anh đem về. Nhưng bọn tá điền đánh anh ta rồi đuổi về tay không. 11 Ông lại sai một đầy tớ khác, nhưng họ cũng đánh anh ta, hạ nhục, rồi đuổi về tay không. 12 Ông còn sai thêm một người thứ ba, nhưng họ cũng đánh trọng thương, rồi quăng ra ngoài. 13 Ông chủ vườn nho mới nói: ”Ta phải làm gì đây? Ta sẽ phái người con yêu dấu của ta, biết đâu chúng sẽ nể con ta. 14 Nhưng vừa thấy cậu, bọn tá điền liền bàn nhau: ”Đứa thừa tự đây rồi! Ta giết quách nó đi, rồi gia tài sẽ về tay ta. 15 Thế là chúng quăng cậu ra bên ngoài vườn nho, rồi giết đi.

16 Ông sẽ đến tru diệt các tá điền ấy, rồi giao vườn nho cho người khác” . Nghe vậy, họ nói: ”Mong đừng có chuyện ấy!” 17 Nhưng Đức Giê-su đưa mắt nhìn họ và nói: ”Vậy câu Kinh Thánh này có nghĩa gì:

Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ,

lại trở nên đá tảng góc tường?

18 “Phàm ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát thịt.”

19 Ngay giờ đó, các kinh sư và thượng tế tìm cách tra tay bắt Đức Giê-su, nhưng lại sợ dân. Quả vậy, họ thừa hiểu Người đã nhắm vào họ mà kể dụ ngôn ấy.

Nộp thuế cho Xê-da (Mt 22:15-22; Mc 12:13-17)

20 Họ rình rập và sai một số người giả bộ công chính đến dò la, mong bắt quả tang Đức Giê-su lỡ lời, để nộp Người cho nhà chức trách có thẩm quyền là tổng trấn. 21 Những người này hỏi Đức Giê-su rằng: ”Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy nói và dạy một cách thẳng thắn, không thiên vị ai, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. 22 Vậy, chúng tôi có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?” 23 Nhưng Đức Giê-su thấu suốt lòng xảo trá của họ, nên Người nói: 24 “Cho tôi coi một quan tiền! Quan tiền này mang hình và danh hiệu của ai đây?” Họ đáp: ”Của Xê-da.” 25 Người bảo họ: ”Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.”

26 Họ không tài nào bắt quả tang Người lỡ lời trước mặt dân; nghe câu trả lời của Người, họ ngạc nhiên và làm thinh luôn.

Kẻ chết sống lại (Mt 22:23-33; Mc 12:18-27)

27 Có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. 28 Mấy người ấy hỏi Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. 29 Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. 30 Người thứ hai, 31 rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. 32 Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. 33 Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?”

34 Đức Giê-su đáp: ”Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, 35 chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. 36 Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. 37 Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. 38 Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.”

39 Bấy giờ có mấy người thuộc nhóm kinh sư lên tiếng nói: ”Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm.” 40 Thế là, họ không dám chất vấn Người điều gì nữa.

Đức Ki-tô là Con và cũng là Chúa của vua Đa-vít (Mt 22:41-46; Mc 12:35-37)

41 Nhưng Người hỏi họ: ”Sao người ta lại nói Đấng Ki-tô là con vua Đa-vít? 42 Vì chính vua Đa-vít đã nói trong sách Thánh vịnh: Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi: Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, 43 Để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân Con.

44 “Như vậy, vua Đa-vít gọi Đấng Ki-tô là Chúa Thượng; thế thì làm sao Đấng Ki-tô lại là con vua ấy được?”

Đức Giê-su khiển trách các kinh sư (Mt 23:1-36; Mc 12:38-40)

45 Toàn dân đang nghe, thì Người nói với các môn đệ: 46 “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. 47 Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.”

Chương 21

Hai đồng tiền nhỏ của bà goá (Mc 12:41-44)

1 Ngước mắt lên nhìn, Đức Giê-su thấy những người giàu đang bỏ tiền dâng cúng của họ vào thùng tiền. 2 Người cũng thấy một bà goá túng thiếu kia bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm. 3 Người liền nói: ”Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. 4 Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.”

Bài giảng về sự sụp đổ của thành Giê-ru-sa-lem. Nhập đề (Mt 24:1-3; Mc 13:1-4)

5 Nhân có mấy người nói về Đền Thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giê-su bảo: 6 “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.” 7 Họ hỏi Người: ”Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra, thì có điềm gì báo trước?”

Những điềm báo trước (Mt 24:4-13; Mc 13:5-13)

8 Đức Giê-su đáp: ”Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: ”Chính ta đây”, và: ”Thời kỳ đã đến gần”; anh em chớ có theo họ. 9 Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu” . 10 Rồi Người nói tiếp: ”Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. 11 Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện.

12 “Nhưng trước khi tất cả các sự ấy xảy ra, thì người ta sẽ tra tay bắt và ngược đãi anh em, nộp anh em cho các hội đường và bỏ tù, điệu anh em đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy. 13 Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy. 14 Vậy anh em hãy ghi lòng tạc dạ điều này, là anh em đừng lo nghĩ phải bào chữa cách nào. 15 Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được. 16 Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em. 17 Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. 18 Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. 19 Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.

Giê-ru-sa-lem bị vây hãm (Mt 24:15-19; Mc 13:14-17)

20 “Khi anh em thấy thành Giê-ru-sa-lem bị các đạo binh vây hãm, bấy giờ anh em hãy biết rằng đã gần đến ngày khốc hại của thành. 21 Bấy giờ, ai ở miền Giu-đê, hãy trốn lên núi; ai ở trong thành, hãy bỏ đi nơi khác; ai ở vùng quê, thì chớ vào thành. 22 Thật vậy, đó sẽ là những ngày báo oán, ngày mà tất cả những gì đã chép trong Kinh Thánh sẽ được ứng nghiệm.

Cơn khốn khổ. Thời của dân ngoại

23 Khốn thay những người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó!

“ Vì sẽ có cơn khốn khổ cùng cực trên đất này, và cơn thịnh nộ sẽ giáng xuống dân này.

24 Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước, và Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày xéo, cho đến khi mãn thời của dân ngoại.

Những điềm lạ. Con Người quang lâm. (Mt 24, 29-31; Mc 13:24-27)

25 “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. 26 Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. 27 Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. 28 Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.”

Dụ ngôn cây vả (Mt 24:32-35; Mc 13:28-31)

29 Đức Giê-su kể cho các môn đệ nghe một dụ ngôn: ”Anh em hãy xem cây vả cũng như tất cả những cây khác. 30 Khi cây đâm chồi, anh em nhìn thì đủ biết là mùa hè đã đến gần rồi. 31 Anh em cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, thì hãy biết là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. 32 Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. 33 Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.

Phải tỉnh thức và cầu nguyện

34 “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, 35 vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. 36 Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.”

Những ngày sau hết của Đức Giê-su

37 Ban ngày, Đức Giê-su giảng dạy trong Đền Thờ; nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Ô-liu. 38 Sáng sớm, toàn dân đến với Người trong Đền Thờ để nghe Người giảng dạy.

Chương 22

VI. CUỘC THƯƠNG KHÓ

Âm mưu hại Đức Giê-su. Giu-đa tìm cách nộp Thầy (Mt 26:1-5, 14-16; Mc 14:1-2, 10-11; Ga 11:45-53)

1 Lễ Bánh Không Men, cũng gọi là lễ Vượt Qua, đã đến gần. 2 Các thượng tế và kinh sư tìm cách thủ tiêu Đức Giê-su, vì họ sợ dân.

3 Xa-tan đã nhập vào Giu-đa, cũng gọi là Ít-ca-ri-ốt, một người trong Nhóm Mười Hai. 4 Hắn đi nói chuyện với các thượng tế và lãnh binh Đền Thờ về cách thức nộp Người cho họ. 5 Họ rất mừng và đồng ý sẽ cho hắn tiền. 6 Hắn ưng thuận và tìm dịp tiện để nộp Đức Giê-su cho họ, lúc không có đám đông.

Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua (Mt 26:17-25; Mc 14:12-21; Ga 13:21-30)

7 Đã đến ngày lễ Bánh Không Men, ngày phải sát tế chiên Vượt Qua. 8 Đức Giê-su sai ông Phê-rô với ông Gio-an đi và dặn: ”Các anh hãy đi dọn cho chúng ta ăn lễ Vượt Qua.” 9 Hai ông hỏi: ”Thầy muốn chúng con dọn ở đâu?” 10 Người bảo họ: ”Này, khi vào thành, các anh sẽ gặp một người mang vò nước. Cứ đi theo người đó, người đó vào nhà nào, 11 thì các anh vào thưa với chủ nhà: ”Thầy nhắn ông: Căn phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu? 12 Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một căn phòng rộng rãi trên lầu, đã được trang bị: các anh hãy dọn ở đó.” 13 Các ông ra đi, thấy mọi sự y như Người đã nói, và các ông dọn tiệc Vượt Qua.

Ăn tiệc Vượt Qua (Mt 26:20. 29; Mc 14:17-25)

14 Khi giờ đã đến, Đức Giê-su vào bàn, và các Tông Đồ cùng vào với Người. 15 Người nói với các ông: ”Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình. 16 Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa.”

17 Rồi Người nhận lấy chén, dâng lời tạ ơn và nói: ”Anh em hãy cầm lấy mà chia nhau. 18 Bởi vì, Thầy bảo cho anh em biết, từ nay, Thầy không còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến khi Triều Đại Thiên Chúa đến.”

Đức Giê-su lập phép Thánh Thể (Mt 26:26-28; Mc 14:22-24; ICo 11:23-25)

19 Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: ”Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.” 20 Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: ”Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.

Đức Giê-su tiên báo Giu-đa sẽ nộp Thầy (Mt 26:21-25; Mc 14:17-21)

21 “Nhưng này bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy. 22 Đã hẳn Con Người ra đi như đã ấn định, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người.” 23 Các Tông Đồ bắt đầu bàn tán với nhau xem ai trong Nhóm lại là kẻ toan làm chuyện ấy.

Kẻ làm đầu phải hầu thiên hạ

24 Các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất. 25 Đức Giê-su bảo các ông: ”Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. 26 Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. 27 Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ.

Phần thưởng dành cho các Tông Đồ

28 “Còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. 29 Vì thế, Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, 30 để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en.”

Đức Giê-su tiên báo: ông Phê-rô sẽ chối Thầy, nhưng sẽ trở lại (Mt 26:30-35; Mc 14:26-31; Ga 13:36-38)

31 Rồi Chúa nói: ”Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. 32 Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh.” 33 Ông Phê-rô thưa với Người: ”Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng.” 34 Đức Giê-su lại nói: ”Này anh Phê-rô, Thầy bảo cho anh biết, hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần anh chối là không biết Thầy.”

Giờ chiến đấu quyết liệt

35 Rồi Người nói với các ông: ”Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?” Các ông đáp: ”Thưa không.” 36 Người bảo các ông: ”Nhưng bây giờ, ai có túi tiền thì hãy mang theo, ai có bao bị cũng vậy; còn ai chưa có gươm thì bán áo đi mà mua. 37 Vì Thầy bảo cho anh em hay: cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh đã chép: Người bị liệt vào hàng phạm pháp. Thật vậy, những gì đã chép về Thầy sắp được hoàn tất.” 38 Các ông nói: ”Lạy Chúa, đã có hai thanh gươm đây.” Người bảo họ: ”Đủ rồi!”

Tại núi Ô-liu (Mt 26:36-46; Mc 14:32-42)

39 Rồi Người đi ra núi Ô-liu như đã quen. Các môn đệ cũng theo Người. 40 Đến nơi, Người bảo các ông: ”Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ.”

41 Rồi Người đi xa các ông một quãng, chừng bằng ném một hòn đá, và quỳ gối cầu nguyện rằng: 42 “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha.” 43 Bấy giờ có thiên sứ tự trời hiện đến tăng sức cho Người. 44 Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất.

45 Cầu nguyện xong, Người đứng lên, đến chỗ các môn đệ, thấy các ông đang ngủ vì buồn phiền, 46 Người liền nói với các ông: ”Sao anh em lại ngủ? Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ.”

Đức Giê-su bị bắt (Mt 26:47-55; Mc 14:43-49; Ga 18:3-11)

47 Người còn đang nói, thì một đám đông xuất hiện, và kẻ dẫn đầu tên là Giu-đa, một người trong Nhóm Mười Hai. Hắn lại gần Đức Giê-su để hôn Người. 48 Đức Giê-su bảo hắn: ”Giu-đa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” 49 Thấy việc sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi: ”Lạy Chúa, chúng con tuốt gươm chém được không?” 50 Thế rồi một người trong nhóm chém tên đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai bên phải. 51 Nhưng Đức Giê-su lên tiếng: ”Thôi, ngừng lại.” Và Người sờ vào tai tên đầy tớ mà chữa lành.

52 Sau đó Đức Giê-su nói với các thượng tế, lãnh binh Đền Thờ và kỳ mục đến bắt Người: ”Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến? 53 Ngày ngày, tôi ở giữa các ông trong Đền Thờ, mà các ông không tra tay bắt. Nhưng đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm.”

Ông Phê-rô chối Thầy (Mt 26:57, 69-75; Mc 14:53-54, 66-72; Ga 18:12-18, 25-27)

54 Họ bắt Đức Giê-su, điệu Người đến nhà vị thượng tế. Còn ông Phê-rô thì theo xa xa. 55 Họ đốt lửa giữa sân và đang ngồi quây quần với nhau, thì ông Phê-rô đến ngồi giữa họ. 56 Thấy ông ngồi bên ánh lửa, một người tớ gái nhìn ông chòng chọc và nói: ”Cả bác này cũng đã ở với ông ấy đấy!” 57 Ông liền chối: ”Tôi có biết ông ấy đâu, chị!” 58 Một lát sau, có người khác thấy ông, liền nói: ”Cả bác nữa, bác cũng thuộc bọn chúng!” Nhưng ông Phê-rô đáp lại: ”Này anh, không phải đâu!” 59 Chừng một giờ sau, có người khác lại quả quyết: ”Đúng là bác này cũng đã ở với ông ấy, vì bác ta cũng là người Ga-li-lê.” 60 Nhưng ông Phê-rô trả lời: ”Này anh, tôi không biết anh nói gì!” Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. 61 Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: ”Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.” 62 Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.

Đức Giê-su bị đánh đập (Mt 26:67-68; Mc 14:65)

63 Những kẻ canh giữ Đức Giê-su nhạo báng đánh đập Người. 64 Chúng bịt mắt Người lại, rồi hỏi rằng: ”Nói tiên tri xem: ai đánh ông đó?” 65 Chúng còn thốt ra nhiều lời khác xúc phạm đến Người.

Đức Giê-su ra trước Thượng Hội Đồng (Mt 26:59-66; Mc 14:55-64; Ga 18:19-24)

66 Khi trời sáng, đoàn kỳ mục trong dân, các thượng tế và kinh sư nhóm họp. Họ điệu Người ra trước Thượng Hội Đồng67 và hỏi: ”Ông có phải là Đấng Mê-si-a thì nói cho chúng tôi biết!” Người đáp: ”Tôi có nói với các ông, các ông cũng chẳng tin; 68 tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời. 69 Nhưng từ nay, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng.” 70 Mọi người liền nói: ”Vậy ông là Con Thiên Chúa sao?” Người đáp: ”Đúng như các ông nói, chính tôi đây.” 71 Họ liền nói: ”Chúng ta cần gì lời chứng nữa? Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói!”

Chương 23

1 Toàn thể cử toạ đứng lên, điệu Đức Giê-su đến ông Phi-la-tô; .

Đức Giê-su ra trước toà tổng trấn Phi-la-tô (Mt 27:11-14; Mc 15:2-5; Ga 18:28-38)

2 Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: ”Chúng tôi đã phát giác ra tên này sách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xê-da, lại còn xưng mình là Mê-si-a, là Vua nữa.” 3 Ông Phi-la-tô hỏi Người: ”Ông là Vua dân Do-thái sao?” Người trả lời: ”Chính ngài nói đó.” 4 Ông Phi-la-tô nói với các thượng tế và đám đông: ”Ta xét thấy người này không có tội gì.” 5 Nhưng họ cứ khăng khăng nói: ”Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp vùng Giu-đê, bắt đầu từ Ga-li-lê cho đến đây.” 6 Nghe nói thế, ông Phi-la-tô liền hỏi xem đương sự có phải là người Ga-li-lê không. 7 Và khi biết Người thuộc thẩm quyền vua Hê-rô-đê, ông liền cho áp giải Người đến với nhà vua lúc ấy cũng đang có mặt tại Giê-ru-sa-lem.

Đức Giê-su ra trước mặt vua Hê-rô-đê.

8 Vua Hê-rô-đê thấy Đức Giê-su thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu vua muốn được gặp Người bởi đã từng nghe nói về Người. Vả lại, vua cũng mong được xem Người làm một hai phép lạ. 9 Nhà vua hỏi Người nhiều điều, nhưng Người không trả lời gì cả. 10 Các thượng tế và kinh sư đứng đó, tố cáo Người dữ dội. 11 Vua Hê-rô-đê cũng như thị vệ đều khinh dể Người ra mặt nên khoác cho Người một chiếc áo rực rỡ mà chế giễu, rồi cho giải Người lại cho ông Phi-la-tô. 12 Ngày hôm ấy, vua Hê-rô-đê và tổng trấn Phi-la-tô bắt đầu thân thiện với nhau, chứ trước kia hai bên vẫn hiềm thù.

Đức Giê-su lại ra trước toà tổng trấn Phi-la-tô (Mt 27:15-26; Mc 15:6-15; Ga 18:39-19:16)

13 Bấy giờ ông Phi-la-tô triệu tập các thượng tế, thủ lãnh và dân chúng lại 14 mà nói: ”Các ngươi nộp người này cho ta, vì cho là tay kích động dân, nhưng ta đã hỏi cung ngay trước mặt các ngươi, mà không thấy người này có tội gì, như các ngươi tố cáo. 15 Cả vua Hê-rô-đê cũng vậy, bởi lẽ nhà vua đã cho giải ông ấy lại cho chúng ta. Và các ngươi thấy đó, ông ấy chẳng can tội gì đáng chết cả. 16 Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra.” 17 Vào mỗi dịp lễ lớn, ông Phi-la-tô phải phóng thích cho họ một người tù. 18 Nhưng tất cả mọi người đều la ó: ”Giết nó đi, thả Ba-ra-ba cho chúng tôi!” 19 Tên này đã bị tống ngục vì một vụ bạo động đã xảy ra trong thành, và vì tội giết người.

20 Ông Phi-la-tô muốn thả Đức Giê-su, nên lại lên tiếng một lần nữa. 21 Nhưng họ cứ một mực la lớn: ”Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập giá!” 22 Lần thứ ba, ông Phi-la-tô nói với họ: ”Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác? Ta xét thấy ông ấy không có tội gì đáng chết. Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra.” 23 Nhưng họ cứ la to hơn, nhất định đòi phải đóng đinh Người. Và tiếng la càng thêm dữ dội.

24 Ông Phi-la-tô quyết định chấp thuận điều họ yêu cầu. 25 Ông phóng thích người tù họ xin tha, tức là tên bị tống ngục vì tội bạo động và giết người. Còn Đức Giê-su thì ông trao nộp theo ý họ muốn.

Trên đường lên núi Sọ (Mt 27:32; Mc 15:21)

26 Khi điệu Đức Giê-su đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Si-môn, gốc Ky-rê-nê, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức Giê-su. 27 Dân chúng đi theo Người đông lắm, trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc Người. 28 Đức Giê-su quay lại phía các bà mà nói: ”Hỡi chị em thành Giê-ru-sa-lem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu. 29 Vì này đây sẽ tới những ngày người ta phải nói: ”Phúc thay đàn bà hiếm hoi, người không sinh không đẻ, kẻ không cho bú mớm!” 30 Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non: Đổ xuống chúng tôi đi!, và với gò nổng: Phủ lấp chúng tôi đi! 31 Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao?” 32 Có hai tên gian phi cũng bị điệu đi hành quyết cùng với Người.

Đức Giê-su chịu đóng đinh vào thập giá (Mt 27:33-35; Mc 15:22-24; Ga 19:17-18, 23-24)

33 Khi đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. 34 Bấy giờ Đức Giê-su cầu nguyện rằng: ”Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” Rồi họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm.

Đức Giê-su bị nhục mạ (Mt 27:37-44; Mc 15:26-32)

35 Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: ”Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!” 36 Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống 37 và nói: ”Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình đi!” 38 Phía trên đầu Người, có bản án viết: ”Đây là vua người Do-thái.”

Người gian phi sám hối

39 Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: ”Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” 40 Nhưng tên kia mắng nó: ”Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! 41 Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” 42 Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su: ”Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” 43 Và Người nói với anh ta: ”Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.”

Đức Giê-su trút hơi thở cuối cùng (Mt 27:45-51; Mc 15:33-38; Ga 19:28-30)

44 Bấy giờ đã gần tới giờ thứ sáu, thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. 45 Mặt trời ngưng chiếu sáng. Bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay chính giữa. 46 Đức Giê-su kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở.

Sau khi Đức Giê-su tắt thở (Mt 27:54-56; Mc 15:39-41)

47 Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: ”Người này đích thực là người công chính!” 48 Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về.

49 Đứng đàng xa, có tất cả những người quen biết Đức Giê-su cũng như những phụ nữ đã theo Người từ Ga-li-lê; các bà đã chứng kiến những việc ấy.

Mai táng Đức Giê-su (Mt 27:57-61; Mc 15:42-47; Ga 19:38-42)

50 Khi ấy có một người tên là Giô-xếp, thành viên của Thượng Hội Đồng, một người lương thiện, công chính. 51 Ông đã không tán thành quyết định và hành động của Thượng Hội Đồng. Ông là người thành A-ri-ma-thê, một thành của người Do-thái, và cũng là người vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa. 52 Ông đến gặp tổng trấn Phi-la-tô để xin thi hài Đức Giê-su. 53 Ông hạ xác Người xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ. 54 Hôm ấy là áp lễ, và ngày sa-bát bắt đầu ló rạng.

55 Cùng đi với ông Giô-xếp, có những người phụ nữ đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào.

56 Rồi các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày sa-bát, các bà nghỉ lễ như Luật truyền.

Chương 24

VII. SAU PHỤC SINH

Ngôi mộ trống (Mt 28:1-7; Mc 16:1-7)

1 Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn. 2 Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. 3 Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả. 4 Họ còn đang phân vân, thì bỗng có hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ. 5 Đang lúc các bà sợ hãi, cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói: ”Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? 6 Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê, 7 là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại.”

Các Tông Đồ không tin lời các phụ nữ (Mt 28:8)

8 Bấy giờ các bà nhớ lại những điều Đức Giê-su đã nói. 9 Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. 10 Mấy bà nói đây là bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Gio-an-na, và bà Ma-ri-a, mẹ ông Gia-cô-bê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông Đồ như vậy. 11 Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin.

Ông Phê-rô ra mộ (Ga 20:3-10)

12 Dầu vậy, ông Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn, ông thấy chỉ còn có những khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự việc đã xảy ra.

Đức Giê-su hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau (Mc 16:12-13)

13 Cũng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số. 14 Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. 15 Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. 16 Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. 17 Người hỏi họ: ”Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.

18 Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời: ”Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay.” 19 Đức Giê-su hỏi: ”Chuyện gì vậy?” Họ thưa: ”Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. 20 Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. 21 Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. 22 Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, 23 không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. 24 Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy.”

25 Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: ”Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! 26 Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? 27 Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.

28 Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. 29 Họ nài ép Người rằng: ”Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. 30 Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. 31 Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. 32 Họ mới bảo nhau: ”Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”

33 Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. 34 Những người này bảo hai ông: ”Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn.” 35 Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.

Đức Giê-su hiện ra với các Tông Đồ (Ga 20:19-20)

36 Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: ”Bình an cho anh em!” 37 Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. 38 Nhưng Người nói: ”Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? 39 Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” 40 Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. 41 Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: ”Ở đây anh em có gì ăn không?” 42 Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. 43 Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.

Những lời chỉ bảo sau hết cho các Tông Đồ (Mt 28:16-20; Mc 16:14-18; Ga 20:21-23; Cv 1:6-8)

44 Rồi Người bảo: ”Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm.” 45 Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh46 và Người nói: ”Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; 47 phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. 48 Chính anh em là chứng nhân về những điều này. 49 “Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”

Đức Giê-su được rước lên trời (Mc 16:19-20; Cv 1:9-11)

50 Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. 51 Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời. 52 Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ, 53 và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.

Gio-an

Chương 1

I. LỜI TỰA

1 Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.

Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,

và Ngôi Lời là Thiên Chúa.

2 Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.

3 Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,

và không có Người,

thì chẳng có gì được tạo thành.

Điều đã được tạo thành

4 ở nơi Người là sự sống,

và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.

5 Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối,

và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.

6 Có một người được Thiên Chúa sai đến,

tên là Gio-an.

7 Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng,

để mọi người nhờ ông mà tin.

8 Ông không phải là ánh sáng,

nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.

9 Ngôi Lời là ánh sáng thật,

ánh sáng đến thế gian

và chiếu soi mọi người.

10 Người ở giữa thế gian,

và thế gian đã nhờ Người mà có,

nhưng lại không nhận biết Người.

11 Người đã đến nhà mình,

nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.

12 Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,

thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.

13 Họ được sinh ra, không phải do khí huyết,

cũng chẳng do ước muốn của nhục thể,

hoặc do ước muốn của người đàn ông,

nhưng do bởi Thiên Chúa.

14 Ngôi Lời đã trở nên người phàm

và cư ngụ giữa chúng ta.

Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,

vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người,

là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.

15 Ông Gio-an làm chứng về Người, ông tuyên bố:

“ Đây là Đấng mà tôi đã nói:

Người đến sau tôi,

nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.”

16 Từ nguồn sung mãn của Người,

tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.

17 Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê,

còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có.

18 Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả;

nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa

và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,

chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.

II. SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊ-SU

1. LOAN BÁO NHIỆM CỤC MỚI

A. TUẦN LỄ KHAI MẠC

Lời chứng của ông Gio-an (Mt 3:1-12; Mc 1:1-8; Lc 3:1-18)

19 Và đây là lời chứng của ông Gio-an, khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: ”Ông là ai?” 20 Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: ”Tôi không phải là Đấng Ki-tô.” 21 Họ lại hỏi ông: ”Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?” Ông nói: ”Không phải.”-”Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” Ông đáp: ”Không.” 22 Họ liền nói với ông: ”Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?” 23 Ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói. 24 Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu. 25 Họ hỏi ông: ”Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?” 26 Ông Gio-an trả lời: ”Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. 27 Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” 28 Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa.

29 Hôm sau, ông Gio-an thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, liền nói: ”Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. 30 Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.

31 Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước.” 32 Ông Gio-an còn làm chứng: ”Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. 33 Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: ”Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.” 34 Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.”

Các môn đệ đầu tiên

35 Hôm sau, ông Gio-an lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. 36 Thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông lên tiếng nói: ”Đây là Chiên Thiên Chúa.” 37 Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê-su. 38 Đức Giê-su quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: ”Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: ”Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?” 39 Người bảo họ: ”Đến mà xem.” Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười.

40 Ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô, là một trong hai người đã nghe ông Gio-an nói và đi theo Đức Giê-su. 41 Trước hết, ông gặp em mình là ông Si-môn và nói: ”Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô). 42 Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn ông Si-môn và nói: ”Anh là Si-môn, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha” (tức là Phê-rô).

43 Hôm sau, Đức Giê-su quyết định đi tới miền Ga-li-lê. Người gặp ông Phi-líp-phê và nói: ”Anh hãy theo tôi.” 44 Ông Phi-líp-phê là người Bết-xai-đa, cùng quê với các ông An-rê và Phê-rô.

45 Ông Phi-líp-phê gặp ông Na-tha-na-en và nói: ”Đấng mà sách Luật Mô-sê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giê-su, con ông Giu-se, người Na-da-rét.” 46 Ông Na-tha-na-en liền bảo: ”Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được?” Ông Phi-líp-phê trả lời: ”Cứ đến mà xem!” 47 Đức Giê-su thấy ông Na-tha-na-en tiến về phía mình, liền nói về ông rằng: ”Đây đích thật là một người Ít-ra-en, lòng dạ không có gì gian dối.” 48 Ông Na-tha-na-en hỏi Người: ”Làm sao Ngài lại biết tôi?” Đức Giê-su trả lời: ”Trước khi Phi-líp-phê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi.” 49 Ông Na-tha-na-en nói: ”Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ít-ra-en!” 50 Đức Giê-su đáp: ”Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa.” 51 Người lại nói: ”Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người.”

Chương 2

Tiệc cưới Ca-na

1 Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su. 2 Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự. 3 Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: ”Họ hết rượu rồi.” 4 Đức Giê-su đáp: ”Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.” 5 Thân mẫu Người nói với gia nhân: ”Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.”

6 Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. 7 Đức Giê-su bảo họ: ”Các anh đổ đầy nước vào chum đi!” Và họ đổ đầy tới miệng. 8 Rồi Người nói với họ: ”Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.” Họ liền đem cho ông. 9 Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại 10 và nói: ”Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ.” 11 Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người. 12 Sau đó, Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Ca-phác-na-um và ở lại đó ít ngày.

B. LỄ VƯỢT QUA THỨ NHẤT

Đức Giê-su tẩy uế Đền Thờ (Mt 21:12-13; Mc 11:15-17; Lc 19:45-46)

13 Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái, Đức Giê-su lên thành Giê-ru-sa-lem. 14 Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. 15 Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. 16 Người nói với những kẻ bán bồ câu: ”Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” 17 Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.

18 Người Do-thái hỏi Đức Giê-su: ”Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” 19 Đức Giê-su đáp: ”Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” 20 Người Do-thái nói: ”Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?” 21 Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người. 22 Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói.

Đức Giê-su ở tại Giê-ru-sa-lem

23 Trong lúc Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm. 24 Nhưng chính Đức Giê-su không tin họ, vì Người biết họ hết thảy, 25 và không cần ai làm chứng về con người. Quả thật, chính Người biết có gì trong lòng con người.

Chương 3

Cuộc đối thoại với ông Ni-cô-đê-mô

1 Trong nhóm Pha-ri-sêu, có một người tên là Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người Do-thái. 2 Ông đến gặp Đức Giê-su ban đêm. Ông nói với Người: ”Thưa Thầy, chúng tôi biết: Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả vậy, chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy.” 3 Đức Giê-su trả lời: ”Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không đươc sinh ra một lần nữa bởi ơn trên.” 4 Ông Ni-cô-đê-mô thưa: ”Một người đã già rồi, làm sao có thể sinh ra được? Chẳng lẽ người đó có thể trở vào lòng mẹ lần thứ hai để sinh ra sao?” 5 Đức Giê-su đáp: ”Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí. 6 Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí. 7 Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói: các ông cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên. 8 Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy.”

9 Ông Ni-cô-đê-mô hỏi Người: ”Làm sao những chuyện ấy có thể xảy ra được?” 10 Đức Giê-su đáp: ”Ông là bậc thầy trong dân Ít-ra-en, mà lại không biết những chuyện ấy! 11 Thật, tôi bảo thật ông: chúng tôi nói những điều chúng tôi biết, chúng tôi làm chứng về những đieu chúng tôi đã thấy, nhưng các ông không nhận lời chứng của chúng tôi. 12 Nếu tôi nói với các ông về những chuyện dưới đất mà các ông còn không tin, thì giả như tôi nói với các ông về những chuyện trên trời, làm sao các ông tin được?” 13 Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. 14 Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, 15 để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.

16 Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. 17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. 18 Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. 19 Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. 20 Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. 21 Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”

Sứ vụ của Đức Giê-su tại Giu-đê. Lời chứng cuối cùng của ông Gio-an

22 Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đi tới miền Giu-đê. Người ở lại nơi ấy với các ông và làm phép rửa. 23 Còn ông Gio-an, ông cũng đang làm phép rửa tại Ê-nôn, gần Sa-lim, vì ở đấy có nhiều nước, và người ta thường đến chịu phép rửa. 24 Lúc ấy, ông Gio-an chưa bị tống giam.

25 Bấy giờ, có một cuộc tranh luận xảy ra giữa các môn đệ của ông Gio-an và một người Do-thái về việc thanh tẩy. 26 Họ đến gặp ông Gio-an và nói: ”Thưa thầy, người trước đây đã ở với thầy bên kia sông Gio-đan và được thầy làm chứng cho, bây giờ ông ấy cũng đang làm phép rửa, và thiên hạ đều đến với ông.” 27 Ông Gio-an trả lời: ”Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban. 28 Chính anh em làm chứng cho thầy là thầy đã nói: ”Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. 29 Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. 30 Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi.

31 Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người; 32 Người làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người. 33 Ai nhận lời chứng của Người, thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật. 34 Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn. 35 Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người. 36 Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy.”

Chương 4

Đức Giê-su tại Sa-ma-ri

1 Nhóm Pha-ri-sêu nghe tin Đức Giê-su thâu nạp và làm phép rửa cho nhiều môn đệ hơn ông Gio-an. 2 (Thực ra, không phải chính Đức Giê-su làm phép rửa, nhưng là các môn đệ của Người). 3 Biết thế, Đức Giê-su bỏ miền Giu-đê mà trở lại miền Ga-li-lê. 4 Do đó, Người phải băng qua Sa-ma-ri. 5 Vậy, Người đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se. 6 Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.

7 Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy: ”Chị cho tôi xin chút nước uống!” 8 Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. 9 Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói: ”Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?” Quả the, người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri. 10 Đức Giê-su trả lời: ”Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ”Cho tôi chút nước uống”, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống.” 11 Chị ấy nói: ”Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? 12 Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.” 13 Đức Giê-su trả lời: ”Ai uống nước này, sẽ lại khát. 14 Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.”

15 Người phụ nữ nói với Đức Giê-su: ”Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” 16 Người bảo chị ấy: ”Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây.” 17 Người phụ nữ đáp: ”Tôi không có chồng.” Đức Giê-su bảo: ”Chị nói: ”Tôi không có chồng” là phải, 18 vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng.” 19 Người phụ nữ nói với Người: ”Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ. . . 20 Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa.” 21 Đức Giê-su phán: ”Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. 22 Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. 23 Nhưng giờ đã đến-và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. 24 Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” 25 Người phụ nữ thưa: ”Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” 26 Đức Giê-su nói: ”Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.”

27 Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: ”Thầy cần gì vậy?” Hoặc”Thầy nói gì với chị ấy?” 28 Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: 29 “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?” 30 Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.

31 Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: ”Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa.” 32 Người nói với các ông: ”Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết.” 33 Các môn đệ mới hỏi nhau: ”Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?” 34 Đức Giê-su nói với các ông: ”Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người. 35 Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái! 36 Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng. 37 Thật vậy, câu tục ngữ”kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng! 38 Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ.”

39 Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. 40 Vậy, khi đến gặp Người, dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. 41 Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa. 42 Họ bảo người phụ nữ: ”Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.”

Đức Giê-su ở Ga-li-lê

43 Sau hai ngày, Đức Giê-su bỏ nơi đó đi Ga-li-lê. 44 Chính Người đã quả quyết: ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình. 45 Khi Người đến Ga-li-lê, dân chúng trong miền đón tiếp Người, vì đã được chứng kiến tất cả những gì Người làm tại Giê-ru-sa-lem trong dịp lễ, bởi lẽ chính họ cũng đã đi dự lễ.

Dấu lạ thứ hai ở Ca-na: Đức Giê-su chữa con của một sĩ quan cận vệ của nhà vua

46 Vậy Đức Giê-su trở lại Ca-na miền Ga-li-lê, là nơi Người đã làm cho nước hoá thành rượu. Bấy giờ có một sĩ quan cận vệ của nhà vua có đứa con trai đang bị bệnh tại Ca-phác-na-um. 47 Khi nghe tin Đức Giê-su từ Giu-đê đến Ga-li-lê, ông tới gặp và xin Người xuống chữa con ông vì nó sắp chết. 48 Đức Giê-su nói với ông: ”Các ông mà không thấy dấu lạ điềm thiêng thì các ông sẽ chẳng tin đâu!” 49 Viên sĩ quan nói: ”Thưa Ngài, xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất!” 50 Đức Giê-su bảo: ”Ông cứ về đi, con ông sống.” Ông tin vào lời Đức Giê-su nói với mình, và ra về. 51 Ông còn đang đi xuống, thì gia nhân đã đón gặp và nói là con ông sống rồi. 52 Ông hỏi họ con ông đã bắt đầu khá hơn vào giờ nào. Họ đáp: ”Hôm qua, vào lúc một giờ trưa thì cậu hết sốt.” 53 Người cha nhận ra là vào đúng giờ đó, Đức Giê-su đã nói với mình: ”Con ông sống”, nên ông và cả nhà đều tin. 54 Đó là dấu lạ thứ hai Đức Giê-su đã làm, khi Người từ miền Giu-đê đến miền Ga-li-lê.

Chương 5

2. LỄ THỨ HAI TẠI GIÊ-RU-SA-LEM

Đức Giê-su chữa một người đau ốm ở hồ nước tại Bết-da-tha

1 Sau đó, nhân dịp lễ của người Do-thái, Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem. 2 Tại Giê-ru-sa-lem, gần Cửa Chiên, có một hồ nước, tiếng Híp-ri gọi là Bết-da-tha. Hồ này có năm hành lang. 3 Nhiều người đau ốm, đui mù, què quặt, bất toại nằm la liệt ở đó, (chờ cho nước động, 4 vì thỉnh thoảng có thiên thần Chúa xuống hồ khuấy nước lên; khi nước khuấy lên, ai xuống trước, thì dù mắc bệnh gì đi nữa, cũng được khỏi). 5 Ở đó, có một người đau ốm đã ba mươi tám năm. 6 Đức Giê-su thấy anh ta nằm đấy và biết anh sống trong tình trạng đó đã lâu, thì nói: ”Anh có muốn khỏi bệnh không?” 7 Bệnh nhân đáp: ”Thưa Ngài, khi nước khuấy lên, không có người đem tôi xuống hồ. Lúc tôi tới đó, thì đã có người khác xuống trước mất rồi!” 8 Đức Giê-su bảo: ”Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi!” 9 Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và đi được.

Hôm đó lại là ngày sa-bát.

10 Người Do-thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh: ”Hôm nay là ngày sa-bát, anh không được phép vác chõng!” 11 Nhưng anh đáp: ”Chính người chữa tôi khỏi bệnh đã nói với tôi: ”Anh hãy vác chõng mà đi!” 12 Họ hỏi anh: ”Ai là người đã bảo anh: ”Vác chõng mà đi” ?” 13 Nhưng người đã được khỏi bệnh không biết là ai. Quả thế, Đức Giê-su đã lánh đi, vì có đám đông ở đấy. 14 Sau đó, Đức Giê-su gặp người ấy trong Đền Thờ và nói: ”Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!” 15 Anh ta đi nói với người Do-thái: Đức Giê-su là người đã chữa anh khỏi bệnh. 16 Do đó, người Do-thái chống đối Đức Giê-su, vì Người hay chữa bệnh ngày sa-bát. 17 Nhưng Đức Giê-su đáp lại: ”Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc.” 18 Bởi vậy, người Do-thái lại càng tìm cách giết Đức Giê-su, vì không những Người phá luật sa-bát, lại còn nói Thiên Chúa là Cha của mình, và như thế là tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa.

Diễn từ về công việc của Chúa Con

19 Đức Giê-su lên tiếng nói với họ rằng: ”Thật, tôi bảo thật các ông: người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy. 20 Quả thật, Chúa Cha yêu người Con và cho người Con thấy mọi điều mình làm, lại sẽ còn cho người Con thấy những việc lớn lao hơn nữa, khiến chính các ông cũng phải kinh ngạc. 21 Chúa Cha làm cho kẻ chết trỗi dậy và ban sự sống cho họ thế nào, thì người Con cũng ban sự sống cho ai tuỳ ý. 22 Quả thật, Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử, 23 để ai nấy đều tôn kính người Con như tôn kính Chúa Cha. Kẻ nào không tôn kính người Con, thì cũng không tôn kính Chúa Cha, Đấng đã sai người Con. 24 Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống.

25 Thật, tôi bảo thật các ông: giờ đã đến- và chính là lúc này đây- giờ các kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa; ai nghe thì sẽ được sống. 26 Quả thật, Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào, thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy, 27 lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người Con là Con Người. 28 Các ông chớ ngạc nhiên về điều này, vì giờ đã đến, giờ mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng người Con 29 và sẽ ra khỏi đó: ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án.

30 Tôi không thể tự ý mình làm gì. Tôi xét xử theo như tôi được nghe, và phán quyết của tôi thật công minh, vì tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi.

31 Nếu tôi làm chứng về chính mình, thì lời chứng của tôi không thật. 32 Có Đấng khác làm chứng về tôi, và tôi biết: lời Người làm chứng về tôi là lời chứng thật. 33 Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gio-an, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật. 34 Phần tôi, tôi không cần lời chứng của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điều này để các ông được cứu độ. 35 Ông Gio-an là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông trong một thời gian. 36 Nhưng phần tôi, tôi có một lời chứng lớn hơn lời chứng của ông Gio-an: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi. 37 Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, chính Người cũng đã làm chứng cho tôi. Các ông đã không bao giờ nghe tiếng Người, cũng chẳng bao giờ thấy tôn nhan Người. 38 Các ông đã không để cho lời Người ở mãi trong lòng, bởi vì chính các ông không tin vào Đấng Người đã sai đến. 39 Các ông nghiên cứu Kinh Thánh, vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được sự sống đời đời. Mà chính Kinh Thánh lại làm chứng về tôi. 40 Các ông không muốn đến cùng tôi để được sự sống.

41 Tôi không cần người đời tôn vinh. 42 Nhưng tôi biết: các ông không có lòng yêu mến Thiên Chúa. 43 Tôi đã đến nhân danh Cha tôi, nhưng các ông không đón nhận. Nếu có ai khác nhân danh mình mà đến, thì các ông lại đón nhận. 44 Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các ông có thể tin được?

45 Các ông đừng tưởng là tôi sẽ tố cáo các ông với Chúa Cha. Kẻ tố cáo các ông chính là ông Mô-sê, người mà các ông tin cậy. 46 Vì nếu các ông tin ông Mô-sê, thì hẳn các ông cũng tin tôi, bởi lẽ ông ấy đã viết về tôi. 47 Nhưng nếu điều ông ấy viết mà các ông không tin, thì làm sao tin được lời tôi nói?”

Chương 6

3. LỄ VƯỢT QUA- DIỄN TỪ VỀ BÁNH TRƯỜNG SINH

Đức Giê-su hoá bánh ra nhiều (Mt 14:13-21; Mc 6:30-44; Lc 9:10-17)

1 Sau đó, Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Biển Hồ Ti-bê-ri-a. 2 Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. 3 Đức Giê-su lên núi và ngồi đó với các môn đệ. 4 Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái.

5 Ngước mắt lên, Đức Giê-su nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-líp-phê: ”Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” 6 Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. 7 Ông Phi-líp-phê đáp: ”Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.” 8 Một trong các môn đệ, là ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô, thưa với Người: 9 “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” 10 Đức Giê-su nói: ”Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi.” Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. 11 Vậy, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. 12 Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: ”Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.” 13 Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. 14 Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giê-su làm thì nói: ”Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!” 15 Nhưng Đức Giê-su biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.

Đức Giê-su đi trên mặt Biển Hồ mà đến với các môn đệ (Mt 14:22-33; Mc 6:45-52)

16 Chiều đến, các môn đệ xuống bờ Biển Hồ, 17 rồi xuống thuyền đi về phía Ca-phác-na-um bên kia Biển Hồ. Trời đã tối mà Đức Giê-su chưa đến với các ông. 18 Biển động, vì gió thổi mạnh. 19 Khi đã chèo được chừng năm hoặc sáu cây số, các ông thấy Đức Giê-su đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ. 20 Nhưng Người bảo các ông: ”Thầy đây mà, đừng sợ!” 21 Các ông muốn rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc đó thuyền đã tới bờ, nơi các ông định đến.

Diễn từ trong hội đường Ca-phác-na-um

22 Hôm sau, đám đông dân chúng còn đứng ở bờ bên kia Biển Hồ, thấy rằng ở đó chỉ có một chiếc thuyền và Đức Giê-su lại không cùng xuống thuyền đó với các môn đệ, nhưng chỉ có các ông đi mà thôi. 23 Tuy nhiên, có những thuyền khác từ Ti-bê-ri-a đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn. 24 Vậy khi dân chúng thấy Đức Giê-su cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm Người. 25 Khi gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: ”Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” 26 Đức Giê-su đáp: ”Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. 27 Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.” 28 Họ liền hỏi Người: ”Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” 29 Đức Giê-su trả lời: ”Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến.” 30 Họ lại hỏi: ”Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? 31 Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời.”

32 Đức Giê-su đáp: ”Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, 33 vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian.” 34 Họ liền nói: ”Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.” 35 Đức Giê-su bảo họ: ”Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ! 36 Nhưng tôi đã bảo các ông: các ông đã thấy tôi mà không tin. 37 Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, 38 vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. 39 Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. 40 Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”

41 Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: ”Tôi là bánh từ trời xuống.” 42 Họ nói: ”Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: ”Tôi từ trời xuống?” 43 Đức Giê-su bảo họ: ”Các ông đừng có xầm xì với nhau! 44 Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. 45 Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. 46 Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. 47 Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. 48 Tôi là bánh trường sinh. 49 Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. 50 Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. 51 Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”

52 Người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: ”Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” 53 Đức Giê-su nói với họ: ”Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. 54 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, 55 vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. 56 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. 57 Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. 58 Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”

59 Đó là những điều Đức Giê-su đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Ca-phác-na-um.

60 Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: ”Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” 61 Nhưng Đức Giê-su tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người bảo các ông: ”Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? 62 Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? 63 Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống.

64 Nhưng trong anh em có những kẻ không tin.” Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. 65 Người nói tiếp: ”Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho.” 66 Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa.

Ông Phê-rô tuyên xưng lòng tin

67 Vậy Đức Giê-su hỏi Nhóm Mười Hai: ”Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” 68 Ông Si-môn Phê-rô liền đáp: ”Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. 69 Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” 70 Đức Giê-su đáp: ”Chẳng phải Thầy đã chọn anh em là Nhóm Mười Hai sao? Thế mà một người trong anh em lại là quỷ!” 71 Người muốn nói về Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt; thật thế, chính y, một môn đệ trong Nhóm Mười Hai, sẽ nộp Người.

Chương 7

4. LỄ LỀU

Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem dự lễ và giảng dạy

1 Sau đó, Đức Giê-su thường đi lại trong miền Ga-li-lê; thật vậy, Người không muốn đi lại trong miền Giu-đê, vì người Do-thái tìm giết Người.

2 Lễ Lều của người Do-thái gần tới, 3 anh em Đức Giê-su nói với Người: ”Ông bỏ đây mà sang miền Giu-đê đi, để cả môn đệ của ông cũng được nhìn thấy những việc ông làm, 4 vì không ai muốn nổi danh mà lại hoạt động âm thầm cả. Nếu ông làm những việc ấy, thì hãy tỏ mình ra cho thiên hạ biết.” 5 Thật thế, anh em Người không tin vào Người. 6 Đức Giê-su nói với họ: ”Thời của tôi chưa đến, nhưng thời của các anh lúc nào cũng thuận tiện. 7 Thế gian không thể ghét các anh, nhưng tôi thì nó ghét, vì tôi làm chứng rằng các việc nó làm thì xấu xa. 8 Các anh cứ lên dự lễ đi; còn tôi, tôi không lên dự lễ này, vì thời của tôi chưa chín muồi.” 9 Nói thế rồi, Người ở lại miền Ga-li-lê. 10 Tuy nhiên, khi anh em Người đã lên dự lễ, thì chính Người cũng lên, nhưng không công khai và hầu như bí mật. 11 Người Do-thái tìm kiếm Người trong dịp lễ và nói: ”Ông ấy đâu rồi?” 12 Dân chúng bàn tán nhiều về Người. Kẻ thì bảo: ”Đó là một người tốt.” Kẻ thì nói: ”Không, ông ta mê hoặc dân chúng.” 13 Nhưng không ai dám công khai nói về Người, vì sợ người Do-thái.

14 Vào giữa kỳ lễ, Đức Giê-su lên Đền Thờ và giảng dạy. 15 Người Do-thái lấy làm ngạc nhiên. Họ nói: ”Ông này không học hành gì, mà sao lại thông thạo chữ nghĩa thế!” 16 Đức Giê-su trả lời: ”Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi. 17 Ai muốn làm theo ý của Người, thì sẽ biết rằng đạo lý ấy là bởi Thiên Chúa hay do tôi tự mình giảng dạy. 18 Ai tự mình giảng dạy, thì tìm vinh quang cho chính mình. Còn ai tìm vinh quang cho Đấng đã sai mình, thì là người chân thật, và nơi người ấy không có gì là bất chính. 19 Ông Mô-sê đã chẳng ban Lề Luật cho các ông sao? Thế mà không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!

Sao các ông lại tìm cách giết tôi?”

20 Dân chúng đáp: ”Ông bị quỷ ám rồi! Có ai tìm giết ông đâu?” 21 Đức Giê-su trả lời: ”Tôi chỉ làm có một việc, mà tất cả các ông đều ngạc nhiên. 22 Ông Mô-sê đã truyền cho các ông làm phép cắt bì (thực ra, phép ấy đã có từ thời các tổ phụ, chứ không phải từ thời ông Mô-sê), và các ông làm phép cắt bì cả trong ngày sa-bát. 23 Vậy nếu người ta làm phép cắt bì cả trong ngày sa-bát để khỏi lỗi Luật Mô-sê, thì sao các ông lại nổi giận với tôi, vì tôi đã chữa lành toàn thân một người trong ngày sa-bát? 24 Các ông đừng xét đoán theo bề ngoài nữa, nhưng hãy xét đoán cho công minh.”

Dân chúng tranh luận về nguồn gốc của Đấng Ki-tô

25 Bấy giờ có những người ở Giê-ru-sa-lem nói: ”Ông này không phải là người họ đang tìm giết đó sao? 26 Kìa, ông ta ăn nói công khai mà họ chẳng bảo gì cả. Phải chăng các nhà hữu trách đã thực sự nhìn nhận ông là Đấng Ki-tô? 27 Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi; còn Đấng Ki-tô, khi Người đến thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả.” 28 Lúc giảng dạy trong Đền Thờ, Đức Giê-su nói lớn tiếng rằng: ”Các ông biết tôi ư? Các ông biết tôi xuất thân từ đâu ư? Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật. Các ông, các ông không biết Người. 29 Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì tôi từ nơi Người mà đến, và chính Người đã sai tôi.”

30 Bấy giờ họ tìm cách bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt, vì giờ của Người chưa đến.

Đức Giê-su loan báo Người sắp ra đi

31 Trong dân chúng, có nhiều kẻ đã tin vào Người, họ nói: ”Khi Đấng Ki-tô đến, liệu Người có làm nhiều dấu lạ hơn ông này chăng?” 32 Người Pha-ri-sêu nghe dân chúng bàn tán với nhau về Người như thế, nên họ và các thượng tế sai vệ binh đi bắt Người. 33 Vậy, Đức Giê-su bảo họ: ”Tôi còn ở với các ông ít lâu nữa thôi, rồi tôi đi đến cùng Đấng đã sai tôi. 34 Các ông sẽ tìm tôi mà không gặp, và nơi tôi ở, các ông không thể đến được.” 35 Người Do-thái liền nói với nhau: ”Ông ấy sắp đi đâu mà chúng ta không gặp được? Phải chăng ông sắp đi gặp kiều bào sống giữa người Hy-lạp, để giảng dạy cho người Hy-lạp? 36 Ông ấy muốn nói gì khi bảo: ”Các ông sẽ tìm tôi mà không gặp, và nơi tôi ở, các ông không thể đến được. ?”

Lời hứa ban nước hằng sống

38 Hôm ấy là ngày bế mạc tuần lễ Lều, và là ngày long trọng nhất. Đức Giê-su đứng trong Đền Thờ và lớn tiếng nói rằng: ”Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống.” 39 Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh.

Dân chúng lại tranh luận về nguồn gốc của Đấng Ki-tô

40 Trong dân chúng, có những người nghe các lời ấy thì nói: ”Ông này thật là vị ngôn sứ.” 41 Kẻ khác rằng: ”Ông này là Đấng Ki-tô.” Nhưng có kẻ lại nói: ”Đấng Ki-tô mà lại xuất thân từ Ga-li-lê sao? 42 Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Đấng Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít và từ Bê-lem, làng của vua Đa-vít sao?” 43 Vậy, vì Người mà dân chúng đâm ra chia rẽ. 44 Một số trong bọn họ muốn bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt.

45 Các vệ binh trở về với các thượng tế và người Pha-ri-sêu. Họ liền hỏi chúng: ”Tại sao các anh không điệu ông ấy về đây?” 46 Các vệ binh trả lời: ”Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy!” 47 Người Pha-ri-sêu liền nói với chúng: ”Cả các anh nữa, các anh cũng bị mê hoặc rồi sao? 48 Trong hàng thủ lãnh hay trong giới Pha-ri-sêu, đã có một ai tin vào tên ấy đâu? 49 Còn bọn dân đen này, thứ người không biết Lề Luật, đúng là quân bị nguyền rủa!” 50 Trong nhóm Pha-ri-sêu, có một người tên là Ni-cô-đê-mô, trước đây đã đến gặp Đức Giê-su; ông nói với họ: 51 “Lề Luật của chúng ta có cho phép kết án ai, trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?” 52 Họ đáp: ”Cả ông nữa, ông cũng là người Ga-li-lê sao? Ông cứ nghiên cứu, rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Ga-li-lê cả.” 53 Sau đó, ai nấy trở về nhà mình.

Chương 8

1 Còn Đức Giê-su thì đến núi Ô-liu.

Người phụ nữ ngoại tình

2 Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. 3 Lúc đó, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, 4 rồi nói với Người: ”Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. 5 Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” 6 Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. 7 Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: ”Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” 8 Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. 9 Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giê-su, và người phụ nữ thì đứng ở giữa. 10 Người ngẩng lên và nói: ”Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”

11Người đàn bà đáp: ”Thưa ông, không có ai cả.” Đức Giê-su nói: ”Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”

Đức Giê-su, ánh sáng cho trần gian

12 Đức Giê-su lại nói với người Do-thái: ”Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.”

Tranh luận về lời chứng của Đức Giê-su liên quan đến bản thân Người

13 Người Pha-ri-sêu nói với Đức Giê-su: ”Ông làm chứng cho chính mình; lời chứng của ông không thật!” 14 Người trả lời: ”Tôi có làm chứng cho chính mình đi nữa, thì lời chứng của tôi vẫn là chứng thật, bởi vì tôi biết tôi từ đâu tới và đi đâu. Còn các ông, các ông không biết tôi từ đâu tới và đi đâu. 15 Các ông xét đoán theo kiểu người phàm; phần tôi, tôi không xét đoán ai cả. 16 Mà nếu tôi có xét đoán, thì sự xét đoán của tôi vẫn đúng sự thật, vì không phải chỉ có mình tôi, nhưng có tôi và Đấng đã sai tôi. 17 Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật. 18 Tôi làm chứng cho chính mình, và Chúa Cha là Đấng đã sai tôi cũng làm chứng cho tôi.” 19 Họ liền hỏi Người: ”Cha ông ở đâu?” Đức Giê-su đáp: ”Các ông không biết tôi, cũng chẳng biết Cha tôi. Nếu các ông biết tôi, thì hẳn cũng biết Cha tôi.”

20 Người đã nói những lời ấy, khi giảng dạy trong Đền Thờ, tại nơi đặt thùng tiền dâng cúng. Không có ai bắt Người, vì giờ của Người chưa đến. 21 Đức Giê-su lại nói với họ: ”Tôi ra đi, các ông sẽ tìm tôi, và các ông sẽ mang tội mình mà chết. Nơi tôi đi, các ông không thể đến được.” 22 Người Do-thái mới nói: ”Ông ấy sẽ tự tử hay sao mà lại nói: ”Nơi tôi đi, các ông không thể đến được” ?” 23 Người bảo họ: ”Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này. 24 Tôi đã nói với các ông là các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết. Thật vậy, nếu các ông không tin là Tôi Hằng Hữu, các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết.” 25 Họ liền hỏi Người: ”Ông là ai?” Đức Giê-su đáp: ”Hoàn toàn đúng như tôi vừa nói với các ông đó. 26 Tôi còn có nhiều điều phải nói và xét đoán về các ông. Nhưng Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật; còn tôi, tôi nói lại cho thế gian những điều tôi đã nghe Người nói.” 27 Họ không hiểu là Đức Giê-su nói với họ về Chúa Cha. 28 Người bảo họ: ”Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu, và biết tôi không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Chúa Cha đã dạy tôi thế nào, thì tôi nói như vậy. 29 Đấng đã sai tôi vẫn ở với tôi; Người không để tôi cô độc, vì tôi hằng làm những điều đẹp ý Người.” 30 Khi Đức Giê-su nói thế, thì có nhiều kẻ tin vào Người.

Đức Giê-su và ông Áp-ra-ham

31 Vậy, Đức Giê-su nói với những người Do-thái đã tin Người: ”Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; 32 các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông.” 33 Họ đáp: ”Chúng tôi là dòng dõi ông Áp-ra-ham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao ông lại nói: các ông sẽ được tự do?” 34 Đức Giê-su trả lời: ”Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. 35 Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi. 36 Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do. 37 Tôi biết các ông là dòng dõi ông Áp-ra-ham, nhưng các ông tìm cách giết tôi, vì lời tôi không thấm vào lòng các ông. 38 Phần tôi, tôi nói những điều đã thấy nơi Cha tôi; còn các ông, các ông làm những gì đã nghe cha các ông nói.” 39 Họ đáp: ”Cha chúng tôi là ông Áp-ra-ham.” Đức Giê-su nói: ”Giả như các ông là con cái ông Áp-ra-ham, hẳn các ông phải làm những việc ông Áp-ra-ham đã làm. 40 Thế mà bây giờ các ông lại tìm giết tôi, là người đã nói cho các ông sự thật mà tôi đã nghe biết từ Thiên Chúa. Điều đó, ông Áp-ra-ham đã không làm. 41 Còn các ông, các ông làm những việc cha các ông làm.”

42 Đức Giê-su bảo họ: ”Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi, vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến. Thật thế, tôi không tự mình mà đến, nhưng chính Người đã sai tôi. 43 Tại sao các ông không hiểu lối nói của tôi? Là vì các ông không thể nghe lời tôi nói. 44 Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối. 45 Còn tôi, chính vì tôi nói sự thật, nên các ông không tin tôi. 46 Ai trong các ông chứng minh được là tôi có tội? Nếu tôi nói sự thật, sao các ông lại không tin tôi? 47 Ai thuộc về Thiên Chúa, thì nghe lời Thiên Chúa nói; còn các ông, các ông không chịu nghe, vì các ông không thuộc về Thiên Chúa.”

48 Người Do-thái đáp: ”Chúng tôi bảo ông là người Sa-ma-ri và là người bị quỷ ám thì chẳng đúng lắm sao?” 49 Đức Giê-su trả lời: ”Tôi không bị quỷ ám. Nhưng tôi tôn kính Cha tôi; còn các ông, các ông lại làm nhục tôi. 50 Phần tôi, tôi không tìm vinh quang cho mình. Có Đấng tìm cho tôi và xét xử cho tôi. 51 Thật, tôi bảo thật các ông: ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết.”

52 Người Do-thái liền nói: ”Bây giờ, chúng tôi biết chắc là ông bị quỷ ám. Ông Áp-ra-ham đã chết, các ngôn sứ cũng vậy; thế mà ông lại nói: ”Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết.

53 Chẳng lẽ ông lại cao trọng hơn cha chúng tôi là ông Áp-ra-ham sao? Người đã chết, các ngôn sứ cũng đã chết. Ông tự coi mình là ai?” 54 Đức Giê-su đáp: ”Nếu tôi tôn vinh chính mình, vinh quang của tôi chẳng là gì cả. Đấng tôn vinh tôi chính là Cha tôi, Đấng mà các ông gọi là Thiên Chúa của các ông. 55 Các ông không biết Người; còn tôi, tôi biết Người. Nếu tôi nói là tôi không biết Người, thì tôi cũng là kẻ nói dối như các ông. Nhưng tôi biết Người và giữ lời Người. 56 Ông Áp-ra-ham là cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ.”

57 Người Do-thái nói: ”Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã thấy ông Áp-ra-ham!” 58 Đức Giê-su đáp: ”Thật, tôi bảo thật các ông: trước khi có ông Áp-ra-ham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu!”

59 Họ liền lượm đá để ném Người. Nhưng Đức Giê-su lánh đi và ra khỏi Đền Thờ.

Chương 9

Đức Giê-su chữa một người mù từ thuở mới sinh

1 Đi ngang qua, Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. 2 Các môn đệ hỏi Người: ”Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” 3 Đức Giê-su trả lời: ”Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. 4 Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. 5 Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.”

6 Nói xong, Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, 7 rồi bảo anh ta: ”Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.

8 Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: ”Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?” 9 Có người nói: ”Chính hắn đó!” Kẻ khác lại rằng: ”Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!” Còn anh ta thì quả quyết: ”Chính tôi đây!” 10 Người ta liền hỏi anh: ”Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?” 11 Anh ta trả lời: ”Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: ”Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy.” 12 Họ lại hỏi anh: ”Ông ấy ở đâu?” Anh ta đáp: ”Tôi không biết.”

13 Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pha-ri-sêu. 14 Nhưng ngày Đức Giê-su trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày sa-bát. 15 Vậy, các người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: ”Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy.” 16 Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì nói: ”Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát”; kẻ thì bảo: ”Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?” Thế là họ đâm ra chia rẽ. 17 Họ lại hỏi người mù: ”Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh đáp: ”Người là một vị ngôn sứ!”

18 Người Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. 19 Họ hỏi: ”Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?” 20 Cha mẹ anh đáp: ”Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. 21 Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã khôn lớn rồi, nó có thể tự khai được.” 22 Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái. Thật vậy, người Do-thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô. 23 Vì thế, cha mẹ anh mới nói: ”Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó.”

24 Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: ”Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi.” 25 Anh ta đáp: ”Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!” 26 Họ mới nói với anh: ”Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào?” 27 Anh trả lời: ”Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?” 28 Họ liền mắng nhiếc anh: ”Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. 29 Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giê-su ấy bởi đâu mà đến.” 30 Anh đáp: ”Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! 31 Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. 32 Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. 33 Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.” 34 Họ đối lại: ”Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” Rồi họ trục xuất anh.

35 Đức Giê-su nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: ”Anh có tin vào Con Người không?” 36 Anh đáp: ”Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” 37 Đức Giê-su trả lời: ”Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.” 38 Anh nói: ”Thưa Ngài, tôi tin.” Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.

39 Đức Giê-su nói: ”Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!”

40 Những người Pha-ri-sêu đang ở đó với Đức Giê-su nghe vậy, liền lên tiếng: ”Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?” 41 Đức Giê-su bảo họ: ”Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ”Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn!”

Chương 10

Vị Mục Tử nhân lành

1 “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. 2 Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. 3 Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. 4 Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. 5 Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.” 6 Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ.

7 Vậy, Đức Giê-su lại nói: ”Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. 8 Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ. 9 Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. 10 Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.

11 Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. 12 Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, 13 vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. 14 Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, 15 như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.

16 Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. 17 Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. 18 Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.”

19 Người Do-thái lại chia rẽ nhau vì những lời đó. 20 Nhiều người trong nhóm họ nói: ”Ông ấy bị quỷ ám và điên khùng rồi! Nghe ông ấy làm gì?” 21 Kẻ khác bảo: ”Người bị quỷ ám đâu có nói được như vậy! Quỷ có thể mở mắt cho người mù được sao?”

5. LỄ CUNG HIẾN ĐỀN THỜ

Đức Giê-su xưng mình là Con Thiên Chúa

22 Khi ấy, ở Giê-ru-sa-lem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy giờ là mùa đông. 23 Đức Giê-su đi đi lại lại trong Đền Thờ, tại hành lang Sa-lô-môn. 24 Người Do-thái vây quanh Đức Giê-su và nói: ”Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết.” 25 Đức Giê-su đáp: ”Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. 26 Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. 27 Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. 28 Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. 29 Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. 30 Tôi và Chúa Cha là một.”

31 Người Do-thái lại lấy đá để ném Đức Giê-su. 32 Người bảo họ: ”Tôi đã cho các ông thấy nhiều việc tốt đẹp Chúa Cha đã giao cho tôi làm; vì việc nào mà các ông ném đá tôi?” 33 Người Do-thái đáp: ”Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa.” 34 Đức Giê-su bảo họ: ”Trong Lề Luật các ông, đã chẳng có chép lời này sao: ”Ta đã phán: các ngươi là những bậc thần thánh”“? 35 Nếu Lề Luật gọi những kẻ được Thiên Chúa ngỏ lời là những bậc thần thánh, mà lời Kinh Thánh không thể bị huỷ bỏ, 36 thì tôi là người Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian, làm sao các ông lại bảo tôi: ”Ông nói phạm thượng! vì tôi đã nói: ”Tôi là Con Thiên Chúa” ? 37 Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. 38 Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó. Như vậy, các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng: Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha.”

39Bấy giờ họ lại tìm cách bắt Người, nhưng Người đã thoát khỏi tay họ.

Đức Giê-su rút lui sang bên kia sông Gio-đan

40 Đức Giê-su lại ra đi, sang bên kia sông Gio-đan, đến chỗ trước kia ông Gio-an đã làm phép rửa, và Người ở lại đó. 41 Nhiều người đến gặp Đức Giê-su. Họ bảo nhau: ”Ông Gio-an đã không làm một dấu lạ nào cả, nhưng mọi điều ông ấy nói về người này đều đúng.” 42 Ở đó, nhiều người đã tin vào Đức Giê-su.

Chương 11

Anh La-da-rô sống lại

1 Có một người bị đau nặng, tên là La-da-rô, quê ở Bê-ta-ni-a, làng của hai chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a. 2 Cô Ma-ri-a là người sau này sẽ xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Anh La-da-rô, người bị đau nặng, là em của cô. 3 Hai cô cho người đến nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng.” 4 Nghe vậy, Đức Giê-su bảo: ”Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.”

5 Đức Giê-su quý mến cô Mác-ta, cùng hai người em là cô Ma-ri-a và anh La-da-rô.

6 Tuy nhiên, sau khi được tin anh La-da-rô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở. 7 Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ: ”Nào chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê!” 8 Các môn đệ nói: ”Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?” 9 Đức Giê-su trả lời: ”Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời. 10 Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình!”

11 Nói những lời này xong, Người bảo họ: ”La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây.” 12 Các môn đệ nói với Người: ”Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khoẻ lại.” 13 Đức Giê-su nói về cái chết của anh La-da-rô, còn họ tưởng Người nói về giấc ngủ thường. 14 Bấy giờ Người mới nói rõ: ”La-da-rô đã chết. 15 Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy.” 16 Ông Tô-ma, gọi là Đi-đy-mô, nói với các bạn đồng môn: ”Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!”

17 Khi đến nơi, Đức Giê-su thấy anh La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. 18 Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem không đầy ba cây số. 19 Nhiều người Do-thái đến chia buồn với hai cô Mác-ta và Ma-ri-a, vì em các cô mới qua đời. 20 Vừa được tin Đức Giê-su đến, cô Mác-ta liền ra đón Người. Còn cô Ma-ri-a thì ngồi ở nhà. 21 Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. 22 Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.” 23 Đức Giê-su nói: ”Em chị sẽ sống lại!” 24 Cô Mác-ta thưa: ”Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.” 25 Đức Giê-su liền phán: ”Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. 26 Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” 27 Cô Mác-ta đáp: ”Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.”

28 Nói xong, cô đi gọi em là Ma-ri-a, và nói nhỏ: ”Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy!” 29 Nghe vậy, cô Ma-ri-a vội đứng lên và đến với Đức Giê-su. 30 Lúc đó, Người chưa vào làng, nhưng vẫn còn ở chỗ cô Mác-ta đã ra đón Người. 31 Những người Do-thái đang ở trong nhà với cô Ma-ri-a để chia buồn, thấy cô vội vã đứng dậy đi ra, liền đi theo, tưởng rằng cô ra mộ khóc em.

32 Khi đến gần Đức Giê-su, cô Ma-ri-a vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói: ”Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.” 33 Thấy cô khóc, và những người Do-thái đi với cô cũng khóc, Đức Giê-su thổn thức trong lòng và xao xuyến. 34 Người hỏi: ”Các người để xác anh ấy ở đâu?” Họ trả lời: ”Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem.” 35 Đức Giê-su liền khóc. 36 Người Do-thái mới nói: ”Kìa xem! Ông ta thương anh La-da-rô biết mấy!” 37 Có vài người trong nhóm họ nói: ”Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư?” 38 Đức Giê-su lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. 39 Đức Giê-su nói: ”Đem phiến đá này đi.” Cô Mác-ta là chị người chết liền nói: ”Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày.” 40 Đức Giê-su bảo: ”Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” 41 Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giê-su ngước mắt lên và nói: ”Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. 42 Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.” 43 Nói xong, Người kêu lớn tiếng: ”Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!” 44 Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Đức Giê-su bảo: ”Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.”

Các thủ lãnh Do-thái quyết định giết Đức Giê-su (Mt 26:1-5; Mc 14:1-2; Lc 22:1-2)

45 Trong số những người Do-thái đến thăm cô Ma-ri-a và được chứng kiến việc Đức Giê-su làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người. 46 Nhưng lại có những người đi gặp nhóm Pha-ri-sêu và kể cho họ những gì Đức Giê-su đã làm. 47 Vậy các thượng tế và các người Pha-ri-sêu triệu tập Thượng Hội Đồng và nói: ”Chúng ta phải làm gì đây? Người này làm nhiều dấu lạ. 48 Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rô-ma sẽ đến phá huỷ cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta.” 49 Một người trong Thượng Hội Đồng tên là Cai-pha, làm thượng tế năm ấy, nói rằng: ”Các ông không hiểu gì cả, 50 các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt.” 51 Điều đó, ông không tự mình nói ra, nhưng vì ông là thượng tế năm ấy, nên đã nói tiên tri là Đức Giê-su sắp phải chết thay cho dân, 52 và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối. 53 Từ ngày đó, họ quyết định giết Đức Giê-su. 54 Vậy Đức Giê-su không đi lại công khai giữa người Do-thái nữa; nhưng từ nơi ấy, Người đến một vùng gần hoang địa, tới một thành gọi là Ép-ra-im. Người ở lại đó với các môn đệ.

6. SỨ VỤ CÔNG KHAI CỦA ĐỨC GIÊ-SU KẾT THÚC

Lễ Vượt Qua gần đến

55 Khi ấy sắp đến lễ Vượt Qua của người Do-thái. Từ miền quê, nhiều người lên Giê-ru-sa-lem để cử hành các nghi thức thanh tẩy dọn mình mừng lễ. 56 Họ tìm Đức Giê-su và đứng trong Đền Thờ bàn tán với nhau: ”Có thể ông ấy sẽ không lên dự lễ, các ông có nghĩ thế không?” 57 Còn các thượng tế và người Pha-ri-sêu thì ra lệnh: ai biết được ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt.

Chương 12

Xức dầu thơm tại Bê-ta-ni-a (Mt 26:6-13; Mc 14:3-9)

1 Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su đến làng Bê-ta-ni-a, nơi anh La-da-rô ở. Anh này đã được Người cho sống lại từ cõi chết. 2 Ở đó, người ta dọn bữa ăn tối thết đãi Đức Giê-su; cô Mác-ta lo hầu bàn, còn anh La-da-rô là một trong những kẻ cùng dự tiệc với Người. 3 Cô Ma-ri-a lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giê-su, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực mùi thơm. 4 Một trong các môn đệ của Đức Giê-su là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, kẻ sẽ nộp Người, liền nói: 5 “Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm quan tiền mà cho người nghèo?” 6 Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung. 7 Đức Giê-su nói: ”Hãy để cô ấy yên. Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai táng Thầy. 8 Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có; còn Thầy, anh em không có mãi đâu.”

9 Một đám đông người Do-thái biết Đức Giê-su đang ở đó. Họ tuôn đến, không phải chỉ vì Đức Giê-su, nhưng còn để nhìn thấy anh La-da-rô, kẻ đã được Người cho sống lại từ cõi chết. 10 Các thượng tế mới quyết định giết cả anh La-da-rô nữa, 11 vì tại anh mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin vào Đức Giê-su.

Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a (Mt 21:1-11; Mc 11:1-10; Lc 19:28-38)

12 Hôm sau, dân chúng lũ lượt tuôn đến mừng lễ. Thoạt nghe tin Đức Giê-su tới Giê-ru-sa-lem, 13 họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò: Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Ít-ra-en! 14 Đức Giê-su gặp một con lừa nhỏ, liền cỡi lên như có lời chép: 15 Hỡi thiếu nữ Xi-on, đừng sợ! Này Đức Vua của ngươi ngự đến, ngồi trên lưng lừa con. 16 Lúc đầu, các môn đệ không hiểu những điều ấy. Nhưng sau khi Đức Giê-su được tôn vinh, các ông mới nhớ lại là Kinh Thánh đã chép những điều đó về Người, và dân chúng đã làm cho Người đúng y như vậy.

17 Vậy, đám đông dân chúng làm chứng cho Đức Giê-su, họ là những người đã có mặt, khi Đức Giê-su gọi anh La-da-rô ra khỏi mồ và làm cho anh trỗi dậy từ cõi chết. 18 Sở dĩ dân chúng đi đón Người, là vì họ nghe biết Người đã làm dấu lạ đó. 19 Bấy giờ người Pha-ri-sêu bảo nhau: ”Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!”

Đức Giê-su loan báo Người sẽ được tôn vinh nhờ cái chết của Người

20 Trong số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp. 21 Họ đến gặp ông Phi-líp-phê, người Bết-xai-đa, miền Ga-li-lê, và xin rằng: ”Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su.” 22 Ông Phi-líp-phê đi nói với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su. 23 Đức Giê-su trả lời: ”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! 24 Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. 25 Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. 26 Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.”

27 “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. 28 Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha.” Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: ”Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” 29 Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: ”Đó là tiếng sấm!” Người khác lại bảo: ”Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!” 30 Đức Giê-su đáp: ”Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. 31 Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! 32 Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” 33 Đức Giê-su nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.

34 Vậy, dân chúng thưa Người: ”Chúng tôi đã học biết trong sách Luật rằng: Đấng Ki-tô phải trường tồn mãi mãi. Thế sao ông lại nói: ”Con Người phải được giương cao” ? Con Người đó là ai?” 35 Đức Giê-su bảo họ: ”Ánh sáng còn ở giữa các ông ít lâu nữa thôi. Các ông hãy bước đi, bao lâu các ông còn có ánh sáng, kẻo bóng tối bắt chợt các ông. Ai bước đi trong bóng tối, thì không biết mình đi đâu. 36 Bao lâu các ông còn có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng.” Nói thế xong, Đức Giê-su rời nơi đó và lánh đi không cho họ thấy.

Kết luận: Người Do-thái cứng lòng không chịu tin

37 Người đã làm ngần ấy dấu lạ trước mặt họ, thế mà họ vẫn không tin vào Người. 38 Như vậy là ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a: Lạy Đức Chúa, ai đã tin lời chúng tôi rao giảng? Và quyền lực của Đức Chúa đã được tỏ cho ai?

39 Sở dĩ họ không thể tin là vì ngôn sứ I-sai-a còn nói: 40 Thiên Chúa đã làm cho mắt chúng ra đui mù và lòng chúng ra chai đá, kẻo mắt chúng thấy và lòng chúng hiểu được mà hoán cải, rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành!

41 Ngôn sứ I-sai-a nói những lời đó, vì đã thấy vinh quang của Đức Giê-su, và ông đã nói về Người.

42 Tuy nhiên, ngay cả trong giới lãnh đạo Do-thái cũng có nhiều người đã tin vào Đức Giê-su. Nhưng họ không dám xưng ra, vì sợ bị nhóm Pha-ri-sêu khai trừ khỏi hội đường. 43 Thật thế, họ chuộng vinh quang của người phàm hơn là vinh quang của Thiên Chúa. 44 Đức Giê-su lớn tiếng nói rằng: ”Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi; 45 ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi. 46 Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối. 47 Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian. 48 Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết. 49 Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì. 50 Và tôi biết: mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời. Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi.”

Chương 13

III. GIỜ CỦA ĐỨC GIÊ-SULỄ VƯỢT QUA CỦA CHIÊN THIÊN CHÚA

1. BỮA ĂN CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC GIÊ-SU VÀ CÁC MÔN ĐỆ

Đức Giê-su rửa chân cho các môn đệ

1 Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng.

2 Ma quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Đức Giê-su. 3 Đức Giê-su biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa, 4 nên trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. 5 Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.

6 Vậy, Người đến chỗ ông Si-môn Phê-rô, ông liền thưa với Người: ”Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?” 7 Đức Giê-su trả lời: ”Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu.” 8 Ông Phê-rô lại thưa: ”Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!” Đức Giê-su đáp: ”Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy.” 9 Ông Si-môn Phê-rô liền thưa: ”Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa.” 10 Đức Giê-su bảo ông: ”Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!” 11 Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói: ”Không phải tất cả anh em đều sạch.”

12 Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giê-su mặc áo vào, về chỗ và nói: ”Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? 13 Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. 14 Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. 15 Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em. 16 Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. 17 Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em! 18 Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con. 19 Thầy nói với anh em điều đó ngay từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra, anh em tin là Thầy Hằng Hữu. 20 Thật, Thầy bảo thật anh em: ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.”

Đức Giê-su loan báo Giu-đa sẽ phản bội (Mt 26:20-25; Mc 14:17-21; Lc 22:21-23)

21 Nói xong, Đức Giê-su cảm thấy tâm thần xao xuyến. Người tuyên bố: ”Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy.” 22 Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết Người nói về ai. 23 Trong số các môn đệ, có một người được Đức Giê-su thương mến. Ông đang dùng bữa, đầu tựa vào lòng Đức Giê-su. 24 Ông Si-môn Phê-rô làm hiệu cho ông ấy và bảo: ”Hỏi xem Thầy muốn nói về ai?” 25 Ông này liền nghiêng mình vào ngực Đức Giê-su và hỏi: ”Thưa Thầy, ai vậy?” 26 Đức Giê-su trả lời: ”Thầy chấm bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy.” Rồi Người chấm một miếng bánh, trao cho Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt. 27 Y vừa ăn xong miếng bánh, Xa-tan liền nhập vào y. Đức Giê-su bảo y: ”Anh làm gì thì làm mau đi!” 28 Nhưng trong số các người đang dùng bữa, không ai hiểu tại sao Người nói với y như thế. 29 Vì Giu-đa giữ túi tiền, nên có vài người tưởng rằng Đức Giê-su nói với y: ”Hãy mua những món cần dùng trong dịp lễ”, hoặc bảo y bố thí cho người nghèo. 30 Sau khi ăn miếng bánh, Giu-đa liền đi ra. Lúc đó, trời đã tối.

Những lời cáo biệt

31 Khi Giu-đa đi rồi, Đức Giê-su nói: ”Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. 32 Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.

33 Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy; nhưng như Thầy đã nói với người Do-thái: ”Nơi tôi đi, các người không thể đến được”, bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy. 34 Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. 35 Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.”

36 Ông Si-môn Phê-rô nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?” Đức Giê-su trả lời: ”Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo.” 37 Ông Phê-rô thưa: ”Thưa Thầy, sao con lại không thể đi theo Thầy ngay bây giờ được? Con sẽ thí mạng con vì Thầy!” 38 Đức Giê-su đáp: ”Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần.

Chương 14

1 Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. 2 Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. 3 Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. 4 Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.”

5 Ông Tô-ma nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” 6 Đức Giê-su đáp: ”Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. 7 Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.”

8 Ông Phi-líp-phê nói: ”Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.” 9 Đức Giê-su trả lời: ”Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: ”Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha” ? 10 Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. 11 Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. 12 Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha. 13 Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. 14 Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.

15 Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. 16 Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. 17 Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. 18 Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em. 19 Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. 20 Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. 21 Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.”

22 Ông Giu-đa, không phải Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” 23 Đức Giê-su đáp: ”Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. 24 Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. 25 Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. 26 Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

27 Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. 28 Anh em đã nghe Thầy bảo: ”Thầy ra đi và đến cùng anh em” . Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. 29 Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.

30 Thầy sẽ không còn nói nhiều với anh em nữa, bởi vì Thủ lãnh thế gian đang đến. Đã hẳn, nó không làm gì được Thầy. 31 Nhưng chuyện đó xảy ra là để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy. Nào đứng dậy! Ta đi khỏi đây!”

Chương 15

Cây nho thật

1 “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. 2 Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn. 3 Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em. 4 Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy.

5 Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. 6 Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. 7 Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý. 8 Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy.

9 Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. 10 Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. 11 Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.

12 Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. 13 Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. 14 Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. 15 Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.

16 Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. 17 Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.

Các môn đệ và thế gian

18 Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. 19 Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em. 20 Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. 21 Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy.

22 Giả như Thầy không đến và không nói với họ, họ đã chẳng có tội. Nhưng bây giờ, họ không thể chữa tội được. 23 Ai ghét Thầy, thì cũng ghét Cha Thầy. 24 Giả như Thầy không làm giữa họ những việc không một ai khác đã làm, họ đã không có tội. Nhưng nay họ thấy rồi mà vẫn ghét cả Thầy lẫn Cha Thầy. 25 Như thế là ứng nghiệm lời đã viết trong Sách Luật của họ: Chúng ghét con vô cớ.

26 Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. 27 Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu.

Chương 16

1 Thầy đã nói với anh em các điều ấy, để anh em khỏi bị vấp ngã. 2 Họ sẽ khai trừ anh em khỏi hội đường. Hơn nữa, sẽ đến giờ kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa. 3 Họ sẽ làm như thế, bởi vì họ không biết Chúa Cha cũng chẳng biết Thầy.

Đấng Bảo Trợ sẽ đến

4 Nhưng Thầy đã nói với anh em những điều ấy, để khi đến giờ họ hành động, anh em nhớ lại là Thầy đã nói với anh em rồi.

5 Bây giờ Thầy đến cùng Đấng đã sai Thầy, và không ai trong anh em hỏi: ”Thầy đi đâu? 6 Nhưng vì Thầy nói ra các điều ấy, nên lòng anh em tràn ngập ưu phiền. 7 Song, Thầy nói thật với anh em: Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em. 8 Khi Người đến, Người sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và việc xét xử: 9 về tội lỗi: vì chúng không tin vào Thầy; 10 về sự công chính: vì Thầy đến cùng Chúa Cha, và anh em không còn thấy Thầy nữa; 11 về việc xét xử: vì Thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử rồi.

12 Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. 13 Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. 14 Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em. 15 Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Người lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em.

Đức Giê-su loan báo Người sẽ mau trở lại

16 “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy.”

17 Bấy giờ vài người trong nhóm môn đệ của Đức Giê-su hỏi nhau: ”Người muốn nói gì khi bảo chúng ta: ”Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy” và “Thầy đến cùng Chúa Cha” ?” 18 Vậy các ông nói: ”“ Ít lâu nữa” nghĩa là gì? Chúng ta không hiểu Người nói gì!” 19 Đức Giê-su biết là các ông muốn hỏi mình, nên bảo các ông: ”Anh em bàn luận với nhau về lời Thầy nói: ”Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy” . 20 Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui. 21 Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian. 22 Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được. 23 Ngày ấy, anh em không còn phải hỏi Thầy gì nữa. Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em mà xin Chúa Cha điều gì, thì Người sẽ ban cho anh em nhân danh Thầy. 24 Cho đến nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn.

25 Thầy đã dùng dụ ngôn mà nói những điều ấy với anh em. Sẽ đến giờ Thầy không còn dùng dụ ngôn mà nói với anh em nữa, nhưng Thầy sẽ nói rõ cho anh em về Chúa Cha, không còn úp mở. 26 Ngày ấy, anh em sẽ nhân danh Thầy mà xin, và Thầy không nói với anh em là Thầy sẽ cầu xin Chúa Cha cho anh em. 27 Thật vậy, chính Chúa Cha yêu mến anh em, vì anh em đã yêu mến Thầy, và tin rằng Thầy từ Thiên Chúa mà đến. 28 Thầy từ Chúa Cha mà đến và Thầy đã đến thế gian. Thầy lại bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha.”

29 Các môn đệ Người thưa: ”Đấy, bây giờ Thầy nói rõ, chứ không còn dùng dụ ngôn nào nữa. 30 Giờ đây, chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi sự, và Thầy không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến.” 31 Đức Giê-su đáp: ”Bây giờ anh em tin à? 32 Này đến giờ-và giờ ấy đã đến rồi- anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy. 33 Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian.”

Chương 17

Lời cầu nguyện của Đức Giê-su

1 Nói thế xong, Đức Giê-su ngước mắt lên trời và cầu nguyện: ”Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. 2 Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. 3 Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô.

4 Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm. 5 Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian. 6 Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho họ biết danh Cha. Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ đã tuân giữ lời Cha. 7 Giờ đây, họ biết rằng tất cả những gì Cha ban cho con đều do bởi Cha, 8 vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con; họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đã tin là Cha đã sai con.

9 Con cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha. 10 Tất cả những gì của con đều là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của con; và con được tôn vinh nơi họ. 11 Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha.

12 Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh. 13 Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói những điều này lúc còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con. 14 Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian. 15 Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. 16 Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. 17 Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. 18 Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. 19 Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.

20 Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, 21 để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con. 22 Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một: 23 Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con.

24 Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành. 25 Lạy Cha là Đấng công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng con, con đã biết Cha, và những người này đã biết là chính Cha đã sai con. 26 Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa.”

Chương 18

2. CUỘC THƯƠNG KHÓ

Đức Giê-su bị bắt giữ (Mt 26:47-56; Mc 14:43-50; Lc 22:47-53)

1 Sau khi nói những lời đó, Đức Giê-su đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối Kít-rôn. Ở đó, có một thửa vườn, Người cùng với các môn đệ đi vào. 2 Giu-đa, kẻ nộp Người, cũng biết nơi này, vì Người thường tụ họp ở đó với các môn đệ. 3 Vậy, Giu-đa tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pha-ri-sêu; họ mang theo đèn đuốc và khí giới. 4 Đức Giê-su biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi: ”Các anh tìm ai?” 5 Họ đáp: ”Tìm Giê-su Na-da-rét.” Người nói: ”Chính tôi đây.” Giu-đa, kẻ nộp Người, cũng đứng chung với họ. 6 Khi Người vừa nói: ”Chính tôi đây”, thì họ lùi lại và ngã xuống đất. 7 Người lại hỏi một lần nữa: ”Các anh tìm ai?” Họ đáp: ”Tìm Giê-su Na-da-rét.” 8 Đức Giê-su nói: ”Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi.” 9 Thế là ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã nói: ”Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai.”

10 Ông Si-môn Phê-rô có sẵn một thanh gươm, bèn tuốt ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế, mà chém đứt tai phải của y. Người đầy tớ ấy tên là Man-khô. 11 Đức Giê-su nói với ông Phê-rô: ”Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?”

Đức Giê-su bị điệu ra trước các ông Kha-nan và Cai-pha. Ông Phê-rô chối Thầy (Mt 26:57-58, 69-75; Mc 14:53-54, 66-72; Lc 22:54-62)

12 Bấy giờ toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người Do-thái bắt Đức Giê-su và trói Người lại. 13 Trước tiên, họ điệu Đức Giê-su đến ông Kha-nan là nhạc phụ ông Cai-pha. Ông Cai-pha làm thượng tế năm đó. 14 Chính ông này đã đề nghị với người Do-thái là nên để một người chết thay cho dân thì hơn.

15 Ông Si-môn Phê-rô và một môn đệ khác đi theo Đức Giê-su. Người môn đệ này quen biết vị thượng tế, nên cùng với Đức Giê-su vào sân trong của tư dinh vị thượng tế. 16 Còn ông Phê-rô đứng ở phía ngoài, gần cổng. Người môn đệ kia quen biết vị thượng tế ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phê-rô vào. 17 Người tớ gái giữ cổng nói với ông Phê-rô: ”Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của người ấy sao?” Ông liền đáp: ”Đâu phải.” 18 Vì trời lạnh, các đầy tớ và thuộc hạ đốt than và đứng sưởi ở đó; ông Phê-rô cũng đứng sưởi với họ. 19 Vị thượng tế tra hỏi Đức Giê-su về các môn đệ và giáo huấn của Người. 20 Đức Giê-su trả lời: ”Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do-thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. 21 Sao ông lại hỏi tôi? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì.” 22 Đức Giê-su vừa dứt lời, thì một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào mặt Người mà nói: ”Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?” 23 Đức Giê-su đáp: ”Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” 24 Ông Kha-nan cho giải Người đến thượng tế Cai-pha, Người vẫn bị trói.

25 Còn ông Si-môn Phê-rô thì vẫn đứng sưởi ở đó. Người ta nói với ông: ”Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của ông ấy sao?” Ông liền chối: ”Đâu phải.” 26 Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ với người bị ông Phê-rô chém đứt tai, lên tiếng hỏi: ”Tôi đã chẳng thấy bác ở trong vườn với ông ấy sao?” 27 Một lần nữa ông Phê-rô lại chối, và ngay lúc ấy gà liền gáy.

Đức Giê-su bị điệu ra trước tổng trấn Phi-la-tô (Mt 27:1-2, 11-30; Mc 15:1-19; Lc 23:1-5, 13-23)

28 Vậy, người Do-thái điệu Đức Giê-su từ nhà ông Cai-pha đến dinh tổng trấn. Lúc đó trời vừa sáng. Nhưng họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. 29 Vì thế, tổng trấn Phi-la-tô ra ngoài gặp họ và hỏi: ”Các người tố cáo ông này về tội gì?” 30 Họ đáp: ”Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan.” 31 Ông Phi-la-tô bảo họ: ”Các người cứ đem ông ta đi mà xét xử theo luật của các người.” Người Do-thái đáp: ”Chúng tôi không có quyền xử tử ai cả.” 32 Thế là ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã nói, khi ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.

33 Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su và nói với Người: ”Ông có phải là vua dân Do-thái không?” 34 Đức Giê-su đáp: ”Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” 35 Ông Phi-la-tô trả lời: ”Tôi là người Do-thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?” 36 Đức Giê-su trả lời: ”Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.” 37 Ông Phi-la-tô liền hỏi: ”Vậy ông là vua sao?” Đức Giê-su đáp: ”Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” 38 Ông Phi-la-tô nói với Người: ”Sự thật là gì?”

39 Theo tục lệ của các người, vào dịp lễ Vượt Qua, ta thường tha một người nào đó cho các người. Vậy các người có muốn ta tha vua dân Do-thái cho các người không?” 40 Họ lại la lên rằng: ”Đừng tha nó, nhưng xin tha Ba-ra-ba!” Mà Ba-ra-ba là một tên cướp.

Chương 19

1 Bấy giờ ông Phi-la-tô truyền đem Đức Giê-su đi và đánh đòn Người. 2 Bọn lính kết một vòng gai làm vương miện, đặt lên đầu Người, và khoác cho Người một áo choàng đỏ. 3 Họ đến gần và nói: ”Kính chào Vua dân Do-thái!”, rồi vả vào mặt Người.

4 Ông Phi-la-tô lại ra ngoài và nói với người Do-thái: ”Đây ta dẫn ông ấy ra ngoài cho các người, để các người biết là ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy.” 5 Vậy, Đức Giê-su bước ra ngoài, đầu đội vương miện bằng gai, mình khoác áo choàng đỏ. Ông Phi-la-tô nói với họ: ”Đây là người!” 6 Khi vừa thấy Đức Giê-su, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng: ”Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá!” Ông Phi-la-tô bảo họ: ”Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy.” 7 Người Do-thái đáp lại: ”Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa.”

8 Nghe lời đó, ông Phi-la-tô càng sợ hơn nữa. 9 Ông lại trở vào dinh và nói với Đức Giê-su: ”Ông từ đâu mà đến?” Nhưng Đức Giê-su không trả lời. 10 Ông Phi-la-tô mới nói với Người: ”Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?” 11 Đức Giê-su đáp lại: ”Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn.”

Đức Giê-su bị kết án tử hình

12 Từ đó, ông Phi-la-tô tìm cách tha Người. Nhưng dân Do-thái kêu lên rằng: ”Nếu ngài tha nó, ngài không phải là bạn của Xê-da. Ai xưng mình là vua, thì chống lại Xê-da.” 13 Khi nghe thấy thế, ông Phi-la-tô truyền dẫn Đức Giê-su ra ngoài. Ông đặt Người ngồi trên toà, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng Híp-ri là Gáp-ba-tha. 14 Hôm ấy là ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ trưa. Ông Phi-la-tô nói với người Do-thái: ”Đây là vua các người!” 15 Họ liền hô lớn: ”Đem đi! Đem nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!” Ông Phi-la-tô nói với họ: ”Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao?” Các thượng tế đáp: ”Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xê-da.” 16 Bấy giờ ông Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho họ đóng đinh vào thập giá.

Đức Giê-su chịu đóng đinh vào thập giá (Mt 27:33-38; Mc 15:22-26; Lc 23:33-38)

17 Chính Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Híp-ri là Gôn-gô-tha; 18 tại đó, họ đóng đinh Người vào thập giá, đồng thời cũng đóng đinh hai người khác nữa, mỗi người một bên, còn Đức Giê-su thì ở giữa. 19 Ông Phi-la-tô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá; bảng đó có ghi: ”Giê-su Na-da-rét, Vua dân Do-thái.” 20 Trong dân Do-thái, có nhiều người đọc được bảng đó, vì nơi Đức Giê-su bị đóng đinh là một địa điểm ở gần thành. Tấm bảng này viết bằng các tiếng: Híp-ri, La-tinh và Hy-lạp. 21 Các thượng tế của người Do-thái nói với ông Phi-la-tô: ”Xin ngài đừng viết: ”Vua dân Do-thái”, nhưng viết: ”Tên này đã nói: Ta là Vua dân Do-thái” .” 22 Ông Phi-la-tô trả lời: ”Ta viết sao, cứ để vậy!”

Lính tráng chia nhau áo xống của Đức Giê-su (Mt 27:35; Mc 15:24; Lc 23:34 b)

23 Đóng đinh Đức Giê-su vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm bốn phần, mỗi người một phần; họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. 24 Vậy họ nói với nhau: ”Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được.” Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Áo xống tôi, chúng đem chia chác, cả áo dài, cũng bắt thăm luôn. Đó là những điều lính tráng đã làm.

27

25 Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. 26 Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: ”Thưa Bà, đây là con của Bà.” 27 Rồi Người nói với môn đệ: ”Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.

27

28 Sau đó, Đức Giê-su biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: ”Tôi khát!” 29 Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. 30 Nhắp xong, Đức Giê-su nói: ”Thế là đã hoàn tất!” Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.

Đức Giê-su bị lưỡi đòng đâm thâu

31 Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sa-bát, mà ngày sa-bát đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Phi-la-tô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. 32 Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giê-su. 33 Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. 34 Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. 35 Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin. 36 Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập. 37 Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.

Đức Giê-su được mai táng (Mt 27:57-60; Mc 15:42-46; Lc 23:50-54)

38 Sau đó, ông Giô-xếp, người A-ri-ma-thê, xin ông Phi-la-tô cho phép hạ thi hài Đức Giê-su xuống. Ông Giô-xếp này là một môn đệ theo Đức Giê-su, nhưng cách kín đáo, vì sợ người Do-thái. Ông Phi-la-tô chấp thuận. Vậy, ông Giô-xếp đến hạ thi hài Người xuống. 39 Ông Ni-cô-đê-mô cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Đức Giê-su ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. 40 Các ông lãnh thi hài Đức Giê-su, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do-thái. 41 Nơi Đức Giê-su bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. 42 Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do-thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giê-su ở đó.

Chương 20

3. NGÀY PHỤC SINH

Ngôi mộ trống (Mt 28:1-8; Mc 16:1-8; Lc 24:1-11)

1 Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. 2 Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: ”Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.”

3 Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. 4 Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. 5 Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. 6 Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, 7 và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. 8 Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. 9 Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết. 10 Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà.

Đức Giê-su hiện ra với bà Ma-ri-a Mác-đa-la (Mt 28:9-10; Mc 16:9-11)

11 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, 12 thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giê-su, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. 13 Thiên thần hỏi bà: ”Này bà, sao bà khóc?” Bà thưa: ”Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!” 14 Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giê-su đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giê-su. 15 Đức Giê-su nói với bà: ”Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?” Bà Ma-ri-a tưởng là người làm vườn, liền nói: ”Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” 16 Đức Giê-su gọi bà: ”Ma-ri-a!” Bà quay lại và nói bằng tiếng Híp-ri: ”Ráp-bu-ni!” (nghĩa là “Lạy Thầy” ). 17 Đức Giê-su bảo: ”Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: ”Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” .” 18 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi báo cho các môn đệ: ”Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.

Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ (Mt 28:16-20; Mc 16:14-18; Lc 24:36-49)

19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: ”Bình an cho anh em!” 20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 21 Người lại nói với các ông: ”Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” 22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: ”Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”

24 Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. 25 Các môn đệ khác nói với ông: ”Chúng tôi đã được thấy Chúa!” Ông Tô-ma đáp: ”Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” 26 Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: ”Bình an cho anh em.” 27 Rồi Người bảo ông Tô-ma: ”Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” 28 Ông Tô-ma thưa Người: ”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” 29 Đức Giê-su bảo: ”Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”

4. KẾT LUẬN THỨ NHẤT

30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. 31 Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.

Chương 21

IV. ĐOẠN CUỐI

Đức Giê-su hiện ra ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a

1 Sau đó, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này. 2 Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. 3 Ông Si-môn Phê-rô nói với các ông: ”Tôi đi đánh cá đây.” Các ông đáp: ”Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.

4 Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su. 5 Người nói với các ông: ”Này các chú, không có gì ăn ư?” Các ông trả lời: ”Thưa không.” 6 Người bảo các ông: ”Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. 7 Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô: ”Chúa đó!” Vừa nghe nói”Chúa đó!”, ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. 8 Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.

9 Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. 10 Đức Giê-su bảo các ông: ”Đem ít cá mới bắt được tới đây!” 11 Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. 12 Đức Giê-su nói: ”Anh em đến mà ăn!” Không ai trong các môn đệ dám hỏi”Ông là ai?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. 13 Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy. 14 Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.

15 Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô: ”Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Ông đáp: ”Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giê-su nói với ông: ”Hãy chăm sóc chiên con của Thầy.” 16 Người lại hỏi: ”Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không?” Ông đáp: ”Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Người nói: ”Hãy chăn dắt chiên của Thầy.” 17 Người hỏi lần thứ ba: ”Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không?” Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: ”Anh có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: ”Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giê-su bảo: ”Hãy chăm sóc chiên của Thầy. 18 Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” 19 Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: ”Hãy theo Thầy.”

20 Ông Phê-rô quay lại, thì thấy người môn đệ Đức Giê-su thương mến đi theo sau; ông này là người đã nghiêng mình vào ngực Đức Giê-su trong bữa ăn tối và hỏi: ”Thưa Thầy, ai là kẻ nộp Thầy?” 21 Vậy khi thấy người đó, ông Phê-rô nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, còn anh này thì sao?” 22 Đức Giê-su đáp: ”Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh? Phần anh, hãy theo Thầy.” 23 Do đó, mới có tiếng đồn giữa anh em là môn đệ ấy sẽ không chết. Nhưng Đức Giê-su đã không nói với ông Phê-rô là: ”Anh ấy sẽ không chết”, mà chỉ nói: ”Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh?”

Kết luận

24 Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực.

25 Còn có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.

Các Sách Khác

Công Vụ Tông Đồ

Chương 1

Lời tựa

1 Thưa ngài Thê-ô-phi-lô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giê-su làm và những điều Người dạy, kể từ đầu 2 cho tới ngày Người được rước lên trời. Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. 3 Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. 4 Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giê-su truyền cho các ông không được rời khỏi Giê-ru-sa-lem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa,”điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, 5 đó là: ông Gio-an thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.”

Thăng thiên

6 Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: ”Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” 7 Người đáp: ”Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, 8 nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.”

9 Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. 10 Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh 11 và nói: ”Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.”

I. HỘI THÁNH TẠI GIÊ-RU-SA-LEM

Nhóm các Tông Đồ

12 Bấy giờ các ông từ núi gọi là núi Ô-liu trở về Giê-ru-sa-lem. Núi này ở gần Giê-ru-sa-lem, cách đoạn đường được phép đi trong ngày sa-bát. 13 Trở về nhà, các ông lên lầu trên, là nơi các ông trú ngụ. Đó là các ông: Phê-rô, Gio-an, Gia-cô-bê, An-rê, Phi-líp-phê, Tô-ma, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và Giu-đa con ông Gia-cô-bê. 14 Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su.

Chọn ông Mát-thi-a thay thế ông Giu-đa

15 Trong những ngày ấy, ông Phê-rô đứng lên giữa các anh em- có khoảng một trăm hai mươi người đang họp mặt- Ông nói: 16 “Thưa anh em, lời Kinh Thánh phải ứng nghiệm, lời mà Thánh Thần đã dùng miệng vua Đa-vít để nói trước về Giu-đa, kẻ đã trở thành tên dẫn đường cho những người bắt Đức Giê-su. 17 Y đã là một người trong số chúng tôi và được tham dự vào công việc phục vụ của chúng tôi. 18 Vậy, con người ấy đã dùng tiền công của tội ác mà tậu một thửa đất; y đã ngã lộn đầu xuống, vỡ bụng, lòi cả ruột gan ra. 19 Điều đó, mọi người ở Giê-ru-sa-lem đều biết, khiến họ đặt tên cho thửa đất ấy là Kha-ken-đơ-ma, theo tiếng của họ nghĩa là Đất Máu. 20 Thật thế, trong sách Thánh vịnh có chép rằng:

Ước gì lều trại nó phải tan hoang,

không còn ai trú ngụ.

và ước gì người khác nhận lấy chức vụ của nó.

21 “Vậy phải làm thế này: có những anh em đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giê-su suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, 22 kể từ khi Người được ông Gio-an làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời. Một trong những anh em đó phải cùng với chúng tôi làm chứng rằng Người đã phục sinh.”

23 Họ đề cử hai người: ông Giô-xếp, biệt danh là Ba-sa-ba, cũng gọi là Giút-tô, và ông Mát-thi-a. 24 Họ cầu nguyện rằng: ”Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người; giữa hai người này, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai 25 để nhận chỗ trong sứ vụ Tông Đồ, chỗ Giu-đa đã bỏ để đi về nơi dành cho y.” 26 Họ rút thăm, thăm trúng ông Mát-thi-a: ông được kể thêm vào số mười một Tông Đồ.

Chương 2

Ngày lễ Ngũ Tuần

1 Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, 2 bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. 3 Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. 4 Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho.

5 Lúc đó, tại Giê-ru-sa-lem, có những người Do-thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở về. 6 Nghe tiếng ấy, có nhiều người kéo đến. Họ kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. 7 Họ sửng sốt, thán phục và nói: ”Những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê cả ư? 8 Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta? 9 Chúng ta đây, có người là dân Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a, Pon-tô, và A-xi-a, 10 có người là dân Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, và những vùng Li-by-a giáp giới Ky-rê-nê; nào là những người từ Rô-ma đến đây; 11 nào là người Do-thái cũng như người đạo theo; nào là người đảo Cơ-rê-ta hay người Ả-rập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!”12 Ai nấy đều sửng sốt và phân vân, họ bảo nhau: ”Thế nghĩa là gì?” 13 Nhưng người khác lại chế nhạo: ”Mấy ông này say bứ rồi!”

Ông Phê-rô giảng cho dân chúng

14 Bấy giờ, ông Phê-rô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với họ rằng: ”Thưa anh em miền Giu-đê và tất cả những người đang cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, xin biết cho điều này, và lắng nghe những lời tôi nói đây. 15 Không, những người này không say rượu như anh em nghĩ, vì bây giờ mới là giờ thứ ba. 16 Nhưng đó là điều đã được ngôn sứ Giô-en nói đến: 17 Thiên Chúa phán: Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng. 18 Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí Ta cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ. 19 Ta sẽ cho xuất hiện những điềm thiêng trên trời cao, và những dấu lạ dưới đất thấp, đó là máu, lửa và những cột khói. 20 Mặt trời sẽ trở nên tối tăm, mặt trăng hoá thành máu, trước khi ngày của Đức Chúa đến, ngày vĩ đại, vinh quang. 21 Bấy giờ hết những ai kêu cầu danh Đức Chúa, sẽ được ơn cứu độ.

22 “Thưa đồng bào Ít-ra-en, xin nghe những lời sau đây. Đức Giê-su Na-da-rét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó. 23 Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giê-su ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. 24 Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi. 25 Quả vậy, vua Đa-vít đã nói về Người rằng: Tôi luôn nhìn thấy Đức Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu, để tôi chẳng nao lòng. 26 Bởi thế tâm hồn con mừng rỡ, và miệng lưỡi hân hoan, cả thân xác con cũng nghỉ ngơi trong niềm hy vọng. 27 Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát. 28 Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan.

29 “Thưa anh em, xin được phép mạnh dạn nói với anh em về tổ phụ Đa-vít rằng: người đã chết và được mai táng, và mộ của người còn ở giữa chúng ta cho đến ngày nay. 30 Nhưng vì là ngôn sứ và biết rằng Thiên Chúa đã thề với người là sẽ đặt một người trong dòng dõi trên ngai vàng của người, 31 nên người đã thấy trước và loan báo sự phục sinh của Đức Ki-tô khi nói: Người đã không bị bỏ mặc trong cõi âm ty và thân xác Người không phải hư nát. 32 Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng. 33 Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy đang nghe. 34 Thật vậy, vua Đa-vít đã chẳng lên trời, thế mà lại nói: Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi: Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, 35 để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân Con. 36 Vậy toàn thể nhà Ít-ra-en phải biết chắc điều này: Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô.”

Những người trở lại đầu tiên

37 Nghe thế, họ đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phê-rô cùng các Tông Đồ khác: ”Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?” 38 Ông Phê-rô đáp: ”Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. 39 Thật vậy, đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con cháu anh em và tất cả những người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi.” 40 Ông Phê-rô còn dùng nhiều lời khác để long trọng làm chứng và khuyên nhủ họ. Ông nói: ”Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này để được cứu độ.” 41 Vậy những ai đã đón nhận lời ông, đều chịu phép rửa. Và hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo.

Cộng đoàn tín hữu đầu tiên

42 Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng.

43 Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ.

44 Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. 45 Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu.

46 Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. 47 Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ.

Chương 3

Ông Phê-rô chữa một người què

1 Một hôm, ông Phê-rô và ông Gio-an lên Đền Thờ, vào buổi cầu nguyện giờ thứ chín. 2 Khi ấy, người ta khiêng đến một người què từ khi lọt lòng mẹ. Ngày ngày họ đặt anh ta bên cửa Đền Thờ gọi là Cửa Đẹp, để xin kẻ ra vào Đền Thờ bố thí. 3 Vừa thấy ông Phê-rô và ông Gio-an sắp vào Đền Thờ, anh liền xin bố thí. 4 Hai ông nhìn thẳng vào anh, và ông Phê-rô nói: ”Anh nhìn chúng tôi đây!”5 Anh ta chăm chú nhìn hai ông, tưởng rằng sẽ được cái gì. 6 Bấy giờ ông Phê-rô nói: ”Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giê-su Ki-tô người Na-da-rét, anh đứng dậy mà đi!”7 Rồi ông nắm chặt lấy tay mặt anh, kéo anh chỗi dậy. Lập tức bàn chân và xương mắt cá của anh trở nên cứng cáp. 8 Anh đứng phắt dậy, đi lại được; rồi cùng với hai ông, anh vào Đền Thờ, vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa. 9 Toàn dân thấy anh đi lại và ca tụng Thiên Chúa. 10 Và khi nhận ra anh chính là người vẫn ngồi ăn xin tại Cửa Đẹp Đền Thờ, họ kinh ngạc sững sờ về sự việc mới xảy đến cho anh.

Ông Phê-rô giảng cho dân chúng

11 Anh cứ níu lấy ông Phê-rô và ông Gio-an, nên toàn dân rất kinh ngạc, chạy ùa tới các ông tại hành lang gọi là hành lang Sa-lô-môn. 12 Thấy vậy, ông Phê-rô lên tiếng nói với dân: ”Thưa đồng bào Ít-ra-en, sao lại ngạc nhiên về điều đó, sao lại nhìn chúng tôi chằm chằm, như thể chúng tôi đã làm cho người này đi lại được, nhờ quyền năng riêng hay lòng đạo đức của chúng tôi? 13 Thiên Chúa của các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giê-su, Đấng mà chính anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt quan Phi-la-tô, dù quan ấy xét là phải tha. 14 Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. 15 Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng. 16 Chính nhờ lòng tin vào danh Người, mà danh Người đã làm cho kẻ anh em nhìn và biết đây trở nên cứng cáp; chính lòng tin Người ban đã cho anh này được khỏi hẳn như thế, ngay trước mắt tất cả anh em.

17 “Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em. 18 Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Ki-tô của Người phải chịu khổ hình. 19 Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em. 20 Như vậy thời kỳ an lạc mà Đức Chúa ban cho anh em sẽ đến, khi Người sai Đấng Ki-tô Người đã dành cho anh em, là Đức Giê-su. 21 Đức Giê-su còn phải được giữ lại trên trời, cho đến thời phục hồi vạn vật, thời mà Thiên Chúa đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ của Người mà loan báo tự ngàn xưa. 22 Thật vậy, ông Mô-sê đã nói: Từ giữa đồng bào của anh em, Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em sẽ cho trỗi dậy một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; tất cả những gì vị ấy nói với anh em, anh em hãy nghe. 23 Kẻ nào mà không nghe ngôn sứ ấy, thì sẽ bị diệt trừ khỏi dân. 24 Sau đó, mọi ngôn sứ, kể từ ông Sa-mu-en đến các vị kế tiếp, khi lên tiếng thì cũng đã loan báo những ngày chúng ta đang sống.

25 “Phần anh em, anh em là con cháu của các ngôn sứ và của giao ước mà Thiên Chúa đã lập với cha ông anh em, khi Người phán với ông Áp-ra-ham: Nhờ dòng dõi ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc. 26 Thiên Chúa đã cho Tôi Trung của Người trỗi dậy để giúp anh em trước tiên, và sai đi chúc phúc cho anh em, bằng cách làm cho mỗi người trong anh em lìa bỏ những tội ác của mình.”

Chương 4

Ông Phê-rô và ông Gio-an ra trước Thượng Hội Đồng

1 Hai ông còn đang nói với dân, thì có các tư tế, viên lãnh binh Đền Thờ, và các người thuộc nhóm Xa-đốc kéo đến. 2 Họ bực tức vì các ông giảng dạy cho dân và dựa vào trường hợp Đức Giê-su mà loan báo kẻ chết sẽ sống lại. 3 Họ bắt hai ông và tống ngục cho đến ngày hôm sau, vì trời đã về chiều. 4 Nhưng trong đám người nghe lời giảng, có nhiều kẻ đã tin theo, chỉ riêng số đàn ông đã lên đến chừng năm ngàn.

5 Hôm sau, các thủ lãnh Do-thái, các kỳ mục và kinh sư họp nhau tại Giê-ru-sa-lem. 6 Có cả thượng tế Kha-nan, các ông Cai-pha, Gio-an, A-lê-xan-đê và mọi người trong dòng họ thượng tế. 7 Họ cho điệu hai Tông Đồ ra giữa hội đồng và tra hỏi: ”Nhờ quyền năng nào hay nhân danh ai mà các ông làm điều ấy?” 8 Bấy giờ, ông Phê-rô được đầy Thánh Thần, liền nói với họ: ”Thưa quý vị thủ lãnh trong dân và quý vị kỳ mục, 9 hôm nay chúng tôi bị thẩm vấn về việc lành chúng tôi đã làm cho một người tàn tật, về cách thức người ấy đã được cứu chữa. 10 Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Ít-ra-en biết cho rằng: nhân danh chính Đức Giê-su Ki-tô, người Na-da-rét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị. 11 Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. 12 Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.”

13 Họ ngạc nhiên khi thấy ông Phê-rô và ông Gio-an mạnh dạn, và biết rằng hai ông là những người không có chữ nghĩa, lại thuộc giới bình dân. Họ nhận ra hai ông là những người đã từng theo Đức Giê-su; 14 đồng thời họ lại thấy người đã được chữa lành đứng đó với hai ông, nên họ không biết đối đáp thế nào. 15 Họ mới truyền cho hai ông ra khỏi Thượng Hội Đồng, và bàn tính với nhau. 16 Họ nói: ”Ta phải xử làm sao với những người này? Họ đã làm một dấu lạ rành rành: điều đó hiển nhiên đối với mọi người cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, và ta không thể chối được. 17 Nhưng để cho việc đó khỏi lan rộng thêm trong dân, ta hãy ngăm đe, nghiêm cấm họ từ nay không được nói đến danh ấy với ai nữa.”

18 Họ cho gọi hai ông vào và tuyệt đối cấm hai ông không được lên tiếng hay giảng dạy về danh Đức Giê-su nữa. 19 Hai ông Phê-rô và Gio-an đáp lại: ”Nghe lời các ông hơn là nghe lời Thiên Chúa, xin hỏi: trước mặt Thiên Chúa, điều ấy có phải lẽ không? Các ông thử xét xem! 20 Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra.” 21 Sau khi ngăm đe lần nữa, họ thả hai ông về, vì không tìm được cách trừng trị hai ông. Lý do là vì họ sợ dân: ai nấy đều tôn vinh Thiên Chúa vì việc đã xảy ra. 22 Thật vậy, người được phép lạ ấy chữa lành đã ngoài bốn mươi tuổi.

Các Tông Đồ cầu nguyện trong cơn bách hại

23 Được thả về, hai ông đến với các anh em và thuật lại mọi điều các thượng tế và kỳ mục đã nói với hai ông. 24 Nghe vậy, họ đồng tâm nhất trí cất tiếng lên cùng Thiên Chúa: ”Lạy Chúa, Ngài là Đấng tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó; 25 Ngài là Đấng đã nhờ Thánh Thần, dùng miệng tổ phụ chúng con là Đa-vít, tôi trung của Ngài, mà phán: Sao chư dân lại ồn ào náo động, sao vạn quốc dám bày kế viển vông? 26 Vua chúa trần gian cùng nổi dậy, vương hầu khanh tướng rập mưu đồ, chống lại Đức Chúa, chống lại Đấng Người đã xức dầu phong vương.

27 “Đúng vậy, Hê-rô-đê, Phong-xi-ô Phi-la-tô, cùng với chư dân và dân Ít-ra-en đã toa rập trong thành này, chống lại tôi tớ thánh của Ngài là Đức Giê-su, Đấng Ngài đã xức dầu. 28 Như thế họ đã thực hiện tất cả những gì quyền năng và ý muốn của Ngài đã định trước. 29 Giờ đây, lạy Chúa, xin để ý đến những lời ngăm đe của họ, và cho các tôi tớ Ngài đây được nói lời Ngài với tất cả sự mạnh dạn. 30 Xin giơ tay chữa lành, và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, nhân danh tôi tớ thánh của Ngài là Đức Giê-su.” 31 Họ cầu nguyện xong, thì nơi họ họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa.

Cộng đoàn tín hữu đầu tiên

32 Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung.

33 Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giê-su đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng.

34 Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, 35 đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu.

Lòng rộng rãi của ông Ba-na-ba

36 Ông Giô-xếp, người được các Tông Đồ đặt tên là Ba-na-ba, nghĩa là người có tài yên ủi, có một thửa đất. Ông là một thầy Lê-vi quê quán ở đảo Sýp. 37 Ông bán đất đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ.

Chương 5

Kha-na-ni-a và Xa-phi-ra gian lận

1 Có một người tên là Kha-na-ni-a cùng với vợ là Xa-phi-ra bán một thửa đất. 2 Ông đồng ý với vợ giữ lại một phần tiền, rồi đem phần còn lại đặt dưới chân các Tông Đồ. 3 Ông Phê-rô mới nói: ”Anh Kha-na-ni-a, sao anh lại để Xa-tan xâm chiếm lòng anh, khiến anh lừa dối Thánh Thần, mà giữ lại một phần giá thửa đất? 4 Khi đất còn đó thì nó chẳng còn là của anh sao? Bán đi rồi thì anh chẳng có quyền sử dụng tiền bán đó sao? Sao anh lại rắp tâm làm việc ấy? Anh đã không lừa dối người phàm, mà lừa dối Thiên Chúa.” 5 Nghe những lời ấy, Kha-na-ni-a ngã xuống tắt thở. Tất cả những ai nghe kể lại chuyện này đều rất sợ hãi. 6 Các thanh niên đến liệm xác ông và đem đi chôn.

7 Khoảng ba giờ sau, vợ ông đi vào mà không hay biết chuyện đã xảy ra. 8 Ông Phê-rô lên tiếng hỏi: ”Chị nói cho tôi hay: anh chị bán thửa đất được bấy nhiêu, phải không?” Chị ta đáp: ”Vâng, được bấy nhiêu thôi.” 9 Ông Phê-rô liền nói: ”Sao anh chị lại đồng lòng với nhau để thử thách Thần Khí Chúa? Kìa những người đã chôn cất chồng chị còn đứng ở ngoài cửa, họ sắp khiêng cả chị đi đấy!”10 Lập tức bà ta ngã xuống dưới chân ông Phê-rô và tắt thở. Khi vào, các thanh niên thấy bà đã chết, liền khiêng đi chôn bên cạnh chồng. 11 Toàn thể Hội Thánh và tất cả những ai nghe kể chuyện này đều rất sợ hãi.

Các Tông Đồ làm phép lạ

12 Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay các Tông Đồ.

13 Không một ai khác dám nhập đoàn với họ. Nhưng dân thì lại ca tụng họ. 14 Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông.

15 Người ta còn khiêng cả những kẻ đau ốm ra tận đường phố đặt trên giường trên chõng, để khi ông Phê-rô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh nhân nào đó. 16 Nhiều người từ các thành chung quanh Giê-ru-sa-lem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đều được chữa lành.

Các Tông Đồ bị bắt và được giải thoát

17 Bấy giờ, vị thượng tế cùng tất cả những người theo ông-tức là phái Xa-đốc- ra tay hành động. Đầy lòng ghen tức, 18 họ bắt các Tông Đồ, nhốt vào nhà tù công cộng.

19 Nhưng ban đêm thiên sứ của Đức Chúa mở cửa ngục, đưa các ông ra mà nói: 20 “Các ông hãy đi, vào đứng trong Đền Thờ mà nói cho dân những lời ban sự sống.” 21 Nghe thế, các ông vào Đền Thờ ngay từ lúc rạng đông và bắt đầu giảng dạy.

Các Tông Đồ ra trước Thượng Hội Đồng

22 Nhưng khi thuộc hạ đến, họ không thấy các ông trong ngục. Họ trở về báo cáo 23 rằng: ”Chúng tôi thấy ngục đóng kỹ lưỡng và những người lính canh đứng ở cửa; nhưng khi mở cửa ra, chúng tôi không thấy ai ở bên trong.” 24 Nghe những lời ấy, viên lãnh binh Đền Thờ và các thượng tế phân vân về các ông, không biết chuyện gì xảy ra. 25 Bấy giờ có một người đến báo cáo cho họ: ”Những người các ông đã tống ngục, kìa họ đang đứng trong Đền Thờ và giảng dạy cho dân!”26 Viên lãnh binh bèn đi với bọn thuộc hạ và điệu các ông về, nhưng không dùng bạo lực vì sợ bị dân ném đá.

27 Họ điệu các ông đến giữa Thượng Hội Đồng; vị thượng tế hỏi các ông rằng: 28 “Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giê-ru-sa-lem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!”29 Bấy giờ ông Phê-rô và các Tông Đồ khác đáp lại rằng: ”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. 30 Đức Giê-su đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, 31 và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en ơn sám hối và ơn tha tội. 32 Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người.” 33 Nghe vậy, họ giận điên lên và muốn giết các ông.

Ông Ga-ma-li-ên lên tiếng

34 Bấy giờ có một người Pha-ri-sêu tên là Ga-ma-li-ên đứng lên giữa Thượng Hội Đồng; ông là một kinh sư được toàn dân kính trọng. Ông truyền đưa các đương sự ra ngoài một lát. 35 Rồi ông nói với Thượng Hội Đồng: ”Thưa quý vị là người Ít-ra-en, xin quý vị coi chừng điều quý vị sắp làm cho những người này. 36 Thời gian trước đây, có Thêu-đa nổi lên, xưng mình là một nhân vật và kết nạp được khoảng bốn trăm người; ông ta đã bị giết, và mọi kẻ theo ông cũng tan rã, không còn gì hết. 37 Sau ông, có Giu-đa người Ga-li-lê nổi lên vào thời kiểm tra dân số, và lôi cuốn dân đi với mình; cả ông này cũng bị diệt, và tất cả những người theo ông ta đều bị tan tác. 38 Vậy giờ đây, tôi xin nói với quý vị: hãy để mặc những người này. Cứ cho họ về, vì nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá huỷ; 39 còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quý vị không thể nào phá huỷ được; không khéo quý vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa.” Họ tán thành ý kiến của ông.

40 Họ cho gọi các Tông Đồ lại mà đánh đòn và cấm các ông không được nói đến danh Đức Giê-su, rồi thả các ông ra. 41 Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su.

42 Mỗi ngày, trong Đền Thờ và tại tư gia, các ông không ngừng giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Đức Ki-tô Giê-su.

Chương 6

II. NHỮNG BƯỚC ĐẦU CỦA CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO

Lập nhóm Bảy người

1 Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do-thái theo văn hoá Hy-lạp kêu trách những tín hữu Do-thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. 2 Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: ”Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. 3 Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. 4 Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa.” 5 Đề nghị trên được mọi người tán thành. Họ chọn ông Tê-pha-nô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Phi-líp-phê, Pơ-rô-khô-rô, Ni-ca-no, Ti-môn, Pác-mê-na và ông Ni-cô-la, một người ngoại quê An-ti-ô-khi-a đã theo đạo Do-thái. 6 Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau khi cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông.

7 Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Giê-ru-sa-lem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin.

Ông Tê-pha-nô bị bắt

8 Ông Tê-pha-nô được đầy ân sủng và quyền năng, đã làm những điềm thiêng dấu lạ lớn lao trong dân. 9 Có những người thuộc hội đường gọi là hội đường của nhóm nô lệ được giải phóng, gốc Ky-rê-nê và A-lê-xan-ri-a, cùng với một số người gốc Ki-li-ki-a và A-xi-a, đứng lên tranh luận với ông Tê-pha-nô. 10 Nhưng họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông. 11 Bấy giờ, họ mới xui mấy người phao lên rằng: ”Chúng tôi đã nghe hắn nói lộng ngôn xúc phạm đến ông Mô-sê và Thiên Chúa.” 12 Họ sách động dân và các kỳ mục cùng kinh sư, rồi ập đến bắt ông và điệu đến Thượng Hội Đồng. 13 Họ đưa mấy người chứng gian ra khai rằng: ”Tên này không ngừng nói những lời phạm đến Nơi Thánh và Lề Luật. 14 Vì chúng tôi đã nghe hắn nói rằng Giê-su người Na-da-rét sẽ phá huỷ nơi này và thay đổi những tục lệ mà ông Mô-sê đã truyền lại cho chúng ta.” 15 Toàn thể cử toạ trong Thượng Hội Đồng đều nhìn thẳng vào ông Tê-pha-nô, và họ thấy mặt ông giống như mặt thiên sứ.

Chương 7

Diễn từ của ông Tê-pha-nô

1 Bấy giờ vị thượng tế hỏi ông Tê-pha-nô: ”Có đúng như vậy không?” 2 Ông đáp: ”Thưa quý vị là những bậc cha anh, xin nghe tôi đây: Thiên Chúa hiển vinh đã hiện ra với ông Áp-ra-ham, tổ phụ chúng ta, khi ông còn đang ở miền Mê-xô-pô-ta-mi-a, trước khi ông đến ở Kha-ran. 3 Người phán với ông: Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng ngươi, và đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. 4 Ông liền bỏ xứ người Can-đê mà đến ở Kha-ran. Sau khi thân phụ qua đời, Người bảo ông rời nơi ấy đến đất này, nơi anh em hiện đang ở. 5 Người không ban cho ông sản nghiệp nào ở đất này, dù một tấc đất cũng không, nhưng hứa cho ông cũng như cho dòng dõi ông được chiếm hữu đất này, mặc dầu bấy giờ ông không có con. 6 Thiên Chúa phán với ông rằng dòng dõi ông sẽ trú ngụ nơi đất khách quê người, và người ta sẽ bắt họ làm nô lệ và ngược đãi họ trong vòng bốn trăm năm. 7 Người lại phán: Nhưng Ta sẽ xét xử dân đã bắt chúng làm nô lệ, và sau đó chúng sẽ ra đi và sẽ thờ phượng Ta tại nơi này. 8 Rồi Người ban cho ông giao ước, mà dấu chỉ là phép cắt bì; và như thế, sau khi sinh ông I-xa-ác được tám ngày, ông làm phép cắt bì cho con; ông I-xa-ác cũng làm như thế cho ông Gia-cóp, và ông Gia-cóp đã làm như thế cho mười hai tổ phụ.

9 “Các tổ phụ ghen ông Giu-se nên đã bán ông cho người ta đưa sang Ai-cập. Nhưng Thiên Chúa vẫn ở với ông. 10 Người cứu ông khỏi mọi bước ngặt nghèo, cho ông được cảm tình của Pha-ra-ô, vua Ai-cập, và được khôn ngoan trước mặt nhà vua, khiến nhà vua đặt ông làm tể tướng cai quản nước Ai-cập và toàn thể hoàng cung. 11 Rồi xảy ra nạn đói trong cả nước Ai-cập và tại Ca-na-an: đó là thời rất ngặt nghèo, và cha ông chúng ta không tìm đâu ra lương thực. 12 Khi ông Gia-cóp nghe nói bên Ai-cập có lúa mì, liền sai cha ông chúng ta đi lần thứ nhất. 13 Rồi đến lần thứ hai, thì ông Giu-se cho các anh em nhận ra mình; bấy giờ Pha-ra-ô biết rõ gốc tích của ông Giu-se. 14 Ông Giu-se liền sai đi mời thân phụ là ông Gia-cóp, cùng với tất cả họ hàng là bảy mươi lăm người. 15 Vậy ông Gia-cóp xuống Ai-cập. Ông đã qua đời ở đó, và cha ông chúng ta cũng vậy. 16 Hài cốt các ông được đưa về Si-khem và táng trong ngôi mộ mà ông Áp-ra-ham đã bỏ tiền ra mua của con cái Kha-mo tại Si-khem.

17 “Khi gần đến thời thực hiện lời Thiên Chúa đã long trọng hứa với ông Áp-ra-ham, thì dân sinh sôi nảy nở ra nhiều tại Ai-cập, 18 cho đến khi một vua khác lên trị vì nước Ai-cập. Vua này không biết ông Giu-se. 19 Là người xảo quyệt, vua xử tệ với nòi giống chúng ta, ngược đãi cha ông chúng ta, đến nỗi bắt các cụ phải đem trẻ sơ sinh của mình bỏ đi, không cho chúng sống. 20 Chính vào thời đó, Mô-sê sinh ra. Đứa bé kháu khỉnh trước mặt Thiên Chúa, lại chỉ được nuôi ba tháng ở nhà thân phụ. 21 Sau đó bị bỏ, nhưng được con gái Pha-ra-ô rước về nuôi làm con trai mình. 22 Cậu bé được dạy cho biết tất cả về sự khôn ngoan của người Ai-cập, và là người đầy uy thế trong lời nói cũng như việc làm.

23 “Khi được chẵn bốn mươi tuổi, ông Mô-sê nảy ra ý định thăm viếng các anh em mình là con cái Ít-ra-en. 24 Thấy một người anh em bị một người Ai-cập làm hại, ông liền bênh, và để trả thù cho người bị áp bức, ông đánh chết người Ai-cập. 25 Ông tưởng các anh em ông sẽ hiểu rằng Thiên Chúa dùng tay ông để ban ơn cứu độ cho họ; nhưng họ thì không hiểu. 26 Ngày hôm sau, đang khi họ đánh lộn thì ông xuất hiện và dàn xếp cho đôi bên làm hoà. Ông nói: ”Này các người, các người là anh em, tại sao lại xử tệ với nhau? 27 Nhưng kẻ đang xử tệ với người đồng bào gạt ông ra và nói: Ai đã đặt ông làm người lãnh đạo và người xét xử chúng tôi? 28 Hay là ông tính giết tôi, y như đã giết tên Ai-cập hôm qua? 29 Nghe câu nói ấy, ông Mô-sê liền trốn đi và đến trú ngụ ở miền Ma-đi-an. Ở đó ông sinh được hai con trai.

30 “Đúng bốn mươi năm sau, một thiên sứ hiện ra với ông tại sa mạc núi Xi-nai, trong ngọn lửa của một bụi cây đang cháy. 31 Ông Mô-sê ngạc nhiên khi thấy thị kiến ấy. Đang khi ông lại gần để xem cho rõ, thì có tiếng Chúa phán với ông: 32 Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Ông Mô-sê phát run lên, không dám nhìn nữa. 33 Bấy giờ Chúa phán với ông: ”Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh! 34 Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập và đã nghe tiếng chúng kêu than, nên Ta xuống giải thoát chúng. Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi sang Ai-cập".

35 “Ông Mô-sê này là người mà họ đã từng chối bỏ khi nói: Ai đã đặt ông làm người lãnh đạo và người xét xử?, thì Thiên Chúa lại sai ông làm người lãnh đạo và cứu chuộc, qua trung gian vị thiên sứ đã hiện ra với ông trong bụi gai. 36 Chính ông đã đưa họ ra, bằng cách làm những điềm thiêng dấu lạ tại đất Ai-cập, trong Biển Đỏ và trong sa mạc bốn mươi năm trường. 37 Chính ông Mô-sê đó là người đã nói với con cái Ít-ra-en: Từ giữa đồng bào của anh em, Thiên Chúa sẽ cho đứng lên một ngôn sứ như tôi để giúp anh em. 38 Chính ông là người đã có mặt trong đại hội ở sa mạc, bên cạnh vị thiên sứ nói với ông trên núi Xi-nai, và bên cạnh cha ông chúng ta. Chính ông đã đón nhận những lời hằng sống để ban cho chúng ta. 39 Nhưng cha ông chúng ta đã không muốn vâng lời ông; họ đã gạt ông ra và trong thâm tâm, họ đã quay lại Ai-cập. 40 Họ nói với ông A-ha-ron: Xin ông làm cho chúng tôi những vị thần dẫn đầu chúng tôi, vì cái ông Mô-sê, người đã đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho ông ta. 41 Trong những ngày ấy, họ đã làm tượng một con bê, họ dâng lễ tế cho ngẫu tượng ấy và ăn mừng công trình tay họ làm ra. 42 Bấy giờ Thiên Chúa xoay mặt họ đi, và để mặc họ thờ thiên binh, như có lời chép trong sách các ngôn sứ:

Hỡi nhà Ít-ra-en, bốn mươi năm trường trong sa mạc,

các ngươi có dâng lên Ta vật hy sinh và lễ tế nào đâu?

43 Các ngươi đã kiệu lều của thần Mô-lóc

và ngôi sao của thần Rê-phan,

là những ảnh tượng các ngươi đã làm ra để thờ;

nên Ta đã đày các ngươi tới bên kia Ba-by-lon.

44 “Khi ở trong sa mạc, cha ông chúng ta có Lều chứng ước, như Đấng phán với ông Mô-sê đã truyền phải làm theo kiểu mẫu ông đã thấy. 45 Lều ấy, cha ông chúng ta đã kế thừa, và đã cùng với ông Giô-suê, đem vào đất chiếm được của các dân ngoại mà Thiên Chúa đã đuổi đi khuất mắt các ông. Lều ở lại đó cho đến thời vua Đa-vít. 46 Vua này đẹp lòng Thiên Chúa và đã xin được tìm một ngôi nhà cho Thiên Chúa của Gia-cóp. 47 Nhưng chính vua Sa-lô-môn mới xây nhà cho Người. 48 Tuy nhiên, Đấng Tối Cao không ở trong những ngôi nhà do tay người phàm làm ra, như lời ngôn sứ đã nói:

49 Chúa phán: Trời là ngai của Ta,

còn đất là bệ dưới chân Ta.

Các ngươi sẽ xây cho Ta nhà nào,

và nơi nào sẽ là chốn Ta nghỉ ngơi

50 Chẳng phải chính tay Ta đã làm nên mọi sự ấy sao?

51 “Hỡi những người cứng đầu cứng cổ, lòng và tai không cắt bì, các ông luôn luôn chống lại Thánh Thần. Cha ông các ông thế nào, thì các ông cũng vậy. 52 Có ngôn sứ nào mà cha ông các ông không bắt bớ? Họ đã giết những vị tiên báo Đấng Công Chính sẽ đến; còn các ông, nay đã trở thành những kẻ phản bội và sát hại Đấng ấy. 53 Các ông là những người đã lãnh nhận Lề Luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ.”

54 Khi nghe những lời ấy, lòng họ giận điên lên, và họ nghiến răng căm thù ông Tê-pha-nô.

Ông Tê-pha-nô bị ném đá. Ông Sao-lô bắt đạo

55 Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giê-su đứng bên hữu Thiên Chúa. 56 Ông nói: ”Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.” 57 Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông58 rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Sao-lô. 59 Họ ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin rằng: ”Lạy Chúa Giê-su, xin nhận lấy hồn con.” 60 Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: ”Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này.” Nói thế rồi, ông an nghỉ.

Chương 8

1 Phần ông Sao-lô, ông tán thành việc giết ông Tê-pha-nô.

Hồi ấy, Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem trải qua một cơn bắt bớ dữ dội. Ngoài các Tông Đồ ra, mọi người đều phải tản mác về các vùng quê miền Giu-đê và Sa-ma-ri.

2 Có mấy người sùng đạo chôn cất ông Tê-pha-nô và khóc thương ông thảm thiết.

3 Còn ông Sao-lô thì cứ phá hoại Hội Thánh: ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục.

Ông Phi-líp-phê đến Sa-ma-ri

4 Vậy những người phải tản mác này đi khắp nơi loan báo lời Chúa.

5 Ông Phi-líp-phê xuống một thành miền Sa-ma-ri và rao giảng Đức Ki-tô cho dân cư ở đó. 6 Đám đông một lòng chú ý đến những điều ông Phi-líp-phê giảng, bởi được nghe đồn và được chứng kiến những dấu lạ ông làm. 7 Thật vậy, các thần ô uế vừa kêu lớn tiếng vừa xuất khỏi nhiều người trong số những kẻ bị chúng ám. Nhiều người tê bại và tàn tật được chữa lành. 8 Trong thành, người ta rất vui mừng.

Thầy phù thủy Si-môn

9 Trong thành ấy, có một người tên là Si-môn, vốn dùng phù phép làm cho dân Sa-ma-ri kinh ngạc. Ông ta xưng mình là một nhân vật quan trọng, 10 và mọi người từ nhỏ đến lớn đều chú ý đến ông. Họ nói: ”Ông này là Quyền năng của Thiên Chúa, Quyền năng được gọi là “Vĩ đại".” 11 Họ chú ý đến ông, vì từ khá lâu ông đã dùng phù phép làm cho họ kinh ngạc. 12 Nhưng khi họ tin lời ông Phi-líp-phê loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa và về danh Đức Giê-su Ki-tô, thì họ đã chịu phép rửa, có cả đàn ông lẫn đàn bà. 13 Cả ông Si-môn nữa cũng đã tin theo, và sau khi chịu phép rửa, ông cứ theo sát ông Phi-líp-phê, và kinh ngạc vì được thấy các dấu lạ và các phép mầu vĩ đại xảy ra.

14 Các Tông Đồ ở Giê-ru-sa-lem nghe biết dân miền Sa-ma-ri đã đón nhận lời Thiên Chúa, thì cử ông Phê-rô và ông Gio-an đến với họ. 15 Khi đến nơi, hai ông cầu nguyện cho họ, để họ nhận được Thánh Thần. 16 Vì Thánh Thần chưa ngự xuống một ai trong nhóm họ: họ mới chỉ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su. 17 Bấy giờ hai ông đặt tay trên họ, và họ nhận được Thánh Thần.

18 Ông Si-môn thấy khi các Tông Đồ đặt tay, thì Thánh Thần được ban xuống, nên ông đem tiền đến biếu các ông 19 và nói: ”Xin cũng ban quyền ấy cho tôi nữa, để tôi đặt tay cho ai thì người ấy nhận được Thánh Thần.” 20 Nhưng ông Phê-rô đáp: ”Tiền bạc của anh tiêu tan luôn với anh cho rồi, vì anh tưởng có thể lấy tiền mà mua ân huệ của Thiên Chúa! 21 Chẳng có phần chia cho anh, cũng chẳng có phần thừa kế trong việc này đâu, vì lòng anh không ngay thẳng trước mặt Thiên Chúa. 22 Vậy anh hãy sám hối về việc xấu ấy của anh, và cầu xin Chúa, may ra Người sẽ tha cho anh tội đã nghĩ như thế trong lòng. 23 Thật vậy, tôi thấy anh đang ứ đầy mật đắng và đang bị tội ác trói buộc.” 24 Ông Si-môn thưa: ”Xin hai ông cầu cùng Chúa cho tôi, để không điều nào trong những điều các ông đã nói giáng xuống trên tôi.”

25 Sau khi đã long trọng làm chứng và nói lời Chúa, hai Tông Đồ trở về Giê-ru-sa-lem và loan Tin Mừng cho nhiều làng miền Sa-ma-ri.

Ông Phi-líp-phê làm phép rửa cho một viên thái giám

26 Thiên sứ của Chúa nói với ông Phi-líp-phê: ”Đứng lên, đi về hướng nam, theo con đường từ Giê-ru-sa-lem xuống Ga-da; con đường này vắng.” 27 Ông đứng lên đi. Khi ấy có một viên thái giám người Ê-thi-óp, làm quan lớn trong triều của bà Can-đa-kê, nữ hoàng nước Ê-thi-óp. Ông này làm tổng quản kho bạc của bà. Ông đã lên Giê-ru-sa-lem hành hương 28 và bấy giờ đang trên đường về. Ngồi trên xe nhà, ông đọc sách ngôn sứ I-sai-a. 29 Thần Khí nói với ông Phi-líp-phê: ”Tiến lên, đuổi kịp xe đó.” 30 Ông Phi-líp-phê chạy lại, nghe thấy ông kia đọc sách ngôn sứ I-sai-a, thì hỏi: ”Ngài có hiểu điều ngài đọc không?” 31 Ông quan đáp: ”Mà làm sao tôi hiểu được, nếu không có người dẫn giải?” Rồi ông mời ông Phi-líp-phê lên ngồi với mình. 32 Đoạn Kinh Thánh ông đang đọc là đoạn này: Như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Người chẳng mở miệng kêu ca. 33 Bởi Người bị hạ xuống, nên bản án của Người đã được huỷ bỏ. Dòng dõi Người, ai sẽ kể lại, vì cuộc sống của Người trên trần gian đã bị chấm dứt.

34 Viên thái giám ngỏ lời với ông Phi-líp-phê: ”Xin ông cho biết: vị ngôn sứ nói thế về ai? Về chính mình hay về một ai khác?” 35 Ông Phi-líp-phê lên tiếng, và khởi từ đoạn Kinh Thánh ấy mà loan báo Tin Mừng Đức Giê-su cho ông.

36 Dọc đường, các ông tới một chỗ có nước, viên thái giám mới nói: ”Sẵn nước đây, có gì ngăn trở tôi chịu phép rửa không?” 37 Ông Phi-líp-phê đáp: ”Nếu ngài tin hết lòng, thì được.” Viên thái giám thưa: ”Tôi tin Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa.” 38 Ông truyền dừng xe lại. Ông Phi-líp-phê và viên thái giám, cả hai cùng xuống chỗ có nước, và ông Phi-líp-phê làm phép rửa cho ông quan. 39 Khi hai ông lên khỏi nước, Thần Khí Chúa đem ông Phi-líp-phê đi mất, và viên thái giám không còn thấy ông nữa. Nhưng ông tiếp tục cuộc hành trình, lòng đầy hoan hỷ. 40 Còn ông Phi-líp-phê thì người ta gặp thấy ở Át-đốt. Ông loan báo Tin Mừng cho mọi thành thị ông đi qua, cho tới khi đến Xê-da-rê.

Chương 9

Ông Sao-lô được kêu gọi làm Tông Đồ (Cv 22:5-16; 26:9-18 )

1 Ông Sao-lô vẫn còn hằm hằm đe doạ giết các môn đệ Chúa, nên đã tới gặp thượng tế 2 xin thư giới thiệu đến các hội đường ở Đa-mát, để nếu thấy những người theo Đạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Giê-ru-sa-lem.

3 Vậy đang khi ông đi đường và đến gần Đa-mát, thì bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. 4 Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với ông: ”Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” 5 Ông nói: ”Thưa Ngài, Ngài là ai?” Người đáp: ”Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ. 6 Nhưng ngươi hãy đứng dậy, vào thành, và người ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì.” 7 Những người cùng đi với ông dừng lại, sững sờ: họ nghe có tiếng nói, nhưng không trông thấy ai. 8 Ông Sao-lô từ dưới đất đứng dậy, mắt thì mở nhưng không thấy gì. Người ta phải cầm tay dắt ông vào Đa-mát. 9 Suốt ba ngày, ông không nhìn thấy, cũng chẳng ăn, chẳng uống.

10 Bấy giờ ở Đa-mát có một môn đệ tên là Kha-na-ni-a. Trong một thị kiến, Chúa phán với ông: ”Kha-na-ni-a!” Ông thưa: ”Dạ, lạy Chúa, con đây.” 11 Chúa bảo ông: ”Đứng lên, đi tới phố gọi là Phố Thẳng, đến nhà Giu-đa tìm một người tên là Sao-lô quê ở Tác-xô: người ấy đang cầu nguyện 12 và thấy một người tên là Kha-na-ni-a đi vào, đặt tay trên mình để làm cho mình lại thấy được.” 13 Ông Kha-na-ni-a thưa: ”Lạy Chúa, con đã nghe lắm kẻ nói về người ấy, về tất cả những điều ác người ấy đã làm cho dân thánh Chúa tại Giê-ru-sa-lem. 14 Còn ở đây, người ấy được các thượng tế cho quyền bắt trói tất cả những ai kêu cầu danh Chúa.” 15 Nhưng Chúa phán với ông: ”Cứ đi, vì người ấy là lợi khí Ta chọn để mang danh Ta đến trước mặt các dân ngoại, các vua chúa và con cái Ít-ra-en. 16 Thật vậy, chính Ta sẽ chỉ cho người ấy thấy tất cả những đau khổ người ấy phải chịu vì danh Ta.” 17 Ông Kha-na-ni-a liền đi; ông vào nhà, đặt tay trên ông Sao-lô và nói: ”Anh Sa-un, Chúa đã sai tôi đến đây, Người là Đức Giê-su, Đấng đã hiện ra với anh trên đường anh tới đây. Người sai tôi đến để anh lại thấy được và để anh được đầy Thánh Thần.” 18 Lập tức có những cái gì như vảy bong ra khỏi mắt ông Sao-lô, và ông lại thấy được. Ông đứng dậy và chịu phép rửa. 19 Rồi ông ăn và khoẻ lại.

Ông Sao-lô rao giảng tại Đa-mát

20 rồi lập tức ông bắt đầu rao giảng Đức Giê-su trong các hội đường, rằng Người là Con Thiên Chúa. 21 Mọi người nghe ông giảng đều kinh ngạc và nói: ”Ông này chẳng phải là người ở Giê-ru-sa-lem vẫn tiêu diệt những ai kêu cầu danh Giê-su sao? Chẳng phải ông đã đến đây với mục đích bắt trói họ giải về cho các thượng tế sao?” 22 Nhưng ông Sao-lô càng thêm vững mạnh, và ông làm cho người Do-thái ở Đa-mát phải bẽ mặt, khi minh chứng rằng Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a.

23 Sau một thời gian khá lâu, người Do-thái cùng nhau bàn kế giết ông Sao-lô; 24 nhưng ông biết được âm mưu của họ. Thậm chí người ta canh giữ các cửa thành ngày đêm, để giết ông. 25 Nhưng ban đêm, các môn đệ ông đã đưa ông qua tường thành bằng cách đặt ông ngồi trong một cái thúng rồi dòng dây thả xuống.

Ông Sao-lô tới thăm Giê-ru-sa-lem

26 Khi tới Giê-ru-sa-lem, ông Sao-lô tìm cách nhập đoàn với các môn đệ. Nhưng mọi người vẫn còn sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ. 27 Ông Ba-na-ba liền đứng ra bảo lãnh đưa ông Sao-lô đến gặp các Tông Đồ, và tường thuật cho các ông nghe chuyện ông ấy được thấy Chúa hiện ra trên đường và phán dạy làm sao, cũng như việc ông ấy đã mạnh dạn rao giảng nhân danh Đức Giê-su tại Đa-mát thế nào. 28 Từ đó ông Sao-lô cùng với các Tông Đồ đi lại hoạt động tại Giê-ru-sa-lem. Ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa. 29 Ông thường đàm đạo và tranh luận với những người Do-thái theo văn hoá Hy-lạp. Nhưng họ tìm cách giết ông. 30 Các anh em biết thế, liền dẫn ông xuống Xê-da-rê và tiễn ông lên đường về Tác-xô.

Thời kỳ yên ổn

31 Hồi ấy, trong khắp miền Giu-đê, Ga-li-lê và Sa-ma-ri, Hội Thánh được bình an, được xây dựng vững chắc và sống trong niềm kính sợ Chúa, và ngày một thêm đông, nhờ Thánh Thần nâng đỡ.

Ông Phê-rô chữa một người tê bại ở Lốt

32 Bấy giờ ông Phê-rô rảo khắp nơi, xuống thăm cả dân thánh cư ngụ tại Lốt. 33 Nơi đây ông gặp thấy một người tên là Ê-nê liệt giường đã tám năm, vì anh bị tê bại. 34 Ông Phê-rô nói với anh ta: ”Anh Ê-nê, Đức Giê-su Ki-tô chữa anh khỏi. Anh hãy đứng dậy và tự dọn giường lấy.” Lập tức anh đứng dậy. 35 Tất cả những người cư ngụ ở Lốt và đồng bằng Sa-ron thấy anh, và họ trở lại cùng Chúa.

Ông Phê-rô làm cho một người chết sống lại

36 Ở Gia-phô, trong số các môn đệ có một bà tên là Ta-bi-tha, có nghĩa là Linh Dương. Bà này đầy công đức vì những việc lành và bố thí bà đã làm. 37 Trong những ngày ấy, bà mắc bệnh và qua đời. Người ta tắm xác cho bà và đặt ở lầu trên. 38 Vì Lốt gần Gia-phô, nên khi các môn đệ nghe biết ông Phê-rô ở đó, liền cử hai người đến mời: ”Xin ông đến với chúng tôi, đừng trì hoãn.”

39 Ông Phê-rô đứng dậy cùng đi với họ. Tới nơi, người ta đưa ông lên lầu trên. Các bà goá xúm lại quanh ông, vừa khóc vừa cho ông xem những áo dài và áo choàng bà Linh Dương đã may khi còn sống với họ. 40 Ông Phê-rô cho mọi người ra ngoài, rồi quỳ xuống cầu nguyện. Sau đó, ông quay lại về phía thi hài và ra lệnh: ”Bà Ta-bi-tha, hãy đứng dậy!” Bà ấy mở mắt ra, và khi thấy ông Phê-rô, liền ngồi dậy. 41 Ông đưa tay đỡ bà đứng dậy, rồi gọi dân thánh và các bà goá lại và cho thấy bà đang sống. 42 Cả thành Gia-phô đều biết việc này, và có nhiều người tin vào Chúa.

43 Ông Phê-rô ở lại Gia-phô khá lâu, tại nhà một người thợ thuộc da tên là Si-môn.

Chương 10

Ông Phê-rô tới nhà một viên đại đội trưởng người Rô-ma

1 Ở Xê-da-rê có một người tên là Co-nê-li-ô làm đại đội trưởng thuộc cơ đội gọi là cơ đội I-ta-li-a. 2 Ông là người đạo đức và kính sợ Thiên Chúa, cũng như cả nhà ông; ông rộng tay cứu trợ dân và luôn luôn cầu nguyện cùng Thiên Chúa.

3 Một hôm, vào khoảng giờ thứ chín, trong một thị kiến ông thấy rõ ràng một thiên sứ của Thiên Chúa vào nhà ông và nói: ”Co-nê-li-ô!”4 Ông nhìn thẳng vào thiên sứ và phát sợ, ông nói: ”Thưa ngài, có việc chi vậy?” Thiên sứ đáp: ”Lời cầu nguyện và việc cứu trợ của ông đã thấu toà Thiên Chúa khiến Người nhớ đến ông. 5 Vậy bây giờ ông hãy sai người đi Gia-phô mời một người tên là Si-môn, cũng gọi là Phê-rô. 6 Ông ấy trọ tại nhà một người thợ thuộc da tên là Si-môn, ở gần bờ biển.” 7 Khi vị thiên sứ nói với ông Co-nê-li-ô vừa đi khỏi, ông gọi hai người nhà và một người lính đạo đức trong số những người vẫn ở dưới quyền ông. 8 Ông kể cho họ nghe tất cả sự việc, rồi sai họ đi Gia-phô.

9 Hôm sau, đang khi họ đi đường và đến gần Gia-phô, thì ông Phê-rô lên sân thượng cầu nguyện; lúc đó, vào khoảng giờ thứ sáu. 10 Ông thấy đói và muốn ăn. Đang khi người ta dọn bữa thì ông xuất thần. 11 Ông thấy trời mở ra và một vật gì sà xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, đang được thả xuống đất. 12 Trong đó có mọi giống vật bốn chân và rắn rết sống trên đất, cùng mọi thứ chim trời. 13 Có tiếng phán bảo ông: ”Phê-rô, đứng dậy, làm thịt mà ăn!”14 Ông Phê-rô thưa: ”Lạy Chúa, không thể được, vì không bao giờ con ăn những gì ô uế và không thanh sạch.” 15 Lại có tiếng phán bảo ông lần thứ hai: ”Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch, thì ngươi chớ gọi là ô uế.” 16 Việc ấy xảy ra đến ba lần, và lập tức vật ấy được đưa lên trời.

17 Ông Phê-rô còn đang phân vân tự hỏi thị kiến ông vừa thấy có ý nghĩa gì, thì những người ông Co-nê-li-ô sai đi đã hỏi ra được nhà ông Si-môn, và họ đang đứng trước cổng. 18 Họ lớn tiếng hỏi có phải ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, trọ ở đấy không. 19 Ông Phê-rô vẫn còn phân vân về thị kiến, thì Thần Khí bảo ông: ”Kìa có ba người đang tìm ngươi. 20 Đứng lên, xuống mà đi với họ, đừng ngần ngại gì, vì chính Ta đã sai họ đến.” 21 Ông Phê-rô xuống với những người ấy và nói: ”Tôi đây chính là người các ông đang tìm. Vì lý do nào các ông đến đây?” 22 Họ đáp: ”Ông đại đội trưởng Co-nê-li-ô, một người công chính, kính sợ Thiên Chúa và được toàn dân Do-thái chứng nhận là tốt, đã được một thánh thiên sứ linh báo là phải cho mời ông đến nhà, để được nghe các lời ông dạy.” 23 Ông Phê-rô liền rước họ vào và mời họ nghỉ lại.

24 Hôm sau nữa, ông vào Xê-da-rê. Bấy giờ ông Co-nê-li-ô đang đợi; ông đã cho mời thân bằng quyến thuộc đến. 25 Khi ông Phê-rô bước vào, thì ông Co-nê-li-ô liền ra đón và phủ phục dưới chân ông mà bái lạy. 26 Nhưng ông Phê-rô đỡ ông ấy lên và nói: ”Xin ông đứng dậy, vì bản thân tôi đây cũng chỉ là người phàm.” 27 Rồi ông vừa nói chuyện với ông Co-nê-li-ô, vừa đi vào. Thấy có đông người tụ họp ở đó, 28 ông nói với họ: ”Quý vị thừa biết: giao du hay vào nhà một người khác chủng tộc là điều cấm kỵ đối với người Do-thái. Nhưng tôi thì Thiên Chúa đã cho tôi thấy là không được gọi ai là ô uế hay không thanh sạch. 29 Vì thế khi được mời, tôi đã đến mà không hề chống cãi. Vậy tôi xin hỏi: vì lẽ nào quý vị đã mời tôi đến?” 30 Ông Co-nê-li-ô trả lời: ”Cách đây bốn hôm, vào khoảng giờ này, lúc tôi đang đọc kinh giờ chín tại nhà, bỗng có một người đứng trước mặt tôi, y phục rực rỡ. 31 Người ấy nói với tôi: ”Ông Co-nê-li-ô, Thiên Chúa đã nhận lời cầu nguyện của ông và nhớ đến việc cứu trợ của ông. 32 Vậy ông hãy sai người đi Gia-phô mời ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô; ông ấy trọ tại nhà ông Si-môn, thợ thuộc da, ở gần bờ biển. 33 Lập tức tôi đã sai người đến mời ông, và ông đã có lòng tốt đến đây. Vậy bây giờ tất cả chúng tôi đang ở trước mặt Thiên Chúa, để nghe tất cả những gì Người đã truyền cho ông.”

Ông Phê-rô giảng tại nhà ông Co-nê-li-ô

34 Bấy giờ ông Phê-rô lên tiếng nói: ”Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. 35 Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận.

36 “Người đã gửi đến cho con cái nhà Ít-ra-en lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, là Chúa của mọi người. 37 Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giu-đê, bắt đầu từ miền Ga-li-lê, sau phép rửa mà ông Gio-an rao giảng. 38 Quý vị biết rõ: Đức Giê-su xuất thân từ Na-da-rét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người. 39 Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giê-ru-sa-lem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. 40 Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, 41 không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại. 42 Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. 43 Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội.”

Ông Phê-rô làm phép rửa cho những người ngoại đầu tiên

44 Ông Phê-rô còn đang nói những điều đó, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa. 45 Những tín hữu thuộc giới cắt bì cùng đến đó với ông Phê-rô đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại nữa, 46 bởi họ nghe những người này nói các thứ tiếng và tán dương Thiên Chúa. Bấy giờ ông Phê-rô nói rằng: 47 “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” 48 Rồi ông truyền làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giê-su Ki-tô. Sau đó họ xin ông ở lại ít ngày.

Chương 11

Ông Phê-rô tự biện minh ở Giê-ru-sa-lem

1 Các Tông Đồ và các anh em ở miền Giu-đê nghe tin là cả dân ngoại cũng đã đón nhận lời Thiên Chúa. 2 Khi ông Phê-rô lên Giê-ru-sa-lem, các người thuộc giới cắt bì chỉ trích ông, 3 họ nói: ”Ông đã vào nhà những kẻ không cắt bì và cùng ăn uống với họ!”4 Bấy giờ ông Phê-rô bắt đầu trình bày cho họ đầu đuôi sự việc, ông nói: 5 “Tôi đang cầu nguyện tại thành Gia-phô, thì trong lúc xuất thần, tôi thấy thị kiến này: có một vật gì sà xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, từ trời thả xuống đến tận chỗ tôi. 6 Nhìn chăm chú và xem xét kỹ, tôi thấy các giống vật bốn chân sống trên đất, các thú rừng, rắn rết và chim trời. 7 Và tôi nghe có tiếng phán bảo tôi: ”Phê-rô, đứng dậy, làm thịt mà ăn! 8 Tôi đáp: ”Lạy Chúa, không thể được, vì những gì ô uế và không thanh sạch không bao giờ lọt vào miệng con! 9 Có tiếng từ trời phán lần thứ hai: ”Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch, thì ngươi chớ gọi là ô uế! 10 Việc ấy xảy ra đến ba lần, rồi tất cả lại được kéo lên trời.

11 “Ngay lúc đó, có ba người đến nhà chúng tôi ở: họ được sai từ Xê-da-rê đến gặp tôi. 12 Thần Khí bảo tôi đi với họ, đừng ngần ngại gì. Có sáu anh em đây cùng đi với tôi. Chúng tôi đã vào nhà ông Co-nê-li-ô. 13 Ông này thuật lại cho chúng tôi nghe việc ông đã thấy thiên sứ đứng trong nhà ông và bảo: ”Hãy sai người đi Gia-phô mời ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô. 14 Ông ấy sẽ nói với ông những lời nhờ đó ông và cả nhà ông sẽ được cứu độ.

15 “Tôi vừa mới bắt đầu nói, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên họ, như đã ngự xuống trên chúng ta lúc ban đầu. 16 Tôi sực nhớ lại lời Chúa nói rằng: ”Ông Gio-an thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì sẽ được rửa trong Thánh Thần. 17 Vậy, nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giê-su Ki-tô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa?”

18 Nghe thế, họ mới chịu im, và họ tôn vinh Thiên Chúa mà nói: ”Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho các dân ngoại ơn sám hối để được sự sống!”

Thành lập Hội Thánh An-ti-ô-khi-a

19 Vậy những người phải tản mác vì cuộc bách hại xảy ra nhân vụ ông Tê-pha-nô, đi đến tận miền Phê-ni-xi, đảo Sýp và thành An-ti-ô-khi-a. Họ không rao giảng lời Chúa cho ai ngoài người Do-thái. 20 Nhưng trong nhóm, có mấy người gốc Sýp và Ky-rê-nê; những người này, khi đến An-ti-ô-khi-a, đã giảng cho cả người Hy-lạp nữa, loan Tin Mừng Chúa Giê-su cho họ. 21 Vì có bàn tay Chúa ở với họ, nên một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa.

22 Tin ấy đến tai Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem, nên người ta cử ông Ba-na-ba đi An-ti-ô-khi-a. 23 Khi tới nơi và thấy ơn Thiên Chúa như vậy, ông Ba-na-ba mừng rỡ và khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa, 24 vì ông là người tốt, đầy ơn Thánh Thần và lòng tin. Và đã có thêm một đám rất đông theo Chúa.

25 Ông Ba-na-ba trẩy đi Tác-xô tìm ông Sao-lô. 26 Tìm được rồi, ông đưa ông Sao-lô đến An-ti-ô-khi-a. Hai ông cùng làm việc trong Hội Thánh ấy suốt một năm và giảng dạy cho rất nhiều người. Chính tại An-ti-ô-khi-a mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Ki-tô hữu.

Ông Ba-na-ba và ông Sao-lô được cử đi Giê-ru-sa-lem

27 Trong những ngày ấy, có những ngôn sứ từ Giê-ru-sa-lem xuống An-ti-ô-khi-a. 28 Một trong những người ấy tên là A-ga-bô đứng lên và được Thần Khí soi sáng, báo trước là sẽ có nạn đói lớn trong khắp cả thiên hạ; đó là nạn đói xảy ra dưới thời hoàng đế Cơ-lau-đi-ô. 29 Các môn đệ mới quyết định là mỗi người tuỳ theo khả năng, sẽ gửi quà giúp đỡ anh em ở miền Giu-đê. 30 Và họ đã làm việc ấy: gửi đến cho hàng kỳ mục qua tay ông Ba-na-ba và ông Sao-lô.

Chương 12

Ông Phê-rô bị bắt và được cứu cách lạ lùng

1 Thời kỳ ấy, vua Hê-rô-đê ra tay ngược đãi một số người trong Hội Thánh. 2 Nhà vua đã cho chém đầu ông Gia-cô-bê là anh ông Gio-an. 3 Thấy việc đó làm vừa lòng người Do-thái, nhà vua lại cho bắt cả ông Phê-rô nữa. Bấy giờ đang là tuần lễ Bánh Không Men. 4 Bắt được rồi, nhà vua truyền tống ngục và giao cho bốn tốp lính canh gác, mỗi tốp gồm bốn người, định sau lễ Vượt Qua sẽ điệu ông ra cho dân chúng. 5 Đang khi ông Phê-rô bị giam giữ như thế, thì Hội Thánh không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông.

6 Trong đêm trước ngày bị vua Hê-rô-đê đem ra xử, ông Phê-rô ngủ giữa hai người lính, và bị khoá vào hai cái xiềng. Trước cửa ngục lại có lính canh. 7 Bỗng thiên sứ của Chúa đứng bên cạnh ông, và ánh sáng chói rực cả phòng giam. Thiên sứ đập vào cạnh sườn ông Phê-rô, đánh thức ông và bảo: ”Đứng dậy mau đi!” Xiềng xích liền tuột khỏi tay ông. 8 Thiên sứ nói tiếp: ”Thắt lưng lại và xỏ dép vào!” Ông làm như vậy. Rồi thiên sứ lại bảo ông: ”Khoác áo choàng vào và đi theo tôi!”9 Ông liền theo ra, mà không biết việc thiên sứ làm đó có thật hay không, cứ tưởng là mình thấy một thị kiến. 10 Qua vọng canh thứ nhất, rồi vọng canh thứ hai, thiên sứ và ông tới trước cửa sắt thông ra phố. Cửa tự động mở ra trước mặt hai người. Ra đến ngoài, đi hết một đường phố, thì bỗng nhiên thiên sứ bỏ ông mà đi. 11 Lúc ấy ông Phê-rô mới hoàn hồn và nói: ”Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Hê-rô-đê, và khỏi mọi điều dân Do-thái mong muốn tôi phải chịu.”

12 Ý thức được như vậy, ông đi đến nhà bà Ma-ri-a, mẹ của ông Gio-an, cũng gọi là Mác-cô; ở đó có khá đông người đang tụ họp và cầu nguyện. 13 Ông đập cổng thì có một người tớ gái tên là Rô-đê ra nghe ngóng. 14 Nhận ra tiếng ông Phê-rô, cô mừng quýnh, không mở cổng, mà lại chạy vào báo tin ông Phê-rô đang đứng ngoài cổng. 15 Người ta bảo cô: ”Đồ khùng!” Nhưng cô ấy cứ quả quyết là đúng như vậy. Họ nói: ”Thiên sứ của ông ấy đấy!”16 Trong khi đó, ông Phê-rô tiếp tục đập cổng. Mở cổng ra, thấy ông, họ kinh ngạc. 17 Ông giơ tay làm hiệu bảo họ im lặng, rồi kể cho họ nghe Chúa đã đưa ông ra khỏi tù thế nào. Ông nói: ”Xin báo tin này cho ông Gia-cô-bê và cho các anh em.” Rồi ông ra đi, đến một nơi khác.

18 Sáng ra, bọn lính nhốn nháo không ít: ông Phê-rô đã ra sao rồi? 19Vua Hê-rô-đê cho truy nã ông: bởi không tìm ra, nhà vua tra hỏi lính canh và ra lệnh điệu họ đi xử. Rồi nhà vua bỏ miền Giu-đê xuống ở Xê-da-rê.

Cái chết của vua Hê-rô-đê

20 Nhà vua đang tức tối với dân thành Tia và Xi-đôn. Họ đồng tâm nhất trí đến yết kiến nhà vua. Sau khi đã mua chuộc được quan thị vệ của vua là Bơ-lát-tô, họ cầu hoà, vì lãnh thổ của họ phải nhờ lãnh thổ của nhà vua cung cấp lương thực. 21 Đến ngày hẹn, vua Hê-rô-đê mặc cẩm bào, ngồi trên ngai, ngỏ lời với họ. 22 Dân hoan hô: ”Tiếng thần minh, chứ không phải tiếng người phàm!”23 Nhưng ngay lúc đó, thiên sứ của Chúa đánh phạt nhà vua, vì nhà vua đã không tôn vinh Thiên Chúa. Nhà vua bị giòi bọ rúc rỉa nên đã tắt thở.

Ông Ba-na-ba và ông Sao-lô trở về An-ti-ô-khi-a

24 Trong khi ấy, lời Thiên Chúa vẫn lan tràn và phát triển. 25 Còn ông Ba-na-ba và ông Sao-lô, sau khi đã chu toàn công việc phục vụ tại Giê-ru-sa-lem thì trở về, đem theo ông Gio-an, cũng gọi là Mác-cô.

Chương 13

III. CUỘC HÀNH TRÌNH TRUYỀN GIÁO CỦA ÔNG BA-NA-BA VÀ ÔNG SAO-LÔ. CÔNG ĐỒNG GIÊ-RU-SA-LEM

Ông Ba-na-ba và ông Sao-lô được cử đi truyền giáo

1 Trong Hội Thánh tại An-ti-ô-khi-a, có những ngôn sứ và thầy dạy, đó là các ông Ba-na-ba, Si-mê-ôn biệt hiệu là Đen, Lu-ki-ô người Ky-rê-nê, Ma-na-en, bạn thời thơ ấu của tiểu vương Hê-rô-đê, và Sao-lô. 2 Một hôm, đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo: ”Hãy dành riêng Ba-na-ba và Sao-lô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm.” 3 Bấy giờ họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi.

Thầy phù thủy Ê-ly-ma tại đảo Sýp

4 Vậy, được Thánh Thần sai đi, hai ông xuống Xê-lêu-ki-a, rồi từ đó đáp tàu đi đảo Sýp. 5 Đến Xa-la-min, hai ông loan báo lời Thiên Chúa trong các hội đường người Do-thái. Có ông Gio-an giúp hai ông.

6 Các ông đi xuyên qua đảo đến Pa-phô; ở đây các ông gặp một người phù thuỷ, mạo xưng là ngôn sứ; ông này là người Do-thái, tên là Ba-giê-su. 7 Ông ta ở với thống đốc Xéc-ghi-ô Phao-lô, một người thông minh. Thống đốc cho mời ông Ba-na-ba và ông Sao-lô đến và ước ao được nghe lời Thiên Chúa. 8 Nhưng người phù thủy ấy, tên Hy-lạp là Ê-ly-ma, chống lại hai ông và tìm cách ngăn cản thống đốc tin Chúa. 9 Bấy giờ ông Sao-lô, cũng gọi là Phao-lô, được đầy Thánh Thần, nhìn thẳng vào người phù thuỷ, 10 và nói: ”Hỡi kẻ đầy mọi thứ mưu mô và mọi trò xảo trá, hỡi con cái ma quỷ và kẻ thù của tất cả những gì là công chính, ngươi không bỏ thói bẻ cong những đường lối ngay thẳng của Chúa sao? 11 Giờ đây, này bàn tay Chúa giáng xuống trên ngươi: ngươi sẽ bị mù, không thấy ánh sáng mặt trời trong một thời gian.” Lập tức, mù loà và tối tăm ập xuống trên người phù thuỷ, và ông ta phải lần mò tìm người dắt. 12 Bấy giờ, thấy việc xảy ra, thống đốc liền tin theo, vì ông rất đỗi ngạc nhiên về giáo huấn của Chúa.

Hai ông đến An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a

13 Từ Pa-phô, ông Phao-lô và các bạn đồng hành vượt biển đến Péc-ghê miền Pam-phy-li-a. Nhưng ông Gio-an bỏ các ông mà về Giê-ru-sa-lem. 14 Còn hai ông thì rời Péc-ghê tiếp tục đi An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a. Ngày sa-bát, hai ông vào hội đường ngồi tham dự. 15 Sau phần đọc sách Luật và sách Các Ngôn Sứ, các trưởng hội đường cho người đến nói với hai ông: ”Thưa anh em, nếu anh em muốn khuyên nhủ dân điều gì, xin cứ nói.”

Ông Phao-lô giảng cho người Do-thái

16 Ông Phao-lô đứng dậy, giơ tay xin mọi người lưu ý, rồi nói:

17 Thiên Chúa của dân Ít-ra-en đã chọn cha ông chúng ta, đã làm cho dân này thành một dân lớn trong thời họ cư ngụ ở đất Ai-cập, và đã giơ cánh tay mạnh mẽ của Người mà đem họ ra khỏi đó. 18 Và trong thời gian chừng bốn mươi năm, Người đã nuôi dưỡng họ trong sa mạc. 19 Rồi Người đã tiêu diệt bảy dân tộc ở đất Ca-na-an và ban đất của chúng cho họ làm gia sản: 20 tất cả đã xảy ra trong khoảng bốn trăm năm mươi năm. Sau đó, Người ban cho họ các vị thủ lãnh cho đến thời ngôn sứ Sa-mu-en. 21 Rồi họ đòi có vua, Thiên Chúa ban cho họ ông Sa-un, con ông Kít thuộc chi tộc Ben-gia-min, trị vì bốn mươi năm. 22 Sau khi truất phế vua Sa-un, Người đã cho ông Đa-vít xuất hiện làm vua cai trị họ. Người đã làm chứng về ông rằng: Ta đã tìm được Đa-vít, con của Gie-sê, một người đẹp lòng Ta và sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta. 23 Từ dòng dõi vua này, theo lời hứa, Thiên Chúa đã đưa đến cho Ít-ra-en một Đấng Cứu Độ là Đức Giê-su. 24 Để dọn đường cho Đức Giê-su, ông Gio-an đã rao giảng kêu gọi toàn dân Ít-ra-en chịu phép rửa tỏ lòng sám hối. 25 Khi sắp hoàn thành sứ mệnh, ông Gio-an đã tuyên bố: ”Tôi không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không đáng cởi dép cho Người.

26 “Thưa anh em, là con cái thuộc dòng giống Áp-ra-ham, và thưa anh em đang hiện diện nơi đây, là những người kính sợ Thiên Chúa, lời cứu độ này được gửi tới chúng ta. 27 Dân cư thành Giê-ru-sa-lem và các thủ lãnh của họ đã không nhận biết Đức Giê-su; khi kết án Người, họ đã làm cho ứng nghiệm những lời ngôn sứ đọc mỗi ngày sa-bát. 28 Tuy không thấy Người có tội gì đáng chết, họ vẫn đòi Phi-la-tô xử tử. 29 Sau khi thực hiện tất cả mọi điều Kinh Thánh chép về Người, họ đã hạ Người từ trên cây gỗ xuống và mai táng trong mồ. 30 Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết. 31 Trong nhiều ngày, Đức Giê-su đã hiện ra với những kẻ từng theo Người từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem. Giờ đây chính họ làm chứng cho Người trước mặt dân.

32 “Còn chúng tôi, chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, 33 thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Đức Giê-su sống lại, đúng như lời đã chép trong Thánh vịnh 2: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con.

34 “Về việc Người đã làm cho Đức Giê-su từ cõi chết sống lại, không còn phải hư nát nữa, thì Người phán thế này: Ta sẽ ban cho các ngươi những ơn lộc đã hứa cho Đa-vít. 35 Vì vậy ở chỗ khác, lại có lời rằng: Ngài sẽ không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát. 36 Thế mà vua Đa-vít, sau khi phục vụ ý định của Thiên Chúa trong đời ông, đã an nghỉ, đã được chôn cất bên cạnh tổ tiên và phải hư nát. 37 Còn Đấng mà Thiên Chúa đã cho trỗi dậy thì không phải hư nát.

38 “Vậy thưa anh em, xin biết cho điều này: chính nhờ Đấng ấy mà ơn tha tội được loan báo cho anh em; và trong khi anh em không thể được giải thoát khỏi tội lỗi mà trở nên công chính nhờ tuân giữ Luật Mô-sê, 39 thì nhờ Người, mọi kẻ tin đều được nên công chính.

40 “Vậy hãy coi chừng kẻo lại xảy ra điều đã nói trong sách Các Ngôn Sứ: 41 Hỡi những kẻ khinh mạn, hãy xem, hãy kinh ngạc sững sờ và biến mất đi! Vì chính vào thời các ngươi, Ta sắp làm một việc, một việc mà các ngươi sẽ chẳng tin, nếu có ai kể lại cho các ngươi.

42 Khi ông Phao-lô và ông Ba-na-ba đi ra, người ta mời hai ông lại nói về đề tài ấy ngày sa-bát sau. 43Tan buổi họp, có nhiều người Do-thái và nhiều người đạo theo, tức là những người tôn thờ Thiên Chúa, đi theo hai ông. Hai ông nói chuyện với họ và khuyên nhủ họ gắn bó với ơn Thiên Chúa.

Ông Phao-lô và ông Ba-na-ba hướng về dân ngoại

44 Ngày sa-bát sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa. 45 Thấy những đám đông như vậy, người Do-thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời ông Phao-lô nói và nhục mạ ông. 46 Bấy giờ ông Phao-lô và ông Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng: ”Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. 47 Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.”

48 Nghe thế, dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời, đều tin theo. 49 Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy.

50 Nhưng người Do-thái sách động nhóm phụ nữ hượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phao-lô và ông Ba-na-ba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. 51 Hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới I-cô-ni-ô. 52 Còn các môn đệ được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần.

Chương 14

Loan báo Tin Mừng tại I-cô-ni-ô

1 Tại I-cô-ni-ô cũng xảy ra như vậy: hai ông vào hội đường người Do-thái và giảng dạy, khiến rất đông người Do-thái và Hy-lạp tin theo.

2 Nhưng những người Do-thái không tin theo thì xúi giục những người ngoại và làm cho họ có ác cảm với các anh em.

3 Vậy hai ông ở lại một thời gian khá lâu, mạnh dạn vì dựa vào Chúa, là Đấng chứng nhận lời giảng về ân sủng của Người, khi cho tay các ông thực hiện những dấu lạ điềm thiêng.

4 Quần chúng trong thành chia rẽ, kẻ thì đứng về phía người Do-thái, kẻ thì đứng về phía các Tông Đồ. 5 Những người ngoại và những người Do-thái, cùng với các thủ lãnh của họ, mưu toan làm nhục và ném đá hai ông. 6 Biết thế, hai ông lánh sang các thành miền Ly-cao-ni-a là Lýt-ra, Đéc-bê và các vùng phụ cận; 7 và tại đó các ông tiếp tục loan báo Tin Mừng.

Ông Phao-lô chữa một người bại chân

8 Tại Lýt-ra, có một người bại hai chân ngồi đó; anh ta bị què từ khi lọt lòng mẹ, chưa hề đi được bước nào. 9 Anh nghe ông Phao-lô giảng. Ông nhìn thẳng vào anh và thấy anh có lòng tin để được cứu chữa, 10 thì lớn tiếng nói: ”Anh trỗi dậy đi, hai chân đứng thẳng!” Anh đứng phắt dậy và đi lại được.

11 Thấy việc ông Phao-lô làm, đám đông hô lên bằng tiếng Ly-cao-ni-a: ”Thần linh mặc lốt người phàm đã xuống với chúng ta!”12 Họ gọi ông Ba-na-ba là thần Dớt, ông Phao-lô là thần Héc-mê, vì ông là người phát ngôn. 13 Thầy tư tế đền thờ thần Dớt ở ngoại thành đem bò và vòng hoa đến trước cổng thành, và cùng với đám đông, muốn dâng lễ tế. 14 Nghe biết được, hai tông đồ Ba-na-ba và Phao-lô xé áo mình ra, xông vào đám đông mà kêu lên: 15 “Hỡi các bạn, các bạn làm gì thế này? Chúng tôi đây cũng chỉ là người phàm, cùng thân phận với các bạn. Chúng tôi loan Tin Mừng cho các bạn, là hãy bỏ những cái hão huyền này đi, mà trở lại cùng Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó. 16 Trong những thế hệ đã qua, Người để cho muôn dân đi theo đường lối của họ. 17 Tuy vậy Người không ngừng làm chứng cho mình, khi thi ân giáng phúc, ban mưa từ trời và mùa màng sung túc cho các bạn, và cho các bạn được no lòng, được an vui.” 18 Nói vậy mà hai ông vẫn còn phải vất vả mới can được đám đông không dâng lễ tế cho hai ông. 19 Bấy giờ có những người Do-thái từ An-ti-ô-khi-a và I-cô-ni-ô đến, thuyết phục được đám đông. Họ ném đá ông Phao-lô rồi lôi ông ra ngoài thành, vì tưởng ông đã chết. 20 Nhưng khi các môn đệ xúm lại quanh ông, ông đứng dậy và vào thành. Hôm sau, ông trẩy đi Đéc-bê cùng với ông Ba-na-ba.

21 Sau khi đã loan Tin Mừng cho thành ấy và nhận khá nhiều người làm môn đệ, hai ông trở lại Lýt-ra, I-cô-ni-ô và An-ti-ô-khi-a. 22 Hai ông củng cố tinh thần các môn đệ, và khuyên nhủ họ giữ vững đức tin. Hai ông nói: ”Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa.” 23 Trong mỗi Hội Thánh, hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục, và sau khi ăn chay cầu nguyện, hai ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin.

24 Hai ông đi qua miền Pi-xi-đi-a mà đến miền Pam-phy-li-a, 25 rao giảng lời Chúa tại Péc-ghê, rồi xuống Át-ta-li-a. 26 Từ đó hai ông vượt biển về An-ti-ô-khi-a, là nơi trước đây các ông đã được giao phó cho ân sủng của Thiên Chúa để làm công việc vừa mới hoàn thành.

27 Khi tới nơi, hai ông tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông, và việc Người đã mở cửa cho các dân ngoại đón nhận đức tin. 28 Rồi hai ông ở lại một thời gian khá lâu với các môn đệ.

Chương 15

Cuộc tranh luận tại An-ti-ô-khi-a

1 Có những người từ miền Giu-đê đến dạy anh em rằng: ”Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ.” 2 Ông Phao-lô và ông Ba-na-ba chống đối và tranh luận khá gay go với họ. Người ta bèn quyết định cử ông Phao-lô, ông Ba-na-ba và một vài người khác lên Giê-ru-sa-lem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận này.

3 Các ông được Hội Thánh tiễn đưa. Khi đi qua miền Phê-ni-xi và miền Sa-ma-ri, các ông tường thuật việc các dân ngoại đã trở lại với Thiên Chúa, khiến tất cả các anh em rất đỗi vui mừng. 4 Tới Giê-ru-sa-lem, các ông được Hội Thánh, các Tông Đồ và kỳ mục tiếp đón, và các ông kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với các ông.

Cuộc tranh luận tại Giê-ru-sa-lem

5 Có những người thuộc phái Pha-ri-sêu đã trở thành tín hữu, bấy giờ đứng ra nói rằng: ”Phải làm phép cắt bì cho người ngoại và truyền cho họ giữ luật Mô-sê.” 6 Các Tông Đồ và các kỳ mục bèn họp nhau để xem xét vụ này.

Diễn từ của ông Phê-rô

7 Sau khi các ông đã tranh luận nhiều, ông Phê-rô đứng lên nói: ”Thưa anh em, anh em biết: ngay từ những ngày đầu, Thiên Chúa đã chọn tôi giữa anh em, để các dân ngoại được nghe lời Tin Mừng từ miệng tôi và tin theo. 8 Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi tâm can đã chứng tỏ Người chấp nhận họ, khi ban Thánh Thần cho họ cũng như đã ban cho chúng ta. 9 Người không phân biệt chút nào giữa chúng ta với họ, vì đã dùng đức tin để thanh tẩy lòng họ. 10 Vậy bây giờ, sao anh em lại thử thách Thiên Chúa, mà quàng vào cổ các môn đệ một cái ách mà cả cha ông chúng ta lẫn chúng ta đã không có sức mang nổi? 11 Vả lại, chính nhờ ân sủng Chúa Giê-su mà chúng ta tin mình được cứu độ, cùng một cách như họ.”

12 Bấy giờ toàn thể hội nghị im lặng. Họ nghe ông Ba-na-ba và ông Phao-lô thuật lại các dấu lạ điềm thiêng Thiên Chúa đã dùng hai ông mà làm giữa các dân ngoại.

Diễn từ của ông Gia-cô-bê

13 Khi hai ông dứt lời, ông Gia-cô-bê lên tiếng nói: ”Thưa anh em, xin nghe tôi đây: 14 Ông Si-môn đã thuật lại cho chúng ta rằng: ngay từ đầu, Thiên Chúa đã đoái thương chọn trong các dân ngoại một dân mang danh Người. 15 Những lời các ngôn sứ cũng phù hợp với điều ấy, như đã chép: 16 Sau đó, Ta sẽ trở lại, và sẽ xây dựng lại lều Đa-vít đã sụp đổ; đống hoang tàn đó, Ta sẽ xây dựng lại, và Ta sẽ dựng lại lều ấy. 17 Như vậy các người còn lại và tất cả các dân ngoại được mang danh Ta sẽ tìm kiếm Chúa. Chúa phán như vậy, 18 Người là Đấng cho biết những điều ấy tự ngàn xưa.

19 “Vì vậy, phần tôi, tôi xét là không được gây phiền hà cho những người gốc dân ngoại trở lại với Thiên Chúa, 20 nhưng chỉ viết thư bảo họ kiêng những thức ăn ô uế vì đã cúng cho ngẫu tượng, tránh gian dâm, kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết và kiêng ăn tiết. 21 Thật vậy, từ những thế hệ xa xưa, trong mỗi thành ông Mô-sê đều có những người rao giảng: họ đọc lời của ông trong các hội đường mỗi ngày sa-bát.”

Thư của các Tông Đồ

22 Bấy giờ các Tông Đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi An-ti-ô-khi-a với ông Phao-lô và ông Ba-na-ba. Đó là ông Giu-đa, biệt danh là Ba-sa-ba, và ông Xi-la, những người có uy tín trong Hội Thánh. 23 Các ông trao cho phái đoàn bức thư sau:

24 Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang. 25 Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi là ông Ba-na-ba và ông Phao-lô, 26 những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. 27 Vậy chúng tôi cử ông Giu-đa và ông Xi-la đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây: 28 Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: 29 là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh.”

Các đại biểu đến An-ti-ô-khi-a

30 Sau khi được mọi người tiễn chân, các đại biểu xuống An-ti-ô-khi-a, triệu tập cộng đoàn lại và trao bức thư. 31 Đọc thư xong, họ vui mừng vì lời khích lệ đó. 32 Ông Giu-đa và ông Xi-la, vì cũng là ngôn sứ, đã nói chuyện lâu với các anh em mà khuyên nhủ và làm cho họ được vững mạnh. 33 Hai ông ở lại một thời gian, rồi các anh em lại tiễn chân hai ông trở về bình an với những người đã phái hai ông đi. 34 Nhưng ông Xi-la quyết định ở lại, chỉ một mình ông Giu-đa đi. 35 Còn ông Phao-lô và ông Ba-na-ba thì ở lại An-ti-ô-khi-a. Cùng với nhiều người khác, hai ông giảng dạy và loan báo Tin Mừng lời Chúa.

IV. NHỮNG CUỘC HÀNH TRÌNH TRUYỀN GIÁO CỦA ÔNG PHAO-LÔ

Ông Phao-lô và ông Ba-na-ba chia tay. Ông Phao-lô chọn ông Xi-la làm cộng tác viên

36 Ít ngày sau, ông Phao-lô nói với ông Ba-na-ba: ”Ta hãy trở lại thăm các anh em trong mỗi thành ta đã loan báo lời Chúa, xem họ ra sao.” 37 Ông Ba-na-ba muốn đem theo cả ông Gio-an cũng gọi là Mác-cô. 38 Nhưng ông Phao-lô thì nghĩ là một người đã từng bỏ hai ông từ khi ở miền Pam-phy-li-a và đã không cộng tác với hai ông, thì không nên đem theo. 39 Hai bên nổi nóng đến mức phải chia tay nhau. Ông Ba-na-ba đem ông Mác-cô theo, vượt biển đi đảo Sýp. 40 Còn ông Phao-lô thì chọn ông Xi-la và lên đường, sau khi đã được các anh em giao phó cho ân sủng Chúa.

Ông Phao-lô chọn thêm ông Ti-mô-thê

41 Ông đi qua miền Xy-ri và miền Ki-li-ki-a, và làm cho các Hội Thánh được vững mạnh.

Chương 16

1 Ông đến Đéc-bê, rồi đến Lýt-ra. Ở đó có một môn đệ tên là Ti-mô-thê, mẹ là người Do-thái đã tin Chúa, còn cha là người Hy-lạp. 2 Ông được các anh em ở Lýt-ra và I-cô-ni-ô chứng nhận là tốt. 3 Ông Phao-lô muốn ông ấy cùng lên đường với mình, nên đã đem ông đi làm phép cắt bì, vì nể các người Do-thái ở những nơi ấy; thật vậy, ai cũng biết cha ông là người Hy-lạp.

4 Khi đi qua các thành, các ông truyền lại cho các anh em những chỉ thị đã được các Tông Đồ và kỳ mục ở Giê-ru-sa-lem ban bố, để họ tuân giữ.

5 Vậy các Hội Thánh được vững mạnh trong đức tin và mỗi ngày thêm đông số.

Đi qua miền A-xi-a

6 Các ông đi qua miền Phy-ghi-a và Ga-lát, vì Thánh Thần ngăn cản không cho các ông rao giảng lời Chúa ở A-xi-a. 7 Khi tới sát ranh giới My-xi-a, các ông thử vào miền Bi-thy-ni-a, nhưng Thần Khí Đức Giê-su không cho phép. 8 Các ông bèn đi qua miền My-xi-a mà xuống Trô-a.

9 Ban đêm, ông Phao-lô thấy một thị kiến: một người miền Ma-kê-đô-ni-a đứng đó, mời ông rằng: ”Xin ông sang Ma-kê-đô-ni-a giúp chúng tôi!”10 Sau khi ông thấy thị kiến đó, lập tức chúng tôi tìm cách đi Ma-kê-đô-ni-a, vì hiểu ra rằng Thiên Chúa kêu gọi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho họ.

Đến Phi-líp-phê

11 Xuống tàu ở Trô-a, chúng tôi đi thẳng đến đảo Xa-mốt-ra-kê, rồi hôm sau đến Nê-a-pô-li. 12 Từ đó chúng tôi đi Phi-líp-phê là thị trấn quan trọng nhất trong hạt ấy của tỉnh Ma-kê-đô-ni-a, và là thuộc địa Rô-ma. Chúng tôi ở lại thành đó mấy ngày. 13 Ngày sa-bát, chúng tôi ra khỏi cổng thành, men theo bờ sông, đến một chỗ chúng tôi đoán chừng có nơi cầu nguyện. Chúng tôi ngồi xuống nói chuyện với những phụ nữ đang họp nhau tại đó. 14 Có một bà tên là Ly-đi-a, quê ở Thy-a-ti-ra, chuyên buôn bán vải điều. Bà là người tôn thờ Thiên Chúa; bà nghe, và Chúa mở lòng cho bà để bà chú ý đến những lời ông Phao-lô nói. 15 Sau khi bà và cả nhà đã chịu phép rửa, bà mời chúng tôi: ”Các ông đã coi tôi là một tín hữu Chúa, thì xin các ông đến ở nhà tôi.” Và bà ép chúng tôi phải nhận lời.

Ông Phao-lô và ông Xi-la bị bắt giam

16 Một hôm, đang khi chúng tôi đi tới nơi cầu nguyện, một đầy tớ gái đón gặp chúng tôi; cô ta bị quỷ thần ốp, và thuật bói toán của cô làm lợi nhiều cho các chủ của cô. 17 Cô lẽo đẽo theo ông Phao-lô và chúng tôi mà kêu: ”Các ông này là tôi tớ Thiên Chúa Tối Cao; họ loan báo cho các người con đường cứu độ.” 18 Cô cứ làm thế trong nhiều ngày. Bực mình, ông Phao-lô quay lại bảo quỷ: ”Nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, ta truyền cho ngươi phải xuất khỏi người này!” Ngay lúc ấy, quỷ thần liền xuất.

19 Các chủ của cô thấy hy vọng kiếm lợi đã tiêu tan, liền túm lấy ông Phao-lô và ông Xi-la mà lôi đến quảng trường, đưa ra trước nhà chức trách. 20 Họ điệu hai ông đến các quan toà và nói: ”Những người này gây xáo trộn trong thành phố chúng ta; họ là người Do-thái, 21 và họ truyền bá những tập tục mà người Rô-ma chúng ta không được phép chấp nhận và thi hành.” 22 Đám đông nổi lên chống hai ông. Các quan toà, sau khi đã cho lột áo hai ông, thì ra lệnh đánh đòn. 23 Khi đã đánh nhừ tử, họ tống hai ông vào ngục, và truyền cho viên cai ngục phải canh giữ cẩn thận. 24 Được lệnh đó, người này tống hai ông vào phòng giam sâu nhất và cùm chân lại.

Các nhà truyền giáo được giải thoát cách lạ lùng

25 Vào quãng nửa đêm, ông Phao-lô và ông Xi-la hát thánh ca cầu nguyện với Thiên Chúa; các người tù nghe hai ông hát. 26 Bỗng nhiên có động đất mạnh, khiến nền móng nhà tù phải rung chuyển. Ngay lúc đó, tất cả các cửa mở toang và xiềng xích của mọi người buột tung ra. 27 Viên cai ngục choàng dậy và thấy các cửa ngục mở toang, liền rút gươm định tự tử, vì tưởng rằng các người tù đã trốn đi. 28 Nhưng ông Phao-lô lớn tiếng bảo: ”Ông chớ hại mình làm chi: chúng tôi còn cả đây mà!”

29 Viên cai ngục bảo lấy đèn, nhảy bổ vào, run rẩy sấp mình dưới chân ông Phao-lô và ông Xi-la, 30 rồi đưa hai ông ra ngoài và nói: ”Thưa các ngài, tôi phải làm gì để được cứu độ?” 31 Hai ông đáp: ”Hãy tin vào Chúa Giê-su, thì ông và cả nhà sẽ được cứu độ.” 32 Hai ông liền giảng lời Chúa cho viên cai ngục cùng mọi người trong nhà ông ấy. 33 Ngay lúc đó, giữa ban đêm, viên cai ngục đem hai ông đi, rửa các vết thương, và lập tức ông ấy được chịu phép rửa cùng với tất cả người nhà. 34 Rồi ông ấy đưa hai ông lên nhà, dọn bàn ăn. Ông và cả nhà vui mừng vì đã tin Thiên Chúa.

35 Sáng ngày ra, các quan toà sai vệ binh đến nói với viên cai ngục: ”Thả những người ấy ra!”36 Viên cai ngục báo tin ấy cho ông Phao-lô: ”Các quan toà sai người đến bảo thả các ngài. Vậy bây giờ xin các ngài ra và đi bình an.” 37 Nhưng ông Phao-lô nói với họ: ”Chúng tôi là những công dân Rô-ma, không có án gì cả, mà họ đã đánh đòn chúng tôi trước công chúng, rồi tống ngục. Bây giờ họ lại lén lút tống chúng tôi ra! Không được! Họ phải đích thân đến đưa chúng tôi ra!”

38 Các vệ binh trình lại những lời ấy cho các quan toà. Những ông này sợ hãi khi nghe biết hai ông là công dân Rô-ma. 39 Họ bèn đến xin lỗi, rồi đưa hai ông ra và xin hai ông rời khỏi thành phố. 40 Ra khỏi ngục, hai ông đến nhà bà Ly-đi-a; sau khi gặp các anh em và khuyên nhủ họ, hai ông ra đi.

Chương 17

Ông Phao-lô gặp khó khăn với người Do-thái tại Thê-xa-lô-ni-ca

1 Hai ông đi ngang qua Am-phi-pô-li và A-pô-lô-ni-a, đến Thê-xa-lô-ni-ca, là nơi có một hội đường của người Do-thái. 2 Theo thói quen, ông Phao-lô đến với họ, và trong ba ngày sa-bát liền, ông thảo luận với họ; dựa vào Kinh Thánh, ông 3 giải thích và xác định rằng Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình và sống lại từ cõi chết; ông nói: ”Đấng Ki-tô ấy, chính là Đức Giê-su mà tôi rao giảng cho anh em.” 4 Trong nhóm đó, có mấy người đã chịu tin theo và nhập đoàn với ông Phao-lô và ông Xi-la; một số rất đông những người Hy-lạp tôn thờ Thiên Chúa và không ít phụ nữ quý phái cũng làm như vậy.

5 Nhưng người Do-thái sinh ghen tức, họ quy tụ một số du đãng đầu đường xó chợ, họp thành đám đông, gây náo động trong thành. Họ kéo đến nhà ông Gia-xon, tìm ông Phao-lô và ông Xi-la để đưa hai ông ra trước đại hội toàn dân. 6 Không tìm thấy hai ông, họ bèn lôi ông Gia-xon và một số anh em ra trước nhà chức trách thành phố, mà kêu la rằng: ”Những tên gây rối trong cả thiên hạ, nay vác mặt đến đây, 7 thế mà Gia-xon lại chứa chấp chúng! Tất cả bọn này đi ngược lại các chiếu chỉ của hoàng đế Xê-da, vì chúng nói rằng có một vua khác là Giê-su.” 8 Nghe những lời ấy, đám đông và các nhà chức trách thành phố xôn xao, 9 họ đòi ông Gia-xon và những người kia phải nộp tiền ký quỹ rồi mới thả ra.

Lại gặp khó khăn ở Bê-roi-a

10 Ngay đêm ấy, các anh em tiễn ông Phao-lô và ông Xi-la đi Bê-roi-a. Đến nơi, các ông vào hội đường người Do-thái. 11 Những người Do-thái ở đây cởi mở hơn những người ở Thê-xa-lô-ni-ca: họ đón nhận lời Chúa với tất cả nhiệt tâm, ngày ngày tra cứu Sách Thánh để xem có đúng như vậy không. 12 Vậy nhiều người trong nhóm họ tin theo; về phía người Hy-lạp, cũng có nhiều phụ nữ thượng lưu và nhiều đàn ông cũng tin theo.

13 Nhưng khi người Do-thái ở Thê-xa-lô-ni-ca biết là ông Phao-lô cũng loan báo lời Thiên Chúa ở Bê-roi-a nữa, thì họ lại đến đấy sách động và gây xôn xao trong dân chúng. 14 Bấy giờ các anh em lập tức tiễn ông Phao-lô ra tận bờ biển; còn ông Xi-la và ông Ti-mô-thê thì vẫn ở lại đó. 15 Các người tháp tùng đưa ông Phao-lô đến A-thê-na rồi từ đó trở về, mang theo lệnh bảo ông Xi-la và ông Ti-mô-thê phải đến với ông Phao-lô càng sớm càng tốt.

Ông Phao-lô giảng ở A-thê-na

16 Trong khi ông Phao-lô đợi hai ông ở A-thê-na, ông nổi giận vì thấy thành phố nhan nhản những tượng thần. 17 Vậy ông thảo luận trong hội đường với những người Do-thái và những người tôn thờ Thiên Chúa, và ngoài quảng trường mỗi ngày với những người qua lại. 18 Có mấy triết gia thuộc phái Khoái Lạc và phái Khắc Kỷ cũng trao đổi với ông. Kẻ thì nói: ”Con vẹt đó muốn nói gì vậy?” Người khác lại bảo: ”Hình như ông ta rao giảng về những thần xa lạ", vì ông Phao-lô loan báo Tin Mừng về Đức Giê-su và về sự Phục Sinh.

19 Họ mời ông đi với họ đến Hội đồng A-rê-ô-pa-gô và nói: ”Chúng tôi có thể biết thứ đạo lý mới ông dạy là gì không? 20 Quả ông có đem đến cho chúng tôi một số điều lạ tai; vậy chúng tôi muốn biết những điều đó nghĩa là gì.” 21 Thật thế, mọi người A-thê-na và kiều dân ở đó chỉ để thời giờ bàn tán hay nghe những chuyện mới nhất.

Diễn từ của ông Phao-lô trước Hội đồng A-rê-ô-pa-gô

22 Đứng giữa Hội đồng A-rê-ô-pa-gô, ông Phao-lô nói: ”Thưa quý vị người A-thê-na, tôi thấy rằng, về mọi mặt, quý vị là người sùng đạo hơn ai hết. 23 Thật vậy, khi rảo qua thành phố và nhìn lên những nơi thờ phượng của quý vị, tôi đã thấy có cả một bàn thờ, trên đó khắc chữ: ”Kính thần vô danh". Vậy Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị.

24 “Thiên Chúa, Đấng tạo thành vũ trụ và muôn loài trong đó, Đấng làm Chúa Tể trời đất, không ngự trong những đền do tay con người làm nên. 25 Người cũng không cần được bàn tay con người phục vụ, như thể Người thiếu thốn cái gì, vì Người ban cho mọi loài sự sống, hơi thở và mọi sự. 26 Từ một người duy nhất, Thiên Chúa đã tạo thành toàn thể nhân loại, để họ ở trên khắp mặt đất; Người đã vạch ra những thời kỳ nhất định và những ranh giới cho nơi ở của họ. 27 Như vậy là để họ tìm kiếm Thiên Chúa; may ra họ dò dẫm mà tìm thấy Người, tuy rằng thực sự Người không ở xa mỗi người chúng ta. 28 Thật vậy, chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu, như một số thi sĩ của quý vị đã nói: ”Chúng ta cũng thuộc dòng giống của Người.

29 “Vậy, vì là dòng giống Thiên Chúa, chúng ta không được nghĩ rằng thần linh giống như hình tượng do nghệ thuật và tài trí con người chạm trổ trên vàng, bạc hay đá.

30 “Vậy mà Thiên Chúa nhắm mắt bỏ qua những thời người ta không nhận biết Người. Bây giờ Người truyền cho người ta rằng mọi người ở mọi nơi phải sám hối, 31 vì Người đã ấn định một ngày để xét xử thiên hạ theo công lý, nhờ một người mà Người đã chỉ định. Để bảo đảm điều ấy với mọi người, Thiên Chúa đã làm cho vị này sống lại từ cõi chết.”

32 Vừa nghe nói đến người chết sống lại, kẻ thì nhạo cười, kẻ thì nói: ”Để khi khác chúng tôi sẽ nghe ông nói về vấn đề ấy.” 33 Thế là ông Phao-lô bỏ họ mà đi. 34 Nhưng có mấy người đã theo ông và tin Chúa, trong số đó có ông Đi-ô-ny-xi-ô, thành viên Hội đồng A-rê-ô-pa-gô và một phụ nữ tên là Đa-ma-ri cùng những người khác nữa.

Chương 18

Thành lập Hội Thánh Cô-rin-tô

1 Sau đó, ông Phao-lô rời A-thê-na đi Cô-rin-tô. 2 Tại đây, ông gặp một người Do-thái tên là A-qui-la, quê ở Pon-tô, vừa mới từ I-ta-li-a đến, cùng với vợ là Pơ-rít-ki-la, vì hoàng đế Cơ-lau-đi-ô đã ra lệnh cho mọi người Do-thái phải rời Rô-ma. Ông Phao-lô đến thăm hai ông bà, 3 và vì cùng nghề, nên ông ở lại nhà họ và cùng làm việc: họ làm nghề dệt lều. 4 Mỗi ngày sa-bát, ông thảo luận tại hội đường, cố thuyết phục cả người Do-thái lẫn người Hy-lạp.

5 Khi ông Xi-la và ông Ti-mô-thê từ Ma-kê-đô-ni-a xuống, thì ông Phao-lô chỉ lo giảng, long trọng làm chứng cho người Do-thái biết rằng Đức Giê-su chính là Đấng Ki-tô. 6 Bởi họ chống đối và nói lộng ngôn, nên ông giũ áo mà bảo họ: ”Máu các người cứ đổ xuống trên đầu các người! Phần tôi, tôi vô can; từ nay trở đi, tôi sẽ đến với người ngoại.” 7 Ông rời bỏ chỗ ấy đến nhà một người ngoại tôn thờ Thiên Chúa, tên là Ti-xi-ô Giút-tô, ở sát bên hội đường. 8 Ông Cơ-rít-pô, trưởng hội đường, tin Chúa, cùng với cả nhà. Nhiều người Cô-rin-tô đã nghe ông Phao-lô giảng cũng tin theo và chịu phép rửa. 9 Một đêm, Chúa bảo ông Phao-lô trong một thị kiến: ”Đừng sợ! Cứ nói đi, đừng làm thinh, 10 vì Thầy ở với anh; không ai tra tay hại anh được, vì Thầy có một dân đông đảo trong thành này.” 11 Ông Phao-lô ở lại đó một năm rưỡi, dạy cho họ lời Thiên Chúa.

Người Do-thái đưa ông Phao-lô ra toà

12 Thời ông Ga-li-on làm thống đốc tỉnh A-khai-a, người Do-thái nhất tề nổi dậy chống ông Phao-lô; họ đưa ông ra toà 13 và nói: ”Tên này xúi giục người ta tôn thờ Thiên Chúa trái với Lề Luật.” 14 Ông Phao-lô toan mở miệng, thì ông Ga-li-on đã nói với người Do-thái: ”Hỡi người Do-thái, giả như có gì là trái Luật hay phạm pháp, thì lẽ đương nhiên là tôi sẽ chịu khó nghe các ông. 15 Nhưng đây lại là những chuyện tranh luận về giáo thuyết, danh từ, luật lệ riêng của các ông, thì các ông hãy tự xét lấy. Phần tôi, tôi không muốn xét xử những điều ấy.” 16 Rồi ông đuổi họ ra khỏi toà án. 17 Mọi người liền túm lấy ông Xốt-thê-nê, trưởng hội đường, mà đánh túi bụi ngay trước toà án. Nhưng ông Ga-li-on chẳng bận tâm gì về việc này.

Ông Phao-lô trở về An-ti-ô-khi-a và bắt đầu cuộc hành trình thứ ba

18 Ông Phao-lô còn ở lại Cô-rin-tô khá lâu, rồi từ giã các anh em và vượt biển sang miền Xy-ri, cùng với bà Pơ-rít-ki-la và ông A-qui-la. Trước đó, tại Ken-khơ-rê, ông xuống tóc, vì có lời khấn.

19 Khi đến Ê-phê-xô, ông Phao-lô từ biệt hai người kia. Phần ông, ông vào hội đường và thảo luận với người Do-thái. 20 Họ xin ông ở lại lâu hơn. Ông không chịu. 21 Nhưng khi từ giã họ, ông nói: ”Để lần khác tôi sẽ trở lại với các ông, nếu Thiên Chúa muốn.” Rồi ông xuống tàu rời Ê-phê-xô.

22 Đến Xê-da-rê, ông lên Giê-ru-sa-lem chào thăm Hội Thánh, rồi xuống An-ti-ô-khi-a. 23 Sau khi ở đó một thời gian, ông ra đi, lần lượt qua miền Ga-lát và Phy-ghi-a và làm cho tất cả các môn đệ được vững mạnh.

Ông A-pô-lô

24 Có một người Do-thái tên là A-pô-lô, quê ở A-lê-xan-ri-a, đã đến Ê-phê-xô; ông là người có tài hùng biện và thông thạo Kinh Thánh. 25 Ông đã được học Đạo Chúa; với tâm hồn nồng nhiệt, ông thường lên tiếng giảng dạy chính xác những điều liên quan đến Đức Giê-su, tuy rằng ông chỉ biết có phép rửa của ông Gio-an. 26 Ông bắt đầu mạnh dạn rao giảng trong hội đường. Sau khi nghe ông nói, bà Pơ-rít-ki-la và ông A-qui-la mời ông về nhà trình bày Đạo của Thiên Chúa cho ông chính xác hơn.

27 Ông A-pô-lô muốn sang miền A-khai-a thì các anh em khuyến khích ông và viết thư xin các môn đệ tiếp đón ông. Khi đến nơi, nhờ ơn Chúa, ông đã giúp ích nhiều cho các tín hữu, 28 vì ông mạnh mẽ và công khai bẻ lại người Do-thái, dẫn Kinh Thánh mà minh chứng rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô.

Chương 19

Môn đệ của ông Gio-an Tẩy Giả tại Ê-phê-xô

1 Trong khi ông A-pô-lô ở Cô-rin-tô thì ông Phao-lô đi qua miền thượng du đến Ê-phê-xô. Ông Phao-lô gặp một số môn đệ 2 và hỏi họ: ”Khi tin theo, anh em đã nhận được Thánh Thần chưa?” Họ trả lời: ”Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói.” 3 Ông hỏi: ”Vậy anh em đã được chịu phép rửa nào?” Họ đáp: ”Phép rửa của ông Gio-an.” 4 Ông Phao-lô nói: ”Ông Gio-an đã làm một phép rửa tỏ lòng sám hối, và ông bảo dân tin vào Đấng đến sau ông, tức là Đức Giê-su.” 5 Nghe nói thế, họ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su. 6 Và khi ông Phao-lô đặt tay trên họ, thì Thánh Thần ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và nói tiên tri. 7 Cả nhóm có chừng mười hai người.

Thành lập Hội Thánh Ê-phê-xô

8 Ông Phao-lô vào hội đường, và trong vòng ba tháng, ông mạnh dạn rao giảng, thảo luận về Nước Thiên Chúa và cố gắng thuyết phục họ. 9 Nhưng có một số người cứng lòng, không chịu tin, lại còn nói xấu Đạo trước mặt cộng đoàn, nên ông tuyệt giao với họ, tách các môn đệ ra; ngày ngày ông thảo luận trong trường học của ông Ty-ran-nô. 10 Cứ như thế trong vòng hai năm, khiến mọi người ở A-xi-a, Do-thái cũng như Hy-lạp, đều được nghe lời Chúa.

Những người Do-thái làm nghề trừ quỷ

11 Thiên Chúa dùng tay ông Phao-lô mà làm những phép lạ phi thường, 12 đến nỗi người ta lấy cả khăn cả áo đã chạm đến da thịt ông mà đặt trên người bệnh, và bệnh tật biến đi, tà thần cũng phải xuất.

13 Có mấy người Do-thái đi đây đi đó làm nghề trừ quỷ cũng thử lấy danh Chúa Giê-su mà chữa những người bị tà thần ám. Họ nói: ”Nhân danh Đức Giê-su mà ông Phao-lô rao giảng, ta truyền lệnh cho các ngươi!”14 Ông Xi-kêu-a nọ, thượng tế Do-thái, có bảy con trai thường làm như vậy. 15 Nhưng tà thần đáp: ”Đức Giê-su, tao biết; ông Phao-lô, tao cũng tường; còn bay, bay là ai?” 16 Rồi người bị tà thần ám xông vào họ, đè cả bọn xuống đánh túi bụi, khiến họ phải bỏ nhà ấy mà chạy trốn, trần truồng và đầy thương tích. 17 Mọi người ở Ê-phê-xô, Do-thái cũng như Hy-lạp, đều biết chuyện ấy; ai cũng sợ hãi, và thiên hạ tán dương danh Chúa Giê-su.

18 Trong số các tín hữu, có nhiều người đến thú nhận và kể ra những phù phép của mình. 19 Khá đông người làm nghề phù thủy đem gom sách vở mà đốt trước mặt mọi người; tổng cộng số sách ấy trị giá tới năm mươi ngàn đồng bạc.

20 Như vậy, nhờ uy lực của Chúa, lời Chúa cứ lan tràn và thêm vững mạnh.

V. KẾT THÚC NHỮNG CUỘC HÀNH TRÌNH TRUYỀN GIÁO. ÔNG PHAO-LÔ, NGƯỜI TÙ CỦA ĐỨC KI-TÔ

Các dự định của ông Phao-lô

21 Sau khi những việc ấy xảy ra, ông Phao-lô được Thánh Thần thúc đẩy, quyết định đi ngang qua miền Ma-kê-đô-ni-a và miền A-khai-a mà về Giê-ru-sa-lem; ông nói: ”Về đó rồi, tôi còn phải đi thăm Rô-ma nữa.” 22 Ông sai hai người trong các phụ tá của ông là Ti-mô-thê và Ê-rát-tô đi Ma-kê-đô-ni-a, còn ông thì ở lại A-xi-a một thời gian.

Thợ bạc Ê-phê-xô gây rối loạn

23 Vào thời kỳ ấy, xảy ra một vụ rối loạn khá trầm trọng liên quan đến Đạo. 24 Số là có một người thợ bạc tên là Đê-mết-ri-ô, chuyên làm mô hình đền nữ thần Ác-tê-mi bằng bạc, và nhờ đó đem lại cho các người thợ một nguồn lợi không nhỏ. 25 Ông ta tập hợp họ và những người làm nghề tương tự, và nói: ”Thưa các bạn, các bạn thừa biết là nhờ việc làm ăn này mà chúng ta phát tài. 26 Thế mà, như các bạn thấy và nghe biết: không những ở Ê-phê-xô này, mà gần như trong khắp cả A-xi-a, tên Phao-lô ấy đã thuyết phục và làm cho một đám đông đáng kể thay lòng đổi dạ, khi hắn nói rằng thần linh do tay người làm ra không phải là thần. 27 Như vậy, có nguy cơ là không những ngành nghề của chúng ta bị chê bai, mà cả đền thờ đại nữ thần Ác-tê-mi cũng bị người ta coi chẳng ra gì, và rốt cuộc vị nữ thần mà toàn A-xi-a và cả thiên hạ tôn thờ cũng chẳng còn gì là vĩ đại nữa.” 28 Nghe nói thế, họ đầy lòng căm phẫn và thét lên: ”Vĩ đại thay, thần Ác-tê-mi của người Ê-phê-xô!”29 Cả thành đầy hỗn loạn, người ta ùn ùn kéo đến hí trường, lôi theo ông Gai-ô và ông A-rít-ta-khô là những người Ma-kê-đô-ni-a, bạn đồng hành của ông Phao-lô. 30 Ông Phao-lô muốn ra trước đại hội toàn dân, nhưng các môn đệ không cho. 31 Có mấy vị chức sắc tỉnh A-xi-a, là bạn của ông Phao-lô, cũng sai người đến khuyên ông đừng liều mình đến hí trường.

32 Dân chúng hò la, kẻ thế này, người thế nọ, đại hội trở nên hỗn loạn và phần đông không biết mình họp nhau để làm gì. 33 Trong đám đông, có những người nói rõ sự thể cho ông A-lê-xan-đê biết, vì người Do-thái đã đưa ông ra. Ông A-lê-xan-đê giơ tay làm hiệu tỏ ý muốn thanh minh với đại hội toàn dân. 34 Nhưng khi nhận ra ông là người Do-thái, thì tất cả mọi người đồng thanh hò hét suốt gần hai tiếng đồng hồ: ”Vĩ đại thay, thần Ác-tê-mi của người Ê-phê-xô!”35 Sau cùng, viên thư ký thành phố trấn an đám đông, ông nói: ”Thưa đồng bào Ê-phê-xô, có ai trong loài người lại không biết rằng thành Ê-phê-xô được coi sóc đền thần Ác-tê-mi vĩ đại và giữ pho tượng của người từ trời rơi xuống? 36 Điều đó hẳn không ai chối cãi được, vậy đồng bào hãy bình tĩnh và đừng làm gì hấp tấp. 37 Đồng bào đã đưa những người này tới đây: họ không phạm thánh cũng chẳng nói lộng ngôn chống nữ thần của chúng ta. 38 Vậy nếu ông Đê-mết-ri-ô và các thợ cùng đi với ông có điều gì kiện cáo ai, thì đã có các phiên toà, các thống đốc: họ cứ việc đưa nhau ra toà! 39 Ngoài ra, nếu đồng bào còn điều gì khác muốn yêu cầu, thì đại hội hợp pháp sẽ giải quyết. 40 Quả thế, điều xảy ra hôm nay có nguy cơ làm chúng ta bị tố cáo về tội nổi loạn, vì không có lý do nào để chúng ta có thể biện minh việc tụ họp này.” Nói thế rồi, ông giải tán đại hội.

Chương 20

Ông Phao-lô rời Ê-phê-xô

1 Sau khi cuộc náo động chấm dứt, ông Phao-lô mời các môn đệ tới, khuyên nhủ họ, rồi chào từ biệt và lên đường đi Ma-kê-đô-ni-a. 2 Ông đi qua miền đó, nói nhiều lời khuyên nhủ các anh em, rồi tới Hy-lạp 3 và ở lại đó ba tháng. Vì người Do-thái âm mưu hại ông, nên khi sắp xuống tàu sang miền Xy-ri, ông quyết định qua ngã Ma-kê-đô-ni-a mà về. 4 Cùng đi với ông, có ông Xô-pát-rô, con ông Py-rô, người Bê-roi-a, hai ông A-rít-ta-khô và Xê-cun-đô, người Thê-xa-lô-ni-ca, ông Gai-ô, người Đéc-bê, ông Ti-mô-thê, hai ông Ty-khi-cô và Trô-phi-mô, người A-xi-a. 5 Các ông này đã đi trước chúng tôi và đợi chúng tôi ở Trô-a. 6 Phần chúng tôi, sau tuần lễ Bánh Không Men, chúng tôi xuống tàu rời Phi-líp-phê, và năm ngày sau gặp các ông ấy ở Trô-a và ở lại đó bảy ngày.

Ở Trô-a, ông Phao-lô làm cho một người chết sống lại

7 Ngày thứ nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau để bẻ bánh. Ông Phao-lô thảo luận với các anh em, và vì hôm sau ông ra đi, nên ông đã kéo dài cuộc nói chuyện đến mãi nửa đêm. 8 Có khá nhiều đèn ở lầu trên, nơi chúng tôi họp nhau. 9 Một thiếu niên kia, tên là Êu-ty-khô, ngồi ở cửa sổ, đã thiếp đi và ngủ say trong khi ông Phao-lô vẫn cứ giảng. Vì ngủ say, nên nó ngã từ tầng thứ ba xuống. Vực lên, thì nó đã chết. 10 Ông Phao-lô xuống, cúi mình trên nó, ôm lấy và nói: ”Đừng xôn xao nữa, vì nó sống mà!”11 Rồi ông lên, bẻ bánh và ăn. Ông còn nói chuyện khá lâu, mãi đến tảng sáng mới ra đi. 12 Người ta đưa cậu bé đang sống về, và ai nấy được an ủi không ít.

Từ Trô-a đến Mi-lê-tô

13 Chúng tôi xuống tàu trước đi Át-xô, là nơi chúng tôi sẽ đón ông Phao-lô; ông đã sắp đặt như thế, vì ông tính đi đường bộ. 14 Khi ông gặp lại chúng tôi ở Át-xô, chúng tôi đón ông xuống tàu rồi đi tới Mi-ty-len. 15 Từ đó chúng tôi vượt biển và hôm sau tới ngang đảo Khi-ô. Hôm sau nữa, chúng tôi cặp bến ở đảo Xa-mốt, rồi ngày kế đó đến Mi-lê-tô, 16 vì ông Phao-lô đã quyết định không ghé Ê-phê-xô, để khỏi mất thời giờ ở A-xi-a. Ông vội vã như thế để, nếu có thể, thì có mặt ở Giê-ru-sa-lem ngày lễ Ngũ Tuần.

Từ giã các kỳ mục trong Hội Thánh Ê-phê-xô

17 Từ Mi-lê-tô, ông sai người đi mời các kỳ mục trong Hội Thánh Ê-phê-xô. 18 Khi họ đến gặp ông, ông nói với họ:

19 Khi phục vụ Chúa, tôi đã hết lòng khiêm tốn, đã nhiều lần phải rơi lệ, đã gặp bao thử thách do những âm mưu của người Do-thái. 20 Anh em biết tôi đã không bỏ qua một điều gì có ích cho anh em; trái lại tôi đã giảng cho anh em và dạy anh em ở nơi công cộng cũng như tại chốn tư gia. 21 Tôi đã khuyến cáo cả người Do-thái lẫn người Hy-lạp phải trở về với Thiên Chúa, và tin vào Đức Giê-su, Chúa chúng ta.

22 “Giờ đây, bị Thần Khí trói buộc, tôi về Giê-ru-sa-lem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, 23 trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. 24 Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giê-su, là long trọng làm chứng cho Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa.

25 “Giờ đây tôi biết rằng: tất cả anh em, những người tôi đã đến thăm để rao giảng Nước Thiên Chúa, anh em sẽ không còn thấy mặt tôi nữa. 26 Vì vậy, hôm nay tôi xin tuyên bố với anh em rằng: nếu có ai trong anh em phải hư mất, thì tôi vô can. 27 Thật tôi đã không bỏ qua điều gì, trái lại đã rao giảng cho anh em tất cả ý định của Thiên Chúa.

28 “Anh em hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Người đã mua bằng máu của chính mình.

29 “Phần tôi, tôi biết rằng khi tôi đi rồi, thì sẽ có những sói dữ đột nhập vào anh em, chúng không tha đàn chiên. 30 Ngay từ giữa hàng ngũ anh em sẽ xuất hiện những người giảng dạy những điều sai lạc, hòng lôi cuốn các môn đệ theo chúng. 31 Vì vậy anh em phải canh thức, và nhớ rằng, suốt ba năm, ngày đêm tôi đã không ngừng khuyên bảo mỗi người trong anh em, lắm khi phải rơi lệ.

32 “Giờ đây, tôi xin phó thác anh em cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người, là lời có sức xây dựng và ban cho anh em được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những người đã được thánh hiến.

33 “Vàng bạc hay quần áo của bất cứ ai, tôi đã chẳng ham. 34 Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. 35 Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận.”

36 Nói thế rồi, ông Phao-lô cùng với tất cả các anh em quỳ gối xuống cầu nguyện. 37 Ai nấy oà lên khóc và ôm cổ ông mà hôn. 38 Họ đau đớn nhất vì lời ông vừa nói là họ sẽ không còn thấy mặt ông nữa. Rồi họ tiễn ông xuống tàu.

Chương 21

Ông Phao-lô lên Giê-ru-sa-lem

1 Đến khi dứt ra được mà xuống tàu, chúng tôi đi thẳng đến đảo Cô, ngày hôm sau đến đảo Rô-đô, rồi từ đó đến Pa-ta-ra. 2 Gặp chuyến đi Phê-ni-xi, chúng tôi xuống tàu và ra khơi. 3 Khi trông thấy đảo Sýp, chúng tôi đi vòng phía nam mà hướng về Xy-ri, và cập bến tại Tia, vì tàu phải đổ hàng ở đó. 4 Tìm gặp được các môn đệ, chúng tôi ở lại đó bảy ngày. Được Thần Khí soi sáng, họ nói với ông Phao-lô đừng lên Giê-ru-sa-lem. 5 Nhưng khi hết thời gian ở đó, chúng tôi ra đi và lên đường, có tất cả các môn đệ cùng với vợ con họ tiễn chân đến tận ngoại thành. Chúng tôi quỳ xuống trên bãi biển mà cầu nguyện. 6 Sau khi từ biệt nhau, chúng tôi xuống tàu, còn họ thì trở về nhà.

7 Phần chúng tôi, để kết thúc chuyến vượt biển này, chúng tôi đi từ Tia đến Pơ-tô-lê-mai; chúng tôi chào thăm các anh em ở đó và ở lại với họ một ngày. 8 Hôm sau chúng tôi lên đường và đến Xê-da-rê. Chúng tôi vào nhà ông Phi-líp-phê, người loan báo Tin Mừng, thuộc nhóm Bảy người, và ở lại với ông. 9 Ông này có bốn người con gái đồng trinh được ơn nói tiên tri. 10 Đang khi chúng tôi ở lại đó nhiều ngày, có một ngôn sứ tên là A-ga-bô từ miền Giu-đê xuống. 11 Ông đến thăm chúng tôi và lấy dây lưng của ông Phao-lô tự trói chân tay lại và nói: ”Đây là điều Thánh Thần phán: người có dây lưng này sẽ bị người Do-thái trói lại như thế ở Giê-ru-sa-lem mà nộp vào tay người ngoại.” 12 Nghe vậy, chúng tôi và các người địa phương nài xin ông Phao-lô đừng lên Giê-ru-sa-lem. 13 Bấy giờ ông Phao-lô trả lời: ”Có gì mà anh em phải khóc và làm tan nát trái tim tôi? Phần tôi, tôi sẵn sàng không những để cho người ta trói, mà còn chịu chết tại Giê-ru-sa-lem vì danh Chúa Giê-su.” 14 Không thể thuyết phục được ông, chúng tôi đành thôi và nói: ”Xin cho ý Chúa được thể hiện!”

Ông Phao-lô tới Giê-ru-sa-lem

15 Sau mấy ngày đó, khi đã chuẩn bị xong, chúng tôi lên Giê-ru-sa-lem. 16 Có những môn đệ từ Xê-da-rê cùng đi với chúng tôi; họ dẫn chúng tôi đến trọ nhà ông Mơ-na-xon người Sýp, một môn đệ kỳ cựu.

17 Khi chúng tôi đến Giê-ru-sa-lem, các anh em niềm nở đón tiếp chúng tôi. 18 Hôm sau, ông Phao-lô cùng đi với chúng tôi đến nhà ông Gia-cô-bê, ở đó có đông đủ các kỳ mục đang họp. 19 Sau khi chào hỏi, ông Phao-lô kể lại từng chi tiết những gì Thiên Chúa đã dùng việc phục vụ của ông mà làm nơi các dân ngoại. 20 Nghe nói thế, họ tôn vinh Thiên Chúa, rồi nói với ông Phao-lô: ”Thưa anh, anh thấy có hàng vạn người Do-thái đã tin theo, và tất cả đều nhiệt thành đối với Luật Mô-sê. 21 Thế mà họ đã nghe nói về anh rằng: anh dạy tất cả những người Do-thái sống giữa các dân ngoại phải bỏ ông Mô-sê, anh bảo họ đừng làm phép cắt bì cho con cái, và đừng giữ các tục lệ nữa. 22 Vậy phải làm gì? Thế nào người ta cũng sẽ nghe biết là anh đã tới. 23 Vậy xin anh làm như chúng tôi nói với anh đây: chúng tôi có bốn người đang phải giữ lời khấn; 24 anh hãy đem họ theo mà cùng làm nghi lễ tẩy uế với họ, và đài thọ chi phí cho họ để họ có thể xuống tóc. Như vậy ai nấy sẽ biết rằng những điều họ đã nghe nói về anh chỉ là chuyện không đâu; trái lại, chính anh cũng ăn ở như người tuân giữ Lề Luật. 25 Còn về những người ngoại đã tin theo, thì chúng tôi đã viết thư thông báo những quyết định của chúng tôi, là họ phải kiêng: ăn đồ cúng cho ngẫu tượng, ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm.”

26 Bấy giờ ông Phao-lô đem bốn người kia theo, và ngày hôm sau ông cùng làm nghi lễ tẩy uế với họ. Rồi ông vào Đền Thờ và loan báo ngày kết thúc thời gian tẩy uế, là ngày phải dâng lễ vật cầu cho mỗi người trong nhóm họ.

Ông Phao-lô bị bắt

27 Khi sắp hết thời gian bảy ngày, những người Do-thái từ A-xi-a đến thấy ông trong Đền Thờ thì sách động toàn thể đám đông và tra tay bắt ông. 28 Họ tri hô: ”Hỡi đồng bào Ít-ra-en, giúp một tay nào! Nó kia kìa, tên vẫn đi mọi nơi dạy cho mọi người những điều phản dân, phạm đến Lề Luật và Nơi Thánh này! Nó còn đem cả mấy người Hy-lạp vào Đền Thờ mà làm cho Nơi Thánh này ra ô uế.” 29 Họ nói thế là vì trước đó họ đã thấy ông Trô-phi-mô, người Ê-phê-xô, cùng đi với ông Phao-lô trong thành, và họ nghĩ ông Phao-lô đã đưa ông ấy vào Đền Thờ.

30 Cả thành phố sôi động và dân đổ xô đến. Họ túm lấy ông Phao-lô, lôi ra khỏi Đền Thờ; lập tức người ta đóng các cửa Đền Thờ lại. 31 Họ còn đang tìm cách giết ông, thì có tin báo lên cho vị chỉ huy cơ đội: ”Cả Giê-ru-sa-lem náo động!”32 Lập tức, ông ta huy động một số binh sĩ và đại đội trưởng, và xông vào đám đông. Vừa thấy vị chỉ huy và binh sĩ, thì họ thôi không đánh ông Phao-lô nữa. 33 Bấy giờ vị chỉ huy lại gần, bắt ông và ra lệnh lấy hai cái xiềng còng ông lại, rồi hỏi cho biết ông là ai và đã làm gì. 34 Đám đông la hét, kẻ thế này, người thế nọ. Vì quá ồn ào, vị chỉ huy không thể biết được điều gì chắc chắn, nên mới ra lệnh đem ông Phao-lô về đồn. 35 Khi đến bậc thềm, binh sĩ phải khiêng ông đi, vì đám đông quá hung bạo. 36 Dân cứ theo sau cả đám mà hò la: ”Giết nó đi!”

37 Khi sắp bị đem vào đồn, ông Phao-lô nói với vị chỉ huy: ”Tôi có được phép nói với ông một lời chăng?” Ông này đáp: ”Ông biết tiếng Hy-lạp à? 38 Vậy ra ông không phải là tên Ai-cập, trước đây ít lâu, đã xúi bốn ngàn tên khủng bố nổi loạn và dẫn chúng vào sa mạc hay sao?” 39 Ông Phao-lô nói: ”Tôi đây là người Do-thái, quê ở Tác-xô miền Ki-li-ki-a, công dân một thành không phải là không có tiếng tăm. Xin ông cho phép tôi ngỏ lời với dân.” 40 Được vị chỉ huy cho phép, ông Phao-lô đứng trên bậc thềm giơ tay làm hiệu cho dân. Mọi người im phăng phắc; ông Phao-lô nói với họ bằng tiếng Híp-ri:

Chương 22

Ông Phao-lô nói với người Do-thái ở Giê-ru-sa-lem (Cv 9:1-19; 26:12-18 )

1 “Thưa quý vị là những bậc cha anh, xin nghe những lời biện bạch tôi nói với quý vị bây giờ đây.” 2 Khi nghe thấy ông nói với họ bằng tiếng Híp-ri, họ càng yên lặng hơn. Ông nói tiếp: 3 “Tôi là người Do-thái, sinh ở Tác-xô miền Ki-li-ki-a, nhưng tôi đã được nuôi dưỡng tại thành này; dưới chân ông Ga-ma-li-ên, tôi đã được giáo dục để giữ Luật cha ông một cách nghiêm ngặt. Tôi cũng đã nhiệt thành phục vụ Thiên Chúa như tất cả các ông hiện nay. 4 Tôi đã bắt bớ Đạo này, không ngần ngại giết kẻ theo Đạo, đã đóng xiềng và tống ngục cả đàn ông lẫn đàn bà, 5 như cả vị thượng tế lẫn toàn thể hội đồng kỳ mục có thể làm chứng cho tôi. Tôi còn được các vị ấy cho thư giới thiệu với anh em ở Đa-mát, và tôi đi để bắt trói những người ở đó, giải về Giê-ru-sa-lem trừng trị.

6 “Đang khi tôi đi đường và đến gần Đa-mát, thì vào khoảng trưa, bỗng nhiên có một luồng ánh sáng chói lọi từ trời chiếu xuống bao phủ lấy tôi. 7 Tôi ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với tôi: ”Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta? 8 Tôi đáp: ”Thưa Ngài, Ngài là ai? Người nói với tôi: ”Ta là Giê-su Na-da-rét mà ngươi đang bắt bớ. 9 Những người cùng đi với tôi trông thấy có ánh sáng, nhưng không nghe thấy tiếng Đấng đang nói với tôi. 10 Tôi nói: ”Lạy Chúa, con phải làm gì? Chúa bảo tôi: ”Hãy đứng dậy, đi vào Đa-mát, ở đó người ta sẽ nói cho anh biết tất cả những gì Thiên Chúa đã chỉ định cho anh phải làm. 11 Vì ánh sáng chói loà kia làm cho tôi không còn trông thấy nữa, nên tôi đã được các bạn đồng hành cầm tay dắt vào Đa-mát.

12 “Ở đó, có ông Kha-na-ni-a, một người sùng đạo, sống theo Lề Luật và được mọi người Do-thái ở Đa-mát chứng nhận là tốt. 13 Ông đến, đứng bên tôi và nói: ”Anh Sa-un, anh thấy lại đi! Ngay lúc đó, tôi thấy lại được và nhìn ông. 14 Ông nói: ”Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã chọn anh để anh được biết ý muốn của Người, được thấy Đấng Công Chính và nghe tiếng từ miệng Đấng ấy phán ra. 15 Quả vậy, anh sẽ làm chứng nhân cho Đấng ấy trước mặt mọi người về các điều anh đã thấy và đã nghe. 16 Vậy bây giờ anh còn chần chừ gì nữa? Anh hãy đứng lên, chịu phép rửa và thanh tẩy mình cho sạch tội lỗi, miệng kêu cầu danh Người.

17 “Khi trở về Giê-ru-sa-lem, đang lúc tôi cầu nguyện trong Đền Thờ, thì tôi xuất thần 18 và thấy Chúa bảo tôi: ”Mau lên, hãy rời khỏi Giê-ru-sa-lem gấp, vì chúng sẽ không nhận lời anh làm chứng về Thầy đâu. 19 Tôi thưa: ”Lạy Chúa, chính họ biết rõ con đây đã đến từng hội đường bắt giam và đánh đòn những kẻ tin Chúa. 20 Khi người ta đổ máu ông Tê-pha-nô, chứng nhân của Chúa, thì chính con cũng có mặt, con tán thành và giữ áo cho những kẻ giết ông ấy. 21 Chúa bảo tôi: ”Hãy đi, vì Thầy sẽ sai anh đến với các dân ngoại ở phương xa.

Ông Phao-lô, công dân Rô-ma

22 Đám đông lắng nghe ông Phao-lô nói tới đó thì hét lên: ”Hãy bứng khỏi mặt đất loại người như thế! Nó không đáng sống!”23 Họ hò la, phất áo và tung bụi lên trời. 24 Vị chỉ huy cơ đội ra lệnh đem ông Phao-lô vào đồn và truyền đánh đòn tra tấn, để biết lý do tại sao người ta hò hét phản đối ông ấy như vậy. 25 Họ vừa nọc ông Phao-lô ra để đánh đòn, thì ông nói với viên đại đội trưởng đứng gần đó: ”Một công dân Rô-ma chưa được xét xử, các ông có được phép đánh đòn không?” 26 Nghe vậy, viên đại đội trưởng đi báo cáo cho vị chỉ huy rằng: ”Ông định làm gì bây giờ? Đương sự là công dân Rô-ma!”27 Vị chỉ huy liền đến gặp ông Phao-lô và hỏi: ”Ông nói cho tôi biết: ông là công dân Rô-ma sao?” Ông Phao-lô trả lời: ”Phải.” 28 Vị chỉ huy nói tiếp: ”Tôi đây, tôi phải tốn bao nhiêu tiền của mới mua được quyền công dân ấy.” Ông Phao-lô đáp: ”Còn tôi, sinh ra đã có quyền ấy rồi.” 29 Lập tức những người sắp tra tấn ông rút lui, còn vị chỉ huy thì phát sợ, vì biết rằng ông Phao-lô là công dân Rô-ma mà mình lại đã còng ông ấy.

Ông Phao-lô ra trước Thượng Hội Đồng

30 Hôm sau, vì muốn biết chắc chắn người Do-thái tố cáo ông Phao-lô về điều gì, vị chỉ huy tháo xiềng cho ông và ra lệnh cho các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng họp lại, rồi ông đưa ông Phao-lô từ đồn xuống, để ra trước mặt họ.

Chương 23

1 Ông Phao-lô nhìn thẳng vào Thượng Hội Đồng rồi nói: ”Thưa anh em, cho đến ngày hôm nay, tôi đã ăn ở trước mặt Thiên Chúa với một lương tâm hoàn toàn ngay thẳng.” 2 Nhưng thượng tế Kha-na-ni-a truyền cho những người phụ tá đánh vào miệng ông Phao-lô. 3 Bấy giờ ông Phao-lô nói với ông ấy: ”Bức tường tô vôi kia, Thiên Chúa sẽ đánh ông! Ông ngồi xử tôi chiếu theo Lề Luật, mà ông lại ra lệnh đánh tôi trái với Lề Luật!”4 Những người phụ tá nói: ”Vị thượng tế của Thiên Chúa mà mi dám nguyền rủa sao?” 5 Ông Phao-lô trả lời: ”Thưa anh em, tôi không biết đó là thượng tế; quả có lời chép: Ngươi không được nguyền rủa người đầu mục trong dân.”

6 Ông Phao-lô biết rằng một phần Thượng Hội Đồng thuộc phái Xa-đốc, còn phần kia thuộc phái Pha-ri-sêu, nên ông nói lớn tiếng giữa hội nghị: ”Thưa anh em, tôi là người Pha-ri-sêu, thuộc dòng dõi Pha-ri-sêu; chính vì hy vọng rằng kẻ chết sẽ sống lại mà tôi bị đưa ra xét xử.” 7 Ông vừa nói thế, thì người Pha-ri-sêu và người Xa-đốc chống đối nhau, khiến hội nghị chia rẽ. 8 Thật vậy, người Xa-đốc chủ trương rằng chẳng có sự sống lại, chẳng có thiên sứ hay quỷ thần; còn người Pha-ri-sêu thì lại tin là có. 9 Người ta la lối om sòm. Có mấy kinh sư thuộc phái Pha-ri-sêu đứng lên phản đối mạnh mẽ: ”Chúng tôi không thấy người này có gì là xấu. Biết đâu một vị thần hay một thiên sứ đã nói với ông ấy?” 10 Hai bên chống đối gay gắt đến nỗi vị chỉ huy sợ người ta xé xác ông Phao-lô, nên mới ra lệnh cho lính xuống lôi ông ra khỏi đám người đó mà đưa về đồn.

11 Đêm ấy Chúa đến bên ông Phao-lô và nói: ”Hãy vững lòng! Con đã long trọng làm chứng cho Thầy ở Giê-ru-sa-lem thế nào, thì con cũng phải làm chứng như vậy tại Rô-ma nữa.”

Người Do-thái âm mưu giết ông Phao-lô

12 Sáng ngày ra, người Do-thái âm mưu với nhau. Họ thề độc là sẽ không ăn không uống, bao lâu chưa giết được ông Phao-lô. 13 Có trên bốn mươi người đã cùng thề với nhau như vậy. 14 Họ đến gặp các thượng tế và kỳ mục mà nói: ”Chúng tôi đã thề độc là sẽ không ăn uống gì, bao lâu chưa giết được tên Phao-lô. 15 Vậy bây giờ xin quý vị, cùng với Thượng Hội Đồng, đề nghị vị chỉ huy cho dẫn nó xuống với quý vị, lấy cớ là để điều tra về nó cho cặn kẽ hơn. Phần chúng tôi, chúng tôi sẵn sàng giết nó trước khi nó tới.”

16 Nhưng người con trai của bà chị ông Phao-lô nghe biết âm mưu đó, liền đến đồn và vào báo tin cho ông Phao-lô. 17 Ông Phao-lô mời viên đại đội trưởng đến và nói: ”Xin ông dẫn cháu này đến gặp vị chỉ huy, vì cháu có điều phải báo cáo cho ông ấy.” 18 Vậy viên đại đội trưởng đem cậu bé đi theo, dẫn đến gặp vị chỉ huy mà trình rằng: ”Tù nhân Phao-lô đã mời tôi đến và xin tôi dẫn cậu này đến gặp ông; cậu ấy có điều phải nói với ông.” 19 Vị chỉ huy nắm tay cậu bé, đưa riêng ra một nơi mà hỏi: ”Em có điều gì phải báo cáo cho ta biết?” 20 Cậu bé trả lời: ”Người Do-thái đã đồng ý với nhau là sẽ xin ông ngày mai cho điệu ông Phao-lô xuống Thượng Hội Đồng, lấy cớ là để tra hỏi cho cặn kẽ hơn. 21 Vậy xin ông đừng tin họ, vì có trên bốn mươi người trong bọn họ đang phục sẵn để hại ông ấy; họ đã thề độc là sẽ không ăn không uống, bao lâu chưa giết được ông ấy. Hiện giờ họ sẵn sàng, chỉ còn chờ ông chấp thuận.” 22 Vị chỉ huy cho cậu bé về và căn dặn: ”Đừng nói với ai là em đã tiết lộ những chuyện đó cho ta.”

Ông Phao-lô bị giải đi Xê-da-rê

23 Ông gọi hai viên đại đội trưởng đến và bảo: ”Các anh hãy chuẩn bị hai trăm bộ binh, bảy mươi kỵ binh và hai trăm khinh binh, để ngay giờ thứ ba đêm nay đi Xê-da-rê. 24 Cũng phải có sẵn ngựa cho ông Phao-lô, để đưa ông ấy an toàn đến với tổng trấn Phê-lích.”

25 Ông viết một bức thư nội dung như sau: 26 “Cơ-lau-đi-ô Ly-xi-a trân trọng chào ngài tổng trấn Phê-lích đáng kính. 27 Người này đã bị người Do-thái bắt và sắp bị họ giết, thì tôi đem lính đến giải thoát, vì được biết rằng đương sự là công dân Rô-ma. 28 Vì muốn biết rõ họ tố cáo đương sự về tội gì, tôi đã đưa đương sự ra trước Thượng Hội Đồng của họ. 29 Tôi thấy rằng đương sự bị tố cáo về những vấn đề liên quan đến Lề Luật của họ, nhưng không có tội gì đáng chết hay đáng bị tù. 30 Được báo là người ta âm mưu hại đương sự, tôi đã cho giải đương sự lên ngài ngay lập tức, một trật bảo nguyên cáo muốn kiện đương sự thì cứ lên ngài mà kiện.”

31 Tuân lệnh trên, binh lính đã nhận ông Phao-lô, và ban đêm đưa ông đi An-ti-pát-ri. 32 Hôm sau, họ để kỵ binh tiếp tục đi với ông, còn họ thì trở về đồn. 33 Đến Xê-da-rê, kỵ binh trình thư và giao ông Phao-lô cho tổng trấn. 34 Tổng trấn đọc thư và hỏi ông là người tỉnh nào. Biết ông là người miền Ki-li-ki-a, 35 ông nói: ”Tôi sẽ xét vụ của anh, khi nào cả nguyên cáo nữa cũng đến.” Rồi ông ra lệnh giam ông Phao-lô ở dinh Hê-rô-đê.

Chương 24

Tổng trấn Phê-lích xử vụ kiện ông Phao-lô

1 Năm ngày sau, thượng tế Kha-na-ni-a xuống Xê-da-rê cùng với một số kỳ mục và một trạng sư tên là Téc-tu-lô. Họ đến kiện ông Phao-lô trước toà tổng trấn. 2 Ông Phao-lô bị gọi ra toà, và ông Téc-tu-lô bắt đầu tố cáo như sau: ”Thưa ngài Phê-lích đáng kính, nhờ ngài chúng tôi được sống trong cảnh thái bình; nhờ ngài ân cần săn sóc, dân tộc này được hưởng nhiều cải cách. 3 Ở đâu và lúc nào chúng tôi cũng đón nhận những ân huệ ấy với tất cả lòng biết ơn. 4 Nhưng để khỏi quấy rầy ngài thêm, chúng tôi sẽ trình bày vắn tắt vụ việc như sau, xin ngài nghe với tấm lòng khoan hậu sẵn có. 5 Số là chúng tôi đã bắt gặp tên này, một thứ ôn dịch, chuyên gây bạo loạn giữa mọi người Do-thái trong thiên hạ, và là đầu sỏ phái Na-da-rét. 6 Y còn mưu toan xúc phạm đến Đền Thờ, và chúng tôi đã bắt y. 7 Chúng tôi muốn xử y chiếu theo Luật của chúng tôi, nhưng viên chỉ huy Ly-xi-a đã can thiệp, dùng bạo lực mà giật y khỏi tay chúng tôi, và truyền cho những người tố cáo y phải đến trước toà ngài. 8 Tra hỏi y, ngài sẽ có thể biết rõ về mọi điều chúng tôi tố cáo y.” 9 Người Do-thái tán đồng và quả quyết là đúng như vậy.

Ông Phao-lô tự biện hộ trước tổng trấn Rô-ma

10 Tổng trấn ra hiệu bảo ông Phao-lô nói, ông liền đáp: ”Tôi biết rằng đã từ nhiều năm, ngài cầm cân nảy mực cho dân tộc này, nên tôi sung sướng biện hộ cho mình. 11 Chính ngài có thể biết rõ: tôi lên Giê-ru-sa-lem hành hương đến nay chưa quá mười hai ngày. 12 Trong Đền Thờ, trong các hội đường cũng như trong thành phố, người ta đã không bắt gặp được tôi thảo luận với ai hay sách động đám đông. 13 Họ cũng không thể đưa ra cho ngài bằng chứng về những điều bây giờ họ tố cáo tôi.

14 “Tuy nhiên, tôi xin công nhận với ngài điều này: tôi phụng thờ Thiên Chúa của cha ông chúng tôi theo Đạo mà họ gọi là bè phái; tôi tin mọi điều chép trong sách Luật Mô-sê và sách Các Ngôn Sứ. 15 Tôi đặt nơi Thiên Chúa niềm hy vọng này, như chính họ cũng hy vọng, là người lành và kẻ dữ sẽ sống lại. 16 Vì thế, cả tôi nữa, tôi cố gắng để trước mặt Thiên Chúa và người ta, lương tâm tôi không có gì đáng chê trách.

17 “Sau nhiều năm, tôi về Giê-ru-sa-lem để đem tiền cứu trợ cho dân tộc tôi và để dâng lễ phẩm lên Thiên Chúa. 18 Chính lúc đó họ bắt gặp tôi trong Đền Thờ, sau khi tôi làm nghi lễ tẩy uế, không có tụ tập đám đông, cũng không gây ồn ào chi cả. 19 Có mấy người Do-thái từ A-xi-a đến. Đáng lẽ họ phải ra trình diện với ngài mà tố cáo tôi, nếu như họ có điều gì chống tôi. 20 Hoặc những người đang có mặt đây cứ nói xem: khi tôi ra trước Thượng Hội Đồng, họ đã tìm thấy điều gì phạm pháp? 21 Phải chăng là lời duy nhất tôi đã hô lên khi đứng giữa họ: chính vì sự phục sinh của kẻ chết mà hôm nay tôi bị các ông đưa ra xét xử?”

Ông Phao-lô bị giam ở Xê-da-rê

22 Ông Phê-lích là người biết rất chính xác về Đạo, ông hoãn vụ án lại và nói: ”Khi nào viên chỉ huy Ly-xi-a xuống, tôi sẽ xét vụ kiện của các người.” 23 Ông truyền cho viên đại đội trưởng giam ông Phao-lô, nhưng cho ông hưởng chế độ dễ dãi và không ngăn cấm thân nhân nào đến giúp đỡ ông.

24 Ít ngày sau, ông Phê-lích cùng đến với vợ là bà Đơ-ru-xi-la, người Do-thái. Ông cho vời ông Phao-lô đến và nghe ông nói về lòng tin vào Đức Ki-tô Giê-su. 25 Nhưng khi ông Phao-lô biện luận về đức công chính, sự tiết độ và cuộc phán xét mai sau, thì ông Phê-lích phát sợ nên nói: ”Bây giờ ông có thể lui ra. Khi nào tiện dịp, tôi sẽ cho gọi ông đến.” 26 Một trật, ông cũng hy vọng ông Phao-lô đút lót; vì thế ông năng cho vời ông Phao-lô đến nói chuyện.

27 Mãn hạn hai năm, ông Phê-lích được ông Po-ki-ô Phét-tô đến thay thế. Vì muốn được lòng người Do-thái, ông Phê-lích cứ để ông Phao-lô ở lại trong tù.

Chương 25

Ông Phao-lô kháng cáo lên hoàng đế Xê-da

1 Ba ngày sau khi nhậm chức, tổng trấn Phét-tô từ Xê-da-rê lên Giê-ru-sa-lem. 2 Các thượng tế và thân hào Do-thái đến kiện ông Phao-lô. Họ khẩn khoản 3 xin tổng trấn một ân huệ để hại ông Phao-lô, là đưa ông về Giê-ru-sa-lem, vì họ đang chuẩn bị một cuộc mai phục để giết ông dọc đường. 4 Nhưng ông Phét-tô đáp rằng ông Phao-lô đang bị giam giữ ở Xê-da-rê, còn chính ông cũng sắp sửa về đó ngay. 5 Ông lại thêm: ”Những ai trong các ông có đủ tư cách, hãy cùng xuống đó với tôi, và nếu đương sự có gì sai trái thì cứ việc tố.”

6 Sau khi ở lại Giê-ru-sa-lem không quá tám hay mười ngày, ông xuống Xê-da-rê. Hôm sau ông ra ngồi toà và truyền điệu ông Phao-lô đến. 7 Ông Phao-lô vừa tới, thì những người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem xuống đã vây quanh ông: họ tố cáo ông nhiều tội, mà toàn là tội nặng, nhưng họ không thể minh chứng. 8 Ông Phao-lô tự biện hộ: ”Tôi không có tội gì đối với Lề Luật Do-thái, đối với Đền Thờ hay hoàng đế Xê-da.” 9 Ông Phét-tô muốn được lòng người Do-thái nên đề nghị với ông Phao-lô: ”Ông có muốn lên Giê-ru-sa-lem để được xử tại đó trước mặt tôi về những lời tố cáo này không?” 10 Nhưng ông Phao-lô đáp: ”Tôi đang đứng trước toà án của hoàng đế Xê-da, tôi phải được xử tại đó. Tôi đã không làm gì hại người Do-thái, như chính ngài thừa biết. 11 Nếu quả thật tôi có tội, nếu tôi đã làm điều gì đáng chết, thì tôi không xin tha chết. Nhưng nếu những điều tố cáo của các người này là vô căn cứ, thì không ai có quyền nộp tôi cho họ. Tôi kháng cáo lên hoàng đế Xê-da!”12 Bấy giờ ông Phét-tô bàn với hội đồng tư vấn, rồi trả lời: ”Ông đã kháng cáo lên hoàng đế Xê-da, thì ông sẽ lên hoàng đế Xê-da.”

Ông Phao-lô ra trình diện vua Ác-ríp-pa

13 Ít ngày sau, vua Ác-ríp-pa và bà Béc-ni-kê đến Xê-da-rê chào mừng ông Phét-tô. 14 Vì hai người ở lại đó nhiều ngày, ông Phét-tô mới đem vụ ông Phao-lô ra trình bày với nhà vua. Ông nói: ”Ở đây có một người tù ông Phê-lích để lại. 15 Khi tôi tới Giê-ru-sa-lem, các thượng tế và các kỳ mục Do-thái đến kiện và xin tôi kết án người ấy. 16 Tôi đã trả lời họ rằng người Rô-ma không có lệ nộp bị cáo nào, trước khi đương sự ra đối chất với nguyên cáo, và được cơ hội biện hộ về lời tố cáo. 17 Vậy họ cùng đến đây với tôi, và không chút trì hoãn, ngày hôm sau tôi ra ngồi toà và truyền điệu đương sự đến. 18 Đứng quanh đương sự, các nguyên cáo đã không đưa ra một tội trạng nào như tôi tưởng. 19 Họ chỉ tranh luận với ông ta về một số vấn đề liên quan đến tôn giáo riêng của họ, và liên quan đến một ông Giê-su nào đó đã chết, mà Phao-lô quả quyết là vẫn sống. 20 Phần tôi, phân vân trước cuộc tranh luận về những chuyện ấy, tôi hỏi xem ông ta có muốn đi Giê-ru-sa-lem để được xử tại đó về vụ này không. 21 Nhưng Phao-lô đã kháng cáo, xin dành vụ này cho Thánh Thượng xét xử, nên tôi đã ra lệnh giữ ông ta lại cho đến khi giải lên hoàng đế.” 22 Bấy giờ vua Ác-ríp-pa nói với ông Phét-tô: ”Tôi cũng muốn được nghe ông ta nói.” Ông Phét-tô trả lời: ”Ngày mai ngài sẽ được nghe.”

23 Vậy hôm sau vua Ác-ríp-pa và bà Béc-ni-kê tiến vào công đường cách rất long trọng, cùng với các sĩ quan chỉ huy cơ đội và các người có chức vị trong thành phố. Theo lệnh của ông Phét-tô, người ta điệu ông Phao-lô đến. 24 Ông Phét-tô nói: ”Kính thưa đức vua Ác-ríp-pa và toàn thể quý vị có mặt ở đây với chúng tôi, quý vị thấy người này: toàn thể cộng đồng Do-thái đã đến gặp tôi, ở Giê-ru-sa-lem cũng như ở đây, về việc của đương sự. Họ la lên rằng đương sự không được phép sống nữa. 25 Phần tôi, tôi không thấy đương sự đã làm gì đáng chết; nhưng vì chính đương sự đã kháng cáo lên thánh thượng, nên tôi đã quyết định giải về kinh. 26 Về vụ của đương sự, tôi không có gì chắc chắn để tâu lên chúa thượng. Vì thế tôi đã đưa đương sự ra trình diện quý vị, và nhất là ngài, kính thưa đức vua Ác-ríp-pa, để sau lần tra hỏi này, tôi sẽ có gì để tâu. 27 Vì thiết tưởng giải tù nhân lên, mà không nói rõ đương sự bị tố cáo về những tội gì, thì thật là vô lý.”

Chương 26

Diễn từ của ông Phao-lô trước mặt vua Ác-ríp-pa (Cv 9:1-19; 22:6-16 )

1 Vua Ác-ríp-pa nói với ông Phao-lô: ”Ông được phép tự bào chữa.” Ông Phao-lô bèn giơ tay ra tự biện hộ:

2 “Kính thưa đức vua Ác-ríp-pa, tôi lấy làm sung sướng vì hôm nay sắp được tự biện hộ trước mặt ngài, về mọi điều người Do-thái tố cáo tôi, 3 nhất là vì ngài am hiểu tất cả những tục lệ và những chuyện tranh luận giữa người Do-thái. Bởi thế, xin ngài kiên nhẫn nghe tôi nói.

4 “Tôi đã sống như thế nào từ hồi niên thiếu, ngay từ đầu, giữa dân tộc tôi và tại Giê-ru-sa-lem, điều đó mọi người Do-thái đều rõ. 5 Từ lâu họ đã biết, và nếu muốn, họ có thể làm chứng rằng tôi đã sống theo phái nghiêm nhặt nhất trong tôn giáo chúng tôi, tức là phái Pha-ri-sêu. 6 Và giờ đây tôi bị đưa ra toà chính là vì hy vọng điều Thiên Chúa đã hứa cho cha ông chúng tôi. 7 Mười hai chi tộc chúng tôi ngày đêm kiên trì thờ phượng Chúa, hy vọng thấy lời hứa ấy được thực hiện. Kính thưa đức vua, chính vì niềm hy vọng đó mà tôi bị người Do-thái tố cáo. 8 Sao trong quý vị lại có người cho rằng việc Thiên Chúa làm cho kẻ chết sống lại là chuyện không thể tin được?

9 “Về phần tôi, trước kia tôi nghĩ rằng phải dùng mọi cách để chống lại danh Giê-su người Na-da-rét. 10 Đó là điều tôi đã làm tại Giê-ru-sa-lem. Được các thượng tế uỷ quyền, chính tôi đã bỏ tù nhiều người trong dân thánh; và khi họ bị xử tử, tôi đã bỏ phiếu tán thành. 11 Nhiều lần tôi đã rảo khắp các hội đường, dùng cực hình cưỡng bức họ phải nói lộng ngôn. Tôi đã giận dữ quá mức đến nỗi sang cả các thành nước ngoài mà bắt bớ họ.

12 “Thế là sau khi được các thượng tế trao quyền và uỷ nhiệm, tôi lên đường đi Đa-mát. 13 Kính thưa đức vua, đang khi đi đường, vào lúc trưa, tôi đã thấy một luồng ánh sáng chói lọi hơn mặt trời, từ trời chiếu toả xuống chung quanh tôi và các bạn đồng hành. 14 Tất cả chúng tôi đều ngã nhào xuống đất, và tôi nghe có tiếng nói với tôi bằng tiếng Híp-ri: ”Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Đá lại mũi nhọn thì khốn cho ngươi! 15 Tôi hỏi: ”Thưa Ngài, Ngài là ai? Chúa đáp: ”Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ. 16 Nhưng ngươi hãy chỗi dậy, đứng thẳng lên. Ta hiện ra với ngươi là để chọn ngươi làm đầy tớ và làm chứng nhân về những điều ngươi đã thấy, cũng như những điều Ta sẽ hiện ra mà tỏ cho ngươi biết. 17 Ta sẽ cứu ngươi thoát khỏi tay dân Do-thái và các dân ngoại: Ta sai ngươi đến với chúng 18 để mở mắt cho chúng, khiến chúng rời bóng tối mà trở về cùng ánh sáng, thoát khỏi quyền lực Xa-tan mà trở về cùng Thiên Chúa. Như vậy, nhờ tin vào Ta, chúng sẽ được ơn tha tội và được hưởng phần gia tài cùng với các người đã được thánh hiến.”

19 “Từ đó, kính thưa đức vua Ác-ríp-pa, tôi đã không cưỡng lại thị kiến bởi trời. 20 Trái lại, tôi đã rao giảng trước hết cho những người ở Đa-mát, rồi cho những người ở Giê-ru-sa-lem và trong khắp miền Giu-đê, sau đó cho các dân ngoại, kêu gọi họ sám hối và trở về cùng Thiên Chúa, đồng thời làm những việc chứng tỏ lòng ăn năn sám hối. 21 Chính vì thế, người Do-thái đã bắt tôi khi tôi đang ở trong Đền Thờ và tìm cách giết tôi. 22 Được Thiên Chúa phù hộ, cho đến ngày hôm nay, tôi vẫn tiếp tục làm chứng trước mặt kẻ nhỏ cũng như kẻ lớn; tôi không nói gì khác ngoài những điều các ngôn sứ và ông Mô-sê đã báo trước sẽ xảy ra, 23 đó là: Đấng Ki-tô sẽ chịu đau khổ và là người đầu tiên sống lại từ cõi chết, để loan báo ánh sáng cho dân Do-thái cũng như cho các dân ngoại.”

Phản ứng của cử toạ

24 Ông Phao-lô còn đang tự biện hộ như thế, thì ông Phét-tô lớn tiếng nói: ”Ông Phao-lô, ông điên mất rồi! Ông hay chữ quá nên hoá điên!”25 Ông Phao-lô đáp: ”Thưa ngài Phét-tô đáng kính, tôi không điên đâu, nhưng tôi nói lên những điều hợp với sự thật và lẽ phải. 26 Quả thế, đức vua biết rõ những điều ấy, và tôi mạnh dạn nói với người: tôi tin chắc rằng trong các điều ấy, không có gì mà người không biết, vì chuyện này đã không xảy ra ở một xó nào đó. 27 Kính thưa đức vua Ác-ríp-pa, chắc là ngài tin các ngôn sứ? Tôi biết là ngài tin.” 28 Vua Ác-ríp-pa nói với ông Phao-lô: ”Chút nữa là ông thuyết phục được tôi trở thành Ki-tô hữu rồi đấy!”29 Ông Phao-lô trả lời: ”Chút nữa hay nhiều nữa, thì tôi cũng xin Thiên Chúa cho, không những ngài, mà hết mọi người đang nghe tôi nói hôm nay, được trở nên giống như tôi, trừ ra những xiềng xích này!”

30 Bấy giờ nhà vua, ông tổng trấn, bà Béc-ni-kê và cử toạ đứng dậy. 31 Khi ra về, họ nói với nhau: ”Người này không làm chi đáng chết hay đáng bị tù.” 32 Vua Ác-ríp-pa nói với ông Phét-tô: ”Đáng lẽ người này có thể được thả ra, nếu đã chẳng kháng cáo lên hoàng đế Xê-da.”

Chương 27

Ông Phao-lô khởi hành đi Rô-ma

1 Khi có quyết định cho chúng tôi đáp tàu sang I-ta-li-a, người ta giao ông Phao-lô và mấy tù nhân khác cho một đại đội trưởng tên là Giu-li-ô, thuộc cơ đội Au-gút-ta. 2 Chúng tôi xuống một chiếc tàu của thành Át-ra-mýt-ti-on, sắp nhổ neo đi các cảng miền A-xi-a và chúng tôi ra khơi. Cùng đi với chúng tôi có anh A-rít-ta-khô, một người Ma-kê-đô-ni-a quê Thê-xa-lô-ni-ca. 3 Hôm sau, chúng tôi cập bến Xi-đôn; ông Giu-li-ô xử nhân đạo với ông Phao-lô, cho phép ông đi thăm bạn hữu và để họ săn sóc ông. 4 Từ đó, chúng tôi lại ra khơi và đi vòng theo đảo Sýp, vì gió ngược. 5 Rồi chúng tôi vượt qua biển Ki-li-ki-a và Pam-phy-li-a và tới My-ra miền Ly-ki-a. 6 Ở đấy, viên đại đội trưởng tìm được một chiếc tàu của thành A-lê-xan-ri-a sắp đi I-ta-li-a, nên ông cho chúng tôi sang tàu đó.

7 Trong vòng nhiều ngày, tàu đi chậm, và vất vả lắm chúng tôi mới đến ngang Cơ-ni-đô. Vì không thuận gió, chúng tôi đi vòng theo đảo Cơ-rê-ta, hướng về phía mũi Xan-mô-nê. 8 Chúng tôi vất vả đi men theo mũi đó đến một nơi gọi là Bến Lành, gần đó có thành La-xai-a.

Ông Phao-lô gặp bão và bị đắm tàu

9 Chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, và việc đi biển từ nay thật nguy hiểm, vì ngày ăn chay đã qua rồi. Ông Phao-lô khuyên họ: 10 “Thưa các bạn, tôi thấy rằng chuyến đi biển này sẽ gây nhiều thiệt hại và mất mát, chẳng những cho hàng hoá và con tàu, mà còn cho tính mạng chúng ta nữa.” 11 Nhưng viên đại đội trưởng tin tài công và chủ tàu hơn tin lời ông Phao-lô. 12 Vì cảng không thích hợp cho tàu ở lại qua mùa đông, nên đa số có ý kiến lại ra khơi, để nếu có thể thì cập bến và qua mùa đông ở Phê-ních, một cảng khác trên đảo Cơ-rê-ta quay về hướng tây nam và tây bắc.

13 Một cơn gió nam thổi nhẹ, khiến họ tưởng rằng có thể thực hiện được ý định, nên nhổ neo và cho tàu đi men theo đảo Cơ-rê-ta. 14 Nhưng chẳng bao lâu một trận cuồng phong, gọi là gió đông bắc, từ đảo thổi ra. 15 Tàu bị cuốn đi, không thể chống chọi với gió, nên chúng tôi đành để cho trôi giạt. 16 Khi chạy vòng phía sau một đảo nhỏ tên là Cau-đa, chúng tôi vất vả lắm mới ghì chiếc xuồng lại được. 17 Kéo nó lên rồi, họ dùng các phương tiện cấp cứu, lấy thừng đánh đai con tàu. Rồi, vì sợ tàu bị mắc cạn trong vịnh Xiếc-ti, họ thả neo nổi và cứ để tàu trôi giạt. 18 Chúng tôi vẫn bị bão dữ dội, nên hôm sau thủy thủ ném hàng hoá xuống biển, 19 và hôm sau nữa họ tự tay quăng đồ trang bị của tàu đi. 20 Đã từ nhiều ngày, chẳng thấy mặt trời hay một vì sao nào xuất hiện, còn bão vẫn thổi mạnh, nên chúng tôi mất dần hy vọng được cứu.

21 Từ lâu không ai ăn uống gì; bấy giờ ông Phao-lô đứng giữa họ mà nói: ”Thưa các bạn, phải chi các bạn đã nghe tôi không rời đảo Cơ-rê-ta, thì đã tránh được những thiệt hại mất mát này. 22 Nhưng giờ đây tôi khuyên các bạn cứ can đảm, vì không ai trong các bạn phải mất mạng đâu, chỉ mất tàu thôi. 23 Thật vậy, đêm vừa rồi, một thiên sứ của Thiên Chúa là Chúa Tể của tôi và là Đấng tôi phụng thờ, đã hiện ra với tôi 24 và bảo: ”Này ông Phao-lô, đừng sợ! Ông phải ra trước toà hoàng đế Xê-da; vì thương ông, Thiên Chúa cho tất cả những người cùng đi tàu với ông được sống. 25 Vì thế, thưa các bạn, hãy can đảm lên! Tôi tin tưởng nơi Thiên Chúa: sự việc sẽ xảy ra đúng như lời đã phán với tôi. 26 Nhưng chúng ta sẽ phải mắc cạn ở một hòn đảo.”

27 Đến đêm thứ mười bốn, chúng tôi đang trôi giạt trên biển Át-ri-a, thì vào quãng nửa đêm, các thủy thủ có cảm giác như đang tới gần đất. 28 Thả dây dò đáy biển, họ thấy sâu hai mươi sải; cách một quãng, họ lại thả dây dò lần nữa, thì thấy còn mười lăm sải. 29 Sợ rằng tàu chúng tôi có thể đụng phải đá ngầm, họ thả bốn chiếc neo ở đằng lái và cầu mong cho trời mau sáng. 30 Nhưng các thủy thủ tìm cách bỏ tàu mà trốn: họ hạ chiếc xuồng xuống biển, lấy cớ là để thả neo đằng mũi. 31 Ông Phao-lô mới bảo viên đại đội trưởng và binh sĩ: ”Nếu những người này không ở lại trên tàu, thì các ông không thể được cứu đâu!”32 Lính bèn cắt đứt dây xuồng, cho nó trôi đi.

33 Trong khi đợi trời sáng, ông Phao-lô khuyên mọi người nên ăn uống; ông nói: ”Cho đến hôm nay là mười bốn ngày, các bạn nhịn đói chờ đợi, không ăn gì cả. 34 Vậy tôi khuyên các bạn nên ăn uống, vì có thế các bạn mới được cứu. Không ai trong các bạn sẽ mất một sợi tóc trên đầu.” 35 Nói thế rồi, ông cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn Thiên Chúa trước mặt mọi người, bẻ ra và bắt đầu ăn. 36 Mọi người lấy lại được can đảm và họ cũng ăn uống. 37 Chúng tôi ở trên tàu tất cả là hai trăm bảy mươi sáu người. 38 Sau khi ăn no, họ đổ lúa mì xuống biển cho tàu nhẹ bớt.

39 Đến sáng, họ không nhận ra được đó là đất nào, nhưng thấy rõ một vùng có bãi cát, và tính chuyện cho tàu chạy vào, nếu có thể. 40 Họ mới gỡ các neo, bỏ lại dưới biển, đồng thời tháo những thừng cột bánh lái ra; rồi căng buồm đằng mũi lên cho gió thổi, hướng thẳng vào bãi. 41 Nhưng họ đụng phải bãi cát ngầm, nên cho tàu mắc cạn ở đó. Mũi tàu đâm vào cát, không nhúc nhích được, còn đằng lái thì bị sóng mạnh đánh vỡ tan.

42 Bấy giờ binh sĩ nẩy ra ý muốn giết các người tù, vì sợ có người bơi được mà trốn mất. 43 Nhưng viên đại đội trưởng muốn cứu ông Phao-lô nên ngăn cản họ thực hiện ý định. Ông ra lệnh cho những ai biết bơi thì nhảy xuống trước bơi vào bờ; 44 còn những người khác thì bám vào ván hoặc mảnh tàu vỡ mà vào. Thế là mọi người vào được bờ và được cứu.

Chương 28

Ông Phao-lô tại đảo Man-ta

1 Được cứu rồi, chúng tôi mới biết đảo ấy gọi là Man-ta. 2 Dân địa phương đối xử với chúng tôi một cách nhân đạo hiếm có. Họ đốt một đống lửa to và tiếp đón tất cả chúng tôi, vì trời đã bắt đầu mưa và lạnh. 3 Ông Phao-lô vơ được một mớ cành khô và đang bỏ vào lửa, thì một con rắn độc bị nóng bò ra, cuốn vào tay ông. 4 Người địa phương thấy con vật lủng lẳng ở tay ông thì bảo nhau: ”Chắc chắn người này là một tên sát nhân: hắn vừa được cứu khỏi chết dưới biển, nhưng Thần Công Lý đã không để cho sống.” 5 Nhưng ông giũ con vật vào lửa mà không hề hấn gì. 6 Họ cứ đợi ông sẽ sưng phù lên hoặc lăn ra chết; nhưng đợi lâu mà không thấy có gì khác thường xảy đến cho ông, thì đổi ý và bảo ông là một vị thần.

7 Gần nơi ấy, có đồn điền của viên quan lớn nhất đảo, tên là Púp-li-ô. Ông tiếp đón chúng tôi và niềm nở cho chúng tôi trú ngụ trong ba ngày. 8 Có ông thân sinh ông Púp-li-ô đang liệt giường vì bị sốt và kiết lỵ. Ông Phao-lô vào thăm, cầu nguyện, đặt tay trên ông và chữa khỏi. 9 Thấy thế, các bệnh nhân khác trên đảo cũng đến với ông và được chữa lành. 10 Họ trọng đãi chúng tôi, và khi chúng tôi xuống tàu, họ đã đem tới những gì chúng tôi cần dùng.

Từ Man-ta tới Rô-ma

11 Ba tháng sau, chúng tôi ra khơi trên một chiếc tàu đã qua mùa đông tại đảo; tàu này của thành A-lê-xan-ri-a và mang huy hiệu hai thần Đi-ốt-cu-ri. 12 Chúng tôi ghé vào thành Xy-ra-cu-xa và ở lại đó ba ngày. 13 Từ nơi ấy, chúng tôi đi men theo bờ biển và tới thành Rê-gi-ô. Ngày hôm sau có gió nam nổi lên, và sau hai ngày chúng tôi tới cảng Pu-tê-ô-li. 14 Ở đây chúng tôi gặp được những người anh em, họ mời chúng tôi ở lại với họ bảy ngày. Chúng tôi đến Rô-ma như thế đó.

15 Các anh em ở Rô-ma nghe tin chúng tôi tới thì đến tận chợ Áp-pi-ô và Ba Quán đón chúng tôi. Thấy họ, ông Phao-lô tạ ơn Thiên Chúa và thêm can đảm. 16 Khi chúng tôi vào Rô-ma, ông Phao-lô được phép ở nhà riêng cùng với người lính canh giữ ông.

Ông Phao-lô tiếp xúc với kiều bào Do-thái ở Rô-ma

17 Ba ngày sau, ông mời các thân hào Do-thái đến. Khi họ đã tới đông đủ, ông nói với họ: ”Thưa anh em, tôi đây, mặc dầu đã không làm gì chống lại dân ta hay các tục lệ của tổ tiên, tôi đã bị bắt tại Giê-ru-sa-lem và bị nộp vào tay người Rô-ma. 18 Sau khi điều tra, họ muốn thả tôi, vì tôi không có tội gì đáng chết. 19 Nhưng vì người Do-thái chống đối, nên bó buộc tôi phải kháng cáo lên hoàng đế Xê-da; tuy vậy không phải là tôi muốn tố cáo dân tộc tôi. 20 Đó là lý do khiến tôi xin được gặp và nói chuyện với anh em, bởi chính vì niềm hy vọng của Ít-ra-en mà tôi phải mang xiềng xích này.”

21 Họ nói với ông: ”Về phía chúng tôi, chúng tôi không nhận được thư nào từ Giu-đê nói về ông, cũng chẳng có ai trong các anh em đến đây báo cáo hoặc nói gì xấu về ông. 22Chúng tôi muốn được nghe ông trình bày ý nghĩ của ông, vì chúng tôi biết là phái của ông đến đâu cũng gặp chống đối.”

Ông Phao-lô tuyên bố với kiều bào Do-thái ở Rô-ma

23 Họ hẹn ngày với ông, và hôm đó đến gặp ông tại nhà trọ đông hơn. Ông trình bày cho họ và long trọng làm chứng về Nước Thiên Chúa; từ sáng đến chiều, ông dựa vào Luật Mô-sê và các ngôn sứ mà nói về Đức Giê-su, để cố thuyết phục họ. 24 Nghe ông nói, người thì được thuyết phục, người thì không chịu tin. 25 Khi giải tán, họ vẫn không đồng ý với nhau; ông Phao-lô chỉ nói thêm một lời: ”Thánh Thần đã nói rất đúng khi dùng ngôn sứ I-sai-a mà phán với cha ông anh em 26 rằng: Hãy đến gặp dân này và nói: Các ngươi có lắng tai nghe cũng không hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; 27 vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành.

28 “Vậy xin anh em biết cho rằng: ơn cứu độ này của Thiên Chúa đã được gửi đến cho các dân ngoại; họ thì họ sẽ nghe.” 29 Ông nói thế rồi thì người Do-thái đi ra, tranh luận với nhau rất sôi nổi.

30 Suốt hai năm tròn, ông Phao-lô ở tại nhà ông đã thuê, và tiếp đón tất cả những ai đến với ông. 31 Ông rao giảng Nước Thiên Chúa và dạy về Chúa Giê-su Ki-tô, một cách rất mạnh dạn, không gặp ngăn trở nào.

Rô-ma

Chương 1

Lời mở đầu

1 Tôi là Phao-lô, tôi tớ của Đức Ki-tô Giê-su; tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa. 2 Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh. 3 Đó là Tin Mừng về Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.

4 Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng.

5 Nhờ Người, chúng tôi đã nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ, làm cho hết thảy các dân ngoại vâng phục Tin Mừng hầu danh Người được rạng rỡ. 6 Trong số đó, có cả anh em, là những người đã được kêu gọi để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô.

7 Kính gửi tất cả anh em ở Rô-ma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi làm dân thánh.

Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.

Tạ ơn và cầu xin

8 Trước hết, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, tôi tạ ơn Thiên Chúa của tôi về tất cả anh em, vì trong khắp hoàn cầu, ai ai cũng đều nói đến lòng tin của anh em. 9 Thiên Chúa là Đấng tôi hết lòng thờ phượng khi loan báo Tin Mừng về Con của Người, chính Người làm chứng cho tôi là tôi hằng nhắc nhở đến anh em: 10 mỗi khi cầu nguyện, tôi hằng xin Người cho tôi có ngày nào được dịp tốt đến thăm anh em, nếu Người muốn. 11 Thật vậy, tôi rất ước ao được gặp anh em, để chia sẻ với anh em phần nào ân huệ của Thánh Thần, nhờ đó anh em vững mạnh, 12 nghĩa là để chúng ta cùng khích lệ nhau, bởi vì cả anh em lẫn tôi, chúng ta đều chung một niềm tin. 13 Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết là đã nhiều lần tôi có ý định đến thăm anh em, mong cũng thâu lượm được kết quả nào đó nơi anh em, như đã thâu lượm được nơi các dân ngoại khác, nhưng cho đến nay tôi cứ bị ngăn trở hoài. 14 Tôi mắc nợ người Hy-lạp cũng như người man-di, người thông thái cũng như người dốt nát. 15 Bởi vậy, tôi nóng lòng loan báo Tin Mừng cho cả anh em nữa, những người đang sống ở Rô-ma.

CON NGƯỜI ĐƯỢC CỨU ĐỘ NHỜ ĐỨC TIN

1. THIÊN CHÚA LÀM CHO CON NGƯỜI NÊN CÔNG CHÍNH

Đề tài bức thư

16 Vâng, tôi không hổ thẹn vì Tin Mừng. Quả thế, Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp. 17 Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống.

A. NGƯỜI NGOẠI VÀ NGƯỜI DO-THÁI PHẢI CHỊU CƠN THỊNH NỘ CỦA THIÊN CHÚA

Người ngoại phải chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa

18 Thật vậy, từ trời, Thiên Chúa mặc khải cơn thịnh nộ của Người chống lại mọi thứ vô luân và bất chính của những người lấy sự bất chính mà giam hãm chân lý. 19 Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa, thì thật là hiển nhiên trước mắt họ, vì chính Thiên Chúa đã cho họ thấy rõ. 20 Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người. Do đó, họ không thể tự bào chữa được, 21 vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay cảm tạ Người cho phải đạo. Trái lại, đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội. 22 Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã trở nên điên rồ. 23 Thay vì Thiên Chúa vinh quang bất tử, họ đã thờ hình tượng người phàm là loài phải chết, hay hình tượng các loài chim chóc, thú vật, rắn re

Chương 2

Người Do-thái cũng phải chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa

1 Hỡi người, dù bạn là ai đi nữa mà bạn xét đoán, thì bạn cũng không thể tự bào chữa được. Vì khi bạn xét đoán người khác, mà bạn cũng làm như họ, thì bạn tự kết án chính mình. 2 Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa cứ theo sự thật mà xét xử những ai làm những điều đó. 3 Còn bạn, hỡi người xét đoán những kẻ làm những điều đó trong khi chính mình cũng làm như vậy, bạn tưởng mình sẽ khỏi bị Thiên Chúa xét xử sao? 4 Hay là bạn coi thường lòng Chúa vô cùng nhân hậu, khoan dung, đại lượng, mà không nhận ra rằng: Thiên Chúa nhân hậu như thế là để thúc giục bạn hối cải sao? 5 Thế nhưng bạn lòng chai dạ đá không chịu hối cải, và như vậy bạn càng làm cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa chồng chất trên đầu bạn, trong ngày Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ và biểu lộ phán quyết công minh. 6 Ngày đó, Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tuỳ theo việc họ làm; 7 những ai bền chí làm việc thiện mà tìm vinh quang, danh dự và phúc trường sinh bất tử, thì Thiên Chúa sẽ cho họ được sống đời đời; 8 còn những ai chống Thiên Chúa mà không vâng phục chân lý và chạy theo điều ác, thì Người sẽ nổi trận lôi đình, trút cơn thịnh nộ xuống đầu họ. 9 Người sẽ bắt mọi kẻ làm điều ác phải gian nan khốn khổ, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp. 10 Nhưng Người sẽ ban vinh quang, danh dự và bình an cho tất cả những ai làm điều thiện, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp, 11 vì Thiên Chúa không thiên vị ai.

Mặc dầu có Luật Mô-sê

12 Quả thế, những người không biết Luật Mô-sê mà phạm tội, thì sẽ bị diệt vong không chiếu theo Luật đó. Còn những người sống dưới Luật Mô-sê mà phạm tội, thì sẽ bị xét xử theo Luật đó. 13 Thật vậy, người ta được Thiên Chúa coi là công chính, không phải vì nghe biết Lề Luật, nhưng là vì tuân giữ Lề Luật. 14 Dân ngoại là những người không có Luật Mô-sê; nhưng mỗi khi họ theo lẽ tự nhiên mà làm những gì Luật dạy, thì họ là Luật cho chính mình, mặc dầu họ không có Luật Mô-sê. 15 Họ cho thấy là điều gì Luật đòi hỏi, thì đã được ghi khắc trong lòng họ. Lương tâm họ cũng chứng thực điều đó, vì họ tự phán đoán trong lòng, khi thì cho mình là trái, khi thì cho mình là phải. 16 Người ta sẽ thấy điều đó, trong ngày Thiên Chúa cho Đức Ki-tô Giê-su đến xét xử những gì bí ẩn nơi con người theo Tin Mừng tôi rao giảng.

17 Còn bạn, bạn mang tên là người Do-thái, lại ỷ rằng mình có Lề Luật, và tự hào vì có Thiên Chúa; 18 bạn được biết ý Người, được Lề Luật dạy cho điều hay lẽ phải; 19 bạn xác tín rằng mình là người dẫn dắt kẻ mù loà, là ánh sáng cho kẻ ở trong bóng tối, 20 là nhà giáo dục kẻ u mê, là thầy dạy người non dại, vì bạn tưởng mình có Lề Luật là có tất cả tri thức và chân lý: 21 Vậy, bạn biết dạy người khác, mà lại không dạy chính mình! Bạn giảng: đừng trộm cắp, mà bạn lại trộm cắp! 22 Bạn nói: chớ ngoại tình, mà bạn lại ngoại tình! Bạn gớm ghét ngẫu tượng, mà bạn lại cướp bóc đền miếu! 23 Bạn tự hào vì có Lề Luật, mà bạn lại vi phạm Lề Luật, và như vậy bạn làm nhục Thiên Chúa! 24 Thật đúng như lời chép: Chính vì các người mà danh Thiên Chúa bị phỉ báng giữa chư dân.

Mặc dầu có phép cắt bì

25 Còn phép cắt bì, đã hẳn là có ích, nếu bạn thi hành Lề Luật. Nhưng nếu bạn vi phạm Lề Luật, thì bạn có được cắt bì cũng kể như không cắt bì. 26 Trái lại, nếu người không được cắt bì mà giữ những điều Luật dạy, thì tuy họ không được cắt bì, Thiên Chúa chẳng coi họ như đã được cắt bì sao? 27 Người không được cắt bì trong thân xác mà vẫn chu toàn Lề Luật, người ấy sẽ lên án bạn, vì bạn có Lề Luật ghi chép hẳn hoi và bạn đã được cắt bì, mà vẫn vi phạm Lề Luật. 28 Thật vậy, người Do-thái chính hiệu không phải là căn cứ vào cái thấy được bên ngoài, phép cắt bì chính hiệu không phải là căn cứ vào cái thấy được bên ngoài, nơi thân xác. 29 Nhưng người Do-thái chính hiệu là người Do-thái tận đáy lòng, phép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo chữ viết của Lề Luật. Người như thế được Thiên Chúa chứ không phải người phàm khen ngợi.

Chương 3

Mặc dầu có lời hứa của Thiên Chúa

1 Vậy thì người Do-thái được gì hơn? Phép cắt bì có ích lợi gì? 2 Nhiều lắm chứ! Về mọi mặt! Trước hết, họ đã được Thiên Chúa giao phó lời Người cho họ. 3 Nhưng nếu có một số người Do-thái không trung tín thì sao? Chẳng lẽ sự bất trung bất tín của họ lại làm cho lòng trung tín của Thiên Chúa ra vô hiệu? 4 Không phải thế! Thiên Chúa nhất định là Đấng chân thật, còn mọi người đều giả dối. Như có lời chép trong Kinh Thánh:

Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án,

liêm chính khi xét xử.

5 Nhưng nếu sự bất chính của chúng tôi làm nổi bật sự công chính của Thiên Chúa, thì phải nói sao? Phải chăng Thiên Chúa không công chính khi Người trút cơn thịnh nộ? Ấy là tôi nói theo kiểu người phàm. 6 Không phải thế! Vì giả như Thiên Chúa không công chính, thì làm sao Người phán xét thế gian được? 7 Nhưng nếu sự giả dối của tôi làm cho thấy rõ hơn Thiên Chúa là Đấng chân thật, và như vậy càng tôn vinh Người, thì tại sao tôi lại còn bị kết án là kẻ tội lỗi? 8 Thế thì”Sao ta không cứ làm điều dữ đi, để nhờ đó mà được điều lành?” như có những kẻ vu cho chúng tôi nói câu đó. Họ có bị kết tội cũng là đích đáng.

Mọi người đều bị tội lỗi thống trị

9 Vậy thì sao? Người Do-thái chúng tôi có hơn gì người khác không? Không hơn gì cả! Quả thế, chúng ta đã chứng minh rằng mọi người, Do-thái cũng như Hy-lạp đều bị tội lỗi thống trị. 10 Như có lời chép rằng: Không ai là người công chính, dẫu một người cũng không; 11 chẳng ai có lương tri, chẳng ai kiếm tìm Thiên Chúa. 12 Người người đã lìa xa chính lộ, chỉ biết theo nhau làm chuyện suy đồi; chẳng có một ai làm điều thiện, dẫu một người cũng không. 13 Cửa họng chúng như nấm mồ mở rộng, khéo đẩy đưa ba tấc lưỡi phỉnh phờ chúng chứa đầy mồm nọc độc hổ mang, 14 miệng độc dữ điêu ngoa những buông lời nguyền rủa. 15 Chúng nhanh chân đi đổ máu người ta, 16 đi tới đâu cũng gieo tai rắc hoạ. 17 Chúng chẳng biết con đường đưa tới bình an, 18 chẳng thấy cần phải kính sợ Thiên Chúa.

19 Chúng ta biết rằng: tất cả những gì sách Luật nói là nhằm những người sống dưới Luật đó. Như vậy ai ai cũng phải câm miệng và mọi người trên thế gian đều đắc tội trước toà Thiên Chúa. 20 Bởi lẽ trước nhan Chúa, không người phàm nào được nhìn nhận là công chính vì đã làm những gì Luật dạy. Luật chẳng qua chỉ làm cho người ta ý thức về tội.

B. CON NGƯỜI ĐƯỢC NÊN CÔNG CHÍNH NHỜ ĐỨC TIN

Thiên Chúa cho thấy Người là Đấng Công Chính

21 Nhưng ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Mô-sê. Điều này, sách Luật và các ngôn sứ làm chứng. 22 Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giê-su Ki-tô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất luận là ai. 23 Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, 24 nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Ki-tô Giê-su. 25 Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội nhờ máu của Người cho những ai có lòng tin. Như vậy, Thiên Chúa cho thấy Người là Đấng Công Chính. Trước kia, trong thời Thiên Chúa nhẫn nại, Người đã bỏ qua các tội lỗi người ta phạm. 26 Nhưng bây giờ, Người muốn cho thấy rằng Người vừa là Đấng Công Chính, vừa làm cho kẻ tin vào Đức Giê-su được nên công chính.

Vai trò của đức tin

27 Vậy thì hãnh diện ở chỗ nào? Chẳng còn gì để hãnh diện! Dựa vào luật nào mà hãnh diện? Vào việc làm chăng? Không, nhưng dựa vào lòng tin. 28 Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy. 29 Hay là Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của người Do-thái thôi? Thiên Chúa không là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa sao? Có chứ! Người cũng là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa, 30 vì chỉ có một Thiên Chúa, Đấng làm cho người được cắt bì nên công chính vì họ tin, và làm cho người không được cắt bì nên công chính cũng bởi họ tin. 31 Vậy có phải là chúng ta dựa vào đức tin mà huỷ bỏ Lề Luật chăng? Không phải thế! Trái lại, chúng ta củng cố Lề Luật.

C. GƯƠNG TỔ PHỤ ÁP-RA-HAM

Chương 4

Ông Áp-ra-ham được nên công chính vì đã tin

1 Vậy phải nói sao về ông Áp-ra-ham, tổ phụ dân tộc chúng tôi? Ông đã được gì? 2 Giả như ông Áp-ra-ham được nên công chính vì những việc ông đã làm, thì ông có lý do để hãnh diện; nhưng không phải là hãnh diện trước mặt Thiên Chúa. 3 Thật vậy, Kinh Thánh nói gì? Ông Áp-ra-ham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính. 4 Người nào làm việc, thì lương trả cho người ấy không được kể là ân huệ, mà là nợ. 5 Trái lại người nào không dựa vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì lòng tin làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính. 6 Đó là điều vua Đa-vít nói khi ca tụng hạnh phúc của người được Thiên Chúa kể là công chính mà không xét đến việc làm:

7 Hạnh phúc thay kẻ lỗi lầm mà được tha thứ,

người có tội mà được khoan dung!

8 Hạnh phúc thay người Chúa không kể là có tội!

Không phải vì chịu phép cắt bì

9 Lời ca tụng hạnh phúc này chỉ áp dụng cho những người được cắt bì, hay cho cả những người không được cắt bì nữa? Quả vậy, như chúng ta vừa nói: Ông Áp-ra-ham đã tin, và vì thế được kể là người công chính. 10 Ông được kể là người công chính khi nào? Trước hay sau khi ông được cắt bì? Không phải sau, mà là trước khi ông được cắt bì! 11 Ông nhận được phép cắt bì như dấu hiệu chứng thực rằng: nhờ tin mà ông được trở nên công chính, trước khi được cắt bì. Như vậy, ông là cha của mọi kẻ tin mà không được cắt bì, và vì tin nên được kể là công chính. 12 Ông cũng là cha của những người được cắt bì, nhưng không phải chỉ được cắt bì, mà còn dõi bước tổ phụ chúng ta là ông Áp-ra-ham, trên đường đức tin, đức tin ông đã có trước khi được cắt bì.

Không phải vì giữ Lề Luật

13 Thật vậy, không phải chiếu theo Lề Luật, mà Thiên Chúa đã hứa cho ông Áp-ra-ham và dòng dõi ông được thế gian làm gia nghiệp; nhưng ông được lời hứa đó, vì đã trở nên công chính nhờ lòng tin. 14 Nếu gia nghiệp được dành cho những kẻ lệ thuộc vào Lề Luật, thì đức tin trở nên vô nghĩa, và lời Thiên Chúa hứa bị huỷ bỏ. 15 Quả thế, Luật gây nên cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, còn ở đâu không có Lề Luật, thì cũng không có vi phạm. 16 Bởi vậy, vì tin mà người ta được thừa hưởng lời Thiên Chúa hứa; như thế lời hứa là ân huệ Thiên Chúa ban không, và có giá trị cho toàn thể dòng dõi ông Áp-ra-ham, nghĩa là không phải chỉ cho những ai giữ Lề Luật, mà còn cho những ai có lòng tin như ông. Ông là tổ phụ chúng ta hết thảy, 17 như có lời chép: Ta đã đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ông là tổ phụ chúng ta trước mặt Thiên Chúa, Đấng ông tin tưởng, Đấng làm cho kẻ chết được sống và khiến những gì không có hoá có.

Lòng tin của ông Áp-ra-ham và lòng tin của chúng ta

18 Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế. 19 Ông đã gần một trăm tuổi, nhưng ông vẫn vững tin không nao núng, khi nghĩ rằng thân xác ông cũng như dạ bà Xa-ra đều đã chết. 20 Ông đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa; trái lại, nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa, 21 vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện. 22 Bởi thế, ông được kể là người công chính.

23 Nhưng khi viết ông được kể là người công chính, thì không phải chỉ nói về ông, 24 mà còn nói về cả chúng ta nữa: chúng ta sẽ được kể là công chính, vì tin vào Đấng đã làm cho Đức Giê-su, Chúa chúng ta, sống lại từ cõi chết; 25 Đức Giê-su chính là Đấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính.

Chương 5

2. THIÊN CHÚA CỨU ĐỘ CON NGƯỜI

Một khi nên công chính, con người được bảo đảm ơn cứu độ

1 Vậy, một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. 2 Vì chúng ta tin, nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa. 3 Nhưng không phải chỉ có thế; chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; 4 ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy. 5 Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. 6 Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta. 7 Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. 8 Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. 9 Phương chi bây giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra, hẳn chúng ta sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. 10 Thật vậy, nếu ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết mà cho chúng ta được hoà giải với Người, phương chi bây giờ chúng ta đã được hoà giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy. 11 Nhưng không phải chỉ có thế, chúng ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hoà giải chúng ta với Thiên Chúa.

A. CHÚNG TA ĐƯỢC GIẢI THOÁT KHỎI TỘI LỖI, SỰ CHẾT VÀ LỀ LUẬT

A-đam và Đức Ki-tô Giê-su

12 Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội. 13 Trước khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian. Nhưng nếu không có Luật, thì tội không bị kể là tội. 14 Thế mà, từ thời A-đam đến thời Mô-sê, sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như A-đam đã phạm. A-đam là hình ảnh Đấng sẽ tới.

15 Nhưng sự sa ngã của A-đam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người. 16 Ơn Thiên Chúa ban cũng khác với hậu quả do một người phạm tội đã gây ra. Quả thế, vì một người duy nhất phạm tội, con người đã bị xét xử để phải mang án, còn sau nhiều lần sa ngã, thì lại được Thiên Chúa ban ơn cho trở nên công chính. 17 Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất sa ngã, mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị.

18 Tóm lại, cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống. 19 Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính.

20 Lề Luật đã xen vào, để cho sự sa ngã lan tràn; nhưng ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội. 21 Như vậy, nếu tội lỗi đã thống trị bằng cách làm cho người ta phải chết, thì ân sủng cũng thống trị bằng cách làm cho người ta nên công chính để được sống đời đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.

Chương 6

Phép rửa

1 Vậy phải nói sao? Chúng ta cứ ở mãi trong tội lỗi, để ân sủng càng lan tràn ư? 2 Không phải thế! Chúng ta là những kẻ đã chết đối với tội lỗi, thì làm sao còn sống mãi trong tội được. 3 Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Ki-tô Giê-su, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? 4 Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới.

5 Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại. 6 Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Ki-tô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. 7 Quả thế, ai đã chết, thì thoát khỏi quyền của tội lỗi.

8 Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta. 9 Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Ki-tô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. 10 Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. 11 Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô Giê-su.

Phục vụ tội lỗi và phục vụ sự công chính

12 Vậy tội lỗi đừng có thống trị thân xác phải chết của anh em nữa, khiến anh em phải nghe theo những dục vọng của thân xác. 13 Anh em đừng dùng chi thể của anh em như khí cụ để làm điều bất chính, phục vụ cho tội lỗi nữa. Trái lại, anh em là những người sống đã từ cõi chết trở về, anh em hãy hiến toàn thân cho Thiên Chúa, và dùng chi thể của anh em như khí cụ để làm điều công chính, phục vụ Thiên Chúa. 14 Tội lỗi sẽ không còn quyền chi đối với anh em nữa, vì anh em không còn lệ thuộc vào Lề Luật, nhưng lệ thuộc vào ân sủng.

Người tín hữu được giải thoát khỏi tội lỗi

15 Vậy thì sao? Chúng ta cứ phạm tội ư, vì chúng ta không còn lệ thuộc vào Lề Luật, nhưng lệ thuộc vào ân sủng? Không đời nào! 16 Anh em không biết sao? Khi đem thân làm nô lệ để vâng phục ai, thì anh em là nô lệ của người mà anh em vâng phục: hoặc làm nô lệ tội lỗi, thì sẽ phải chết; hoặc làm nô lệ phục vụ Thiên Chúa, thì sẽ được nên công chính. 17 Tạ ơn Thiên Chúa! Trước kia anh em làm nô lệ tội lỗi, nhưng nay anh em đã hết lòng vâng theo quy luật đạo lý đã đào tạo anh em. 18 Anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở thành nô lệ sự công chính. 19 Ấy là tôi nói theo kiểu người phàm, hợp với tầm hiểu biết yếu kém của anh em. Trước đây, anh em đã dùng chi thể của mình mà làm những điều ô uế và sự vô luân, để trở thành vô luân, thì nay anh em cũng hãy dùng chi thể làm nô lệ sự công chính để trở nên thánh thiện.

Kết quả của tội lỗi và kết quả của sự công chính

20 Khi còn là nô lệ tội lỗi, anh em được tự do không phải làm điều công chính. 21 Bấy giờ anh em thu được kết quả nào, bởi làm những việc mà ngày nay anh em phải xấu hổ? Vì rốt cuộc những việc ấy đưa đến chỗ chết. 22 Nhưng giờ đây anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở thành nô lệ của Thiên Chúa; anh em thu được kết quả là được trở nên thánh thiện, và rốt cuộc được sống đời đời. 23 Thật vậy, lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta, là cái chết; còn ân huệ Thiên Chúa ban không, là sự sống đời đời trong Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.

Chương 7

Người tín hữu được giải thoát khỏi Lề Luật

1 Thưa anh em,-tôi nói đây là nói với những người biết Luật- anh em không biết điều này sao: Luật chỉ có hiệu lực đối với người ta, bao lâu người ta còn sống? 2 Tỉ dụ như người đàn bà có chồng, thì luật buộc theo chồng bao lâu chồng còn sống. Nhưng nếu chồng chết, thì vợ không còn bị luật ràng buộc với chồng nữa. 3 Vậy bao lâu chồng còn sống, mà vợ đi lấy người khác, thì sẽ bị gọi là kẻ ngoại tình. Nhưng nếu chồng chết, thì vợ được tự do không phải giữ luật đó nữa, và có đi lấy người khác, cũng không phải là ngoại tình. 4 Đối với anh em cũng thế. Bởi được liên kết với thân thể Đức Ki-tô, anh em đã chết đối với Luật Mô-sê. Giờ đây, anh em thuộc về một người khác, tức là thuộc về Đấng đã được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết, để chúng ta sinh hoa kết quả cho Thiên Chúa. 5 Vì trước đây, khi chúng ta còn bị tính xác thịt chi phối, thì các đam mê tội lỗi dùng Lề Luật mà hoạt động nơi các chi thể chúng ta, để chúng ta sinh hoa kết quả đưa tới cái chết. 6 Nhưng nay, chúng ta không còn bị Lề Luật ràng buộc nữa, vì chúng ta đã chết đối với cái vẫn giam hãm chúng ta. Như vậy, chúng ta phục vụ Thiên Chúa theo tinh thần mới, chứ không theo bản văn cũ của Lề Luật.

Vai trò của Lề Luật

7 Vậy phải nói sao? Lề Luật là tội chăng? Không phải thế! Nhưng tôi đã chẳng biết tội là gì nếu không có Lề Luật. Thật vậy, tôi đã chẳng biết ham muốn là gì, nếu Luật không dạy: Ngươi không được ham muốn. 8 Tội đã thừa cơ, dùng điều răn mà làm nảy sinh trong tôi đủ thứ ham muốn. Thật vậy, không có Lề Luật thì tội đã chết rồi.

9 Xưa kia, không có Luật thì tôi sống; nhưng từ khi có điều răn thì tội bắt đầu sống, 10 còn tôi thì chết. Thành thử điều răn lẽ ra phải đưa đến sự sống, lại dẫn tôi đến chỗ chết. 11 Quả thế, tội đã thừa cơ, dùng điều răn để quyến rũ tôi và cũng dùng điều răn đó để giết tôi.

12 Như vậy, Lề Luật là thánh, và điều răn cũng là thánh, đúng và tốt. 13 Vậy phải chăng điều tốt lại đã gây nên cái chết cho tôi? Không phải thế! Nhưng chính tội đã dùng điều tốt mà gây nên cái chết cho tôi: như vậy, tội để lộ chân tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó.

Cuộc chiến đấu nội tâm

14 Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. 15 Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. 16 Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì tức là tôi đồng ý với Lề Luật và nhận rằng Lề Luật là tốt. 17 Vậy thật ra không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. 18 Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. 19 Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. 20 Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.

21 Bởi đó tôi khám phá ra luật này: khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. 22 Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa; 23 nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.

24 Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? 25 Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta!

Như vậy, nếu theo lý trí, thì tôi làm nô lệ luật của Thiên Chúa; nhưng theo xác thịt, thì tôi làm nô lệ luật của tội.

B. NGƯỜI TÍN HỮU SỐNG THEO THẦN KHÍ

Chương 8

Sống theo Thần Khí

1 Vậy giờ đây, những ai ở trong Đức Ki-tô Giê-su, thì không còn bị lên án nữa. 2 Thật vậy, luật của Thần Khí ban sự sống trong Đức Ki-tô Giê-su, đã giải thoát tôi khỏi luật của tội và sự chết. 3 Điều mà Lề Luật không thể làm được, vì bị tính xác thịt làm cho ra suy yếu, thì Thiên Chúa đã làm: khi sai chính Con mình đến mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta để đền tội chúng ta, Thiên Chúa đã lên án tội trong thân xác Con mình. 4 Thiên Chúa làm như vậy, để sự công chính mà Luật đòi hỏi được hoàn toàn thực hiện nơi chúng ta, là những người không sống theo tính xác thịt, nhưng theo Thần Khí.

5 Những ai sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt; còn những ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí. 6 Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an. 7 Thật vậy, hướng đi của tính xác thịt là sự phản nghịch cùng Thiên Chúa, vì tính xác thịt không phục tùng luật của Thiên Chúa, mà cũng không thể phục tùng được. 8 Những ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa. 9 Nhưng anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Ki-tô, thì không thuộc về Đức Ki-tô. 10 Nhưng nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính. 11 Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.

12 Vậy thưa anh em, chúng ta mang nợ, không phải mang nợ đối với tính xác thịt, để phải sống theo tính xác thịt. 13 Vì nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống.

Nhờ Thần Khí, chúng ta được làm con Thiên Chúa

14 Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. 15 Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: ”Áp-ba! Cha ơi!”16 Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. 17 Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Ki-tô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người.

Vinh quang dành cho ta

18 Thật vậy, tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta. 19 Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người. 20 Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy; tuy nhiên, vẫn còn niềm trông cậy 21 là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang. 22 Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. 23 Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng: chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa. 24 Quả thế, chúng ta đã được cứu độ, nhưng vẫn còn phải trông mong. Thấy được điều mình trông mong, thì không còn phải là trông mong nữa: vì ai lại trông mong điều mình đã thấy rồi? 25 Nhưng nếu chúng ta trông mong điều mình chưa thấy, thì đó là chúng ta bền chí đợi chờ.

26 Hơn nữa, lại có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả. 27 Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa.

Ý định cứu độ của Thiên Chúa

28 Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định. 29 Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc. 30 Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang.

Ca tụng tình yêu của Thiên Chúa

31 Vậy còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? 32 Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? 33 Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? 34 Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?

35 Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? 36 Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh.

37 Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.

38 Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, 39 trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.

C. VẤN ĐỀ ÍT-RA-EN KHÔNG TIN

Chương 9

Các đặc ân dành cho Ít-ra-en

1 Có Đức Ki-tô chứng giám, tôi xin nói sự thật, tôi không nói dối và lương tâm tôi, được Thánh Thần hướng dẫn, cũng làm chứng cho tôi rằng: 2 lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi. 3 Quả vậy, giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Ki-tô, thì tôi cũng cam lòng. 4 Họ là người Ít-ra-en, họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước, lề luật, một nền phụng tự và các lời hứa; 5 họ là con cháu các tổ phụ; và sau hết, chính Đức Ki-tô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ. Người là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. A-men.

Thiên Chúa không thất tín

6 Nói thế không có nghĩa là lời Thiên Chúa đã hoá ra vô hiệu. Vì không phải tất cả con cháu ông Áp-ra-ham đều là dân Ít-ra-en; 7 cũng như không phải vì họ thuộc dòng dõi ông Áp-ra-ham mà họ đều là con cái ông. Nhưng chính dòng dõi I-xa-ác mới được mang tên ngươi, 8 nghĩa là không phải hễ là con đẻ của ông Áp-ra-ham, thì là con cái Thiên Chúa; nhưng con cái sinh ra do lời Thiên Chúa hứa mới được kể là chính tông. 9 Thật vậy, lời hứa là thế này: Sang năm, cũng vào thời kỳ này, Ta sẽ trở lại và Xa-ra sẽ có một con trai. 10 Không phải chỉ có thế: bà Rê-bê-ca đã có thai với một người duy nhất là ông I-xa-ác, tổ tiên chúng ta. 11 Nhưng khi các con bà chưa sinh ra, và do đó chưa làm gì tốt hay xấu, thì Thiên Chúa đã nói với bà: Thằng anh sẽ làm tôi thằng em. Như vậy là để giữ vững kế hoạch Thiên Chúa đã tự do chọn lựa, 12 mà chọn không dựa vào việc người ta làm, nhưng dựa vào ý muốn của Thiên Chúa là Đấng kêu gọi. 13 Như có lời chép: Ta yêu Gia-cóp mà ghét Ê-xau.

Thiên Chúa không bất công

14 Vậy phải nói sao? Chẳng lẽ Thiên Chúa bất công ư? Không phải thế! 15 Quả vậy, Thiên Chúa đã phán với ông Mô-sê: Ta muốn thương xót ai thì thương xót, muốn cảm thương ai thì cảm thương. 16 Vậy người ta được chọn không phải vì muốn hay chạy vạy, nhưng vì được Thiên Chúa thương xót. 17 Quả thế, trong Kinh Thánh, Thiên Chúa cũng nói với Pha-ra-ô: Ta đã cất nhắc ngươi lên, chính là để dùng ngươi làm cớ cho mọi người thấy sức mạnh của Ta, và để cho danh Ta lẫy lừng trên khắp hoàn cầu. 18 Vậy Thiên Chúa thương xót ai là tuỳ ý Người, và làm cho ai ra cứng cổ cũng tuỳ ý Người.

19 Hẳn bạn sẽ nói với tôi: ”Vậy Thiên Chúa còn trách gì nữa? Vì ai cưỡng lại được ý Người?” 20 Hỡi người, bạn là ai mà dám cãi lại Thiên Chúa? Chẳng lẽ sản phẩm lại nói với người sản xuất: Sao ông làm ra tôi như thế này? 21 Phải chăng thợ gốm không có quyền dùng đất sét theo ý mình: từ cùng một nắm đất mà nắn ra đồ vật khác nhau, cái thì dùng vào việc cao quý, cái thì dùng vào việc thấp hèn. 22 Thiên Chúa cũng vậy: dù muốn cho thấy cơn thịnh nộ và cho biết sức mạnh của Người, nhưng Người đã hết lòng kiên nhẫn chịu đựng những kẻ đáng hứng chịu cơn thịnh nộ và chờ sẵn ngày diệt vong. 23 Thiên Chúa cũng muốn cho biết vinh quang của Người dồi dào biết mấy đối với những kẻ được Người thương xót, những kẻ mà Người đã chuẩn bị trước cho họ lãnh nhận vinh quang đó. 24 Những kẻ ấy là chính chúng ta. Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta là những người không phải chỉ thuộc dân Do-thái, mà còn thuộc các dân ngoại nữa.

Cựu Ước thấy trước Ít-ra-en sẽ thất trung và dân ngoại sẽ được kêu gọi

25 Đó chính là điều Thiên Chúa phán trong sách Hô-sê: Dân trước đây không phải dân của Ta, Ta sẽ gọi là Dân của Ta; người chẳng được yêu, Ta sẽ gọi là Người Yêu. 26 Và chính ở nơi đã nói về họ: ”Các ngươi không phải là dân của Ta", thì ở đó họ sẽ được gọi là con cái của Thiên Chúa hằng sống. 27 Ngôn sứ I-sai-a đã lớn tiếng nói về dân Ít-ra-en rằng: Dù số con cái Ít-ra-en có nhiều như cát biển, thì chỉ phần còn sót lại mới được cứu. 28 Quả thế, Đức Chúa sẽ thực hiện lời Người cách trọn vẹn và mau chóng trên mặt đất. 29 Như ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo: Nếu như Đức Chúa các đạo binh chẳng chừa lại cho chúng ta kẻ nối dõi, thì chúng ta đã trở nên như thành Xơ-đom, và giống như thành Gô-mô-ra rồi.

30 Vậy phải nói sao? Phải nói rằng: các dân ngoại không tìm cách để được nên công chính, thì được nên công chính, mà được nên công chính là nhờ đức tin. 31 Còn dân Ít-ra-en tìm một luật làm cho họ nên công chính thì lại không đạt tới Luật đó. 32 Tại sao thế? Tại vì họ không tìm cách nên công chính nhờ đức tin, nhưng nhờ việc làm. Họ đã vấp phải hòn đá làm cho vấp, 33 như có lời chép rằng: Này đây Ta đặt tại Xi-on một hòn đá làm cho vấp, một tảng đá làm cho ngã; nhưng kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng.

Chương 10

Ít-ra-en không nhận biết rằngThiên Chúa làm cho con người nên công chính

1 Thưa anh em, lòng tôi những ước mong và tôi cầu xin cho dân Do-thái được cứu độ. 2 Quả thế, tôi làm chứng cho họ là họ có lòng nhiệt thành đối với Thiên Chúa, nhưng lòng nhiệt thành đó không được sáng suốt 3 họ không nhận biết rằng chính Thiên Chúa làm cho người ta nên công chính, và họ tìm cách nên công chính tự sức mình. Như vậy là họ không tuân theo đường lối Thiên Chúa làm cho người ta nên công chính. 4 Quả thế, cứu cánh của Lề Luật là Đức Ki-tô, khiến bất cứ ai tin đều được nên công chính.

Ông Mô-sê báo trước con người được nên công chính nhờ đức tin

5 Về việc người ta được nên công chính nhờ Lề Luật, ông Mô-sê có viết: Ai thực hành những điều Lề Luật dạy, thì nhờ đó sẽ được sống. 6 Còn về việc người ta được nên công chính nhờ đức tin, thì có lời nói: Đừng tự hỏi: ai sẽ lên trời? ngụ ý là: để đem Đức Ki-tô xuống. 7 Cũng đừng hỏi: Ai sẽ xuống âm phủ? ngụ ý là: để đưa Đức Ki-tô lên từ cõi chết. 8 Vậy Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin. 9 Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. 10 Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ. 11 Kinh Thánh nói: Mọi kẻ tin vào Người sẽ không phải thất vọng. 12 Như vậy, không có sự khác biệt giữa người Do-thái và người Hy-lạp, vì tất cả đều có cùng một Chúa, là Đấng quảng đại đối với tất cả những ai kêu cầu Người. 13 Vì: Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát.

Ít-ra-en không tự bào chữa

14 Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? 15 Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi? Như có lời chép: Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo tin mừng! 16 Nhưng không phải mọi người đều đã vâng theo Tin Mừng; chính ngôn sứ I-sai-a đã nói: Lạy Đức Chúa, ai đã tin khi nghe chúng con giảng? 17 Ấy vậy, có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Ki-tô.

18 Nhưng tôi xin hỏi: Phải chăng họ đã không được nghe giảng? Có chứ!

Tiếng các ngài đã dội khắp hoàn cầu,

và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển.

19 Tôi xin hỏi thêm: Phải chăng dân Ít-ra-en đã không hiểu? Trước hết, ông Mô-sê nói: Ta sẽ làm cho các ngươi ganh tị với một dân không đáng gọi là dân, tức giận một dân ngu đần. 20 Ông I-sai-a còn dám nói:

Những kẻ không tìm Ta, lại được gặp Ta;

những kẻ không hỏi Ta,

Ta đã xuất hiện cho chúng thấy.

21 Còn về dân Ít-ra-en, ông nói: Suốt ngày Ta dang tay kêu gọi một dân không vâng lời và ngỗ nghịch.

Chương 11

Phần còn sót lại của Ít-ra-en

1 Vậy tôi xin hỏi: Phải chăng Thiên Chúa đã ruồng bỏ dân Người? Không phải thế! Chính tôi đây cũng là người Ít-ra-en, thuộc dòng dõi Áp-ra-ham, thuộc chi tộc Ben-gia-min. 2 Thiên Chúa không ruồng bỏ dân Người, dân mà Người đã biết từ trước. Anh em chẳng biết truyện ông Ê-li-a trong Kinh Thánh sao? Khi cầu nguyện với Thiên Chúa, ông đã tố cáo dân Ít-ra-en rằng: 3 Lạy Chúa, các ngôn sứ của Ngài, chúng đã giết chết; bàn thờ của Ngài, chúng đã phá huỷ. Chỉ còn sót lại một mình con, thế mà chúng cũng đang tìm hại mạng sống con. 4 Thiên Chúa trả lời ông thế nào? Ta chừa lại cho Ta bảy ngàn người, là những kẻ đã không quỳ gối thờ thần Ba-an. 5 Ngày nay cũng vậy, còn sót lại một số người được tuyển chọn nhờ ân sủng của Thiên Chúa. 6 Nhưng nếu được chọn nhờ ân sủng, thì không phải là do việc làm, chẳng vậy ân sủng không còn là ân sủng nữa.

7 Vậy thì sao? Điều mà Ít-ra-en tìm kiếm, thì họ đã không đạt được; nhưng những kẻ được tuyển chọn đã đạt được. Còn những người khác thì đã ra cứng lòng, 8 như có lời chép: Thiên Chúa đã cho họ một thần khí hôn mê, cho họ mắt để không thấy, tai để không nghe, mãi cho đến ngày nay. 9 Vua Đa-vít cũng nói: Ước gì bàn tiệc của chúng nên dò, nên bẫy cho chúng sa vào, và nên cớ vấp ngã, nên hình phạt đích đáng! 10 Ước gì mắt chúng mù đi không thấy nữa và lưng sụm xuống đến mãn đời.

Thiên Chúa sẽ khôi phục Ít-ra-en

11 Vậy tôi xin hỏi: Phải chăng Ít-ra-en đã vấp đến mức phải ngã quỵ? Không phải thế! Nhưng vì họ sa ngã mà Thiên Chúa cho các dân ngoại hưởng ơn cứu độ, khiến họ phải ganh tị. 12 Nếu vì người Do-thái sa ngã mà thế giới được ơn phúc dồi dào, nếu vì họ suy vi mà các dân ngoại được ơn phúc dồi dào, thì khi họ trở về đông đủ, tình trạng còn tốt đẹp hơn biết mấy! 13 Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại. Với tư cách là Tông Đồ các dân ngoại, tôi coi trọng chức vụ của tôi, 14 mong sao nhờ vậy mà tôi làm cho anh em đồng bào tôi phải ganh tị, và tôi cứu được một số anh em đó. 15 Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa, thì việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?

Cây ô-liu dại và cây ô-liu tốt

16 Nếu cái bánh đầu tiên mà thánh thì cả khối bột làm bánh cũng vậy; nếu rễ cây mà thánh, thì cành cây cũng vậy. 17 Một số cành cây ô-liu đã bị chặt đi, còn bạn là ô-liu dại đã được tháp vào đó, và cùng được hưởng sự sống dồi dào từ rễ cây ô-liu chính. 18 Vì thế, bạn đừng có lên mặt khinh dể các cành khác. Thì bạn cứ lên mặt đi! Đâu phải bạn mang rễ, mà là rễ mang bạn! 19 Có lẽ bạn sẽ nói: ”Một số cành đã bị chặt đi, để tôi được tháp vào.” 20 Đúng thế! Vì họ không tin mà đã bị chặt đi, còn bạn vì tin mà còn đó. Đừng có tự cao tự đại, nhưng phải sợ thì hơn. 21 Thật vậy, nếu những cành tự nhiên, mà Thiên Chúa đã không tha, thì Người cũng sẽ chẳng tha bạn đâu. 22 Bạn hãy xem Thiên Chúa nhân từ và nghiêm khắc thế nào: Người nghiêm khắc với những kẻ sa ngã, nhưng nhân từ với bạn, cứ một mực cậy nhờ vào lòng nhân từ đó. Chẳng vậy, cả bạn nữa cũng sẽ bị chặt đi. 23 Còn người Do-thái, nếu họ từ bỏ thái độ ngoan cố chẳng chịu tin, thì họ sẽ được tháp vào, vì Thiên Chúa thừa sức tháp họ một lần nữa. 24 Nếu bạn vốn là cành của cây ô-liu dại, mà còn được chặt đi và tháp vào cây ô-liu tốt, trái lẽ tự nhiên, thì phương chi họ vốn là những cành của cây ô-liu chính, họ lại càng có thể được tháp vào cây cũ.

Ít-ra-en sẽ trở lại

25 Thưa anh em, tôi không muốn anh em chẳng hay biết mầu nhiệm này, để anh em đừng tự cho mình là khôn, đó là: một phần dân Ít-ra-en đã ra cứng lòng, cho đến khi các dân ngoại gia nhập đông đủ. 26 Như vậy, toàn thể Ít-ra-en sẽ được cứu độ, như có lời chép: Từ núi Xi-on, vị Cứu Tinh sẽ đến, Người sẽ loại bỏ những điều vô đạo khỏi nhà Gia-cóp. 27 Đó sẽ là giao ước của Ta với chúng, khi Ta xoá bỏ tội lỗi chúng.

28 Đối chiếu với Tin Mừng thì họ là thù địch, điều đó có lợi cho anh em; nhưng theo ơn tuyển chọn, họ là những người được yêu thương, và đó là nhờ các tổ phụ. 29 Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý.

30 Thật vậy, trước kia anh em đã không vâng phục Thiên Chúa, nhưng nay anh em đã được thương xót, vì họ không vâng phục; 31 họ cũng thế: nay họ không vâng phục Thiên Chúa, vì Người thương xót anh em, nhưng đó là để chính họ cũng được thương xót. 32 Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người.

Ca tụng thánh ý nhiệm mầu

33 Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được! 34 Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa? Ai đã làm cố vấn cho Người? 35 Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau? 36 Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời! A-men.

KHUYÊN NHỦ

Chương 12

Cách thức xứng hợp để thờ phượng Thiên Chúa

1 Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. 2 Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.

Sống khiêm nhường và bác ái trong cộng đoàn

3 Dựa vào ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi xin nói với từng người trong anh em: đừng đi quá mức khi đánh giá mình, nhưng hãy đánh giá mình cho đúng mức, mỗi người tuỳ theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho. 4 Cũng như trong một thân thể, chúng ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận không có cùng một chức năng, 5 thì chúng ta cũng vậy: tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Ki-tô, mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể. 6 Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tuỳ theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ, thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. 7 Được ơn phục vụ, thì phải phục vụ. Ai dạy bảo, thì cứ dạy bảo. 8 Ai khuyên răn, thì cứ khuyên răn. Ai phân phát, thì phải chân thành. Ai chủ toạ, thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái thì vui vẻ mà làm.

9 Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; 10 thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; 11 nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa. 12 Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. 13 Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà.

Bác ái đối với mọi người, kể cả thù địch

14 Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: 15 vui với người vui, khóc với người khóc. 16 Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, 17 đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt. 18 Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hoà thuận với mọi người. 19 Anh em thân mến, đừng tự mình báo oán, nhưng hãy để cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa làm việc đó, vì có lời chép: Đức Chúa phán: Chính Ta sẽ báo oán, chính Ta sẽ đáp trả. 20 Trái lại, kẻ thù ngươi có đói, hãy cho nó ăn; có khát, hãy cho nó uống; làm như vậy, ngươi sẽ chất than hồng lên đầu nó. 21 Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác.

Chương 13

Phục tùng chính quyền

1 Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. 2 Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt. 3 Thật thế, làm điều thiện thì không phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ. Bạn muốn khỏi phải sợ chính quyền ư? Hãy làm điều thiện, và bạn sẽ được họ khen ngợi, 4 vì chính quyền là người thừa hành của Thiên Chúa để giúp bạn làm điều thiện. Nhưng nếu bạn làm điều ác, thì hãy sợ, vì họ mang gươm không phải không có lý do. Thật vậy, họ là người thừa hành của Thiên Chúa để giáng cơn thịnh nộ của Người xuống kẻ làm điều ác. 5 Vì lẽ đó, cần thiết phải phục tùng, không những vì sợ bị phạt, mà còn vì lương tâm. 6 Đó cũng là lý do khiến anh em nộp thuế: nhân viên thu thuế là những người phục vụ Thiên Chúa, khi chu toàn phận sự. 7 Anh em nợ ai cái gì, thì hãy trả cho người ta cái đó: nộp sưu cho người đòi sưu, trả thuế cho người đòi thuế, sợ người phải sợ, kính người phải kính.

Yêu thương là chu toàn Lề Luật

8 Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật. 9 Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. 10 Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.

Người tín hữu là con cái ánh sáng

11 Phải như thế, vì anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. 12 Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. 13 Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. 14 Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.

Chương 14

Bác ái đối với người yếu tin

1 Anh em hãy đón nhận người yếu đức tin và đừng tranh luận với họ. 2 Có người tin mình ăn được mọi thứ, có người vì yếu chỉ ăn rau. 3 Người ăn đừng có khinh kẻ không ăn, còn kẻ không ăn cũng đừng xét đoán người ăn, vì Thiên Chúa đã đón nhận người ấy. 4 Bạn là ai mà xét đoán người nhà của kẻ khác? Nó đứng hay nó ngã, đó là việc của chủ nó. Nhưng nó sẽ đứng, vì Chúa có khả năng làm cho nó đứng. 5 Người thì cho rằng: ngày này trọng hơn ngày khác; kẻ thì lại nghĩ: ngày nào cũng như nhau. Trong thâm tâm, mỗi người phải có xác tín. 6 Ai để ý đến ngày này ngày nọ, thì làm thế để kính Chúa. Người ăn, thì vì Chúa mà ăn, bởi lẽ họ tạ ơn Thiên Chúa. Còn người không ăn, thì không ăn vì Chúa, họ cũng tạ ơn Thiên Chúa. 7 Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. 8 Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa; 9 vì Đức Ki-tô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết. 10 Thế mà bạn, sao bạn lại xét đoán người anh em? Và bạn nữa, sao bạn khinh dể người anh em? Quả thế, tất cả chúng ta sẽ phải ra trước toà Thiên Chúa, 11 vì có lời chép rằng: Đức Chúa phán: Ta lấy sự sống Ta mà thề: mọi người sẽ quỳ gối lạy Ta, và mọi miệng lưỡi phải xưng tụng Thiên Chúa. 12 Như vậy, mỗi người trong chúng ta sẽ phải trả lời về chính mình trước mặt Thiên Chúa.

13 Vậy chúng ta đừng xét đoán nhau nữa. Tốt hơn, anh em hãy xét sao để tránh gây cớ cho anh em mình phải vấp hay phải ngã. 14 Trong Chúa Giê-su, tôi biết và xác tín rằng không có gì tự nó là ô uế; có ô uế là chỉ đối với người cho nó là ô uế. 15 Nếu vì bạn ăn một thức ăn, mà bạn làm phiền lòng người anh em, thì bạn không còn sống theo đức ái nữa. Đừng vì chuyện ăn uống mà làm cho người anh em của bạn phải hư mất, vì Đức Ki-tô đã chết cho người ấy.

16 Vậy đừng để cho thiên hạ chê bai điều mà anh em cho là tốt. 17 Vì Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. 18 Ai phục vụ Đức Ki-tô như thế, thì đẹp lòng Thiên Chúa và được người ta quý trọng. 19 Vậy chúng ta hãy theo đuổi những gì đem lại bình an và những gì xây dựng cho nhau. 20 Đừng vì một thức ăn mà phá huỷ công trình Thiên Chúa. Đã hẳn, mọi thức ăn đều thanh sạch; nhưng ăn mà gây cớ vấp ngã, thì là điều xấu. 21 Tốt nhất là đừng ăn thịt, uống rượu, và tránh những gì có thể gây cớ cho anh em mình vấp ngã.

22 Bạn xác tín điều gì, thì cứ giữ lấy cho mình trước mặt Thiên Chúa. Phúc thay ai không cho mình là có lỗi khi quyết định làm điều gì! 23 Còn ai hồ nghi mà cứ ăn, thì bị kết án, vì hành động không do xác tín. Hành động nào không do xác tín đều là tội.

Chương 15

1 Bổn phận của chúng ta, những người có đức tin vững mạnh, là phải nâng đỡ những người yếu đuối, không có đức tin vững mạnh, chứ không phải chiều theo sở thích của mình. 2 Mỗi người chúng ta hãy chiều theo sở thích kẻ khác, vì lợi ích của họ, và để xây dựng. 3 Thật vậy, Đức Ki-tô đã không chiều theo sở thích của mình; trái lại, như có lời chép: Lời kẻ thoá mạ Ngài, này chính con hứng chịu. 4 Quả thế, mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy.

5 Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Ki-tô Giê-su đòi hỏi. 6 Nhờ đó, anh em sẽ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.

7 Vậy, anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Ki-tô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa. 8 Thật vậy, tôi xin quả quyết: Đức Ki-tô có đến phục vụ những người được cắt bì, để thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên họ, đó là do lòng trung thành của Thiên Chúa. 9 Còn các dân ngoại có được tôn vinh Thiên Chúa, thì đó là do lòng thương xót của Người, như có lời chép: Vì thế giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa. 10 Chỗ khác lại chép: Hỡi chư dân, hãy vui mừng với dân Thiên Chúa! 11 Chỗ khác nữa: Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa, ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người! 12 Ông I-sai-a cũng nói: Từ gốc tổ Gie-sê sẽ xuất hiện một mầm non, một Đấng sẽ đứng lên lãnh đạo chư dân. Chư dân sẽ hy vọng nơi Người.

13 Xin Thiên Chúa là nguồn hy vọng, ban cho anh em được chan chứa niềm vui và bình an nhờ đức tin, để nhờ quyền năng của Thánh Thần, anh em được tràn trề hy vọng.

KẾT

Công việc phục vụ của thánh Phao-lô

14 Thưa anh em, chính tôi, tôi tin chắc rằng anh em có đầy thiện chí, thừa hiểu biết và có khả năng khuyên bảo nhau. 15 Trong thư này, đôi chỗ tôi đã nói hơi mạnh, chẳng qua là để nhắc lại cho anh em điều anh em đã biết. Tôi viết thế là dựa vào ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi 16 làm người phục vụ Đức Giê-su Ki-tô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hoá mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa.

17 Vậy, trong Đức Ki-tô Giê-su, tôi có quyền hãnh diện về công việc phục vụ Thiên Chúa. 18 Thật thế, tôi đâu dám nhắc đến chuyện nào khác, ngoài những gì Đức Ki-tô đã dùng tôi mà thực hiện để đưa các dân ngoại về phục vụ Thiên Chúa, thực hiện bằng lời nói việc làm, 19 bằng sức mạnh của những dấu lạ điềm thiêng, bằng quyền năng của Thánh Thần. Như vậy, từ Giê-ru-sa-lem, đi vòng đến tận miền I-ly-ri, tôi đã làm tròn sứ mạng loan báo Tin Mừng Đức Ki-tô. 20 Nhưng tôi chỉ có tham vọng là loan báo Tin Mừng ở những nơi người ta chưa được nghe nói đến danh Đức Ki-tô. Tôi làm thế vì không muốn xây dựng trên nền móng người khác đã đặt. 21 Trái lại, như có lời chép: Những kẻ đã không được loan báo về Người, sẽ thấy, những kẻ đã không được nghe nói về Người, sẽ hiểu.

Dự định mấy chuyến đi

22 Chính vì lẽ đó mà đã bao lần tôi bị ngăn trở không thể đến với anh em. 23 Nhưng bây giờ tôi không còn môi trường hoạt động trong những vùng này nữa; đàng khác, từ nhiều năm nay, tôi vẫn ước ao đến thăm anh em, 24 khi nào tôi sang Tây Ban Nha. Tôi hy vọng trên đường đi sẽ ghé thăm anh em, và được anh em tiễn đưa qua đó, sau khi được thoả mãn phần nào vì đã gặp anh em. 25 Nhưng bây giờ tôi còn phải đi Giê-ru-sa-lem để phục vụ dân thánh ở đó, 26 vì miền Ma-kê-đô-ni-a và miền A-khai-a đã có nhã ý đóng góp để giúp những người nghèo trong số dân thánh ở Giê-ru-sa-lem. 27 Họ đã có nhã ý làm như vậy, nhưng thực ra họ cũng có bổn phận đối với dân thánh ở đó. Bởi vì các dân ngoại đã được chia sẻ các phúc lộc thiêng liêng của dân thánh ở Giê-ru-sa-lem, thì họ cũng có bổn phận dùng của cải vật chất mà giúp đỡ lại. 28 Vậy khi đã hoàn thành công việc ấy và đã chính thức chuyển giao kết quả cuộc lạc quyên, tôi sẽ ghé thăm anh em trên đường đi Tây Ban Nha. 29 Tôi biết rằng, khi đến thăm anh em, tôi sẽ đến với đầy đủ phúc lành của Đức Ki-tô.

30 Thưa anh em, vì Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, và vì tình yêu của Thánh Thần, tôi khuyên nhủ anh em cùng chiến đấu với tôi, bằng cách cầu xin Thiên Chúa cho tôi, 31 để tôi thoát khỏi tay những người miền Giu-đê không chịu tin và để dân thánh vui lòng chấp nhận những gì tôi mang đến Giê-ru-sa-lem phục vụ họ. 32 Như thế, tôi sẽ vui mừng đến với anh em và được nghỉ ngơi giữa anh em, nếu Thiên Chúa muốn.

33 Xin Thiên Chúa là nguồn bình an, ở cùng tất cả anh em. A-men.

Chương 16

Giới thiệu và chào thăm

1 Tôi xin giới thiệu với anh em chị Phê-bê, người chị em của chúng tôi, là nữ trợ tá Hội Thánh Ken-khơ-rê. 2 Mong anh em tiếp đón chị trong Chúa cách xứng đáng, như dân thánh phải đối xử với nhau. Chị có việc gì cần đến anh em, xin anh em giúp đỡ, vì chính chị cũng đã bảo trợ cho nhiều người, kể cả tôi nữa.

3 Tôi xin gửi lời thăm chị Pơ-rít-ca và anh A-qui-la, những người cộng tác với tôi để phục vụ Đức Ki-tô Giê-su; 4 hai anh chị đã liều mất đầu để cứu mạng tôi. Không chỉ mình tôi, mà còn các Hội Thánh trong dân ngoại cũng phải mang ơn anh chị. 5 Tôi cũng xin gửi lời thăm Hội Thánh vẫn họp tại nhà anh chị ấy.

6 Xin gửi lời thăm chị Ma-ri-a, người đã vất vả nhiều vì anh em. 7 Xin gửi lời thăm các anh An-rô-ni-cô và Giu-ni-a, bà con với tôi, và đã từng ngồi tù với tôi; các anh là những người xuất sắc trong các Tông Đồ, lại còn theo Đức Ki-tô trước tôi. 8 Xin gửi lời thăm anh Am-li-át, bạn yêu quý của tôi trong Chúa. 9 Xin gửi lời thăm anh Ua-ban, người cộng tác với chúng tôi trong Đức Ki-tô, và anh Ta-khy, bạn yêu quý của tôi. 10 Xin gửi lời thăm anh A-pe-lê, người đã từng được tôi luyện trong Đức Ki-tô. Xin gửi lời thăm mọi người trong nhà anh A-rít-tô-bu-lô. 11 Xin gửi lời thăm anh Hê-rô-đi-on, bà con với tôi. Xin gửi lời thăm bà con anh Na-ki-xô, những người đang ở trong Chúa. 12 Xin gửi lời thăm hai chị Try-phen và Try-phô-xa, những người đang vất vả vì Chúa. Xin gửi lời thăm chị Péc-xi-đê yêu quý, người đã vất vả nhiều vì Chúa. 13 Xin gửi lời thăm anh Ru-phô, người được Chúa chọn, và thăm mẹ của anh, cũng là mẹ của tôi. 14 Xin gửi lời thăm các anh A-xinh-rít, Phơ-lê-gon, Héc-mê, Pát-rô-ba, Héc-ma và những anh em ở với các anh ấy. 15 Xin gửi lời thăm anh Phi-lô-lô-gô và chị Giu-li-a, anh Nê-rê và cô em anh ấy, anh Ô-lim-pa và mọi người trong dân thánh đang ở với các anh chị ấy. 16 Anh em hãy hôn chào nhau một cách thánh thiện. Tất cả các Hội Thánh Đức Ki-tô gửi lời chào anh em.

Tái bút lần thứ nhất: khuyên nhủ coi chừng

17 Thưa anh em, tôi khuyên nhủ anh em hãy coi chừng những kẻ gây chia rẽ và làm cớ vấp ngã, vì đi ngược lại với đạo lý anh em đã học hỏi; anh em hãy xa lánh họ. 18 Hạng người đó chẳng phục vụ Đức Ki-tô, Chúa chúng ta, mà phục vụ chính cái bụng của mình. Họ dùng những lời ngọt ngào nịnh bợ mà quyến rũ những tâm hồn đơn sơ. 19 Thật vậy, ai ai cũng biết rằng anh em vâng phục Thiên Chúa; bởi thế tôi lấy làm vui vì anh em. Nhưng tôi muốn cho anh em khôn ngoan làm điều tốt, trong sạch không làm điều xấu. 20 Thiên Chúa là nguồn bình an, chẳng bao lâu nữa sẽ đè bẹp Xa-tan, bắt nó phải ở dưới chân anh em. Nguyện xin Đức Giê-su, Chúa chúng ta, ban ân sủng cho anh em.

Tái bút lần thứ hai: chào thăm lần cuối

21 Anh Ti-mô-thê, người cộng tác với tôi, các anh Lu-ki-ô, Gia-xon và Xô-xi-pát-rô, bà con của tôi, gửi lời thăm anh em. 22 Tôi là Téc-xi-ô, người chép thư này, xin gửi lời thăm anh em trong Chúa. 23 Anh Gai-ô, người tiếp rước tôi và tiếp rước cả Hội Thánh trong nhà của anh, gửi lời thăm anh em. Anh Ê-rát-tô, quản lý kho bạc của thành phố, và anh Qua-tô, người anh em chúng tôi, gửi lời thăm anh em. 24 Nguyện xin Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban ân sủng cho toàn thể anh em. A-men.

Vinh tụng ca

25 Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giê-su Ki-tô. Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa 26 nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. 27 Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. A-men.

Cô-rin-tô 1

Chương 1

Lời chào thăm. Lời cảm tạ

1 Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, và ông Xốt-thê-nê là người anh em của chúng tôi, 2 kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, những người đã được hiến thánh trong Đức Ki-tô Giê-su, được kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta, Đức Giê-su Ki-tô, là Chúa của họ và của chúng ta. 3 Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.

4 Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Ki-tô Giê-su. 5 Quả vậy, trong Đức Ki-tô Giê-su, anh em đã trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người. 6 Thật thế, lời chứng về Đức Ki-tô đã ăn sâu vững chắc vào lòng trí anh em, 7 khiến anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Người. 8 Chính Người sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em trong Ngày của Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô. 9 Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu gọi anh em đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.

I. CHIA RẼ VÀ GƯƠNG XẤU

1. CÁC PHE PHÁI TRONG GIÁO ĐOÀN CÔ-RIN-TÔ

Các tín hữu chia rẽ nhau

10 Thưa anh em, nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau. 11 Thật vậy, thưa anh em, người nhà của bà Khơ-lô-e cho tôi hay tin có chuyện bè phái giữa anh em. 12 Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như: ”Tôi thuộc về ông Phao-lô, tôi thuộc về ông A-pô-lô, tôi thuộc về ông Kê-pha, tôi thuộc về Đức Ki-tô.” 13 Thế ra Đức Ki-tô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư? Có phải Phao-lô đã chịu đóng đinh vào khổ giá vì anh em chăng? Hay anh em đã chịu phép rửa nhân danh Phao-lô sao? 14 Tôi tạ ơn Thiên Chúa, vì tôi đã không làm phép rửa cho ai, trừ ông Cơ-rít-pô và ông Gai-ô. 15 Như thế, không ai nói được rằng anh em đã chịu phép rửa nhân danh tôi. 16 À, tôi còn làm phép rửa cho gia đình Tê-pha-na nữa. Ngoài ra, tôi không biết có làm phép rửa cho ai khác nữa hay chăng.

Sự khôn ngoan của thế gian và sự khôn ngoan theo Ki-tô giáo

17 Quả vậy, Đức Ki-tô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Ki-tô khỏi trở nên vô hiệu. 18 Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa. 19 Vì có lời chép rằng: Ta sẽ huỷ diệt sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan, và sẽ vứt bỏ sự thông thái của người thông thái. 20 Người khôn ngoan đâu? Người học thức đâu? Người lý sự của thời này đâu? Thiên Chúa lại đã không để cho sự khôn ngoan của thế gian ra điên rồ đó sao? 21 Thật vậy, thế gian đã không dùng sự khôn ngoan mà nhận biết Thiên Chúa ở những nơi Thiên Chúa biểu lộ sự khôn ngoan của Người. Cho nên Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin. 22 Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, 23 thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. 24 Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. 25 Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.

26 Thưa anh em, anh em thử nghĩ lại xem: khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái. 27 Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; 28 những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có, 29 hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người. 30 Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Đức Ki-tô Giê-su, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên công chính, đã thánh hoá và cứu chuộc anh em, 31 hợp như lời đã chép rằng: Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa.

Chương 2

1 Thưa anh em, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. 2 Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê-su Ki-tô, mà là Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá. 3 Vì thế, khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. 4 Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. 5 Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa.

6 Thế mà điều chúng tôi giảng dạy cho các tín hữu trưởng thành cũng là một lẽ khôn ngoan, nhưng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian, cũng không phải của các thủ lãnh thế gian này, là những kẻ sớm muộn gì cũng phải diệt vong. 7 Trái lại, chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển. 8 Không một ai trong các thủ lãnh thế gian này đã được biết lẽ khôn ngoan ấy, vì nếu biết, họ đã chẳng đóng đinh Đức Chúa hiển vinh vào thập giá. 9 Nhưng, như đã chép: Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người.

10 Còn chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí. Thật vậy, Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa. 11 Vậy ai trong loài người biết được những gì nơi con người, nếu không phải là thần trí của con người trong con người? Cũng thế, không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa. 12 Phần chúng ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. 13 Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí; chúng tôi dùng những lời lẽ Thần Khí linh hứng để diễn tả thực tại thuộc về Thần Khí. 14 Con người sống theo tính tự nhiên thì không đón nhận những gì của Thần Khí Thiên Chúa, vì cho đó là sự điên rồ; họ không thể biết được, bởi vì phải nhờ Thần Khí mới có thể xét đoán. 15 Nhưng con người sống theo Thần Khí thì xét đoán được mọi sự, mà chẳng có ai xét đoán được người đó. 16 Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa, để chỉ vẽ cho Người? Còn chúng tôi, chúng tôi biết được tư tưởng của Đức Ki-tô.

Chương 3

1 Thưa anh em, về phần tôi, tôi đã không thể nói với anh em như với những con người sống theo Thần Khí, nhưng như với những con người sống theo tính xác thịt, như với những trẻ nhỏ trong Đức Ki-tô. 2 Tôi đã cho anh em uống sữa chứ không cho dùng thức ăn, vì anh em chưa chịu nổi. Nhưng bây giờ anh em cũng vẫn còn không chịu nổi, 3 vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt. Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi cọ, thì anh em chẳng phải là những con người sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm sao? 4 Khi người này nói: ”Tôi, tôi thuộc về ông Phao-lô", và người khác: ”Tôi, tôi thuộc về ông A-pô-lô", thì anh em chẳng là người phàm tục sao?

Vai trò thực sự của người rao giảng

5 Vậy A-pô-lô là gì? Phao-lô là gì? Đó là những tôi tớ đã giúp cho anh em có đức tin, mỗi người đã làm theo khả năng Chúa ban. 6 Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. 7 Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể. 8 Kẻ trồng người tưới đều như nhau, nhưng ai nấy sẽ được thù lao theo công khó của mình. 9 Thật vậy, chúng tôi là cộng sự viên của Thiên Chúa. Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên.

10 Theo ơn Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi đặt nền móng như một kiến trúc sư lành nghề, còn người khác thì xây trên nền móng đó. Nhưng ai nấy phải coi chừng về cách mình xây cất. 11 Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giê-su Ki-tô. 12 Người ta có thể dùng vàng, bạc, đá quý, gỗ, cỏ, rơm mà xây trên nền đó. 13 Nhưng công việc của mỗi người sẽ được phơi bày ra ánh sáng. Thật thế, Ngày của Chúa sẽ cho thấy công việc đó, vì Ngày ấy tỏ rạng trong lửa; chính lửa này sẽ thử nghiệm giá trị công việc của mỗi người. 14 Công việc xây dựng của ai tồn tại trên nền, thì người ấy sẽ được lĩnh thưởng. 15 Còn công việc của ai bị thiêu huỷ, thì người ấy sẽ phải thiệt. Tuy nhiên, bản thân người ấy sẽ được cứu, nhưng như thể băng qua lửa.

16 Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? 17 Vậy ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em.

Kết luận

18 Đừng ai tự lừa dối mình. Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật. 19 Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như có lời chép rằng: Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng. 20 Lại có lời rằng: Tư tưởng kẻ khôn ngoan, Chúa đều biết cả: thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài.

21 Vậy đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào. Vì tất cả đều thuộc về anh em; 22 dù là Phao-lô, hay A-pô-lô, hay Kê-pha, dù cả thế gian này, sự sống, sự chết, hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, 23 mà anh em thuộc về Đức Ki-tô, và Đức Ki-tô lại thuộc về Thiên Chúa.

Chương 4

1 Vậy chớ gì thiên hạ coi chúng tôi như những đầy tớ của Đức Ki-tô, những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa. 2 Mà người ta chỉ đòi hỏi ở người quản lý một điều, là phải chứng tỏ lòng trung thành. 3 Đối với tôi, dù có bị anh em hay toà đời xét xử, tôi cũng chẳng coi là gì. Mà tôi, tôi cũng chẳng tự xét xử lấy mình. 4 Quả thật, tôi không thấy lương tâm áy náy điều gì, nhưng đâu phải vì thế mà tôi đã được kể là người công chính. Đấng xét xử tôi chính là Chúa. 5 Vậy xin anh em đừng vội xét xử điều gì trước kỳ hạn, trước ngày Chúa đến. Chính Người sẽ đưa ra ánh sáng những gì ẩn khuất trong bóng tối, và phơi bày những ý định trong thâm tâm con người. Bấy giờ, mỗi người sẽ được Thiên Chúa khen thưởng đích đáng.

6 Thưa anh em, tôi đã áp dụng các điều đó cho tôi và anh A-pô-lô, vì lợi ích của anh em, để anh em theo gương chúng tôi mà học cho biết”đừng có đi ra ngoài những gì đã viết", kẻo sinh ra kiêu ngạo, theo người này mà chống người khác. 7 Thật vậy, nào có ai coi bạn hơn kẻ khác đâu? Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh? 8 Anh em đã no nê rồi, đã giàu có rồi! Không có chúng tôi, anh em đã làm vua rồi! Phải chi anh em làm vua, để chúng tôi cũng được làm vua với anh em! 9 Thật vậy, tôi thiết nghĩ: Thiên Chúa đã đặt chúng tôi làm Tông Đồ hạng chót như những kẻ bị án tử hình, bởi vì chúng tôi đã nên trò cười cho thế gian, cho thiên thần và loài người! 10 Chúng tôi điên dại vì Đức Ki-tô, còn anh em thì khôn ngoan trong Đức Ki-tô; chúng tôi yếu đuối, còn anh em thì mạnh mẽ; anh em được kính trọng, còn chúng tôi thì bị khinh khi. 11 Cho đến giờ này, chúng tôi vẫn chịu đói khát, trần truồng, bị hành hạ và lang thang phiêu bạt; 12 chúng tôi phải vất vả tự tay làm lụng. Bị nguyền rủa, chúng tôi chúc lành; bị bắt bớ, chúng tôi cam chịu; 13 bị vu khống, chúng tôi đem lời an ủi. Cho đến bây giờ, chúng tôi đã nên như rác rưởi của thế gian, như phế vật đối với mọi người.

Lời khiển trách

14 Tôi viết những lời đó không phải để làm anh em xấu hổ, nhưng là để sửa dạy anh em như những người con yêu quý của tôi. 15 Thật thế, cho dầu anh em có ngàn vạn giám thị trong Đức Ki-tô, anh em cũng không có nhiều cha đâu, bởi vì trong Đức Ki-tô Giê-su, nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em. 16 Vậy tôi khuyên anh em: hãy bắt chước tôi. 17 Vì lẽ đó, tôi đã phái người con yêu quý và trung tín của tôi trong Chúa, là anh Ti-mô-thê, đến với anh em. Anh ấy sẽ nhắc cho anh em những quy tắc hướng dẫn đời sống trong Đức Ki-tô mà tôi đã đề ra, những quy tắc mà tôi vẫn giảng dạy khắp nơi, trong mọi Hội Thánh.

18 Vì nghĩ rằng tôi sẽ không đến với anh em, có vài người đã sinh ra kiêu ngạo. 19 Nhưng nếu Chúa muốn, chẳng bao lâu nữa tôi sẽ đến với anh em, và tôi sẽ được biết, không phải tài ăn nói của những kẻ kiêu ngạo đó, mà là quyền năng của Thần Khí. 20 Thật vậy, Nước Thiên Chúa không cốt ở tài ăn nói, nhưng ở quyền năng. 21 Anh em muốn gì? Muốn tôi mang roi vọt hay là đức bác ái và lòng nhân hậu mà đến với anh em?

Chương 5

2. TRƯỜNG HỢP LOẠN LUÂN

1 Đi đâu cũng chỉ nghe nói đến chuyện dâm ô xảy ra giữa anh em, mà là thứ dâm ô không thấy xảy ra ngay cả nơi dân ngoại: có kẻ ăn ở với vợ kế của cha mình!

2 Thế mà anh em lại còn kiêu ngạo! Lẽ ra anh em đã phải than khóc và loại trừ kẻ làm điều ấy ra khỏi cộng đoàn của anh em! 3 Phần tôi, tuy vắng mặt về thân xác, nhưng về tinh thần vẫn có mặt, tôi đã lên án kẻ có hành vi đó như thể tôi có mặt tại chỗ. 4 Trong một buổi họp của anh em, ở đó có tôi hiện diện bằng tinh thần, nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, và với quyền năng của Người, 5 chúng ta phải nộp con người đó cho Xa-tan, để phần xác nó bị huỷ diệt, còn phần hồn được cứu thoát trong Ngày của Chúa.

6 Lý do khiến anh em vênh vang chẳng đẹp đẽ gì! Anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? 7 Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. 8 Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ.

9 Trong thư đã gửi cho anh em, tôi có viết là đừng đi lại với những kẻ dâm đãng. 10 Tôi không có ý nói chung về mọi người dâm đãng ở thế gian này, hay về mọi kẻ tham lam trộm cắp, hoặc mọi kẻ thờ ngẫu tượng, vì nếu vậy, anh em phải ra khỏi thế gian! 11 Không, khi viết thế, tôi muốn nói với anh em là đừng đi lại với kẻ nào mang danh là người anh em mà cứ dâm đãng, tham lam, thờ ngẫu tượng, quen chửi bới, say sưa rượu chè hoặc trộm cắp; anh em cũng phải tránh đừng ăn uống với con người như thế. 12 Thật vậy, xét xử người ngoài đâu phải là chuyện của tôi. Còn người trong đạo, anh em không được xét xử hay sao? 13 Người ngoài, chính Thiên Chúa sẽ xét xử. Hãy khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh em.

Chương 6

3. KIỆN NHAU Ở TOÀ ĐỜI

1 Khi xảy ra tranh chấp với kẻ khác, có người trong anh em dám đi kiện cáo trước mặt người ngoại mà lại không đến trước mặt những người trong dân thánh! 2 Nào anh em chẳng biết rằng dân thánh sẽ xét xử thế gian sao? Mà nếu được quyền xét xử thế gian, anh em lại không xứng đáng xử những việc nhỏ mọn ư? 3 Nào anh em chẳng biết rằng chúng ta sẽ xét xử các thiên thần sao? Phương chi là những việc đời này! 4 Thế mà khi phải xét xử những việc đời này, anh em lại đặt những người mà Hội Thánh coi nhẹ làm quan toà! 5 Tôi nói thế cho anh em phải xấu hổ. Chẳng lẽ trong anh em lại không có người nào khôn ngoan có thể xử các vụ tranh chấp giữa anh em mình ư? 6 Đằng này, anh em đã kiện cáo nhau thì chớ, lại còn đem nhau ra trước toà những người không có đức tin! 7 Dù sao, nguyên việc anh em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh em rồi. Tại sao anh em chẳng thà chịu bất công? Tại sao anh em chẳng thà chịu thiệt thòi? 8 Nhưng chính anh em lại ăn ở bất công và bóc lột, và đã đối xử như thế với anh em mình!

9 Nào anh em chẳng biết rằng những kẻ bất chính sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp sao? Anh em đừng lầm. Những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, truỵ lạc, kê gian, 10 những kẻ trộm cướp, tham lam, say sưa rượu chè, quen chửi bới, sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp. 11 Trước kia, có vài người trong anh em đã là như thế. Nhưng anh em đã được tẩy rửa, được thánh hoá, được nên công chính nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta!

4. TỘI TÀ DÂM

12 “Tôi được phép làm mọi sự"; nhưng không phải mọi sự đều có ích.” Tôi được phép làm mọi sự"; nhưng tôi sẽ không để sự gì làm chủ được tôi. 13 Thức ăn dành cho bụng, và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ huỷ diệt cả cái này lẫn cái kia. Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác. 14 Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại.

15 Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao? Tôi lại lấy phần thân thể của Đức Ki-tô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao? Không đời nào! 16 Anh em chẳng biết rằng ăn ở với người kỹ nữ là nên một thân xác với người ấy sao? Thật thế, có lời chép rằng cả hai sẽ thành một xương một thịt. 17 Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người.

18 Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình.

19 Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, 20 vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.

Chương 7

II. GIẢI QUYẾT MỘT SỐ VẤN ĐỀ

1. HÔN NHÂN VÀ ĐỘC THÂN

1 Bây giờ, tôi đề cập tới những điều anh em đã viết cho tôi: đàn ông không gần đàn bà là điều tốt. 2 Nhưng để tránh hiểm hoạ dâm ô, thì mỗi người hãy có vợ có chồng. 3 Chồng hãy làm tròn bổn phận đối với vợ, và vợ đối với chồng cũng vậy. 4 Vợ không có quyền trên thân xác mình, nhưng là chồng; cũng vậy, chồng không có quyền trên thân xác mình, nhưng là vợ. 5 Vợ chồng đừng từ chối nhau, trừ phi hai người đồng ý sống như vậy trong một thời gian, để chuyên lo cầu nguyện; rồi hai người lại ăn ở với nhau, kẻo vì hai người không tiết dục nổi mà Xa-tan lợi dụng để cám dỗ. 6 Điều tôi nói đó là một sự nhân nhượng chứ không phải là một mệnh lệnh. 7 Tôi ước muốn mọi người đều như tôi; nhưng mỗi người được Thiên Chúa ban cho đặc sủng riêng, kẻ thế này, người thế khác. 8 Với những người độc thân và quả phụ, tôi nói thế này: họ cứ ở vậy như tôi thì tốt cho họ. 9 Nếu không tiết dục được, họ cứ kết hôn, vì thà kết hôn còn hơn là bị thiêu đốt.

10 Còn với những người đã kết hôn, tôi ra lệnh này, không phải tôi, mà là Chúa: vợ không được bỏ chồng, 11 mà nếu đã bỏ chồng, thì phải ở độc thân hoặc phải làm hoà với chồng; và chồng cũng không được rẫy vợ.

12 Còn với những người khác, thì tôi nói-chính tôi chứ không phải Chúa-: nếu anh em nào có vợ ngoại đạo mà người này bằng lòng ở với người ấy, thì người ấy đừng rẫy vợ. 13 Người vợ nào có chồng ngoại đạo mà người này bằng lòng ở với người ấy, thì người ấy đừng bỏ chồng. 14 Thật vậy, chồng ngoại đạo được thánh hoá nhờ vợ, và vợ ngoại đạo được thánh hoá nhờ người chồng có đạo. Chẳng vậy, con cái anh em sẽ là ô uế, trong khi thật ra chúng là thánh. 15 Nếu người ngoại đạo muốn bỏ người kia, thì cứ bỏ; trong trường hợp đó, chồng hay vợ có đạo không bị luật hôn nhân ràng buộc: Thiên Chúa đã kêu gọi anh em sống bình an với nhau! 16 Chị là vợ, biết đâu chị chẳng cứu được chồng? Hay anh là chồng, biết đâu anh chẳng cứu được vợ?

17 Ngoài ra, như Chúa đã định cho mỗi người làm sao, như Thiên Chúa đã kêu gọi mỗi người thế nào, thì cứ sống như vậy: đó là điều tôi truyền dạy trong mỗi Hội Thánh. 18 Ai đã cắt bì khi được kêu gọi, thì đừng huỷ bỏ dấu vết cắt bì! Ai chưa cắt bì khi được kêu gọi, thì đừng cắt bì! 19 Cắt bì chẳng là gì, mà không cắt bì cũng chẳng là gì cả; điều đáng kể là tuân giữ các điều răn Thiên Chúa. 20 Ai đang ở địa vị nào khi được kêu gọi, thì cứ ở địa vị đó. 21 Bạn là nô lệ khi được kêu gọi ư? Chớ bận tâm! Ngay cả khi có thể được tự do, tốt hơn hãy lợi dụng thân phận nô lệ. 22 Thật thế, người đang làm nô lệ mà được Chúa kêu gọi, thì là người được Chúa giải phóng. Cũng vậy, người đang tự do mà được kêu gọi, thì là nô lệ của Đức Ki-tô. 23 Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Anh em đừng trở nên nô lệ cho người phàm. 24 Thưa anh em, khi được kêu gọi ở địa vị nào, mỗi người cứ ở địa vị đó trước mặt Thiên Chúa.

25 Về vấn đề độc thân, tôi không có chỉ thị nào của Chúa, nhưng tôi chỉ khuyên nhủ anh em với tư cách là người-nhờ Chúa thương- đáng được anh em tín nhiệm. 26 Vậy tôi nghĩ rằng: vì những nỗi thống khổ hiện tại, ở vậy là điều tốt. Phải, tôi nghĩ rằng đối với người ta, như thế là tốt. 27 Bạn đã kết hôn với một người đàn bà ư? Đừng tìm cách gỡ ra. Bạn chưa kết hôn với một người đàn bà ư? Đừng lo kiếm vợ. 28 Nhưng nếu bạn cưới vợ, thì cũng chẳng có tội gì. Và nếu người con gái lấy chồng, thì cũng chẳng có tội gì. Tuy nhiên, những người ấy sẽ tự chuốc lấy những nỗi gian truân khốn khổ. Mà tôi, tôi muốn cho anh em thoát khỏi điều đó.

29 Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có; 30 ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả; 31 kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi.

32 Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. 33 Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, 34 thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng. 35 Tôi nói thế là để mong tìm ích lợi cho anh chị em, tôi không có ý gài bẫy anh chị em đâu, nhưng chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em được gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co.

36 Nếu ai đang lúc quá dồi dào khí lực mà nghĩ rằng mình khó có thể tôn trọng vị hôn thê của mình, và cho rằng chuyện thường tình sẽ phải xảy ra, thì người ấy cứ làm như ý mình muốn, không mắc tội đâu: họ cứ việc lấy nhau. 37 Còn ai đứng vững, lòng không nao núng, cũng chẳng miễn cưỡng, lại làm chủ được ý chí của mình, và quyết tâm tôn trọng người trinh nữ, thì người ấy làm một việc tốt. 38 Như thế, ai cưới người trinh nữ của mình, thì làm một việc tốt, nhưng ai không cưới, thì làm một việc tốt hơn.

39 Người vợ bị ràng buộc bao lâu chồng còn sống. Nếu chồng chết rồi, thì vợ được tự do, muốn lấy ai thì lấy, miễn là trong Chúa. 40 Nhưng theo ý kiến tôi, người ấy có phúc hơn nếu cứ ở vậy. Tôi thiết nghĩ: tôi cũng được Thần Khí của Thiên Chúa soi sáng.

Chương 8

2. VẤN ĐỀ THỊT CÚNG

Nguyên tắc

1 Về vấn đề thịt cúng, đã rõ là tất cả chúng ta đều hiểu biết. Sự hiểu biết đó sinh lòng kiêu ngạo, còn lòng bác ái thì xây dựng. 2 Ai tưởng mình hiểu biết điều gì, thì chưa hẳn là đã hiểu biết như phải hiểu biết. 3 Ai yêu mến Thiên Chúa, thì được Người biết đến. 4 Vậy, về việc ăn thịt cúng, chúng ta biết rằng ngẫu tượng chẳng là gì trên thế gian, và cũng chẳng có thần nào ngoài Thiên Chúa độc nhất. 5 Thật thế, mặc dầu người ta cho là có những thần ở trên trời hay dưới đất-quả thực, thần cũng lắm mà chúa cũng nhiều-, 6 nhưng đối với chúng ta, chỉ có một Thiên Chúa là Cha, Đấng tạo thành vạn vật và là cùng đích của chúng ta; và cũng chỉ có một Chúa là Đức Giê-su Ki-tô, nhờ Người mà vạn vật được tạo thành, và nhờ Người mà chúng ta được hiện hữu.

Xét theo đức ái

7 Nhưng không phải mọi người đều hiểu biết như vậy đâu! Có một số người từ trước đến nay đã quen thờ ngẫu tượng, nên khi ăn các thức ấy thì cứ tưởng làm như vậy là ăn của cúng; và lương tâm yếu đuối của họ đã ra ô uế. 8 Không phải của ăn làm cho chúng ta được gần Thiên Chúa. Không ăn những thứ đó, chúng ta chẳng thiệt; mà có ăn, cũng chẳng lợi gì. 9 Nhưng hãy coi chừng kẻo sự tự do của anh em nên dịp cho những người yếu đuối sa ngã. 10 Thật vậy, nếu có ai thấy bạn là người hiểu biết mà lại ngồi dự tiệc trong đền trong miếu, thì lương tâm của người yếu đuối ấy lại chẳng dựa vào đó mà ăn của cúng sao? 11 Thế là sự hiểu biết của bạn làm hư mất một người yếu đuối, một người anh em mà Đức Ki-tô đã chịu chết để cứu chuộc! 12 Như vậy, phạm đến anh em và làm thương tổn lương tâm yếu đuối của họ là phạm đến Đức Ki-tô! 13 Vì thế, nếu của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngã.

Chương 9

Gương của ông Phao-lô

1 Tôi không tự do ư? Tôi không phải là tông đồ ư? Tôi đã không thấy Đức Giê-su, Chúa chúng ta sao? Anh em không phải là công trình của tôi trong Chúa sao? 2 Nếu đối với những người khác tôi không phải là tông đồ, thì ít ra đối với anh em tôi là tông đồ, vì ấn tín chứng thực chức vụ tông đồ của tôi trong Chúa chính là anh em. 3 Đây là lời biện hộ của tôi chống lại những kẻ hạch sách tôi. 4 Phải chăng tôi không có quyền ăn uống, 5 không có quyền đem theo một người chị em tín hữu như các tông đồ khác, như các anh em của Chúa và như ông Kê-pha? 6 Phải chăng chỉ có tôi và anh Ba-na-ba không có quyền được miễn lao động? 7 Có ai đi đánh giặc mà lại phải tự túc bao giờ? Có ai trồng nho mà lại không được ăn trái? Hay có ai chăn súc vật mà lại không được uống sữa của súc vật?

8 Phải chăng tôi nói thế theo kiểu người phàm? Há Lề Luật lại cũng chẳng nói thế sao? 9 Thật vậy, trong luật Mô-sê có chép: Đừng bịt mõm con bò đang đạp lúa. Chẳng lẽ Thiên Chúa lại bận tâm đến con bò sao? 10 Hay cũng vì chúng ta mà Người phán như vậy? Phải, chính vì chúng ta mà có lời chép: Khi cày, thợ cày phải mong được chia phần; và khi đạp lúa, kẻ đạp lúa phải mong được chia phần. 11 Một khi chúng tôi đã gieo của thiêng liêng cho anh em, nếu chúng tôi gặt của vật chất nơi anh em, thì đâu có phải là chuyện quá đáng? 12 Nếu những người khác còn có quyền đòi hỏi anh em, thì huống hồ là chúng tôi! Nhưng chúng tôi đã không dùng quyền đó. Trái lại, chúng tôi chịu đựng tất cả mọi sự để khỏi gây trở ngại cho Tin Mừng của Đức Ki-tô. 13 Anh em không biết rằng người lo các thánh vụ thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của bàn thờ sao? 14 Cũng vậy, Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng.

15 Nhưng phần tôi, tôi đã không dùng một quyền nào trong những quyền ấy. Tôi viết các điều này không phải để cũng được như vậy, vì đối với tôi thà chết còn hơn là. . . . Niềm tự hào đó, không ai có thể huỷ diệt được! 16 Thật vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng! 17 Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. 18 Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi.

19 Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. 20 Với người Do-thái, tôi đã trở nên Do-thái, để chinh phục người Do-thái. Với những ai sống theo Lề Luật, tôi đã trở nên người sống theo Lề Luật, dù không còn phải sống theo Lề Luật nữa, để chinh phục những người sống theo Lề Luật. 21 Đối với những kẻ sống ngoài Lề Luật, tôi đã trở nên người sống ngoài Lề Luật, dù tôi không sống ngoài luật Thiên Chúa, nhưng sống trong luật Đức Ki-tô, để chinh phục những người sống ngoài Lề Luật. 22 Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. 23 Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng.

24 Anh em chẳng biết sao: trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải. Anh em hãy chạy thế nào để chiếm cho được phần thưởng. 25 Phàm là tay đua, thì phải kiêng kỵ đủ điều, song họ làm như vậy là để đoạt phần thưởng chóng hư; trái lại chúng ta nhằm phần thưởng không bao giờ hư nát. 26 Vậy tôi đây cũng chạy như thế, chứ không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không phải đấm vào không khí. 27 Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại.

Chương 10

Xét theo sự thận trọng- Bài học của quá khứ Ít-ra-en

1 Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. 2 Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Mô-sê. 3 Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, 4 tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Ki-tô. 5 Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc.

6 Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta. 7 Anh em đừng trở thành những kẻ thờ ngẫu tượng, như một số trong nhóm họ, theo lời đã chép: Dân đã ngồi xuống để ăn uống, rồi lại đứng lên chơi đùa. 8 Ta đừng gian dâm, như một số trong nhóm họ đã gian dâm: nội một ngày, hai mươi ba ngàn người đã ngã gục. 9 Ta đừng thử thách Chúa, như một số trong nhóm họ đã thử thách Người và đã bị rắn cắn chết. 10 Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. 11 Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này. 12 Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã. 13 Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng.

Tiệc cúng. Không thoả hiệp với việc thờ ngẫu tượng

14 Vì thế, anh em thân mến, hãy xa lánh việc thờ ngẫu tượng. 15 Tôi nói với anh em như nói với những người khôn ngoan hiểu biết; anh em hãy tự mình suy xét điều tôi nói. 16 Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Ki-tô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? 17 Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể. 18 Anh em hãy coi Ít-ra-en xét theo huyết thống. Những ai ăn tế phẩm, há chẳng phải là những kẻ được chia lộc bàn thờ sao? 19 Thế nghĩa là gì? Thịt cúng là gì? Ngẫu tượng là gì? 20 Tuy nhiên, đồ cúng là cúng cho ma quỷ, chứ không phải cho Thiên Chúa; mà tôi không muốn anh em hiệp thông với ma quỷ. 21 Anh em không thể vừa uống chén của Chúa, vừa uống chén của ma quỷ được; anh em không thể vừa ăn ở bàn tiệc của Chúa, vừa ăn ở bàn tiệc của ma quỷ được. 22 Hay là ta muốn làm cho Chúa phải ghen tương? Chẳng lẽ ta mạnh sức hơn Người?

Vấn đề ăn thịt cúng. Cách giải quyết

23 “Được phép làm mọi sự"; nhưng không phải mọi sự đều có ích.” Được phép làm mọi sự"; nhưng không phải mọi sự đều có tính cách xây dựng. 24 Đừng ai tìm ích lợi cho riêng mình, nhưng hãy tìm ích lợi cho người khác. 25 Tất cả những gì bán ngoài chợ, anh em cứ việc ăn, không cần phải đặt vấn đề lương tâm, 26 bởi vì trái đất và muôn vật muôn loài trên trái đất đều là của Chúa. 27 Nếu có người ngoại nào mời anh em và anh em muốn đi, thì cứ ăn tất cả những gì người ta dọn cho anh em, không cần phải đặt vấn đề lương tâm. 28 Nhưng nếu có người bảo: ”Đây là của cúng", thì anh em đừng ăn, vì người ấy-kẻ đã báo trước cho anh em- và vì vấn đề lương tâm. 29 Tôi không có ý nói lương tâm của anh em, nhưng lương tâm của người khác, bởi vì chẳng lẽ quyền tự do của tôi lại bị lương tâm kẻ khác xét xử? 30 Nếu tôi vừa tham dự, vừa tạ ơn Thiên Chúa, tại sao tôi lại bị khiển trách vì của ăn mà tôi tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho?

Kết luận

31 Vậy, dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa. 32 Anh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai, dù là cho người Do-thái hay người ngoại, hoặc cho Hội Thánh của Thiên Chúa; 33 cũng như tôi đây, trong mọi hoàn cảnh, tôi cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ.

Chương 11

1 Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô.

3. TRẬT TỰ TRONG CỘNG ĐOÀN

Trang phục của phụ nữ

2 Tôi có lời khen anh em đã nhớ đến tôi trong mọi dịp và nắm giữ các truyền thống tôi đã để lại cho anh em. 3 Nhưng tôi muốn anh em biết rằng thủ lãnh của người nam là Đức Ki-tô, thủ lãnh của người nữ là người nam, và thủ lãnh của Đức Ki-tô là Thiên Chúa. 4 Phàm người nam nào cầu nguyện hoặc nói tiên tri mà che đầu, thì hạ nhục Đấng làm đầu mình. 5 Phàm người nữ nào cầu nguyện hoặc nói tiên tri mà lại để đầu trần, thì làm nhục kẻ làm đầu mình, vì người ấy như thể trọc đầu vậy. 6 Người nữ mà để đầu trần, thì cứ cắt tóc đi! Nhưng nếu cắt tóc hay trọc đầu là một điều xấu hổ đối với người nữ, thì hãy che đầu lại! 7 Người nam không được che đầu, bởi vì là hình ảnh và vinh quang của Thiên Chúa; còn người nữ là vinh quang của người nam. 8 Thật vậy, không phải người nam tự người nữ mà có, nhưng người nữ tự người nam. 9 Cũng chẳng phải người nam được dựng nên vì người nữ, nhưng người nữ vì người nam. 10 Bởi thế, người nữ phải mang trên đầu một dấu hiệu phục tùng, vì có các thiên thần. 11 Tuy nhiên, trong Chúa, không nam thì chẳng có nữ, và không nữ thì chẳng có nam. 12 Thật thế, như người nữ tự người nam mà có, thì người nam cũng bởi người nữ mà sinh ra, và mọi sự đều tự Thiên Chúa mà có.

13 Anh em hãy tự xét xem: người nữ không che đầu mà cầu nguyện với Thiên Chúa thì có xứng hợp không? 14 Chính thiên nhiên lại không dạy anh em rằng người nam mà để tóc dài là điều ô nhục, 15 còn người nữ mà để tóc dài thì lại là vinh dự cho họ đó sao? Là vì Thiên Chúa ban cho người nữ mái tóc làm khăn che đầu.

16 Ngoài ra, nếu có ai nghĩ mình phải cãi lý, thì đó không phải là thói quen của chúng tôi, cũng như không phải là thói quen trong các Hội Thánh của Thiên Chúa.

Bữa tiệc của Chúa (Mt 26:26-29; Mc 14:22-25; Lc 22:14-20 )

17 Nhân lúc đưa ra các chỉ thị này, tôi chẳng khen anh em đâu, vì những buổi họp của anh em không đem lại lợi ích gì, mà chỉ gây hại. 18 Thật thế, trước tiên tôi nghe rằng khi họp cộng đoàn, anh em chia rẽ nhau, và tôi tin là điều ấy có phần nào đúng. 19 Những sự chia rẽ giữa anh em, thế nào cũng có, nhưng nhờ vậy mới rõ ai là người đạo đức chắc chắn. 20 Khi anh em họp nhau, thì không phải là để ăn bữa tối của Chúa. 21 Thật vậy, mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế, kẻ thì đói, người lại say. 22 Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của? Tôi phải nói gì với anh em? Chẳng lẽ tôi khen anh em sao? Về điểm này, tôi chẳng khen đâu!

23 Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, 24 dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: ”Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.” 25 Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: ”Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.” 26 Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết. 27 Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa.

28 Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. 29 Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình. 30 Vì lẽ đó, trong anh em, có nhiều người ốm đau suy nhược, và cũng có lắm người đã chết. 31 Giả như chúng ta tự xét mình, thì chúng ta đã không bị xét xử. 32 Nhưng khi Chúa xét xử là Người sửa dạy chúng ta, để chúng ta khỏi bị kết án cùng với thế gian.

33 Cho nên, thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. 34 Ai đói, thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến họp mà hoá ra để bị kết án. Về các vấn đề khác, tôi sẽ liệu khi nào đến thăm anh em.

Chương 12

Ân huệ của Thần Khí hay đặc sủng

1 Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về các ân huệ thiêng liêng. 2 Anh em biết rằng khi còn là người ngoại, anh em bị lôi cuốn mãnh liệt vào việc thờ cúng các ngẫu tượng câm. 3 Vì thế, tôi nói cho anh em biết: chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói: ”Giê-su là đồ khốn kiếp!”; cũng không ai có thể nói rằng: ”Đức Giê-su là Chúa", nếu người ấy không ở trong Thần Khí.

Đặc sủng tuy nhiều, nhưng chung một gốc

4 Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. 5 Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. 6 Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. 7 Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. 8 Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. 9 Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. 10 Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. 11 Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người.

So sánh với thân thể

12 Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy. 13 Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất.

14 Thật vậy, thân thể gồm nhiều bộ phận, chứ không phải chỉ có một mà thôi. 15 Giả như chân có nói: ”Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể", thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. 16 Giả như tai có nói: ”Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể", thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. 17 Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi?

18 Nhưng Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn. 19 Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể được? 20 Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một. 21 Vậy mắt không có thể bảo tay: ”Tao không cần đến mày"; đầu cũng không thể bảo hai chân: ”Tao không cần chúng mày.”

22 Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất; 23 và những bộ phận ta coi là tầm thường nhất, thì ta lại tôn trọng hơn cả. Những bộ phận kém trang nhã, thì ta lại mặc cho chúng trang nhã hơn hết. 24 Còn những bộ phận trang nhã thì không cần gì cả. Nhưng Thiên Chúa đã khéo xếp đặt các bộ phận trong thân thể, để bộ phận nào kém thì được tôn trọng nhiều hơn. 25 Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. 26 Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.

27 Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận. 28 Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ. 29 Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ? Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ, ai cũng là thầy dạy sao? Chẳng lẽ ai cũng được ơn làm phép lạ, 30 ai cũng được ơn chữa bệnh sao? Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng lạ, ai cũng giải thích được các tiếng lạ sao?

Thứ bậc các đặc sủng. Bài ca đức mến

31 Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả.

Chương 13

1 Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. 2 Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. 3 Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. 4 Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, 5 không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, 6 không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. 7 Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. 8 Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. 9 Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn. 10 Khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi. 11 Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con. 12 Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi. 13 Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.

Chương 14

Thứ bậc các đặc sủng để mưu cầu ích chung

1 Anh em hãy cố đạt cho được đức mến, hãy khao khát những ơn của Thần Khí, nhất là ơn nói tiên tri. 2 Thật vậy, kẻ nói tiếng lạ thì không nói với người ta, nhưng là nói với Thiên Chúa, bởi vì chẳng ai hiểu được: nhờ Thần Khí, kẻ ấy nói ra những điều nhiệm mầu. 3 Còn người nói tiên tri thì nói với người ta để xây dựng, để khích lệ và an ủi. 4 Kẻ nói tiếng lạ thì tự xây dựng chính mình; người nói tiên tri thì xây dựng Hội Thánh. 5 Tôi muốn cho tất cả anh em nói các tiếng lạ, và nhất là tôi muốn cho anh em nói tiên tri. Người nói tiên tri thì cao trọng hơn người nói các tiếng lạ, trừ phi người này giải thích để xây dựng Hội Thánh.

6 Thưa anh em, giờ đây, giả như tôi đến cùng anh em mà chỉ nói các tiếng lạ, giả như lời nói của tôi không đem lại cho anh em một mặc khải, một sự hiểu biết, hay không phải là một lời tiên tri, một lời giáo huấn, thì nào có ích gì cho anh em? 7 Như thế, có khác chi những nhạc cụ không hồn, như sáo như đàn: nếu âm thanh không rõ, thì làm sao nhận ra được cung nhạc tiếng đàn? 8 Thật vậy, giả như kèn chỉ phát ra một tiếng vu vơ, thì ai sẽ chuẩn bị chiến đấu? 9 Anh em cũng thế: nếu miệng lưỡi anh em chẳng nói những lời có thể hiểu được, thì làm sao người ta biết điều anh em nói? Anh em chỉ nói bông lông thôi! 10 Trong thiên hạ, có rất nhiều thứ ngôn ngữ, nhưng không có thứ nào là vô nghĩa. 11 Vậy nếu tôi không biết giá trị của ngôn ngữ, thì tôi sẽ là kẻ man dã đối với người nói, và người nói là kẻ man dã đối với tôi. 12 Anh em cũng vậy: vì khao khát những ơn của Thần Khí, anh em hãy tìm kiếm để được dồi dào các ân huệ đó, nhằm xây dựng Hội Thánh.

13 Vì thế, kẻ nói tiếng lạ thì phải xin cho được ơn giải thích. 14 Thật vậy, nếu tôi cầu nguyện bằng tiếng lạ thì lòng tôi cầu nguyện, nhưng trí tôi chẳng thu được kết quả gì. 15 Vậy, phải làm sao? Tôi sẽ cầu nguyện với tấm lòng, nhưng cũng cầu nguyện với trí khôn nữa. Tôi sẽ ca hát với tấm lòng, nhưng cũng ca hát với trí khôn nữa. 16 Quả thế, nếu bạn chỉ chúc tụng với tấm lòng thôi, thì làm sao hạng người ngoài cuộc có thể thưa”A-men" lúc bạn dâng lời tạ ơn, vì người đó không biết bạn nói gì? 17 Đã hẳn, lời tạ ơn của bạn tốt đẹp thật, nhưng không xây dựng cho người khác. 18 Tôi cảm tạ Thiên Chúa vì tôi nói các tiếng lạ nhiều hơn tất cả anh em, 19 nhưng trong cộng đoàn, thà tôi nói năm ba tiếng có thể hiểu được để dạy dỗ kẻ khác, còn hơn là nói hàng vạn lời bằng tiếng lạ.

20 Thưa anh em, về mặt phán đoán thì đừng sống như trẻ con; về đàng dữ, sống như trẻ con thì được, nhưng về mặt phán đoán thì phải là người trưởng thành. 21 Trong Lề Luật có chép: Chúa phán rằng: Ta sẽ dùng những người nói tiếng khác lạ và môi miệng người ngoại quốc mà nói với dân này; dù thế, chúng cũng chẳng nghe Ta. 22 Vì thế, các tiếng lạ được dùng làm dấu hiệu, không phải cho những người tin, mà cho những kẻ không tin; còn lời ngôn sứ thì không phải là cho những kẻ không tin, mà cho những người tin. 23 Vậy giả như cả cộng đoàn họp lại một nơi và mọi người đều nói các tiếng lạ, mà khi đó có người ngoài cuộc hay người không tin đi vào, thì họ chẳng bảo là anh em điên sao? 24 Còn nếu mọi người đều nói tiên tri, mà có người không tin hoặc người ngoài cuộc đi vào, người đó sẽ thấy mình bị mọi người khiển trách, mọi người xét xử. 25 Những điều bí ẩn trong lòng người đó sẽ bị lộ, và như thế, người đó sẽ sấp mình xuống mà thờ lạy Thiên Chúa, tuyên bố rằng: ”Hẳn thật, Thiên Chúa ở giữa anh em.”

Các đặc sủng. Quy luật thực tiễn

26 Vậy, thưa anh em, phải kết luận thế nào? Khi anh em hội họp, người thì hát thánh ca, người thì giảng dạy, người thì nói lời mặc khải, người thì nói tiếng lạ, người thì giải nghĩa: tất cả những điều ấy đều phải nhằm xây dựng Hội Thánh. 27 Nếu có nói tiếng lạ, thì chỉ hai hoặc tối đa ba người nói thôi, mỗi người cứ theo phiên mà nói, và phải có một người giải thích. 28 Nếu không có người giải thích, thì phải giữ thinh lặng trong cộng đoàn, mỗi người chỉ nói với mình và với Thiên Chúa thôi. 29 Về các ngôn sứ, chỉ nên có hai hoặc ba người lên tiếng thôi, còn những người khác thì phân định. 30 Nếu có ai ngồi đó được ơn mặc khải, thì người đang nói phải im đi. 31 Mọi người có thể lần lượt nói tiên tri, để ai nấy đều được học hỏi và khích lệ. 32 Ngôn sứ thì làm chủ những cảm hứng tiên tri của mình, 33 bởi vì Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa gây hỗn loạn, nhưng là Thiên Chúa tạo bình an. Như thói quen trong mọi cộng đoàn dân thánh, 34 phụ nữ phải làm thinh trong các buổi họp, vì họ không được phép lên tiếng; trái lại, họ phải sống phục tùng như chính Lề Luật dạy. 35 Nếu họ muốn tìm hiểu điều gì, thì cứ về nhà hỏi chồng, bởi vì phụ nữ mà lên tiếng trong cộng đoàn thì không còn thể thống gì. 36 Lời Thiên Chúa có phát xuất từ anh em không? Hay lời ấy chỉ đến với một mình anh em mà thôi? 37 Nếu ai tưởng mình là ngôn sứ hoặc được Thần Khí linh hứng, thì hãy nhìn nhận rằng các điều tôi viết đây là mệnh lệnh của Chúa. 38 Ai không nhận biết điều ấy, thì cũng không được Chúa biết đến.

39 Cho nên, thưa anh em, anh em hãy khao khát ơn nói tiên tri và đừng ngăn cấm nói các tiếng lạ. 40 Nhưng hãy làm mọi sự cách trang nghiêm và có trật tự.

Chương 15

III. KẺ CHẾT SỐNG LẠI

Sự kiện Phục Sinh

1 Thưa anh em, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng tôi đã loan báo và anh em đã lãnh nhận cùng đang nắm vững. 2 Nhờ Tin Mừng đó, anh em được cứu thoát, nếu anh em giữ đúng như tôi đã loan báo, bằng không thì anh em có tin cũng vô ích.

3 Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, 4 rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh. 5 Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi với Nhóm Mười Hai. 6 Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. 7 Tiếp đến, Người hiện ra với ông Gia-cô-bê, rồi với tất cả các Tông Đồ. 8 Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non.

9 Thật vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. 10 Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi.

11 Tóm lại, dù tôi hay các vị khác rao giảng, thì chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em đã tin như vậy.

12 Nhưng nếu chúng tôi rao giảng rằng Đức Ki-tô đã từ cõi chết trỗi dậy, thì sao trong anh em có người lại nói: không có chuyện kẻ chết sống lại? 13 Nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Ki-tô đã không trỗi dậy. 14 Mà nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng. 15 Thế ra chúng tôi là những chứng nhân giả của Thiên Chúa, bởi vì đã chống lại Thiên Chúa mà làm chứng rằng Người đã cho Đức Ki-tô trỗi dậy, trong khi thực sự Người đã không cho Đức Ki-tô trỗi dậy, nếu quả thật kẻ chết không trỗi dậy. 16 Vì nếu kẻ chết không trỗi dậy, thì Đức Ki-tô cũng đã không trỗi dậy. 17 Mà nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. 18 Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Ki-tô cũng bị tiêu vong. 19 Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người.

20 Nhưng không phải thế! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. 21 Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. 22 Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống. 23 Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Ki-tô, rồi khi Đức Ki-tô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. 24 Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha.

25 Thật vậy, Đức Ki-tô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. 26 Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, 27 vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Ki-tô. Mà khi nói muôn loài, thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Ki-tô. 28 Lúc muôn loài đã quy phục Đức Ki-tô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài.

29 Chẳng vậy, những người chịu phép rửa thế cho kẻ chết thì được gì? Nếu tuyệt nhiên kẻ chết không trỗi dậy, thì tại sao người ta lại chịu phép rửa thế cho kẻ chết? 30 Và chính chúng tôi, tại sao hằng giờ chúng tôi liều mình đương đầu với hiểm hoạ? 31 Thưa anh em, mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết: tôi có hãnh diện về anh em trong Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, thì mới quả quyết như vậy. 32 Nếu vì những lý do phàm trần mà tôi đã chiến đấu với thú dữ tại Ê-phê-xô, thì điều đó nào có ích gì cho tôi? Nếu kẻ chết không trỗi dậy, thì chúng ta cứ ăn cứ uống đi, vì ngày mai chúng ta sẽ chết. 33 Anh em chớ có lầm: Chơi với kẻ xấu, người tốt cũng ra xấu. 34 Đừng say sưa nữa mới phải phép, và chớ phạm tội: một số người quả không biết gì về Thiên Chúa. Tôi nói như vậy để anh em phải xấu hổ.

Cách thức kẻ chết sống lại

35 Nhưng có người sẽ nói: kẻ chết trỗi dậy thế nào? Họ lấy thân thể nào mà trở về? 36 Đồ ngốc! Ngươi gieo cái gì, cái ấy phải chết mới được sống. 37 Cái ngươi gieo không phải là hình thể sẽ mọc lên, nhưng là một hạt trơ trụi, chẳng hạn như hạt lúa hay một thứ nào khác. 38 Rồi Thiên Chúa cho nó một hình thể như ý Người muốn: giống nào hình thể nấy.

39 Không phải mọi thể xác đều giống nhau: của loài người thì khác, của loài vật thì khác, của loài chim thì khác, của loài cá thì khác. 40 Lại có những vật thể thuộc thiên giới và những vật thể thuộc địa giới. Nhưng vẻ rạng rỡ của những vật thể thuộc thiên giới thì khác, vẻ rạng rỡ của những vật thể thuộc địa giới thì khác. 41 Ánh mặt trời thì khác, ánh mặt trăng thì khác, ánh tinh tú thì khác, bởi vì ánh sáng tinh tú này khác với ánh sáng tinh tú kia. 42 Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt; 43 gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, 44 gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí.

45 Như có lời đã chép: con người đầu tiên là A-đam được dựng nên thành một sinh vật, còn A-đam cuối cùng là thần khí ban sự sống. 46 Loài xuất hiện trước không phải là loài có thần khí, nhưng là loài có sinh khí; loài có thần khí chỉ xuất hiện sau đó. 47 Người thứ nhất bởi đất mà ra thì thuộc về đất; còn người thứ hai thì từ trời mà đến. 48 Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến. 49 Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến.

50 Thưa anh em, điều tôi muốn nói là xác thịt và khí huyết không thể thừa hưởng Nước Thiên Chúa được, cũng như cái hư nát không thể thừa hưởng sự bất diệt được. 51 Đây tôi nói cho anh em biết mầu nhiệm này: không phải tất cả chúng ta sẽ chết, nhưng tất cả chúng ta sẽ được biến đổi52 trong một giây lát, trong một nháy mắt, khi tiếng kèn cuối cùng vang lên. Vì tiếng kèn sẽ vang lên, và những kẻ chết sẽ trỗi dậy mà không còn hư nát; còn chúng ta, chúng ta sẽ được biến đổi. 53Quả vậy, cái thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt; và cái thân phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử.

Khải hoàn ca

54 Vậy khi cái thân phải hư nát này mặc lấy sự bất diệt, khi cái thân phải chết này mặc lấy sự bất tử, thì bấy giờ sẽ ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Tử thần đã bị chôn vùi. Đây giờ chiến thắng! 55 Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? 56 Tử thần có độc là vì tội lỗi, mà tội lỗi có mạnh cũng tại có Lề Luật. 57 Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.

58 Bởi vậy, anh em thân mến, anh em hãy kiên tâm bền chí, và càng ngày càng tích cực tham gia vào công việc của Chúa, vì biết rằng: trong Chúa, sự khó nhọc của anh em sẽ không trở nên vô ích.

Chương 16

KẾT LUẬN

Những lời dặn dò, thăm hỏi và lời cầu chúc cuối cùng

1 Về việc quyên tiền giúp các người thuộc dân thánh, tôi đã truyền dạy cho các Hội Thánh ở Ga-lát như thế nào, thì anh em cũng làm như vậy. 2 Ngày thứ nhất trong tuần, mỗi người trong anh em hãy để riêng ra những gì đã may mắn thu góp được, chứ đừng đợi khi tôi đến rồi mới quyên. 3 Khi tới, tôi sẽ cử những người được anh em chấp thuận đi Giê-ru-sa-lem, mang thư và quà anh em đã rộng rãi quyên tặng. 4 Và nếu xét là tôi nên đi, thì họ sẽ cùng đi với tôi.

5 Tôi sẽ đến thăm anh em, sau khi ghé Ma-kê-đô-ni-a, bởi vì tôi sẽ đi qua đó. 6 Có lẽ tôi sẽ ở lại và qua mùa đông với anh em nữa, để anh em đưa tôi đến những nơi tôi sẽ đến. 7 Thật thế, tôi không muốn chỉ ghé qua thăm anh em mà thôi, nhưng còn hy vọng ở lại với anh em ít lâu, nếu Chúa cho phép. 8 Tôi sẽ ở lại Ê-phê-xô cho đến lễ Ngũ Tuần, 9 bởi vì ở đó cửa đã rộng mở cho tôi, để tôi hoạt động, nhưng đối thủ cũng nhiều.

10 Anh Ti-mô-thê có đến, thì anh em hãy lo cho anh ấy ở với anh em mà không phải e ngại gì, vì anh ấy cũng làm việc Chúa như tôi. 11 Vậy đừng có ai khinh anh ấy. Xin anh em đưa anh ấy trở về an toàn với tôi, vì tôi cùng các anh em ở đây đang chờ anh ấy. 12 Còn về anh A-pô-lô, tôi đã tha thiết xin anh ấy đến thăm anh em cùng với các anh em khác. Nhưng lúc này anh ấy nhất định không chịu đi, anh ấy sẽ đi khi có dịp thuận tiện.

13 Hãy tỉnh thức, hãy đứng vững trong đức tin, hãy sống cho đáng bậc nam nhi và ăn ở kiên cường. 14 Hãy làm mọi sự vì đức ái.

15 Thưa anh em, tôi có một lời khuyên nữa, anh em biết gia đình Tê-pha-na: họ là những người đầu tiên trở lại đạo tại xứ A-khai-a và đã dấn thân phục vụ dân thánh. 16 Anh em hãy tuân phục những người như thế và những người cùng vất vả cộng tác với họ. 17 Tôi vui mừng vì có Tê-pha-na, Pho-tu-na-tô và A-khai-cô đến thăm, bởi vì họ thế cho anh em là những người vắng mặt. 18 Thật vậy, họ đã làm cho tinh thần của tôi và của anh em được bình an thanh thản. Vậy anh em hãy biết quý trọng những người như thế.

19 Các Hội Thánh A-xi-a gửi lời chào anh em. A-qui-la và Pơ-rít-ca cùng với Hội Thánh họp tại nhà họ gửi lời chào anh em trong Chúa. 20 Tất cả các anh em ở đây gửi lời chào anh em. Anh em hãy hôn chào nhau một cách thánh thiện.

21 Chính tôi, Phao-lô, tự tay viết lời chào này.

22 Nếu ai không yêu mến Chúa thì là đồ khốn kiếp!

"Ma-ra-na tha!”

23 Cầu chúc anh em đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su!

24 Tôi thương mến tất cả anh em trong Đức Ki-tô Giê-su.

Cô-rin-tô 2

Chương 1

Lời chào thăm. Lời cảm tạ

1 Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, và Ti-mô-thê là người anh em, kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, cùng với mọi người trong dân thánh trong khắp miền A-khai-a. 2 Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.

3 Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. 4 Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó. 5 Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Ki-tô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi. 6 Chúng tôi có phải chịu gian nan, thì đó là để anh em được an ủi và được cứu độ. Chúng tôi có được an ủi, thì cũng là để anh em được an ủi, khiến anh em có sức kiên trì chịu đựng cùng những nỗi thống khổ mà chính chúng tôi phải chịu. 7 Chúng tôi lấy làm an tâm về anh em, vì biết rằng anh em thông phần thống khổ với chúng tôi thế nào, thì cũng sẽ được thông phần an ủi như vậy.

8 Thật thế, thưa anh em, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về nỗi gian truân chúng tôi đã gặp bên A-xi-a: chúng tôi đã phải chịu đựng quá mức, quá sức chúng tôi, đến nỗi chúng tôi không còn hy vọng sống nổi. 9 Nhưng chúng tôi đã mang án tử nơi chính bản thân rồi, để chúng tôi không tin tưởng vào chính mình, mà vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ chết trỗi dậy. 10 Chính Người đã cứu và sẽ còn cứu chúng tôi khỏi một cái chết như thế. Người là Đấng chúng tôi trông cậy, Người sẽ còn cứu chúng tôi nữa. 11 Còn anh em, hãy lấy lời cầu nguyện mà trợ giúp chúng tôi. Như vậy, Thiên Chúa sẽ ban ơn cho chúng tôi nhờ lời cầu thay nguyện giúp của nhiều người; và do đó, nhiều người sẽ cảm tạ Thiên Chúa vì Người đã thương chúng tôi.

I. NHẮC LẠI NHỮNG SỰ VIỆC ĐÃ XẢY RA

Lý do khiến ông Phao-lô thay đổi lộ trình

12 Điều khiến chúng tôi tự hào là lương tâm chúng tôi làm chứng rằng: chúng tôi lấy sự thánh thiện và chân thành Thiên Chúa ban mà cư xử với người ta ở đời, đặc biệt là với anh em. Chúng tôi không cư xử theo lẽ khôn ngoan người đời, nhưng theo ân sủng của Thiên Chúa. 13 Thật thế, chúng tôi không viết cho anh em điều gì khác ngoài những điều anh em có thể đọc và hiểu được. Và tôi hy vọng anh em sẽ hiểu đến nơi đến chốn, 14 như anh em đã hiểu chúng tôi phần nào: chúng tôi là niềm vinh dự của anh em, cũng như anh em là niềm vinh dự của chúng tôi trong Ngày của Đức Giê-su, Chúa chúng ta.

15 Với lòng tin tưởng đó, tôi định đến với anh em trước để anh em được hưởng ân phúc lần thứ hai; 16 rồi từ nơi anh em, tôi đi Ma-kê-đô-ni-a; sau đó lại từ Ma-kê-đô-ni-a về với anh em, để anh em đưa tôi đi Giu-đê. 17 Dự tính như thế, phải chăng tôi đã tỏ ra nhẹ dạ? Hay điều tôi dự tính là dự tính theo kiểu người phàm, khiến tôi vừa nói”có" lại vừa nói”không"? 18 Xin Thiên Chúa trung thành chứng giám cho chúng tôi! Lời chúng tôi nói với anh em chẳng phải vừa là “có" vừa là “không". 19 Vì Đức Ki-tô Giê-su, Con Thiên Chúa, Đấng mà chúng tôi, là Xin-va-nô, Ti-mô-thê và tôi, rao giảng cho anh em, đã không vừa là “có" vừa là “không", nhưng nơi Người chỉ toàn là “có". 20 Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là “có" nơi Người. Vì thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên”A-men" để tôn vinh Thiên Chúa. 21 Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh em trong Đức Ki-tô và đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là Thiên Chúa. 22 Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng.

23 Phần tôi, có Thiên Chúa chứng giám, tôi xin lấy mạng sống mà thề rằng: chính vì nể anh em mà tôi đã không đến Cô-rin-tô nữa. 24 Không phải là chúng tôi khống chế đức tin của anh em; trái lại, chúng tôi góp phần tạo niềm vui cho anh em, bởi vì đức tin của anh em đã vững rồi.

Chương 2

1 Vậy, tôi đã quyết định không trở lại với anh em trong lúc ưu phiền. 2 Thật thế, nếu chính tôi gây ưu phiền cho anh em, thì ai là người làm cho tôi vui được, nếu không phải là kẻ ưu phiền vì tôi? 3 Tôi đã viết trong thư như vậy là để khi đến, tôi khỏi phải ưu phiền vì chính những người đáng lẽ phải làm cho tôi vui, bởi vì đối với tất cả anh em, tôi xác tín rằng niềm vui của tôi cũng là niềm vui của tất cả anh em. 4 Thật thế, tôi đã vô cùng đau khổ, con tim se thắt, nước mắt chan hoà khi viết cho anh em: tôi viết không phải để gây ưu phiền, nhưng là để cho anh em biết tôi hết lòng yêu mến anh em.

5 Nếu có ai đã gây ưu phiền, thì không phải là gây ưu phiền cho tôi, mà cho tất cả anh em, một phần nào đó- nói thế, kẻo sợ quá lời. 6 Con người đó bị số đông phạt như thế là đủ rồi. 7 Vì vậy, tốt hơn, anh em phải tha thứ và an ủi, kẻo người đó bị chìm đắm trong nỗi ưu phiền quá mức chăng. 8 Cho nên, đối với người đó, tôi khuyên anh em hãy đặt tình bác ái lên trên hết. 9 Thật thế, sở dĩ tôi đã viết thư cho anh em, là để thử anh em, xem anh em có vâng phục về mọi mặt chăng. 10 Anh em tha thứ cho ai, thì tôi cũng tha thứ cho người ấy. Và nếu tôi đã tha thứ-trong trường hợp phải tha thứ-, thì cũng là vì anh em, trước mặt Đức Ki-tô, 11 kẻo chúng ta bị Xa-tan phỉnh gạt, vì chúng ta không lạ gì ý đồ của nó.

Từ Trô-a đến Ma-kê-đô-ni-a. Viết ra ngoài đề: về sứ vụ tông đồ

12 Khi tôi đến Trô-a rao giảng Tin Mừng Đức Ki-tô, dù cửa đã mở cho tôi để làm việc Chúa, 13 nhưng tôi vẫn không yên lòng, vì không gặp Ti-tô, người anh em của tôi. Tôi từ giã những người ở đó để đi Ma-kê-đô-ni-a.

14 Tạ ơn Thiên Chúa, Đấng hằng cho chúng tôi tham dự cuộc khải hoàn trong Đức Ki-tô, tạ ơn Người là Đấng đã dùng chúng tôi mà làm cho sự nhận biết Đức Ki-tô, như hương thơm, lan toả khắp nơi. 15 Vì chúng tôi là hương thơm của Đức Ki-tô dâng kính Thiên Chúa, toả ra giữa những người được cứu độ cũng như những kẻ bị hư mất. 16 Đối với những người bị hư mất, chúng tôi là mùi tử khí đưa đến tử vong; nhưng đối với những người được cứu độ, chúng tôi lại là hương sự sống đưa đến sự sống. Nhưng ai là người có khả năng thực hiện những điều ấy? 17 Thật thế, chúng tôi không phải như nhiều người, những kẻ xuyên tạc Lời Chúa, mà với tư cách là những người trung thực, được Thiên Chúa sai đi, chúng tôi lên tiếng trước mặt Người, trong Đức Ki-tô.

Chương 3

1 Phải chăng chúng tôi lại bắt đầu tự giới thiệu mình? Hoặc chẳng lẽ, như vài người, chúng tôi lại cần có thư giới thiệu chúng tôi với anh em, hoặc thư của anh em giới thiệu chúng tôi? 2 Thư giới thiệu chúng tôi là chính anh em. Thư ấy viết trong tâm hồn chúng tôi, mọi người đều biết và đã đọc. 3 Rõ ràng anh em là bức thư của Đức Ki-tô được giao cho chúng tôi chăm sóc, không phải viết bằng mực đen, nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi trên những tấm bia bằng đá, nhưng trên những tấm bia bằng thịt, tức là lòng người.

4 Nhờ Đức Ki-tô, chúng tôi dám tin tưởng vào Thiên Chúa như vậy. 5 Không phải vì tự chúng tôi, chúng tôi có khả năng để nghĩ rằng mình làm được gì, nhưng khả năng của chúng tôi là do ơn Thiên Chúa, 6 Đấng ban cho chúng tôi khả năng phục vụ Giao Ước Mới, không phải Giao Ước căn cứ trên chữ viết, nhưng dựa vào Thần Khí. Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống. 7 Nếu việc phục vụ Lề Luật-thứ Lề Luật chỉ đưa đến sự chết và được khắc ghi từng chữ trên những bia đá- mà được vinh quang đến nỗi dân Ít-ra-en không thể nhìn mặt ông Mô-sê được, vì mặt ông chói lọi vinh quang-dù đó chỉ là vinh quang chóng qua-, 8 thì việc phục vụ Thần Khí lại không được vinh quang hơn sao? 9 Vì việc phục vụ án chết mà còn được vinh quang như thế, thì việc phục vụ đức công chính lại chẳng vinh quang hơn lắm sao? 10 So với vinh quang tuyệt vời này, thì vinh quang xưa kia chẳng vinh quang gì. 11 Thật vậy, nếu cái chóng qua mà còn được vinh quang, thì cái còn mãi lại chẳng vinh quang hơn sao?

12 Vì có một niềm hy vọng như thế mà chúng ta thật vững dạ an lòng. 13 Chúng ta không làm như ông Mô-sê lấy màn che để dân Ít-ra-en khỏi thấy khi nào cái chóng qua kia chấm dứt. 14 Nhưng trí họ đã ra mê muội. Thật vậy, cho đến ngày nay, khi họ đọc Cựu Ước, tấm màn ấy vẫn còn, chưa được vén lên, vì chỉ trong Đức Ki-tô, tấm màn ấy mới được vứt bỏ. 15 Phải, cho đến nay, mỗi khi họ đọc sách ông Mô-sê, tấm màn vẫn che phủ lòng họ. 16 Nhưng khi người ta quay lại với Chúa, thì tấm màn mới được cất đi. 17 Chúa là Thần Khí, và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do. 18 Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí.

Chương 4

1 Bởi thế, vì Thiên Chúa đoái thương giao cho chúng tôi công việc phục vụ, nên chúng tôi không sờn lòng nản chí. 2 Trái lại, chúng tôi khước từ những cách hành động ám muội, đáng xấu hổ, và không dùng mưu mô mà xử trí, cũng chẳng xuyên tạc lời Thiên Chúa; nhưng chúng tôi giãi bày sự thật, và bằng cách đó, chúng tôi để cho lương tâm mọi người phê phán trước mặt Thiên Chúa. 3 Tin Mừng chúng tôi rao giảng có bị che khuất, thì chỉ bị che khuất đối với những người hư mất, 4 đối với những kẻ không tin. Họ không tin, vì tên ác thần của đời này đã làm cho tâm trí họ ra mù quáng, khiến họ không thấy bừng sáng lên Tin Mừng nói về vinh quang của Đức Ki-tô, là hình ảnh Thiên Chúa. 5 Bởi chúng tôi không rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Ki-tô Giê-su là Chúa; còn chúng tôi, chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giê-su. 6 Quả thật, xưa Thiên Chúa đã phán: Ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm! Người cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên gương mặt Đức Ki-tô.

Gian truân và hy vọng trong công việc tông đồ

7 Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi. 8 Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng; 9 bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt. 10 Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi. 11 Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe doạ vì Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi. 12 Như thế, sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em.

13 Vì có được cùng một lòng tin, như đã chép: Tôi đã tin, nên tôi mới nói, thì chúng tôi cũng tin, nên chúng tôi mới nói. 14 Quả thật, chúng tôi biết rằng Đấng đã làm cho Chúa Giê-su trỗi dậy cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi dậy với Chúa Giê-su, và đặt chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em. 15 Thật vậy, tất cả những điều ấy xảy ra là vì anh em. Như thế, ân sủng càng dồi dào, thì càng có đông người hơn dâng lên Thiên Chúa muôn ngàn lời cảm tạ, để tôn vinh Người.

16 Cho nên chúng tôi không chán nản. Trái lại, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới. 17 Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời. 18 Vì thế, chúng ta mới không chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật hữu hình thì chỉ tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn.

Chương 5

1 Quả thật, chúng ta biết rằng: nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá huỷ đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra. 2 Do đó, chúng ta rên siết là vì những ước mong được thấy ngôi nhà thiên quốc của chúng ta phủ lên chiếc lều kia, 3 miễn là chúng ta có mặc áo, chứ không phải trần trụi. 4 Thật thế, bao lâu còn ở trong chiếc lều này, chúng ta rên siết, khổ tâm vì không muốn cởi bỏ cái này, nhưng lại muốn trùm thêm lên mình cái kia, để cho cái phải chết tiêu tan trong sự sống. 5 Đấng đã tạo thành chúng ta vì mục đích ấy chính là Thiên Chúa, Người đã ban Thần Khí cho chúng ta làm bảo chứng.

6 Vậy chúng tôi luôn mạnh dạn, và chúng tôi biết rằng: ở lại trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa, 7 vì chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa. . . 8 Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa. 9 Nhưng, dù còn ở trong thân xác hoặc đã lìa bỏ thân xác, chúng tôi chỉ có một tham vọng là làm đẹp lòng Người. 10Vì tất cả chúng ta đều phải được đưa ra ánh sáng, trước toà Đức Ki-tô, để mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác.

Thi hành sứ vụ tông đồ

11 Vậy, vì biết kính sợ Chúa, chúng tôi cố gắng thuyết phục người ta; còn đối với Thiên Chúa, thì mọi sự nơi chúng tôi đều lộ trần trước mặt Người. Và tôi hy vọng rằng mọi sự nơi chúng tôi cũng lộ trần như vậy trước lương tâm của anh em. 12 Chúng tôi không nói hay cho mình để tự giới thiệu một lần nữa với anh em, nhưng cho anh em một cơ hội tự hào về chúng tôi, để anh em có thể trả lời cho những ai chỉ biết kiêu hãnh về những vẻ bề ngoài, chứ không phải về những gì trong tâm hồn. 13 Thật vậy, chúng tôi có điên, thì cũng là vì Thiên Chúa; chúng tôi có khôn, thì cũng là vì anh em. 14 Tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người, thì mọi người đều chết. 15 Đức Ki-tô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình.

16 Vì thế, từ đây chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Ki-tô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa. 17 Cho nên, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. 18 Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải. 19 Thật vậy, trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải. 20 Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Ki-tô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. 21 Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.

Chương 6

1 Vì được cộng tác với Thiên Chúa, chúng tôi khuyên nhủ anh em: anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa, thì đừng để trở nên vô hiệu. 2 Quả thế, Chúa phán rằng: Ta đã nhận lời ngươi vào thời Ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ. Vậy, đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ. 3 Phần chúng tôi, chúng tôi chẳng làm gì gây cớ cho ai vấp phạm, để không người nào có thể đàm tiếu về công việc phục vụ của chúng tôi. 4 Trái lại, trong mọi sự, chúng tôi luôn chứng tỏ mình là những thừa tác viên của Thiên Chúa: gian nan, khốn quẫn, lo âu, 5 đòn vọt, tù tội, loạn ly, nhọc nhằn, vất vả, mất ăn mất ngủ, chúng tôi đều rất mực kiên trì chịu đựng. 6 Chúng tôi còn chứng tỏ điều đó bằng cách ăn ở trong sạch, khôn khéo, nhẫn nhục, nhân hậu, bằng một tinh thần thánh thiện, một tình thương không giả dối, 7 bằng lời chân lý, bằng sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng tôi lấy sự công chính làm vũ khí tấn công và tự vệ, 8 khi vinh cũng như khi nhục, lúc được tiếng tốt cũng như khi mang tiếng xấu. Bị coi là bịp bợm, nhưng kỳ thực chúng tôi chân thành; 9 bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ thực chúng tôi được mọi người biết đến; bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; 10 coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực chúng tôi luôn vui vẻ; coi như nghèo túng, nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả.

Ông Phao-lô thố lộ tâm tình và cảnh cáo

11 Thưa anh em người Cô-rin-tô, chúng tôi đã chân thành ngỏ lời với anh em, chúng tôi đã mở rộng tấm lòng. 12 Chúng tôi không hẹp hòi với anh em đâu, nhưng chính lòng dạ anh em hẹp hòi. 13 Vậy anh em hãy đền đáp chúng tôi; tôi nói với anh em như nói với con cái: anh em cũng hãy mở rộng tấm lòng.

14 Anh em đừng mang chung một ách với những kẻ không tin. Thật thế, làm sao sự công chính lại liên kết được với sự bất chính? Làm sao ánh sáng lại dung hoà được với bóng tối? 15 Làm sao Đức Ki-tô lại hoà hợp được với Bê-li-a? Làm sao người tin lại chung phần được với người không tin? 16 Làm sao đền thờ Thiên Chúa lại đi đôi với tà thần được? Vì chính chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống, như lời Người phán: Ta sẽ đến cư ngụ và đi đi lại lại giữa họ. Ta sẽ là Thiên Chúa của họ, và họ sẽ là dân riêng của Ta. 17 Vì thế, hãy ra khỏi dân ấy, hãy rời xa chúng- Chúa phán như vậy. Đừng có đụng tới vật ô uế nào, và Ta sẽ đón nhận các ngươi. 18 Ta sẽ là Cha các ngươi, và các ngươi sẽ là con trai, con gái của Ta. Chúa toàn năng phán như vậy.

Chương 7

1 Anh em thân mến, vì nắm được những lời hứa ấy, nên chúng ta hãy tẩy rửa hồn xác cho sạch mọi vết nhơ, và đem lòng kính sợ Thiên Chúa mà lo đạt tới mức thánh thiện hoàn toàn.

2 Anh em hãy dành cho chúng tôi một chỗ trong lòng anh em. Chúng tôi đã không làm hại ai, không làm cho ai phải sạt nghiệp, không bóc lột ai. 3 Tôi nói thế không phải để lên án anh em, vì tôi đã từng nói: anh em hằng ở trong lòng chúng tôi, sống chết chúng ta đều có nhau. 4 Tôi rất tin tưởng anh em, tôi rất hãnh diện về anh em. Tâm hồn tôi chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó.

Ông Phao-lô gặp lại ông Ti-tô ở Ma-kê-đô-ni-a

5 Thật thế, khi đến Ma-kê-đô-ni-a, thân xác chúng tôi chẳng được nghỉ ngơi chút nào; trái lại, ở đâu cũng gặp gian nan khốn khó: bên ngoài phải chiến đấu, bên trong phải lo sợ. 6 Nhưng Thiên Chúa, Đấng an ủi những kẻ yếu hèn, đã an ủi chúng tôi bằng cách sai anh Ti-tô đến. 7 Chúng tôi được an ủi không những vì anh Ti-tô đến, mà còn vì anh ấy đã được anh em an ủi. Anh ấy đã cho chúng tôi biết là anh em nóng lòng mong đợi, buồn phiền, nhưng vẫn đầy nhiệt tình đối với tôi, khiến tôi càng vui mừng hơn nữa.

8 Dù trong bức thư trước tôi có làm cho anh em phải ưu phiền, tôi cũng không hối tiếc. Mà giả như có hối tiếc-vì thấy rằng bức thư ấy đã làm cho anh em phải ưu phiền, tuy chỉ trong chốc lát-, 9 thì nay tôi lại vui mừng, không phải vì đã làm cho anh em phải ưu phiền, nhưng vì nỗi ưu phiền đó đã làm cho anh em hối cải. Thật thế, anh em đã phải ưu phiền theo ý Thiên Chúa, nên chúng tôi không làm thiệt hại gì cho anh em. 10 Quả vậy, nỗi ưu phiền theo ý Thiên Chúa làm cho chúng ta hối cải để được cứu độ: đó là điều không bao giờ phải hối tiếc; còn nỗi ưu phiền theo kiểu thế gian thì gây ra sự chết. 11 Hãy xem nỗi ưu phiền theo ý Thiên Chúa đã đem lại cho anh em những gì: bao nồng nhiệt, và hơn thế nữa, bao lời xin lỗi, bao ân hận, bao sợ hãi, bao ước mong, bao nhiệt tình, bao hình phạt; bằng mọi cách, anh em đã chứng tỏ mình vô can trong vụ này. 12 Vậy, nếu tôi đã viết thư cho anh em, thì không phải vì kẻ làm nhục hay người bị nhục, nhưng để cho thái độ nồng nhiệt của anh em đối với chúng tôi được tỏ hiện nơi anh em, trước mặt Thiên Chúa. 13 Đó là điều an ủi chúng tôi.

14 Nếu trước mặt anh ấy, tôi đã có đôi chút tự hào về anh em, thì tôi cũng không hổ thẹn. Trái lại, trong mọi sự, chúng tôi đã nói thật với anh em thế nào, thì thái độ tự hào của chúng tôi trước mặt anh Ti-tô cũng chân thật như vậy. 15 Lòng anh ấy càng tha thiết quý mến anh em, khi nhớ lại anh em đã vâng lời, đã kính sợ và run rẩy đón tiếp anh. 16 Tôi vui mừng vì trong mọi sự tôi có thể tin cậy anh em.

Chương 8

II. TỔ CHỨC LẠC QUYÊN

Những lý do chứng tỏ lòng quảng đại

1 Thưa anh em, chúng tôi xin báo cho anh em biết ân huệ Thiên Chúa đã ban cho các Hội Thánh ở Ma-kê-đô-ni-a. 2 Trải qua bao nỗi gian truân, họ vẫn được chan chứa niềm vui; giữa cảnh khó nghèo cùng cực, họ lại trở nên những người giàu lòng quảng đại. 3 Họ đã tự nguyện theo sức họ, và tôi xin làm chứng là quá sức họ nữa; 4 họ khẩn khoản nài xin chúng tôi cho họ được phúc tham dự vào việc phục vụ các người trong dân thánh. 5 Họ đã vượt quá điều chúng tôi mong ước là tự hiến mình phụng sự Chúa trước, rồi phục vụ chúng tôi theo ý Thiên Chúa. 6 Vì vậy chúng tôi đã xin anh Ti-tô hoàn thành công việc lạc quyên đó nơi anh em, như anh ấy đã bắt đầu làm.

7 Cũng như anh em từng trổi vượt về mọi mặt: về đức tin, lời giảng, sự hiểu biết, lòng nhiệt thành trong mọi lãnh vực, và về lòng bác ái mà anh em đã học được nơi chúng tôi, thì anh em cũng phải trổi vượt về lòng quảng đại trong dịp lạc quyên này nữa. 8 Tôi nói thế không phải để ra lệnh cho anh em đâu. Nhưng tôi chỉ nêu lên lòng nhiệt thành của người khác để xem lòng yêu mến của anh em chân thành đến mức nào. 9 Quả thật, anh em biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có. 10 Về điều này, tôi xin đưa ra một ý kiến. Ý kiến đó thích hợp với anh em, vì anh em là những người đầu tiên, chẳng những đã thực hiện công cuộc đó, mà còn đã quyết định làm ngay từ năm ngoái. 11 Vậy nay anh em hãy hoàn thành công cuộc đó, để như anh em đã hăng hái quyết định thế nào, thì cũng tuỳ khả năng mà hoàn thành như vậy. 12 Vì khi người ta hăng hái dâng cái mình có, thì Thiên Chúa chấp nhận; còn nếu không có thì thôi. 13 Vấn đề không phải là bắt anh em sống eo hẹp để cho người khác bớt nghèo khổ. Điều cần thiết là phải có sự đồng đều. 14 Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng đều, 15 hợp với lời đã chép: Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu.

Gửi gắm ông Ti-tô và các bạn đồng hành

16 Cảm tạ Thiên Chúa đã đặt vào lòng anh Ti-tô một sự nhiệt thành như thế đối với anh em: 17 anh đã nhận lời yêu cầu của tôi và đã nhiệt thành tự nguyện tới thăm anh em. 18 Cùng với anh Ti-tô, chúng tôi cử một người anh em rao giảng Tin Mừng nổi tiếng trong khắp các Hội Thánh. 19 Không những thế, anh lại được các Hội Thánh chỉ định cùng đi với chúng tôi lo việc lạc quyên, một việc nghĩa chúng tôi đảm nhận, để tôn vinh Chúa và biểu lộ lòng hăng hái của chúng tôi. 20 Chúng tôi đề phòng như thế, để không ai chê trách được chúng tôi về món tiền lớn chúng tôi chịu trách nhiệm. 21 Vì chúng tôi quan tâm đến điều thiện, không những trước mặt Chúa, mà cả trước mặt người ta. 22 Chúng tôi lại cử thêm một người anh em nữa của chúng tôi cùng đi với hai người nói trên. Chúng tôi thường hay có dịp thử lòng nhiệt thành của anh ấy bằng nhiều cách; và nay anh còn nhiệt thành hơn nữa, vì đầy lòng tin tưởng vào anh em. 23 Về phần anh Ti-tô, anh vừa là bạn đường, vừa là người cộng tác với tôi trong việc phục vụ anh em. Còn về hai người anh em kia của chúng tôi, họ là sứ giả của các Hội Thánh và là vinh quang của Đức Ki-tô. 24 Vậy, trước mặt các Hội Thánh, anh em hãy tỏ cho những người đó thấy đức ái của anh em, và cho họ biết là chúng tôi có lý để tự hào về anh em.

Chương 9

1 Về việc phục vụ các người trong dân thánh, tôi có viết cho anh em thì kể cũng bằng thừa, 2 vì tôi biết lòng hăng hái của anh em. Điều đó làm cho tôi tự hào vì anh em mà khoe với các anh em vùng Ma-kê-đô-ni-a rằng: ”Xứ A-khai-a đã sẵn sàng từ năm ngoái". Và nhiệt tình của anh em đã khích lệ rất nhiều người. 3 Tôi cử mấy người anh em đi để niềm tự hào của chúng tôi về thiện chí của anh em khỏi trở thành hư ảo, và để anh em được sẵn sàng, như tôi đã nói. 4 Chẳng vậy, lúc anh em Ma-kê-đô-ni-a cùng đến với tôi mà thấy anh em không sẵn sàng, thì chúng tôi phải xấu hổ vì đã tin cậy như thế, nếu không muốn nói là cả anh em nữa cũng phải xấu hổ. 5 Vậy, tôi nghĩ cần phải xin mấy người anh em đến với anh em trước chúng tôi và chuẩn bị cho anh em quyên góp rộng rãi như đã hứa, để anh em sẵn sàng quyên góp với lòng quảng đại, chứ không phải theo tính hẹp hòi.

Ích lợi của cuộc lạc quyên

6 Tôi xin nói điều này: gieo ít thì gặt ít; gieo nhiều thì gặt nhiều. 7 Mỗi người hãy cho tuỳ theo quyết định của lòng mình, không buồn phiền, cũng không miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa yêu thương. 8 Vả lại, Thiên Chúa có đủ quyền tuôn đổ xuống trên anh em mọi thứ ân huệ, để anh em vừa được luôn đầy đủ mọi mặt, vừa được dư thừa mà làm mọi việc thiện, 9 theo như lời đã chép: Kẻ túng nghèo, Người rộng tay làm phúc; đức công chính của Người tồn tại muôn đời.

10 Đấng cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, và bánh làm của ăn nuôi dưỡng, tất sẽ cung cấp dư dật hạt giống cho anh em gieo, và sẽ làm cho đức công chính của anh em sinh hoa kết quả dồi dào. 11 Anh em sẽ được sung túc mọi bề để làm mọi việc thiện cách rộng rãi. Những việc chúng ta làm sẽ khiến người ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa. 12 Thật thế, việc phục vụ cho công ích này không những đáp ứng nhu cầu của của các người trong dân thánh, mà hơn thế nữa, còn là nguồn phát sinh bao lời cảm tạ dâng lên Thiên Chúa. 13 Việc phục vụ này là một bằng cớ cho họ tôn vinh Thiên Chúa, vì thấy anh em vâng phục và tuyên xưng Tin Mừng của Đức Ki-tô, và vì thấy anh em có lòng quảng đại, sẵn sàng chia sẻ với họ và với mọi người. 14 Còn họ, họ sẽ cầu nguyện cho anh em để tỏ lòng quý mến, bởi nhận thấy ân huệ tuyệt vời Thiên Chúa đổ xuống trên anh em. 15 Xin cảm tạ Thiên Chúa vì phúc lộc khôn tả Người ban!

Chương 10

III. ÔNG PHAO-LÔ TỰ BIỆN HỘ

Ông Phao-lô trả lời những kẻ trách ông nhu nhược

1 Chính tôi, Phao-lô, một kẻ trước mặt anh em thì khúm núm, mà vắng mặt thì lại ra oai, tôi xin dựa vào lòng nhân từ và khoan dung của Đức Ki-tô mà khuyên nhủ anh em. 2 Tôi xin anh em chớ bắt buộc tôi, khi có mặt, phải mạnh dạn ra oai mà tính đến chuyện thẳng tay với những kẻ cho rằng chúng tôi chỉ biết sống theo tính xác thịt. 3 Quả thế, chúng tôi đang sống trong xác phàm, nhưng không chiến đấu theo tính xác thịt. 4 Thật vậy, khí giới chúng tôi dùng để chiến đấu không phải là thứ khí giới thuộc xác thịt, nhưng là những khí giới, nhờ Thiên Chúa, có sức đánh đổ các đồn luỹ. Chúng tôi đánh đổ các kiểu lý luận5 và mọi thái độ kiêu căng chống lại sự hiểu biết Thiên Chúa. Chúng tôi bắt mọi tư tưởng phải đầu hàng để đi tới chỗ vâng phục Đức Ki-tô. 6 Chúng tôi sẵn sàng sửa trị mọi kẻ bất tuân, một khi anh em đã hoàn toàn vâng phục.

7 Anh em hãy nhìn nhận những gì sờ sờ trước mắt. Nếu có ai tự phụ mình thuộc về Đức Ki-tô, thì hãy nhận thức một lần nữa điều này: họ thuộc về Đức Ki-tô làm sao, thì chúng tôi cũng vậy. 8 Vì cho dầu tôi có tự hào quá đáng một đôi chút về quyền Chúa đã ban cho chúng tôi để xây dựng, chứ không phải để đánh đổ anh em, thì tôi cũng không lấy làm xấu hổ, 9 kẻo như muốn dùng thư từ mà làm cho anh em phải khiếp sợ. 10 Có kẻ nói rằng: ”Trong thư thì nghiêm khắc và hùng hổ; nhưng khi có mặt thì nhu nhược, nói chẳng ra hồn.” 11 Xin họ biết cho rằng: khi vắng mặt, chúng tôi viết thư làm sao, thì khi có mặt, chúng tôi cũng hành động như vậy.

Ông Phao-lô trả lời những kẻ trách ông đầy tham vọng

12 Thật ra, chúng tôi đâu dám cho mình ngang hàng hay so sánh mình với những kẻ tự cao tự đại kia. Nhưng khi họ lấy mình làm tiêu chuẩn để tự đánh giá và so sánh, thì họ không được khôn. 13 Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ không tự hào quá giới hạn. Trái lại, niềm tự hào của chúng tôi giới hạn trong phạm vi Thiên Chúa đã quy định cho chúng tôi, khi đưa chúng tôi đến với anh em. 14 Vì anh em ở trong phạm vi đó, nên chúng tôi không vượt quá giới hạn khi đến với anh em. Thật thế, chúng tôi đã đến với anh em trước, mang theo Tin Mừng của Đức Ki-tô, 15 chứ không cướp công của người khác mà tự hào quá giới hạn. Nhưng chúng tôi hy vọng rằng: một khi đức tin của anh em lớn mạnh, công việc của chúng tôi ngày càng phát triển nơi anh em trong phạm vi đã quy định cho chúng tôi, 16 thì chúng tôi có thể đem Tin Mừng xa hơn nữa, mà không tự hào về những thành tựu thuộc phạm vi người khác. 17 Nhưng ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa! 18 Người được chấp nhận không phải là kẻ tự cao tự đại, nhưng là người được Chúa đề cao.

Chương 11

Ông Phao-lô bắt buộc phải tự khen mình

1 Phải chi anh em chịu đựng được một chút điên rồ của tôi! Mà hẳn anh em chịu đựng được tôi. 2 Thật thế, vì anh em, tôi ghen cái ghen của Thiên Chúa, bởi tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Ki-tô, để tiến dâng anh em cho Người như một trinh nữ thanh khiết. 3 Nhưng tôi sợ rằng như xưa con rắn đã dùng mưu chước mà lừa dối bà E-và thế nào, thì nay trí lòng anh em cũng dần dần đâm ra hư hỏng, mất sự đơn sơ đối với Đức Ki-tô như vậy. 4 Quả thật, nếu có ai đến rao giảng một Đức Giê-su khác với Đức Giê-su mà chúng tôi rao giảng, hay nếu anh em lãnh nhận một Thần Khí nào khác với Thần Khí anh em đã lãnh nhận, hoặc nếu anh em lãnh nhận một Tin Mừng nào khác với Tin Mừng anh em đã đón nhận, thì anh em sẵn lòng chịu đựng được ngay. 5 Tôi nghĩ rằng tôi chẳng có thua gì các Tông Đồ siêu đẳng kia. 6 Giả như tôi có thua kém về khoa ăn nói, thì về sự hiểu biết, tôi chẳng thua kém đâu! Trong mọi dịp và trước mặt mọi người, chúng tôi đã tỏ cho anh em thấy điều đó rồi.

7 Phải chăng tôi có lỗi, vì đã hạ mình xuống để tôn anh em lên, khi rao giảng không công cho anh em Tin Mừng của Thiên Chúa? 8 Tôi đã bóc lột các Hội Thánh khác, ăn lương của họ, để phục vụ anh em. 9 Hồi ở giữa anh em, những khi lâm cảnh túng thiếu, tôi đã chẳng phiền luỵ ai, bởi vì các anh em từ Ma-kê-đô-ni-a đến đã cung cấp đầy đủ những gì tôi cần. Trong mọi dịp, tôi đã tránh không trở nên gánh nặng cho anh em, và tôi cũng sẽ còn tránh như vậy. 10 Nhân danh chân lý của Đức Ki-tô ở trong tôi, tôi xin nói với anh em rằng: chẳng ai cấm được tôi có niềm vinh dự đó trong các miền xứ A-khai-a. 11 Tại sao thế? Có phải vì tôi không yêu mến anh em chăng? Có Thiên Chúa biết!

12 Điều tôi làm, tôi sẽ tiếp tục làm, để những kẻ muốn có cơ hội tự phụ là những người ngang hàng với chúng tôi, không còn cơ hội đó nữa. 13 Vì những kẻ đó là tông đồ giả, là thợ gian xảo, đội lốt tông đồ của Đức Ki-tô. 14 Lạ gì đâu! Vì chính Xa-tan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! 15 Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ nó đội lốt người phục vụ sự công chính. Chung cục, chúng sẽ lãnh nhận hậu quả công việc chúng đã làm. 16 Tôi xin nói lại: đừng ai tưởng là tôi điên. Mà có ai tưởng như thế, thì cứ nhận tôi là điên, để tôi cũng được tự hào đôi chút. 17 Điều tôi đang nói, tôi không nói theo tinh thần của Chúa, nhưng nói như một người điên, bởi tin chắc rằng mình có lý để tự hào. 18 Vì có lắm kẻ tự hào theo tính xác thịt, thì tôi đây, tôi cũng tự hào. 19 Vốn là người khôn, anh em lại sẵn lòng chịu đựng kẻ điên! 20 Phải rồi, anh em đành chịu người ta áp chế, cấu xé, tước đoạt, đối xử ngạo ngược và tát vào mặt! 21 Tôi nói thế, thật là nhục nhã, như thể chúng tôi đã tỏ ra nhu nhược. . .

22 Họ là người Híp-ri ư? Tôi cũng vậy! Họ là người Ít-ra-en ư? Tôi cũng vậy! Họ là dòng giống Áp-ra-ham ư? Tôi cũng vậy! 23 Họ là người phục vụ Đức Ki-tô ư? Tôi nói như người điên: tôi còn hơn họ nữa! Hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp bội vì chịu đòn, bao lần suýt chết. 24 Năm lần tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; 25 ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! 26 Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. 27 Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. 28 Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh! 29 Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy mình yếu đuối? Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng sôi lên?

30 Nếu phải tự hào, thì tôi sẽ tự hào về những yếu đuối của tôi. 31 Thiên Chúa, Đấng đáng chúc tụng muôn đời, là Cha của Chúa Giê-su, biết rằng tôi không nói dối. 32 Tại Đa-mát, tổng đốc của vua A-rê-ta đã cho lính canh gác thành để bắt tôi. 33 Nhưng người ta đã cho tôi vào một cái thúng, rồi thòng qua cửa sổ dọc theo tường thành. Thế là tôi thoát khỏi tay ông ta.

Chương 12

1 Phải tự hào ư? Nào có ích gì! Dù thế, tôi cũng xin nói về những thị kiến và mặc khải Chúa đã ban cho tôi. 2 Tôi biết có một người môn đệ Đức Ki-tô, trước đây mười bốn năm đã được nhắc lên tới tầng trời thứ ba-có ở trong thân xác hay không, tôi không biết, có ở ngoài thân xác hay không, tôi cũng không biết, chỉ có Thiên Chúa biết. 3 Tôi biết rằng người ấy đã được nhắc lên tận thiên đàng-trong thân xác hay ngoài thân xác, tôi không biết, chỉ có Thiên Chúa biết-, 4 và người ấy đã được nghe những lời khôn tả mà loài người không được phép nói lại. 5 Về một người như thế, tôi sẽ tự hào; còn về bản thân tôi, tôi chỉ tự hào về những yếu đuối của tôi. 6 Quả vậy, nếu muốn tự hào, thì tôi cũng không phải là người điên, vì tôi nói sự thật. Nhưng tôi không làm thế, kẻo người ta đánh giá tôi quá cao, so với điều họ thấy nơi tôi hoặc nghe tôi nói.

7 Và để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. 8 Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. 9 Nhưng Người quả quyết với tôi: ”Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.” Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. 10 Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.

11 Tôi điên rồi! Chính anh em đã khiến tôi hoá ra như thế. Đáng lẽ anh em phải khen tôi, vì mặc dầu tôi chẳng là gì, tôi đâu có thua kém các Tông Đồ siêu đẳng kia. 12 Anh em đã thấy thực hiện nơi anh em những dấu chỉ của sứ vụ Tông Đồ: nào là đức kiên nhẫn hoàn hảo, nào là những dấu lạ điềm thiêng, nào là các phép lạ. 13 Anh em có thua gì các Hội Thánh khác? Có chăng, chỉ thua ở chỗ bản thân tôi đã không phiền luỵ anh em! Xin anh em tha cho tôi sự bất công đó. 14 Đây tôi sẵn sàng đến thăm anh em lần thứ ba. Tôi cũng sẽ không phiền luỵ anh em đâu, bởi vì điều tôi tìm kiếm không phải là của cải của anh em, mà là chính anh em. Thật vậy, không phải con cái có nhiệm vụ thu tích của cải cho cha mẹ, mà là cha mẹ phải thu tích của cải cho con cái. 15 Phần tôi, tôi rất vui lòng tiêu phí tiền của, và tiêu phí cả sức lực lẫn con người của tôi vì linh hồn anh em. Phải chăng vì yêu mến anh em nhiều hơn mà tôi được yêu mến ít hơn?

16 Thế cũng được! Tôi đã không trở nên gánh nặng cho anh em; nhưng vốn là người xảo quyệt, tôi đã dùng mưu mà lừa gạt anh em. 17 Phải chăng trong số những kẻ tôi sai đến, tôi đã dùng người nào đó để bóc lột anh em? 18 Tôi đã xin anh Ti-tô đi, và đã cử người anh em kia cùng đi với anh. Phải chăng anh Ti-tô đã bóc lột anh em? Chúng tôi đã không sống theo cùng một tinh thần, cùng một đường lối sao?

Nỗi lo âu của ông Phao-lô

19 Đã từ lâu, anh em tưởng rằng chúng tôi tự biện hộ trước mặt anh em. Thật ra tôi nói là nói trước mặt Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô. Và thưa anh em thân mến, chúng tôi nói tất cả những điều ấy cốt để xây dựng anh em. 20 Quả vậy, tôi sợ rằng khi đến, tôi không thấy anh em được như ý tôi, và anh em thấy tôi không được như ý anh em. Chớ gì giữa anh em đừng có chia rẽ, ghen tương, oán ghét, cạnh tranh, vu khống, nói hành, kiêu căng, hỗn loạn. 21 Tôi sợ rằng lần sau đến thăm anh em, Thiên Chúa của tôi lại để tôi phải nhục vì anh em, và tôi phải than khóc nhiều người trước đây đã phạm tội, mà nay chẳng chịu ăn năn hối cải về những việc ô uế, gian dâm và phóng đãng họ đã làm.

Chương 13

1 Đây sẽ là lần thứ ba tôi đến thăm anh em. Mọi công việc phải được giải quyết nhờ có ba mặt một lời. 2 Tôi đã nói với những kẻ trước đây đã phạm tội và mọi người khác, và hôm nay khi vắng mặt, tôi cũng xin nói lại như đã nói khi có mặt lần thứ hai, là: nếu đến lần nữa, tôi sẽ không nương tay, 3 bởi vì anh em muốn có một bằng chứng cho thấy Đức Ki-tô nói trong tôi. Người không nhu nhược đối với anh em đâu, nhưng Người đầy uy quyền giữa anh em. 4 Thật vậy, Người đã chịu đóng đinh vì mang thân phận yếu hèn, nhưng nay Người đang sống nhờ quyền năng của Thiên Chúa. Cả chúng tôi nữa, trong Đức Ki-tô, chúng tôi cũng mang thân phận yếu hèn, nhưng cùng với Người, chúng tôi sống nhờ quyền năng của Thiên Chúa để xử sự với anh em.

5 Anh em hãy tự xét xem mình có còn sống trong đức tin hay không. Hãy tự kiểm điểm. Anh em chẳng nhận thấy là có Đức Giê-su Ki-tô ở trong anh em sao? Trừ phi anh em đã thua trong cuộc kiểm điểm này. 6 Tôi hy vọng rằng anh em sẽ nhận thấy là chúng tôi đây không bị thua. 7 Chúng tôi cầu xin Thiên Chúa cho anh em đừng làm điều gì trái, không phải để tỏ ra chúng tôi thắng, nhưng để anh em làm điều thiện, cho dù chúng tôi như bị thua. 8 Vì chúng tôi không thể làm gì chống lại sự thật, nhưng chúng tôi chỉ có thể hoạt động cho sự thật. 9 Quả thế, chúng tôi vui mừng khi chúng tôi yếu mà anh em lại mạnh. Điều chúng tôi cầu xin là anh em được nên hoàn thiện. 10 Vì vậy, khi vắng mặt, tôi viết các điều này, để lúc có mặt, tôi khỏi phải xử nghiêm khắc, theo quyền hành Chúa đã ban cho tôi để xây dựng, chứ không phải để phá đổ.

KẾT LuẬN

Những lời dặn dò, thăm hỏi và lời cầu chúc cuối cùng

11 Ngoài ra, thưa anh em, anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng anh em.

12 Anh em hãy hôn chào nhau cách thánh thiện. Mọi người thuộc dân thánh ở đây gửi lời chào anh em.

13 Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần. A-men.

Ga-lát

Chương 1

Lời mở đầu

1 Tôi là Phao-lô, Tông Đồ không phải do loài người, cũng không phải nhờ một người nào, nhưng bởi Đức Giê-su Ki-tô và Thiên Chúa là Cha, Đấng đã cho Người từ cõi chết trỗi dậy, 2 tôi và mọi anh em đang ở với tôi, kính gửi các Hội Thánh miền Ga-lát. 3 Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an. 4 Để cứu chúng ta thoát khỏi cõi đời xấu xa hiện tại, Đức Giê-su Ki-tô đã tự hiến vì tội lỗi chúng ta, theo ý muốn của Thiên Chúa là Cha chúng ta. 5 Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn thuở muôn đời. A-men.

Lời cảnh cáo

6 Tôi lấy làm ngạc nhiên, khi thấy anh em trở mặt mau lẹ như thế với Đấng đã kêu gọi anh em nhờ ân sủng của Đức Ki-tô, để theo một Tin Mừng khác. 7 Không có Tin Mừng nào khác đâu, mà chỉ có một vài kẻ phá rối anh em, và muốn làm xáo trộn Tin Mừng của Đức Ki-tô đó thôi. 8 Nhưng nếu có ai, kể cả chúng tôi, hoặc một thiên thần nào từ trời xuống, loan báo cho anh em Tin Mừng khác với Tin Mừng chúng tôi đã loan báo cho anh em, thì xin Thiên Chúa loại trừ kẻ ấy đi! 9 Như tôi đã nói, và nay tôi xin nói lại: nếu có ai loan báo cho anh em một Tin Mừng khác với Tin Mừng anh em đã lãnh nhận, thì xin Thiên Chúa loại trừ kẻ ấy đi! 10 Vậy, giờ đây tôi tìm cách lấy lòng người đời, hay lấy lòng Thiên Chúa? Phải chăng tôi tìm cách làm đẹp lòng người đời? Nếu tôi còn muốn làm đẹp lòng người đời, thì tôi không phải là tôi tớ của Đức Ki-tô.

I. LỜI THANH MINH

Ơn gọi của thánh Phao-lô

11 Thật vậy, thưa anh em, tôi xin nói cho anh em biết: Tin Mừng tôi loan báo không phải là do loài người. 12 Vì không có ai trong loài người đã truyền lại hay dạy cho tôi Tin Mừng ấy, nhưng là chính Đức Giê-su Ki-tô đã mặc khải. 13 Anh em hẳn đã nghe nói tôi đã ăn ở thế nào trước kia trong đạo Do-thái: tôi đã quá hăng say bắt bớ, và những muốn tiêu diệt Hội Thánh của Thiên Chúa. 14 Trong việc giữ đạo Do-thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông.

15 Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. 16 Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các lý do tự nhiên, 17 cũng chẳng lên Giê-ru-sa-lem để gặp các vị đã là Tông Đồ trước tôi, nhưng tức khắc tôi đã sang xứ Ả-rập, rồi lại trở về Đa-mát. 18 Ba năm sau tôi mới lên Giê-ru-sa-lem diện kiến ông Kê-pha, và ở lại với ông mười lăm ngày. 19 Tôi đã không gặp một vị Tông Đồ nào khác ngoài ông Gia-cô-bê, người anh em của Chúa. 20 Viết cho anh em những điều này, tôi cam đoan trước mặt Thiên Chúa là tôi không nói dối. 21 Sau đó tôi đến miền Xy-ri và miền Ki-li-ki-a. 22 Nhưng lúc ấy các Hội Thánh Đức Ki-tô tại miền Giu-đê không biết mặt tôi. 23 Họ chỉ nghe nói rằng: ”Người trước đây bắt bớ chúng ta, bây giờ lại loan báo đức tin mà xưa kia ông những muốn tiêu diệt", 24 và vì tôi họ tôn vinh Thiên Chúa.

Chương 2

Đại hội ở Giê-ru-sa-lem

1 Rồi sau mười bốn năm, tôi lại lên Giê-ru-sa-lem một lần nữa cùng với ông Ba-na-ba; tôi cũng đem theo anh Ti-tô đi với tôi. 2 Tôi lên đó vì được Thiên Chúa mặc khải, và đã trình bày cho người ta Tin Mừng tôi rao giảng cho dân ngoại,-cách riêng cho các vị có thế giá-, vì sợ rằng tôi ngược xuôi, và đã ngược xuôi vô ích. 3 Thế mà ngay cả anh Ti-tô, người cùng đi với tôi và là người Hy-lạp, cũng không bị ép phải chịu cắt bì. 4 Sở dĩ thế là vì có những tên xâm nhập, những kẻ giả danh giả nghĩa anh em, đã len lỏi vào dò xét sự tự do của chúng ta, sự tự do chúng ta có được trong Đức Ki-tô Giê-su; họ làm như vậy là để bắt chúng ta trở thành nô lệ. 5 Nhưng với những người ấy, chúng tôi đã không chịu nhượng bộ, dù chỉ trong giây lát, để duy trì cho anh em chân lý của Tin Mừng. 6 Còn về các vị có thế giá-lúc bấy giờ các vị ấy có là gì đi nữa, điều đó không quan hệ đối với tôi: Thiên Chúa không thiên vị ai-, các vị có thế giá ấy đã không đưa ra thêm điều gì cho tôi. 7 Trái lại, các ngài thấy rằng tôi đã được uỷ thác nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cho những người không được cắt bì, cũng như ông Phê-rô được uỷ thác nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cho những người được cắt bì. 8 Thật vậy, Đấng đã hoạt động nơi ông Phê-rô, biến ông thành Tông Đồ của những người được cắt bì, cũng đã hoạt động biến tôi thành Tông Đồ các dân ngoại. 9 Vậy khi nhận ra ân huệ Thiên Chúa đã ban cho tôi, các ông Gia-cô-bê, Kê-pha và Gio-an, những người được coi là cột trụ, đã bắt tay tôi và ông Ba-na-ba để tỏ dấu hiệp thông: chúng tôi thì lo cho các dân ngoại, còn các vị ấy thì lo cho những người được cắt bì. 10 Chỉ có điều này là chúng tôi phải nhớ đến những người túng thiếu, điều mà tôi vẫn gắng làm.

Thánh Phê-rô và thánh Phao-lô tại An-ti-ô-khi-a

11 Nhưng khi ông Kê-pha đến An-ti-ô-khi-a, tôi đã cự lại ông ngay trước mặt, vì ông đã làm điều đáng trách. 12 Thật vậy, ông thường dùng bữa với những người gốc dân ngoại trước khi có những người của ông Gia-cô-bê đến; nhưng khi những người này đến, ông lại tránh né và tự tách ra, vì sợ những người được cắt bì. 13 Những người Do-thái khác cũng theo ông mà giả hình giả bộ, khiến cả ông Ba-na-ba cũng bị lôi cuốn mà giả hình như họ.

14 Nhưng khi tôi thấy các ông ấy không đi đúng theo chân lý của Tin Mừng, thì tôi đã nói với ông Kê-pha trước mặt mọi người: ”Nếu ông là người Do-thái mà còn sống như người dân ngoại, chứ không như người Do-thái, thì làm sao ông lại ép người dân ngoại phải xử sự như người Do-thái?”

Tin Mừng của thánh Phao-lô

15 Chúng ta bẩm sinh là người Do-thái chứ không phải hạng người tội lỗi xuất thân từ dân ngoại. 16 Tuy nhiên, vì biết rằng con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giê-su Ki-tô, nên chúng ta cũng tin vào Đức Ki-tô Giê-su, để được nên công chính, nhờ tin vào Đức Ki-tô, chứ không phải nhờ làm những gì Luật dạy. Quả thế, không phàm nhân nào sẽ được nên công chính vì làm những gì Luật dạy. 17 Nhưng nếu khi tìm cách nên công chính trong Đức Ki-tô mà chúng ta vẫn bị liệt vào hàng tội lỗi, thì chẳng hoá ra Đức Ki-tô là người phục vụ tội lỗi sao? Không phải thế! 18 Thật vậy, nếu tôi xây lại những gì tôi đã phá, thì tôi tỏ ra mình là kẻ phạm pháp. 19 Quả thế, tại vì Lề Luật mà tôi đã chết đối với Lề Luật, để sống cho Thiên Chúa. Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Ki-tô vào thập giá. 20 Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi. 21 Tôi không làm cho ân huệ của Thiên Chúa ra vô hiệu, vì nếu người ta được nên công chính do Lề Luật, thì hoá ra Đức Ki-tô đã chết vô ích.

Chương 3

II. PHẦN GIÁO THUYẾT

Kinh nghiệm của người tín hữu

1 Hỡi những người Ga-lát ngu xuẩn, ai đã mê hoặc anh em là những người đã được thấy hình ảnh Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá phơi bày ra trước mắt? 2 Tôi muốn anh em cho tôi biết điều này thôi: anh em đã nhận được Thần Khí vì đã làm những gì Luật dạy, hay vì đã tin nhờ được nghe? 3 Anh em ngu xuẩn như thế sao? Anh em đã khởi sự nhờ Thần Khí, nay lại kết thúc nhờ xác thịt sao? 4 Bấy nhiêu kinh nghiệm anh em đã trải qua, lại uổng công sao? Mà quả thật là uổng công! 5 Vậy Đấng đã rộng ban Thần Khí cho anh em và thực hiện những phép lạ giữa anh em, có phải vì anh em làm những gì Luật dạy, hay vì anh em đã tin nhờ được nghe?

Kinh Thánh làm chứng: đức tin và Lề Luật

6 Cũng như ông Áp-ra-ham đã tin Thiên Chúa, và vì thế Thiên Chúa kể ông là người công chính. 7 Vậy anh em nên biết rằng: những ai dựa vào đức tin, những người ấy là con cái ông Áp-ra-ham. 8 Đàng khác, Kinh Thánh thấy trước rằng Thiên Chúa sẽ làm cho dân ngoại nên công chính nhờ đức tin, nên đã tiên báo cho ông Áp-ra-ham tin mừng này: Nhờ ngươi, muôn dân sẽ được chúc phúc. 9 Như vậy, những kẻ dựa vào đức tin thì được chúc phúc làm một với ông Áp-ra-ham, người có đức tin.

10 Thật thế, những ai dựa vào những việc Luật dạy phải làm thì đều chuốc lấy lời nguyền rủa, vì Kinh Thánh viết: Đáng nguyền rủa thay mọi kẻ không bền chí thi hành tất cả những gì chép trong sách Luật! 11 Vả lại, không ai được nên công chính trước mặt Thiên Chúa nhờ Lề Luật, đó là điều hiển nhiên, vì người công chính nhờ đức tin sẽ được sống. 12 Thế mà Lề Luật không lệ thuộc đức tin, nhưng ai thực hành những điều Lề Luật dạy, thì nhờ đó sẽ được sống. 13 Đức Ki-tô đã chuộc chúng ta cho khỏi bị nguyền rủa vì Lề Luật, khi vì chúng ta chính Người trở nên đồ bị nguyền rủa, vì có lời chép: Đáng nguyền rủa thay mọi kẻ bị treo trên cây gỗ! 14 Như thế là để nhờ Đức Giê-su Ki-tô, các dân ngoại cũng được hưởng phúc lành dành cho ông Áp-ra-ham, và để nhờ đức tin, chúng ta nhận được ơn Thiên Chúa đã hứa tức là Thần Khí.

Lề Luật không huỷ bỏ lời hứa

15 Thưa anh em, tôi nói theo kiểu người đời: một chúc thư đúng thể thức, dù chỉ là do một người phàm, thì cũng không ai được huỷ bỏ hay thêm thắt điều gì. 16 Thế mà những lời hứa đã được ban cho ông Áp-ra-ham và dòng dõi ông, Kinh Thánh không nói: và cho những dòng dõi, như thể nói về nhiều, mà chỉ nói về một: và cho dòng dõi người là Đức Ki-tô. 17 Tôi muốn nói là: một chúc thư xưa kia đã được Thiên Chúa lập đúng thể thức, thì Lề Luật, mãi bốn trăm ba mươi năm sau mới có, không phế bỏ chúc thư đó được, và như vậy làm cho lời hứa ra vô hiệu. 18 Thật thế, nếu nhờ Lề Luật mà người ta được hưởng gia tài, thì không còn phải là nhờ lời hứa nữa. Thế nhưng Thiên Chúa đã dùng một lời hứa mà ban ân huệ cho ông Áp-ra-ham.

Vai trò của Lề Luật

19 Vậy Lề Luật để làm gì? Chính là để gây ra các sự vi phạm mà Lề Luật đã được đặt thêm, cho tới khi Đấng là dòng dõi Áp-ra-ham đến, Đấng được hưởng lời hứa. Lề Luật đã được ban bố nhờ các thiên thần, qua tay một trung gian. 20 Nhưng không thể có trung gian khi chỉ có một bên, mà Thiên Chúa thì chỉ có một. 21 Vậy thì Lề Luật đi ngược lại với những lời hứa của Thiên Chúa sao? Không phải thế. Thật vậy, giả như có một luật nào đã được ban cho con người mà lại có khả năng làm cho sống, thì quả là người ta được nên công chính nhờ Lề Luật. 22 Nhưng Kinh Thánh đã giam hãm mọi sự trong vòng tội lỗi, để nhờ lòng tin vào Đức Giê-su Ki-tô, điều Thiên Chúa đã hứa được ban cho các kẻ tin.

Thời của đức tin đã đến

23 Trước khi đức tin đến, chúng ta bị Lề Luật giam giữ, cho tới khi đức tin được mặc khải. 24 Như thế Lề Luật đã thành người quản giáo dẫn chúng ta tới Đức Ki-tô, để chúng ta được nên công chính nhờ đức tin. 25 Nhưng khi đức tin đến, thì chúng ta không còn ở dưới quyền giám hộ nữa. 26 Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô. 27 Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô. 28 Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô. 29 Mà nếu anh em thuộc về Đức Ki-tô, thì anh em là dòng dõi ông Áp-ra-ham, những người thừa kế theo lời hứa.

Chương 4

Chúng ta được làm con cái Thiên Chúa

1 Tôi thiết nghĩ: bao lâu người thừa kế còn là thiếu niên thì không khác gì một nô lệ, mặc dù là chủ mọi tài sản. 2 Nó phải ở dưới quyền những người giám hộ và quản lý, cho đến khi mãn hạn người cha đã định. 3 Chúng ta cũng vậy, khi còn là thiếu niên, chúng ta phải làm nô lệ những yếu tố của vũ trụ. 4 Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, 5 để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. 6 Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: ”Áp-ba, Cha ơi!”7 Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.

8 Trước kia, khi chưa biết Thiên Chúa, anh em làm nô lệ những vật tự bản chất không phải là thần. 9 Nhưng nay anh em đã biết Thiên Chúa, hay đúng hơn được Thiên Chúa biết đến, làm sao anh em còn trở lại với những yếu tố bất lực và nghèo nàn ấy, còn muốn làm nô lệ chúng một lần nữa? 10 Anh em cẩn thận giữ ngày, giữ tháng, giữ mùa, giữ năm! 11 Anh em làm tôi sợ rằng tôi đã vất vả uổng công vì anh em!

Nhắc lại quá khứ

12 Thưa anh em, tôi van anh em, anh em hãy nên giống như tôi, vì tôi cũng đã nên giống như anh em. Anh em đã không làm tổn thương gì cho tôi cả. 13 Anh em biết: nhân khi thân xác bị đau ốm, tôi đã loan báo Tin Mừng cho anh em lần đầu tiên. 14 Mặc dù thân xác tôi là một dịp thử thách cho anh em, anh em đã không khinh, không tởm; trái lại anh em đã tiếp đón tôi như một sứ giả của Thiên Chúa, như Đức Ki-tô Giê-su. 15 Vậy hạnh phúc của anh em lúc đó, bây giờ đâu rồi? Thật thế, tôi xin làm chứng cho anh em rằng: nếu có thể, hẳn anh em đã móc mắt hiến cho tôi. 16 Thành thử tôi đã trở nên kẻ thù của anh em vì nói sự thật cho anh em sao? 17 Họ nhiệt thành với anh em không phải vì mục đích tốt, mà chỉ vì muốn ly gián anh em với tôi, để anh em nhiệt thành với họ. 18 Được người ta tỏ lòng nhiệt thành là điều tốt, miễn là vì mục đích tốt và trong mọi trường hợp, chứ không phải chỉ khi nào tôi có mặt giữa anh em. 19 Hỡi anh em, những người con bé nhỏ của tôi, mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa cho đến khi Đức Ki-tô được thành hình nơi anh em, 20 tôi ước ao được có mặt giữa anh em lúc này, để lựa lời nói sao cho thích hợp, vì tôi thấy khó xử với anh em quá!

Hai giao ước: Ha-ga và Xa-ra

21 Hãy nói cho tôi hay: anh em là những người muốn sống dưới Lề Luật, anh em không nghe Lề Luật nói gì sao? 22 Thật vậy, có lời chép rằng: ông Áp-ra-ham có hai người con, mẹ của một người là nô lệ, mẹ của người kia là tự do. 23 Nhưng con của người mẹ nô lệ thì sinh ra theo luật tự nhiên; còn con của người mẹ tự do thì sinh ra nhờ lời hứa. 24 Truyện đó ngụ ý thế này: hai người đàn bà là hai giao ước. Giao ước thứ nhất tại núi Xi-nai, thì sinh ra nô lệ: đó là Ha-ga. 25 Ha-ga chỉ núi Xi-nai trong miền Ả-rập, và tương đương với Giê-ru-sa-lem ngày nay, vì thành này cùng với các con đều là nô lệ. 26 Còn Giê-ru-sa-lem thượng giới thì tự do: đó là mẹ chúng ta. 27 Thật vậy, có lời chép:

Reo mừng lên,

hỡi người phụ nữ son sẻ, không sinh con;

hãy bật tiếng reo hò mừng vui,

hỡi ai chưa một lần chuyển dạ,

vì con của phụ nữ bị bỏ rơi

thì đông hơn con của phụ nữ có chồng!

28 Thưa anh em, như I-xa-ác, anh em là những người con sinh ra do lời Thiên Chúa hứa. 29 Nhưng cũng như thuở ấy đứa con sinh ra theo luật tự nhiên đã ngược đãi đứa con sinh ra theo thần khí, thì bây giờ cũng vậy. 30 Thế nhưng Kinh Thánh nói gì? Kinh Thánh nói: Tống cổ người nô lệ và con của nó đi, vì con của nô lệ không đời nào được thừa kế gia tài cùng với con của người tự do. 31 Ấy vậy, thưa anh em, chúng ta không phải là con của một người nô lệ, nhưng là con của người tự do.

Chương 5

III. PHẦN KHUYÊN NHỦ

Tự do của người tín hữu

1 Chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta. Vậy, anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa. 2 Phải, tôi đây, Phao-lô, tôi nói cho anh em biết: anh em mà chịu phép cắt bì thì Đức Ki-tô sẽ không có ích gì cho anh em. 3 Một lần nữa, tôi xin khẳng định với bất cứ ai chịu phép cắt bì là: người ấy buộc phải giữ trọn vẹn Lề Luật. 4 Anh em mà tìm sự công chính trong Lề Luật, là anh em đoạn tuyệt với Đức Ki-tô và mất hết ân sủng. 5 Còn chúng tôi thì nhờ Thần Khí và dựa vào đức tin mà vững lòng chờ đợi được nên công chính như chúng tôi hy vọng. 6 Quả thật, trong Đức Ki-tô Giê-su, cắt bì hay không cắt bì đều không có giá trị, chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái. 7 Anh em đang chạy ngon trớn như thế mà ai đã ngăn cản anh em vâng phục chân lý? 8 Lời dụ dỗ ấy không phát xuất từ Đấng kêu gọi anh em. 9 Một chút men làm cả khối bột dậy men. 10 Đối với anh em, trong Chúa, tôi tin tưởng rằng, anh em sẽ không nghĩ khác. Còn kẻ phá rối anh em thì phải chuốc lấy án phạt, bất kể người ấy là ai. 11 Về phần tôi, thưa anh em, giả như tôi còn rao giảng phép cắt bì, thì tại sao tôi lại vẫn bị ngược đãi? Như thế, thập giá đâu còn là chướng ngại nữa! 12 Những kẻ làm cho anh em bị rối loạn, phải chi họ tự thiến cho xong!

Tự do và bác ái

13 Quả thế, thưa anh em, anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau. 14 Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. 15 Nhưng nếu anh em cắn xé nhau, anh em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau đấy!

16 Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa. 17 Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn. 18 Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa. 19 Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, 20 thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, 21 ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo: những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa. 22 Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, 23 hiền hoà, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế. 24 Những ai thuộc về Đức Ki-tô Giê-su thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê.

25 Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước. 26 Chúng ta đừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tỵ nhau.

Chương 6

Đôi lời khuyên nhủ sống bác ái và nhiệt thành

1 Thưa anh em, nếu có ai vướng mắc tội nào, thì anh em, những người được Thần Khí thúc đẩy, hãy lấy tinh thần hiền hoà mà sửa dạy người ấy; phải tự đề phòng kẻo chính mình cũng bị cám dỗ. 2 Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô. 3 Thật vậy, ai tưởng mình là gì mà kỳ thực không là gì hết, thì là lừa gạt chính mình. 4 Mỗi người hãy xem xét việc làm của chính mình, và bấy giờ sẽ có lý do để hãnh diện vì chính mình, chứ không phải vì so sánh với người khác. 5 Quả thế, mỗi người phải mang gánh nặng của riêng mình.

6 Người được học Lời Chúa, hãy chia sẻ mọi của cải với người dạy dỗ mình.

7 Anh em đừng có lầm tưởng: Thiên Chúa không để cho người ta nhạo báng đâu! Thật vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. 8 Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt, thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời. 9 Khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí, vì đến mùa chúng ta sẽ được gặt, nếu không sờn lòng. 10 Vậy bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong cùng đại gia đình đức tin.

Lời cuối thư

11 Anh em thấy những chữ to này: chính tay tôi viết cho anh em đó! 12 Những ai muốn nở mày nở mặt vì những lý do thuần tuý con người, thì ép anh em phải chịu cắt bì, chỉ là để khỏi bị ngược đãi vì thập giá Đức Ki-tô. 13 Thật vậy, chính những kẻ được cắt bì cũng không giữ Lề Luật, nhưng họ muốn anh em phải cắt bì để tìm được nơi thân xác anh em, một lý do hãnh diện. 14 Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian. 15 Quả thật, cắt bì hay không cắt bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới. 16 Chúc tất cả những ai sống theo quy tắc ấy, và chúc Ít-ra-en của Thiên Chúa được hưởng bình an và lòng thương xót của Người.

17 Từ nay, xin đừng có ai gây phiền toái cho tôi nữa, vì tôi mang trên mình tôi những dấu tích của Đức Giê-su. 18 Thưa anh em, nguyện xin Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho thần trí anh em được đầy tràn ân sủng. A-men.

Ê-phê-xô

Chương 1

Lời mở đầu

1 Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, kính gửi dân thánh tại Ê-phê-xô, là những người tin vào Đức Ki-tô Giê-su. 2 Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.

I. MẦU NHIỆM CỨU ĐỘ: ĐỨC KI-TÔ VÀ HỘI THÁNH

Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa

3 Chúc tụng Thiên Chúa

là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.

Trong Đức Ki-tô,

từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc

cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần.

4 Trong Đức Ki-tô,

Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ,

để trước thánh nhan Người,

ta trở nên tinh tuyền thánh thiện,

nhờ tình thương của Người.

5 Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người,

Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử

nhờ Đức Giê-su Ki-tô,

6 để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời,

ân sủng Người ban tặng cho ta

trong Thánh Tử yêu dấu.

7 Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra

chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi

theo lượng ân sủng rất phong phú của Người.

8 Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta

cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu.

9 Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu:

thiên ý này là kế hoạch yêu thương

Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô.

10 Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn

là quy tụ muôn loài trong trời đất

dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô.

Cũng trong Đức Ki-tô,

11 Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự

theo quyết định và ý muốn của Người,

đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng

theo kế hoạch của Người,

12 để chúng tôi là những người đầu tiên

đặt hy vọng vào Đức Ki-tô,

chúng tôi ngợi khen vinh quang Người.

13 Trong Đức Ki-tô, cả anh em nữa

anh em đã được nghe lời chân lý

là Tin Mừng cứu độ anh em;

vẫn trong Đức Ki-tô,

một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần,

Đấng Thiên Chúa đã hứa.

14 Thánh Thần

là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta,

chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc,

để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa.

Đức Ki-tô được siêu tôn

15 Bởi vậy, cả tôi nữa, từ khi được nghe nói về lòng tin của anh em vào Chúa Giê-su, và về lòng mến của anh em đối với toàn thể dân thánh, 16 tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa vì anh em, khi nhắc tới anh em trong những lời cầu nguyện của tôi. 17 Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. 18 Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, 19 đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu. Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, 20 mà Người đã biểu dương nơi Đức Ki-tô, khi làm cho Đức Ki-tô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. 21 Như vậy, Người đã tôn Đức Ki-tô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. 22 Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Ki-tô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; 23 mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn.

Chương 2

Chính do ân sủng mà chúng ta được cứu độ

1 Anh em đã chết vì những sa ngã và tội lỗi của anh em. 2 Xưa kia anh em đã sống trong đó, theo trào lưu của thế gian này, theo tên thủ lãnh nắm giữ quyền lực trên không trung, tên ác thần hiện đang hoạt động trên những kẻ không vâng phục. 3 Tất cả chúng tôi xưa kia cũng thuộc hạng người đó, khi chúng tôi buông theo các đam mê của tính xác thịt, thi hành những ước muốn của tính xác thịt và của trí khôn. Bẩm sinh chúng tôi là những kẻ đáng chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, như những người khác. 4 Nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, 5 nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! 6 Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời.

7 Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Ki-tô Giê-su, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người. 8 Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; 9 cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. 10 Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.

Người Do-thái và người ngoại được hoà giải với nhau và với Thiên Chúa

11 Vậy thưa anh em, trước kia anh em là dân ngoại trong thân xác, bị kẻ mệnh danh là “giới cắt bì"-nhưng cắt bì trong thân xác, do tay người phàm- gọi là “giới không cắt bì", anh em hãy nhớ lại 12 rằng thuở ấy anh em không có Đấng Ki-tô, không được hưởng quyền công dân Ít-ra-en, xa lạ với các giao ước dựa trên lời hứa của Thiên Chúa, không có niềm hy vọng, không có Thiên Chúa ở trần gian này. 13 Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Ki-tô Giê-su, nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần.

14 Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; 15 Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người. 16 Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. 17 Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. 18 Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.

19 Vậy anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, 20 bởi đã được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Ki-tô Giê-su. 21 Trong Người, toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. 22 Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí.

Chương 3

Thánh Phao-lô là người phục vụ mầu nhiệm Đức Ki-tô

1 Vì lý do đó, tôi, Phao-lô, người tù của Đức Ki-tô Giê-su vì anh em, những người dân ngoại. . . 2 Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. 3 Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây. 4 Anh em đọc thì có thể thấy rõ tôi am hiểu mầu nhiệm Đức Ki-tô thế nào. 5 Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người. 6 Mầu nhiệm đó là: trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa. 7 Tôi đã trở nên người phục vụ Tin Mừng đó, nhờ ân sủng đặc biệt Thiên Chúa ban cho tôi, khi Người thi thố quyền năng của Người. 8 Tôi là kẻ rốt hết trong toàn thể dân thánh, thế mà Thiên Chúa đã ban cho tôi ân sủng này là loan báo cho các dân ngoại Tin Mừng về sự phong phú khôn lường của Đức Ki-tô, 9 và soi sáng cho mọi người được thấy đâu là mầu nhiệm Thiên Chúa đã an bài. Mầu nhiệm này đã được giữ kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa là Đấng tạo thành vạn vật, 10 để giờ đây, nhờ Hội Thánh, mọi quyền năng thượng giới được biết sự khôn ngoan thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. 11 Thiên Chúa đã hành động như thế theo quyết định Người đã có từ muôn thuở và đã thực hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta. 12 Trong Đức Ki-tô và nhờ tin vào Người, chúng ta được mạnh dạn và tin tưởng đến gần Thiên Chúa. 13 Bởi vậy, tôi xin anh em đừng nản chí khi thấy tôi phải gian truân vì anh em: những gian truân ấy là vinh quang của anh em.

Lời cầu xin của thánh Phao-lô

14 Vì lý do đó, tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha, 15 là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất. 16 Tôi nguyện xin Chúa Cha, thể theo sự phong phú của Người là Đấng vinh hiển, ban cho anh em được củng cố mạnh mẽ nhờ Thần Khí của Người, để con người nội tâm nơi anh em được vững vàng. 17 Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Ki-tô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, 18 để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, 19 và nhận biết tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa.

20 Xin tôn vinh Đấng có thể dùng quyền năng đang hoạt động nơi chúng ta, mà làm gấp ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới, 21 xin tôn vinh Người trong Hội Thánh và nơi Đức Ki-tô Giê-su đến muôn thuở muôn đời. A-men.

Chương 4

II. KHUYÊN NHỦ

Kêu gọi hiệp nhất

1 Vậy, tôi là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. 2 Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. 3 Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau. 4 Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. 5 Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. 6 Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người.

7 Nhưng mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tuỳ theo mức độ Đức Ki-tô ban cho. 8 Vì thế, có lời Kinh Thánh nói: Người đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Người đã ban ân huệ cho loài người.

9 Người đã lên nghĩa là gì, nếu không phải là Người đã xuống tận các vùng sâu thẳm dưới mặt đất? 10 Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn. 11 Và chính Người đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ. 12 Nhờ đó, dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Ki-tô, 13 cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô.

14 Như vậy, chúng ta sẽ không còn là những trẻ nhỏ, bị sóng đánh trôi giạt theo mọi chiều gió đạo lý, giữa trò bịp bợm của những kẻ giảo quyệt khéo dùng mưu ma chước quỷ để làm cho kẻ khác lầm đường. 15 Nhưng, sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Ki-tô vì Người là Đầu. 16 Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình. Như thế Người làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái.

Đời sống mới trong Đức Ki-tô

17 Vậy đây là điều tôi nói với anh em, và có Chúa chứng giám, tôi khuyên anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ. 18 Tâm trí họ đã ra tối tăm, họ xa lạ với sự sống Thiên Chúa ban, vì lòng chai dạ đá khiến họ trở nên dốt nát. 19 Họ đã mất ý thức nên đã buông thả, sống phóng đãng đến mức làm mọi thứ ô uế cách vô độ. 20 Còn anh em, anh em đã chẳng học biết về Đức Ki-tô như vậy đâu; 21 ấy là nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giê-su và được dạy dỗ theo tinh thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giê-su. 22 Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, 23 anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, 24 và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.

25 Bởi thế, một khi đã cởi bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói sự thật với người thân cận, vì chúng ta là phần thân thể của nhau. 26 Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn. 27 Đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng! 28 Ai quen trộm cắp, đừng trộm cắp nữa, trái lại, hãy chịu khó dùng đôi tay của mình mà làm ăn lương thiện để có gì chia sẻ với người túng thiếu. 29 Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe. 30 Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. 31 Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. 32 Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô.

Chương 5

1 Vậy, anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, 2 và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt. 3 Chuyện gian dâm, mọi thứ ô uế hay tham lam, thì dù nói đến, anh em cũng phải tránh, như thế mới xứng đáng là những người trong dân thánh. 4 Đừng nói lời thô tục, nhảm nhí, cợt nhả: đó là những điều không nên; trái lại, phải tạ ơn Thiên Chúa thì hơn. 5 Anh em phải biết rõ điều này: không một kẻ gian dâm, ô uế hay tham lam nào-mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng- được thừa hưởng cơ nghiệp trong Nước của Đức Ki-tô và của Thiên Chúa. 6 Đừng để ai lấy lời hão huyền mà lừa dối anh em, chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống những kẻ không vâng phục. 7 Vậy anh em đừng thông đồng với họ. 8 Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; 9 mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật. 10 Anh em hãy xem điều gì đẹp lòng Chúa. 11 Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng. 12 Vì những việc chúng làm lén lút, thì nói đến đã là nhục rồi. 13 Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; 14 mà bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng:

Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ!

Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào!

Đức Ki-tô sẽ chiếu sáng ngươi!

15 Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, 16 biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì chúng ta đang sống những ngày đen tối. 17 Vì thế, anh em đừng hoá ra ngu xuẩn, nhưng hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa. 18 Chớ say sưa rượu chè, vì rượu chè đưa tới truỵ lạc, nhưng hãy thấm nhuần Thần Khí. 19 Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa. 20 Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha.

Gia đình sống đạo

21 Vì lòng kính sợ Đức Ki-tô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau. 22 Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, 23 vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Ki-tô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. 24 Và như Hội Thánh tùng phục Đức Ki-tô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy.

25 Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; 26 như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, 27 để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. 28 Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. 29 Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Ki-tô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, 30 vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người. 31 Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. 32 Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Ki-tô và Hội Thánh. 33 Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng.

Chương 6

1 Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. 2 Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: 3 để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này. 4 Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy.

5 Kẻ làm nô lệ, hãy vâng lời những người chủ ở đời này với thái độ run rẩy và sợ sệt, với lòng đơn sơ, như vâng lời Đức Ki-tô. 6 Đừng chỉ vâng lời trước mặt, như muốn làm đẹp lòng người ta, nhưng như nô lệ của Đức Ki-tô, đem cả tâm hồn thi hành ý Thiên Chúa. 7 Hãy vui lòng phục vụ, như thể phục vụ Chúa, chứ không phải người ta. 8 Anh em biết đấy: ai làm việc tốt, sẽ được Chúa trả công, bất luận nô lệ hay tự do. 9 Người làm chủ cũng hãy đối xử như thế với nô lệ. Đừng doạ nạt nữa: anh em biết rằng Chúa của họ cũng là Chúa của anh em, Người ngự trên trời và không thiên vị ai.

Cuộc chiến đấu thiêng liêng

10 Sau cùng, anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. 11 Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. 12 Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. 13 Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa; như thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững trong ngày đen tối.

14 Vậy hãy đứng vững: lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, 15 chân đi giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an; 16 hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. 17 Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa.

18 Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh. 19 Anh em cũng hãy cầu xin cho tôi nữa, để khi tôi mở miệng nói, thì Thiên Chúa ban lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của Tin Mừng; 20 tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi đang bị xiềng xích. Anh em hãy cầu xin cho tôi để khi rao giảng Tin Mừng tôi nói năng mạnh dạn, như bổn phận tôi phải nói.

Tin tức. Lời chào cuối thư

21 Anh Ty-khi-cô, người anh em yêu quý của tôi và là người trung thành phục vụ Chúa, sẽ cho anh em mọi tin tức, để cả anh em nữa cũng biết tôi ra sao, và tôi đang làm gì. 22 Tôi phái anh đến với anh em vì mục đích ấy, để anh em được biết hiện tình của chúng tôi, và để anh khích lệ tâm hồn anh em.

23 Nguyện xin Thiên Chúa là Cha, và nguyện xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ơn bình an và lòng mến cùng với lòng tin. 24 Xin Thiên Chúa ban ân sủng cho tất cả những ai yêu mến Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta bằng một tình yêu bất diệt.

Phi-líp-phê

Chương 1

Lời chào thăm

1 Chúng tôi, Phao-lô và Ti-mô-thê, là những tôi tớ của Đức Ki-tô Giê-su, kính gửi mọi người trong dân thánh kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su ở Phi-líp-phê, cùng kính gửi các vị giám quản và trợ tá. 2 Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta và Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.

Tạ ơn và cầu nguyện

3 Tôi cảm tạ Thiên Chúa của tôi, mỗi lần nhớ đến anh em. 4 Tôi luôn vui sướng mỗi khi cầu nguyện cho anh em hết thảy, 5 vì từ buổi đầu cho đến nay, anh em đã góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng. 6 Tôi tin chắc rằng: Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Ki-tô Giê-su quang lâm. 7 Tôi có những tâm tình như thế đối với tất cả anh em, đó là điều hợp lý, bởi vì tôi mang anh em trong lòng tôi. Khi tôi bị xiềng xích, cũng như lúc tôi bênh vực và củng cố Tin Mừng, anh em đều thông phần vào ân sủng tôi đã nhận được. 8 Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi: tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Ki-tô Giê-su. 9 Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, 10 để nhận ra cái gì là tốt hơn. Tôi cũng xin cho anh em được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Ki-tô quang lâm. 11 Như thế, anh em sẽ đem lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính nhờ Đức Giê-su Ki-tô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa.

Hoàn cảnh của thánh Phao-lô

12 Thưa anh em, tôi muốn anh em biết là những gì xảy đến cho tôi thật ra đã giúp cho Tin Mừng được tiến triển, 13 đến nỗi tại dinh vua quan cũng như ở mọi nơi khác, người ta đều hiểu rõ là chính vì Đức Ki-tô mà tôi mang xiềng xích. 14 Vì thấy tôi bị xiềng xích, phần đông các anh em có lòng tin cậy vào Chúa đã tỏ ra bạo dạn hơn để rao giảng lời Thiên Chúa mà không chút sợ hãi. 15 Đã hẳn, có những kẻ rao giảng về Đức Ki-tô vì lòng ganh tị và tranh chấp, song những người khác lại làm công việc đó vì ý ngay lành. 16 Những người này làm vì bác ái, bởi họ biết rằng tôi được chỉ định để lo bênh vực Tin Mừng. 17 Còn những người kia thì loan báo Đức Ki-tô vì tính ưa tranh giành, họ không có lòng ngay, tưởng làm như thế là gây thêm khổ cho tôi, trong lúc tôi bị xiềng xích. 18 Nhưng không sao đâu! Dù thế nào đi nữa với ý lành hay ý xấu, cuối cùng Đức Ki-tô được rao giảng là tôi mừng. Và tôi sẽ còn mừng nữa, 19 bởi vì tôi biết rằng điều ấy sẽ giúp cho tôi đạt được ơn cứu độ, nhờ lời cầu nguyện của anh em, và nhờ Thần Khí của Đức Giê-su Ki-tô phù trợ. 20 Đó là điều tôi đợi chờ và hy vọng. Sẽ không có gì làm cho tôi phải hổ thẹn, trái lại tôi hoàn toàn vững tin. Bây giờ cũng như mọi lúc, Đức Ki-tô sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết: 21 vì đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi. 22 Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi được sinh hoa kết quả, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. 23 Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều này tốt hơn bội phần: 24 nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em. 25 Và tôi biết chắc rằng tôi sẽ ở lại và ở bên cạnh tất cả anh em để giúp anh em tấn tới và được hưởng niềm vui đức tin mang lại cho anh em. 26 Như thế, trong Đức Ki-tô Giê-su, anh em càng có lý do để hãnh diện về tôi, khi tôi lại đến gặp anh em.

Chiến đấu cho đức tin

27 Chỉ có một điều là anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Ki-tô. Như thế, dù tôi có đến thăm anh em hay vắng mặt đi nữa, tôi vẫn muốn được nghe người ta nói về anh em là anh em luôn đứng vững, cùng chung một tinh thần, một lòng một dạ cùng nhau chiến đấu vì đức tin mà Tin Mừng mang lại cho anh em. 28 Về bất cứ điều gì, đừng sợ những kẻ chống đối anh em: đó là dấu chỉ cho thấy họ sẽ bị hư vong, còn đối với anh em, thì lại là dấu chỉ ơn cứu độ. Điều ấy là ân huệ Thiên Chúa ban. 29 Quả thế, nhờ Đức Ki-tô, anh em đã được phúc chẳng những là tin vào Người, mà còn được chịu đau khổ vì Người. 30 Nhờ vậy, anh em được tham dự cùng một cuộc chiến mà anh em đã thấy tôi phải đương đầu trước kia, và nay anh em nghe biết là tôi vẫn còn tiếp tục.

Chương 2

Duy trì sự hợp nhất trong tinh thần khiêm nhường

1 Nếu quả thật sự liên kết với Đức Ki-tô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, 2 thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. 3 Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. 4 Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. 5 Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su.

6 Đức Giê-su Ki-tô

vốn dĩ là Thiên Chúa

mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì

địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,

7 nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang

mặc lấy thân nô lệ,

trở nên giống phàm nhân

sống như người trần thế.

8 Người lại còn hạ mình,

vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,

chết trên cây thập tự.

9 Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người

và tặng ban danh hiệu

trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.

10 Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su,

cả trên trời dưới đất

và trong nơi âm phủ,

muôn vật phải bái quỳ;

11 và để tôn vinh Thiên Chúa Cha,

mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng:

"Đức Giê-su Ki-tô là Chúa".

Lo sao cho được ơn cứu độ

12 Ấy vậy, anh em thân mến, anh em là những người luôn luôn vâng phục không những khi tôi có mặt, mà nhất là bây giờ, khi tôi vắng mặt, anh em hãy biết run sợ mà gắng sức lo sao cho mình được cứu độ. 13 Vì chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Người. 14 Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản kháng. 15 Như thế, anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà, sa đoạ. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, 16 là làm sáng tỏ Lời ban sự sống, để tôi được hiên ngang hãnh diện trong ngày Đức Ki-tô quang lâm, vì tôi đã không chạy uổng công và đã không lao nhọc vô ích. 17 Nhưng nếu tôi phải đổ máu ra hợp làm một với hy lễ mà anh em lấy đức tin dâng lên Chúa, thì tôi vui mừng và cùng chia sẻ niềm vui với tất cả anh em. 18 Anh em cũng vậy, anh em hãy vui lên và cùng chia sẻ niềm vui với tôi.

Sứ mạng của ông Ti-mô-thê và ông Ê-páp-rô-đi-tô

19 Nhờ Chúa Giê-su, tôi hy vọng có thể sớm cử anh Ti-mô-thê đến với anh em, để chính tôi cũng được an tâm vì được biết tin tức về anh em. 20 Chẳng có ai khác cùng chia sẻ một tâm tình với tôi và tận tâm lo lắng cho anh em. 21 Thật vậy, ai nấy đều tìm lợi ích cho mình, chứ không tìm lợi ích cho Đức Ki-tô Giê-su. 22 Anh em biết: anh Ti-mô-thê đã chứng tỏ mình là người có giá trị, bởi vì anh ấy đã cùng với tôi phục vụ Tin Mừng, như con với cha. 23 Vậy, tôi hy vọng sẽ cử anh ấy đi, ngay khi thấy rõ số phận tôi ra sao. 24 Vả lại, nhờ ơn Chúa, tôi tin tưởng sắp được đích thân đến thăm anh em.

25 Tôi nghĩ cần phải trả anh Ê-páp-rô-đi-tô về cho anh em. Anh ấy đã từng là một người anh em, một cộng sự viên, một chiến hữu của tôi, người mà anh em đã gửi đến giúp tôi trong lúc túng cực. 26 Anh ấy rất mong mỏi gặp lại tất cả anh em, lo âu vì anh em đã biết tin anh lâm bệnh. 27 Thật vậy, anh ấy ốm nặng gần chết; nhưng Thiên Chúa đã thương xót anh, không những thương xót anh mà còn thương xót cả tôi nữa, để tôi khỏi buồn phiền vì hết chuyện này đến chuyện khác. 28 Do đó, tôi vội cho anh ấy trở về, để anh em được vui khi gặp lại anh, và chính tôi cũng bớt buồn phiền. 29 Vì Chúa, anh em hãy hết sức vui mừng đón tiếp anh. Anh em hãy quý trọng những người như thế; 30 chính vì làm việc cho Đức Ki-tô mà anh đã suýt chết, đã liều mạng sống để thay thế anh em, khi anh em không đến giúp tôi được.

Chương 3

Con đường cứu độ

1 Vả lại, thưa anh em, anh em hãy vui mừng vì Chúa. Viết đi viết lại cho anh em cũng bấy nhiêu điều, đối với tôi không phải là một gánh nặng, còn đối với anh em thì đó lại là một bảo đảm. 2 Anh em hãy coi chừng quân chó má! Hãy coi chừng bọn thợ xấu! Hãy coi chừng những kẻ giả danh cắt bì! 3 Vì chúng ta mới thật là những người được cắt bì, những người thờ phượng Thiên Chúa nhờ Thần Khí của Người, những người hiên ngang hãnh diện vì Đức Ki-tô Giê-su, chứ không cậy vào xác thịt, 4 mặc dầu tôi đây, tôi có lý do để cậy vào xác thịt. Nếu ai khác có lý do để cậy vào xác thịt, thì tôi càng có lý do hơn: 5 tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Ít-ra-en, họ Ben-gia-min, là người Híp-ri, con của người Híp-ri; giữ luật thì đúng như một người Pha-ri-sêu; 6 nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi. 7 Nhưng, những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. 8 Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô9 và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Mô-sê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Ki-tô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin. 10 Vấn đề là được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, 11 với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết. 12 Nói thế, không phải là tôi đã đoạt giải, hay đã nên hoàn thiện đâu; nhưng tôi đang cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt, bởi lẽ chính tôi đã được Đức Ki-tô Giê-su chiếm đoạt. 13 Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. 14 Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Ki-tô Giê-su. 15 Vậy tất cả chúng ta là những người hoàn thiện, chúng ta hãy nghĩ như vậy; và giả như có điểm nào anh em nghĩ khác, thì Thiên Chúa sẽ mặc khải cho anh em. 16 Song, dù đạt tới đâu đi nữa, chúng ta cũng cứ theo hướng ấy mà đi.

17 Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em. 18 Vì, như tôi đã nói với anh em nhiều lần, và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Ki-tô: 19 chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. 20 Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. 21 Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.

Chương 4

1 Bởi vậy, hỡi anh em thân mến lòng tôi hằng tưởng nhớ, anh em là niềm vui, là vinh dự của tôi. Anh em rất thân mến, anh em hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng như vậy.

Lời khuyên cuối cùng

2 Tôi khuyên chị Ê-vô-đi-a và khuyên cả chị Xin-ti-khe nữa: xin hai chị sống hoà thuận với nhau trong Chúa. 3 Tôi xin cả anh Xi-di-gô nữa, người bạn chân thành đã đồng lao cộng khổ với tôi, xin anh giúp đỡ các chị ấy. Các chị đã giúp tôi chiến đấu cho Tin Mừng, cũng như anh Cơ-lê-men-tê và các cộng sự viên khác mà tên tuổi đã được ghi trong Sổ Trường Sinh.

4 Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! 5 Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến. 6 Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. 7 Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su. 8 Ngoài ra, thưa anh em, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý. 9 Những gì anh em đã học hỏi, đã lãnh nhận, đã nghe, đã thấy ở nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành, và Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em.

Cám ơn vì được cứu trợ

10 Nhờ Chúa, tôi rất vui mừng vì cuối cùng thấy tình cảm của anh em đối với tôi lại thắm thiết. Tình cảm đó vẫn sống động, nhưng anh em chỉ thiếu dịp tỏ ra. 11 Không phải vì thiếu thốn mà tôi nói thế, bởi lẽ tôi đã học sống tự lập trong bất cứ hoàn cảnh nào. 12 Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được. Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả. 13 Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết. 14 Tuy nhiên, anh em đã chia sẻ với tôi, khi tôi gặp cơn quẫn bách, như thế là phải. 15 Chính anh em, những người thành Phi-líp-phê, anh em biết là trong giai đoạn tôi bắt đầu rao giảng Tin Mừng, lúc rời khỏi Ma-kê-đô-ni-a, không một Hội Thánh nào đã đóng góp vào các khoản chi thu của tôi, chỉ có anh em thôi; 16 bởi vì ngay khi tôi còn ở Thê-xa-lô-ni-ca, đôi lần anh em đã gửi cho tôi những gì tôi cần dùng. 17 Điều tôi tìm kiếm không phải là quà tặng, mà là những gì sinh hoa kết quả dồi dào cho anh em. 18 Tôi có đủ mọi thứ cần dùng, lại còn dư dật nữa là khác. Tôi rất đầy đủ, kể từ khi nhận được những gì anh em gửi đến tôi qua tay anh Ê-páp-rô-đi-tô. Quà anh em tặng cho tôi đó, chẳng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận. 19 Thiên Chúa của tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Ki-tô Giê-su. 20 Xin tôn vinh Thiên Chúa là Cha chúng ta, đến muôn thuở muôn đời! A-men.

Những lời thăm hỏi và cầu chúc cuối cùng

21 Cho tôi gửi lời chào từng người một thuộc dân thánh trong Đức Ki-tô Giê-su. Các anh em đang ở với tôi gửi lời chào anh em. 22 Mọi người thuộc dân thánh, nhất là những người phục vụ trong cung điện hoàng đế Xê-da, cũng gửi lời chào anh em.

23 Cầu chúc cho tâm hồn anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô.

Cô-lô-xê

Chương 1

Lời mở đầu

1 Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, và anh Ti-mô-thê là người anh em, 2 kính gửi dân thánh tại Cô-lô-xê, là những anh em tín hữu trong Đức Ki-tô. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta ban cho anh em ân sủng và bình an.

Tạ ơn và cầu xin

3 Chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, khi cầu nguyện cho anh em. 4 Thật vậy, chúng tôi đã được nghe nói về lòng tin của anh em vào Đức Ki-tô Giê-su, và về lòng mến của anh em đối với toàn thể dân thánh; 5 lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông cậy dành cho anh em trên trời, niềm trông cậy anh em đã được nghe loan báo khi lời chân lý là Tin Mừng6 đến với anh em; Tin Mừng này đang sinh hoa trái và lớn lên trên toàn thế giới như thế nào, thì nơi anh em cũng vậy, từ ngày anh em được nghe nói và nhận biết ân sủng của Thiên Chúa thực sự là gì. 7 Anh em đã học hỏi điều này với anh Ê-páp-ra là người đồng sự yêu quý của chúng tôi và là người thay thế chúng tôi với tư cách là người phục vụ trung thành của Đức Ki-tô. 8 Chính anh đã cho chúng tôi hay về lòng mến mà Thần Khí ban cho anh em.

9 Vì thế, từ ngày chúng tôi nghe biết như vậy, chúng tôi cũng không ngừng cầu nguyện và kêu xin Thiên Chúa cho anh em được am tường thánh ý Người, với tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết mà Thần Khí ban cho. 10 Như vậy, anh em sẽ sống được như Chúa đòi hỏi, và làm đẹp lòng Người về mọi phương diện, sẽ sinh hoa trái là mọi thứ việc lành, và mỗi ngày một hiểu biết Thiên Chúa hơn. 11 Nhờ sức mạnh vạn năng của Thiên Chúa vinh quang, anh em sẽ nên mạnh mẽ để kiên trì chịu đựng tất cả.

12 Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng.

13 Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; 14 trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi.

I. PHẦN GIÁO THUYẾT

Đức Ki-tô đứng hàng đầu

15 Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình,

là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo,

16 vì trong Người, muôn vật được tạo thành

trên trời cùng dưới đất,

hữu hình với vô hình.

Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng

hay là bậc quyền năng thượng giới,

tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng

nhờ Người và cho Người.

17 Người có trước muôn loài muôn vật,

tất cả đều tồn tại trong Người.

18 Người cũng là đầu của thân thể,

nghĩa là đầu của Hội Thánh;

Người là khởi nguyên,

là trưởng tử

trong số những người từ cõi chết sống lại,

để trong mọi sự Người đứng hàng đầu.

19 Vì Thiên Chúa đã muốn

làm cho tất cả sự viên mãn

hiện diện ở nơi Người,

20 cũng như muốn nhờ Người

mà làm cho muôn vật

được hoà giải với mình.

Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá,

Thiên Chúa đã đem lại bình an

cho mọi loài dưới đất

và muôn vật trên trời.

Người Cô-lô-xê được chung hưởng ơn cứu độ

21 Cả anh em nữa, xưa kia anh em là những người xa lạ, là thù địch của Thiên Chúa vì những tư tưởng và hành động xấu xa của anh em. 22 Nhưng nay nhờ Đức Giê-su là con người bằng xương bằng thịt đã chịu chết, Thiên Chúa cho anh em được hoà giải với Người, để anh em trở nên thánh thiện tinh tuyền và không có gì đáng trách trước mặt Người. 23 Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc, kiên quyết và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hy vọng anh em đã nhận được khi nghe loan báo Tin Mừng. Tin Mừng này đã được rao giảng cho khắp thiên hạ, và tôi, Phao-lô, tôi đã được trở nên người phục vụ Tin Mừng.

Ông Phao-lô vất vả phục vụ dân ngoại

24 Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh. 25 Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh, theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: đó là tôi phải rao giảng lời của Người cho trọn vẹn, 26 rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân thánh của Thiên Chúa. 27 Người đã muốn cho họ được biết mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại: đó là chính Đức Ki-tô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang. 28 Chính Người là Đấng chúng tôi rao giảng, khi khuyên bảo mỗi người và dạy dỗ mỗi người với tất cả sự khôn ngoan, để giúp mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Ki-tô. 29 Chính vì mục đích ấy mà tôi phải vất vả chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi.

Chương 2

Ông Phao-lô lo lắng cho đức tin của người Cô-lô-xê

1 Quả thế, tôi muốn anh em biết tôi phải chiến đấu gay go thế nào vì anh em, vì những người Lao-đi-ki-a, và vì bao người khác chưa thấy tôi tận mắt; 2 như vậy là để họ được phấn khởi trong tâm hồn, và nhờ được liên kết chặt chẽ với nhau trong tình thương, họ đạt tới sự thông hiểu phong phú và đầy đủ, khiến họ nhận biết mầu nhiệm của Thiên Chúa, tức là Đức Ki-tô, 3 trong Người có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết.

4 Tôi nói điều đó để đừng có ai dùng lời lẽ hấp dẫn mà mê hoặc anh em. 5 Tuy xa cách về thể xác, nhưng tôi vẫn ở với anh em về tinh thần, và vui mừng thấy anh em giữ hàng ngũ và vững tin vào Đức Ki-tô.

II. ĐỀ PHÒNG GIÁO LÝ SAI LẠC

Sống theo đức tin chân chính chứ không theo những tư tưởng sai lạc

6 Vậy như anh em đã nhận Đức Ki-tô Giê-su làm Chúa, thì hãy tiếp tục sống kết hợp với Người. 7 Anh em hãy bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng là Đức Ki-tô Giê-su, hãy dựa vào đức tin mà anh em đã được thụ huấn, và để cho lòng chan chứa niềm tri ân cảm tạ.

8 Hãy coi chừng chớ để ai gài bẫy anh em bằng mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ chứ không theo Đức Ki-tô.

Đức Ki-tô, Thủ Lãnh duy nhất của thiên thần và loài người

9 Thật vậy, nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể, 10 và trong Người, anh em được sung mãn: Người vốn là đầu mọi quyền lực thần thiêng.

11 Trong Người, anh em đã được chịu phép cắt bì, không phải phép cắt bì do tay người phàm, nhưng là phép cắt bì của Đức Ki-tô, có sức lột bỏ con người tội lỗi của anh em. 12 Anh em đã cùng được mai táng với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết. 13 Trước kia, anh em là những kẻ chết vì anh em đã sa ngã, và vì thân xác anh em không được cắt bì, nay Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Ki-tô: Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta.

14 Người đã xoá sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Người đã huỷ bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá. 15 Người đã truất phế các quyền lực thần thiêng, đã công khai bêu xấu chúng, đã điệu chúng đi trong đám rước khải hoàn của Người.

Đề phòng lối sống khắc khổ theo thuyết”các quyền lực vũ trụ"

16 Vậy đừng ai xét đoán anh em về chuyện đồ ăn thức uống, hay về mục ngày lễ, ngày đầu tháng, ngày sa-bát. 17 Tất cả những cái đó chỉ là hình bóng những điều sắp tới, nhưng thực tại là thân thể Đức Ki-tô. 18 Đừng ai viện cớ”khiêm nhường" và “sùng kính các thiên thần" mà làm cho anh em mất phần thưởng chiến thắng; họ chìm đắm trong những thị kiến của mình, vênh váo vì những suy tưởng theo lối người phàm. 19 Họ không gắn chặt với Đức Ki-tô là Đầu; chính Người làm cho toàn thân được nuôi dưỡng, được kết cấu chặt chẽ nhờ mọi thứ gân mạch và dây chằng, và được lớn lên nhờ sức Thiên Chúa ban.

20 Anh em đã chết cùng Đức Ki-tô và được giải thoát khỏi các yếu tố của vũ trụ, tại sao lại rập theo những quy luật, như thể anh em còn sống lệ thuộc vào thế gian? Chẳng hạn: 21 “Đừng ăn cái này, đừng nếm cái kia, đừng đụng vào cái nọ", 22 toàn những cấm đoán về những cái dùng đến là hư. Đó chỉ là những giới luật và giáo huấn của người phàm. 23 Những điều ấy có vẻ khôn ngoan: nào là “sùng đạo tự ý", nào là “khiêm nhường", nào là “khổ hạnh", nhưng không có giá trị gì đối với tính xác thịt lăng loàn.

Chương 3

Nguyên lý của đời sống mới: kết hợp với Đức Ki-tô phục sinh

1 Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. 2 Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. 3 Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa. 4 Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang.

III. PHẦN KHUYÊN NHỦ

Chỉ thị chung cho các tín hữu

5 Vậy anh em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh em: ấy là gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam; mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng. 6 Chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống trên những kẻ không vâng phục. 7 Chính anh em xưa kia cũng ăn ở như thế, khi anh em còn sống giữa những người ấy. 8 Nhưng nay, cả anh em nữa, hãy từ bỏ tất cả những cái đó: nào là giận dữ, nóng nảy, độc ác, nào là thoá mạ, ăn nói thô tục.

9 Anh em đừng nói dối nhau, vì anh em đã cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó rồi, 10 và anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá, để được ơn thông hiểu. 11 Vậy không còn phải phân biệt Hy-lạp hay Do-thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ, tự do, nhưng chỉ có Đức Ki-tô là tất cả và ở trong mọi người.

12 Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. 13 Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. 14 Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. 15 Ước gì ơn bình an của Đức Ki-tô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân.

16 Ước chi lời Đức Ki-tô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú. Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan. Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng. 17 Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.

Chỉ thị riêng cho đời sống gia đình

18 Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. 19 Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. 20 Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. 21 Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng.

22 Kẻ làm nô lệ hãy vâng lời những người chủ ở đời này trong mọi sự. Đừng chỉ vâng lời trước mặt, như muốn làm đẹp lòng người ta, nhưng với lòng đơn sơ, vì kính sợ Chúa. 23 Bất cứ làm việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời 24 vì biết rằng anh em sẽ nhận được phần thưởng Chúa ban, là gia nghiệp dành cho dân Người. Đức Ki-tô là Chủ, anh em hãy phục vụ Người. 25 Ai ăn ở bất công sẽ được trả theo điều bất công mình làm; không có chuyện thiên vị.

Chương 4

1 Người làm chủ hãy đối xử công bằng và đồng đều với các nô lệ, vì biết rằng cả anh em nữa cũng có một Chủ ở trên trời.

Tinh thần tông đồ

2 Anh em hãy siêng năng cầu nguyện; hãy tỉnh thức mà cầu nguyện và tạ ơn. 3 Đồng thời, cũng hãy cầu nguyện cho chúng tôi nữa, xin Thiên Chúa mở cửa cho chúng tôi rao giảng lời Người, để chúng tôi loan báo mầu nhiệm Đức Ki-tô; chính vì mầu nhiệm này mà tôi bị giam giữ. 4 Xin cho tôi biết công bố rõ ràng mầu nhiệm ấy, như bổn phận tôi phải loan báo.

5 Anh em hãy ăn ở khôn ngoan với người ngoài; hãy tận dụng thời buổi hiện tại. 6 Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn mà dễ thương, để anh em biết đối đáp sao cho phải với mỗi người.

Tin tức

7 Mọi tin tức về tôi, anh Ty-khi-cô sẽ cho anh em biết; anh là người anh em yêu quý của tôi, người trung thành phục vụ, và người đồng sự với tôi trong công việc Chúa. 8 Tôi phái anh đến với anh em vì mục đích ấy, để anh em được biết hiện tình của chúng tôi, và để anh khích lệ tâm hồn anh em. 9 Cùng đi có anh Ô-nê-xi-mô, người anh em trung thành và yêu quý của tôi, người đồng hương với anh em. Cả hai sẽ cho anh em biết tất cả những gì xảy ra ở đây.

Lời chào và lời chúc cuối thư

10 Anh A-rít-ta-khô, bạn tù với tôi, gửi lời chào anh em. Anh Mác-cô, em họ ông Ba-na-ba, cũng gửi lời chào anh em; anh em đã nhận được những chỉ thị về anh ấy; nếu anh ấy đến với anh em, thì hãy tiếp đón anh ấy. 11 Anh Giê-su, gọi là Giút-tô, cũng gửi lời chào anh em. Trong số những người cắt bì, chỉ có ba anh ấy cùng làm việc với tôi cho Nước Thiên Chúa; các anh đã là niềm an ủi của tôi. 12 Anh Ê-páp-ra, người đồng hương với anh em và là tôi tớ của Đức Ki-tô Giê-su, gửi lời chào anh em; anh không ngừng chiến đấu cho anh em bằng lời cầu nguyện, để một khi đã trưởng thành và hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa trong mọi sự, anh em được đứng vững. 13 Tôi làm chứng cho anh rằng anh vất vả nhiều vì anh em, những người ở Lao-đi-ki-a và Hi-ê-ra-pô-li. 14 Anh Lu-ca, thầy thuốc yêu quý, và anh Đê-ma gửi lời chào anh em.

15 Xin cho tôi gửi lời chào các anh em ở Lao-đi-ki-a, chị Nym-pha và Hội Thánh vẫn họp tại nhà chị ấy. 16 Sau khi anh em đọc thư này, xin liệu sao cho Hội Thánh Lao-đi-ki-a cũng được đọc nữa. Xin anh em cũng đọc thư của tôi gửi cho Hội Thánh Lao-đi-ki-a. 17 Sau cùng, xin nhắn với anh Ác-khíp-pô: ”Hãy lưu tâm đến chức vụ Chúa đã giao cho anh, và lo chu toàn.”

18 Lời chào này do chính tay tôi, Phao-lô, viết. Anh em đừng quên rằng tôi đang phải mang xiềng xích! Chúc anh em được ân sủng.

Thê-xa-lô-ni-ca 1

Chương 1

Lời mở đầu

1 Chúng tôi là Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê, kính gửi Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca ở trong Thiên Chúa Cha, và trong Chúa Giê-su Ki-tô. Chúc anh em được ân sủng và bình an.

Tạ ơn Thiên Chúa và khen ngợi cộng đoàn

2 Chúng tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa về tất cả anh em. Chúng tôi nhắc đến anh em trong lời cầu nguyện, 3 và trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô.

4 Thưa anh em là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên Chúa đã chọn anh em, 5 vì khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em; 6 còn anh em, anh em đã bắt chước chúng tôi và noi gương Chúa, khi đón nhận lời Chúa giữa bao nỗi gian truân với niềm vui do Thánh Thần ban: 7 bởi vậy anh em đã nên gương cho mọi tín hữu ở miền Ma-kê-đô-ni-a và miền A-khai-a. 8 Quả thế, từ nơi anh em, lời Chúa đã vang ra, không những ở Ma-kê-đô-ni-a và A-khai-a, mà đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa, khiến chúng tôi không cần phải nói gì thêm nữa. 9 Khi nói về chúng tôi, người ta kể lại chúng tôi đã được anh em tiếp đón làm sao, và anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa thật, 10 và chờ đợi Con của Người từ trời ngự đến, người Con mà Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, là Đức Giê-su, Đấng cứu chúng ta thoát cơn thịnh nộ đang đến.

Chương 2

Thái độ của ông Phao-lô khi ở Thê-xa-lô-ni-ca

1 Thật vậy, thưa anh em, chính anh em biết rằng việc anh em đón tiếp chúng tôi không phải vô ích.

2 Như anh em biết, chúng tôi đã đau khổ và bị làm nhục tại Phi-líp-phê; nhưng vì tin tưởng vào Thiên Chúa chúng ta mà chúng tôi đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa cho anh em, qua những cuộc chiến đấu gay go. 3 Lời giảng của chúng tôi không do sự sai lầm, không có dụng ý xấu, không nhằm lừa dối ai, 4 nhưng vì Thiên Chúa đã thử luyện chúng tôi và giao phó Tin Mừng cho chúng tôi, thì chúng tôi cứ vậy mà rao giảng, không phải để làm vừa lòng người phàm, mà để làm đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng thử luyện tâm hồn chúng tôi. 5 Không bao giờ chúng tôi đã dùng lời xu nịnh, như anh em biết; không bao giờ chúng tôi đã viện cớ để che đậy lòng tham, có Thiên Chúa chứng giám; 6 không bao giờ chúng tôi đã tìm cách để được một người phàm nào tôn vinh, dù là anh em hay người khác, 7 trong khi chúng tôi có thể đòi anh em phải trọng đãi, với tư cách là Tông Đồ Đức Ki-tô.

8 Chúng tôi đã quý mến anh em, đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa, vì anh em đã trở nên những người thân yêu của chúng tôi. 9 Thưa anh em, hẳn anh em còn nhớ nỗi khó nhọc vất vả của chúng tôi: đêm ngày chúng tôi đã làm việc để khỏi thành gánh nặng cho một người nào trong anh em, suốt thời gian chúng tôi loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa cho anh em. 10 Anh em làm chứng, và Thiên Chúa cũng chứng giám, rằng với anh em là những tín hữu, chúng tôi đã cư xử một cách thánh thiện, công minh, không chê trách được. 11 Anh em biết: chúng tôi đã cư xử với mỗi người trong anh em như cha với con; 12 chúng tôi đã khuyên nhủ, khích lệ, van nài anh em sống xứng đáng với Thiên Chúa, Đấng kêu gọi anh em vào Nước của Người và chia sẻ vinh quang với Người.

Đức tin và lòng kiên nhẫn của người Thê-xa-lô-ni-ca

13 Bởi thế, về phần chúng tôi, chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, vì khi chúng tôi nói cho anh em nghe lời Thiên Chúa, anh em đã đón nhận, không phải như lời người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy. Lời đó tác động nơi anh em là những tín hữu. 14 Thật vậy, thưa anh em, anh em đã noi gương các Hội Thánh của Thiên Chúa ở miền Giu-đê là những Hội Thánh của Đức Ki-tô Giê-su, vì anh em cũng đã phải chịu những nỗi đau khổ do đồng bào của anh em gây ra, như các Hội Thánh đó đã phải chịu do người Do-thái. 15 Những người này đã giết Chúa Giê-su và các ngôn sứ, đã bắt bớ chúng tôi, họ không đẹp lòng Thiên Chúa và chống lại tất cả mọi người; 16 họ ngăn cản khi chúng tôi rao giảng cho người ngoại để những người này được ơn cứu độ. Như vậy họ luôn luôn chất đầy thêm tội lỗi; nhưng cuối cùng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đã giáng xuống trên họ.

Ông Phao-lô lo lắng về cộng đoàn

17 Phần chúng tôi, thưa anh em, phải xa cách anh em một thời gian ngắn, xa mặt chứ không cách lòng, chúng tôi càng cố gắng hơn để lại thấy mặt anh em, vì chúng tôi rất ước ao điều đó. 18 Bởi vậy chúng tôi đã muốn đến thăm anh em-chính tôi, Phao-lô, đã nhiều lần định đi- nhưng Xa-tan đã cản trở chúng tôi. 19 Quả thế, ai là niềm hy vọng, là niềm vui của chúng tôi, ai là triều thiên làm cho chúng tôi hãnh diện trước nhan Đức Giê-su, Chúa chúng ta, khi Người quang lâm, nếu không phải là anh em? 20 Phải, chính anh em là vinh quang và là niềm vui của chúng tôi.

Chương 3

Phái ông Ti-mô-thê đi Thê-xa-lô-ni-ca

1 Vì vậy, không chịu nổi nữa, chúng tôi đã quyết định ở lại A-thê-na một mình, 2 và chúng tôi đã phái anh Ti-mô-thê, người anh em của chúng tôi và cộng sự viên của Thiên Chúa trong việc loan báo Tin Mừng Đức Ki-tô; anh đến để làm cho anh em được vững mạnh, và khích lệ đức tin của anh em, 3 khiến không ai bị nao núng vì các nỗi gian truân ấy. Hẳn anh em biết đó là số phận dành cho chúng ta. 4 Thật thế, khi còn ở với anh em, chúng tôi đã nói trước cho anh em rằng chúng ta sẽ gặp gian truân, điều đó đã xảy ra như anh em biết. 5 Chính vì vậy mà không chịu nổi nữa, tôi đã sai người đi hỏi cho biết lòng tin của anh em ra sao, sợ rằng tên cám dỗ đã cám dỗ anh em, và công lao khó nhọc của chúng tôi trở nên vô ích.

Tạ ơn Chúa vì các tin tức nhận được

6 Giờ đây, sau khi thăm anh em, anh Ti-mô-thê đã trở lại với chúng tôi và đưa tin mừng cho chúng tôi về lòng tin và lòng mến của anh em; anh ấy nói rằng anh em vẫn luôn luôn giữ kỷ niệm tốt về chúng tôi, và ao ước gặp lại chúng tôi, cũng như chúng tôi ao ước gặp lại anh em. 7 Như vậy, thưa anh em, vì anh em có lòng tin, nên khi nghĩ đến anh em, chúng tôi được an ủi giữa mọi thống khổ gian truân chúng tôi phải chịu. 8 Phải, chúng tôi sống được đến giờ này là nhờ anh em đứng vững trong Chúa. 9 Chúng tôi biết nói gì để tạ ơn Thiên Chúa về anh em, vì tất cả niềm vui mà nhờ anh em, tôi có được trước nhan Thiên Chúa chúng ta? 10 Đêm ngày chúng tôi tha thiết nài xin Chúa cho được thấy mặt anh em và bổ túc những gì còn thiếu trong đức tin của anh em.

11 Xin chính Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa chúng ta là Đức Giê-su san phẳng con đường dẫn chúng tôi đến với anh em. 12 Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy. 13 Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giê-su, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người.

Chương 4

Khuyên cộng đoàn sống thánh thiện và bác ái

1 Vả lại, thưa anh em, anh em đã được chúng tôi dạy phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa, và anh em cũng đang sống như thế; vậy nhân danh Chúa Giê-su, chúng tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em hãy tấn tới nhiều hơn nữa. 2 Hẳn anh em rõ chúng tôi đã lấy quyền Chúa Giê-su mà ra những chỉ thị nào cho anh em.

3 Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh, tức là xa lánh gian dâm, 4 mỗi người hãy biết lấy cho mình một người vợ để sống cách thánh thiện và trong danh dự, 5 chứ không buông theo đam mê dục vọng như dân ngoại, là những người không biết Thiên Chúa. 6 Về điểm này, đừng ai làm tổn thương hay lừa dối người anh em mình, vì Chúa là Đấng trừng phạt tất cả những cái đó, như chúng tôi đã từng báo trước và cảnh cáo anh em. 7 Thật vậy, Thiên Chúa đã không kêu gọi chúng ta sống ô uế, nhưng sống thánh thiện. 8 Vậy ai khinh thường những lời dạy trên, thì không phải khinh thường một người phàm, nhưng khinh thường Thiên Chúa; Đấng hằng ban cho anh em Thánh Thần của Người.

9 Còn về tình huynh đệ, anh em không cần ai viết cho anh em, vì chính anh em đã được Thiên Chúa dạy phải thương yêu nhau, 10 và anh em cũng đang làm như vậy cho tất cả các anh em trong toàn miền Ma-kê-đô-ni-a. Nhưng thưa anh em, tôi khuyên nhủ anh em hãy tiến tới nhiều hơn nữa. 11 Hãy gắng giữ hoà khí, ai lo việc nấy và lao động bằng chính bàn tay của mình, như chính tôi đã truyền cho anh em. 12 Như vậy, lối sống của anh em sẽ được người ngoài cảm phục, và anh em sẽ không cần nhờ đến ai.

Người sống và kẻ chết trong ngày Chúa quang lâm

13 Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng. 14 Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giê-su, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giê-su. 15 Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này, là chúng ta, những người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu. 16 Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Ki-tô sẽ sống lại trước tiên; 17 rồi đến chúng ta, là những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi. 18 Vậy anh em hãy dùng những lời ấy mà an ủi nhau.

Chương 5

Tỉnh thức chờ ngày Chúa quang lâm

1 Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. 2 Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. 3 Khi người ta nói: ”Bình an biết bao, yên ổn biết bao!”, thì lúc ấy tai hoạ sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được.

4 Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. 5 Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. 6 Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ. 7 Ai ngủ, thì ngủ ban đêm; ai say sưa, thì say sưa ban đêm. 8 Nhưng chúng ta, chúng ta thuộc về ban ngày, nên hãy sống tiết độ, mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ. 9 Vì Thiên Chúa đã không định cho chúng ta phải chịu cơn thịnh nộ, nhưng được hưởng ơn cứu độ, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, 10 Đấng đã chết vì chúng ta, để dầu thức hay ngủ, chúng ta cũng sống với Người. 11 Vì thế, anh em hãy an ủi nhau và xây dựng cho nhau, như anh em vẫn làm.

Một vài đòi hỏi của đời sống cộng đoàn

12 Thưa anh em, chúng tôi xin anh em hãy quý trọng những ai đang vất vả vì anh em, để lãnh đạo anh em nhân danh Chúa và khuyên bảo anh em. 13 Hãy lấy tình bác ái mà hết lòng tôn kính những người ấy, vì công việc họ làm. Hãy sống hoà thuận với nhau.

14 Thưa anh em, chúng tôi khuyên nhủ anh em: hãy khuyên bảo người vô kỷ luật, khích lệ kẻ nhút nhát, nâng đỡ người yếu đuối, và kiên nhẫn với mọi người. 15 Hãy coi chừng: đừng có ai lấy ác báo ác, nhưng hãy luôn luôn cố gắng làm điều thiện cho nhau cũng như cho mọi người.

16 Anh em hãy vui mừng luôn mãi 17 và cầu nguyện không ngừng. 18 Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su.

19 Anh em đừng dập tắt Thần Khí. 20 Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. 21 Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ; 22 còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa.

Lời cầu nguyện và lời chào cuối thư

23 Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, quang lâm. 24 Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó.

25 Thưa anh em, xin anh em cũng cầu nguyện cho chúng tôi nữa. 26 Tất cả anh em hãy hôn chào nhau một cách thánh thiện. 27 Nhân danh Chúa, tôi yêu cầu đọc thư này cho tất cả các anh em.

28 Chúc anh em được đầy ân sủng của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.

Thê-xa-lô-ni-ca 2

Chương 1

Lời mở đầu

1 Chúng tôi là Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê, kính gửi Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca ở trong Thiên Chúa là Cha chúng ta, và trong Chúa Giê-su Ki-tô. 2 Xin Thiên Chúa là Cha và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.

Tạ ơn và khuyến khích. Thiên Chúa thưởng phạt ngày sau hết

3 Thưa anh em, chúng tôi phải luôn luôn tạ ơn Thiên Chúa về anh em: đó là điều phải lẽ, vì lòng tin của anh em đang phát triển mạnh, và nơi tất cả anh em, lòng yêu thương của mỗi người đối với người khác cũng gia tăng. 4 Bởi thế, chúng tôi hãnh diện về anh em trước mặt các Hội Thánh của Thiên Chúa, vì anh em kiên nhẫn và có lòng tin mỗi khi bị bắt bớ hay gặp cảnh gian truân. 5 Đó là dấu cho thấy Thiên Chúa xét xử công minh: anh em sẽ được coi là xứng đáng tham dự Nước Thiên Chúa, chính vì Nước Thiên Chúa mà anh em chịu đau khổ.

6 Quả là điều công minh, nếu Thiên Chúa trả báo, nghĩa là bắt những kẻ gây gian truân cho anh em phải chịu gian truân, 7 và cho anh em, những kẻ gặp gian truân, được nghỉ ngơi với chúng tôi. Việc ấy sẽ xảy ra, khi Chúa Giê-su từ trời xuất hiện cùng với các thiên thần hùng mạnh của Người, 8 trong ngọn lửa cháy bừng, để báo oán những kẻ không chịu nhận biết Thiên Chúa và những kẻ không vâng theo Tin Mừng của Chúa chúng ta là Đức Giê-su. 9 Những kẻ ấy sẽ lãnh án diệt vong muôn đời, xa thánh nhan Chúa và quyền năng vinh hiển của Người, 10 khi Người đến, trong ngày ấy, để được tôn vinh giữa các thần thánh của Người, và được ngưỡng mộ giữa mọi kẻ đã tin, mà anh em cũng đã tin lời chứng của chúng tôi.

11 Vì thế, lúc nào chúng tôi cũng cầu nguyện cho anh em: xin Thiên Chúa chúng ta làm cho anh em được xứng đáng với ơn gọi, và xin Người dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin. 12 Như vậy, danh của Chúa chúng ta là Đức Giê-su, sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của Thiên Chúa chúng ta và của Chúa Giê-su Ki-tô.

Chương 2

Ngày Chúa quang lâm và những gì xảy ra trước đó

1 Thưa anh em, về ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, quang lâm và tập hợp chúng ta về với Người, tôi xin anh em điều này: 2 nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ. 3 Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào.

4 Tên đối thủ tôn mình lên trên tất cả những gì được gọi là thần và được sùng bái, thậm chí nó còn ngồi trong Đền Thờ Thiên Chúa và tự xưng là Thiên Chúa. 5 Khi tôi còn ở với anh em, tôi đã từng nói những điều ấy, anh em không nhớ sao? 6 Anh em biết cái gì hiện đang cầm giữ nó, khiến nó sẽ chỉ xuất hiện được vào thời của nó. 7 Thật vậy, mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành. Chỉ đợi người cầm giữ nó bị gạt ra một bên, 8 bấy giờ tên gian ác sẽ xuất hiện, kẻ mà Chúa Giê-su sẽ giết chết bằng hơi thở từ miệng Người, và sẽ tiêu diệt bằng ánh huy hoàng, khi Người quang lâm.

9 Còn việc tên gian ác xuất hiện là do tác động của Xa-tan, có kèm theo đủ thứ phép mầu, dấu lạ, điềm thiêng, 10 và đủ mọi mưu gian chước dối, nhằm hại những kẻ phải hư mất, vì đã không đón nhận lòng yêu mến chân lý để được cứu độ. 11 Vì thế Thiên Chúa gửi đến một sức mạnh mê hoặc làm cho chúng tin theo sự dối trá; 12 như vậy, tất cả những kẻ không tin sự thật, nhưng ưa thích sự gian ác, thì sẽ bị kết án.

Khuyên nhủ kiên trì

13 Hỡi anh em là những kẻ được Chúa yêu mến, chúng tôi phải luôn luôn tạ ơn Thiên Chúa về anh em, vì Thiên Chúa đã chọn anh em ngay từ lúc khởi đầu, để cứu độ anh em nhờ Thần Khí thánh hoá và nhờ lòng tin vào chân lý. 14 Chính vì thế mà Người đã dùng Tin Mừng chúng tôi loan báo mà kêu gọi anh em, để anh em được hưởng vinh quang của Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô. 15 Vậy, thưa anh em, anh em hãy đứng vững và nắm giữ các truyền thống chúng tôi đã dạy cho anh em, bằng lời nói hay bằng thư từ. 16 Xin chính Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô, và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp, 17 xin các Ngài an ủi và cho tâm hồn anh em được vững mạnh, để làm và nói tất cả những gì tốt lành.

Chương 3

1 Sau cùng, thưa anh em, xin anh em cầu nguyện cho chúng tôi, để lời Chúa được phổ biến mau chóng và được tôn vinh, như đã thấy nơi anh em. 2 Xin cũng cầu nguyện cho chúng tôi được thoát khỏi tay người độc ác xấu xa, bởi vì không phải ai cũng có đức tin. 3 Nhưng Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ làm cho anh em được vững mạnh, và bảo vệ anh em khỏi ác thần. 4 Trong Chúa, chúng tôi tin tưởng vào anh em: anh em đang làm và sẽ làm những gì chúng tôi truyền. 5 Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn anh em, để anh em biết yêu mến Thiên Chúa và biết chịu đựng như Đức Ki-tô.

Đề phòng lối sống vô kỷ luật: cơn sốt quang lâm!

6 Thưa anh em, nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền cho anh em phải xa lánh mọi người anh em sống vô kỷ luật, không theo truyền thống anh em đã nhận được từ nơi tôi.

7 Chính anh em thừa biết là anh em phải bắt chước chúng tôi thế nào. Khi ở giữa anh em, chúng tôi đã không sống vô kỷ luật. 8 Chúng tôi đã chẳng ăn bám ai, trái lại đêm ngày đã làm lụng khó nhọc vất vả, để khỏi nên gánh nặng cho người nào trong anh em. 9 Không phải là vì chúng tôi không có quyền hưởng sự giúp đỡ, nhưng là để nêu gương cho anh em bắt chước.

10 Thật vậy, khi còn ở với anh em, chúng tôi đã chỉ thị cho anh em: ai không chịu làm thì cũng đừng ăn! 11 Thế mà chúng tôi nghe nói: trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. 12 Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân.

13 Phần anh em, hãy làm việc thiện, đừng sờn lòng nản chí! 14 Nếu có ai không vâng theo lời chúng tôi nói trong thư này, anh em hãy ghi lấy tên và đừng giao du với người ấy, để họ biết xấu hổ. 15 Nhưng đừng coi họ như thù địch, trái lại hãy khuyên bảo như người anh em.

Lời cầu nguyện và lời chào cuối thư

16 Chúa là nguồn mạch bình an, xin Người ban cho anh em được bình an mọi lúc và về mọi phương diện. Xin Chúa ở cùng tất cả anh em.

17 Chính tôi, Phao-lô, tự tay viết lời chào này. Đó là chữ ký trong tất cả các thư của tôi. Tôi viết như thế đó. Chúc tất cả anh em được đầy ân sủng của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.

Ti-mô-thê 1

Chương 1

Lời mở đầu

1 Tôi là Phao-lô, Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su theo lệnh Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, và theo lệnh Đức Ki-tô Giê-su, niềm hy vọng của chúng ta, 2 gửi anh Ti-mô-thê, người con tôi đã sinh ra trong đức tin. Xin Thiên Chúa là Cha và xin Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, ban cho anh ân sủng, lòng thương xót và sự bình an.

Đề phòng giáo lý sai lạc

3 Khi đi Ma-kê-đô-ni-a, tôi đã khuyên anh ở lại Ê-phê-xô để anh truyền cho một số người đừng dạy một giáo lý khác, 4 cũng đừng chú ý đến những chuyện hoang đường và những gia phả dài dòng; những cái đó chỉ gây ra tranh luận, chứ không đóng góp vào kế hoạch của Thiên Chúa mà đức tin cho chúng ta biết. 5 Lời truyền dạy đó phải nhằm đưa tới đức mến phát xuất từ tâm hồn trong sạch, lương tâm ngay thẳng và đức tin không giả hình. 6 Vì đi trệch đường lối ấy, một số người đã sa vào tật nói rỗng tuếch. 7 Họ muốn làm thầy dạy luật, nhưng lại không hiểu cả điều mình nói lẫn điều mình xác quyết.

Vai trò của Lề Luật

8 Chúng ta biết rằng Lề Luật là tốt, nếu người ta sử dụng cho đúng cách. 9 Thật vậy, Lề Luật có đó, không phải cho người công chính, mà là cho hạng người sống ngoài lề luật và bất phục tùng, vô luân và tội lỗi, phạm thánh phạm thượng, giết cha giết mẹ, sát nhân, 10 dâm dật, kê gian, buôn người, nói dối, bội thề, và những kẻ sống ngược với giáo lý lành mạnh. 11 Đó là giáo lý phù hợp với Tin Mừng đã được giao phó cho tôi, Tin Mừng về vinh quang của Thiên Chúa chí tôn.

Ông Phao-lô suy nghĩ về ơn gọi của mình

12 Tôi tạ ơn Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, Đấng đã ban sức mạnh cho tôi, vì Người đã tín nhiệm mà gọi tôi đến phục vụ Người. 13 Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin. 14 Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người. 15 Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Ki-tô Giê-su đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. 16 Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giê-su Ki-tô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời. 17 Kính dâng Vua muôn thuở là Thiên Chúa bất diệt, vô hình và duy nhất, kính dâng Người danh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời. A-men.

Trách nhiệm của ông Ti-mô-thê

18 Anh Ti-mô-thê, đó là chỉ thị tôi trao cho anh là người con của tôi, chiếu theo các lời ngôn sứ trước đây đã nói về anh, để anh dựa vào đó mà chiến đấu trong cuộc chiến cao đẹp này, 19 với đức tin và lương tâm ngay thẳng. Một số người đã vứt bỏ lương tâm ngay thẳng đó, nên đức tin của họ đã bị chết chìm. 20 Trong số đó có Hy-mê-nê và A-lê-xan-đê; tôi đã trao nộp họ cho Xa-tan để họ được dạy cho biết đừng nói lộng ngôn nữa.

Chương 2

Lời kinh phụng vụ

1 Trước hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, 2 cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. 3 Đó là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, 4 Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. 5 Thật vậy, chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức Ki-tô Giê-su, 6 Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người.

Điều này đã được chứng thực vào đúng thời đúng buổi.

7 Và để làm chứng về điều này, tôi được đặt làm người rao giảng và làm Tông Đồ-tôi nói thật chứ không nói dối- nghĩa là làm thầy dạy các dân ngoại về đức tin và chân lý. 8 Vậy tôi muốn rằng người đàn ông hãy cầu nguyện ở bất cứ nơi nào, tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung khắc.

Khi họp cộng đoàn, người phụ nữ phải như thế nào?

9 Cũng thế, tôi muốn người đàn bà phải ăn mặc đoan trang, đồ trang điểm phải kín đáo, giản dị: không phải là những kiểu tóc cầu kỳ, vàng bạc, ngọc trai hay quần áo đắt tiền, 10 nhưng là những việc lành; như thế mới thích hợp với những người đàn bà xưng mình có lòng đạo đức. 11 Khi nghe lời dạy dỗ, đàn bà phải thinh lặng và hết lòng phục tùng. 12 Tôi không cho phép đàn bà giảng dạy, hay thống trị đàn ông, trái lại họ phải thinh lặng, 13 vì A-đam được tạo dựng trước, rồi mới đến E-và. 14 Cũng không phải A-đam đã bị dụ dỗ, nhưng là người đàn bà đã phạm tội, khi bị dụ dỗ. 15 Tuy nhiên, người đàn bà sẽ được cứu nhờ sinh con cái, nếu kiên trì giữ đức tin, đức mến và sự thánh thiện, với lòng đơn sơ giản dị.

Chương 3

Các giám quản

1 Đây là lời đáng tin cậy: ai mong được làm giám quản, người ấy ước muốn một nhiệm vụ cao đẹp. 2 Vậy giám quản phải là người không ai chê trách được, chỉ có một đời vợ, tiết độ, chừng mực, nhã nhặn, hiếu khách, có khả năng giảng dạy; 3 người ấy không được nghiện rượu, không được hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, không hay gây sự, không ham tiền, 4 biết điều khiển tốt gia đình mình, biết dạy con cái phục tùng cách rất nghiêm chỉnh, 5 vì ai không biết điều khiển gia đình mình, thì làm sao có thể lo cho Hội Thánh của Thiên Chúa được? 6 Người ấy không được là tân tòng, kẻo lên mặt kiêu căng mà bị kết án như ma quỷ. 7 Người ấy còn phải được người ngoài chứng nhận là tốt, kẻo bị sỉ nhục và sa vào cạm bẫy ma quỷ.

Các trợ tá

8 Các trợ tá cũng vậy, phải là người đàng hoàng, biết giữ lời hứa, không rượu chè say sưa, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn; 9 họ phải bảo toàn mầu nhiệm đức tin trong một lương tâm trong sạch. 10 Họ phải được thử thách trước đã, rồi mới được thi hành chức vụ trợ tá, nếu không bị ai khiếu nại. 11 Các bà cũng vậy, phải là người đàng hoàng, không nói xấu, nhưng tiết độ, đáng tin cậy mọi bề. 12 Các trợ tá phải là người chỉ có một đời vợ, biết điều khiển con cái và gia đình cho tốt. 13 Những ai thi hành chức vụ trợ tá cách tốt đẹp, thì được một chỗ danh dự, và được mạnh dạn nhiều nhờ lòng tin vào Đức Ki-tô Giê-su.

Mầu nhiệm của đạo thánh

14 Tôi viết cho anh thư này, dù vẫn hy vọng sớm đến với anh. 15 Nhưng nếu tôi chậm trễ, thì thư này sẽ cho anh biết phải ăn ở thế nào trong nhà của Thiên Chúa, tức là Hội Thánh của Thiên Chúa hằng sống, cột trụ và điểm tựa của chân lý. 16 Phải công nhận rằng: mầu nhiệm của đạo thánh thật là cao cả, đó là:

Đức Ki-tô xuất hiện trong thân phận người phàm,

được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính;

Người được các thiên thần chiêm ngưỡng,

và được loan truyền giữa muôn dân;

Người được cả hoàn cầu tin kính,

được siêu thăng cõi trời vinh hiển.

Chương 4

Các người dạy giáo lý sai lạc

1 Thần khí phán rõ ràng: vào những thời cuối cùng, một số người sẽ bỏ đức tin mà theo những thần khí lừa dối và những giáo huấn của ma quỷ; 2 đó là vì trò giả hình của những tên nói dối mà lương tâm như bị thích dấu sắt nung. 3 Họ cấm không được kết hôn và bắt phải kiêng một số thức ăn; thật ra, những thức ăn này là những thứ Thiên Chúa đã tạo dựng để các tín hữu, những kẻ đã nhận biết chân lý, được dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ. 4 Thật vậy, tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều tốt, và không có gì phải loại bỏ, nếu biết dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ, 5 vì lời Thiên Chúa và lời cầu nguyện thánh hoá những thứ đó. 6 Nếu anh trình bày cho anh em những điều ấy, thì anh sẽ là một người phục vụ tốt của Đức Ki-tô Giê-su, một người thấm nhuần lời đức tin và giáo lý cao đẹp mà anh đã trung thành noi theo. 7 Còn những chuyện hoang đường nhảm nhí của bà già, thì hãy loại bỏ. Hãy luyện tập sống đạo đức; 8 vì luyện tập thân thể thì lợi ích chẳng là bao, còn lòng đạo đức thì lợi ích mọi bề, bởi Chúa hứa ban sự sống hiện tại cũng như tương lai cho người có lòng đạo đức. 9 Đó là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận. 10 Thật vậy, chính vì mục đích ấy mà chúng ta phải vất vả, phải chiến đấu, bởi đã đặt hy vọng vào Thiên Chúa hằng sống, Đấng cứu độ mọi người, nhất là các tín hữu. 11 Anh hãy truyền, hãy dạy những điều đó.

12 Chớ gì đừng có ai coi thường anh vì anh còn trẻ. Trái lại, anh hãy nên gương mẫu cho các tín hữu về lời ăn tiếng nói, về cách cư xử, về đức ái, đức tin và lòng trong sạch. 13 Trong khi chờ tôi đến, hãy chuyên cần đọc Sách Thánh trong các buổi họp, chuyên cần khuyên nhủ và dạy dỗ. 14 Đừng thờ ơ với đặc sủng đang có nơi anh, đặc sủng Thiên Chúa đã ban cho anh nhờ lời ngôn sứ, khi hàng kỳ mục đặt tay trên anh. 15 Anh hãy tha thiết với những điều đó, chuyên chú vào đó, để mọi người nhận thấy những tiến bộ của anh. 16 Anh hãy thận trọng trong cách ăn nết ở và trong lời giảng dạy. Hãy kiên trì trong việc đó. Vì làm như vậy, anh sẽ cứu được chính mình, lại còn cứu được những người nghe anh giảng dạy.

Chương 5

Cách cư xử với các hạng người tín hữu nói chung

1 Đừng nặng lời với cụ già, nhưng khi khuyên nhủ, hãy coi cụ như cha; hãy coi các thanh niên như anh em, 2 các cụ bà như mẹ, các thiếu nữ như chị em, với tấm lòng hoàn toàn trong sạch.

Các bà goá

3 Anh hãy kính trọng các bà goá, những bà goá đích thực. 4 Nếu một bà goá có con có cháu, thì trước tiên con cháu phải học cho biết ăn ở hiếu thảo đối với gia đình mình, và đền ơn đáp nghĩa các bậc sinh thành. Đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa. 5 Còn các bà goá đích thực, sống một thân một mình, thì đã đặt hy vọng vào Thiên Chúa và ngày đêm kiên trì đọc kinh cầu nguyện. 6 Trái lại, bà goá ham vui thì sống cũng như chết. 7 Anh cũng phải truyền dạy những điều ấy, để không ai chê trách được họ. 8 Ai không chăm sóc người thân, nhất là người sống trong cùng một nhà, thì đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn người không có đức tin.

9 Muốn được ghi tên vào sổ các bà goá, phải có những điều kiện sau: ít nhất sáu mươi tuổi, chỉ có một đời chồng, 10 được chứng nhận là đã làm việc thiện, nghĩa là đã nuôi nấng dạy dỗ con cái, đã tỏ ra hiếu khách, đã rửa chân cho các người trong dân thánh, giúp đỡ người gặp gian truân, siêng năng làm mọi việc lành. 11 Còn các bà goá trẻ, anh đừng ghi vào sổ; vì khi dục vọng làm cho họ xa lìa Đức Ki-tô, thì họ muốn tái giá, 12 và như vậy là mang lấy án phạt, bởi đã không giữ lời cam kết ban đầu với Đức Ki-tô. 13 Đồng thời, vì ăn không ngồi rồi, họ học thói la cà hết nhà nọ đến nhà kia. Đâu phải chỉ ăn không ngồi rồi, họ còn nhiều chuyện, lăng xăng, nói năng bừa bãi. 14 Vậy tôi muốn các bà goá trẻ hãy tái giá, sinh con cái, lo việc cửa nhà; đừng để cho đối phương có dịp bới móc. 15 Thật vậy, đã có kẻ lạc đường đi theo Xa-tan. 16 Nếu nữ tín hữu nào có người trong họ hàng là bà goá, thì hãy giúp đỡ họ, đừng để cho Hội Thánh phải mang gánh nặng, và như thế Hội Thánh có thể giúp đỡ những bà goá đích thực.

Các kỳ mục

17 Những kỳ mục thi hành chức vụ chủ toạ cách tốt đẹp, thì đáng được đãi ngộ gấp đôi, nhất là những người vất vả phục vụ lời Chúa và giảng dạy. 18 Quả vậy, Kinh Thánh có nói: Đừng bịt mõm con bò đang đạp lúa, và làm thợ thì đáng được trả công. 19 Lời tố cáo một kỳ mục, anh đừng chấp nhận, trừ phi có hai hoặc ba nhân chứng. 20 Những ai phạm tội, anh hãy khiển trách trước mặt mọi người, để những kẻ khác phải sợ. 21 Trước mặt Thiên Chúa, trước mặt Đức Ki-tô Giê-su và các thiên thần được tuyển chọn, tôi tha thiết khuyên anh giữ các điều ấy cách vô tư, không làm gì vì thiên vị. 22 Anh đừng vội đặt tay trên ai, đừng cộng tác vào tội lỗi của người khác. Hãy giữ mình trong sạch.

23 Từ nay anh đừng chỉ uống nước lã, nhưng hãy dùng thêm chút rượu, vì anh đau dạ dày và ốm yếu luôn.

24 Có những người thì tội đã rành rành, ngay trước khi xét xử; người khác thì xét xử rồi mới thấy rõ. 25 Cũng thế, những việc tốt thì đã rành rành; mà cả những việc không tốt cũng chẳng che giấu được.

Chương 6

Các nô lệ

1 Những ai đang ở dưới ách nô lệ, hãy coi chủ mình là đáng kính về mọi mặt, để danh Thiên Chúa và đạo lý khỏi bị người ta xúc phạm. 2 Còn những ai có chủ là người tín hữu, thì đừng lấy cớ họ là người anh em mà coi thường; trái lại phải hầu hạ chủ tốt hơn nữa, bởi lẽ người được mình phục vụ là tín hữu và là anh em yêu quý.

Người dạy giáo lý: ai chân chính, ai không

3 Nếu có ai dạy một giáo lý khác, không theo sát các lời lành mạnh, tức là các lời của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, và không theo sát giáo lý phù hợp với đạo thánh, 4 thì người ấy lên mặt kiêu căng, không biết gì cả, nhưng mắc bệnh ham tranh luận và thích cãi chữ. Do đó sinh ra ganh tị, tranh chấp, lộng ngôn, nghĩ xấu, 5 đấu khẩu liên miên giữa những người đầu óc lệch lạc, mất cả chân lý và coi việc giữ đạo là một nguồn lợi. 6 Đã hẳn, việc giữ đạo là nguồn lợi lớn đối với ai lấy cái mình có làm đủ. 7 Quả vậy, chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. 8 Vậy nếu có cơm ăn áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ. 9 Còn những kẻ muốn làm giàu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại; đó là những thứ làm cho con người chìm đắm trong cảnh huỷ diệt tiêu vong. 10 Thật thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé.

Lời khuyên nhủ thiết tha

11 Phần anh, hỡi người của Thiên Chúa, hãy tránh xa những điều đó; hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hoà. 12 Anh hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời; chính vì sự sống ấy, anh đã được Thiên Chúa kêu gọi, và anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng. 13 Trước mặt Thiên Chúa là Đấng ban sức sống cho mọi loài, và trước mặt Đức Ki-tô Giê-su là Đấng đã làm chứng trước toà tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô bằng một lời tuyên xưng cao đẹp, tôi truyền cho anh: 14 hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, xuất hiện. 15 Đấng sẽ cho Đức Ki-tô tỏ hiện vào đúng thời đúng buổi,

là Chúa Tể vạn phúc vô song,

là Vua các vua, Chúa các chúa.

16 Chỉ mình Người là Đấng trường sinh bất tử,

ngự trong ánh sáng siêu phàm,

Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy.

Kính dâng Người danh dự

và uy quyền đến muôn đời. A-men.

Lời khuyên người giàu

17 Những người giàu ở trần gian này, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. 18 Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. 19 Như vậy họ tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai, để được sự sống thật.

Lời nhắn nhủ cuối cùng

20 Anh Ti-mô-thê, hãy bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho anh, tránh những chuyện nhảm nhí, trống rỗng, và những vấn đề của tri thức giả hiệu. 21 Có những kẻ, vì chủ trương cái tri thức đó, nên đã lạc mất đức tin. Chúc anh em được ân sủng.

Ti-mô-thê 2

Chương 1

Lời mở đầu và tạ ơn

1 Tôi là Phao-lô, Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, do ý muốn của Thiên Chúa, chiếu theo lời Thiên Chúa hứa ban sự sống vốn có trong Đức Ki-tô Giê-su, 2 gửi anh Ti-mô-thê, người con yêu dấu. Xin Thiên Chúa là Cha và xin Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho anh được ân sủng, lòng thương xót và sự bình an.

3 Tôi tạ ơn Thiên Chúa, Đấng tôi phụng thờ với lương tâm trong sạch, theo gót tổ tiên; tôi tạ ơn Người khi tôi không ngừng nhắc nhở đến anh, trong các lời cầu nguyện của tôi, đêm cũng như ngày. 4 Nhớ đến những giọt nước mắt của anh, tôi ước ao gặp lại anh để được chan chứa niềm vui. 5 Tôi hồi tưởng lại lòng tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít, bà ngoại anh, nơi bà Êu-ni-kê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy.

Những ơn ông Ti-mô-thê đã nhận được

6 Vì lý do đó, tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh. 7 Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ. 8 Vậy anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng. 9 Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Ki-tô Giê-su, 10 nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Ki-tô Giê-su đã xuất hiện. Chính Đức Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử. 11 Thiên Chúa đã đặt tôi làm người rao giảng Tin Mừng đó, làm tông đồ và thầy dạy.

12 Chính vì lý do ấy mà tôi phải chịu những đau khổ này; nhưng tôi không hổ thẹn, vì tôi biết tôi tin vào ai, và xác tín rằng: Người có đủ quyền năng bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới Ngày đó.

13 Với đức tin và đức mến của một người được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su, anh hãy lấy làm mẫu mực những lời lành mạnh anh đã nghe tôi dạy. 14 Giáo lý tốt đẹp đã giao phó cho anh, anh hãy bảo toàn, nhờ có Thánh Thần ngự trong chúng ta.

15 Anh biết rằng mọi người ở A-xi-a đã bỏ tôi; Phy-ghê-lô và Héc-mô-ghê-nê cũng ở trong số ấy. 16 Xin Chúa tỏ lòng thương xót gia đình anh Ô-nê-xi-phô-rô, vì đã nhiều lần anh làm cho tôi lên tinh thần, và đã không hổ thẹn vì tôi phải mang xiềng xích; 17 trái lại, vừa đến Rô-ma, anh vội vã đi tìm và đã thấy tôi. 18 Xin Chúa ban cho anh tìm thấy nơi Chúa lòng thương xót, trong Ngày đó. Về công việc phục vụ của anh ấy ở Ê-phê-xô, thì anh đã quá rõ.

Chương 2

Ý nghĩa các đau khổ của người tông đồ

1 Vậy hỡi anh, người con của tôi, anh hãy nên mạnh mẽ trong ân sủng của Đức Ki-tô Giê-su. 2 Những gì anh đã nghe tôi nói trước mặt nhiều nhân chứng, thì hãy trao lại cho những người tin cẩn, những người sẽ có khả năng dạy cho người khác.

3 Anh hãy đồng lao cộng khổ như một người lính giỏi của Đức Ki-tô Giê-su. 4 Trong nghề binh, không ai vướng mắc vào những việc thuộc đời sống dân sự; có thế mới đẹp lòng người đã tuyển mộ. 5 Người tham dự điền kinh cũng vậy, không đoạt giải nếu không thi đấu theo luật lệ. 6 Còn người nông dân làm việc vất vả, thì phải là người đầu tiên được hưởng phần hoa lợi. 7 Anh hãy hiểu điều tôi nói, vì Chúa sẽ ban cho anh ơn thông hiểu mọi sự.

8 Anh hãy nhớ đến Đức Giê-su Ki-tô,

Đấng đã sống lại từ cõi chết,

Đấng xuất thân từ dòng dõi Đa-vít,

9 Vì Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích! 10 Bởi vậy, tôi cam chịu mọi sự, để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Đức Ki-tô Giê-su, và được hưởng vinh quang muôn đời.

11 Đây là lời đáng tin cậy:

Nếu ta cùng chết với Người,

ta sẽ cùng sống với Người.

12 Nếu ta kiên tâm chịu đựng,

ta sẽ cùng hiển trị với Người.

Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta.

13 Nếu ta không trung tín,

Người vẫn một lòng trung tín,

vì Người không thể nào chối bỏ chính mình.

Chống lại những người dạy giáo lý sai lạc

14 Anh hãy nhắc nhở lại những điều đó, trước mặt Thiên Chúa, hãy tha thiết khuyên người ta đừng cãi chữ: chuyện không có ích lợi gì, chỉ làm cho người nghe phải diệt vong. 15 Hãy cố gắng ra trước mặt Thiên Chúa như một người đã được thử luyện, một người thợ không có gì phải xấu hổ, một người thẳng thắn dạy lời chân lý. 16 Còn những chuyện nhảm nhí, trống rỗng, anh hãy tránh xa, vì những kẻ nói những chuyện ấy sẽ tiến sâu vào con đường vô luân. 17 Lời họ như một thứ ung nhọt cứ loét thêm ra. Trong số những người đó có Hy-mê-nê và Phi-lê-tô. 18 Hai người này đã đi trệch đường chân lý, khi nói rằng sự phục sinh đã xảy ra rồi và như vậy họ phá đổ đức tin của một số người. 19 Tuy nhiên, nền móng vững chắc Thiên Chúa đã đặt thì tồn tại; trên đó có ghi tạc lời này: Chúa biết những kẻ thuộc về Người, và Phàm ai kêu cầu danh Chúa phải tránh xa điều bất chính.

20 Trong một ngôi nhà lớn, không phải chỉ có những đồ vật bằng vàng bằng bạc, nhưng cũng có những đồ vật bằng gỗ bằng sành; thứ thì dùng vào việc cao quý, thứ thì dùng vào việc thấp hèn. 21 Vậy ai thanh tẩy mình cho sạch những điều xấu nói trên, người đó sẽ là một đồ vật dùng vào việc cao quý, một đồ vật được thánh hiến, có ích cho chủ, sẵn sàng làm mọi việc lành.

22 Anh hãy tránh xa các đam mê của tuổi trẻ, cố gắng trở nên người công chính, giàu lòng tin và lòng mến, ăn ở thuận hoà cùng những ai kêu cầu Chúa với tấm lòng trong sạch. 23 Còn những tranh luận điên rồ và ngu xuẩn, anh hãy gạt ra một bên, vì biết rằng những thứ ấy sinh ra cãi cọ. 24 Thế mà người tôi tớ Chúa thì không được cãi cọ, nhưng phải dịu dàng với mọi người, có khả năng giảng dạy, biết chịu đựng gian khổ. 25 Người ấy phải lấy lòng hiền hoà mà giáo dục những kẻ chống đối: biết đâu Thiên Chúa lại chẳng ban cho họ ơn sám hối để nhận biết chân lý, 26 và họ sẽ tỉnh ngộ, thoát khỏi cạm bẫy ma quỷ đã dùng để bắt giữ họ và khiến họ làm theo ý nó?

Chương 3

Đề phòng các nguy hiểm của những thời cuối cùng

1 Anh hãy biết điều này: vào những ngày sau hết sẽ có những lúc gay go. 2 Quả thế, người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, 3 vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, 4 phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa; 5 hình thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ. Anh hãy xa lánh cả những người ấy.

6 Thuộc bọn đó là những kẻ lẻn vào nhà người ta chinh phục thứ đàn bà nhẹ dạ, đầy những tội lỗi và bị đủ thứ đam mê lôi cuốn, 7 học mãi mà chẳng bao giờ nhận biết được chân lý. 8 Cũng như Gian-nê và Giam-rê xưa chống lại ông Mô-sê, thì nay họ cũng chống lại chân lý; họ là hạng người đầu óc lệch lạc, lòng tin không có gì vững chắc. 9 Nhưng họ sẽ không đi xa hơn được, vì như trường hợp hai tên kia, mọi người sẽ thấy rõ là họ điên khùng.

10 Phần anh, anh đã theo sát đạo lý, cách sống, dự định của tôi; anh đã thấy lòng tin, sự nhẫn nại, lòng yêu mến, sự kiên trì của tôi; 11 anh đã biết những cơn bắt bớ, những sự đau khổ tôi đã gặp ở An-ti-ô-khi-a, I-cô-ni-ô, Lýt-ra, đã biết tôi chịu bắt bớ như thế nào. Nhưng Chúa đã giải thoát tôi khỏi tất cả. 12 Vả lại, những ai muốn sống đạo đức trong Đức Ki-tô Giê-su, đều sẽ bị bắt bớ. 13 Còn hạng người xấu xa và bịp bợm sẽ ngày càng xấu hơn, họ vừa lừa dối, vừa bị lừa dối.

14 Phần anh, hãy giữ vững những gì anh đã học được và đã tin chắc. Anh biết anh đã học với những ai. 15 Và từ thời thơ ấu, anh đã biết Sách Thánh, sách có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào Đức Ki-tô Giê-su. 16 Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. 17 Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành.

Chương 4

Lời khuyên nhủ thiết tha

1 Trước mặt Thiên Chúa và Đức Ki-tô Giê-su, Đấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, Đấng sẽ xuất hiện và nắm vương quyền, tôi tha thiết khuyên anh: 2 hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ. 3 Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai muốn nghe. 4 Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường. 5 Phần anh, hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của anh.

Ông Phao-lô vào cuối đời

6 Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. 7 Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. 8 Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện. 9 Anh hãy mau mau đến với tôi, 10 vì anh Đê-ma đã bỏ tôi, bởi yêu mến thế gian này; anh ta đã đi Thê-xa-lô-ni-ca. Anh Cơ-rét-xen đã đi sang miền Ga-lát, anh Ti-tô đi sang miền Đan-ma-ti-a. 11 Chỉ còn một mình anh Lu-ca ở với tôi. Anh hãy đem anh Mác-cô đi với anh, vì anh ấy rất hữu ích cho công việc phục vụ của tôi. 12 Anh Ty-khi-cô thì tôi đã sai đi Ê-phê-xô. 13 Cái áo choàng tôi đã để lại nhà anh Các-pô ở Trô-a, thì khi đến, xin anh đem theo, cũng như các sách vở, nhất là những cuộn giấy da. 14 A-lê-xan-đê, người thợ rèn, đã gây cho tôi nhiều khốn khổ; Chúa sẽ cứ việc anh ta làm mà trả báo. 15 Cả anh nữa, cũng hãy đề phòng anh ta, vì anh ta mạnh mẽ chống lại lời chúng ta rao giảng.

16 Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. 17 Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. 18 Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. A-men.

Lời chào và lời chúc cuối thư

19 Xin gửi lời thăm chị Pơ-rít-ca và anh A-qui-la, và gia đình anh Ô-nê-xi-phô-rô. 20 Anh Ê-rát-tô đã ở lại Cô-rin-tô. Còn anh Trô-phi-mô đang đau, tôi đã để anh ấy ở lại Mi-lê-tô. 21 Anh hãy mau đến trước mùa đông.

Các anh Êu-bu-lô, Pu-đê, Li-nô, chị Cơ-lau-đi-a và toàn thể anh em gửi lời thăm anh.

22 Chúa ở cùng thần trí anh. Chúc anh em được ân sủng.

Ti-tô

Chương 1

Lời mở đầu và lời chào

1 Tôi là Phao-lô, tôi tớ của Thiên Chúa và Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô, có nhiệm vụ đưa những kẻ Thiên Chúa chọn đến đức tin và sự nhận biết chân lý phù hợp với đạo thánh, 2 với niềm hy vọng được sự sống đời đời mà Thiên Chúa, Đấng không hề nói dối đã hứa từ thuở đời đời. 3 Vào đúng thời đúng buổi, Người đã biểu lộ lời Người trong lời rao giảng đã được giao phó cho tôi, theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta. 4 Tôi gửi lời thăm anh Ti-tô, người con tôi thực sự sinh ra trong cùng một đức tin chung. Xin Thiên Chúa là Cha và xin Đức Ki-tô Giê-su, Đấng cứu độ chúng ta, ban cho anh ân sủng và bình an.

Đặt các kỳ mục

5 Tôi đã để anh ở lại đảo Cơ-rê-ta, chính là để anh hoàn thành công việc tổ chức, và đặt những kỳ mục trong mỗi thành, như tôi đã truyền cho anh. 6 Kỳ mục phải là người không chê trách được, chỉ có một đời vợ, con cái cũng tin đạo và không mang tiếng là sống phóng đãng hay bất phục tùng. 7 Thật vậy, giám quản, với tư cách là quản lý của Thiên Chúa, phải là người không chê trách được, không ngạo mạn, không nóng tính, không nghiện rượu, không hiếu chiến, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn; 8 trái lại, phải hiếu khách, yêu chuộng điều thiện, chừng mực, công chính, thánh thiện, biết tự chủ; 9 người ấy phải gắn bó với lời đáng tin cậy và đúng đạo lý, để vừa có khả năng dùng giáo lý lành mạnh mà khuyên nhủ, vừa có khả năng bẻ lại những kẻ chống đối.

Chống lại những người dạy giáo lý sai lạc

10 Thật vậy, có nhiều kẻ bất phục tùng, nói năng rỗng tuếch, lường gạt, mà đa số là những kẻ được cắt bì. 11 Cần phải khoá miệng họ lại. Hạng người đó làm đảo lộn nhiều gia đình từ trên xuống dưới; vì lợi lộc thấp hèn, họ dạy những điều không được phép. 12 Một người trong số đó, một ngôn sứ của chính họ, đã nói: Người Cơ-rê-ta nói dối luôn, họ là thú dữ, ham ăn lại lười. 13 Lời chứng đó là thật. Vì lý do ấy, anh hãy nghiêm khắc sửa dạy họ, để họ có một đức tin lành mạnh, 14 không còn chú ý đến những chuyện hoang đường của người Do-thái và những điều răn dạy của những con người đã quay lưng lại với chân lý.

15 Mọi sự đều trong sạch với những người trong sạch. Nhưng với những kẻ nhiễm uế và không có đức tin, thì không có gì là trong sạch cả; trái lại, trí khôn và lương tâm của họ đã bị nhiễm uế. 16 Họ tuyên bố là biết Thiên Chúa, nhưng trong hành động họ lại chối Người. Họ là đồ ghê tởm, không vâng lời, và không có khả năng làm việc gì tốt.

Chương 2

Bổn phận của các hạng tín hữu

1 Phần anh, hãy dạy những gì phù hợp với giáo lý lành mạnh. 2 Hãy khuyên các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức tin, đức mến và đức nhẫn nại. 3 Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng là người thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều lành.

4 Như vậy, họ sẽ dạy cho người vợ trẻ biết yêu chồng, thương con, 5 biết sống chừng mực, trong sạch, chăm lo việc nhà, phục tùng chồng, để lời Thiên Chúa khỏi bị người ta xúc phạm. 6 Anh cũng hãy khuyên các thanh niên phải giữ chừng mực trong mọi sự. 7 Chính anh hãy làm gương về mặt đức hạnh. Khi anh giảng dạy thì đạo lý phải tinh tuyền, thái độ phải đàng hoàng, 8 lời lẽ phải lành mạnh, không ai bắt bẻ được, khiến đối phương phải bẽ mặt, vì không thể nói xấu chúng ta được điều gì. 9 Các nô lệ phải phục tùng chủ mình trong mọi sự, làm đẹp lòng chủ và đừng cãi lại, 10 đừng ăn cắp, nhưng tỏ lòng trung tín hoàn toàn; như vậy là họ làm cho đạo lý của Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, được rạng rỡ mọi bề.

Nền tảng thần học của những đòi hỏi trên

11 Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. 12 Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. 13 Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. 14 Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện.

15 Đó là những điều anh phải nói, phải khuyên, phải sửa dạy với tất cả uy quyền. Chớ gì đừng có ai coi thường anh.

Chương 3

Bổn phận chung của các tín hữu

1 Anh hãy nhắc nhở cho ai nấy phải phục tùng và tuân lệnh các nhà chức trách, các người cầm quyền, phải sẵn sàng làm mọi việc tốt, 2 và đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người. 3 Thật vậy, cả chúng ta nữa, xưa kia chúng ta cũng ngu xuẩn, không vâng lời, lầm lạc, làm nô lệ cho đủ thứ đam mê và khoái lạc, sống trong gian ác và ganh tị, đáng ghét và ghen ghét lẫn nhau.

4 Nhưng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại. 5 Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới. 6 Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ chúng ta. 7 Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Ki-tô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng.

Khuyên riêng ông Ti-tô

8 Đó là lời đáng tin cậy, và tôi muốn anh đặc biệt nhấn mạnh các điểm ấy, để những kẻ đã đặt niềm tin vào Thiên Chúa ra sức trổi vượt về những việc tốt đẹp. Đó là điều tốt đẹp và hữu ích cho người ta.

9 Còn những cuộc tranh luận điên rồ, những chuyện gia phả, những vụ cãi cọ, xung đột về Lề Luật, anh hãy tránh xa: những cái đó vô ích và rỗng tuếch. 10 Người theo bè phái, thì sau khi cảnh cáo lần thứ nhất và lần thứ hai, anh hãy loại đi, 11 vì biết rằng một người như thế đã ra hư đốn, người ấy phạm tội và tự kết án mình.

Dặn dò. Lời chào và lời chúc cuối thư

12 Khi nào tôi sai anh Ác-tê-ma hay anh Ty-khi-cô đến với anh, thì hãy liệu mau đến với tôi ở Ni-cô-pô-li, vì tôi đã quyết định ở lại đó suốt mùa đông. 13 Anh hãy lo tiễn đưa luật gia Dê-na và anh A-pô-lô cho chu đáo, đừng để họ phải thiếu thốn gì. 14 Các anh em của chúng ta cũng phải học cho biết trổi vượt về những việc tốt đẹp, để đáp ứng những nhu cầu cấp bách; như vậy họ không phải là không sinh hoa kết quả.

15 Tất cả những anh em ở với tôi gửi lời thăm anh. Xin gửi lời thăm các bạn hữu cùng một đức tin như chúng ta. Chúc tất cả anh em được ân sủng.

Phi-lê-mon

Chương 1

Lời chào thăm

1 Phao-lô, kẻ bị tù vì Đức Ki-tô Giê-su, cùng với người anh em là Ti-mô-thê, gửi anh Phi-lê-môn, cộng sự viên thân mến của chúng tôi, 2 cùng chị Áp-phi-a và anh Ác-khíp-pô, chiến hữu của chúng tôi, đồng thời kính gửi Hội Thánh họp tại nhà anh. 3 Chúc anh chị em được đầy tràn ân sủng và bình an của Thiên Chúa, Cha chúng ta, và của Chúa Giê-su Ki-tô.

Tạ ơn và cầu nguyện

4 Tôi luôn luôn tạ ơn Thiên Chúa, khi nhớ đến anh trong lời cầu nguyện, 5 bởi được nghe nói về lòng mến và lòng tin của anh đối với Chúa Giê-su: lòng mến và lòng tin ấy có ích cho mọi người trong dân thánh. 6 Chớ gì lòng tin mà anh chia sẻ với chúng tôi trở nên hữu hiệu, giúp anh hiểu biết tất cả những gì tốt chúng ta có thể làm để phục vụ Đức Ki-tô. 7 Thật thế, tôi rất vui mừng và lấy làm an ủi, khi thấy đức bác ái của anh, bởi vì, thưa anh, anh đã làm cho lòng trí các người trong dân thánh được phấn khởi.

Can thiệp cho Ô-nê-xi-mô

8 Vì thế, mặc dầu nhờ kết hợp với Đức Ki-tô, tôi có đủ mạnh dạn để truyền cho anh làm điều anh phải làm. 9 Nhưng tôi thích kêu gọi lòng bác ái của anh hơn, để xin anh làm điều đó. Tôi, Phao-lô, một người đã già và hơn nữa, một người đang bị tù vì Đức Ki-tô Giê-su, 10 tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích, đó là Ô-nê-xi-mô, 11 kẻ xưa kia đối với anh là vô dụng, thì nay đã thành người hữu ích cho cả anh lẫn tôi, 12 tôi xin gửi nó về cho anh; xin anh hãy đón nhận nó như người ruột thịt của tôi. 13 Phần tôi, tôi cũng muốn giữ nó ở lại với tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. 14 Nhưng tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không phải tự nguyện. 15 Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, 16 không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa. 17 Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi. 18 Nếu nó đã làm thiệt hại anh hoặc mắc nợ anh điều gì, thì xin để tôi nhận cả. . . 19 Chính tôi, Phao-lô, tự tay viết điều này: tôi sẽ hoàn trả lại. Tôi khỏi cần nói với anh là anh còn mắc nợ tôi: món nợ đó là chính anh. 20 Phải, thưa anh, xin anh cho tôi được hưởng niềm vui đó trong Chúa. Anh hãy làm cho lòng trí tôi được phấn khởi trong Đức Ki-tô. 21 Tôi viết thư này cho anh với niềm tin tưởng là anh sẽ nghe theo. Tôi biết rằng anh sẽ còn làm hơn những gì tôi xin nữa.

Những lời dặn dò, thăm hỏi

22 Đồng thời, xin anh dọn cho tôi một chỗ ở, bởi vì tôi hy vọng là nhờ lời anh em cầu nguyện, tôi sẽ được trở về với anh em.

23 Anh Ê-páp-ra, người bạn tù với tôi trong Đức Ki-tô Giê-su, gửi lời chào anh, 24 cùng với các cộng sự viên của tôi là Mác-cô, A-rít-ta-khô, Đê-ma và Lu-ca.

25 Cầu chúc anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô. A-men.

Do Thái

Chương 1

LỜI TỰA

Địa vị cao trọng của Con Thiên Chúa làm người

1 Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; 2 nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. 3 Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật. Sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Người lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời. 4 Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu.

I. CON THIÊN CHÚA CAO TRỌNG HƠN CÁC THIÊN THẦN

Bằng chứng Kinh Thánh

5 Thật vậy, có bao giờ Thiên Chúa đã phán cùng vị thiên thần nào: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con hoặc là: Ta sẽ là Cha Người, và chính Người sẽ là Con Ta. 6 Khi đưa Trưởng Tử vào thế giới loài người, Thiên Chúa lại nói: Mọi thiên thần của Thiên Chúa, phải thờ lạy Người. 7 Về các thiên thần, thì có lời chép: Người làm cho thiên thần của Người nên những luồng gió, và thuộc hạ của Người thành những ngọn lửa. 8 Nhưng về Người Con, thì Kinh Thánh lại nói: Lạy Thiên Chúa, ngôi báu Ngài sẽ trường tồn vạn kỷ! Vương trượng Ngài, vương trượng công minh. 9 Ngài ưa điều chính trực, ghét điều gian ác. Chính vì vậy, Thiên Chúa là Thiên Chúa của Ngài đã tôn phong Ngài vượt trổi các đồng liêu, mà xức cho dầu thơm hoan lạc. 10 Và có lời khác: Lạy Chúa, lúc khởi đầu, Chúa đã đặt nền trái đất, chính tay Ngài tạo tác vòm trời. 11 Chúng tiêu tan, Chúa vẫn còn hoài; chúng đều sẽ cũ đi như chiếc áo. 12 Chúa sẽ cuốn chúng lại như cuốn áo choàng, chúng sẽ bị thay như người ta thay áo. Nhưng chính Chúa vẫn tiền hậu y nguyên, và năm tháng của Ngài sẽ không chấm dứt. 13 Và có bao giờ Thiên Chúa đã phán với một thiên thần nào rằng: Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân Con? 14 Nào tất cả các vị đó không phải là những bậc thiêng liêng chuyên lo phụng thờ Chúa, được sai đi phục vụ để mưu ích cho những kẻ sẽ được thừa hưởng ơn cứu độ sao?

Chương 2

Lời khuyên nhủ

1 Vì thế, chúng ta càng phải chú tâm hơn nữa vào những lời đã nghe, kẻo bị cuốn trôi đi mất. 2 Quả vậy, nếu lời được các thiên thần loan báo đã có hiệu lực, và nếu mọi vi phạm cũng như bất tuân đều bị phạt đích đáng, 3 thì làm sao chúng ta thoát khỏi, nếu chúng ta thờ ơ với ơn cứu độ cao quý như thế? Ơn cứu độ đó, đầu tiên đã được Chúa rao giảng, rồi được những kẻ nghe cho chúng ta thấy là có hiệu lực, 4 đồng thời được Thiên Chúa chứng thực bằng những dấu lạ điềm thiêng, bằng nhiều quyền năng khác nhau và bằng các ân huệ của Thánh Thần mà Người phân phát tuỳ ý muốn của Người.

Đức Ki-tô thực hiện công trình cứu chuộc, chứ không phải các thiên thần

5 Thật vậy, Thiên Chúa đã không trao cho các thiên thần quyền làm chủ thế giới tương lai, thế giới mà chúng ta đang nói đến. 6 Nhưng trong một đoạn Kinh Thánh kia, có người đã làm chứng rằng: Phàm nhân là chi mà Chúa cần nhớ đến? Con người là gì mà Chúa phải thăm nom? 7 Chúa đã làm cho con người thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, ban vinh quang, danh dự làm mũ triều thiên, 8 đặt muôn loài, muôn sự dưới chân con người, bắt chúng phải phục quyền con người. Khi bắt muôn loài muôn sự phải phục quyền con người, Thiên Chúa không để cho một sự gì không phục quyền con người. Thật ra, hiện nay chúng ta chưa thấy muôn loài muôn sự phục quyền con người. 9 Nhưng con người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, thì chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì đã cam chịu tử hình. Con người đó, chính là Đức Giê-su. Thật vậy, Đức Giê-su đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa.

10 Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giê-su trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ. 11 Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giê-su, và những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em, 12 khi nói: Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội Dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương.

13 Người lại nói: Phần tôi, tôi sẽ tin cậy Thiên Chúa. Người lại nói: Này tôi đây, cùng với những con cái mà Thiên Chúa đã ban cho tôi.

14 Như thế, vì con cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Giê-su đã cùng mang lấy huyết nhục đó. Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, 15 và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ. 16 Vì những kẻ được Người giúp đỡ không phải là các thiên thần, mà là con cháu Áp-ra-ham. 17 Bởi thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân. 18 Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách.

Chương 3

II. ĐỨC GIÊ-SU, VỊ THƯỢNG TẾ TRUNG THÀNH VÀ BIẾT CẢM THƯƠNG

Đức Ki-tô cao trọng hơn ông Mô-sê

1 Do đó, thưa anh em là những người trong dân thánh, những người được hưởng chung ơn gọi bởi trời, anh em hãy ngắm nhìn Đức Giê-su là Sứ Giả, là Thượng Tế, là Trung Gian cho chúng ta tuyên xưng đức tin. 2 Người trung thành với Đấng đã đặt Người lên chức vụ đó, cũng như ông Mô-sê đã trung thành khi thi hành chức vụ đối với toàn thể nhà Thiên Chúa. 3 Như người làm nhà đáng tôn vinh hơn chính ngôi nhà, thì Đức Giê-su cũng được coi là đáng tôn vinh hơn ông Mô-sê. 4 Quả thật, nhà nào cũng phải có người làm ra, và Đấng làm ra mọi sự là Thiên Chúa. 5 Ông Mô-sê đã trung thành khi thi hành chức vụ đối với toàn thể nhà Thiên Chúa, với tư cách là tôi tớ để làm chứng về các điều Thiên Chúa sẽ phán truyền. 6 Còn Đức Ki-tô thì trung thành với tư cách là người Con đứng đầu nhà Thiên Chúa. Mà nhà Thiên Chúa là chính chúng ta, miễn là chúng ta giữ vững đến cùng lòng tin tưởng và thái độ hiên ngang về niềm hy vọng của chúng ta.

Đức tin dẫn vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa

7 Vì thế, như lời Thánh Thần phán: Ngày hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, 8 thì chớ cứng lòng như hồi chúng nổi loạn, như ngày chúng thử thách Ta trong sa mạc, 9 nơi cha ông các ngươi đã từng dò xét mà thử thách Ta và đã thấy các việc Ta làm 10 suốt bốn mươi năm. Vì thế, Ta đã nổi giận với dòng giống này, Ta đã nói: Tâm hồn chúng cứ lầm lạc mãi, chúng nào biết đến đường lối của Ta. 11 Nên Ta mới thịnh nộ thề rằng: chúng sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Ta! 12 Thưa anh em, hãy đề phòng, đừng để người nào trong anh em có lòng dạ xấu xa chối bỏ đức tin mà lìa xa Thiên Chúa hằng sống. 13 Trái lại, ngày ngày anh em hãy khuyên bảo nhau bao lâu còn được gọi là ngày hôm nay, kẻo có ai trong anh em ra cứng lòng vì bị tội lỗi lừa gạt. 14 Quả thế, chúng ta đã được thông phần Đức Ki-tô, miễn là chúng ta cứ giữ vững cho đến cùng căn bản của lòng tin đã có từ ban đầu. 15 Trong câu: Ngày hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, thì chớ cứng lòng như hồi chúng nổi loạn, 16 ai là những kẻ đã nghe tiếng Chúa, rồi nổi loạn? Chẳng phải là những người đã được ông Mô-sê đưa ra khỏi Ai-cập sao? 17 Thiên Chúa đã nổi giận với ai suốt bốn mươi năm? Chẳng phải là với những người đã phạm tội và đã ngã gục, bỏ xác trong sa mạc sao? 18 Nhưng Người thề với ai: Sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Người, nếu không phải là với những kẻ bất tuân? 19 Và chúng ta thấy rằng họ đã không thể vào được đó, bởi vì họ chối bỏ đức tin.

Chương 4

1 Vậy chúng ta phải sợ rằng trong khi lời hứa được vào chốn yên nghỉ của Người vẫn còn đó, mà có ai trong anh em bị coi đã mất cơ hội. 2 Quả thế, chúng ta đã được nghe loan báo Tin Mừng như những người kia. Nhưng lời họ đã nghe không sinh ích gì cho họ, bởi vì những kẻ đã nghe không lấy đức tin đáp lại lời giảng. 3 Còn chúng ta là những người tin, chúng ta đang vào chốn yên nghỉ đó, như lời Thiên Chúa đã phán: Nên Ta mới thịnh nộ thề rằng: chúng sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Ta. Công việc của Thiên Chúa đã hoàn thành từ tạo thiên lập địa, 4 như có chỗ Thiên Chúa phán về ngày thứ bảy rằng: Khi đã làm xong mọi công việc, thì ngày thứ bảy Thiên Chúa nghỉ. 5 Trong đoạn thánh vịnh nói trên, lại cũng có lời chép rằng: Chúng sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Ta. 6 Vậy vì phải có một số người được vào chốn yên nghỉ, và vì những người đầu tiên được nghe loan báo Tin Mừng đã không được vào bởi họ bất tuân, 7 nên Thiên Chúa lại ấn định một ngày khác, tức là ngày hôm nay, khi Người dùng vua Đa-vít mà phán, sau một thời gian rất lâu dài, như đã nói ở trên: Ngày hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, thì chớ cứng lòng. 8 Thật vậy, nếu ông Giô-suê đã cho họ được yên nghỉ, thì sau đó, Thiên Chúa đã chẳng nói đến một ngày khác nữa. 9 Như thế, Dân Thiên Chúa còn có thể được nghỉ như Thiên Chúa nghỉ ngày thứ bảy, 10 vì ai đã vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa, thì cũng đã nghỉ sau khi làm xong công việc của mình, như Thiên Chúa đã nghỉ sau khi làm xong công việc của Người. 11 Vậy, chúng ta hãy cố gắng vào chốn yên nghỉ này, kẻo có ai cũng theo gương bất tuân đó mà sa ngã. 12 Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. 13 Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ.

Đức Giê-su, vị Thượng Tế biết cảm thương

14 Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giê-su, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. 15 Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. 16 Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.

Chương 5

1 Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. 2 Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; 3 mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy. 4 Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông A-ha-ron đã được gọi. 5 Cũng vậy, không phải Đức Ki-tô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, 6 như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê. 7 Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. 8 Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; 9 và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, 10 vì Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.

III. ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ, VỊ THƯỢNG TẾ ĐÍCH THỰC

Đời sống Ki-tô hữu và vấn đề đạo lý

11 Về vấn đề này, chúng tôi còn có nhiều điều phải nói, nhưng khó mà cắt nghĩa, vì anh em đã trở nên uể oải không muốn nghe. 12 Quả thật, với thời gian, đáng lẽ anh em đã phải là những bậc thầy, thế mà anh em lại cần phải để cho người ta dạy anh em những điều sơ đẳng về các sấm ngôn của Thiên Chúa: thay vì thức ăn đặc, anh em lại phải cần dùng sữa. 13 Thật vậy, phàm ai còn phải dùng đến sữa, thì không hiểu gì về đạo lý liên quan đến sự công chính, vì người ấy vẫn là trẻ con. 14 Thức ăn đặc thì dành cho những người đã trưởng thành, những người nhờ thực hành mà rèn luyện được khả năng phân biệt điều lành điều dữ.

Chương 6

Ý định của tác giả

1 Vì thế, gác một bên giáo huấn sơ đẳng về Đức Ki-tô, chúng ta hãy vươn tới trình độ giáo huấn trưởng thành mà không trở lại những điều căn bản, là lòng sám hối ăn năn vì những việc đưa tới sự chết, là niềm tin vào Thiên Chúa, 2 là giáo lý về mấy loại phép rửa; là nghi thức đặt tay, là vấn đề kẻ chết sống lại và cuộc phán xét cuối cùng. 3 Đó là điều chúng ta sắp làm, nếu Thiên Chúa cho phép.

4 Quả thật, những kẻ đã một lần được chiếu sáng, đã được nếm thử ân huệ bởi trời, đã được thông chia Thánh Thần, 5 đã được thưởng thức Lời tốt đẹp của Thiên Chúa và được cảm nghiệm những sức mạnh của thế giới tương lai, 6 những kẻ ấy mà sa ngã, thì không thể được đổi mới một lần nữa để sám hối ăn năn, vì họ đã tự tay đóng đinh Con Thiên Chúa vào thập giá một lần nữa và đã công khai sỉ nhục Người. 7 Khi mảnh đất nào được thấm mưa thường xuyên đổ xuống và sinh ra những loại cây có ích cho người canh tác, thì mảnh đất ấy nhận được phúc lành của Thiên Chúa. 8 Nhưng nếu chỉ sinh ra những gai cùng góc, thì đó là mảnh đất bỏ đi, bị nguyền rủa đến nơi rồi, và rốt cuộc sẽ bị đốt cháy.

Lời mang lại hy vọng và khích lệ

9 Anh em thân mến, mặc dầu nói như thế, chúng tôi tin chắc rằng anh em ở trong một tình trạng tốt đẹp hơn và thuận lợi để được ơn cứu độ. 10 Quả thế, Thiên Chúa không bất công đến nỗi quên việc anh em đã làm và lòng yêu mến anh em đã tỏ ra đối với danh Người, khi trước đấy anh em phục vụ các người trong dân thánh, và hiện nay vẫn còn đang phục vụ. 11 Nhưng chúng tôi ao ước cho mỗi người trong anh em cũng tỏ ra nhiệt thành như thế, để niềm hy vọng của anh em được thực hiện đầy đủ cho đến cùng. 12 Anh em đừng trở nên uể oải, nhưng hãy bắt chước những người nhờ có đức tin và lòng kiên nhẫn mà được thừa hưởng các lời hứa.

13 Quả thế, khi Thiên Chúa hứa với ông Áp-ra-ham, Người đã không thể lấy danh ai cao trọng hơn mình mà thề, nên đã lấy chính danh mình mà thề 14 rằng: Ta sẽ ban phúc dư dật cho ngươi và sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông vô số. 15 Như thế, vì nhẫn nại đợi chờ, ông Áp-ra-ham đã nhận được lời hứa. 16 Người ta thường lấy danh một người cao trọng hơn mình mà thề, và lời thề là một bảo đảm chấm dứt mọi tranh chấp giữa người ta với nhau. 17 Do đó, vì Thiên Chúa muốn chứng minh rõ hơn cho những người thừa hưởng lời hứa được biết về ý định bất di bất dịch của Người, nên Người đã dùng lời thề mà bảo đảm điều Người đã hứa. 18 Như vậy, cả lời hứa lẫn lời thề đều bất di bất dịch, và khi thề hứa, Thiên Chúa không thể nói dối được. Do đó, chúng ta là những kẻ ẩn náu bên Thiên Chúa, chúng ta được mạnh mẽ khuyến khích nắm giữ niềm hy vọng dành cho chúng ta. 19 Chúng ta có niềm hy vọng đó cũng tựa như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn, chìm sâu vào bên trong bức màn cung thánh. 20 Đó là nơi Đức Giê-su đã vào như người tiền phong mở đường cho chúng ta, sau khi trở thành vị Thượng Tế đời đời theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.

Chương 7

1. ĐỨC KI-TÔ CAO TRỌNG HƠN CÁC TƯ TẾ LÊ-VI

Ông Men-ki-xê-đê

1 Quả vậy, ông Men-ki-xê-đê là vua Sa-lem, là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao, đã đón gặp và chúc lành cho ông Áp-ra-ham, lúc ông này đang trên đường về sau khi đánh bại các vua. 2 Ông Áp-ra-ham đã chia cho ông Men-ki-xê-đê một phần mười chiến lợi phẩm. Trước hết, ông tên là Men-ki-xê-đê, nghĩa là “vua công chính"; rồi ông lại là vua Sa-lem, nghĩa là “vua bình an". 3 Ông không có cha, không có mẹ, không có gia phả, cuộc đời không có khởi đầu, cũng không có kết thúc. Như thế là ông giống Con Thiên Chúa: mãi mãi ông vẫn là tư tế.

Ông Men-ki-xê-đê nhận một phần mười chiến lợi phẩm của ông Áp-ra-ham

4 Anh em hãy coi xem: ông Men-ki-xê-đê cao trọng biết bao! Ông Áp-ra-ham là tổ phụ, mà cũng đã dâng cho ông một phần mười chiến lợi phẩm tốt nhất. 5 Trong hàng con cháu ông Lê-vi, những ai lãnh chức tư tế, thì theo Lề Luật, được lệnh thu một phần mười hoa lợi của dân, tức là của anh em mình, mặc dù những người này cũng từ lòng ông Áp-ra-ham mà sinh ra. 6 Còn ông Men-ki-xê-đê, tuy không thuộc dòng tộc Lê-vi, lại thu một phần mười chiến lợi phẩm của ông Áp-ra-ham và chúc lành cho ông là người đã nhận được lời hứa. 7 Điều không ai chối cãi được là chỉ người dưới mới nhận lời chúc lành của người trên. 8 Hơn nữa, một đàng các tư tế Lê-vi thu một phần mười hoa lợi là những người phàm phải chết; một đàng ông Men-ki-xê-đê, người thu một phần mười chiến lợi phẩm, lại là nhân vật đang sống, như lời Kinh Thánh chứng nhận. 9 Có thể nói rằng: chính ông Lê-vi, người thu một phần mười hoa lợi, cũng đã nộp một phần mười chiến lợi phẩm qua ông Áp-ra-ham, 10 vì ông còn ở trong lòng ông tổ Áp-ra-ham, khi ông Men-ki-xê-đê ra đón gặp ông này.

Từ chức tư tế Lê-vi đến chức tư tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê

11 Chức vụ tư tế Lê-vi là nền tảng của Lề Luật Thiên Chúa đã ban cho Dân. Vậy giả như người ta đạt được sự hoàn thiện nhờ chức vụ tư tế đó rồi, thì còn cần chi phải đặt lên một tư tế khác theo phẩm trật Men-ki-xê-đê, thay vì theo phẩm trật A-ha-ron? 12 Quả thế, một khi chức tư tế thay đổi, thì nhất thiết phải thay đổi Lề Luật. 13 Thật ra những điều nói trên nhắm đến một người thuộc một chi tộc khác, chi tộc này chưa hề có ai đã phục vụ bàn thờ. 14 Hiển nhiên là Chúa chúng ta đã xuất thân từ chi tộc Giu-đa, một chi tộc không được ông Mô-sê nói gì đến, khi bàn về các tư tế.

Bãi bỏ Lề Luật cũ

15 Điều ấy lại còn hiển nhiên hơn nữa, khi một vị tư tế khác tương tự như ông Men-ki-xê-đê xuất hiện; 16 vị này đã trở nên tư tế không phải do Lề Luật quy định việc cha truyền con nối, nhưng do sức mạnh của một đời sống bất diệt. 17 Quả thật, có lời chứng nhận rằng: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê. 18 Như vậy, một đàng, quy luật cũ đã bị bãi bỏ, vì có nhược điểm và vô ích, 19-thật thế, Lề Luật đã chẳng làm cho cái gì nên hoàn hảo-; đàng khác, một niềm hy vọng tốt đẹp hơn đã được đưa vào thay thế, nhờ đó chúng ta đến gần Thiên Chúa.

Đức Ki-tô là Thượng Tế đời đời

20 Hơn nữa, điều ấy đã xảy ra không phải là không có lời thề. Một đàng, các tư tế Lê-vi đã trở nên tư tế mà không có lời thề; 21 còn Đức Giê-su khi trở nên tư tế, thì lại có lời thề của Đấng nói với Người: Đức Chúa đã thề ước, Người sẽ chẳng rút lời, rằng: Muôn thuở, Con là Thượng Tế. 22 Do đó, Đức Giê-su đã trở nên Đấng bảo đảm cho một giao ước tốt đẹp hơn. 23 Lại nữa, trong dòng tộc Lê-vi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó. 24 Còn Đức Giê-su, chính vì Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi. 25 Do đó, Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ.

Vị Thượng Tế thập toàn

26 Phải, đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời. 27 Đức Giê-su không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Người, Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. 28 Vì Luật Mô-sê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời.

Chương 8

2. PHỤNG TỰ, THÁNH ĐIỆN VÀ ĐỊA VỊ TRUNG GIAN CỦA ĐỨC KI-TÔ CAO TRỌNG HƠN

Chức tư tế mới và thánh điện mới

1 Điểm chủ yếu trong những điều đang nói ở đây là điểm này: chúng ta có một vị Thượng Tế cao cả như thế ngự bên hữu ngai Đấng uy linh ở trên trời. 2 Vị đó lo việc tế tự trong cung thánh, trong lều trại thật, do Thiên Chúa chứ không phải do người phàm dựng lên. 3 Quả vậy, bất cứ ai được phong làm thượng tế cũng là để dâng lễ vật và tế phẩm; vì thế, vị này cũng cần phải có cái gì để dâng. 4 Vậy, giả như Đức Giê-su ở dưới thế, thì Người chẳng phải là tư tế, bởi vì đã có những người dâng lễ vật như Luật truyền. 5 Những người này lo việc phụng tự trong một thánh điện, mà thánh điện này chỉ là hình ảnh lu mờ mô phỏng thánh điện trên trời. Quả vậy, khi ông Mô-sê sắp dựng lều trại, thì ông được Thiên Chúa phán dạy rằng: Hãy nhìn xem và làm tất cả theo mẫu đã chỉ cho ngươi trên núi.

Đức Ki-tô, trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn

6 Nhưng hiện nay, Đức Giê-su được một tác vụ cao trọng hơn, bởi vì Người là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn; giao ước này căn cứ vào những lời hứa tốt đẹp hơn. 7 Thật vậy, giả như giao ước thứ nhất đã hoàn hảo rồi, thì chẳng cần phải tìm giao ước thứ hai để thay thế. 8 Quả thật, Thiên Chúa khiển trách Dân rằng: Đức Chúa phán: Này sắp đến những ngày Ta hoàn thành một Giao Ước Mới với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa. 9 Giao ước đó sẽ không như giao ước Ta đã thiết lập với cha ông của chúng, trong ngày Ta cầm tay dẫn chúng ra khỏi Ai-cập. Bởi vì chúng đã không trung thành với giao ước của Ta, nên Ta cũng đã bỏ mặc chúng, Đức Chúa phán: 10 Đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó, Đức Chúa phán: Ta sẽ ghi vào lòng trí chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của Ta; Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là Dân của Ta. 11 Không ai còn phải dạy đồng bào mình, không ai còn phải dạy anh em mình rằng: ”Hãy học cho biết Đức Chúa", vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta. 12 Ta sẽ dung thứ những điều gian ác chúng làm, sẽ không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa.

13 Khi Thiên Chúa nói đến Giao Ước Mới, Người làm cho giao ước thứ nhất hoá ra giao ước cũ; và cái gì cũ kỹ, lỗi thời, thì sắp tan biến đi.

Chương 9

Đức Ki-tô tiến vào thánh điện trên trời

1 Vậy, giao ước thứ nhất đã có những quy luật phụng tự và có thánh điện dưới đất. 2 Quả thật, một cái lều, cái lều thứ nhất, đã được dựng lên; lều này được gọi là Nơi Thánh, có cây đèn bảy ngọn, có bàn và bánh dâng tiến. 3 Đằng sau bức màn thứ hai, có một cái lều gọi là Nơi Cực Thánh. 4 Trong đó, có hương án bằng vàng và Hòm Bia Giao Ước hoàn toàn bọc vàng; Hòm Bia này chứa bình vàng đựng man-na, cây gậy trổ hoa của ông A-ha-ron và các tấm bia Giao Ước. 5 Trên Hòm Bia, có hai tượng kê-ru-bim rạng ngời vinh quang Thiên Chúa, dang cánh che phủ nắp xá tội. Bây giờ không phải là lúc nói tỉ mỉ về các điều đó.

6 Mọi sự xếp đặt như thế rồi, các tư tế thường xuyên vào lều thứ nhất để cử hành việc phụng tự. 7 Còn lều thứ hai, thì chỉ một mình vị thượng tế mới được vào mỗi năm một lần, đem theo máu để dâng làm của lễ đền tội cho chính mình và cho dân. 8 Như thế, Thánh Thần tỏ cho biết là lối vào Nơi Cực Thánh chưa được mở, bao lâu lều thứ nhất vẫn còn đó. 9 Điều ấy là hình ảnh ám chỉ thời hiện tại, cho thấy những lễ vật và hy lễ dâng tiến Thiên Chúa không thể làm cho lương tâm người cử hành việc phụng tự trở nên hoàn thiện. 10 Những cái đó chỉ liên quan đến của ăn thức uống cùng các loại nghi thức tẩy rửa, và là những quy luật chỉ có hiệu lực bên ngoài, buộc phải giữ cho đến thời Thiên Chúa chấn chỉnh mọi sự.

11 Nhưng Đức Ki-tô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo này. 12 Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta. 13 Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch, 14 thì máu của Đức Ki-tô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Ki-tô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.

Đức Ki-tô lấy máu mình lập Giao Ước Mới

15 Bởi vậy, Người là trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa. 16 Ở đâu có chúc thư, thì cần phải chứng minh rằng người làm chúc thư đã chết. 17 Thật vậy, chúc thư chỉ có giá trị khi người làm chúc thư đã chết, bởi vì chúc thư không bao giờ có hiệu lực bao lâu người làm chúc thư còn sống. 18 Do đó, nếu không có máu, thì đã không khai mạc giao ước thứ nhất. 19 Quả thế, sau khi ông Mô-sê công bố cho toàn dân mọi điều răn như đã ghi chép trong Sách Luật, thì ông lấy máu các con bê, con dê hoà lẫn với nước, rồi dùng len đỏ thắm và cành hương thảo mà rảy trên chính cuốn Sách Luật cũng như trên toàn dân và 20 nói: Đây là máu giao ước, Thiên Chúa đã truyền cho anh em tuân giữ. 21 Rồi, cũng theo cách thức đó, ông rảy máu vào lều thánh và mọi đồ phụng tự. 22 Chiếu theo Lề Luật, hầu hết mọi sự đều được thanh tẩy bằng máu. Không có máu đổ ra, thì không có ơn tha thứ. 23 Vậy, nếu các hình ảnh mô phỏng những thực tại trên trời còn cần phải được thanh tẩy như thế, thì chính những thực tại trên trời đó lại càng phải được thanh tẩy bằng những hy lễ cao trọng hơn biết mấy. 24 Quả thế, Đức Ki-tô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Người đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta. 25 Người vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh. 26 Chẳng vậy, Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình. 27 Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét. 28 Cũng vậy, Đức Ki-tô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người.

Chương 10

TÓM LƯỢC: HY LỄ CỦA ĐỨC KI-TÔ CAO TRỌNG HƠN HY LỄ THEO LuẬT MÔ-SÊ

Hy lễ theo luật cũ thì vô hiệu

1 Lề Luật chỉ phác hoạ lờ mờ những phúc lộc của thế giới tương lai, chứ không phản ánh chính xác những thực tại đó. Cho nên, Lề Luật không bao giờ có thể làm cho những người tiến lại gần Thiên Chúa được nên hoàn thiện, nhờ những ngần ấy thứ hy lễ người ta cứ dâng mãi năm này qua năm khác. 2 Chẳng vậy, người ta đã thôi không còn dâng hy lễ, vì giả như những kẻ làm việc thờ phượng đã được thanh tẩy dứt khoát rồi, thì họ đâu còn ý thức mình có tội nữa? 3 Trái lại, năm này qua năm khác, chính những hy lễ đó nhắc cho người ta nhớ mình có tội. 4 Thật thế, máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. 5 Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. 6 Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. 7 Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.

8 Trước hết, Đức Ki-tô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. 9 Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. 10 Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ.

Hy lễ của Đức Ki-tô thì hữu hiệu

11 Vị tư tế nào cũng phải đứng trong Đền Thờ lo việc phụng tự mỗi ngày và dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; mà những lễ tế đó chẳng bao giờ xoá bỏ được tội lỗi. 12 Còn Đức Ki-tô, sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho nhân loại, Người đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời. 13 Và từ khi đó, Người chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân. 14 Quả thật, Người chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hoá được nên hoàn hảo. 15 Điều đó cả Thánh Thần cũng làm chứng cho chúng ta thấy. Quả thật, sau khi phán: 16 Đây là giao ước Ta sẽ lập với chúng sau những ngày đó, thì Đức Chúa phán: Ta sẽ ghi vào tâm khảm chúng, sẽ khắc vào lòng trí chúng lề luật của Ta. 17 Ta sẽ không còn nhớ đến lỗi lầm và việc gian ác của chúng nữa. 18 Mà nơi nào đã có ơn tha tội, thì đâu cần lễ đền tội nữa.

IV. ĐỨC TIN KIÊN TRÌ

Chuyển tiếp

19 Vậy, thưa anh em, nhờ máu Đức Giê-su đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung thánh. 20 Người đã mở cho chúng ta một con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Người. 21 Chúng ta lại có một vị tư tế cao trọng đứng đầu nhà Thiên Chúa. 22 Vì thế, chúng ta hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác thì đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền. 23 Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín. 24 Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người này thúc đẩy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt. 25 Chúng ta đừng bỏ các buổi hội họp, như vài người quen làm; trái lại, phải khuyến khích nhau, nhất là khi anh em thấy Ngày Chúa đến đã gần.

Nguy cơ chối đạo

26 Thật vậy, nếu chúng ta cố tình phạm tội sau khi đã học biết sự thật, thì không còn hy lễ nào đền tội được nữa, 27 mà chỉ còn phải sợ hãi đợi chờ cuộc phán xét và ngọn lửa nóng bừng thiêu huỷ các đối tượng của Thiên Chúa. 28 Ai khinh thường luật Mô-sê, theo lời chứng của hai hay ba người, thì sẽ bị xử tử thẳng tay. 29 Phương chi kẻ đã chà đạp Con Thiên Chúa, đã xúc phạm đến Máu Giao Ước đã thánh hiến mình và nhục mạ Thần Khí ban ân sủng, thì anh em thử nghĩ xem, kẻ ấy đáng chịu hình phạt ghê gớm hơn biết mấy! 30 Vì chúng ta biết Đấng đã nói: Chính Ta sẽ báo oán, chính Ta sẽ đáp trả. Lại có lời rằng: Chúa sẽ xét xử Dân Người. 31 Thật là khủng khiếp, khi phải rơi vào tay Thiên Chúa hằng sống!

Lý do để kiên trì

32 Xin anh em nhớ lại những ngày đầu: lúc vừa được ơn chiếu sáng, anh em đã phải đối phó với bao nỗi đau khổ dồn dập. 33 Khi thì anh em bị sỉ nhục và hành hạ trước mặt mọi người, khi thì phải liên đới với những người cùng cảnh ngộ. 34 Quả thật, anh em đã thông phần đau khổ với những người bị tù tội, và đã vui mừng để cho người ta tước đoạt của cải, bởi biết rằng mình có những của vừa quý giá hơn lại vừa bền vững. 35 Vậy, anh em đừng đánh mất lòng tin tưởng mạnh dạn của anh em; lòng tin tưởng đó sẽ mang lại một phần thưởng lớn lao. 36 Anh em cần phải kiên nhẫn, để sau khi thi hành ý Thiên Chúa, anh em được hưởng điều Người đã hứa. 37 Vì chỉ còn ít lâu nữa, một ít thôi, Đấng phải đến sẽ đến, Người sẽ không trì hoãn. 38 Người công chính của Ta nhờ lòng tin sẽ được sống; nhưng nếu người ấy bỏ cuộc, thì Ta không hài lòng về người ấy.

39 Phần chúng ta, chúng ta không phải là những người bỏ cuộc để phải hư vong, nhưng là những người có lòng tin để bảo toàn sự sống.

Chương 11

Đức tin gương mẫu của các tổ phụ

1 Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. 2 Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám.

3 Nhờ đức tin, chúng ta hiểu rằng vũ trụ đã được hình thành bởi lời của Thiên Chúa; vì thế, những cái hữu hình là do những cái vô hình mà có. 4 Nhờ đức tin, ông A-ben đã dâng lên Thiên Chúa một hy lễ cao quý hơn hy lễ của ông Ca-in: nhờ tin như vậy, ông A-ben đã được chứng nhận là người công chính, bởi vì Thiên Chúa đã chấp nhận những lễ phẩm ông dâng. Và cũng nhờ tin như thế, mà tuy đã chết rồi, ông vẫn còn lên tiếng.

5 Nhờ đức tin, ông Kha-nốc được đem đi nơi khác để khỏi chết, và người ta không tìm thấy ông nữa, bởi vì Thiên Chúa đã đem ông đi. Quả thật, Kinh Thánh chứng nhận rằng: trước khi được đem đi, ông đã làm đẹp lòng Thiên Chúa. 6 Mà không có đức tin, thì không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa, vì ai đến gần Thiên Chúa, thì phải tin là có Thiên Chúa và tin Người là Đấng ban phần thưởng cho những ai tìm kiếm Người.

7 Nhờ đức tin, ông Nô-ê được Thiên Chúa báo cho biết những gì người ta chưa thấy; vì có lòng kính sợ Thiên Chúa, ông đã đóng một chiếc tàu để cứu gia đình ông. Tin như thế là ông đã lên án thế gian, và được phần gia nghiệp là sự công chính nhờ đức tin.

8 Nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. 9 Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều cũng như ông I-xa-ác và ông Gia-cóp là những người đồng thừa kế cũng một lời hứa, 10 vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng. 11 Nhờ đức tin, cả bà Xa-ra vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín. 12 Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được. 13 Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất. 14 Những người nói như vậy cho thấy là họ đang đi tìm một quê hương. 15 Và nếu quả thật họ còn nhớ tới quê hương mình đã bỏ ra đi, thì họ vẫn có cơ hội trở về. 16 Nhưng thực ra các ngài mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi vậy, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Người đã chuẩn bị một thành cho các ngài.

17 Nhờ đức tin, khi bị thử thách, ông Áp-ra-ham đã hiến tế I-xa-ác; dù đã nhận được lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một. 18 Về người con này, Thiên Chúa đã phán bảo: Chính do I-xa-ác mà sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. 19 Quả thật, ông Áp-ra-ham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy. Rốt cuộc, ông đã nhận lại người con ấy như là một biểu tượng.

20 Nhờ đức tin, khi nhìn về tương lai, ông I-xa-ác đã chúc phúc cho Gia-cóp và Ê-xau. 21 Nhờ đức tin, ông Gia-cóp, khi sắp chết, đã chúc phúc cho mỗi người con ông Giu-se; ông dựa vào đầu gậy, cúi mình xuống sụp lạy. 22 Nhờ đức tin, ông Giu-se, khi sắp lìa đời, đã nhắc lại cuộc xuất hành của con cái Ít-ra-en và ra chỉ thị liên quan đến hài cốt của ông.

23 Nhờ đức tin, lúc chào đời, ông Mô-sê đã được cha mẹ giấu đi ba tháng, bởi vì ông bà thấy đứa trẻ khôi ngô, và không sợ sắc chỉ nhà vua. 24 Nhờ đức tin, ông Mô-sê, khi lớn lên đã từ chối không chịu cho người ta gọi là con của công chúa Pha-ra-ô; 25 ông thà cùng chịu ngược đãi với Dân Thiên Chúa còn hơn là được hưởng cái sung sướng chóng qua do tội lỗi mang lại; 26 ông coi sự ô nhục của người được xức dầu là của cải quý báu hơn các kho tàng của người Ai-cập, vì mắt ông vẫn đăm đăm nhìn phần thưởng mai sau. 27 Nhờ đức tin, ông bỏ Ai-cập mà không sợ cơn thịnh nộ của nhà vua; ông vững vàng không nao núng, như thể xem thấy Đấng vô hình. 28 Nhờ đức tin, ông đã cử hành lễ Vượt Qua và rảy máu để Thần tiêu diệt khỏi đụng đến các con đầu lòng. 29 Nhờ đức tin, người Do-thái đã băng qua Biển Đỏ như đi trên đất khô, còn người Ai-cập lại bị chết chìm trong khi tìm cách rượt theo.

30 Nhờ đức tin, tường thành Giê-ri-khô đã sụp đổ, sau khi dân Ít-ra-en đi vòng quanh trong bảy ngày. 31 Nhờ đức tin, cô kỹ nữ Ra-kháp đã không phải chết cùng với quân phản nghịch, vì cô đã hoà nhã tiếp đón những người do thám.

32 Tôi còn phải nói gì nữa đây? Tôi sợ không có đủ thời giờ để kể truyện các ông Ghít-ôn, Ba-rắc, Sam-sôn, Gíp-tác, Đa-vít, Sa-mu-en và các ngôn sứ. 33 Nhờ đức tin, các vị này đã chinh phục các nước, thực hành công lý, đạt được những gì Thiên Chúa đã hứa; các ngài đã khoá miệng sư tử, 34 dập tắt lửa hồng mãnh liệt, thoát khỏi lưỡi gươm. Các ngài đã lướt thắng bệnh tật mà trở nên mạnh mẽ, đã tỏ ra dũng cảm tại chiến trường, và đẩy lui được quân ngoại xâm. 35 Có những phụ nữ đã thấy thân phận mình chết nay sống lại. Có những người bị tra tấn mà không muốn được giải thoát, để được hưởng một sự sống lại tốt đẹp hơn. 36 Có những người phải chịu nhạo cười và roi vọt, hơn nữa còn bị xiềng xích và bỏ tù; 37 họ bị ném đá, bị cưa đôi, bị chết vì gươm; họ phải lưu lạc, mặc áo da cừu da dê, chịu thiếu thốn, bị áp bức và hành hạ. 38 Thế gian chẳng xứng với họ! Họ đi lang thang trong hoang địa, trên núi đồi, trong hang hốc và hầm hố. 39 Nhờ đức tin, tất cả các nhân vật đó đã được chứng giám, thế mà họ không đạt được những điều Thiên Chúa đã hứa. 40 Quả thật, Thiên Chúa đã trù liệu cho chúng ta một phần phúc tốt hơn, nên không muốn cho họ đạt tới hạnh phúc trọn vẹn mà không có chúng ta.

Chương 12

Gương sáng của Đức Ki-tô

1 Như thế, phần chúng ta, được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh, chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, 2 mắt hướng về Đức Giê-su là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. 3 Anh em hãy tưởng nhớ Đấng đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình như thế, để anh em khỏi sờn lòng nản chí. 4 Quả thật, trong cuộc chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa chống trả đến mức đổ máu đâu.

Thiên Chúa lấy tình cha mà giáo dục

5 Anh em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. 6 Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. 7 Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy? 8 Nếu anh em không được sửa dạy như tất cả mọi người, thì khi đó anh em là con ngoại hôn, chứ không phải là con chính thức. 9 Vả lại, chúng ta có cha trần thế sửa dạy mà chúng ta vẫn tôn kính, thì chúng ta lại càng phải tùng phục Cha trên trời để được sống. 10 Cha trần thế sửa dạy chúng ta trong một thời gian ngắn, và theo sở thích của mình; còn Thiên Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta, để chúng ta được thông phần vào sự thánh thiện của Người. 11 Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính. 12 Bởi vậy, hãy làm cho những bàn tay bủn rủn, những đầu gối rã rời, nên mạnh mẽ. 13 Hãy sửa đường cho thẳng mà đi, để người què khỏi trật bước và hơn nữa, còn được chữa lành.

Trừng phạt tội bất trung

14 Anh em phải cố ăn ở hoà thuận với mọi người, phải gắng trở nên thánh thiện; vì không có sự thánh thiện, thì không ai sẽ được thấy Chúa. 15 Anh em phải coi chừng, kẻo có ai lừng khừng mà mất ân sủng của Thiên Chúa, kẻo có ai trở nên rễ đắng nảy mầm, gây xáo trộn và do đó làm hư hỏng nhiều người. 16 Đừng có ai gian dâm hoặc phàm tục như Ê-xau, kẻ đã vì một món ăn mà bán quyền trưởng nam. 17 Anh em quá biết: sau này, cho dù muốn được thừa hưởng lời chúc phúc, anh ta cũng không thể làm thay đổi tình thế, mặc dù đã khóc lóc van xin.

Hai giao ước

18 Anh em đã chẳng tới một quả núi sờ thấy được, có lửa đang cháy, mây mù, bóng tối và giông tố, 19 có tiếng kèn vang dậy, và tiếng nói thét gầm, khiến những kẻ nghe phải van xin đừng để lời ấy thốt ra với họ nữa, 20 vì họ không chịu nổi mệnh lệnh sau đây: Ngay cả thú vật đụng đến núi, cũng phải bị ném đá. 21 Cảnh tượng hãi hùng đến mức ông Mô-sê phải nói: Tôi kinh hoàng và run rẩy! 22 Nhưng anh em đã tới núi Xi-on, tới thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giê-ru-sa-lem trên trời, với con số muôn vàn thiên sứ. Anh em đã tới dự hội vui, 23 dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời. Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện. 24 Anh em đã tới cùng vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giê-su và được máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu A-ben. 25 Anh em phải coi chừng, chớ từ chối không nghe Đấng phán dạy. Quả thật, những ai từ chối không nghe Đấng tuyên sấm ở dưới đất đã không thoát khỏi hình phạt; huống hồ là chúng ta, làm sao chúng ta thoát được, nếu chúng ta quay lưng lại không chịu nghe Đấng tuyên sấm từ trời! 26 Xưa tiếng Người phán đã làm cho đất rung chuyển, thì nay Người lại đưa ra lời hứa sau đây: Một lần nữa, Ta sẽ lay chuyển không những trái đất, mà cả các tầng trời! 27 Những tiếng một lần nữa cho thấy rằng những sự vật bị rung chuyển sẽ phải thay đổi, bởi vì đã được làm ra, để những gì không bị rung chuyển được tồn tại. 28 Cho nên, bởi vì chúng ta được lãnh nhận một vương quốc vững bền không lay chuyển, chúng ta phải biết ơn Thiên Chúa. Với lòng biết ơn đó, chúng ta hãy kính sợ mà phụng thờ Thiên Chúa cho đẹp lòng Người. 29 Quả thật, Thiên Chúa chúng ta là một ngọn lửa thiêu.

Chương 13

DẶN BẢO THÊM

Lời nhắn nhủ cuối cùng

1 Anh em hãy giữ mãi tình huynh đệ. 2 Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết. 3 Anh em hãy nhớ đến các người bị xiềng xích, chẳng khác gì anh em cũng bị xiềng xích với họ; anh em hãy nhớ đến những người bị hành hạ, chẳng khác gì mình với họ chỉ là một thân thể. 4 Ai nấy phải tôn trọng hôn nhân, chớ làm cho loan phòng ra ô uế, vì Thiên Chúa sẽ xét xử các kẻ gian dâm và ngoại tình. 5 Trong cách ăn nết ở, anh em đừng có ham tiền, hãy coi những gì mình đang có là đủ, vì Thiên Chúa đã phán: Ta sẽ không bỏ rơi ngươi, Ta sẽ không ruồng bỏ ngươi!, 6 đến nỗi chúng ta có thể tin tưởng mà nói: Có Chúa ở cùng tôi mà bênh đỡ, tôi chẳng sợ gì. Hỏi người đời làm chi tôi được?

Về lòng trung thành

7 Anh em hãy nhớ đến những người lãnh đạo đã giảng lời Chúa cho anh em. Hãy nhìn xem cuộc đời họ kết thúc thế nào mà noi theo lòng tin của họ. 8 Đức Giê-su Ki-tô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời. 9 Đừng để cho đủ thứ học thuyết xa lạ mê hoặc anh em. Điều tốt là củng cố tâm hồn bằng ân sủng, chứ không phải bằng đồ ăn thức uống, là những thứ chẳng sinh ích gì cho những người giữ luật Mô-sê về chuyện ăn uống. 10 Chúng ta có một bàn thờ; những gì dâng trên đó, các người lo việc phụng tự trong Lều không có quyền ăn. 11 Vị thượng tế mang máu thú vật vào cung thánh để dâng làm của lễ đền tội; nhưng thây các thú vật đó đều bị thiêu ở ngoài trại. 12 Vì thế, Đức Giê-su đã chịu khổ hình ngoài cửa thành, lấy máu mình mà thánh hoá toàn dân. 13 Vậy ta hãy ra khỏi trại mà đến với Người, cam lòng gánh vác nỗi khổ nhục Người đã chịu. 14 Vì trên đời này, chúng ta không có thành trì bền vững, nhưng đang tìm kiếm thành trì tương lai. 15 Vậy nhờ Người, chúng ta hãy luôn luôn dùng lời ngợi khen làm lễ tế dâng lên Thiên Chúa, tức là dùng miệng lưỡi mà ca tụng Danh Thánh. 16 Anh em chớ quên làm việc từ thiện, giúp đỡ lẫn nhau, vì Thiên Chúa ưa thích những hy lễ như thế.

Vâng phục các vị lãnh đạo tinh thần

17 Anh em hãy vâng lời những người lãnh đạo anh em và hãy phục tùng họ, vì họ chăm sóc linh hồn anh em như những người sẽ phải trả lẽ với Thiên Chúa. Như thế, họ sẽ vui vẻ thi hành phận sự của mình mà không than thở, bởi vì điều đó chẳng ích gì cho anh em. 18 Xin anh em cầu nguyện cho chúng tôi. Chúng tôi tin rằng chúng tôi có lương tâm ngay lành, muốn ăn ở tốt trong mọi hoàn cảnh. 19 Tôi tha thiết khuyên anh em làm như thế, để tôi được sớm trở về với anh em.

Tin tức. Lời chào cuối thư

20 Thiên Chúa là nguồn mạch bình an đã đưa Đức Giê-su, Chúa chúng ta ra khỏi cái chết. Đức Giê-su là vị Mục Tử cao cả của đoàn chiên, là Đấng đã đổ máu mình ra để thiết lập giao ước vĩnh cửu. 21 Xin Thiên Chúa ban cho anh em mọi ơn lành để có sức thi hành thánh ý Người. Xin Người thực hiện nơi anh em điều đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. Kính dâng Đức Ki-tô vinh quang đến muôn thuở muôn đời. A-men.

22 Thưa anh em, tôi xin anh em chịu khó nghe lời khuyên này. Vả lại, tôi chỉ viết cho anh em vắn tắt thôi. 23 Xin báo cho anh em biết: Ti-mô-thê, người anh em của chúng ta, đã được thả rồi. Nếu anh ấy đến đây sớm, thì tôi sẽ cùng với anh đến gặp anh em. 24 Xin gửi lời chào các vị lãnh đạo anh em và mọi người trong dân thánh. Những người từ I-ta-li-a gửi lời chào anh em. 25 Chúc tất cả anh em được đầy tràn ân sủng của Thiên Chúa!

Gia-cô-bê

Chương 1

Lời chào thăm

1 Tôi là Gia-cô-bê, tôi tớ của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô, kính gửi mười hai chi tộc đang sống tản mác khắp nơi. Chúc anh em được an vui mạnh khoẻ!

Ích lợi của thử thách

2 Thưa anh em, anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. 3 Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. 4 Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì.

Cầu xin với lòng tin

5 Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách. 6 Nhưng người ấy phải cầu xin với lòng tin không chút do dự, vì kẻ do dự thì giống như sóng biển bị gió đẩy lên vật xuống. 7 Người ấy đừng tưởng mình sẽ nhận được cái gì của Chúa: 8 họ là kẻ hai lòng, hay thay đổi trong mọi việc họ làm.

Số phận người giàu

9 Người anh em phận hèn hãy tự hào khi được Chúa nâng lên; 10 còn người giàu có hãy tự hào khi bị Chúa hạ xuống, vì họ sẽ qua đi như hoa cỏ. 11 Quả thế, mặt trời mọc lên toả ra sức nóng làm cho cỏ khô, khiến hoa rụng xuống, vẻ đẹp tiêu tan. Người giàu có cũng sẽ héo tàn như vậy trong các việc họ làm.

Thử thách

12 Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người.

13 Khi bị cám dỗ, đừng ai nói: ”Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ", vì Thiên Chúa không thể bị cám dỗ làm điều xấu, và chính Người cũng không cám dỗ ai. 14 Nhưng mỗi người có bị cám dỗ, là do dục vọng của mình lôi cuốn và dùng mồi mà bắt. 15 Rồi một khi dục vọng đã cưu mang thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi, thì sinh ra cái chết.

Lãnh nhận và thực hành Lời Chúa

16 Anh em thân mến của tôi, anh em đừng có lầm lẫn. 17 Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú; nơi Người không hề có sự thay đổi, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng. 18 Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người.

19 Anh em thân mến của tôi, anh em nên biết rằng: mỗi người phải mau nghe, đừng vội nói, và khoan giận, 20 vì khi nóng giận, con người không thực thi đường lối công chính của Thiên Chúa. 21 Vì vậy, anh em hãy giũ sạch mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan tràn; hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em.

22 Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. 23 Thật vậy, ai lắng nghe Lời Chúa mà không thực hành, thì giống như người soi gương thấy khuôn mặt tự nhiên của mình. 24 Người ấy soi gương rồi đi, và quên ngay không nhớ mặt mình thế nào. 25 Ai thiết tha và trung thành tuân giữ luật trọn hảo-luật mang lại tự do-, ai thi hành luật Chúa, chứ không nghe qua rồi bỏ, thì sẽ tìm được hạnh phúc trong mọi việc mình làm.

26 Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão. 27 Có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian.

Chương 2

Phải kính trọng người nghèo

1 Thưa anh em, anh em đã tin vào Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang, thì đừng đối xử thiên tư. 2 Quả vậy, giả như có một người bước vào nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, 3 mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: ”Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này", còn với người nghèo, anh em lại nói: ”Đứng đó!” hoặc: ”Ngồi dưới bệ chân tôi đây!”, 4 thì anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy tà tâm đó sao?

5 Anh em thân mến của tôi, anh em hãy nghe đây: nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao? 6 Thế mà anh em, anh em lại khinh dể người nghèo! Chẳng phải những người giàu áp bức anh em đó sao? Chẳng phải họ lôi anh em ra toà đó sao? 7 Chẳng phải họ nói xúc phạm đến Danh Thánh cao đẹp mà anh em được mang đó sao? 8 Đã hẳn, anh em làm điều tốt, nếu anh em chu toàn luật Kinh Thánh đưa lên hàng đầu: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. 9 Nhưng nếu anh em đối xử thiên tư, thì anh em phạm một tội và bị Lề Luật kết án là kẻ vi phạm.

10 Quả thế, ai tuân giữ tất cả Lề Luật, mà chỉ sa ngã về một điểm thôi, thì cũng thành người có tội về hết mọi điểm. 11 Thật vậy, Đấng đã phán: Ngươi không được ngoại tình, cũng đã phán: Ngươi không được giết người. Vậy nếu bạn không ngoại tình, nhưng lại giết người, thì bạn cũng thành kẻ vi phạm Lề Luật. 12 Anh em hãy nói năng và hành động như những người sẽ bị xét xử theo luật tự do. 13 Vì Thiên Chúa không thương xót khi xét xử kẻ không biết thương xót. Còn ai thương xót, thì chẳng quan tâm đến việc xét xử.

Đức tin và hành động

14 Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? 15 Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, 16 mà có ai trong anh em lại nói với họ: ”Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?

17 Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. 18 Đàng khác, có người sẽ bảo: ”Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin. 19 Bạn tin rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất. Bạn làm phải. Cả ma quỷ cũng tin như thế, và chúng run sợ.” 20 Hỡi người đầu óc rỗng tuếch, bạn có muốn biết rằng đức tin không có hành động là vô dụng không? 21 Ông Áp-ra-ham tổ phụ chúng ta, đã chẳng được nên công chính nhờ hành động, khi ông hiến dâng con mình là I-xa-ác trên bàn thờ đó sao? 22 Bạn thấy đó: đức tin hợp tác với hành động của ông, và nhờ hành động mà đức tin nên hoàn hảo. 23 Như thế ứng nghiệm lời Kinh Thánh đã chép: Ông Áp-ra-ham tin Thiên Chúa, và vì thế Thiên Chúa kể ông là người công chính và ông được gọi là bạn của Thiên Chúa.

24 Anh em thấy đó, nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi. 25 Ra-kháp, cô gái điếm cũng vậy: há chẳng phải nhờ hành động mà đã được nên công chính, vì đã đón tiếp các sứ giả và đưa họ đi lối khác sao? 26 Thật thế, một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.

Chương 3

Kiềm chế miệng lưỡi

1 Thưa anh em, đừng có nhiều người trong anh em ham làm thầy thiên hạ, vì anh em biết rằng chúng ta sẽ bị xét xử nghiêm khắc hơn. 2 Thật vậy, tất cả chúng ta thường hay vấp ngã.

3 Nếu ta tra hàm thiếc vào miệng ngựa để bắt chúng vâng lời, thì ta điều khiển được toàn thân chúng. 4 Anh em cũng hãy nhìn xem tàu bè: dù nó có to lớn, và có bị cuồng phong đẩy mạnh thế nào đi nữa, thì cũng chỉ cần một bánh lái rất nhỏ để điều khiển theo ý của người lái. 5 Cái lưỡi cũng vậy: nó là một bộ phận nhỏ bé của thân thể, mà lại huênh hoang làm được những chuyện to lớn. Cứ xem tia lửa nhỏ bé dường nào, mà làm bốc cháy đám rừng to lớn biết bao! 6 Cái lưỡi cũng là một ngọn lửa, là cả một thế giới của sự ác. Cái lưỡi có một vị trí giữa các bộ phận của thân thể chúng ta, nó làm cho toàn thân bị ô nhiễm, đốt cháy bánh xe cuộc đời, vì chính nó bị lửa hoả ngục đốt cháy. 7 Thật thế, mọi loài thú vật và chim chóc, loài bò sát và cá biển, thì loài người đều có thể chế ngự và đã chế ngự được. 8 Nhưng cái lưỡi thì không ai chế ngự được: nó là một sự dữ không bao giờ ở yên, vì nó chứa đầy nọc độc giết người. 9 Ta dùng lưỡi mà chúc tụng Chúa là Cha chúng ta, ta cũng dùng lưỡi mà nguyền rủa những con người đã được làm ra theo hình ảnh Thiên Chúa. 10 Từ cùng một cái miệng, phát xuất lời chúc tụng và lời nguyền rủa. Thưa anh em, như vậy thì không được. 11 Chẳng lẽ một mạch nước lại có thể phun ra, từ một nguồn, cả nước ngọt lẫn nước chua sao? 12 Thưa anh em, làm sao cây vả lại có thể sinh ra trái ô-liu, hoặc cây nho sinh trái vả? Nước mặn cũng không thể sinh ra nước ngọt.

Khôn ngoan thật và khôn ngoan giả

13 Trong anh em, ai là người khôn ngoan hiểu biết? Người ấy hãy dùng lối sống tốt đẹp mà chứng tỏ rằng: những hành động của họ phát xuất từ lòng hiền hậu và đức khôn ngoan. 14 Nhưng nếu trong lòng anh em có sự ghen tương, chua chát và tranh chấp, thì anh em đừng có tự cao tự đại mà nói dối, trái với sự thật. 15 Sự khôn ngoan đó không phải từ trời cao ban xuống, nhưng là sự khôn ngoan của thế gian, của con người tự nhiên, của ma quỷ. 16 Thật vậy, ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa. 17 Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hoà, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình. 18 Người xây dựng hoà bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, là cuộc đời công chính.

Chương 4

Tránh những mối bất hoà

1 Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? 2 Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau. Anh em không có, là vì anh em không xin; 3 anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc.

4 Hỡi những kẻ ngoại tình, các người không biết rằng: yêu thế gian là ghét Thiên Chúa sao? Vậy ai muốn là bạn của thế gian thì tự coi mình là thù địch của Thiên Chúa. 5 Hay các người nghĩ rằng lời Kinh Thánh sau đây là vô nghĩa: Thần Khí mà Thiên Chúa đã đặt trong chúng ta, ước muốn đến phát ghen lên? 6 Nhưng ân sủng Người ban còn mạnh hơn; vì thế, có lời Kinh Thánh nói: Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường. 7 Anh em hãy phục tùng Thiên Chúa. Hãy chống lại ma quỷ; chúng sẽ chạy xa anh em. 8 Hãy đến gần Thiên Chúa, Người sẽ đến gần anh em. Hỡi tội nhân, hãy rửa tay cho sạch; hỡi kẻ hai lòng, hãy tẩy luyện tâm can. 9 Hãy cảm cho thấu nỗi khốn cùng của anh em, hãy khóc lóc than van. Chớ gì tiếng cười của anh em biến thành tiếng khóc, niềm vui của anh em đổi ra nỗi buồn. 10 Anh em hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa và Người sẽ cất nhắc anh em lên.

11 Thưa anh em, anh em đừng nói xấu nhau. Ai nói xấu hoặc xét đoán anh em mình là nói xấu và xét đoán Lề Luật. Nếu anh xét đoán Lề Luật, thì anh không còn là kẻ vâng giữ, mà là kẻ xét đoán Lề Luật. 12 Chỉ có một Đấng ra Lề Luật và xét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn anh là ai mà dám xét đoán người thân cận?

Cảnh cáo người giàu

13 Bây giờ, hãy nghe tôi, những kẻ nói: ”Hôm nay hoặc ngày mai, chúng ta sẽ đi đến thành nọ thành kia, sẽ ở lại đó một năm và buôn bán kiếm lời". 14 Trong khi các người không biết cuộc đời mình ngày mai sẽ ra sao. Thật vậy, các người chỉ là hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi. 15 Thay vì nói: ”Nếu Chúa muốn, chúng ta sẽ sống và làm điều nọ điều kia", 16 thì các người lại tự phụ vì những chuyện khoác lác của mình. Mọi thứ tự phụ như thế đều xấu. 17 Vậy kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu làm thì mắc tội.

Chương 5

1 Giờ đây, hỡi những kẻ giàu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai hoạ sắp đổ xuống trên đầu các người. 2 Tài sản của các người đã hư nát, quần áo của các người đã bị mối ăn. 3 Vàng bạc của các người đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người; nó sẽ như lửa thiêu huỷ xác thịt các người. Các người đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này. 4 Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các người. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh. 5 Trên cõi đất này, các người đã sống xa hoa, đã buông theo khoái lạc, lòng các người đã được no đầy thoả mãn trong ngày sát hại. 6 Các người đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các người.

Ngày Chúa quang lâm

7 Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. 8 Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới. 9 Thưa anh em, anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. 10 Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa. 11 Kìa xem: chúng ta tuyên bố: phúc thay những kẻ đã có lòng kiên trì! Anh em đã nghe nói đến lòng kiên trì của ông Gióp và đã thấy mục đích Chúa nhắm, vì Chúa là Đấng từ bi nhân hậu.

Những lời khuyên cuối cùng

12 Nhưng, thưa anh em, trước hết, đừng có thề, dù là lấy trời, lấy đất, hay lấy cái gì khác mà thề. Nhưng hễ”có" thì phải nói”có",”không" thì phải nói”không", như thế, anh em sẽ không bị xét xử.

13 Ai trong anh em đau khổ ư? Người ấy hãy cầu nguyện. Ai vui vẻ chăng? Người ấy hãy hát thánh ca. 14 Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. 15 Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha. 16 Anh em hãy thú tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để được cứu thoát. Vì lời cầu xin tha thiết của người công chính rất có hiệu lực. 17 Ông Ê-li-a xưa cũng là người cùng chung một thân phận như chúng ta; ông đã tha thiết cầu xin cho đừng có mưa, thì đã không có mưa xuống trên mặt đất suốt ba năm sáu tháng. 18 Rồi ông lại cầu xin, thì trời liền mưa xuống và đất đã trổ sinh hoa trái.

19 Thưa anh em, nếu có người nào trong anh em lạc xa chân lý và có ai đưa người ấy trở về, 20 thì anh em hãy biết rằng: kẻ nào làm cho một tội nhân bỏ đường lầm lạc mà trở về, thì cứu được linh hồn ấy khỏi chết và che lấp được muôn vàn tội lỗi của mình.

Phê-rô 1

Chương 1

Lời mở đầu và lời chào

1 Tôi là Phê-rô, Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô, kính gửi những người được Thiên Chúa kén chọn, những khách lữ hành đang sống tản mác trong các xứ: Pon-tô, Ga-lát, Cáp-pa-đô-ki-a, A-xi-a và Bi-thy-ni-a, 2 những người được Thiên Chúa Cha biết trước và kén chọn, những người được Thần Khí thánh hoá để vâng phục Đức Giê-su Ki-tô và được máu Người tưới rảy. Chúc anh em được đầy tràn ân sủng và bình an.

Nhập đề. Gia tài Thiên Chúa ban

3 Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã từ cõi chết sống lại, 4 để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. Gia tài này dành ở trên trời cho anh em, 5 là những người, nhờ lòng tin, được Thiên Chúa quyền năng gìn giữ, hầu được hưởng ơn cứu độ Người đã dành sẵn, và sẽ bày tỏ ra trong thời sau hết.

Tình thương và lòng trung tín đối với Đức Ki-tô

6 Trong thời ấy, anh em sẽ được hân hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. 7 Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội,- vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự. 8 Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, 9 bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người.

Thần Khí dùng ngôn sứ mà mặc khải

10 Các ngôn sứ đã nghiên cứu tìm hiểu ơn cứu độ này, và đã tuyên sấm về ân sủng dành cho anh em. 11 Thần Khí Đức Ki-tô ở nơi các ngài, đã báo trước những đau khổ dành cho Đức Ki-tô, và vinh quang đến sau những đau khổ đó, nên các ngài đã tìm hiểu xem Thần Khí muốn cho thấy việc đó xảy ra vào thời nào, trong hoàn cảnh nào. 12 Thiên Chúa đã mặc khải cho các ngài biết là các ngài có phận sự truyền đạt thông điệp ấy, không phải cho chính mình, mà là cho anh em. Đó là thông điệp mà nay các người giảng Tin Mừng đã loan báo cho anh em, nhờ tác động của Thánh Thần là Đấng đã được cử đến từ trời. Chính các thiên thần cũng ước mong được tìm hiểu kỹ lưỡng thông điệp ấy.

Những đòi hỏi của đời sống mới. Sự thánh thiện của người tân tòng

13 Vì thế, anh em hãy chuẩn bị lòng trí, hãy tỉnh thức, hãy hoàn toàn đặt niềm trông cậy vào ân sủng sẽ được mang đến cho anh em trong ngày Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện. 14 Như những người con biết vâng phục, anh em đừng chiều theo những đam mê trước kia, lúc anh em còn mê muội. 15 Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, 16 vì có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh.

17 Thiên Chúa là Đấng không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử. Vậy nếu anh em gọi Người là Cha, thì anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ khách này. 18 Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. 19 Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Ki-tô. 20 Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này. 21 Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa.

Anh em được tái sinh nhờ Lời Chúa

22 Nhờ vâng phục sự thật, anh em đã thanh luyện tâm hồn để thực thi tình huynh đệ chân thành. Anh em hãy tha thiết yêu mến nhau với tất cả tâm hồn. 23 Vì anh em đã được tái sinh, không phải do hạt giống mục nát, mà do hạt giống bất diệt, nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi, 24 vì mọi phàm nhân đều như cỏ và tất cả vinh quang của họ cũng đều như hoa cỏ; cỏ thì khô, hoa thì rụng; 25 Lời Chúa vẫn tồn tại đến muôn thuở muôn đời. Đó chính là Lời đã được loan báo cho anh em như một Tin Mừng.

Chương 2

1 Vậy, anh em hãy từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả hình và ghen tương cùng mọi lời nói xấu gièm pha. 2 Như trẻ sơ sinh, anh em hãy khao khát sữa tinh tuyền là Lời Chúa, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ, 3 nếu anh em đã nghiệm thấy Chúa tốt lành.

Hàng tư tế mới

4 Anh em hãy tiến lại gần Đức Ki-tô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá. 5 Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. 6 Quả thật, có lời Kinh Thánh chép: Này đây Ta đặt tại Xi-on một viên đá quý được lựa chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng.

7 Vậy vinh dự cho anh em là những người tin, còn đối với những kẻ không tin, thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, 8 và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số phận của họ là như vậy.

9 Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền. 10 Xưa anh em chưa phải là một dân, nay anh em đã là Dân của Thiên Chúa; xưa anh em chưa được hưởng lòng thương xót, nay anh em đã được xót thương.

Nhiệm vụ của tín hữu Chúa Ki-tô. Cách đối xử với dân ngoại

11 Anh em thân mến, anh em là khách lạ và lữ hành, tôi khuyên anh em hãy tránh xa những đam mê xác thịt, vốn gây chiến với linh hồn. 12 Anh em hãy ăn ở ngay lành giữa dân ngoại, để ngay cả khi họ vu khống, coi anh em là người gian ác, họ cũng thấy các việc lành anh em làm mà tôn vinh Thiên Chúa trong ngày Người đến viếng thăm.

Bổn phận đối với các nhà hữu trách

13 Vì Chúa, anh em hãy tuân phục mọi thể chế do loài người đặt ra: dù là vua, người nắm quyền tối cao, 14 dù là quan, sứ giả của nhà vua để trừng phạt kẻ làm điều ác và khen thưởng người làm điều thiện, 15 vì ý muốn của Thiên Chúa là anh em hãy làm điều thiện để bịt miệng những kẻ ngu xuẩn vô tri. 16 Anh em hãy hành động như những người tự do, không phải như những người lấy sự tự do làm màn che sự gian ác, nhưng như những tôi tớ của Thiên Chúa. 17 Hãy tôn trọng mọi người, hãy yêu thương anh em, hãy kính sợ Thiên Chúa, hãy tôn trọng nhà vua.

Bổn phận đối với chủ

18 Là gia nhân, anh em hãy tuân phục chủ với tất cả lòng kính sợ, không phải chỉ những người chủ tốt lành và khoan dung, mà cả những người chủ khắc nghiệt. 19 Thật vậy, chấp nhận những nỗi khổ phải chịu một cách bất công vì lòng tôn kính Thiên Chúa, thì đó là một ân huệ. 20 Vì nếu có tội mà anh em bị đánh đập và đành chịu, thì nào có vẻ vang gì? Nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, thì đó là ơn Thiên Chúa ban. 21 Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế. Thật vậy, Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. 22 Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. 23 Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình. 24 Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành. 25 Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em.

Chương 3

Bổn phận trong đời sống hôn nhân

1 Chị em là những người vợ, chị em hãy phục tùng chồng, như vậy, dù có những người chồng không tin Lời Chúa, thì họ cũng sẽ được chinh phục nhờ cách ăn nết ở của chị em mà không cần chị em phải nói lời nào, 2 vì họ thấy cách ăn nết ở trinh tiết và cung kính của chị em. 3 Ước chi vẻ duyên dáng của chị em không hệ tại cái mã bên ngoài như kết tóc, đeo vòng vàng, hay ăn mặc xa hoa; 4 nhưng là con người nội tâm thầm kín, với đồ trang sức không bao giờ hư hỏng là tính thuỳ mị, hiền hoà: đó chính là điều quý giá trước mặt Thiên Chúa. 5 Xưa kia, các phụ nữ thánh thiện là những người trông cậy vào Thiên Chúa, cũng đã trang điểm như thế; họ đã phục tùng chồng. 6 Như bà Xa-ra, bà đã vâng phục ông Áp-ra-ham, và gọi ông là “ông chủ". Chị em là con cái của bà, nếu chị em làm điều thiện và không sợ hãi trước bất cứ nỗi kinh hoàng nào.

7 Cũng vậy, anh em là những người chồng, trong cuộc sống chung, anh em nên hiểu rằng đàn bà thuộc phái yếu; hãy tỏ lòng quý trọng vì họ cũng được hưởng sự sống là hồng ân Chúa ban. Như thế, việc cầu nguyện của anh chị em sẽ không bị ngăn trở.

Bổn phận của anh em đối với nhau

8 Sau hết, tất cả anh chị em hãy đồng tâm nhất trí, thông cảm với nhau, hãy yêu thương nhau như anh em, hãy ăn ở nhân hậu và khiêm tốn. 9 Đừng lấy ác báo ác, đừng lấy lời nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa, nhưng trái lại, hãy chúc phúc, vì anh chị em được Thiên Chúa kêu gọi chính là để thừa hưởng lời chúc phúc. 10 Thật thế, ai là người thiết tha được sống và ước ao hưởng chuỗi ngày hạnh phúc, thì phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa; 11 người ấy phải làm lành lánh dữ, tìm kiếm và theo đuổi bình an, 12 vì Chúa để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe tiếng họ kêu xin, nhưng Người ngoảnh mặt đi, không nhìn kẻ làm điều ác.

Bổn phận của các tín hữu trong cơn bách hại

13 Ai làm hại được anh em, nếu anh em nhiệt thành làm điều thiện? 14 Mà nếu anh em chịu khổ vì sống công chính, thì anh em thật có phúc! Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến. 15 Đức Ki-tô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em. 16 Nhưng phải trả lời cách hiền hoà và với sự kính trọng. Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng anh em vì anh em ăn ở ngay thẳng trong Đức Ki-tô, thì chính họ phải xấu hổ vì những điều họ vu khống, 17 bởi lẽ thà chịu khổ vì làm việc lành, nếu đó là ý của Thiên Chúa, còn hơn là vì làm điều ác.

Đức Ki-tô sống lại và xuống âm phủ

18 Chính Đức Ki-tô đã chịu chết một lần vì tội lỗi-Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương- hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh. 19 Người đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm, 20 tức là những người xưa đã không vâng phục Thiên Chúa, trong thời Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi, nghĩa là thời ông Nô-ê đóng tàu. Trong con tàu ấy, một số ít, cả thảy là tám người, được cứu thoát nhờ nước. 21 Nước đó là hình bóng phép rửa nay cứu thoát anh em. Lãnh nhận phép rửa, không phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô, 22 Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền.

Chương 4

Đoạn tuyệt với tội lỗi

1 Vậy, chính vì Đức Ki-tô đã chịu đau khổ trong thân xác, nên anh em cũng phải lấy tư tưởng này làm khí giới: ai chịu đau khổ trong thân xác thì đoạn tuyệt với tội lỗi, 2 để bao lâu còn sống trong thân xác, người ấy không theo những đam mê của con người nữa, mà theo ý muốn của Thiên Chúa. 3 Thật thế, trong quá khứ anh em đã sống theo sở thích dân ngoại: dâm ô, mê đắm, nhậu nhẹt, say sưa, chè chén, tin vơ thờ quấy, như vậy là quá đủ rồi. 4 Về điều đó, họ kinh ngạc vì thấy anh em không cùng chạy ùa theo cuộc sống truỵ lạc ồ ạt như dòng thác lũ, và họ nói xấu anh em. 5 Họ sẽ phải trả lẽ với Đấng sắp sửa phán xét người sống và kẻ chết. 6 Quả thật, chính vì thế mà Tin Mừng đã được loan báo ngay cho cả những kẻ chết, để tuy bị phán xét về phần xác theo cách nhìn của loài người, họ được sống về phần hồn theo ý định của Thiên Chúa.

Đợi chờ ngày Đức Ki-tô quang lâm

7 Thời cùng tận của vạn vật gần đến rồi. Anh em hãy sống chừng mực và tiết độ để có thể cầu nguyện được. 8 Trước hết, anh em hãy hết tình yêu thương nhau, vì lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi. 9 Hãy tiếp đón nhau mà không lẩm bẩm kêu ca. 10 Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. 11 Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su Ki-tô. Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. A-men.

Phúc thay ai cùng chịu đau khổ với Đức Ki-tô

12 Anh em thân mến, anh em đang bị lửa thử thách: đừng ngạc nhiên mà coi đó như một cái gì khác thường xảy đến cho anh em. 13 Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ. 14 Nếu bị sỉ nhục vì danh Đức Ki-tô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em. 15 Đừng có ai trong anh em phải chịu khổ vì tội giết người, trộm cắp, làm điều gian ác hoặc dây mình vào việc người khác; 16 mà nếu có ai phải chịu khổ vì danh hiệu Ki-tô hữu, thì đừng xấu hổ, nhưng hãy tôn vinh Thiên Chúa vì được mang danh hiệu đó. 17 Bởi lẽ thời phán xét đã đến, bắt đầu từ nhà của Thiên Chúa. Nếu việc đó bắt đầu từ chúng ta, thì cuối cùng số phận của những kẻ từ chối không chịu tin vào Tin Mừng của Thiên Chúa sẽ ra sao? 18 Nếu người công chính còn khó được cứu độ, thì người vô đạo, kẻ tội lỗi sẽ ở đâu? 19 Vì vậy, những ai chịu khổ theo ý của Thiên Chúa, hãy phó mạng sống mình cho Đấng Tạo Hoá trung thành, và cứ làm điều thiện.

Chương 5

Những lời khuyên nhủ bậc kỳ mục

1 Cùng các bậc kỳ mục trong anh em, tôi xin có mấy lời khuyên nhủ, vì tôi cũng thuộc hàng kỳ mục, lại là chứng nhân những đau khổ của Đức Ki-tô và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai. 2 Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tuỵ. 3 Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. 4 Như thế, khi Vị Mục Tử tối cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát.

Những lời khuyên nhủ các tín hữu

5 Cũng vậy, những người trẻ hãy vâng phục các kỳ mục: anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường. 6 Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định. 7 Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em. 8 Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. 9 Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế. 10 Thiên Chúa là nguồn mọi ân sủng, cũng là Đấng đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của Người trong Đức Ki-tô. Phần anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường. 11 Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. A-men.

Lời khuyên cuối cùng. Lời chào

12 Nhờ tay anh Xin-va-nô mà tôi coi là một người anh em trung tín, tôi viết ít lời để khuyên nhủ anh em và làm chứng rằng đó thật là ân sủng của Thiên Chúa: anh em hãy sống vững vàng trong ân sủng đó.

13 Hội Thánh ở Ba-by-lon, cũng được chọn như anh em, và Mác-cô, con tôi, gửi lời chào anh em.

14 Anh em hãy hôn chào nhau trong tình yêu thương.

Chúc tất cả anh em, những người đang sống trong Đức Ki-tô, được bình an.

Phê-rô 3

Chương 1

Lời mở đầu

1 Tôi là Si-mê-ôn Phê-rô, tôi tớ và Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô, kính gửi những người, nhờ sự công chính của Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ chúng ta, cũng đã lãnh nhận một đức tin quý giá như chúng tôi. 2 Chúc anh em được đầy tràn ân sủng và bình an, nhờ được biết Thiên Chúa và Đức Giê-su, Chúa chúng ta.

Lòng rộng rãi của Thiên Chúa

3 Thật vậy, Đức Ki-tô đã lấy thần lực của Người mà ban tặng chúng ta tất cả những gì giúp chúng ta được sống và sống đạo đức, khi Người cho chúng ta biết Đấng đã dùng vinh quang và sức mạnh của mình mà kêu gọi chúng ta. 4 Nhờ vinh quang và sức mạnh ấy, Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian.

5 Chính vì thế, anh em hãy đem tất cả nhiệt tình, làm sao để khi đã có lòng tin thì có thêm đức độ, có đức độ lại thêm hiểu biết, 6 có hiểu biết lại thêm tiết độ, có tiết độ lại thêm kiên nhẫn, có kiên nhẫn lại thêm đạo đức, 7 có đạo đức lại thêm tình huynh đệ, có tình huynh đệ lại thêm bác ái. 8 Thật vậy, nếu anh em có những đức tính ấy và có dồi dào, thì anh em sẽ không trở nên những người chẳng làm gì và chẳng làm gì được để biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. 9 Ai không có những đức tính ấy thì là người đui mù, người cận thị: kẻ ấy quên rằng mình đã được tẩy sạch các tội xưa đã phạm. 10 Vì vậy, thưa anh em, anh em đã được Thiên Chúa tuyển chọn và mời gọi, thì hãy cố gắng hết mình, để làm cho các ơn đó nên vững mạnh. Có thế, anh em sẽ không bao giờ vấp ngã, 11 và nhờ đó, con đường rộng mở để đón nhận anh em vào Nước vĩnh cửu của Đức Giê-su Ki-tô là Chúa và là Đấng cứu độ chúng ta.

Lời chứng của các Tông Đồ

12 Vì thế, tôi sẽ luôn nhắc cho anh em nhớ lại những điều trên, mặc dầu anh em đã biết rồi và đang sống vững vàng theo sự thật anh em hiện nắm giữ. 13 Tôi thiết nghĩ: bao lâu tôi còn sống cuộc đời chóng qua này, tôi phải nhắc nhở để thức tỉnh anh em, đó là điều phải lẽ, 14 vì biết rằng sắp đến thời tôi phải bỏ lều này, như Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, cũng đã tỏ cho tôi biết. 15 Nhưng tôi sẽ cố gắng, để trong mọi trường hợp, sau khi tôi ra đi, anh em có thể nhớ lại các điều ấy.

16 Thật vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người. 17 Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: ”Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến". 18 Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người.

Lời ngôn sứ

19 Như vậy chúng tôi lại càng thêm tin tưởng vào lời các ngôn sứ. Anh em chú tâm vào đó là phải, vì lời ấy như chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối tăm, cho đến khi ngày bừng sáng và sao mai mọc lên soi chiếu tâm hồn anh em. 20 Nhất là anh em phải biết điều này: không ai được tự tiện giải thích một lời ngôn sứ nào trong Sách Thánh. 21 Quả vậy, lời ngôn sứ không bao giờ lại do ý muốn người phàm, nhưng chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có những người đã nói theo lệnh của Thiên Chúa.

Chương 2

Các thầy dạy giả hiệu

1 Trong dân cũng đã từng xuất hiện những ngôn sứ giả; giữa anh em cũng vậy, sẽ có những thầy dạy giả hiệu, đó là những kẻ sẽ lén lút đưa vào những tà thuyết dẫn tới diệt vong. Vì chối bỏ vị Chúa Tể đã chuộc họ về, họ sẽ mau chóng chuốc lấy hoạ diệt vong. 2 Nhiều người sẽ học đòi các trò dâm đãng của họ, và vì họ, con đường sự thật sẽ bị phỉ báng. 3 Vì tham lam, họ dùng lời lẽ gạt gẫm anh em để trục lợi. Án phạt họ đã sẵn sàng từ lâu, và hoạ diệt vong đã gần kề.

Bài học của quá khứ

4 Thật vậy, Thiên Chúa không dung thứ cho các thiên thần có tội, nhưng đã đẩy họ vào hố Địa Ngục tối tăm, giữ họ để chờ cuộc phán xét. 5 Người không dung thứ cho thế giới cũ, nhưng khi trút hồng thủy xuống trên thế giới của những kẻ vô luân, Người đã cứu sống tám mạng, trong số đó có ông Nô-ê, kẻ rao giảng sự công chính. 6 Người thiêu ra tro các thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra, lên án huỷ diệt hai thành đó để làm gương cho những kẻ vô luân thời sau; 7 Người cứu ông Lót, kẻ công chính, đang phải ưu phiền vì nếp sống dâm đãng của những người phạm pháp. 8 Quả vậy, người công chính đó sống ở giữa họ, mắt thấy tai nghe những hành vi phi pháp ngày ngày xâu xé tâm hồn công chính của ông. 9 Như thế Chúa biết cứu những người đạo đức khỏi cơn thử thách, và giữ những kẻ bất chính để trừng phạt vào ngày phán xét, 10 nhất là những kẻ vì ham muốn những điều ô uế mà sống theo xác thịt, những kẻ khinh dể chủ quyền của Chúa.

Hình phạt tương lai

11 trong khi các thiên thần, tuy mạnh mẽ và quyền thế hơn, cũng không đưa ra một phán quyết nào phạm đến các vị đó trước toà Chúa. 12 Còn họ, khác nào loài vật vô tri vốn sinh ra để bị săn bắt và tiêu diệt, lại nói phạm đến những điều họ không biết; những loài vật kia bị tiêu diệt làm sao, thì họ cũng sẽ bị tiêu diệt như vậy: 13 họ đã ăn ở bất chính thì được trả công bằng sự bất chính. Họ coi việc sống phóng đãng giữa ban ngày như một khoái lạc, họ là những người đầy khuyết điểm và tỳ ố, thích thú vì những chuyện lừa gạt của mình, trong lúc vui vẻ với anh em. 14 Nhìn thấy phụ nữ là họ ao ước ngoại tình, họ phạm tội mãi không chán; họ nhử mồi các tâm hồn nông nổi; lòng họ đã quen thói tham lam. Thật là những kẻ đáng bị nguyền rủa! 15 Bỏ đường ngay nẻo chính, họ đã lạc bước theo đường của con ông Bo-xo là Bi-lơ-am, kẻ ưa thích tiền công bất chính. 16 Nhưng Bi-lơ-am đã bị khiển trách vì hành động sai trái của mình: một thú vật chở đồ, không biết nói, đã lên tiếng như người, để ngăn cản cách xử sự điên rồ của ngôn sứ ấy. 17 Họ là suối không có nước, là mây bị bão cuốn đi; u ám tối tăm là nơi dành cho họ. 18 Miệng nói những lời huyênh hoang rỗng tuếch, họ dùng những ham muốn xác thịt dâm ô mà nhử những người vừa thoát tay các kẻ sống trong lầm lạc. 19 Họ hứa cho những kẻ đó được tự do, nhưng chính họ lại làm nô lệ cho lối sống dẫn đến hư vong, vì đã thua ai thì phải làm nô lệ người ấy. 20 Thật vậy, những kẻ đã thoát khỏi những vết nhơ của thế gian, nhờ được biết Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Độ, mà lại vướng mắc vào đó một lần nữa và bị thua, thì tình trạng sau này của họ còn tệ hơn trước. 21 Quả thật, thà họ không biết đường công chính, còn hơn là khi đã biết rồi, lại lìa bỏ điều răn thánh đã được truyền cho họ. 22 Điều xảy ra cho họ thật đúng với câu ngạn ngữ sau đây: Chó mửa ra, chó liền ăn lại; heo tắm xong, heo nhảy vào bùn.

Chương 3

Ngày của Chúa: các ngôn sứ và Tông Đồ

1 Anh em thân mến, đây đã là thư thứ hai tôi viết cho anh em; trong cả hai thư, tôi đều nhắc nhở anh em để gợi lên nơi anh em sự hiểu biết chân thành. 2 Anh em hãy nhớ lại những điều các thánh ngôn sứ đã nói trước kia, và điều răn của Chúa, Đấng Cứu Độ, mà các Tông Đồ của anh em đã truyền lại.

Các thầy dạy giả hiệu

3 Trước tiên, anh em hãy biết điều này: trong những ngày sau hết, sẽ xuất hiện những kẻ nhạo báng chê cười, sống theo những đam mê riêng của họ. 4 Họ nói: ”Đâu rồi lời Người hứa sẽ quang lâm? Vì từ ngày các bậc cha ông an nghỉ, mọi sự vẫn y nguyên như khi trời đất mới được tạo thành.” 5 Thật vậy, họ không muốn biết rằng từ lâu đã có trời và đất, và đất từ nước mà ra và nhờ nước mà đứng vững do lời của Thiên Chúa. 6 Cũng vì các nguyên cớ ấy, thế gian thời đó đã tiêu vong trong cơn hồng thuỷ. 7 Còn trời và đất hiện nay, cũng chính lời ấy giữ lại, dành cho lửa trong ngày phán xét, ngày những kẻ vô luân phải diệt vong.

8 Anh em thân mến, một điều duy nhất, xin anh em đừng quên: đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. 9 Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải. 10 Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu huỷ.

Lời kêu gọi sống thánh thiện. Vinh tụng ca

11 Muôn vật phải tiêu tan như thế, thì anh em phải là những người tốt dường nào, phải sống đạo đức và thánh thiện biết bao, 12 trong khi mong đợi ngày của Thiên Chúa và làm cho ngày đó mau đến, ngày mà các tầng trời sẽ bị thiêu huỷ và ngũ hành sẽ chảy tan ra trong lửa hồng. 13 Nhưng, theo lời Thiên Chúa hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị.

14 Vì thế, anh em thân mến, trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an. 15 Và anh em hãy biết rằng Chúa chúng ta tỏ lòng kiên nhẫn chính là để anh em được cứu độ, như ông Phao-lô, người anh em thân mến của chúng ta, đã viết cho anh em, theo ơn khôn ngoan Thiên Chúa đã ban cho ông. 16 Ông cũng nói như vậy trong tất cả các thư của ông, khi bàn đến các vấn đề này. Trong các thư ấy, có những chỗ khó hiểu; những chỗ ấy cũng như những chỗ khác trong Kinh Thánh, bị những kẻ vô học và nông nổi xuyên tạc, khiến chúng phải chuốc lấy hoạ diệt vong.

17 Vậy, anh em thân mến, biết trước như thế, anh em hãy coi chừng kẻo bị những kẻ phạm pháp và lầm lạc lôi cuốn, mà không còn đứng vững nữa chăng. 18 Nhưng anh em hãy lớn lên trong ân sủng và trong sự hiểu biết Đức Giê-su Ki-tô là Chúa và là Đấng Cứu Độ chúng ta. Xin kính dâng Người vinh quang, bây giờ và cho đến muôn đời. A-men.

Gio-an 1

Chương 1

LỜI DẪN NHẬP

Ngôi Lời nhập thể và sự hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con

1 Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu,

điều chúng tôi đã nghe,

điều chúng tôi đã thấy tận mắt,

điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng,

và tay chúng tôi đã chạm đến,

đó là Lời sự sống.

2 Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày,

chúng tôi đã thấy và làm chứng,

chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời:

sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha

và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi.

3 Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe,

chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa,

để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi,

mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha

và với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người.

4 Những điều này, chúng tôi viết ra

để niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn.

I. BƯỚC ĐI TRONG ÁNH SÁNG

5 Đây là lời loan báo của Đức Giê-su Ki-tô mà chúng tôi đã nghe,

và nay chúng tôi loan báo cho anh em: Thiên Chúa là ánh sáng;

nơi Người, không có một chút bóng tối nào.

6 Nếu chúng ta nói là chúng ta hiệp thông với Người

mà lại đi trong bóng tối, thì chúng ta nói dối

và không hành động theo sự thật.

7 Nhưng nếu chúng ta đi trong ánh sáng

cũng như Thiên Chúa hằng ngự trong ánh sáng,

thì chúng ta được hiệp thông với nhau,

và máu Đức Giê-su, Con của Người,

thanh tẩy chúng ta sạch hết mọi tội lỗi.

Điều kiện thứ nhất: đoạn tuyệt với tội lỗi

8 Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội,

chúng ta tự lừa dối mình,

và sự thật không ở trong chúng ta.

9 Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi,

Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính

sẽ tha tội cho chúng ta,

và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính.

10 Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội,

thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối,

và lời của Người không ở trong chúng ta.

Chương 2

1 Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi,

tôi viết cho anh em những điều này,

để anh em đừng phạm tội.

Nhưng nếu ai phạm tội,

thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha:

đó là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính.

2 Chính Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta,

không những tội lỗi chúng ta mà thôi,

nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa.

Điều kiện thứ hai: tuân giữ các điều răn, nhất là điều răn bác ái

3 Căn cứ vào điều này,

chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa:

là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người.

4 Ai nói rằng mình biết Người

mà không tuân giữ các điều răn của Người,

đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy.

5 Còn hễ ai giữ lời Người dạy,

nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo.

Căn cứ vào đó,

chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa.

6 Ai nói rằng mình ở lại trong Người,

thì phải đi trên con đường Đức Giê-su đã đi.

7 Anh em thân mến, đây không phải là một điều răn mới

tôi viết cho anh em, nhưng là một điều răn cũ

mà anh em đã có ngay từ lúc khởi đầu.

Điều răn cũ ấy là lời mà anh em đã nghe.

8 Nhưng đó cũng là một điều răn mới

tôi viết cho anh em,-điều ấy thật là thế

nơi Đức Giê-su và nơi anh em-,

bởi vì bóng tối đang qua đi và ánh sáng thật đã tỏ rạng.

9 Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng

mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối.

10 Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng,

và nơi người ấy không có gì nên cớ vấp phạm.

11 Nhưng ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối

và đi trong bóng tối mà chẳng biết mình đi đâu,

vì bóng tối đã làm cho mắt người ấy ra mù quáng.

Điều kiện thứ ba: coi chừng thế gian

12 Hỡi anh em là những người con bé nhỏ,

tôi viết cho anh em:

anh em đã được tha tội nhờ danh Đức Giê-su Ki-tô.

13 Hỡi các bậc phụ huynh, tôi viết cho anh em:

anh em biết Đấng vẫn có từ lúc khởi đầu.

Hỡi các bạn trẻ, tôi viết cho anh em:

anh em đã thắng ác thần.

14 Hỡi anh em là những người con thơ bé,

tôi đã viết cho anh em: anh em biết Chúa Cha.

Hỡi các bậc phụ huynh, tôi đã viết cho anh em:

anh em biết Đấng vẫn có từ lúc khởi đầu.

Hỡi các bạn trẻ, tôi đã viết cho anh em:

anh em là những người mạnh mẽ;

lời Thiên Chúa ở lại trong anh em

và anh em đã thắng ác thần.

15 Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian.

Kẻ nào yêu thế gian

thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha,

16 vì mọi sự trong thế gian: như dục vọng của tính xác thịt,

dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của,

tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha,

nhưng phát xuất từ thế gian;

17mà thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó.

Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi.

Điều kiện thứ bốn: đề phòng những kẻ Phản Ki-tô

18 Hỡi anh em là những người con thơ bé,

đây là giờ cuối cùng.

Anh em đã nghe biết là tên Phản Ki-tô sẽ đến;

thế mà giờ đây nhiều tên Phản Ki-tô đã xuất hiện.

Do đó, chúng ta biết được rằng đây là giờ cuối cùng.

19 Chúng xuất thân từ hàng ngũ chúng ta,

nhưng không phải là người của chúng ta;

vì nếu là người của chúng ta, chúng đã ở lại với chúng ta.

Nhưng như thế mới rõ:

không phải ai ai cũng là người của chúng ta.

20 Phần anh em, anh em nhận được dầu, do tự Đấng Thánh,

và tất cả anh em đều được ơn hiểu biết.

21 Tôi đã viết cho anh em,

không phải vì anh em không biết sự thật,

nhưng vì anh em biết sự thật,

và vì không có sự dối trá nào phát xuất từ sự thật.

22 Ai là kẻ dối trá, nếu không phải là kẻ chối rằng

Đức Giê-su là Đấng Ki-tô?

Kẻ ấy là tên Phản Ki-tô,

là kẻ chối Chúa Cha và Chúa Con.

23 Ai chối Chúa Con thì cũng không có Chúa Cha;

kẻ tuyên xưng Chúa Con thì cũng có Chúa Cha.

24 Phần anh em,

ước chi điều anh em đã nghe từ lúc khởi đầu

ở lại trong anh em.

Nếu điều anh em đã nghe từ lúc khởi đầu

ở lại trong anh em,

thì chính anh em sẽ ở lại trong Chúa Con và Chúa Cha.

25 Và đây là điều

mà chính Đức Ki-tô đã hứa ban cho chúng ta:

sự sống đời đời.

26 Tôi viết cho anh em những điều ấy

để nói về những kẻ tìm cách

làm cho anh em đi lạc đường.

27 Phần anh em,

dầu mà anh em đã lãnh nhận từ Đức Ki-tô

ở lại trong anh em,

và anh em chẳng cần ai dạy dỗ nữa.

Nhưng vì dầu của Người dạy dỗ anh em mọi sự

-mà dầu ấy dạy sự thật chứ không phải sự dối trá-,

thì theo như dầu ấy đã dạy anh em,

anh em hãy ở lại trong Người.

28 Giờ đây, hỡi anh em là những người con bé nhỏ,

anh em hãy ở lại trong Người,

để khi Người xuất hiện,

chúng ta được mạnh dạn, chứ không bị xấu hổ,

vì phải xa cách Người trong ngày Người quang lâm.

II. SỐNG XỨNG ĐÁNG LÀ CON CÁI THIÊN CHÚA

29 Nếu anh em biết Thiên Chúa là Đấng Công Chính,

anh em cũng phải biết rằng: phàm ai sống công chính

thì đã được Thiên Chúa sinh ra.

Chương 3

1 Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào:

Người yêu đến nỗi

cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa

-mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa.

Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta,

là vì thế gian đã không biết Người.

2 Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa;

nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ.

Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện,

chúng ta sẽ nên giống như Người,

vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.

Điều kiện thứ nhất: đoạn tuyệt với tội lỗi

3 Phàm ai đặt hy vọng như thế vào Đức Ki-tô

thì làm cho mình nên thanh sạch

như Người là Đấng thanh sạch.

4 Phàm ai phạm tội thì cũng chống lại luật Thiên Chúa,

vì tội lỗi chống lại luật Thiên Chúa.

5 Thế mà anh em biết: Đức Giê-su đã xuất hiện

để xoá bỏ tội lỗi, và nơi Người không có tội lỗi.

6 Phàm ai ở lại trong Người thì không phạm tội.

Còn ai phạm tội

thì đã không thấy Người, và cũng chẳng biết Người.

7 Hỡi anh em là những người con bé nhỏ,

đừng để ai làm cho anh em đi lạc đường.

Ai sống công chính, kẻ ấy là người công chính,

như Đức Giê-su là Đấng Công Chính.

8 Ai phạm tội, kẻ ấy là người của ma quỷ,

vì ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu.

Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện,

là để phá huỷ công việc của ma quỷ.

9 Phàm ai đã được Thiên Chúa sinh ra thì không phạm tội,

vì mầm sống của Thiên Chúa ở lại trong người ấy,

và người ấy không thể phạm tội,

vì đã được Thiên Chúa sinh ra.

10 Căn cứ vào điều này mà người ta phân biệt

con cái Thiên Chúa với con cái ma quỷ:

phàm ai không sống công chính

thì không thuộc về Thiên Chúa;

ai không yêu thương anh em mình, thì cũng vậy.

Điều kiện thứ hai: tuân giữ các điều răn, nhất là điều răn bác ái

11 Quả thế, đây là lời loan báo

anh em đã nghe từ lúc khởi đầu:

chúng ta hãy yêu thương nhau;

12 chúng ta đừng bắt chước Ca-in:

nó là người của Ác thần, nên đã giết em mình.

Tại sao nó đã giết em?

Bởi vì các việc nó làm thì xấu xa,

còn các việc em nó làm thì công chính.

13 Thưa anh em, anh em đừng ngạc nhiên,

nếu thế gian ghét anh em.

14 Chúng ta biết rằng:

chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống,

vì chúng ta yêu thương anh em.

Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết.

15 Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân.

Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào

có sự sống đời đời ở lại trong nó.

16 Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì:

đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta.

Như vậy, cả chúng ta nữa,

chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em.

17 Nếu ai có của cải thế gian

và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu,

mà chẳng động lòng thương,

thì làm sao tình yêu Thiên Chúa

ở lại trong người ấy được?

18 Hỡi anh em là những người con bé nhỏ,

chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi,

nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.

19 Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng

chúng ta đứng về phía sự thật,

và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa.

20 Vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta,

Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta,

và Người biết hết mọi sự.

21 Anh em thân mến,

nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta,

chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa.

22 Và bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Người ban cho,

bởi vì chúng ta tuân giữ các điều răn của Người

và làm những gì đẹp ý Người.

23 Đây là điều răn của Người: chúng ta phải tin

vào danh Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người,

và phải yêu thương nhau,

theo điều răn Người đã ban cho chúng ta.

24 Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa

thì ở lại trong Thiên Chúa

và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.

Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được

Thiên Chúa ở lại trong chúng ta,

đó là nhờ Thần Khí,

Thần Khí Người đã ban cho chúng ta.

Chương 4

Điều kiện thứ ba: đề phòng thế gian và những ngôn sứ giả

1 Anh em thân mến, anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin,

nhưng hãy cân nhắc các thần khí

xem có phải bởi Thiên Chúa hay không,

vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian.

2 Căn cứ vào điều này,

anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa:

thần khí nào tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô

là Đấng đã đến và trở nên người phàm,

thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa;

3 còn thần khí nào không tuyên xưng Đức Giê-su,

thì không bởi Thiên Chúa;

đó là thần khí của tên phản Ki-tô.

Anh em đã nghe nói là nó đang tới,

và hiện nay nó ở trong thế gian rồi.

4 Hỡi anh em là những người con bé nhỏ,

anh em thuộc về Thiên Chúa,

và anh em đã thắng được các ngôn sứ giả đó,

vì Đấng ở trong anh em mạnh hơn kẻ ở trong thế gian.

5 Các ngôn sứ giả đó thuộc về thế gian;

vì thế, chúng nói theo thế gian, và thế gian nghe chúng.

6 Còn chúng ta, chúng ta thuộc về Thiên Chúa.

Ai biết Thiên Chúa thì nghe chúng ta.

Ai không thuộc về Thiên Chúa thì không nghe chúng ta.

Chúng ta cứ dựa vào đó mà nhận ra

thần khí dẫn đến sự thật và thần khí làm cho sai lầm.

III. NGUỒN MẠCH ĐỨC ÁI VÀ ĐỨC TIN

Nguồn mạch đức ái

7 Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau,

vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa.

Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra,

và người ấy biết Thiên Chúa.

8 Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa,

vì Thiên Chúa là tình yêu.

9 Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta

được biểu lộ như thế này:

Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian

để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống.

10 Tình yêu cốt ở điều này:

không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa,

nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta,

và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.

11 Anh em thân mến,

nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế,

chúng ta cũng phải yêu thương nhau.

12 Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ.

Nếu chúng ta yêu thương nhau,

thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta,

và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo.

13 Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được rằng

chúng ta ở lại trong Người và Người ở lại trong chúng ta:

đó là Người đã ban Thần Khí của Người cho chúng ta.

14 Phần chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng

và làm chứng rằng: Chúa Cha đã sai Con của Người đến

làm Đấng cứu độ thế gian.

15 Hễ ai tuyên xưng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa,

thì Thiên Chúa ở lại trong người ấy

và người ấy ở lại trong Thiên Chúa.

16 Còn chúng ta, chúng ta đã biết

tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó.

Thiên Chúa là tình yêu:

ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa,

và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.

17 Căn cứ vào điều này

mà tình yêu đã nên hoàn hảo với chúng ta:

đó là chúng ta được mạnh dạn trong ngày phán xét,

vì Đức Giê-su thế nào

thì chúng ta cũng như vậy ở thế gian này.

18 Tình yêu không biết đến sợ hãi;

trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi,

vì sợ hãi gắn liền với hình phạt

và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo.

19 Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương,

vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước.

20 Nếu ai nói: ”Tôi yêu mến Thiên Chúa"

mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối;

vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy.

21 Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người:

ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình.

Chương 5

1 Phàm ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô,

kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra.

Và ai yêu mến Đấng sinh thành,

thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra.

2 Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được

mình yêu thương con cái Thiên Chúa:

đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa

và thi hành các điều răn của Người.

3 Quả thật, yêu mến Thiên Chúa

là tuân giữ các điều răn của Người.

Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu,

4vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian.

Và điều làm cho chúng ta thắng được thế gian,

đó là lòng tin của chúng ta.

Nguồn mạch đức tin

5 Ai là kẻ thắng được thế gian,

nếu không phải là người tin rằng

Đức Giê-su là Con Thiên Chúa?

6 Chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu;

không phải chỉ trong nước mà thôi,

nhưng trong nước và trong máu.

Chính Thần Khí là chứng nhân,

và Thần Khí là sự thật.

7 Có ba chứng nhân:

8 Thần Khí, nước và máu.

Cả ba cùng làm chứng một điều.

9 Chúng ta vẫn nhận lời chứng của người phàm,

thế mà lời chứng của Thiên Chúa còn cao trọng hơn,

vì đó là lời chứng của Thiên Chúa,

lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người.

10 Ai tin vào Con Thiên Chúa,

người đó có lời chứng ấy nơi mình.

Ai không tin Thiên Chúa,

thì coi Thiên Chúa là kẻ nói dối,

vì kẻ ấy không tin vào lời Thiên Chúa

đã làm chứng về Con của Người.

11 Lời chứng đó là thế này:

Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời,

và sự sống ấy ở trong Con của Người.

12 Ai có Chúa Con thì có sự sống;

ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống.

13 Tôi đã viết những điều đó cho anh em

là những người tin vào danh Con Thiên Chúa,

để anh em biết rằng anh em có sự sống đời đời.

BỔ TÚC

Cầu nguyện cho người tội lỗi

14 Lý do khiến chúng ta được mạnh dạn

trước mặt Thiên Chúa, đó là:

Người nhậm lời chúng ta, khi chúng ta xin điều gì hợp ý Người.

15 Nếu chúng ta biết rằng Người nhậm mọi lời chúng ta xin,

thì chúng ta cũng biết rằng

chúng ta sẽ được những gì chúng ta đã xin Người.

16 Nếu ai biết anh em mình phạm thứ tội

không đưa đến cái chết, thì hãy cầu xin,

và Thiên Chúa sẽ ban sự sống cho người anh em ấy;

đó là nói về những ai phạm thứ tội không đưa đến cái chết.

Có một thứ tội đưa đến cái chết,

tôi không bảo phải cầu xin cho thứ tội ấy.

17 Mọi điều bất chính đều là tội,

nhưng có một thứ tội không đưa đến cái chết.

Tóm lược bức thư

18 Chúng ta biết rằng phàm ai đã được Thiên Chúa sinh ra,

người đó không phạm tội;

nhưng có Đấng Thiên Chúa đã sinh ra giữ gìn người ấy,

và Ác thần không đụng đến người ấy được.

19 Chúng ta biết rằng chúng ta thuộc về Thiên Chúa,

còn tất cả thế gian đều nằm dưới ách thống trị của Ác thần.

20 Chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa đã đến

và ban cho chúng ta trí khôn để biết Thiên Chúa thật.

Chúng ta ở trong Thiên Chúa thật,

ở trong Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô.

Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa thật và là sự sống đời đời.

21 Hỡi anh em là những người con bé nhỏ,

hãy tránh xa các tà thần!

Gio-an 2

Chương 1

Lời chào

1 Tôi là kỳ mục, kính gửi Bà đã được Thiên Chúa tuyển chọn, và con cái Bà là những người mà tôi thực sự quý mến; không phải chỉ một mình tôi, mà là tất cả những ai đã biết sự thật cũng đều quý mến, 2 bởi vì sự thật ở lại trong chúng ta và sẽ ở với chúng ta mãi mãi. 3 Thiên Chúa là Cha và Đức Giê-su Ki-tô là Con Chúa Cha sẽ cho chúng ta được hưởng ân sủng, lòng thương xót và bình an, trong sự thật và tình thương.

Điều răn yêu thương

4 Tôi rất vui mừng vì đã gặp thấy trong số con cái của Bà, những người sống trong sự thật, đúng như điều răn chúng ta đã nhận được từ Chúa Cha. 5 Thưa Bà, bây giờ tôi xin Bà điều này-đây không phải là một điều răn mới tôi viết ra, nhưng là điều răn chúng ta đã có từ lúc khởi đầu- đó là: chúng ta phải yêu thương nhau. 6 Yêu thương là sống theo các điều răn của Thiên Chúa. Như anh em đã được nghe từ lúc khởi đầu, điều răn này là: anh em phải sống trong tình thương.

Những kẻ phản Ki-tô

7 Vì có nhiều người mê hoặc đã lan tràn khắp thế gian, họ là những kẻ không tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến và trở nên người phàm. Đó là kẻ mê hoặc và là tên Phản Ki-tô. 8 Anh em phải coi chừng để khỏi đánh mất những gì anh em đã làm được, nhưng để lãnh đầy đủ phần thưởng. 9 Phàm ai đi quá xa, không ở lại trong giáo huấn của Đức Ki-tô, thì không có Thiên Chúa. Còn ai ở lại trong giáo huấn, thì người ấy có Chúa Cha và Chúa Con. 10 Nếu ai đến với anh em mà không đem theo giáo huấn ấy, anh em đừng đón vào nhà và cũng đừng chào hỏi người ấy. 11 Quả thật, ai chào hỏi là cộng tác vào những việc xấu xa của người ấy.

Kết luận

12 Tôi còn có nhiều điều phải viết cho anh em, tôi không muốn dùng giấy mực. Nhưng tôi hy vọng có thể đến với anh em và nói chuyện trực tiếp, để niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn. 13 Các con của người chị em Bà, người chị em đã được Thiên Chúa tuyển chọn, gửi lời kính chào Bà.

Gio-an 3

Chương 1

Lời chào

1 Tôi là kỳ mục, gửi anh Gai-ô thân mến, người mà tôi thực sự quý mến. 2 Anh thân mến, tôi cầu chúc anh được mọi bề thịnh đạt: thể xác mạnh khoẻ và tinh thần phấn chấn.

Ca tụng ông Gai-ô

3 Quả thật, tôi rất vui mừng bởi có những anh em đến đây và làm chứng là anh gắn bó với sự thật, như anh vẫn sống trong sự thật. 4 Không có gì làm tôi vui sướng bằng khi nghe biết con cái tôi sống sự thật.

5 Anh thân mến, anh hành động theo đức tin trong mọi việc anh làm cho các người anh em, dù họ là những người xa lạ. 6 Họ đã làm chứng về đức bác ái của anh trước mặt Hội Thánh. Anh sẽ làm một việc nghĩa, nếu anh giúp đỡ cho chuyến đi của họ cách xứng đáng trước mặt Thiên Chúa. 7 Quả thật, chính vì danh Chúa, họ đã ra đi mà không nhận gì của người ngoại. 8 Vậy, chúng ta phải tiếp đón những con người như thế, để cộng tác vào việc truyền bá sự thật.

Hành vi của ông Đi-ốt-rê-phét

9 Tôi viết đôi lời cho Hội Thánh, nhưng Đi-ốt-rê-phét, một con người thích ăn trên ngồi trước, không chịu nhận quyền của chúng tôi. 10 Vì thế, nếu tôi đến, tôi sẽ nhắc lại cho anh ta những việc anh ta đã làm: anh ta cứ rêu rao những lời độc địa chống chúng tôi. Chưa lấy thế làm đủ, anh ta còn không tiếp đón các người anh em, và ai muốn tiếp đón thì anh ta ngăn cản và trục xuất khỏi Hội Thánh. 11 Anh thân mến, anh đừng bắt chước làm điều dữ, nhưng hãy bắt chước làm điều lành. Ai làm điều lành thì thuộc về Thiên Chúa; kẻ làm điều dữ thì đã không thấy Thiên Chúa.

Làm chứng cho ông Đê-mết-ri-ô

12 Mọi người đều làm chứng tốt cho anh Đê-mết-ri-ô, và chính sự thật cũng làm chứng như vậy. Cả chúng tôi nữa, chúng tôi cũng làm chứng cho anh ấy, và anh biết rằng lời chứng của chúng tôi là xác thực.

Lời kết thúc

13 Tôi còn có nhiều điều đáng lẽ phải viết cho anh, nhưng tôi không muốn dùng bút mực mà viết cho anh. 14 Tôi hy vọng sắp được gặp anh, và chúng ta sẽ nói chuyện trực tiếp. 15 Chúc anh được bình an! Các bạn hữu gửi lời chào anh. Cho tôi gửi lời chào các bạn hữu, đích danh từng người một.

Giu-đa

Chương 1

Lời mở đầu

1 Tôi là Giu-đa, tôi tớ của Đức Giê-su Ki-tô, anh em với ông Gia-cô-bê, xin gửi lời thăm những người được kêu gọi, được Thiên Chúa là Cha yêu mến, và được dành riêng cho Đức Giê-su Ki-tô. 2 Chúc anh em được đầy tràn lòng thương xót, sự bình an và tình thương.

Lý do viết thư

3 Anh em thân mến, tôi vẫn ước mong viết thư cho anh em về ơn cứu độ chung của chúng ta, thì nay lại bó buộc phải viết cho anh em, để khuyên nhủ anh em chiến đấu cho đức tin đã được truyền lại cho dân thánh chỉ một lần là đủ. 4 Thật vậy, có những người đã len lỏi vào, những người từ lâu đã bị ghi trước vào danh sách những kẻ bị lên án, những kẻ vô luân này đã biến ân sủng của Thiên Chúa chúng ta thành lý do biện minh cho lối sống dâm ô, họ chối bỏ Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô, vị Chúa Tể duy nhất.

Các thầy dạy giả hiệu. Hình phạt dành cho họ

5 Cho dù anh em đã biết mọi sự chỉ một lần là đủ, tôi cũng muốn nhắc cho anh em nhớ lại rằng: Chúa đã cứu dân ra khỏi đất Ai-cập, sau đó lại tiêu diệt những kẻ không chịu tin. 6 Những thiên thần đã không giữ địa vị của mình, nhưng rời bỏ nơi mình ở, thì Người dùng xiềng xích mà giam giữ họ đời đời trong nơi tối tăm, để chờ phán xét trong Ngày lớn lao. 7 Còn Xơ-đôm, Gô-mô-ra và các thành lân cận làm chuyện gian dâm như họ và chạy theo những thú vui xác thịt trái tự nhiên, thì đã phải chịu lửa đời đời làm hình phạt để nêu gương.

Họ nói lộng ngôn

8 Cả những người mê sảng kia cũng vậy, họ làm cho thân xác ra ô uế, khinh dể chủ quyền của Chúa, nói phạm đến các Bậc uy linh. 9 Khi bàn cãi và tranh luận với quỷ về thi hài ông Mô-sê, ngay cả tổng lãnh thiên thần Mi-ca-en cũng không dám đưa ra một phán quyết nào phạm đến nó, mà chỉ nói: Xin Chúa trừng phạt ngươi! 10 Nhưng họ, họ lại nói phạm đến những điều họ không biết; còn những điều họ biết được một cách tự nhiên như loài vật vô tri, thì chỉ làm cho họ phải tiêu diệt.

Họ là những kẻ gian tà

11 Khốn cho họ, bởi họ đi vào con đường của Ca-in; vì chút tiền công, họ đã ngã theo sự lầm lạc của Bi-lơ-am, và bị diệt vong vì làm loạn như Cô-rắc. 12 Họ làm cho những bữa tiệc thân ái của anh em ra nhơ nhuốc; họ chè chén mà không biết xấu hổ, họ chỉ lo cho chính mình. Họ là mây không có nước, cuốn theo chiều gió. Họ là cây cuối mùa thu, không trái, chết hai lần, bị nhổ tận rễ. 13 Họ là sóng biển hung dữ, tung bọt là những hành vi bỉ ổi của họ. Họ là những vì sao lạc, u ám tối tăm là nơi dành cho họ đến muôn đời. 14 Ông Kha-nốc, tổ phụ thứ bảy sau ông A-đam đã tuyên sấm về họ rằng: Này Chúa đến giữa muôn vàn thần thánh của Người, 15 để xét xử mọi người, và kết án mọi kẻ vô luân về tất cả các việc vô luân của họ, về tất cả những lời hỗn xược quân tội lỗi vô luân đã nói phạm đến Người. 16 Họ là những người hay lẩm bẩm, phàn nàn, đi theo các dục vọng của mình, miệng nói lời huênh hoang, tâng bốc người ta để trục lợi.

Lời khuyên nhủ các tín hữu. Giáo huấn của các Tông Đồ

17 Anh em thân mến, phần anh em hãy nhớ lại những lời các Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, đã nói trước kia. 18 Các ngài đã nói với anh em: ”Vào thời cuối cùng sẽ có những kẻ nhạo báng, sống theo những dục vọng vô luân của mình.” 19 Họ là những kẻ gây chia rẽ, sống theo tính tự nhiên, không có Thần Khí.

Nhiệm vụ của đức bác ái

20 Nhưng anh em, hỡi anh em thân mến, hãy xây dựng đời mình trên nền tảng đức tin rất thánh của anh em, hãy cầu nguyện nhờ Thánh Thần, 21 hãy cố gắng sống mãi trong tình thương của Thiên Chúa, hãy chờ đợi lòng thương xót của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, để được sống đời đời. 22 Những người do dự thì anh em phải thương xót; 23 hãy lo cứu họ, kéo họ ra khỏi lửa thiêu. Còn những người khác, thì anh em phải vừa thương xót, vừa sợ hãi, gớm ghét ngay cả chiếc áo đã bị thân xác họ làm cho ra ô uế.

Vinh tụng ca

24 Xin kính dâng Đấng có quyền phép gìn giữ anh em khỏi sa ngã và cho anh em đứng vững, tinh tuyền, trước vinh quang của Người, trong niềm hoan lạc, 25 xin kính dâng Thiên Chúa duy nhất, Đấng Cứu Độ chúng ta, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, kính dâng Người vinh quang, oai phong, sức mạnh và quyền năng, trước mọi thời, bây giờ và cho đến muôn đời! A-men.

Khải Huyền

Chương 1

Lời tựa

1 Mặc khải của Đức Giê-su Ki-tô, mặc khải mà Thiên Chúa đã ban cho Người, để Người tỏ cho các tôi tớ Người biết những việc sắp phải xảy đến. Người đã sai thiên thần của Người đến báo cho ông Gio-an là tôi tớ của Người biết mặc khải đó. 2 Ông Gio-an đã làm chứng về lời của Thiên Chúa và về lời chứng của Đức Giê-su Ki-tô, về những gì ông đã thấy. 3 Phúc thay người đọc, phúc thay những ai nghe những sấm ngôn đó và tuân giữ các điều chép trong đó, vì thời giờ đã gần đến!

I. THƯ GỬI CÁC HỘI THÁNH A-XI-A

Lời mở đầu

4 Tôi là Gio-an kính gửi bảy Hội Thánh A-xi-a. Xin Đấng hiện có, đã có và đang đến, xin bảy thần khí hiện diện trước ngai của Người, 5 xin Đức Giê-su Ki-tô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian, ban cho anh em ân sủng và bình an. Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, 6 làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. A-men! 7 Kìa, Người ngự đến giữa đám mây. Ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người. Đúng thế! A-men!

8 Đức Chúa là Thiên Chúa phán: ”Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng.”

Thị kiến mở đầu

9 Tôi là Gio-an, một người anh em của anh em, tôi cùng chia sẻ nỗi gian truân, cùng hưởng vương quốc và cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong Đức Giê-su. Lúc ấy, tôi đang ở đảo gọi là Pát-mô, vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và lời chứng của Đức Giê-su. 10 Tôi đã xuất thần vào ngày của Chúa và nghe đằng sau tôi có một tiếng lớn như thể tiếng kèn 11 nói rằng: ”Điều ngươi thấy, hãy ghi vào sách và gửi cho bảy Hội Thánh: Ê-phê-xô, Xi-miếc-na, Péc-ga-mô, Thy-a-ti-ra, Xác-đê, Phi-la-đen-phi-a và Lao-đi-ki-a.” 12 Tôi quay lại để xem tiếng ai nói với tôi. Khi quay lại, tôi thấy bảy cây đèn vàng. 13 Ở giữa các cây đèn, có ai giống như Con Người mình mặc áo chùng và ngang ngực có thắt đai bằng vàng. 14 Đầu Người tóc trắng như len trắng, như tuyết; mắt Người như ngọn lửa hồng; 15 chân Người giống như đồng đỏ được tôi luyện trong lò; và tiếng Người như tiếng nước lũ. 16 Tay hữu Người cầm bảy ngôi sao và từ miệng Người phóng ra một thanh gươm hai lưỡi sắc bén. Mặt Người toả sáng như mặt trời chói lọi.

17 Lúc thấy Người, tôi ngã vật xuống dưới chân Người, như chết vậy. Người đặt tay hữu lên tôi và nói: ”Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. 18 Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ. 19 Vậy ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này. 20 Đây là ý nghĩa mầu nhiệm của bảy ngôi sao ngươi đã thấy trên tay hữu Ta, và của bảy cây đèn vàng: bảy ngôi sao là các thiên thần của bảy Hội Thánh, và bảy cây đèn là bảy Hội Thánh.

Chương 2

I. Ê-phê-xô

1 Hãy viết cho thiên thần của Hội Thánh Ê-phê-xô: Đây là lời của Đấng cầm trong tay hữu bảy vì sao, Đấng đi giữa bảy cây đèn vàng: 2 Ta biết các việc ngươi làm, nỗi vất vả và lòng kiên nhẫn của ngươi; Ta biết ngươi không thể chịu đựng kẻ ác. Ngươi đã thử thách những kẻ xưng mình là tông đồ, mà thực ra không phải, và ngươi đã thấy rằng chúng là những kẻ nói dối. 3 Ngươi có lòng kiên nhẫn và đã chịu khổ vì danh Ta mà không mệt mỏi. 4 Nhưng Ta trách ngươi điều này: ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu. 5 Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu. Bằng không, Ta đến với ngươi, và Ta sẽ đem cây đèn của ngươi ra khỏi chỗ của nó, nếu ngươi không hối cải. 6 Nhưng ngươi được điều này: ngươi ghét các việc của bè Ni-cô-la, như chính Ta cũng ghét. 7 Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh: Ai thắng, Ta sẽ cho ăn quả cây sự sống trồng nơi ngự uyển của Thiên Chúa.

II. Xi-miếc-na

8 Hãy viết cho thiên thần của Hội Thánh Xi-miếc-na: Đây là lời của Đấng là Đầu và là Cuối, Đấng đã chết và đã sống lại: 9 Ta biết nỗi gian truân, và cảnh nghèo khó của ngươi- nhưng thực ra ngươi giàu có- cũng như Ta biết lời vu khống của những kẻ xưng mình là Do-thái, mà thực ra không phải: chúng chỉ là thành viên thuộc hội đường của Xa-tan. 10 Đừng sợ các nỗi đau khổ ngươi sắp phải chịu: này ma quỷ sắp tống một số người trong các ngươi vào ngục để thử thách các ngươi; các ngươi sẽ phải lâm cảnh gian truân trong vòng mười ngày. Hãy trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống. 11 Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh: Ai thắng sẽ không hề bị cái chết thứ hai làm hại.

III. Péc-ga-mô

12 Hãy viết cho thiên thần của Hội Thánh Péc-ga-mô: Đây là lời của Đấng mang thanh gươm hai lưỡi sắc bén: 13 Ta biết ngươi ở đâu: ở nơi đặt ngai của Xa-tan. Nhưng ngươi gắn bó với danh Ta và không chối bỏ lòng tin vào Ta, ngay cả trong thời An-ti-pa. Ông này là chứng nhân trung thành của Ta, ông đã bị giết trong thành của các ngươi, nơi Xa-tan ở. 14 Nhưng Ta có ít điều trách ngươi: ở đó ngươi có những kẻ nắm giữ đạo lý của Bi-lơ-am. Ông này đã dạy Ba-lác gây cớ vấp ngã cho con cái Ít-ra-en, khiến chúng ăn đồ cúng và làm chuyện gian dâm. 15 Cả ngươi nữa, ngươi cũng có những kẻ nắm giữ đạo lý bè Ni-cô-la. 16 Vậy hãy hối cải; bằng không, Ta đến với ngươi ngay tức khắc và sẽ dùng lưỡi gươm từ miệng Ta mà giao chiến với chúng. 17 Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh: Ai thắng, Ta sẽ ban cho man-na đã được giấu kỹ; Ta cũng sẽ ban cho nó một viên sỏi trắng, trên sỏi đó có khắc một tên mới; chẳng ai biết được tên ấy, ngoài kẻ lãnh nhận.

IV. Thy-a-ti-ra

18 Hãy viết cho thiên thần của Hội Thánh Thy-a-ti-ra: Đây là lời của Con Thiên Chúa, Đấng có mắt như ngọn lửa hồng và chân giống như đồng đỏ: 19 Ta biết các việc ngươi làm, biết đức ái, đức tin, công việc phục vụ và lòng kiên nhẫn của ngươi; Ta cũng biết rằng những việc của ngươi bây giờ thì nhiều hơn trước kia. 20 Nhưng Ta trách ngươi điều này: ngươi dung túng I-de-ven, người đàn bà xưng mình là nữ ngôn sứ; nó mê hoặc các tôi tớ của Ta, dạy chúng làm chuyện gian dâm và ăn đồ cúng. 21 Ta đã cho nó có thời giờ hối cải, nhưng nó không muốn hối cải mà từ bỏ thói gian dâm. 22 Này đây, Ta bắt nó phải liệt giường, và làm cho những kẻ ngoại tình với nó phải lâm cảnh gian truân khốn khổ, nếu chúng không hối cải mà từ bỏ những việc chúng làm. 23 Ta sẽ giết chết con cái của nó. Tất cả các Hội Thánh sẽ biết rằng Ta là Đấng dò thấu lòng dạ, và Ta sẽ tuỳ theo việc các ngươi làm mà thưởng phạt mỗi người. 24 Còn các ngươi, những người khác ở Thy-a-ti-ra, những kẻ không theo đạo lý ấy, không biết đến cái mà chúng gọi là “các bí mật thâm sâu của Xa-tan", thì Ta bảo các ngươi: Ta không bắt các ngươi phải mang gánh nặng nào khác. 25 Nhưng cái gì các ngươi đang có, hãy nắm chắc cho tới khi Ta đến. 26 Ai thắng và giữ cho đến cùng các việc Ta truyền, Ta sẽ ban cho người ấy quyền cai trị các dân: 27 Người ấy sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt chúng, sẽ nghiền nát chúng như đồ sành đồ gốm. 28 Đó là quyền mà chính Ta đã được Cha Ta trao cho. Ta sẽ ban Sao Mai cho người ấy. 29 Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh.

Chương 3

V. Xác-đê

1 Hãy viết cho thiên thần của Hội Thánh Xác-đê. Đây là lời của Đấng có bảy Thần Khí Thiên Chúa và bảy ngôi sao: Ta biết các việc ngươi làm, biết ngươi được tiếng là đang sống, mà thực ra đã chết. 2 Hãy tỉnh thức! Hãy củng cố chút sức còn lại đang suy tàn, vì Ta nhận thấy các việc của ngươi không được hoàn hảo trước mặt Thiên Chúa của Ta. 3 Vậy hãy nhớ lại: ngươi đã lãnh nhận và nghe Lời Chúa thế nào; hãy tuân giữ và hối cải! Vậy nếu ngươi không tỉnh thức, thì Ta sẽ đến như kẻ trộm, ngươi chẳng biết giờ nào Ta sẽ đến bắt chợt ngươi. 4 Nhưng tại Xác-đê, ngươi có một ít người đã không làm nhơ bẩn áo mình; họ sẽ mặc áo trắng cùng đi với Ta, vì họ xứng đáng. 5 Như thế, ai thắng sẽ được mặc áo trắng; Ta sẽ không xoá tên người ấy khỏi Sổ Trường Sinh; Ta sẽ nhận người ấy trước mặt Cha Ta và trước mặt các thiên thần của Người. 6 Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh.

VI. Phi-la-đen-phi-a

7 Hãy viết cho thiên thần của Hội Thánh Phi-la-đen-phi-a: Đây là lời của Đấng Thánh, Đấng Chân Thật, Đấng giữ chìa khoá vua Đa-vít, Người mở ra thì không ai đóng lại được, Người đóng lại thì không ai mở ra được. 8 Ta biết các việc ngươi làm: này Ta để một cửa mở trước mặt ngươi, không ai có thể đóng lại được, bởi vì tuy ngươi ít thế lực, ngươi cũng đã giữ lời Ta và đã không chối bỏ danh Ta. 9 Này Ta sẽ ban cho ngươi một số người thuộc hội đường của Xa-tan, những kẻ xưng mình là Do-thái, mà thực ra không phải, vì chúng nói dối. Này Ta sẽ bắt chúng đến phủ phục dưới chân ngươi và nhận biết rằng Ta đã yêu mến ngươi. 10 Vì ngươi đã giữ lời Ta dạy phải kiên nhẫn chịu đựng, nên Ta cũng giữ gìn ngươi cho khỏi giờ thử thách sắp xảy đến trên toàn cõi địa cầu, để thử thách những người sống trên mặt đất. 11 Chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến; cái gì ngươi đang có, hãy nắm chắc, đừng để ai lấy mất triều thiên dành cho ngươi. 12 Ai thắng, Ta sẽ cho làm cột trụ trong Đền Thờ Thiên Chúa của Ta, người ấy sẽ không hề ra khỏi đó nữa. Ta sẽ ghi trên người ấy danh thánh Thiên Chúa của Ta, và tên thành đô Thiên Chúa của Ta, là Giê-ru-sa-lem mới từ trời, từ nơi Thiên Chúa của Ta mà xuống. Ta cũng sẽ ghi trên người ấy tên mới của Ta. 13 Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh.

VII. Lao-đi-ki-a

14 Hãy viết cho thiên thần của Hội Thánh Lao-đi-ki-a: Đây là lời của Đấng A-men, là Chứng Nhân trung thành và chân thật, là Khởi Nguyên của mọi loài Thiên Chúa tạo dựng. 15 Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! 16 Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta. 17 Ngươi nói: ”Tôi giàu có, tôi đã làm giàu, tôi chẳng thiếu thốn chi"; nhưng ngươi không biết rằng ngươi là kẻ khốn nạn, đáng thương, nghèo khổ, đui mù và trần truồng. 18 Vì thế, Ta khuyên ngươi đến với Ta mà mua vàng đã thử lửa để làm giàu, mua áo trắng để mặc khiến ngươi khỏi xấu hổ vì để lộ thân thể trần truồng, mua thuốc để xức mắt cho ngươi nhìn thấy được. 19 Phần Ta, mọi kẻ Ta yêu mến, thì Ta răn bảo dạy dỗ. Vậy hãy nhiệt thành và hối cải ăn năn! 20 Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta. 21 Ai thắng, Ta sẽ cho ngự bên Ta trên ngai của Ta, cũng như Ta đã thắng và ngự bên Cha Ta trên ngai của Người. 22 Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh.”

Chương 4

II. CÁC THỊ KIẾN

1. CHUẨN BỊ”NGÀY LỚN LAO" CỦA THIÊN CHÚA

Thiên Chúa trao vận mệnh thế giới cho Con Chiên

1 Sau đó, tôi được một thị kiến. Kìa một cái cửa mở ra ở trên trời, và tiếng mà trước đây tôi nghe nói với tôi như thể tiếng kèn, bảo tôi rằng: ”Lên đây, Ta sẽ chỉ cho ngươi thấy những điều phải xảy ra sau đó.” 2 Lập tức tôi xuất thần. Kìa một cái ngai đặt ở trên trời và có một Đấng ngự trên ngai. 3 Đấng ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não. Chung quanh ngai có cầu vồng trông giống như bích ngọc. 4 Chung quanh ngai có hai mươi bốn ngai khác, và trên những ngai đó có hai mươi bốn vị Kỳ Mục; các vị đang ngồi, mình mặc áo trắng, đầu đội triều thiên vàng. 5 Từ ngai phát ra ánh chớp, tiếng sấm tiếng sét. Bảy ngọn đuốc, tức là bảy thần khí của Thiên Chúa cháy sáng trước ngai. 6 Trước ngai có cái gì như biển trong vắt tựa pha lê. Ở giữa ngai và chung quanh ngai có bốn Con Vật, đằng trước và đằng sau đầy những mắt. 7 Con Vật thứ nhất giống như sư tử, Con Vật thứ hai giống như bò tơ, Con Vật thứ ba có mặt như mặt người, Con Vật thứ bốn giống như đại bàng đang bay. 8 Bốn Con Vật ấy, mỗi con có sáu cánh, chung quanh và bên trong đầy những mắt. Ngày đêm chúng không ngừng hô lên rằng:

Thánh! Thánh! Chí Thánh!

Đức Chúa, Thiên Chúa toàn năng,

Đấng đã có, hiện có và đang đến!

9 Mỗi khi những Con Vật ấy kính dâng vinh quang, danh dự và lời tạ ơn lên Đấng ngự trên ngai, Đấng hằng sống đến muôn thuở muôn đời, 10 thì hai mươi bốn vị Kỳ Mục phủ phục xuống trước mặt Đấng ngự trên ngai mà thờ lạy Người, Đấng hằng sống đến muôn thuở muôn đời, rồi đặt triều thiên của mình xuống trước ngai mà nói:

11 “Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con,

Ngài xứng đáng lãnh nhận

vinh quang, danh dự và uy quyền,

vì Ngài đã dựng nên muôn vật,

và do ý Ngài muốn,

mọi loài liền có và được dựng nên.”

Chương 5

1 Tôi thấy trong tay hữu Đấng ngự trên ngai một cuốn sách viết cả trong lẫn ngoài, niêm bảy ấn. 2 Rồi tôi thấy một thiên thần dũng mãnh lớn tiếng công bố: ”Ai xứng đáng mở cuốn sách và tháo ấn niêm phong?” 3 Nhưng không ai ở trên trời, dưới đất hay trong lòng đất, có thể mở cuốn sách và nhìn vào đó. 4 Tôi khóc nức nở, vì không ai được coi là xứng đáng mở cuốn sách và nhìn vào đó. 5 Một trong các vị Kỳ Mục bảo tôi: ”Đừng khóc nữa! Này đây, Sư Tử xuất thân từ chi tộc Giu-đa, Chồi Non của Đa-vít đã chiến thắng, Người sẽ mở cuốn sách và bảy ấn niêm phong.”

6 Bấy giờ tôi thấy đứng ở giữa ngai và bốn Con Vật, giữa các vị Kỳ Mục, một Con Chiên, trông như thể đã bị giết; Chiên đó có bảy sừng và bảy mắt, tức là bảy thần khí của Thiên Chúa đã được sai đi khắp mặt đất. 7 Con Chiên đến lãnh cuốn sách từ tay hữu Đấng ngự trên ngai. 8 Khi Con Chiên đã lãnh cuốn sách, thì bốn Con Vật và hai mươi bốn vị Kỳ Mục phủ phục xuống trước mặt Con Chiên, mỗi vị tay cầm đàn, tay nâng chén vàng đầy hương thơm, tức là những lời cầu nguyện của dân thánh. 9 Các vị hát một bài ca mới rằng:

"Ngài xứng đáng lãnh nhận cuốn sách

và mở ấn niêm phong, vì Ngài đã bị giết

và đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa

muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ,

thuộc mọi nước, mọi dân.

10 Ngài cũng làm cho họ

thành một vương quốc, thành những tư tế,

để phụng thờ Thiên Chúa chúng ta,

và họ sẽ làm chủ mặt đất này.”

11 Tôi thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu. 12 Các vị lớn tiếng hô:

"Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận

phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh,

danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc.”

13 Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô:

"Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên

lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng

đến muôn thuở muôn đời!”

14 Bốn Con Vật thưa: ”A-men.” Và các Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy.

Chương 6

Con Chiên mở ấn

1 Tôi lại thấy: khi Con Chiên mở ấn thứ nhất trong bảy ấn, thì tôi nghe một trong bốn Con Vật hô lên, tiếng vang như sấm: ”Hãy đến!”2 Tôi thấy: kìa một con ngựa trắng, và người cỡi ngựa mang cung. Người ấy được tặng một triều thiên và ra đi như người thắng trận, để chiến thắng.

3 Khi Con Chiên mở ấn thứ hai, thì tôi nghe Con Vật thứ hai hô: ”Hãy đến!”4 Một con ngựa khác đi ra, đỏ như lửa, người cỡi ngựa nhận được quyền cất hoà bình khỏi mặt đất, để cho người ta giết nhau; người ấy được ban một thanh gươm lớn.

5 Khi Con Chiên mở ấn thứ ba, thì tôi nghe Con Vật thứ ba hô: ”Hãy đến!” Tôi thấy: kìa một con ngựa ô, và người cỡi ngựa cầm cân trong tay. 6 Tôi lại nghe như có tiếng nói từ giữa bốn Con Vật vang lên: ”Một cân lúa mì, một quan tiền! Ba cân lúa mạch, một quan tiền! Còn dầu và rượu, thì chớ đụng đến!”

7 Khi Con Chiên mở ấn thứ bốn, thì tôi nghe tiếng Con Vật thứ bốn hô: ”Hãy đến!”8 Tôi thấy: kìa một con ngựa xanh nhạt, và người cỡi ngựa mang tên là Tử thần, có Âm phủ theo sau.

Chúng nhận được quyền hành trên một phần tư mặt đất, để giết bằng gươm giáo, đói kém, ôn dịch và thú dữ sống trên đất.

9 Khi Con Chiên mở ấn thứ năm, thì tôi thấy dưới bàn thờ, linh hồn của những người đã bị giết vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và đã làm chứng. 10 Họ lớn tiếng kêu: ”Lạy Chúa chí thánh và chân thật, cho đến bao giờ Ngài còn trì hoãn, không xét xử và không bắt những người sống trên mặt đất phải đền nợ máu chúng con?” 11 Bấy giờ mỗi người trong số họ được lãnh một áo trắng; và có lời phán bảo họ cứ nghỉ yên một thời gian ngắn nữa, chờ cho đủ số những người cũng là tôi tớ Thiên Chúa và là anh em của họ, sắp bị giết như họ.

12 Tôi thấy: khi Con Chiên mở ấn thứ sáu, có động đất mạnh. Mặt trời tối đen như vải thợ dệt bằng lông, mặt trăng hoàn toàn ra như máu. 13 Sao trên trời sa xuống đất, tựa những trái vả xanh rụng xuống từ cây vả bị gió lớn lay mạnh. 14 Trời bị cuốn đi như một cuốn sách cuộn lại, mọi núi non và hải đảo bị dời đi nơi khác. 15 Vua chúa trần gian, vương hầu khanh tướng, người giàu sang, kẻ quyền thế, và mọi người, nô lệ hay tự do, tất cả đều phải trốn vào hang hốc và núi đá. 16 Họ bảo núi và đá: ”Đổ xuống đè ta đi và che giấu ta cho khuất mắt Đấng ngự trên ngai, cho khỏi cơn thịnh nộ của Con Chiên; 17 vì Ngày lớn lao, Ngày thịnh nộ của các Ngài đã tới, và ai có thể đứng vững được?”

Chương 7

Các tôi tớ Thiên Chúa sẽ được bảo vệ

1 Sau đó, tôi thấy có bốn thiên thần đứng ở bốn phương của mặt đất, giữ bốn ngọn gió của đất lại, không cho ngọn gió nào thổi trên đất liền, trên biển cả cũng như trên mọi cây cối. 2 Tôi lại thấy một thiên thần khác, mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên. Thiên thần ấy lớn tiếng bảo bốn thiên thần khác, là những vị được quyền phá hại đất liền và biển cả, 3 rằng: ”Xin đừng phá hại đất liền, biển cả và cây cối, trước khi chúng tôi đóng ấn trên trán các tôi tớ của Thiên Chúa chúng ta". 4 Rồi tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn, thuộc mọi chi tộc con cái Ít-ra-en.

5 Chi tộc Giu-đa có mười hai ngàn người được đóng ấn; chi tộc Rưu-vên: mười hai ngàn; chi tộc Gát: mười hai ngàn; 6 chi tộc A-se: mười hai ngàn; chi tộc Náp-ta-li: mười hai ngàn; chi tộc Mơ-na-se: mười hai ngàn; 7 chi tộc Si-mê-ôn: mười hai ngàn; chi tộc Lê-vi: mười hai ngàn; chi tộc Ít-xa-kha: mười hai ngàn; 8 chi tộc Dơ-vu-lun: mười hai ngàn; chi tộc Giu-se: mười hai ngàn; chi tộc Ben-gia-min có mười hai ngàn người được đóng ấn.

Cuộc khải hoàn trên thiên quốc

9 Sau đó, tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. 10 Họ lớn tiếng tung hô: ”Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta.” 11 Tất cả các thiên thần đều đứng chung quanh ngai, chung quanh các Kỳ Mục và bốn Con Vật. Họ đều sấp mặt xuống, phủ phục trước ngai và thờ lạy Thiên Chúa mà tung hô 12 rằng:

"A-men! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta

lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn,

danh dự, uy quyền và sức mạnh,

đến muôn thuở muôn đời! A-men!”

13 Một trong các Kỳ Mục lên tiếng hỏi tôi: ”Những người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ từ đâu đến?” 14 Tôi trả lời: ”Thưa Ngài, Ngài biết đó.” Vị ấy bảo tôi: ”Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. 15 Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. 16 Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. 17 Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ.”

Chương 8

Mở ấn thứ bảy

1 Khi Con Chiên mở ấn thứ bảy, thì cả trời yên lặng chừng nửa giờ. . .

Lời cầu nguyện của dân thánh

2 Rồi tôi thấy bảy thiên thần đứng chầu trước nhan Thiên Chúa; các vị ấy lãnh nhận bảy chiếc kèn. 3 Một thiên thần khác đến đứng trước bàn thờ, tay cầm bình hương vàng. Thiên thần lãnh nhận nhiều hương thơm, để dâng trên bàn thờ bằng vàng trước ngai Thiên Chúa, cùng với những lời cầu nguyện của toàn thể dân thánh. 4 Từ tay thiên thần, khói hương quyện theo lời cầu nguyện của dân thánh, bay lên trước nhan Thiên Chúa. 5 Rồi thiên thần cầm bình hương, lấy lửa trên bàn thờ bỏ đầy vào và ném xuống đất. Liền có tiếng sấm, tiếng sét, ánh chớp và động đất.

Bốn tiếng kèn đầu tiên

6 Bảy thiên thần cầm bảy kèn sửa soạn thổi. 7 Tiếng kèn của vị thứ nhất nổi lên. Mưa đá và lửa, hoà với máu, trút xuống đất. Một phần ba mặt đất bị thiêu huỷ, một phần ba cây cối bị thiêu huỷ, và tất cả cỏ xanh bị thiêu huỷ.

8 Tiếng kèn của thiên thần thứ hai nổi lên. Có cái gì như quả núi lớn rực lửa bị ném xuống biển. Một phần ba biển hoá thành máu. 9 Một phần ba các loài thụ tạo sống dưới biển bị chết, và một phần ba tàu bè bị phá huỷ.

10 Tiếng kèn của thiên thần thứ ba nổi lên. Từ trời rơi xuống một ngôi sao lớn cháy như đuốc. Sao rơi xuống một phần ba sông ngòi và xuống các nguồn nước. 11 Tên ngôi sao là Ngải Đắng. Một phần ba nước hoá thành ngải đắng, và có nhiều người chết vì thứ nước đã hoá đắng ấy.

12 Tiếng kèn của thiên thần thứ bốn nổi lên. Một phần ba mặt trời, một phần ba mặt trăng và một phần ba các ngôi sao bị đánh trúng, khiến chúng tối đi một phần ba, ngày mất sáng một phần ba và đêm cũng thế.

13 Tôi thấy, và tôi nghe một con đại bàng bay trên đỉnh vòm trời, kêu lớn tiếng: ”Khốn thay! Khốn thay! Khốn thay những người sống trên mặt đất, vì sắp nổi lên những tiếng kèn còn lại của ba thiên thần!”

Chương 9

Tiếng kèn thứ năm

1 Tiếng kèn của thiên thần thứ năm nổi lên. Tôi thấy một ngôi sao từ trời sa xuống đất; ngôi sao ấy nhận được chìa khoá của giếng vực thẳm. 2 Ngôi sao mở giếng vực thẳm, và một đám khói từ giếng bốc lên, giống như khói một cái lò lớn, khiến mặt trời và không khí tối sầm lại vì khói của giếng ấy. 3 Từ đám khói ấy, châu chấu bay ra khắp mặt đất. Chúng nhận được quyền phép như quyền phép của bọ cạp trên mặt đất. 4 Chúng bị cấm không được phá hại cỏ trên mặt đất, mọi loài xanh tươi và mọi cây cối, mà chỉ được phá hại những người không mang ấn của Thiên Chúa trên trán. 5 Chúng không được phép giết họ, mà chỉ được gây khổ hình cho họ trong vòng năm tháng. Khổ hình chúng gây ra không khác gì khổ hình của người bị bọ cạp đốt. 6 Trong những ngày ấy, người ta sẽ tìm cái chết mà không thấy, họ mong chết mà cái chết lại trốn họ.

7 Hình dạng châu chấu giống như ngựa sẵn sàng vào trận; trên đầu chúng có cái gì như thể triều thiên bằng vàng, còn mặt chúng thì như mặt người. 8 Chúng có tóc như tóc đàn bà, có răng tựa răng sư tử. 9 Ngực chúng khác nào áo giáp sắt, và tiếng cánh chúng đập, như tiếng xe nhiều ngựa kéo đang xông vào trận. 10 Chúng có đuôi như đuôi bọ cạp, mang nọc; đuôi chúng có quyền phép làm hại người ta trong vòng năm tháng. 11 Vua cai trị chúng là thần sứ của vực thẳm, tên Híp-ri là “A-vát-đôn", còn tên Hy-lạp là “A-pô-ly-on".

12 Cái Khốn thứ nhất đã qua, nhưng này còn hai cái Khốn nữa theo sau.

Tiếng kèn thứ sáu

13 Tiếng kèn của thiên thần thứ sáu nổi lên. Tôi nghe có một tiếng phát ra từ bốn sừng của bàn thờ bằng vàng ở trước nhan Thiên Chúa. 14 Tiếng ấy bảo thiên thần thứ sáu đang cầm kèn: ”Hãy thả bốn vị thiên thần đang bị trói ở sông cả Êu-phơ-rát.” 15 Bốn thiên thần được thả ra, các vị sẵn sàng để đúng vào năm, tháng, ngày, giờ ấy thì giết một phần ba loài người. 16 Số các đạo quân là hai trăm triệu kỵ binh; tôi được nghe biết con số ấy. 17 Trong thị kiến, tôi thấy ngựa và người cỡi ngựa như thế này: chúng mặc áo giáp màu lửa, màu huỳnh ngọc và diêm sinh; đầu ngựa như đầu sư tử, và mõm chúng phun ra lửa, khói và diêm sinh. 18 Một phần ba loài người bị ba tai ương ấy giết, tức là lửa, khói và diêm sinh từ mõm ngựa phun ra. 19 Quả thế, quyền phép của ngựa thì ở mõm và ở đuôi chúng, vì đuôi chúng như rắn, có đầu, và chúng dùng đầu ấy mà làm hại. 20 Những người còn lại, những người không bị các tai ương ấy giết, vẫn không chịu hối cải mà từ bỏ các sản phẩm tay chúng làm ra, vẫn cứ thờ lạy ma quỷ và các tượng thần bằng vàng, bạc, đồng, đá, gỗ, là những tượng không thấy, không nghe và không đi được. 21 Họ không chịu hối cải mà từ bỏ những tội giết người, phù phép, gian dâm, trộm cắp của họ.

Chương 10

Hình phạt cuối cùng đang tới

1 Sau đó, tôi thấy một thiên thần dũng mãnh khác từ trời xuống, có mây bao phủ, có hào quang trên đầu; mặt thiên thần tựa mặt trời, còn chân thì như những cột lửa. 2 Người cầm trong tay một cuốn sách nhỏ mở sẵn, Người đặt chân phải lên biển, chân trái lên đất, 3 và kêu lớn tiếng như sư tử gầm. Người kêu xong, thì bảy hồi sấm lên tiếng nói. 4 Bảy hồi sấm nói xong, tôi sắp sửa viết thì nghe tiếng từ trời phán: ”Hãy niêm phong lại những gì bảy hồi sấm đã nói, đừng có viết.” 5 Bấy giờ thiên thần tôi đã thấy đứng trên biển và đất, giơ tay hữu lên trời6 mà thề nhân danh Đấng Hằng Sống đến muôn thuở muôn đời, Đấng đã sáng tạo trời và muôn vật trên trời, đất và muôn vật dưới đất, biển và muôn vật trong biển. Người thề: ”Sẽ không trì hoãn nữa! 7 Nhưng trong những ngày tiếng kèn của thiên thần thứ bảy bắt đầu nổi lên, thì mầu nhiệm của Thiên Chúa sẽ hoàn tất, như Người đã loan báo cho các tôi tớ của Người là các ngôn sứ.”

Nuốt cuốn sách nhỏ

8 Rồi tiếng tôi đã nghe từ trời, lại nói với tôi và bảo: ”Hãy đi lấy cuốn sách mở sẵn trong tay thiên thần đang đứng trên biển và đất.” 9 Tôi đến gặp thiên thần và xin người cho tôi cuốn sách nhỏ. Người bảo tôi: ”Cầm lấy mà nuốt đi! Nó sẽ làm cho bụng dạ ông phải cay đắng, nhưng trong miệng ông, nó sẽ ngọt ngào như mật ong.” 10 Tôi cầm lấy cuốn sách nhỏ từ tay thiên thần và nuốt đi. Trong miệng tôi nó ngọt ngào như mật ong, nhưng khi tôi nuốt rồi, thì bụng dạ tôi cay đắng. 11 Và có tiếng bảo tôi: ”Một lần nữa, ông phải tuyên sấm về nhiều nước, nhiều dân, nhiều ngôn ngữ và vua chúa.”

Chương 11

Hai chứng nhân

1 Bấy giờ tôi nhận được một cây sậy, giống như một cái gậy, và nghe bảo: ”Hãy đứng dậy mà đo Đền Thờ Thiên Chúa và bàn thờ cùng với những người đang thờ phượng trong đó. 2 Nhưng tiền đình phía ngoài của Đền Thờ, thì bỏ đi, đừng đo, vì chỗ ấy đã được phó mặc cho dân ngoại, chúng sẽ chà đạp Thành Thánh trong vòng bốn mươi hai tháng. 3 Trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày ấy, Ta sẽ cho hai chứng nhân của Ta đến tuyên sấm, mình mặc áo vải thô.” 4 Đó là hai cây ô-liu và hai cây đèn đứng trước nhan Chúa Tể cõi đất. 5 Nếu ai muốn làm hại các ngài, thì lửa sẽ từ miệng các ngài phát ra và thiêu huỷ thù địch của các ngài. Ai muốn làm hại các ngài, sẽ bị giết như thế. 6 Các ngài có quyền đóng cửa trời lại, khiến mưa không rơi xuống trong những ngày các ngài làm ngôn sứ. Các ngài cũng có quyền biến nước thành máu và gieo tai giáng hoạ xuống mặt đất, bao nhiêu lần tuỳ ý. 7 Khi các ngài đã hoàn thành nhiệm vụ làm chứng, thì Con Thú từ vực thẳm sẽ lên tấn công các ngài, nó sẽ thắng và giết các ngài. 8 Thi hài của các ngài sẽ nằm ở quảng trường của thành phố vĩ đại; thành phố ấy mang tên tượng trưng là Xơ-đôm và Ai-cập, ở chính nơi Chúa của các ngài đã chịu đóng đinh vào thập giá. 9 Từ các dân, các nước, các ngôn ngữ và các chi tộc, người ta sẽ đến nhìn xem thi hài các ngài trong ba ngày rưỡi và không cho phép chôn các ngài trong mộ. 10 Những người sống trên mặt đất hân hoan vì các ngài đã chết, họ sẽ ăn mừng và tặng quà nhau, vì hai ngôn sứ này đã làm khổ họ. 11 Sau ba ngày rưỡi, sinh khí từ Thiên Chúa đến nhập vào các ngài, và các ngài đứng dậy được. Những kẻ đang nhìn các ngài đều kinh hãi. 12 Rồi các ngài nghe một tiếng lớn từ trời bảo: ”Hãy lên đây!” Và các ngài lên trời trong đám mây, trước mắt thù địch của các ngài. 13 Ngay giờ ấy, xảy ra một trận động đất mạnh; một phần mười thành phố bị sụp đổ và bảy ngàn người bị giết trong cơn động đất. Những người còn lại thì sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa trên trời.

Tiếng kèn thứ bảy

14 Cái Khốn thứ hai đã qua, thì này cái Khốn thứ ba lại sắp đến.

15 Tiếng kèn của thiên thần thứ bảy nổi lên. Trên trời có những tiếng lớn nói rằng: ”Vương quyền trên thế gian nay đã thuộc về Chúa chúng ta và Đức Ki-tô của Người; Người sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn đời.” 16 Hai mươi bốn vị Kỳ Mục ngồi trên ngai trước nhan Thiên Chúa, liền sấp mặt xuống, phủ phục mà thờ lạy Thiên Chúa. 17 Các vị ấy nói:

"Lạy Chúa là Thiên Chúa toàn năng

Đấng hiện có và đã có,

chúng con xin cảm tạ Ngài

đã sử dụng quyền năng mạnh mẽ

và lên ngôi hiển trị.

18 Chư dân đã nổi trận lôi đình,

nhưng cơn lôi đình Ngài ập tới,

và đã đến thời xét xử các vong nhân,

thời ân thưởng các ngôn sứ, bề tôi của Chúa,

cũng như muôn kẻ thuộc về Ngài,

và những ai lớn nhỏ hằng kính sợ Thánh Danh;

đã đến thời huỷ diệt những kẻ nào huỷ hoại mặt đất.”

19 Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và Hòm Bia Giao Ước xuất hiện trong Đền Thờ. Và có ánh chớp, tiếng sấm tiếng sét, động đất và mưa đá lớn.

Chương 12

Người Phụ Nữ và Con Mãng Xà

1 Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. 2 Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con. 3 Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. 4 Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà. 5 Bà đã sinh được một người con, một người con trai, người con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người. 6 Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày.

7 Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Mi-ca-en và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến. 8 Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không còn chỗ trên trời nữa. 9 Con Mãng Xà bị tống ra, đó là Con Rắn xưa, mà người ta gọi là ma quỷ hay Xa-tan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ; nó bị tống xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó. 10 Và tôi nghe có tiếng hô to trên trời:

"Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ,

giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền,

và Đức Ki-tô của Người

giờ đây cũng biểu dương quyền bính,

vì kẻ tố cáo anh em của ta,

ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa,

nay bị tống ra ngoài.

11 Họ đã thắng được nó nhờ máu Con Chiên

và nhờ lời họ làm chứng về Đức Ki-tô:

họ coi thường tính mạng, sẵn sàng chịu chết.

12 Nào thiên quốc cùng chư vị ở chốn thiên đình,

hãy vì đó mà mừng vui hoan hỷ!

Khốn cho đất và biển, vì ma quỷ đã xuống với các ngươi,

nó giận điên lên vì biết rằng nó chỉ còn một ít thời gian.”

13 Khi Con Mãng Xà thấy mình đã bị tống xuống đất, nó liền đuổi bắt người Phụ Nữ đã sinh con trai. 14 Bà được ban cho đôi cánh đại bàng, để bay vào sa mạc, vào nơi dành cho bà, tại đó bà được nuôi dưỡng một thời, hai thời và nửa thời, ở xa Con Rắn. 15 Từ miệng, Con Rắn phun nước ra đằng sau bà như một dòng sông, để cuốn bà đi. 16 Nhưng đất cứu giúp bà: đất há miệng ra uống cạn dòng sông từ miệng Con Mãng Xà phun ra. 17 Con Mãng Xà nổi giận với người Phụ Nữ và đi giao chiến với những người còn lại trong dòng dõi bà, là những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và giữ lời chứng của Đức Giê-su. 18 Rồi nó đứng trên bãi cát ngoài biển.

Chương 13

Con Mãng Xà ban quyền cho Con Thú

1 Bấy giờ tôi thấy một Con Thú từ dưới biển đi lên; nó có mười sừng và bảy đầu; trên mười sừng đều có vương miện, và trên các đầu có danh hiệu xúc phạm đến Thiên Chúa. 2 Con Thú tôi trông thấy thì giống như con báo, chân nó như chân gấu, mõm như mõm sư tử. Con Mãng Xà ban cho nó quyền năng và ngai báu của mình cũng như một quyền hành lớn lao. 3 Một trong các đầu của nó dường như đã bị giết chết, nhưng vết tử thương của nó đã được chữa lành. Bấy giờ toàn thể cõi đất thán phục đi theo Con Thú. 4 Họ thờ lạy Con Mãng Xà vì nó đã ban quyền hành cho Con Thú, và họ cũng thờ lạy Con Thú mà rằng: ”Ai sánh được với Con Thú và ai có thể giao chiến với Con Thú?” 5 Nó đã được ban cho một cái mồm ăn nói huênh hoang và phạm thượng, và được ban cho quyền hành động trong vòng bốn mươi hai tháng. 6 Nó mở miệng nói phạm đến Thiên Chúa, đến danh Người, đến lều thánh của Người, và những đấng ở trên trời. 7 Nó được phép giao chiến với dân thánh và thắng họ, và nó được ban quyền trên mọi chi tộc, mọi nước, mọi ngôn ngữ và mọi dân. 8 Mọi người sống trên mặt đất sẽ thờ lạy nó; đó là những người từ thuở tạo thiên lập địa không được ghi tên trong Sổ Trường Sinh của Con Chiên đã bị giết. 9 Ai có tai thì hãy nghe. 10 Ai phải đi đày thì đi đày, ai phải chết vì gươm thì sẽ chết vì gươm. Đây là lúc dân thánh cần phải có lòng kiên nhẫn và đức tin.

Ngôn sứ giả phục vụ Con Thú

11 Tôi thấy một Con Thú khác từ đất đi lên. Nó có hai sừng giống như sừng chiên, và nói năng như một Con Mãng Xà. 12 Nó thi hành tất cả quyền bính của Con Thú thứ nhất, trước mặt Con Thú ấy, và làm cho đất, cũng như những người sống trên mặt đất, thờ lạy Con Thú thứ nhất, mà vết tử thương đã được chữa lành. 13 Nó làm những dấu lạ lớn lao, khiến cho ngay cả lửa từ trời cũng rơi xuống đất trước mặt người ta. 14 Nhờ các dấu lạ mà nó được quyền làm trước mặt Con Thú, nó mê hoặc những người sống trên mặt đất, bảo họ tạc tượng thờ Con Thú mang vết thương gươm đâm mà nay đã hồi sinh. 15 Nó được quyền thổi thần khí vào tượng Con Thú, khiến tượng Con Thú cũng nói được và ra lệnh giết những ai không thờ lạy mình. 16 Nó bắt mọi người, không phân biệt lớn nhỏ, giàu nghèo, tự do hay nô lệ, phải thích dấu trên tay hữu hoặc trên trán. 17 Không ai có thể mua bán, nếu không mang dấu thích đó, tức là tên Con Thú hoặc con số tương đương với tên nó.

18 Đây là lúc cần phải có sự khôn ngoan. Ai có trí thông minh hãy tính ra số của tên Con Thú, vì đó là số của tên một người, và số của tên người ấy là sáu trăm sáu mươi sáu.

Chương 14

Các người tháp tùng Con Chiên

1 Tôi thấy: kìa Con Chiên đứng trên núi Xi-on; cùng với Con Chiên, có một trăm bốn mươi bốn ngàn người, mang danh của Con Chiên và của Cha Con Chiên ghi trên trán. 2 Và tôi nghe thấy tiếng từ trời như tiếng nước lũ, như tiếng sấm lớn. Tiếng tôi nghe thấy tựa hồ tiếng những nhạc sĩ vừa gảy đàn vừa hát. 3 Họ hát một bài ca mới trước ngai Thiên Chúa, trước bốn Con Vật và các vị Kỳ Mục. Không ai có thể học được bài ca này, ngoài một trăm bốn mươi bốn ngàn người ấy, là những người đã được chuộc về từ mặt đất. 4 Những người ấy đã không ra ô uế bởi phụ nữ, vì họ còn tân. Con Chiên đi đâu, họ cũng đi theo đó. Họ đã được chuộc về từ giữa loài người, làm của đầu mùa dâng lên Thiên Chúa và Con Chiên. 5 Chẳng ai thấy miệng họ nói dối: không ai chê trách họ được.

Ba thiên thần báo giờ phán xét

6 Rồi tôi thấy một thiên thần khác bay trên đỉnh vòm trời, mang một tin mừng vĩnh cửu để loan báo cho các người ở trên mặt đất, cho mọi dân, mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ và mọi nước. 7 Người lớn tiếng hô: ”Hãy kính sợ Thiên Chúa và tôn vinh Người, vì đã đến giờ Người phán xét. Hãy thờ lạy Đấng đã tạo thành trời đất, biển khơi và mọi nguồn nước.” 8 Một thiên thần khác, vị thứ hai, theo sau và nói: ”Sụp đổ rồi, sụp đổ rồi, thành Ba-by-lon vĩ đại, thành đã từng cho mọi nước uống thứ rượu là sự gian dâm cuồng loạn của nó.” 9 Một thiên thần khác, vị thứ ba, theo sau hai vị kia và lớn tiếng nói: ”Ai thờ lạy Con Thú và tượng của nó, và chịu thích dấu của nó trên trán hoặc trên tay, 10 thì người ấy sẽ phải uống thứ rượu, là cơn lôi đình của Thiên Chúa, rượu nguyên chất rót vào chén thịnh nộ của Người; người ấy sẽ bị làm khổ trong lửa và diêm sinh trước mặt các thánh thiên thần và trước mặt Con Chiên. 11 Khói từ chốn khổ hình của chúng cứ bốc lên đời đời kiếp kiếp. Kẻ nào thờ lạy Con Thú và tượng của nó, và nhận dấu thích tên nó, thì ngày đêm không được nghỉ ngơi.” 12 Đây là lúc dân thánh, là những người tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa và sống theo niềm tin vào Đức Giê-su, cần phải có lòng kiên nhẫn. 13 Và tôi nghe có tiếng từ trời phán rằng: ”Ngươi hãy viết: Ngay từ bây giờ, phúc thay những người đã chết, mà được chết trong Chúa!” Thần Khí phán: ”Phải, họ sẽ được nghỉ ngơi, không còn vất vả nhọc nhằn nữa, vì các việc họ làm vẫn theo họ.”

Mùa gặt cánh chung

14 Tôi thấy: kìa một đám mây trắng, và có Đấng ngự trên mây, giống như một Con Người, đầu đội triều thiên vàng và tay cầm liềm sắc bén. 15 Một thiên thần khác từ Đền Thờ đi ra, lớn tiếng thưa với Đấng ngự trên mây: ”Xin tra liềm của Ngài mà gặt, vì đã đến giờ gặt: mùa màng trên đất đã chín rồi!”16 Đấng ngự trên mây quăng liềm của mình xuống đất và đất bị gặt.

17 Rồi một thiên thần khác từ Đền Thờ ở trên trời đi ra, cũng cầm liềm sắc bén. 18 Một thiên thần khác từ bàn thờ đi ra, vị này có quyền trên lửa, lớn tiếng nói với vị cầm liềm sắc: ”Xin tra liềm sắc bén của ngài mà hái các chùm nho trong vườn nho dưới đất, vì các trái nho của đất đã chín rồi!”19 Thiên thần kia quăng liềm của mình xuống đất mà hái nho trong vườn nho dưới đất, rồi đổ cả vào bồn đạp nho lớn, tức là cơn lôi đình của Thiên Chúa. 20 Người ta đạp nho trong bồn đặt ở ngoài thành, máu tự bồn trào ra ngập đến hàm thiếc ngựa và lan đến một ngàn sáu trăm dặm.

Chương 15

Bài ca của ông Mô-sê và của Con Chiên

1 Rồi tôi thấy một điềm khác trên trời, một điềm lớn lao và kỳ diệu: bảy thiên thần mang bảy tai ương, đó là những tai ương cuối cùng, vì với những tai ương này, cơn lôi đình của Thiên Chúa đã hoàn tất. 2 Tôi thấy có cái gì như biển trong vắt pha ánh lửa, và những người thắng Con Thú, thắng tượng của nó và con số tương đương với tên nó; tôi thấy họ đứng trên biển trong vắt ấy, họ cầm những cây đàn của Thiên Chúa 3 và hát bài ca của ông Mô-sê, tôi tớ Thiên Chúa, và bài ca của Con Chiên; họ hát rằng:

"Lạy Chúa là Thiên Chúa toàn năng,

sự nghiệp Ngài thật lớn lao kỳ diệu!

Lạy Đức Vua trị vì muôn nước,

đường lối Ngài quả chân thật công minh!

4 Lạy Chúa, nào có ai không kính sợ Chúa?

Ai mà chẳng tôn vinh danh Ngài?

Vì chỉ có Ngài chí thánh chí tôn.

Người muôn nước sẽ về phủ phục trước Tôn Nhan,

vì ai ai cũng đều thấy rõ

những phán quyết công minh của Ngài.”

Bảy chén tai ương

5 Sau đó tôi thấy Đền Thờ là Lều Chứng Ước mở ra ở trên trời. 6 Bảy thiên thần mang bảy tai ương từ Đền Thờ đi ra, mình mặc áo vải gai tinh khiết sáng chói, ngang ngực có thắt đai bằng vàng. 7 Một trong bốn Con Vật đưa cho bảy thiên thần bảy chén vàng, đầy cơn lôi đình của Thiên Chúa, Đấng hằng sống đến muôn thuở muôn đời. 8 Đền Thờ đầy khói từ vinh quang Thiên Chúa và từ quyền năng của Người toả ra. Không ai có thể vào trong Đền Thờ, bao lâu bảy tai ương do bảy thiên thần mang đến chưa hoàn tất.

Chương 16

1 Bấy giờ tôi nghe một tiếng lớn từ Đền Thờ bảo bảy thiên thần: ”Hãy đi trút bảy chén lôi đình của Thiên Chúa xuống mặt đất.” 2 Vị thứ nhất đi trút chén của mình xuống mặt đất. Những người mang dấu thích của Con Thú và thờ lạy tượng nó liền bị một ung nhọt ác tính và đau đớn.

3 Vị thứ hai trút chén của mình xuống biển. Biển liền hoá ra máu như máu người chết, và mọi sinh vật dưới biển đều chết.

4 Vị thứ ba trút chén của mình xuống sông ngòi và các nguồn nước. Nước liền hoá ra máu. 5 Tôi nghe thiên thần có quyền trên nước nói: ”Lạy Đức Thánh, Đấng hiện có và đã có, Ngài thật công minh vì đã xét xử như vậy. 6 Chúng đã đổ máu dân thánh và các ngôn sứ, nên Ngài đã cho chúng uống máu: thật là đích đáng!”7 Tôi lại nghe bàn thờ nói: ”Vâng, lạy Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng, những lời Ngài phán quyết đều chân thật công minh!”

8 Vị thứ tư trút chén của mình xuống mặt trời. Mặt trời liền được phép dùng lửa mà thiêu đốt người ta. 9 Người ta bị khí nóng dữ dội thiêu đốt, họ nói phạm đến danh Thiên Chúa, Đấng có quyền trên các tai ương đó, nhưng họ không chịu hối cải mà tôn vinh Người.

10 Vị thứ năm trút chén của mình xuống ngai Con Thú. Vương quốc của nó liền ra tối tăm; người ta cắn lưỡi vì đau đớn; 11 họ nói phạm đến Thiên Chúa trên trời, vì quá đau đớn và bị ung nhọt, nhưng họ không chịu hối cải mà từ bỏ các việc mình làm.

12 Vị thứ sáu trút chén của mình xuống sông cả Êu-phơ-rát. Nước sông ấy liền khô cạn, để dọn đường cho các vua từ phương Đông tới. 13 Bấy giờ từ miệng Con Mãng Xà, từ miệng Con Thú và từ miệng ngôn sứ giả, tôi thấy ba thần ô uế nhảy ra như những con ếch. 14 Chúng quả là những thần khí của ma quỷ, chúng làm những dấu lạ và đi đến với vua chúa trên khắp cả thiên hạ, nhằm tập hợp họ lại để giao chiến trong Ngày lớn lao của Thiên Chúa Toàn Năng. -15 “Đây, Ta đến như kẻ trộm. Phúc thay kẻ canh thức và giữ áo mình, kẻo phải đi đứng trần truồng và bị người ta nhìn thấy sự loã lồ của mình!”-16 Chúng quy tụ họ tại một nơi, tiếng Híp-ri gọi là Hác-mơ-ghít-đô.

17 Vị thứ bảy trút chén của mình xuống không khí. Từ Đền Thờ, từ ngai liền có tiếng lớn phát ra: ”Xong cả rồi!”18 Lúc ấy có ánh chớp, tiếng sấm tiếng sét và động đất lớn như chưa hề có động đất lớn như vậy bao giờ, từ khi con người xuất hiện trên mặt đất. 19 Thành vĩ đại vỡ ra làm ba phần và các thành thị của các nước bị sụp đổ. Thiên Chúa đã nhớ đến thành Ba-by-lon vĩ đại mà cho nó uống chén rượu là cơn lôi đình thịnh nộ của Người. 20 Mọi hải đảo biến đi, núi non không còn nữa. 21 Những hạt mưa đá lớn, nặng chừng nửa tạ, từ trời giáng xuống người ta, và người ta nói phạm đến Thiên Chúa vì bị tai ương mưa đá, bởi lẽ tai ương đó lớn quá chừng.

Chương 17

2. BA-BY-LON BỊ TRỪNG PHẠT

Con Điếm khét tiếng

1 Bấy giờ, trong số bảy thiên thần mang bảy chén, một vị đến bảo tôi: ”Lại đây, tôi sẽ chỉ cho ông thấy Con Điếm khét tiếng, đang ngồi bên những làn nước mênh mông, bị xét xử như thế nào. 2 Vua chúa trần gian đã làm chuyện gian dâm với nó, và những người sống trên mặt đất đã say vì thứ rượu là sự gian dâm của nó.” 3 Rồi đang khi tôi xuất thần thì thiên thần đem tôi vào sa mạc. Ở đó tôi thấy một người đàn bà, ngồi trên một Con Thú đỏ thẫm, con Thú ấy mang đầy những danh hiệu xúc phạm đến Thiên Chúa, và có bảy đầu mười sừng. 4 Người đàn bà mặc áo đỏ tía và đỏ thẫm, trang sức toàn bằng vàng, đá quý và ngọc trai, tay cầm một chén vàng đầy những thứ ghê tởm và ô uế, tức là sự gian dâm của nó. 5 Trên trán nó, có viết một tên mang ý nghĩa huyền bí: ”Ba-by-lon vĩ đại, mẹ đẻ ra các gái điếm và các thứ ghê tởm trên trần gian.” 6 Tôi thấy người đàn bà ấy say máu dân thánh và máu các chứng nhân của Đức Giê-su. Thấy nó, tôi rất đỗi ngạc nhiên.

Ý nghĩa tượng trưng của Con Thú và Con Điếm

7 Bấy giờ thiên thần bảo tôi: ”Sao lại ngạc nhiên? Tôi sẽ nói cho ông hay ý nghĩa huyền bí của người đàn bà và của Con Thú nó đang cỡi, là Con Thú bảy đầu mười sừng. 8 Con Thú ông vừa thấy, nó đã có nhưng không còn nữa. Nó sắp từ Vực thẳm đi lên và đang tới chỗ diệt vong. Các người sống trên mặt đất, mà từ thuở tạo thiên lập địa không được ghi tên trong Sổ Trường Sinh, sẽ ngạc nhiên khi thấy Con Thú, vì nó đã có, nó không còn nữa, nhưng sẽ trở lại. 9 Đây là lúc cần phải có trí thông minh cùng với sự khôn ngoan. Bảy đầu là bảy quả núi trên đó người đàn bà ngồi.

10 năm vua đã đổ, một vua hiện còn, một vua khác chưa đến, và khi vua này đến thì phải ở lại ít thời gian thôi. 11 Còn Con Thú đã có và không còn nữa, nó là vua thứ tám, nó cũng thuộc số bảy vua và đang tới chỗ diệt vong. 12 Mười sừng ông đã thấy, là mười vua; chúng chưa nhận được vương quyền, và sẽ nhận được quyền làm vua với Con Thú, trong vòng một giờ. 13 Chúng chỉ có một ý định duy nhất là trao thế lực và quyền bính của mình cho Con Thú. 14 Chúng sẽ giao chiến với Con Chiên, và Con Chiên sẽ thắng chúng, vì Con Chiên là Chúa các chúa, Vua các vua; những kẻ đi theo Người, tức là những kẻ được kêu gọi, được tuyển chọn, và luôn trung thành, cũng sẽ thắng.”

15 Thiên thần lại nói với tôi: ”Những làn nước ông đã thấy, nơi Con Điếm ngồi, là những dân, những đám đông, những nước và những ngôn ngữ. 16 Mười sừng ông đã thấy và Con Thú, chúng sẽ ghét Con Điếm, sẽ bắt nó phải đơn độc và trần truồng, sẽ ăn thịt nó và dùng lửa thiêu huỷ nó. 17 Quả vậy, Thiên Chúa đã khiến chúng quyết tâm thực hiện ý định của Người, thực hiện một ý định duy nhất là trao vương quyền của chúng cho Con Thú, cho đến khi các lời Thiên Chúa được hoàn tất. 18 Người đàn bà ông đã thấy, là Thành vĩ đại nắm vương quyền thống trị vua chúa trần gian.”

Chương 18

Thiên thần báo tin Ba-by-lon sụp đổ

1 Sau đó, tôi thấy một thiên thần khác từ trời xuống, với quyền hành rộng lớn, và vinh quang người làm cho mặt đất rực sáng. 2 Người lên tiếng hô mạnh mẽ: ”Sụp đổ rồi, sụp đổ rồi, thành Ba-by-lon vĩ đại! Nó đã trở nên sào huyệt của ma quỷ, hang ổ của mọi thứ thần ô uế, hang ổ của mọi thứ chim chóc ô uế và đáng ghét, 3 bởi vì mọi nước đã uống thứ rượu là sự gian dâm cuồng loạn của nó, vua chúa trần gian đã làm chuyện gian dâm với nó, và các con buôn trên trần gian đã làm giàu nhờ sự xa hoa vô độ của nó!”

Dân Thiên Chúa phải lánh đi

4 Rồi tôi nghe một tiếng khác từ trời bảo: ”Hỡi dân Ta, hãy ra khỏi thành ấy đi, để khỏi thông đồng với tội lỗi của nó và hứng lấy những tai ương dành cho nó! 5 Thật vậy, tội lỗi của nó đã chồng chất lên đến tận trời, và Thiên Chúa đã nhớ đến các việc gian ác của nó. 6 Nó đã xử làm sao, hãy xử lại với nó như vậy. Hãy trả lại cho nó gấp đôi những việc nó làm. Chén rượu nó đã rót, hãy rót trả gấp đôi. 7 Nó đã phô trương vinh quang và sống xa hoa bao nhiêu, thì hãy giáng khổ hình và tang tóc cho nó bấy nhiêu. Nó đã tự nhủ: ”Ta ngự trên ngai nữ hoàng, ta không goá bụa, và ta sẽ không hề lâm cảnh tang tóc! 8 Vì thế, nội trong một ngày, những tai ương dành cho nó sẽ ập đến: nào là ôn dịch, nào là tang tóc, nào là đói kém; nó sẽ bị lửa thiêu huỷ, vì Đức Chúa, Thiên Chúa, Đấng đã xét xử nó, là Đấng oai hùng!

Than khóc Ba-by-lon

9 Vua chúa trần gian đã làm chuyện gian dâm và sống xa hoa với nó, sẽ đấm ngực khóc than nó, khi thấy khói từ đám cháy thiêu huỷ nó. 10 Vì sợ khổ hình của nó, chúng sẽ đứng xa xa mà than rằng:

"Khốn thay! Khốn thay! Hỡi thành vĩ đại,

hỡi Ba-by-lon, thành phố hùng cường,

vì nội trong một giờ, ngươi đã bị xét xử!”

11 Các con buôn trên mặt đất khóc lóc để tang nó, vì không còn ai mua hàng hoá của chúng nữa. 12 Hàng hoá đó là: vàng, bạc, đá quý, ngọc trai; vải gai mịn, vải đỏ tía, tơ lụa, vải đỏ thẫm; gỗ trầm, đồ bằng ngà, đồ bằng gỗ quý, bằng đồng, bằng sắt, bằng cẩm thạch; 13 quế, sa nhân, hương thơm, mộc dược, nhũ hương; rượu, dầu, tinh bột, lúa mì, súc vật, chiên cừu, ngựa, xe, thân xác, và cả linh hồn người ta nữa.

14 Hoa quả lòng ngươi ao ước đã biến xa ngươi; mọi thứ loè loẹt, hào nhoáng, ngươi không còn nữa, và người ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy nữa!

15 Những kẻ buôn các hàng hoá ấy, những kẻ đã nhờ thành ấy mà làm giàu, sẽ đứng xa xa vì sợ khổ hình của nó, sẽ khóc lóc, để tang và than rằng:

16 “Khốn thay! Khốn thay! Thành vĩ đại

đã mặc vải gai mịn, vải đỏ tía và đỏ thẫm,

trang sức toàn bằng vàng, đá quý và ngọc trai,

17 vì nội trong một giờ, bấy nhiêu của cải đã bị phá tan hoang!”

18 và khi thấy khói từ đám cháy thiêu huỷ nó, họ kêu lên: ”Thành nào sánh được với thành vĩ đại?” 19 Chúng rắc tro bụi lên đầu, kêu la, khóc lóc, để tang và than rằng:

"Khốn thay! Khốn thay! Thành vĩ đại

đã lấy sự phong phú của mình

mà làm giàu cho các chủ tàu biển,

vì nội trong một giờ, nó đã bị phá tan hoang!”

20 Hỡi thiên quốc, hãy mừng vui hoan hỷ, vì nó đã bị phá tan hoang. Hỡi dân thánh, các tông đồ và các ngôn sứ, hãy mừng vui hoan hỷ, vì Thiên Chúa đã xử công minh cho các ngươi, khi lên án nó! 21 Bấy giờ một thiên thần dũng mãnh nhắc một tảng đá to như chiếc cối xay lớn mà ném xuống biển và nói:

"Ba-by-lon, thành vĩ đại, sẽ bị thẳng tay ném đi như thế đó,

và người ta sẽ chẳng bao giờ còn tìm thấy nó nữa!

22 Trong thành ngươi, sẽ chẳng bao giờ còn nghe

tiếng nhạc sĩ gảy đàn, ca hát, thổi sáo và thổi kèn.

Trong thành ngươi, sẽ chẳng bao giờ còn thấy

thợ thủ công thuộc mọi ngành nghề.

Trong thành ngươi, sẽ chẳng bao giờ còn nghe

tiếng cối xay bột nữa.

23 Trong thành ngươi, sẽ chẳng bao giờ còn thấy

ánh sáng đèn chiếu rọi.

Trong thành ngươi, sẽ chẳng bao giờ còn nghe

tiếng cô dâu chú rể.

Bởi vì các con buôn của ngươi

từng là kẻ quyền thế trên mặt đất,

bởi vì ngươi đã dùng phù phép

mà làm cho muôn nước mê hoặc,

24 và trong thành ngươi,

đã tìm thấy máu của các ngôn sứ, của dân thánh

và của mọi người đã bị giết trên mặt đất.”

Chương 19

Khải hoàn ca trên thiên quốc

1 Sau đó, tôi nghe như có tiếng hô lớn của đoàn người đông đảo ở trên trời vang lên:

"Ha-lê-lui-a!

Thiên Chúa ta thờ là Đấng cứu độ,

Đấng vinh hiển uy quyền!

2 Những lời Người phán quyết

đều chân thật công minh!

Vì Người đã xét xử Con Điếm khét tiếng

từng dùng chuyện gian dâm

mà làm cho mặt đất ra hư hỏng,

và Người đã bắt nó

phải đền nợ máu các tôi tớ của Người

mà chính tay nó đã giết.”

3 Lần thứ hai họ lại hô: ”Ha-lê-lui-a! Khói lửa thiêu nó cứ bốc lên đời đời kiếp kiếp!”4 Bấy giờ, hai mươi bốn vị Kỳ Mục và bốn Con Vật phủ phục xuống thờ lạy Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai, mà tung hô: ”A-men! Ha-lê-lui-a!”

5 Rồi từ ngai có tiếng phát ra:

"Nào ca ngợi Thiên Chúa chúng ta,

hỡi tất cả tôi trung của Chúa,

hỡi những ai lớn nhỏ hằng kính sợ Người!”

6 Tôi lại nghe như có tiếng hô của đoàn người đông đảo, nghe như tiếng nước lũ, như tiếng sấm vang dữ dội:

"Ha-lê-lui-a!

Đức Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng

đã lên ngôi hiển trị.

7 Nào ta hãy vui mừng hoan hỷ

dâng Chúa lời tôn vinh,

8 vì nay đã tới ngày cử hành hôn lễ Con Chiên,

và Hiền Thê của Người đã trang điểm sẵn sàng,

nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền.”

9 Thiên thần bảo tôi: ”Hãy viết: Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới Con Chiên!” Người lại bảo tôi: ”Đó là những lời chân thật của chính Thiên Chúa.” 10 Tôi phủ phục xuống dưới chân người mà thờ lạy, nhưng người nói: ”Đừng, đừng! Tôi cũng là một tôi tớ như ông và như các anh em của ông, những người giữ lời chứng của Đức Giê-su. Hãy thờ lạy Thiên Chúa.” Lời chứng của Đức Giê-su, là thần khí linh hứng cho ngôn sứ.

3. CÁC DÂN NGOẠI BỊ TIÊU DIỆT

Cuộc chiến cánh chung thứ nhất

11 Bấy giờ tôi thấy trời rộng mở: kìa một con ngựa trắng, và người cỡi ngựa mang tên là “Trung thành và Chân thật", Người theo công lý mà xét xử và giao chiến. 12 Mắt Người như ngọn lửa hồng, đầu Người đội nhiều vương miện, Người mang một danh hiệu viết trên mình, mà ngoài Người ra chẳng ai biết được. 13 Người khoác một áo choàng đẫm máu, và danh hiệu của Người là: ”Lời của Thiên Chúa.” 14 Các đạo quân thiên quốc đi theo Người, họ cỡi ngựa trắng, mặc áo vải gai mịn trắng tinh. 15 Từ miệng Người phóng ra một thanh gươm sắc bén để chém muôn nước. Chính Người sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt chúng. Người đạp trong bồn đạp nho chứa thứ rượu là cơn lôi đình thịnh nộ của Thiên Chúa Toàn Năng. 16 Người mang một danh hiệu viết trên áo choàng và trên vế: ”Vua các vua, Chúa các chúa.”

17 Rồi tôi thấy một thiên thần đứng trên mặt trời; người lớn tiếng bảo mọi loài chim đang bay trên đỉnh vòm trời: ”Đến đây, tề tựu cả về mà dự đại tiệc của Thiên Chúa, 18 để ăn thịt vua chúa, thịt dũng tướng hùng binh, thịt chiến mã và kỵ binh, thịt mọi người, tự do cũng như nô lệ, trẻ nhỏ cũng như người lớn!”

19 Tôi lại thấy Con Thú và vua chúa trên mặt đất, cùng với các đạo quân của chúng, tụ tập lại để giao chiến với Đấng cỡi ngựa và đạo quân của Người. 20 Con Thú bị bắt, cùng với tên ngôn sứ giả từng dùng các dấu lạ hắn làm trước mặt nó, mà mê hoặc những kẻ nhận dấu thích của nó và những kẻ thờ lạy tượng của nó. Cả hai bị quăng sống vào hồ lửa có diêm sinh đang cháy ngùn ngụt. 21 Những người còn lại bị thanh gươm phóng ra từ miệng Đấng cỡi ngựa giết chết, và mọi loài chim được ăn no thịt của chúng.

Chương 20

Triều đại một ngàn năm

1 Bấy giờ tôi thấy một thiên thần từ trời xuống, tay cầm chìa khoá vực thẳm và một dây xích lớn. 2 Người bắt lấy Con Mãng Xà, tức là Con Rắn xưa, cũng là ma quỷ hay Xa-tan, và xích nó lại một ngàn năm. 3 Người quăng nó vào Vực thẳm, rồi đóng cửa và niêm phong lại, để nó không còn mê hoặc các nước, cho đến khi hết một ngàn năm ấy. Sau đó, nó phải được thả ra trong một thời gian ngắn.

4 Rồi tôi thấy những chiếc ngai, có người ngồi trên đó, và họ được ban quyền xét xử. Tôi cũng thấy linh hồn những người đã bị chém đầu vì đã rao giảng lời chứng của Đức Giê-su và lời của Thiên Chúa; họ là những kẻ đã không thờ lạy Con Thú và tượng của nó, và không nhận thích dấu của nó trên trán và trên tay. Họ sống lại và hiển trị với Đức Ki-tô một ngàn năm. 5 Những người khác trong số kẻ chết thì không được sống lại trước khi hết một ngàn năm ấy. Đó là lần phục sinh thứ nhất. 6 Hạnh phúc thay và thánh thiện dường nào kẻ được dự phần vào cuộc phục sinh thứ nhất này! Cái chết thứ hai không có quyền gì trên họ; nhưng họ sẽ là tư tế của Thiên Chúa và của Đức Ki-tô, họ sẽ hiển trị với Đức Ki-tô một ngàn năm ấy.

Cuộc chiến cánh chung thứ hai

7 Hết một ngàn năm ấy, Xa-tan sẽ được thả ra khỏi ngục. 8 Nó sẽ ra đi mê hoặc các nước ở khắp bốn phương thiên hạ là Gốc và Ma-gốc, và tập hợp chúng lại để giao chiến; số chúng nhiều như cát biển. 9 Chúng tiến lên lan tràn khắp mặt đất, bao vây doanh trại dân thánh và Thành Đô được Thiên Chúa yêu chuộng. Nhưng có lửa từ trời rơi xuống thiêu huỷ chúng. 10 Ma quỷ, tên mê hoặc chúng, bị quăng vào hồ lửa và diêm sinh, ở đó đã có Con Thú và tên ngôn sứ giả; và chúng sẽ bị làm khổ ngày đêm đời đời kiếp kiếp.

Các dân bị xét xử

11 Bấy giờ tôi thấy một ngai lớn màu trắng và thấy Đấng ngự trên đó. Đất và trời biến mất trước mặt Người, không để lại dấu vết. 12 Rồi tôi thấy những người chết, lớn cũng như nhỏ, đứng trước ngai. Sổ sách đã mở sẵn; rồi một cuốn khác cũng đã mở ra: đó là Sổ Trường Sinh. Các người chết được xét xử tuỳ theo việc họ đã làm, chiếu theo những gì đã được ghi chép trong sổ sách.

13 Biển trả lại những người chết nó đang giữ; Tử thần và Âm phủ trả lại những người chết chúng đang giữ, và mỗi người chịu xét xử tuỳ theo các việc đã làm. 14 Tử thần và Âm phủ bị quăng vào hồ lửa. Hồ lửa này là cái chết thứ hai. 15 Ai không có tên ghi trong Sổ trường sinh thì bị quăng vào hồ lửa.

Chương 21

4. GIÊ-RU-SA-LEM TƯƠNG LAI

Trời mới đất mới

1 Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. 2 Và tôi thấy Thành Thánh là Giê-ru-sa-lem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang. 3 Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: ”Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. 4 Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.”

5 Đấng ngự trên ngai phán: ”Này đây Ta đổi mới mọi sự.” Rồi Người phán: ”Ngươi hãy viết: Đây là những lời đáng tin cậy và chân thật.” 6 Người lại phán với tôi: ”Xong cả rồi! Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Khởi Nguyên và Tận Cùng. Chính Ta sẽ ban cho ai khát được uống nơi nguồn nước trường sinh, mà không phải trả tiền. 7 Ai thắng sẽ được thừa hưởng hồng ân đó. Ta sẽ là Thiên Chúa của người ấy, và người ấy sẽ là con của Ta. 8 Còn những kẻ hèn nhát, bất trung, đáng ghê tởm, sát nhân, gian dâm, làm phù phép, thờ ngẫu tượng, và mọi kẻ nói dối, thì phần dành cho chúng là hồ lửa và diêm sinh cháy ngùn ngụt: đó là cái chết thứ hai.”

Giê-ru-sa-lem mới

9 Bấy giờ, trong số bảy thiên thần mang bảy chén đầy bảy tai ương cuối cùng, một vị đến bảo tôi: ”Lại đây, tôi sẽ chỉ cho ông thấy Tân Nương, Hiền Thê của Con Chiên.” 10 Rồi đang khi tôi xuất thần, thì người đem tôi lên một ngọn núi cao hùng vĩ, và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh, là Giê-ru-sa-lem, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, 11 chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Thành rực sáng tựa đá quý tuyệt vời, như ngọc thạch trong suốt tựa pha lê. 12 Thành có tường rộng và cao, với mười hai cửa do mười hai thiên thần canh giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc con cái Ít-ra-en. 13 Phía đông có ba cửa, phía bắc ba cửa, phía nam ba cửa và phía tây ba cửa. 14 Tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên.

15 Thiên thần đang nói với tôi cầm cái thước đo là một cây sậy bằng vàng, để đo thành, các cửa và tường thành. 16 Thành hình vuông: chiều dài cũng bằng chiều rộng. Rồi người lấy cây sậy đo thành, được mười hai ngàn dặm: chiều dài, chiều rộng và chiều cao đều bằng nhau. 17 Người đo tường thành được một trăm bốn mươi bốn thước, theo thước đo của loài người cũng là của vị thiên thần. 18 Tường xây bằng ngọc thạch, thành thì bằng vàng y, giống như thủy tinh trong sáng. 19 Nền móng tường thành được trang trí bằng mọi thứ đá quý. Nền móng thứ nhất bằng ngọc thạch, nền móng thứ hai bằng lam ngọc, nền móng thứ ba bằng lục ngọc, nền móng thứ tư bằng bích ngọc, 20 nền móng thứ năm bằng mã não, nền móng thứ sáu bằng xích não, nền móng thứ bảy bằng kim châu, nền móng thứ tám bằng lục châu, nền móng thứ chín bằng hoàng ngọc, nền móng thứ mười bằng kim lục, nền móng thứ mười một bằng huỳnh ngọc, nền móng thứ mười hai bằng tử ngọc. 21 Mười hai cửa là mười hai khối ngọc trai; mỗi cửa là một khối ngọc duy nhất.”Quảng trường của thành bằng vàng y như thủy tinh trong suốt.” 22 Trong thành, tôi không thấy có Đền Thờ, vì Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành. 23 Thành chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa toả rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi. 24 Các dân ngoại sẽ tiến bước theo ánh sáng của thành, và vua chúa trần gian đem kho tàng vinh quang tới đó. 25 Ngày nọ qua ngày kia, cửa thành không bao giờ đóng, vì ở đấy sẽ chẳng có đêm. 26 Thiên hạ sẽ đem tới đó kho tàng vinh quang và sự giàu sang của các dân ngoại. 27 Tất cả những gì ô uế cũng như bất cứ ai làm điều ghê tởm và ăn gian nói dối, đều không được vào thành, mà chỉ có những người có tên ghi trong Sổ trường sinh của Con Chiên mới được vào.

Chương 22

1 Rồi thiên thần chỉ cho tôi thấy một con sông có nước trường sinh, sáng chói như pha lê, chảy ra từ ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên. 2 Ở giữa quảng trường của thành, giữa hai nhánh sông, có cây Sự Sống sinh trái mười hai lần, mỗi tháng một lần; lá cây dùng làm thuốc chữa lành các dân ngoại.

3 Sẽ không còn lời nguyền rủa nào nữa. Ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên sẽ đặt trong thành, và các tôi tớ Người sẽ thờ phượng Người. 4 Họ sẽ được nhìn thấy tôn nhan Người, và thánh danh Người ghi trên trán họ. 5 Sẽ không còn đêm tối nữa, họ sẽ không cần ánh sáng của đèn, cũng chẳng cần ánh sáng mặt trời, vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên họ, và họ sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn đời.

6 Thiên thần nói với tôi: ”Đây là những lời đáng tin cậy và chân thật; và Đức Chúa là Thiên Chúa ban Thần Khí linh hứng cho các ngôn sứ, đã sai thiên thần của Người đến tỏ cho các tôi tớ Người biết những việc sắp phải xảy đến.” 7-”Đây, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến! Phúc thay kẻ tuân giữ các sấm ngôn trong sách này!”-8 Tôi là Gio-an, đã được nghe và thấy những điều đó. Nghe và thấy xong, tôi phủ phục xuống dưới chân vị thiên thần đã chỉ cho tôi thấy các điều ấy, mà thờ lạy người. 9 Nhưng người nói: ”Đừng, đừng! Tôi cũng là một tôi tớ như ông và như các anh em của ông là các ngôn sứ và những người tuân giữ các lời trong sách này. Hãy thờ lạy Thiên Chúa.”

10 Rồi người bảo tôi: ”Đừng niêm phong những sấm ngôn trong sách này, vì thời giờ đã gần đến. 11 Kẻ gian ác cứ làm điều gian ác nữa đi, kẻ ô uế cứ ra ô uế nữa đi, người công chính cứ hành động công chính nữa đi, và người thánh thiện cứ sống thánh thiện nữa đi!”12-”Đây, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến, và Ta đem theo lương bổng để trả cho mỗi người tuỳ theo việc mình làm. 13 Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng. 14 Phúc thay những kẻ giặt sạch áo mình, để được quyền hưởng dùng cây Sự Sống và qua cửa mà vào Thành! 15 Những quân chó má, làm phù phép, gian dâm, sát nhân, thờ ngẫu tượng, cùng với mọi kẻ thích điều gian dối và ăn gian nói dối, hãy xéo ra ngoài.

KẾT

16 “Ta là Giê-su, Ta đã sai thiên thần của Ta đến với các ngươi để làm chứng về những điều trên đây, liên quan đến các Hội Thánh. Chính Ta là Chồi Non và Dòng Dõi Đa-vít, là Sao Mai sáng ngời.”

17 Thần Khí và Tân Nương nói: ”Xin Ngài ngự đến!” Ai nghe, hãy nói: ”Xin Ngài ngự đến!” Ai khát, hãy đến; ai muốn, hãy đến lãnh nước trường sinh mà không phải trả tiền.

18 Với bất cứ ai nghe những sấm ngôn trong sách này, tôi xin chứng thực: ”Ai mà thêm điều gì vào đó, thì Thiên Chúa sẽ thêm cho người ấy những tai ương mô tả trong sách này! 19 Ai mà bớt điều gì trong các lời của sách sấm ngôn này, thì Thiên Chúa sẽ bớt phần người ấy được hưởng nơi cây Sự Sống và Thành Thánh, là cây và thành mô tả trong sách này!”

20 Đấng làm chứng về những điều đó phán rằng: ”Phải, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến.”

A-men, lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến!

21 Chúc mọi người được đầy ân sủng của Chúa Giê-su.

Ngũ Thư

Sáng Thế Ký

Chương 01

I. Nguồn Gốc Vũ Trụ Và Nhân Loại

1. Thiên Chúa Sáng Tạo. Con Người Sa Ngã

Thiên Chúa sáng tạo trời đất

1 Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. 2 Ðất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.

3 Thiên Chúa phán: "Phải có ánh sáng." Liền có ánh sáng. 4 Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối. 5 Thiên Chúa gọi ánh sáng là "ngày", bóng tối là "đêm". Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất.

6 Thiên Chúa phán: "Phải có một cái vòm ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với nước.” 7 Thiên Chúa làm ra cái vòm đó và phân rẽ nước phía dưới vòm với nước phía trên. Liền có như vậy. 8 Thiên Chúa gọi vòm đó là "trời". Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ hai.

9 Thiên Chúa phán: "Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra." Liền có như vậy. 10 Thiên Chúa gọi chỗ cạn là "đất", khối nước tụ lại là "biển". Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.

11 Thiên Chúa phán: "Ðất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt giống." Liền có như vậy. 12 Ðất trổ sinh thảo mộc, cỏ mang hạt giống tuỳ theo loại, và cây ra trái, trong trái có hạt giống tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. 13 Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ ba.

14 Thiên Chúa phán: "Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. 15 Ðó sẽ là những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất." Liền có như vậy. 16 Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao. 17 Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, 18 để điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. 19 Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ tư.

20 Thiên Chúa phán: "Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời.” 21 Thiên Chúa sáng tạo các thủy quái khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại, và mọi giống chim bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. 22 Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển; và chim phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất.” 23 Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ năm.

24 Thiên Chúa phán: "Ðất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại." Liền có như vậy. 25 Thiên Chúa làm ra dã thú tuỳ theo loại, gia súc tuỳ theo loại và loài bò sát dưới đất tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.

26 Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất."

27 Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình,

Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa,

Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.

28 Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.” 29 Thiên Chúa phán: "Ðây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. 30 Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực. Liền có như vậy.” 31 Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp! Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu.

Chương 02

1 Thế là trời đất cùng với mọi thành phần đã hoàn tất. 2 Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi.

3 Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ, ngưng làm mọi công việc sáng tạo của Người.

4 Ðó là gốc tích trời đất khi được sáng tạo.

Vườn địa đàng. Thử thách.

5 Ngày Ðức Chúa là Thiên Chúa làm ra đất và trời, chưa có bụi cây ngoài đồng nào trên mặt đất, chưa có đám cỏ ngoài đồng nào mọc lên, vì Ðức Chúa là Thiên Chúa chưa cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất đai. 6 Nhưng có một dòng nước từ đất trào lên và tưới khắp mặt đất. 7 Ðức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật. 8 Rồi Ðức Chúa là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Ê-đen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra.

9 Ðức Chúa là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác. 10 Một con sông từ Ê-đen chảy ra tưới khu vườn, và từ đó chia thành bốn nhánh.11 Tên nhánh thứ nhất là Pi-sôn, nó bao quanh tất cả đất Kha-vi-la là nơi có vàng; 12 vàng ở đất này tốt, tại đó có nhũ hương và đá ngọc. 13 Tên nhánh thứ hai là Ghi-khôn; nhánh này bao quanh tất cả đất Cút. 14 Tên nhánh thứ ba là Tích-ra; nhánh này chảy ở phía đông Át-sua. Còn nhánh thứ bốn là Êu-phơ-rát. 15 Ðức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai. 16 Ðức Chúa là Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng: "Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; 17 nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết."

18 Ðức Chúa là Thiên Chúa phán: "Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó. 19 Ðức Chúa là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế. 20 Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng. 21 Ðức Chúa là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. 22 Ðức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người.

23 Con người nói:

"Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!

Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra."

24 Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.

25 Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau.

Chương 03

Sa ngã

1 Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà Ðức Chúa là Thiên Chúa đã làm ra. Nó nói với người đàn bà: "Có thật Thiên Chúa bảo: "Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không? 2 Người đàn bà nói với con rắn: "Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. 3 Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: "Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết.” 4 Rắn nói với người đàn bà: "Chẳng chết chóc gì đâu! 5 Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác.” 6 Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn. 7 Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân.

8 Nghe thấy tiếng Ðức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Ðức Chúa là Thiên Chúa. 9 Ðức Chúa là Thiên Chúa gọi con người và hỏi: "Ngươi ở đâu? “ 10 Con người thưa: "Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn.” 11 Ðức Chúa là Thiên Chúa hỏi: "Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không? “ 12 Con người thưa: "Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn.” 13 Ðức Chúa là Thiên Chúa hỏi người đàn bà: "Ngươi đã làm gì thế? " Người đàn bà thưa: "Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn.” 14 Ðức Chúa là Thiên Chúa phán với con rắn:

"Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất

trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú.

Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi.

15 Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,

giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy;

dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó."

16 Với người đàn bà, Chúa phán:

"Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén;

ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con.

Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi."

17 Với con người, Chúa phán: "Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: "Ngươi đừng ăn nó",

nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi;

ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi,

mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra.

18 Ðất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng.

19 Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn,

cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra.

Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất."

20 Con người đặt tên cho vợ là E-và, vì bà là mẹ của chúng sinh. 21 Ðức Chúa là Thiên Chúa làm cho con người và vợ con người những chiếc áo bằng da và mặc cho họ. 22 Ðức Chúa là Thiên Chúa nói: "Này con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ, đừng để nó giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi.” 23 Ðức Chúa là Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Ê-đen để cày cấy đất đai, từ đó con người đã được lấy ra. 24 Người trục xuất con người, và ở phía đông vườn Ê-đen, Người đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ đường đến cây trường sinh.

Chương 04

Ca-in và A-ben

1 Con người ăn ở với E-và, vợ mình. Bà thụ thai và sinh ra Ca-in. Bà nói: "Nhờ Ðức Chúa, tôi đã được một người.” 2 Bà lại sinh ra A-ben, em ông. A-ben làm nghề chăn chiên, còn Ca-in làm nghề cày cấy đất đai. 3 Sau một thời gian, Ca-in lấy hoa màu của đất đai làm lễ vật dâng lên Ðức Chúa. 4 A-ben cũng dâng những con đầu lòng của bầy chiên cùng với mỡ của chúng. Ðức Chúa đoái nhìn đến A-ben và lễ vật của ông, 5 nhưng Ca-in và lễ vật của ông thì Người không đoái nhìn. Ca-in giận lắm, sa sầm nét mặt. 6 Ðức Chúa phán với Ca-in: "Tại sao ngươi giận dữ? Tại sao ngươi sa sầm nét mặt? 7 Nếu ngươi hành động tốt, có phải là ngươi sẽ ngẩng mặt lên không? Nếu ngươi hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn ngươi; nhưng ngươi phải chế ngự nó.” 8 Ca-in nói với em là A-ben: "Chúng mình ra ngoài đồng đi! " Và khi hai người đang ở ngoài đồng thì Ca-in xông đến giết A-ben, em mình.

9 Ðức Chúa phán với Ca-in: "A-ben em ngươi đâu rồi? " Ca-in thưa: "Con không biết. Con là người giữ em con hay sao? “ 10 Ðức Chúa phán: "Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta! 11 Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi, do tay ngươi đổ ra. 12 Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa. Ngươi sẽ lang thang phiêu bạt trên mặt đất.” 13 Ca-in thưa với Ðức Chúa: "Hình phạt dành cho con quá nặng không thể mang nổi. 14 Ðây, hôm nay Ngài xua đuổi con khỏi mặt đất. Con sẽ phải trốn tránh để khỏi giáp mặt Ngài, sẽ phải lang thang phiêu bạt trên mặt đất, và bất cứ ai gặp con sẽ giết con.” 15 Ðức Chúa phán với ông: "Không đâu! Bất cứ ai giết Ca-in sẽ bị trả thù gấp bảy." Ðức Chúa ghi dấu trên Ca-in, để bất cứ ai gặp ông khỏi giết ông. 16 Ông Ca-in đi xa khuất mặt Ðức Chúa và ở tại xứ Nốt, về phía đông Ê-đen.

Dòng dõi ông Ca-in

17 Ông Ca-in ăn ở với vợ. Bà thụ thai và sinh ra Kha-nốc. Ông xây một thành, và lấy tên con mình là Kha-nốc mà đặt cho thành ấy. 18 Kha-nốc sinh I-rát; I-rát sinh Mơ-khu-gia-ên; Mơ-khu-gia-ên sinh Mơ-thu-sa-ên; Mơ-thu-sa-ên sinh La-méc. 19 La-méc lấy hai vợ, một bà tên là A-đa, bà thứ hai tên là Xi-la. 20 Bà A-đa sinh Gia-van; ông này là ông tổ các người ở lều và nuôi súc vật. 21 Em ông này tên là Giu-van; ông này là ông tổ các người chơi đàn thổi sáo. 22 Còn bà Xi-la thì sinh Tu-van Ca-in; ông này là ông tổ các người thợ rèn đồng và sắt. Em gái Tu-van Ca-in là Na-a-ma.

23 Ông La-méc nói với các bà vợ:

"A-đa và Xi-la, hãy nghe tiếng ta!

Thê thiếp của La-méc, hãy lắng tai nghe lời ta!

Vì một vết thương, ta đã giết một người,

vì một chút sây sát, ta đã giết một đứa trẻ.

24 Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy,

nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy!"

Ông Sết và dòng dõi

25 Ông A-đam lại ăn ở với vợ. Bà sinh một con trai và đặt tên là Sết; bà nói: "Thiên Chúa đã sắp đặt cho tôi một dòng dõi khác thay cho A-ben, vì Ca-in đã giết nó.” 26 Ông Sết cũng sinh được một con trai và đặt tên là E-nốt. Bấy giờ, người ta bắt đầu kêu cầu danh Ðức Chúa.

Chương 05

Các tổ phụ trước Hồng Thuỷ (1 Sb 1:1-4)

1 Ðây là gia phả ông A-đam: Ngày Thiên Chúa sáng tạo con người, Chúa làm ra con người giống như Thiên Chúa. 2 Chúa sáng tạo con người có nam có nữ, Chúa ban phúc lành cho họ và đặt tên cho họ là "người", ngày họ được sáng tạo.

3 Khi ông A-đam được một trăm ba mươi tuổi, thì ông sinh ra một người con trai giống như ông, theo hình ảnh ông, và đặt tên là Sết. 4 Sau khi sinh ông Sết, ông A-đam sống tám trăm năm và sinh ra con trai con gái. 5 Tổng cộng ông A-đam sống được chín trăm ba mươi năm, rồi qua đời.

6 Khi ông Sết được một trăm lẻ năm tuổi, thì sinh ra E-nốt. 7 Sau khi sinh E-nốt, ông Sết sống tám trăm lẻ bảy năm và sinh ra con trai con gái. 8 Tổng cộng ông Sết sống được chín trăm mười hai năm, rồi qua đời.

9 Khi ông E-nốt được chín mươi tuổi, thì sinh ra Kê-nan. 10 Sau khi sinh Kê-nan, ông E-nốt sống tám trăm mười lăm năm và sinh ra con trai con gái. 11 Tổng cộng ông E-nốt sống được chín trăm lẻ năm năm, rồi qua đời.

12 Khi ông Kê-nan được bảy mươi tuổi, thì sinh ra Ma-ha-lan-ên. 13 Sau khi sinh Ma-ha-lan-ên, ông Kê-nan sống tám trăm bốn mươi năm và sinh ra con trai con gái. 14 Tổng cộng ông Kê-nan sống được chín trăm mười năm, rồi qua đời.

15 Khi ông Ma-ha-lan-ên được sáu mươi lăm tuổi, thì sinh ra Gie-rét. 16 Sau khi sinh Gie-rét, ông Ma-ha-lan-ên sống tám trăm ba mươi năm và sinh ra con trai con gái. 17 Tổng cộng ông Ma-ha-lan-ên sống được tám trăm chín mươi lăm năm, rồi qua đời.

18 Khi ông Gie-rét được một trăm sáu mươi hai tuổi, thì sinh ra Kha-nốc. 19 Sau khi sinh Kha-nốc, ông Gie-rét sống tám trăm năm và sinh ra con trai con gái. 20 Tổng cộng ông Gie-rét sống được chín trăm sáu mươi hai năm, rồi qua đời.

21 Khi ông Kha-nốc được sáu mươi lăm tuổi, thì sinh ra Mơ-thu-se-lác. 22 Sau khi sinh Mơ-thu-se-lác, ông Kha-nốc đi với Thiên Chúa ba trăm năm và sinh ra con trai con gái. 23 Tổng cộng ông Kha-nốc sống được ba trăm sáu mươi lăm năm. 24 Sau khi đi với Thiên Chúa, ông không còn nữa, vì Thiên Chúa đã đem ông đi.

25 Khi ông Mơ-thu-se-lác được một trăm tám mươi bảy tuổi, thì sinh ra La-méc. 26 Sau khi sinh La-méc, ông Mơ-thu-se-lác sống bảy trăm tám mươi hai năm và sinh ra con trai con gái. 27 Tổng cộng ông Mơ-thu-se-lác sống được chín trăm sáu mươi chín năm, rồi qua đời.

28 Khi ông La-méc sống được một trăm tám mươi hai tuổi, thì sinh ra một người con trai. 29 Ông đặt tên cho con là Nô-ê; ông nói: "Khi tay chúng ta phải làm lụng cực nhọc, thì trẻ này sẽ đem lại cho chúng ta niềm an ủi phát xuất từ đất đai Ðức Chúa đã nguyền rủa.” 30 Sau khi sinh ông Nô-ê, ông La-méc sống năm trăm chín mươi lăm năm và sinh ra con trai con gái. 31 Tổng cộng ông La-méc sống được bảy trăm bảy mươi bảy năm, rồi qua đời.

32 Khi ông Nô-ê được năm trăm tuổi, thì sinh ra Sêm, Kham và Gia-phét.

Chương 06

Con trai Thiên Chúa và con gái loài người

1 Vậy khi loài người bắt đầu thêm đông trên mặt đất, và sinh ra những con gái, 2 thì các con trai Thiên Chúa thấy con gái loài người xinh đẹp; những cô họ ưng ý thì họ lấy làm vợ. 3 Ðức Chúa phán: "Thần khí của Ta sẽ không ở lại mãi mãi trong con người, vì con người chỉ là xác phàm, tuổi đời của nó sẽ là một trăm hai mươi năm.” 4 Có những người khổng lồ trên mặt đất vào thời bấy giờ và cả sau đó nữa, khi các con trai Thiên Chúa đi lại với con gái loài người, và các cô này sinh cho họ những người con. Ðó là những anh hùng thuở xưa, những người có tên tuổi.

2. Hồng Thủy

Loài người sa đọa

5 Ðức Chúa thấy rằng sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất, và lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu suốt ngày. 6 Ðức Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất, và Người buồn rầu trong lòng. 7 Ðức Chúa phán: "Ta sẽ xoá bỏ khỏi mặt đất con người mà Ta đã sáng tạo, từ con người cho đến gia súc, giống vật bò dưới đất và chim trời, vì Ta hối hận đã làm ra chúng.” 8 Nhưng ông Nô-ê được đẹp lòng Ðức Chúa.

9 Ðây là gia đình ông Nô-ê: Ông Nô-ê là người công chính, hoàn hảo giữa những người đồng thời, và ông đi với Thiên Chúa. 10 Ông Nô-ê sinh ba con trai là Sêm, Kham và Gia-phét. 11 Ðất đã ra hư hỏng trước nhan Thiên Chúa và đầy bạo lực. 12 Thiên Chúa nhìn đất và thấy nó đã ra hư hỏng, vì mọi xác phàm đã theo nếp sống hư hỏng trên mặt đất.

Chuẩn bị

13 Thiên Chúa phán với ông Nô-ê: "Ta đã quyết định giờ tận số của mọi xác phàm, vì tại chúng mà đất đầy bạo lực: này Ta sắp tiêu diệt chúng cùng với đất. 14 Ngươi hãy làm cho mình một chiếc tàu bằng gỗ bách. Ngươi sẽ làm tàu có những ngăn và lấy nhựa đen mà trám cả trong lẫn ngoài. 15 Ngươi sẽ làm tàu thế này: chiều dài một trăm năm mươi thước, chiều rộng hai mươi lăm thước, chiều cao mười lăm thước. 16 Ngươi sẽ làm một cái mui che tàu, và đặt mui cách phía trên tàu nửa thước. Cửa tàu, ngươi sẽ đặt ở bên hông; ngươi sẽ làm tầng dưới, tầng giữa rồi tầng trên. 17 Phần Ta, Ta sắp cho hồng thuỷ, nghĩa là nước lụt, xuống trên đất, để tiêu diệt mọi xác phàm có sinh khí dưới gầm trời; mọi loài trên mặt đất sẽ tắt thở. 18 Nhưng Ta sẽ lập giao ước của Ta với ngươi; ngươi hãy vào tàu, ngươi cùng với các con trai ngươi, vợ ngươi và vợ của các con trai ngươi. 19 Trong mọi sinh vật, mọi xác phàm, ngươi sẽ đưa vào tàu mỗi loại một đôi, để giữ cho chúng sống với ngươi; phải có một con đực và một con cái. 20 Trong mỗi loại chim, mỗi loại gia súc, mỗi loại vật bò dưới đất, mỗi loại một đôi sẽ đến với ngươi, để ngươi giữ cho chúng sống. 21 Phần ngươi, hãy lấy mọi thứ ăn được và tích trữ cho mình; đó sẽ là lương thực của ngươi và của chúng.” 22 Ông Nô-ê đã làm như vậy; ông làm đúng như Thiên Chúa đã truyền cho ông.

Chương 07

1 Ðức Chúa phán bảo ông Nô-ê: "Ngươi hãy vào tàu, ngươi và cả nhà ngươi, vì Ta chỉ thấy ngươi là người công chính trước nhan Ta trong thế hệ này. 2 Trong mọi loài vật thanh sạch, ngươi sẽ lấy bảy đôi, con đực và con cái, còn trong các loài vật không thanh sạch, thì một đôi, con đực và con cái, 3 trong các loài chim trời cũng lấy bảy đôi, trống và mái, để giữ giống trên khắp mặt đất. 4 Vì bảy ngày nữa Ta sẽ đổ mưa xuống đất trong vòng bốn mươi ngày bốn mươi đêm, và Ta sẽ xoá bỏ khỏi mặt đất mọi loài Ta đã làm ra.” 5 Ông Nô-ê làm đúng như Ðức Chúa đã truyền.

6 Ông Nô-ê được sáu trăm tuổi khi hồng thuỷ, nghĩa là nước lụt, xảy đến trên mặt đất.

7 Ðể tránh nước hồng thuỷ, ông Nô-ê vào tàu cùng với các con trai ông, vợ ông và vợ của các con trai ông. 8 Trong các loài vật thanh sạch và các loài vật không thanh sạch, trong các loài chim và mọi loài vật bò dưới đất, 9 cứ từng đôi, đực và cái, đến với ông Nô-ê mà vào tàu, như Thiên Chúa đã truyền cho ông Nô-ê. 10 Bảy ngày sau, nước hồng thủy tràn trên mặt đất.

11 Năm sáu trăm đời ông Nô-ê, tháng hai, ngày mười bảy tháng ấy, vào ngày đó, tất cả các mạch nước của vực thẳm vĩ đại bật tung, các cống trời mở toang. 12 Mưa đổ xuống đất bốn mươi ngày bốn mươi đêm.

13 Chính ngày đó, ông Nô-ê vào tàu với các con trai ông là Sêm, Kham, Gia-phét, cùng với họ có vợ ông và ba người vợ của các con trai ông, 14 cũng như mọi loài vật, mọi loài gia súc, mọi loài vật bò dưới đất, mọi loài chim chóc, mọi vật có cánh. 15 Chúng đến với ông Nô-ê trên tàu, cứ từng đôi một, thuộc mọi xác phàm có sinh khí. 16 Chúng đi vào, một đực một cái thuộc mọi xác phàm; chúng đi vào, theo như Thiên Chúa đã truyền cho ông Nô-ê. Rồi Ðức Chúa đóng cửa lại sau khi ông vào.

17 Cơn hồng thủy kéo dài bốn mươi ngày trên mặt đất. Nước tăng thêm và nâng tàu lên, khiến tàu ở cao hơn mặt đất. 18 Nước dâng và tăng thêm nhiều trên mặt đất, và tàu lênh đênh trên mặt nước. 19 Nước dâng lên ngày càng nhiều trên mặt đất, và mọi núi cao khắp nơi dưới gầm trời đều bị phủ lấp. 20 Nước dâng lên cao hơn núi bảy thước khiến núi bị phủ lấp. 21 Mỗi xác phàm di động trên mặt đất đều tắt thở: chim chóc, gia súc, thú vật, mọi vật lúc nhúc trên mặt đất, và mọi người. 22 Mọi loài có sinh khí trong lỗ mũi, mọi loài ở trên cạn đều chết hết. 23 Ðức Chúa xoá bỏ mọi loài có trên mặt đất, từ con người cho đến gia súc, giống vật bò dưới đất và chim trời; chúng bị xoá bỏ khỏi mặt đất, chỉ còn lại ông Nô-ê và những gì ở trong tàu với ông. 24 Nước dâng lên trên mặt đất suốt một trăm năm mươi ngày.

Chương 08

Nước rút

1 Thiên Chúa nhớ đến ông Nô-ê, mọi thú vật và mọi gia súc ở trong tàu với ông. Thiên Chúa cho gió thổi ngang qua đất, và nước hạ xuống. 2 Các mạch nước của vực thẳm và các cống trời đóng lại; trời tạnh mưa. 3 Nước từ từ rút khỏi mặt đất; hết một trăm năm mươi ngày thì nước xuống. 4 Vào tháng bảy, ngày mười bảy tháng ấy, tàu đậu lại trên vùng núi A-ra-rát. 5 Nước tiếp tục xuống cho đến tháng mười; và ngày mồng một tháng mười, các đỉnh núi xuất hiện.

6 Hết bốn mươi ngày, ông Nô-ê mở cửa sổ ông đã làm trên tàu, 7 và ông thả con quạ ra. Nó bay ra, lượn đi lượn lại cho đến khi nước khô trên mặt đất. 8 Rồi từ trong tàu ông lại thả con bồ câu, để xem nước đã giảm trên mặt đất chưa. 9 Nhưng con bồ câu không tìm được chỗ đậu chân, nên trở về tàu với ông, vì còn nước trên khắp mặt đất. Ông bèn giơ tay bắt lấy nó mà đưa vào trong tàu với ông. 10 Ông đợi thêm bảy ngày, rồi thả con bồ câu ra khỏi tàu một lần nữa. 11 Vào buổi chiều, con bồ câu trở về với ông, và kìa trong mỏ nó có một nhành lá ô-liu tươi! Ông Nô-ê biết là nước đã giảm trên mặt đất. 12 Ông lại đợi thêm bảy ngày, rồi thả con bồ câu ra, nhưng nó không trở về với ông nữa.

13 Năm sáu trăm lẻ một đời ông Nô-ê, tháng giêng, ngày mồng một tháng ấy, nước đã khô ráo trên mặt đất. Ông Nô-ê dỡ mái tàu ra và thấy mặt đất đã khô ráo. 14 Tháng hai, ngày hai mươi bảy tháng ấy, đất đã khô.

Ra khỏi tàu

15 Thiên Chúa phán với ông Nô-ê rằng: 16 "Ngươi hãy ra khỏi tàu cùng với vợ ngươi, các con trai ngươi và vợ của các con trai ngươi. 17 Mọi loài vật ở với ngươi, tất cả những gì là xác phàm: chim chóc, gia súc, mọi giống vật bò dưới đất, ngươi hãy đưa chúng ra với ngươi; chúng phải lúc nhúc trên mặt đất, phải sinh sôi nảy nở thật nhiều trên mặt đất.” 18 Ông Nô-ê ra khỏi tàu cùng với các con trai ông, vợ ông và vợ của các con trai ông. 19 Mọi loài vật, mọi gia súc, mọi chim chóc, mọi vật bò dưới đất ra khỏi tàu, theo từng giống.

20 Ông Nô-ê dựng một bàn thờ để kính Ðức Chúa. Ông đã lấy một số trong các gia súc thanh sạch và các loài chim thanh sạch mà dâng làm lễ toàn thiêu trên bàn thờ. 21 Ðức Chúa ngửi mùi thơm ngon, và Ðức Chúa tự nhủ: "Ta sẽ không bao giờ nguyền rủa đất đai vì con người nữa. Lòng con người toan tính điều xấu từ khi còn trẻ, nhưng Ta sẽ không bao giờ còn sát hại mọi sinh vật như Ta đã làm!

22 Bao lâu đất này còn, thì mùa gieo mùa gặt,

trời lạnh và trời nóng, tiết hạ và tiết đông,

ban ngày và ban đêm, sẽ không ngừng đắp đổi."

Chương 09

Trật tự mới của thế giới

1 Thiên Chúa ban phúc lành cho ông Nô-ê và các con ông, và Người phán với họ: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất. 2 Mọi dã thú, mọi chim trời, mọi giống vật bò dưới đất, và mọi cá biển sẽ phải kinh hãi khiếp sợ các ngươi: chúng được trao vào tay các ngươi. 3 Mọi loài di động và có sự sống sẽ là lương thực cho các ngươi; Ta ban cho các ngươi tất cả những thứ đó, cũng như đã ban cỏ xanh tươi. 4 Tuy nhiên các ngươi không được ăn thịt với mạng sống của nó, tức là máu. 5 Nhưng Ta sẽ đòi mỗi con vật phải đền nợ máu các ngươi, tức là mạng sống của các ngươi; Ta sẽ đòi con người phải đền nợ máu, Ta sẽ đòi mỗi người phải đền mạng sống của người anh em mình.

6 Ai đổ máu con người, thì máu nó sẽ bị con người đổ ra,

vì Thiên Chúa đã làm ra con người theo hình ảnh Thiên Chúa.

7 Về phần các ngươi, hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, hãy lan tràn và nảy nở thật nhiều trên mặt đất."

8 Thiên Chúa phán với ông Nô-ê và các con ông đang ở với ông rằng: 9 "Ðây Ta lập giao ước của Ta với các ngươi, với dòng dõi các ngươi sau này, 10 và tất cả mọi sinh vật ở với các ngươi: chim chóc, gia súc, dã thú ở với các ngươi, nghĩa là mọi vật ở trong tàu đi ra, kể cả dã thú. 11 Ta lập giao ước của Ta với các ngươi: mọi xác phàm sẽ không còn bị nước hồng thủy huỷ diệt, và cũng sẽ không còn có hồng thủy để tàn phá mặt đất nữa."

12 Thiên Chúa phán: "Ðây là dấu hiệu giao ước Ta đặt giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật ở với các ngươi, cho đến muôn thế hệ mai sau: 13 Ta gác cây cung của Ta lên mây, và đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với cõi đất.14 Khi Ta cho mây kéo đến trên mặt đất và cây cung xuất hiện trong mây, 15 Ta sẽ nhớ lại giao ước giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật, nghĩa là với mọi xác phàm; và nước sẽ không còn trở thành hồng thủy để tiêu diệt mọi xác phàm nữa. 16 Cây cung sẽ ở trong mây. Ta sẽ nhìn nó để nhớ lại giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa với mọi sinh vật, nghĩa là với mọi xác phàm ở trên mặt đất."

17 Thiên Chúa phán với ông Nô-ê: "Ðó là dấu của giao ước Ta đã lập giữa Ta với mọi xác phàm ở trên mặt đất."

3. Từ Hồng Thủy Ðến Ông Áp-Ram

Ông Nô-ê và các con

18 Các con trai ông Nô-ê ra khỏi tàu là: Sêm, Kham và Gia-phét; ông Kham là cha của ông Ca-na-an. 19 Ba ông này là con trai ông Nô-ê, và con cháu họ phân tán ra khắp mặt đất.

20 Ông Nô-ê làm nghề nông, ông là người thứ nhất trồng nho. 21 Ông uống rượu say và nằm trần truồng giữa lều. 22 Ông Kham, cha ông Ca-na-an, thấy chỗ kín của cha mình và báo cho hai anh ở ngoài biết. 23 Ông Sêm và ông Gia-phét lấy cái áo choàng, cả hai đặt áo lên vai mình, rồi đi giật lùi mà che chỗ kín của cha. Mặt họ quay về phía sau, nên họ không trông thấy chỗ kín của cha. 24 Khi tỉnh rượu, ông Nô-ê hay biết điều mà đứa con nhỏ nhất của ông đã làm đối với ông; 25 ông liền nói:

"Ca-na-an đáng bị nguyền rủa!

Nó phải là đầy tớ các đầy tớ của các anh em nó! "

26 Rồi ông nói:

"Chúc tụng Ðức Chúa, là Thiên Chúa của Sêm;

Ca-na-an phải là đầy tớ nó!

27 Xin Thiên Chúa mở rộng Gia-phét,

nó hãy ở trong lều của Sêm, và Ca-na-an phải là đầy tớ nó!"

28 Sau hồng thuỷ, ông Nô-ê sống được ba trăm năm mươi năm. 29 Tổng cộng ông Nô-ê sống được chín trăm năm mươi năm, rồi ông qua đời.

Chương 10

Các dân trên mặt đất (1 Sb 1:5-23)

1 Ðây là gia đình các con trai ông Nô-ê là Sêm, Kham và Gia-phét; sau hồng thuỷ, họ đã sinh được những người con.

2 Con của ông Gia-phét là: Gô-me, Ma-gốc, Mê-đi, Gia-van, Tu-van, Me-séc, Ti-rát. 3 Con của ông Gô-me là: Át-cơ-nát, Ri-phát, Tô-gác-ma. 4 Con của ông Gia-van là: Ê-li-sa, Tác-sít, Kít-tim, Ðô-đa-nim. 5 Con cháu họ đã phân tán thành các dân tộc trên các đảo. Mỗi người có đất riêng tuỳ theo tiếng nói, dòng họ và dân tộc của mình.

6 Con của ông Kham là: Cút, Mít-ra-gim, Pút, Ca-na-an. 7 Con của ông Cút là: Xơ-va, Kha-vi-la, Xáp-ta, Ra-ơ-ma, Xáp-tơ-kha. Con của ông Ra-ơ-ma là: Sơ-va, Ðơ-đan.

8 Ông Cút sinh ra ông Nim-rốt; ông này là người anh hùng đầu tiên trên mặt đất. 9 Ông là thợ săn dũng cảm trước mặt Ðức Chúa. Vì thế có câu: "Như Nim-rốt, thợ săn anh hùng trước mặt Ðức Chúa.” 10 Khởi điểm vương quốc ông là Ba-ben, E-réc, Ác-cát, Can-nê, trong đất Sin-a. 11 Từ đất ấy, ông rời đến Át-sua và xây các thành Ni-ni-vê, Rơ-khô-vốt, Ia, Ca-lác, 12 và Re-xen, giữa Ni-ni-vê và Ca-lác, thành phố lớn. 13 Mít-ra-gim sinh ra các người ở Lút, A-nam, Lơ-háp, Náp-tu-khin, 14 Pát-rốt, Cát-lúc và Cáp-to; từ dân này mới có dân Phi-li-tinh.

15 Ca-na-an sinh ra Xi-đôn, là con đầu lòng, rồi sinh Khết, 16 người Giơ-vút, E-mô-ri, Ghia-ga-si, 17 Khi-vi, Ác-ki, Xi-ni, 18 Ác-vát, Xơ-ma-ri, Kha-mát; sau đó các dòng họ người Ca-na-an phân tán đi. 19 Biên giới của người Ca-na-an đi từ Xi-đôn, về phía Gơ-ra thì đến tận Ga-da, về phía Xơ-đôm, Gô-mô-ra, Át-ma và Xơ-vô-gim thì đến Le-sa.

20 Ðó là các con ông Kham, theo dòng họ, tiếng nói, theo đất nước, dân tộc của họ.

21 Cả ông Sêm cũng sinh được những người con, ông là ông tổ của mọi người con của ông Ê-ve và là anh cả của ông Gia-phét.

22 Con của ông Sêm là: Ê-lam, Át-sua, Ác-pắc-sát, Lút, A-ram. 23 Con của ông A-ram là Út, Khun, Ghe-the, Ma-sơ.

24 Ác-pắc-sát sinh Se-lác, Se-lác sinh Ê-ve. 25 Ê-ve sinh được hai con trai; người thứ nhất tên là Pe-léc, vì thời ông đất được phân chia, người em tên là Gióc-tan. 26 Gióc-tan sinh An-mô-đát, Se-lép, Kha-xa-ma-vét, Gie-rác, 27 Ha-đô-ram, U-dan, Ðích-la, 28 Ô-van, A-vi-ma-ên, Sơ-va, 29 Ô-phia, Kha-vi-la, Giô-váp. Tất cả những người đó là con ông Gióc-tan. 30 Vùng họ ở trải rộng từ Mê-sa cho đến Xơ-pha, ngọn núi phía đông.

31 Ðó là các con ông Sêm, theo dòng họ, tiếng nói, theo đất nước, dân tộc của họ.

32 Ðó là các dòng họ của con cái ông Nô-ê, theo gia đình, theo dân tộc của họ. Con cháu họ đã phân tán thành các dân tộc trên mặt đất, sau hồng thuỷ.

Chương 11

Tháp Ba-ben

1 Thuở ấy, mọi người đều nói một thứ tiếng và dùng những từ như nhau. 2 Trong khi di chuyển ở phía đông, họ tìm thấy một đồng bằng ở đất Sin-a và định cư tại đó. 3 Họ bảo nhau: "Nào! Ta đúc gạch và lấy lửa mà nung!" Họ dùng gạch thay vì đá và lấy nhựa đen làm hồ. 4 Họ nói: "Nào! Ta hãy xây cho mình một thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời. Ta phải làm cho danh ta lẫy lừng, để khỏi bị phân tán trên khắp mặt đất."

5 Ðức Chúa xuống xem thành và tháp con cái loài người đang xây. 6 Ðức Chúa phán: "Ðây, tất cả chúng nó họp thành một dân, nói một thứ tiếng. Chúng mới khởi công mà đã như thế thì từ nay, chẳng có gì chúng định làm mà không làm được. 7 Nào! Ta xuống và làm cho tiếng nói của chúng phải xáo trộn, khiến chúng không ai hiểu ai nữa.” 8 Thế là Ðức Chúa phân tán họ từ chỗ đó ra khắp nơi trên mặt đất, và họ phải thôi không xây thành phố nữa. 9 Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Ba-ben, vì tại đó, Ðức Chúa đã làm xáo trộn tiếng nói của mọi người trên mặt đất, và cũng từ chỗ đó, Ðức Chúa đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất.

Các tổ phụ sau Hồng Thuỷ (1 Sb 1:24 -27 )

10 Ðây là gia đình ông Sêm: Khi ông Sêm được một trăm tuổi, thì ông sinh ra Ác-pắc-sát, hai năm sau hồng thuỷ. 11 Sau khi sinh Ác-pắc-sát, ông Sêm sống năm trăm năm và sinh ra con trai con gái.

12 Khi ông Ác-pắc-sát được ba mươi lăm tuổi, thì sinh ra Se-lác. 13 Sau khi sinh Se-lác, ông Ác-pắc-sát sống bốn trăm lẻ ba năm và sinh ra con trai con gái.

14 Khi ông Se-lác được ba mươi tuổi, thì sinh ra Ê-ve. 15 Sau khi sinh ra Ê-ve, ông Se-lác sống bốn trăm lẻ ba năm và sinh ra con trai con gái.

16 Khi ông Ê-ve được ba mươi bốn tuổi, thì sinh ra Pe-léc. 17 Sau khi sinh Pe-léc, ông Ê-ve sống bốn trăm ba mươi năm và sinh ra con trai con gái.

18 Khi ông Pe-léc được ba mươi tuổi, thì sinh ra Rơ-u. 19 Sau khi sinh Rơ-u, ông Pe-léc sống hai trăm lẻ chín năm và sinh ra con trai con gái.

20 Khi ông Rơ-u được ba mươi hai tuổi, thì sinh Xơ-rúc. 21 Sau khi sinh Xơ-rúc, ông Rơ-u sống hai trăm lẻ bảy năm và sinh ra con trai con gái.

22 Khi ông Xơ-rúc được ba mươi tuổi, thì sinh ra Na-kho. 23 Sau khi sinh Na-kho, ông Xơ-rúc sống hai trăm năm và sinh ra con trai con gái.

24 Khi ông Na-kho được hai mươi chín tuổi, thì sinh ra Te-ra. 25 Sau khi sinh Te-ra, ông Na-kho sống một trăm mười chín năm và sinh ra con trai con gái.

26 Khi ông Te-ra được bảy mươi tuổi, thì sinh ra Áp-ram, Na-kho và Ha-ran.

Dòng dõi ông Te-ra

27 Ðây là gia đình ông Te-ra: Ông Te-ra sinh ra Áp-ram, Na-kho và Ha-ran. Ha-ran sinh ra Lót. 28 Ha-ran chết trước mặt cha mình là Te-ra, tại thành Ua của người Can-đê, quê hương ông. 29 Ông Áp-ram và ông Na-kho lấy vợ; vợ ông Áp-ram tên là Xa-rai, vợ ông Na-kho tên là Min-ca, con gái ông Ha-ran; ông này là cha của bà Min-ca và bà Gít-ca. 30 Bà Xa-rai hiếm hoi, không có con.

31 Ông Te-ra đem theo con trai là Áp-ram, cháu nội là Lót, con ông Ha-ran, con dâu là Xa-rai, vợ ông Áp-ram, con của ông; họ cùng với ông ra khỏi Ua của người Can-đê, để đi tới đất Ca-na-an. Họ đến Kha-ran và ở lại đó.

32 Ông Te-ra sống được hai trăm lẻ năm năm, rồi qua đời tại Kha-ran.

Chương 12

II.- Sự Tích Ông Áp-Ra-Ham

Thiên Chúa gọi ông Áp-ram

1 Ðức Chúa phán với ông Áp-ram: "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. 2 Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành.

3 Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi;

Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa.

Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc."

4 Ông Áp-ram ra đi, như Ðức Chúa đã phán với ông. Ông Áp-ram được bảy mươi lăm tuổi khi ông rời Kha-ran. 5 Ông Áp-ram đem theo vợ là bà Xa-rai, cháu là ông Lót, và mọi tài sản họ đã gầy dựng được, cùng với gia nhân họ đã có tại Kha-ran. Họ ra đi về phía đất Ca-na-an và đã tới đất đó.

6 Ông Áp-ram đi qua đất ấy, đến nơi gọi là Si-khem, đến cây Sồi Mô-re. Thời bấy giờ, người Ca-na-an đang ở trong đất ấy. 7 Ðức Chúa hiện ra với ông Áp-ram và phán: "Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi." Tại đây ông dựng một bàn thờ để kính Ðức Chúa, Ðấng đã hiện ra với ông. 8 Từ chỗ ấy, ông sang miền núi, ở phía đông Bết Ên. Ông cắm lều giữa Bết Ên ở phía tây và Ai ở phía đông. Tại đây ông dựng một bàn thờ để kính Ðức Chúa và ông kêu cầu danh Ðức Chúa. 9 Rồi ông đi từ chặng nọ qua chặng kia đến miền Ne-ghép.

Ông Áp-ram ở bên Ai-cập

10 Một nạn đói xảy ra trong xứ ấy, và ông Áp-ram xuống trú ngụ ở Ai-cập, vì nạn đói hoành hành trong xứ. 11 Vậy khi gần vào Ai-cập, ông nói với vợ là bà Xa-rai: "Bà coi, tôi biết bà là một người phụ nữ có nhan sắc. 12 Khi người Ai-cập thấy bà, họ sẽ nói: "Vợ hắn đấy!", họ sẽ giết tôi và để cho bà sống. 13 Vậy xin bà cứ nói bà là em tôi, để vì bà, người ta xử tốt với tôi, và nhờ bà, tôi được sống.” 14 Khi ông Áp-ram đến Ai-cập, người Ai-cập thấy vợ ông rất xinh đẹp. 15 Quan lại của Pha-ra-ô thấy bà thì ca tụng bà trước mặt Pha-ra-ô, và bà bị đưa vào đền Pha-ra-ô. 16 Vì bà, người ta xử tốt với ông Áp-ram; ông được chiên, dê, bò, lừa, tôi trai tớ gái, lừa cái, lạc đà. 17 Tại vì bà Xa-rai, vợ ông Áp-ram, Ðức Chúa giáng những tai ương lớn xuống Pha-ra-ô và gia đình vua. 18 Pha-ra-ô bèn cho gọi ông Áp-ram đến và nói: "Ngươi làm gì ta thế? Tại sao ngươi đã không khai với ta rằng: nàng là vợ ngươi? 19 Tại sao ngươi lại nói với ta: "Nàng là em tôi", khiến ta đã lấy nàng làm vợ? Bây giờ, vợ ngươi đấy, hãy nhận lấy và đi đi!” 20 Pha-ra-ô ra lệnh cho người của vua tống ông Áp-ram đi, cùng với vợ ông và tất cả những gì ông có.

Chương 13

Ông Áp-ram và ông Lót chia tay

1 Ông Áp-ram từ Ai-cập lên miền Ne-ghép, cùng với vợ và tất cả những gì ông có; ông Lót cũng đi với ông. 2 Ông Áp-ram rất giàu, ông có nhiều súc vật và vàng bạc. 3 Ông đi từng chặng từ miền Ne-ghép đến Bết Ên, đến nơi lần trước ông đã cắm lều giữa Bết Ên và Ai. 4 Ở nơi có bàn thờ ông đã làm trước kia, ông Áp-ram kêu cầu danh Ðức Chúa.

5 Ông Lót, người cùng đi với ông Áp-ram, cũng có chiên bò và những chiếc lều. 6 Ðất ấy không đủ chỗ cho họ ở chung: họ có quá nhiều tài sản nên không thể ở chung với nhau được. 7 Một cuộc tranh chấp xảy ra giữa những người chăn súc vật của ông Áp-ram và những người chăn súc vật của ông Lót. Thời bấy giờ người Ca-na-an và người Pơ-rít-di đang ở trong miền ấy. 8 Ông Áp-ram bảo ông Lót: "Sao cho đừng có chuyện tranh chấp giữa bác và cháu, giữa người chăn súc vật của bác và người chăn súc vật của cháu. Vì chúng ta là anh em họ hàng với nhau! 9 Tất cả xứ chẳng ở trước mặt cháu đó sao? Cháu hãy xa bác đi. Nếu cháu đi về bên trái thì bác sẽ đi về bên phải; nếu cháu đi về bên phải thì bác sẽ đi về bên trái."

10 Ông Lót ngước mắt lên và nhìn cả Vùng sông Gio-đan: chỗ nào cũng có nước. Trước khi Ðức Chúa tiêu diệt thành Xơ-đôm và thành Gô-mô-ra, thì vùng đó, cho đến tận Xô-a, giống như vườn của Ðức Chúa, giống như đất Ai-cập. 11 Ông Lót chọn cho mình cả Vùng sông Gio-đan và đi về hướng đông. Thế là họ xa nhau. 12 Ông Áp-ram ở đất Ca-na-an, còn ông Lót ở trong các thành Vùng sông Gio-đan, và di chuyển lều đến tận Xơ-đôm. 13 Người Xơ-đôm xấu xa và mắc tội nặng đối với Ðức Chúa.

14 Ðức Chúa phán với ông Áp-ram sau khi ông Lót xa ông: "Ngước mắt lên, từ chỗ ngươi đang đứng, hãy nhìn về phía bắc, phía nam, phía đông, phía tây, 15 vì tất cả miền đất ngươi đang thấy đó, Ta sẽ ban cho ngươi và cho dòng dõi ngươi mãi mãi. 16 Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi nhiều như bụi trên mặt đất; nếu người ta đếm được bụi trên mặt đất, thì mới đếm được dòng dõi ngươi! 17 Ðứng lên! Hãy đi ngang dọc khắp miền đất này, vì Ta sẽ ban nó cho ngươi.” 18 Ông di chuyển lều và đến ở cụm sồi Mam-rê, tại Khép-rôn. Tại đây, ông dựng một bàn thờ để kính Ðức Chúa.

Chương 14

Cuộc viễn chinh của bốn vua

1 Thời Am-ra-phen làm vua Sin-a, A-ri-ốc làm vua En-la-xa, Cơ-đo-la-ô-me làm vua Ê-lam và Tít-an làm vua Gô-gim, 2 các vua này đánh nhau với Be-ra vua Xơ-đôm, Bia-sa vua Gô-mô-ra, Sin-áp vua Át-ma, Sem-ê-ve vua Xơ-vô-gim, và vua thành Be-la, tức là thành Xô-a.

3 Tất cả các vua vừa nói tập trung về thung lũng Xít-đim, tức là Biển Muối. 4 Trong vòng mười hai năm, họ đã làm tôi vua Cơ-đo-la-ô-me, nhưng đến năm thứ mười ba thì họ nổi loạn. 5 Năm thứ mười bốn, vua Cơ-đo-la-ô-me đến, cùng với các vua về phe ông. Họ đánh bại người Ra-pha tại Át-ta-rốt Các-na-gim, người Du-dim tại Ham, người Ê-mim tại Sa-vê Kia-gia-tha-gim 6 và người Khô-ri ở vùng núi của họ tại Xê-ia, đến tận En Pa-ran, gần sa mạc. 7 Rồi họ quay lại, đến Ên Mít-pát, tức là Ca-đê, và tàn phá toàn thể lãnh thổ người A-ma-lếch và cả người E-mô-ri lập cư ở Khát-xôn Ta-ma. 8 Bấy giờ vua Xơ-đôm, vua Gô-mô-ra, vua Át-ma, vua Xơ-vô-gim và vua Be-la, tức là Xô-a, tiến ra và dàn trận tại thung lũng Xít-đim chống lại các vua kia: 9 Cơ-đo-la-ô-me vua Ê-lam, Tít-an vua Gô-gim, Am-ra-phen vua Sin-a và A-ri-ốc vua En-la-xa, bốn vua chống lại năm vua. 10 Thung lũng Xít-đim đầy những giếng nhựa đen; trong khi chạy trốn, vua Xơ-đôm và vua Gô-mô-ra rơi xuống đó, những người còn lại thì trốn lên núi. 11 Những kẻ thắng trận chiếm đoạt tất cả tài sản của Xơ-đôm và Gô-mô-ra, cũng như tất cả lương thực của họ, rồi đi.

12 Họ bắt ông Lót, cháu ông Áp-ram, cùng với tài sản của ông, rồi đi; bấy giờ ông Lót đang ở Xơ-đôm. 13 Một người thoát được đến báo tin cho ông Áp-ram, người Híp-ri, bấy giờ đang ở cụm sồi của ông Mam-rê, người E-mô-ri, anh em của ông Ét-côn và ông A-ne; họ là đồng minh của ông Áp-ram. 14 Khi nghe tin người anh em họ hàng của mình bị bắt, ông Áp-ram liền huy động những người đã được tập luyện, là các tôi tớ sinh ra trong nhà ông, đến ba trăm mười tám người, và đuổi theo đến tận Ðan. 15 Ông và các tôi tớ của ông chia nhau ra tấn công họ vào ban đêm, đánh bại họ và đuổi theo đến tận Khô-va ở phía bắc Ða-mát. 16 Ông đưa tất cả tài sản về; ông đưa cả ông Lót, người anh em họ hàng của ông, và tài sản của ông ấy về, cũng như các phụ nữ và dân chúng.

Ông Men-ki-xê-đê

17 Sau khi đánh bại vua Cơ-đo-la-ô-me và các vua cùng phe, ông Áp-ram trở về. Bấy giờ vua thành Xơ-đôm ra đón ông tại thung lũng Sa-vê, tức là thung lũng Nhà Vua. 18 Ông Men-ki-xê-đê, vua thành Sa-lem, mang bánh và rượu ra; ông là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao. 19 Ông chúc phúc cho ông Áp-ram và nói:

"Xin Thiên Chúa Tối Cao, Ðấng dựng nên trời đất,

chúc phúc cho Áp-ram!

20 Chúc tụng Thiên Chúa Tối Cao,

Ðấng đã trao vào tay ông những thù địch của ông! "

Rồi ông Áp-ram biếu ông Men-ki-xê-đê một phần mười tất cả chiến lợi phẩm.

21 Vua Xơ-đôm nói với ông Áp-ram: "Người, thì xin ông cho lại tôi; còn tài sản, ông cứ lấy.” 22 Ông Áp-ram nói với vua Xơ-đôm: "Tôi xin giơ tay lên Ðức Chúa, Thiên Chúa Tối Cao, Ðấng dựng nên trời đất, mà thề: 23 "Dù một sợi chỉ, dù một quai dép, bất cứ cái gì của ông, tôi cũng không lấy. Ông sẽ không có thể nói: "Tôi đã làm giàu cho ông Áp-ram.” 24 Tôi không lấy gì cả, chỉ trừ những gì các người trai tráng của tôi đã ăn. Còn những người đã đi với tôi, là A-ne, Ét-côn và Mam-rê, họ sẽ lấy phần của họ."

Chương 15

Lời hứa và giao ước của Thiên Chúa

1 Sau các việc đó, có lời Ðức Chúa phán với ông Áp-ram trong một thị kiến rằng: "Hỡi Áp-ram, đừng sợ, Ta là khiên che thuẫn đỡ cho ngươi; phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn.” 2 Ông Áp-ram thưa: "Lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng, Chúa sẽ ban cho con cái gì? Con ra đi mà không con cái, và người thừa tự gia đình con là Ê-li-e-de, một người Ða-mát.” 3 Ông Áp-ram thưa: "Chúa coi, Chúa không ban cho con một dòng dõi, và một gia nhân của con sẽ thừa kế con.” 4 Và đây có lời Ðức Chúa phán với ông rằng: "Kẻ đó sẽ không thừa kế ngươi, nhưng một kẻ do chính ngươi sinh ra mới thừa kế ngươi.” 5 Rồi Người đưa ông ra ngoài và phán: "Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không." Người lại phán: "Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó! “ 6 Ông tin Ðức Chúa, và vì thế, Ðức Chúa kể ông là người công chính.

7 Người phán với ông: "Ta là Ðức Chúa, Ðấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu.” 8 Ông thưa: "Lạy Ðức Chúa, làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu?” 9 Người phán với ông: "Ði kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non.” 10 Ông kiếm cho Người tất cả những con vật ấy, xẻ đôi ra, và đặt nửa này đối diện với nửa kia; còn chim thì ông không xẻ. 11 Mãnh cầm sà xuống trên các con vật bị giết, nhưng ông Áp-ram đuổi chúng đi.

12 Lúc mặt trời gần lặn, thì một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Áp-ram; một nỗi kinh hoàng, một bóng tối dày đặc bỗng ập xuống trên ông. 13 Người phán với ông: "Ngươi phải biết rằng: dòng dõi ngươi sẽ trú ngụ trong một đất không phải của chúng. Chúng sẽ làm tôi người ta và người ta sẽ hành hạ chúng bốn trăm năm. 14 Nhưng Ta sẽ xét xử dân tộc chúng phải làm tôi, và sau đó chúng sẽ ra đi với nhiều tài sản. 15 Còn ngươi sẽ về với cha ông ngươi bình an, và sẽ được chôn cất sau khi hưởng tuổi già hạnh phúc. 16 Ðến đời thứ bốn, chúng sẽ trở về đây, vì sự gian ác của người E-mô-ri chưa đủ mức."

17 Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, thì bỗng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi. 18 Hôm đó, Ðức Chúa lập giao ước với ông Áp-ram như sau:

"Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này,

từ sông Ai-cập đến Sông Cả, tức sông Êu-phơ-rát,

19 đất của những người Kê-ni, Cơ-nát, Cát-môn, 20 Khết, Pơ-rít-di, Ra-pha, 21 E-mô-ri, Ca-na-an, Ghia-ga-si và Giơ-vút.

Chương 16

Ông Ít-ma-ên chào đời

1 Bà Xa-rai, vợ ông Áp-ram, đã không sinh được cho ông một người con nào. Bà có một người nữ tỳ Ai-cập, tên là Ha-ga. 2 Bà Xa-rai nói với ông Áp-ram: "Ông coi: Ðức Chúa đã không cho phép tôi sinh con. Vậy xin ông đi lại với nữ tỳ của tôi; may ra nhờ nó mà tôi sẽ có con." Ông Áp-ram nghe lời bà Xa-rai.

3 Mười năm sau khi ông Áp-ram lập nghiệp tại đất Ca-na-an, bà Xa-rai, vợ ông, đem nữ tỳ của bà là Ha-ga, người Ai-cập, hiến cho ông Áp-ram, chồng bà, để nàng làm vợ ông. 4 Ông đi lại với Ha-ga và nàng có thai. Khi thấy mình có thai, thì nàng coi khinh bà chủ. 5 Bà Xa-rai nói với ông Áp-ram: "Tôi bị sỉ nhục là tại ông đấy! Chính tôi đã đặt nữ tỳ của tôi vào lòng ông. Thế mà từ khi nó thấy mình có thai, nó coi khinh tôi. Xin Ðức Chúa phân xử giữa ông và tôi.” 6 Ông Áp-ram nói với bà Xa-rai: "Nữ tỳ của bà ở trong tay bà đấy; đối với nó, cái gì tốt cho bà thì bà cứ làm!" Bà Xa-rai hành hạ Ha-ga khiến nàng phải trốn bà.

7 Sứ thần của Ðức Chúa gặp thấy nàng gần một suối nước trong sa mạc, suối ở trên đường đi Sua. 8 Người hỏi: "Ha-ga, nữ tỳ của Xa-rai, ngươi từ đâu đến và đi đâu?" Nàng đáp: "Con đang trốn bà Xa-rai, chủ con.” 9 Sứ thần của Ðức Chúa bảo nàng: "Cứ về với bà chủ ngươi, và chịu luỵ bà ấy."10 Sứ thần của Ðức Chúa nói với nàng: "Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi ra thật nhiều đến mức không thể đếm được vì quá đông.” 11 Sứ thần của Ðức Chúa nói với nàng:

"Này đây ngươi đang có thai, sắp sinh hạ con trai

và sẽ đặt tên là Ít-ma-ên,

vì Ðức Chúa đã nghe thấu nỗi khổ của ngươi.

12 Con người đó đúng là một con lừa hoang,

nó giơ tay chống mọi người, mọi người giơ tay chống nó,

nó sẽ luôn đối đầu với tất cả anh em nó."

13 Nàng gọi tên Ðức Chúa, Ðấng phán với nàng, là: "Ngài là Thiên Chúa, Ðấng thấy tôi", vì nàng nói: "Phải chăng nơi đây tôi đã nhìn thấy, sau khi Người nhìn thấy tôi?” 14 Vì vậy người ta gọi giếng đó là giếng La-khai Rô-i. Giếng ấy ở giữa Ca-đê và Be-rét.

15 Ha-ga sinh cho ông Áp-ram một con trai; ông đặt tên cho đứa con mà Ha-ga đã sinh cho ông là Ít-ma-ên. 16 Ông Áp-ram được tám mươi sáu tuổi khi Ha-ga sinh Ít-ma-ên cho ông.

Chương 17

Giao ước và phép cắt bì

1 Khi ông Áp-ram được chín mươi chín tuổi, Ðức Chúa hiện ra với ông và phán: "Ta là Thiên Chúa Toàn Năng. Ngươi hãy bước đi trước mặt Ta và hãy sống hoàn hảo. 2 Ta sẽ đặt giao ước của Ta giữa Ta với ngươi, và Ta sẽ cho ngươi trở nên đông, thật đông.” 3 Ông Áp-ram cúi rạp xuống.

Thiên Chúa phán với ông rằng:

4 "Phần Ta, đây là giao ước của Ta với ngươi: ngươi sẽ làm cha của vô số dân tộc. 5 Người ta sẽ không còn gọi tên ngươi là Áp-ram nữa, nhưng là Áp-ra-ham, vì Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc. 6 Ta sẽ cho ngươi sinh ra nhiều, thật nhiều: Ta sẽ làm cho ngươi thành những dân tộc, và vua chúa sẽ phát xuất từ ngươi. 7 Ta sẽ lập giao ước của Ta giữa Ta với ngươi và với dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Ðây sẽ là giao ước vĩnh cửu, do đó Ta sẽ là Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi sau này. 8 Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi sau này miền đất ngươi đang trú ngụ, tức là tất cả đất Ca-na-an, làm sở hữu vĩnh viễn; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng."

9 Thiên Chúa phán với ông Áp-ra-ham: "Phần ngươi, hãy giữ giao ước của Ta, ngươi và dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ này qua thế hệ khác. 10 Ðây là giao ước của Ta mà các ngươi phải giữ, giao ước giữa Ta với các ngươi, với dòng dõi ngươi sau này: mọi đàn ông con trai của các ngươi sẽ phải chịu cắt bì. 11 Các ngươi phải chịu cắt bì nơi bao quy đầu: đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với các ngươi. 12 Sinh được tám ngày, mọi con trai của các ngươi sẽ phải chịu cắt bì, từ thế hệ này qua thế hệ khác, kể cả nô lệ sinh trong nhà, hay nô lệ các ngươi dùng bạc mà mua của bất cứ người ngoại bang nào không thuộc dòng dõi các ngươi. 13 Buộc phải cắt bì nô lệ sinh trong nhà cũng như nô lệ mua bằng bạc. Giao ước của Ta ghi dấu trong xác thịt các ngươi, sẽ thành giao ước vĩnh cửu. 14 Kẻ không được cắt bì, người đàn ông con trai không được cắt bì nơi bao quy đầu, sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ: nó đã phá vỡ giao ước của Ta."

15 Thiên Chúa phán với ông Áp-ra-ham: "Xa-rai, vợ ngươi, ngươi không được gọi tên là Xa-rai nữa, nhưng tên nó sẽ là Xa-ra. 16 Ta sẽ chúc phúc cho nó, Ta còn cho nó sinh cho ngươi một con trai. Ta sẽ chúc phúc cho nó, nó sẽ trở thành những dân tộc; vua chúa các dân sẽ phát xuất từ nó. 17 Ông Áp-ra-ham cúi rạp xuống; ông cười và nghĩ bụng: "Ðàn ông trăm tuổi mà có con được sao? Còn bà Xa-ra đã chín mươi tuổi mà sinh đẻ được sao? “ 18 Ông Áp-ra-ham thưa với Thiên Chúa: "Ước chi Ít-ma-ên được sống trước nhan Ngài! “ 19 Nhưng Thiên Chúa phán: "Không đâu! Chính Xa-ra, vợ ngươi, sắp sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ đặt tên cho nó là I-xa-ác. Ta sẽ lập giao ước của Ta với nó; đây sẽ là giao ước vĩnh cửu cho dòng dõi nó sau này. 20 Còn về Ít-ma-ên, Ta nghe lời ngươi xin: Này Ta chúc phúc cho nó, Ta sẽ cho nó sinh sôi nảy nở ra nhiều, thật nhiều. Nó sẽ sinh ra mười hai đầu mục, Ta sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn. 21 Nhưng giao ước của Ta thì Ta lập với I-xa-ác, đứa con mà Xa-ra sẽ sinh cho ngươi vào độ này sang năm.” 22 Sau khi phán với ông Áp-ra-ham, Thiên Chúa từ giã ông mà đi lên.

23 Ông Áp-ra-ham dẫn Ít-ma-ên con ông, mọi nô lệ sinh trong nhà ông và nô lệ mua bằng bạc, mọi đàn ông con trai trong số người nhà của ông, đem đi cắt bì nơi bao quy đầu của họ trong chính ngày ấy, như Thiên Chúa đã phán với ông. 24 Ông Áp-ra-ham được chín mươi chín tuổi khi chịu cắt bì nơi bao quy đầu. 25 Ít-ma-ên, con ông, được mười ba tuổi khi chịu cắt bì nơi bao quy đầu. 26 Trong chính ngày ấy, ông Áp-ra-ham và Ít-ma-ên, con ông, chịu cắt bì; 27 mọi người nhà của ông, những nô lệ sinh trong nhà hoặc nô lệ ông dùng bạc mà mua của người ngoại bang, đều chịu cắt bì với ông.

Chương 18

Thiên Chúa hiện ra tại Mam-rê

1 Ðức Chúa hiện ra với ông Áp-ra-ham tại cụm sồi Mam-rê, khi ông đang ngồi ở cửa lều, vào lúc nóng nực nhất trong ngày. 2 Ông ngước mắt lên thì thấy có ba người đứng gần ông. Vừa thấy, ông liền từ cửa lều chạy ra đón khách, sụp xuống đất lạy 3 và nói: "Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài. 4 Ðể tôi cho lấy chút nước, mời các ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. 5 Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây!" Khách trả lời: "Xin cứ làm như ông vừa nói!"

6 Ông Áp-ra-ham vội vã vào lều tìm bà Xa-ra mà bảo: "Bà mau mau lấy ba thúng tinh bột mà nhồi, rồi làm bánh.” 7 Ông chạy lại đàn vật, bắt một con bê mềm và ngon, giao cho người đầy tớ, và anh này vội vã làm thịt. 8 Ông lấy sữa chua, sữa tươi và thịt bê đã làm, mà đãi khách; rồi ông đứng hầu dưới gốc cây, đang khi khách dùng bữa.

9 Khách nói với ông: "Bà Xa-ra vợ ông đâu?" Ông đáp: "Thưa nhà tôi ở trong lều.” 10 Người nói: "Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Xa-ra vợ ông sẽ có một con trai." Bà Xa-ra bấy giờ đang nghe ở cửa lều, phía sau. 11 Ông Áp-ra-ham và bà Xa-ra đã già nua tuổi tác, và bà Xa-ra không còn điều thường xảy đến cho đàn bà. 12 Bà Xa-ra cười thầm tự bảo: "Mình đã cằn cỗi rồi, còn hưởng được vui thú nữa sao? Ông nhà mình lại là một ông lão!” 13 Ðức Chúa phán với ông Áp-ra-ham: "Tại sao Xa-ra lại cười và nói: "Có thật tôi già thế này mà còn sinh đẻ được chăng? 14 Nào có điều gì kỳ diệu vượt sức Ðức Chúa? Vào độ này sang năm, Ta sẽ trở lại thăm ngươi, và Xa-ra sẽ có một con trai.” 15 Bà Xa-ra chối và nói: "Con đâu có cười! " Vì bà sợ. Nhưng Người bảo: "Có, ngươi đã cười!"

Ông Áp-ra-ham can thiệp cho thành Xơ-đôm

16 Từ nơi đó ba người kia đứng dậy và nhìn xuống phía Xơ-đôm. Ông Áp-ra-ham cùng đi để tiễn khách. 17 Ðức Chúa phán: "Ta có nên giấu Áp-ra-ham điều Ta sắp làm chăng? 18 Áp-ra-ham sẽ trở thành một dân tộc lớn mạnh và mọi dân tộc sẽ được chúc phúc nhờ nó. 19 Thật vậy, Ta đã chọn nó, để nó truyền cho con cái nó và gia tộc nó sau này phải giữ đường lối của Ðức Chúa mà thực hiện điều công minh chính trực; như thế Ðức Chúa sẽ làm cho Áp-ra-ham điều Người đã phán về nó.” 20 Ðức Chúa phán: "Tiếng kêu trách Xơ-đôm và Gô-mô-ra thật quá lớn! Tội lỗi của chúng quá nặng nề! 21 Ta phải xuống xem thật sự chúng có làm như tiếng kêu trách đã thấu đến Ta không. Có hay không, Ta sẽ biết."

22 Hai người kia bỏ nơi đó mà đi về phía Xơ-đôm, nhưng Ðức Chúa còn đứng lại với ông Áp-ra-ham. 23 Ông lại gần và thưa: "Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? 24 Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó, vì năm mươi người lành trong đó sao? 25 Ngài làm như vậy, chắc không được đâu! Giết chết người lành một trật với kẻ dữ, coi người lành cũng như kẻ dữ, chắc không được đâu! Ðấng xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh sao? “ 26 Ðức Chúa đáp: "Nếu Ta tìm được trong thành Xơ-đôm năm mươi người lành, thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho tất cả thành đó."

27 Ông Áp-ra-ham lại nói: "Mặc dầu con chỉ là thân tro bụi, con cũng xin mạn phép thưa với Chúa: 28 Giả như trong số năm mươi người lành lại thiếu mất năm, vì năm người đó, Ngài sẽ phá huỷ cả thành sao?" Chúa đáp: "Không! Ta sẽ không phá huỷ, nếu Ta tìm được bốn mươi lăm người.” 29 Ông lại thưa một lần nữa: "Giả như trong thành tìm được bốn mươi người thì sao?" Chúa đáp: "Vì bốn mươi người đó, Ta sẽ không làm."

30 Ông nói: "Xin Chúa đừng giận, cho con nói tiếp: Giả như ở đó có ba mươi người thì sao?" Chúa đáp: "Nếu Ta tìm được ba mươi người, Ta sẽ không làm.” 31 Ông nói: Con xin mạn phép thưa với Chúa: "Giả như tìm được hai mươi người thì sao?" Chúa đáp: "Vì hai mươi người đó, Ta sẽ không phá huỷ.” 32 Ông nói: "Xin Chúa đừng giận, cho con nói một lần này nữa thôi: Giả như tìm được mười người thì sao?" Chúa đáp: "Vì mười người đó, Ta sẽ không phá huỷ Xơ-đôm."

33 Sau khi phán với ông Áp-ra-ham, Ðức Chúa đi, còn ông Áp-ra-ham thì trở về nhà.

Chương 19

Thành Xơ-đôm bị phá huỷ

1 Hai sứ thần đến thành Xơ-đôm vào buổi chiều; ông Lót lúc ấy đang ngồi ở cửa thành Xơ-đôm. Vừa thấy các ngài, ông Lót đứng lên ra đón các ngài và cúi sấp mặt xuống đất. 2 Ông nói: "Thưa các ngài, kính xin các ngài ghé lại nhà tôi tớ các ngài đây để nghỉ đêm và rửa chân, rồi sớm mai các ngài tiếp tục đi đường." Họ đáp: "Không! Chúng tôi sẽ nghỉ đêm ngoài đường phố.” 3 Nhưng ông nài nỉ các ngài mãi nên các ngài ghé lại và vào nhà ông. Ông làm tiệc đãi các ngài, nướng bánh không men, và các ngài đã dùng bữa. 4 Các ngài chưa đi nằm thì dân trong thành, tức là người Xơ-đôm, bao vây nhà, từ trẻ đến già, toàn dân không trừ ai. 5 Chúng gọi ông Lót và bảo: "Những người vào nhà ông đêm nay đâu rồi? Hãy đưa họ ra cho chúng tôi chơi."

6 Ông Lót ra trước cửa gặp chúng, đóng cửa lại sau lưng, 7 rồi nói: "Thưa anh em, tôi van anh em đừng làm bậy. 8 Ðây tôi có hai đứa con gái chưa ăn ở với đàn ông, tôi sẽ đưa chúng ra cho anh em; anh em muốn làm gì chúng thì làm, nhưng còn hai người này, xin anh em đừng làm gì họ, vì họ đã vào trọ dưới mái nhà tôi.” 9 Chúng đáp: "Xê ra! Tên này là một ngoại kiều đến đây trú ngụ mà lại đòi xét xử à! Chúng tao sẽ làm dữ với mày hơn là với những tên kia!" Họ xô mạnh ông Lót và xông vào để phá cửa. 10 Nhưng hai người khách đưa tay kéo ông Lót vào nhà với mình, rồi đóng cửa lại. 11 Còn những người đứng ngoài cửa, thì các ngài làm cho chúng ra mù, từ người nhỏ nhất đến người lớn nhất, khiến chúng không sao tìm ra cửa.

12 Hai người khách nói với ông Lót: "Ông còn ai ở đây nữa không? Con rể, con trai, con gái, và tất cả những gì ông có trong thành, hãy đưa ra khỏi nơi này.” 13 Chúng tôi sắp phá huỷ nơi này, vì tiếng kêu trách dân thành quá lớn trước nhan Ðức Chúa, và Ðức Chúa đã sai chúng tôi đến huỷ diệt chúng.” 14 Ông Lót đi ra nói với các con rể, tức là những người sắp cưới các con gái ông: "Ðứng lên! Ra khỏi nơi đây, vì Ðức Chúa sắp phá huỷ thành này." Nhưng các con rể ông cho là ông nói đùa.

15 Khi hừng đông ló rạng, các sứ thần giục ông Lót rằng: "Ðứng lên! Ðưa vợ và hai con gái ông đang ở đây đi đi, kẻo ông phải chết lây khi thành bị phạt.” 16 Ông còn đang chần chừ thì hai người khách nắm lấy tay ông, tay vợ ông và tay hai người con gái ông, vì Ðức Chúa muốn cứu ông; các ngài đưa ông ra và để bên ngoài thành.

17 Khi đưa ông ra ngoài rồi, một vị nói: "Ông hãy trốn đi để cứu mạng sống mình! Ðừng ngoái lại đằng sau, đừng dừng lại chỗ nào cả trong cả Vùng. Hãy trốn lên núi kẻo bị chết lây.” 18 Ông Lót nói với hai người khách: "Thưa ngài, xin miễn cho! 19 Này, tôi tớ ngài đây đã được đẹp lòng ngài, và ngài đã tỏ lòng thương lớn lao của ngài đối với tôi khi để cho tôi sống. Nhưng tôi không trốn lên núi được đâu, tai ương sẽ đuổi kịp, và tôi chết mất! 20 Kìa, có một thành khá gần, có thể trốn vào đấy được, thành ấy lại nhỏ. Xin cho tôi trốn vào đó - thành đó nhỏ mà - để tôi được sống.” 21 Người nói với ông: "Ðược, vì nể ông một lần nữa, tôi sẽ không phá đổ thành mà ông nói. 22 Ông hãy mau trốn vào đó, vì tôi không thể làm gì trước khi ông vào đó." Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Xô-a.

23 Khi mặt trời mọc lên trên mặt đất thì ông Lót vào Xô-a. 24 Ðức Chúa làm mưa diêm sinh và lửa từ Ðức Chúa, từ trời, xuống Xơ-đôm và Gô-mô-ra. 25 Người phá đổ các thành ấy và cả Vùng, cùng với toàn thể dân cư các thành ấy và cây cỏ trên đất. 26 Bà vợ ông Lót ngoái lại đằng sau và hoá thành cột muối.

27 Sáng hôm sau ông Áp-ra-ham dậy sớm, đến chỗ ông đã đứng trước mặt Ðức Chúa. 28 Ông nhìn xuống phía Xơ-đôm, Gô-mô-ra và cả Vùng, ông thấy khói từ đất bốc lên như khói một lò lửa!

29 Như vậy, khi Thiên Chúa phá huỷ các thành trong cả Vùng, Thiên Chúa đã nhớ đến ông Áp-ra-ham và đã cứu ông Lót khỏi cuộc tàn phá, khi Người phá đổ các thành nơi ông Lót ở.

Nguồn gốc người Mô-áp và người Am-mon

30 Ông Lót bỏ Xô-a, lên ở trên núi cùng với hai con gái ông, vì ông sợ không dám ở Xô-a. Ông ở trong một cái hang cùng với hai con gái. 31 Cô chị bảo cô em: "Cha đã già; trong miền lại không có người đàn ông nào để đến với chúng mình theo thói thường trong thiên hạ. 32 Nào! Chúng mình hãy cho cha uống rượu và nằm với cha; như thế, chúng mình sẽ bảo tồn dòng giống cho cha.” 33 Ðêm ấy, các cô cho cha mình uống rượu, rồi cô chị đến nằm với cha, mà ông không hay biết khi nào cô nằm, khi nào cô dậy. 34 Hôm sau, cô chị bảo cô em: "Ðấy, đêm qua chị đã nằm với cha. Ðêm nay nữa, chúng mình lại cho cha uống rượu, rồi em đến nằm với cha; như thế, chúng mình sẽ bảo tồn dòng giống cho cha.” 35 Ðêm ấy nữa, hai cô lại cho cha uống rượu, rồi cô em đứng dậy đến nằm với cha, mà ông không hay biết khi nào cô nằm, khi nào cô dậy. 36 Thế là hai cô con gái ông Lót đã có thai với cha mình. 37 Cô chị sinh một con trai và đặt tên là Mô-áp; đó là ông tổ người Mô-áp ngày nay. 38 Cô em cũng sinh một con trai và đặt tên là Ben Am-mi; đó là ông tổ người Am-mon ngày nay.

Chương 20

Ông Áp-ra-ham tại Gơ-ra

1 Ông Áp-ra-ham rời chỗ đó, đến miền Ne-ghép. Ông ở giữa Can-đê và Sua, rồi ông trú ngụ tại Gơ-ra. 2 Ông Áp-ra-ham nói về bà Xa-ra, vợ ông: "Nàng là em tôi", và A-vi-me-léc, vua Gơ-ra, đã sai người đến bắt bà Xa-ra. 3 Nhưng ban đêm Thiên Chúa đến báo mộng cho vua A-vi-me-léc rằng: "Này ngươi sắp phải chết vì người đàn bà mà ngươi đã bắt, bởi người ấy có chồng.” 4 Vua A-vi-me-léc đã không gần gũi bà ấy, vua thưa: "Lạy Chúa, một dân công chính mà Ngài cũng giết sao? 5 Ông ấy đã chẳng bảo tôi rằng: "Nàng là em tôi" đó sao? Và ngay cả bà ấy cũng đã nói rằng: "Ông ấy là anh tôi. Tôi đã làm điều đó với tấm lòng thuần khiết và bàn tay vô tội.” 6 Thiên Chúa báo mộng cho vua rằng: "Ta cũng biết là ngươi đã làm điều đó với tấm lòng thuần khiết, và cũng chính Ta đã ngăn cản ngươi khỏi mắc tội đối với Ta. Vì thế, Ta đã không để cho ngươi động đến người ấy. 7 Bây giờ hãy trả vợ của người ấy về, vì người ấy là một ngôn sứ: người ấy sẽ cầu nguyện cho ngươi và ngươi sẽ được sống. Còn nếu ngươi không trả về, thì hãy biết rằng chắc chắn ngươi phải chết, ngươi cũng như mọi kẻ thuộc về ngươi."

8 Sáng hôm sau, vua A-vi-me-léc dậy sớm, gọi tất cả các đầy tớ đến và thuật lại cho họ nghe tất cả những điều ấy; những người này sợ lắm! 9 Vua A-vi-me-léc cho gọi ông Áp-ra-ham đến và nói với ông: "Ông đã làm gì chúng tôi thế? Tôi mắc tội gì đối với ông, mà ông lại làm cho tôi và nước tôi phải vương vào một tội lớn như thế? Ông đã làm cho tôi những điều không nên làm! “ 10 Vua A-vi-me-léc nói với ông Áp-ra-ham: "Ông nhắm mục đích gì khi làm điều ấy? “ 11 Ông Áp-ra-ham trả lời: "Tôi nghĩ bụng: "Ở nơi này người ta chẳng kính sợ gì Thiên Chúa, và vì vợ tôi họ sẽ giết tôi.” 12 Vả lại, nàng đúng là em gái tôi, con cùng cha khác mẹ, và nàng đã trở thành vợ tôi. 13 Khi Thiên Chúa bắt tôi đi lang thang xa nhà cha tôi, thì tôi đã bảo nàng: "Xin bà làm cho tôi ơn này là bất cứ nơi nào chúng ta đến, bà cứ nói: "Ông ấy là anh tôi."

14 Vua A-vi-me-léc lấy chiên bò, tôi trai tớ gái tặng ông Áp-ra-ham và trả lại cho ông bà Xa-ra, vợ ông. 15 Vua A-vi-me-léc nói với ông Áp-ra-ham: "Này đất của tôi ở trước mặt ông; ông muốn ở đâu tuỳ thích.” 16 Rồi vua nói với bà Xa-ra: "Ðây tôi cho anh bà một ngàn đồng tiền bạc. Ðối với bà, đó sẽ là bức màn che mắt mọi người ở với bà, và bà sẽ được hoàn toàn minh oan.” 17 Ông Áp-ra-ham cầu nguyện với Thiên Chúa và Thiên Chúa chữa lành vua A-vi-me-léc, vợ vua và các nữ tỳ của vua, cho họ có thể sinh con, 18 bởi trước đấy Ðức Chúa đã làm cho mọi phụ nữ trong gia đình vua A-vi-me-léc không sinh đẻ được, vì chuyện bà Xa-ra, vợ ông Áp-ra-ham.

Chương 21

Ông I-xa-ác chào đời

1 Ðức Chúa viếng thăm bà Xa-ra như Người đã phán, và Người đã làm cho bà như Người đã hứa. 2 Bà Xa-ra có thai và sinh cho ông Áp-ra-ham một con trai khi ông đã già, vào thời kỳ Thiên Chúa đã hứa. 3 Ông Áp-ra-ham đặt tên cho đứa con sinh ra cho ông là I-xa-ác, đứa con mà bà Xa-ra sinh ra cho ông. 4 Ông Áp-ra-ham cắt bì cho I-xa-ác, con ông, lúc nó được tám ngày, như Thiên Chúa đã truyền cho ông. 5 Ông Áp-ra-ham được một trăm tuổi khi sinh được người con là I-xa-ác. 6 Bà Xa-ra nói:

"Thiên Chúa đã làm cho tôi cười;

tất cả những ai nghe biết sẽ cười tôi."

7 Bà còn nói:

"Ai dám báo trước cho ông Áp-ra-ham rằng Xa-ra sẽ cho con bú?

Thế mà tôi đã sinh cho ông một con trai, khi ông đã về già!"

Ha-ga và Ít-ma-ên bị đuổi

8 Ðứa trẻ lớn lên và cai sữa. Ông Áp-ra-ham làm tiệc lớn ngày I-xa-ác cai sữa. 9 Bà Xa-ra thấy đứa con mà Ha-ga, người Ai-cập, đã sinh ra cho ông Áp-ra-ham, đang cười giỡn, 10 liền nói với ông Áp-ra-ham: "Ông hãy đuổi hai mẹ con đứa nữ tỳ này đi, vì con trai đứa nữ tỳ không được thừa kế cùng với I-xa-ác, con trai tôi.” 11 Ông Áp-ra-ham rất bực mình vì lời ấy, bởi đó là con ông. 12 Nhưng Thiên Chúa phán với ông Áp-ra-ham: "Ðừng bực mình vì chuyện đứa trẻ và người nữ tỳ của ngươi. Tất cả những gì Xa-ra nói với ngươi, cứ nghe, bởi vì chính nhờ I-xa-ác mà ngươi sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. 13 Còn con trai của người nữ tỳ, Ta cũng sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn, vì nó là dòng dõi ngươi.” 14 Sáng hôm sau, ông Áp-ra-ham dậy sớm, lấy bánh và một bầu da đựng nước đưa cho Ha-ga. Ông đặt đứa bé lên vai nàng và bắt nàng phải đi.

15 Khi nước trong bầu da đã cạn, nàng vất đứa bé dưới một bụi cây, 16 rồi đi ngồi đối diện, cách xa khoảng tầm cung bắn. Nàng nói: "Sao cho tôi đừng nhìn thấy đứa bé chết!" Nàng ngồi đối diện và bật tiếng khóc. 17 Thiên Chúa nghe thấy tiếng đứa trẻ và từ trời sứ thần Thiên Chúa gọi Ha-ga và nói: "Sao thế, Ha-ga? Ðừng sợ, vì Thiên Chúa đã nghe thấy tiếng đứa trẻ, ở chỗ nó nằm. 18 Ðứng lên! Ðỡ đứa trẻ dậy và ôm nó trong tay, vì Ta sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn.” 19 Thiên Chúa mở mắt cho nàng, và nàng thấy một giếng nước. Nàng đi đổ nước đầy bầu da, rồi cho đứa trẻ uống. 20 Thiên Chúa ở với đứa trẻ, nó lớn lên, sống trong sa mạc, và trở thành người bắn cung. 21 Nó sống trong sa mạc Pa-ran, và mẹ nó cưới cho nó một cô vợ người đất Ai-cập.

Ông Áp-ra-ham và vua A-vi-me-léc ở Bơ-e Se-va

22 Thời ấy, vua A-vi-me-léc cùng với ông Pi-khôn, tướng chỉ huy quân đội của vua, đến nói với ông Áp-ra-ham: "Thiên Chúa ở với ông trong tất cả những gì ông làm. 23 Vậy bây giờ ông hãy lấy Thiên Chúa mà thề tại đây với tôi là ông sẽ không lừa dối tôi và con cái cháu chắt tôi; tôi đã lấy tình mà đối xử với ông thế nào, thì ông cũng phải đối xử với tôi và với đất ông đang trú ngụ như vậy."

24 Ông Áp-ra-ham nói: "Tôi xin thề."

25 Ông Áp-ra-ham trách vua A-vi-me-léc về chuyện giếng nước mà những đầy tớ vua A-vi-me-léc đã chiếm đoạt. 26 Vua A-vi-me-léc nói: "Tôi không biết ai đã làm điều đó. Chính ông đã không thông báo cho tôi; và chính tôi mãi tới hôm nay cũng chẳng nghe biết gì.” 27 Ông Áp-ra-ham lấy chiên bò biếu vua A-vi-me-léc, và cả hai lập một giao ước. 28 Ông Áp-ra-ham tách riêng bảy con chiên cái còn non trong đàn ra. 29 Vua A-vi-me-léc nói với ông Áp-ra-ham: "Bảy con chiên cái còn non ông tách riêng ra đó là để làm gì?” 30 Ông trả lời: "Bảy chiên cái còn non ấy, xin ông nhận từ tay tôi; đó sẽ là bằng chứng tỏ ra chính tôi đã đào cái giếng ấy.” 31 Bởi vậy, người ta gọi nơi ấy là Bơ-e Se-va, vì tại đó hai người đã thề.

32 Họ đã lập giao ước tại Bơ-e Se-va, rồi vua A-vi-me-léc đứng dậy cùng với ông Pi-khôn, người chỉ huy quân đội của vua, và trở về đất người Phi-li-tinh. 33 Ông Áp-ra-ham trồng một cây liễu bách tại Bơ-e Se-va, ở đó ông kêu cầu danh Ðức Chúa, Thiên Chúa vĩnh cửu. 34 Ông Áp-ra-ham trú ngụ lâu dài trong đất người Phi-li-tinh.

Chương 22

Ông Áp-ra-ham dâng I-xa-ác làm lễ tế

1 Sau các việc đó, Thiên Chúa thử lòng ông Áp-ra-ham. Người gọi ông: "Áp-ra-ham!" Ông thưa: "Dạ, con đây!” 2 Người phán: "Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là I-xa-ác, hãy đi đến xứ Mô-ri-gia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho."

3 Sáng hôm sau, ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là I-xa-ác, ông bổ củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, rồi lên đường đi tới nơi Thiên Chúa bảo. 4 Sang ngày thứ ba, ông Áp-ra-ham ngước mắt lên, thấy nơi đó ở đàng xa. 5 Ông Áp-ra-ham bảo đầy tớ: "Các anh ở lại đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia; chúng tôi làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh."

6 Ông Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi. 7 I-xa-ác thưa với cha là ông Áp-ra-ham: "Cha!” 8 Ông Áp-ra-ham đáp: "Cha đây con!" Cậu nói: "Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu đâu?" Ông Áp-ra-ham đáp: "Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ." Rồi cả hai cùng đi.

9 Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Áp-ra-ham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói I-xa-ác con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. 10 Rồi ông Áp-ra-ham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình.

11 Nhưng sứ thần của Ðức Chúa từ trời gọi ông: "Áp-ra-ham! Áp-ra-ham!" Ông thưa: "Dạ, con đây!” 12 Người nói: "Ðừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!” 13 Ông Áp-ra-ham ngước mắt lên nhìn, thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Áp-ra-ham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình. 14 Ông Áp-ra-ham đặt tên cho nơi này là "Ðức Chúa sẽ liệu." Bởi đó, bây giờ có câu: "Trên núi Ðức Chúa sẽ liệu."

15 Sứ thần của Ðức Chúa từ trời gọi ông Áp-ra-ham một lần nữa16 và nói: "Ðây là sấm ngôn của Ðức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, 17 nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. 18 Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta."

19 Ông Áp-ra-ham trở lại với các đầy tớ của ông; họ đứng dậy và cùng nhau đi đến Bơ-e Se-va. Ông Áp-ra-ham sống ở Bơ-e Se-va.

Dòng dõi ông Na-kho

20 Sau các việc đó, người ta báo cho ông Áp-ra-ham rằng: "Này cả bà Min-ca cũng đã sinh cho ông Na-kho, em ông, những người con trai, đó là: 21 Út, con cả, Bút, con thứ, Cơ-mu-ên, cha của A-ram, 22 Ke-xét, Kha-dô, Pin-đát, Gít-láp, Bơ-thu-ên.” 23 Ông Bơ-thu-ên sinh bà Rê-bê-ca. Ðó là tám người bà Min-ca đã sinh cho ông Na-kho, em ông Áp-ra-ham. 24 Vợ lẽ của ông Na-kho tên là Rưu-ma, cũng sinh con là Te-vác, Ga-kham, Ta-khát và Ma-a-kha.

Chương 23

Mồ mả của các tổ phụ

1 Bà Xa-ra sống được một trăm hai mươi bảy tuổi: đó là những năm bà Xa-ra đã sống. 2 Bà Xa-ra qua đời tại Kia-giát Ác-ba, tức là Khép-rôn, trong đất Ca-na-an. Ông Áp-ra-ham đến làm lễ chôn cất bà và than khóc bà.

3 Ông đứng dậy, để người chết đó và nói với con cái ông Khết rằng: 4 "Tôi là ngoại kiều và là người khách ở giữa các ông. Xin các ông nhượng cho tôi một miếng đất riêng làm phần mộ ở giữa các ông, để tôi đem người chết của tôi đi chôn.” 5 Ðáp lời ông Áp-ra-ham, con cái ông Khết nói rằng: 6 "Thưa ngài, xin nghe chúng tôi nói. Ngài là một vị đầu mục của Thiên Chúa ở giữa chúng tôi, xin cứ chôn người chết của ngài trong ngôi mộ tốt nhất của chúng tôi. Không ai trong chúng tôi sẽ từ chối không cho ngài chôn người chết của ngài trong mộ của chúng tôi đâu!” 7 Ông Áp-ra-ham đứng lên, sụp xuống lạy dân trong đất ấy, tức là con cái ông Khết, 8 và nói với họ rằng: "Nếu quả thật các ông đồng ý cho tôi đem người chết của tôi đi chôn, thì xin nghe tôi nói và can thiệp với ông Ép-rôn, con ông Xô-kha cho tôi, 9 để ông ấy nhượng cho tôi cái hang Mác-pê-la của ông, ở đầu cánh đồng của ông. Xin ông ấy nhượng lại cho tôi theo đúng giá, để tôi có một miếng đất riêng làm phần mộ ở giữa các ông.” 10 Ông Ép-rôn, người Khết, bấy giờ đang ngồi giữa con cái ông Khết, trả lời cho ông Áp-ra-ham, có con cái ông Khết, tức là tất cả những người đến họp ở cửa thành ông ấy, đều nghe; ông nói: 11 "Không, thưa ngài, xin nghe tôi nói: cánh đồng ấy, tôi xin tặng ngài; cái hang ở đó, tôi cũng xin tặng ngài. Trước mặt con cái dân tôi, tôi xin tặng ngài; ngài cứ chôn người chết của ngài."

12 Ông Áp-ra-ham sụp xuống lạy dân trong đất ấy 13 và nói với ông Ép-rôn, có dân trong xứ nghe thấy: "Xin ông vui lòng nghe tôi nói: tôi trả ông giá tiền cánh đồng, xin ông nhận lấy cho tôi, để tôi chôn người chết của tôi ở đó.” 14 Ông Ép-rôn trả lời ông Áp-ra-ham rằng: 15 "Thưa ngài, xin nghe tôi nói: một thửa đất giá bốn ký bạc, giữa tôi và ngài có là gì đâu? Người chết của ngài, xin ngài cứ chôn!” 16 Ông Áp-ra-ham nghe ông Ép-rôn; ông Áp-ra-ham cân cho ông Ép-rôn số bạc mà con cái ông Khết đã nghe thấy ông này nói, là bốn ký bạc đang lưu hành trong giới con buôn.

17 Thế là cánh đồng của ông Ép-rôn tại Mác-pê-la, đối diện với Mam-rê, cánh đồng và cái hang ở đó, mọi cây cối trong cánh đồng, đã trở thành 18 sở hữu của ông Áp-ra-ham, có con cái ông Khết, tức là mọi kẻ đến họp ở cửa thành ông ấy, chứng kiến. 19 Sau đó, ông Áp-ra-ham chôn bà Xa-ra, vợ ông, trong hang của cánh đồng Mác-pê-la, đối diện với Mam-rê, tức là Khép-rôn, tại đất Ca-na-an. 20 Thế là cánh đồng của con cái ông Khết, và cái hang ở đó đã trở thành miếng đất riêng của ông Áp-ra-ham để làm phần mộ.

Chương 24

Ông I-xa-ác lấy bà Rê-bê-ca

1 Ông Áp-ra-ham đã già nua tuổi tác, và Ðức Chúa đã chúc phúc cho ông Áp-ra-ham trong mọi sự. 2 Ông Áp-ra-ham bảo người lão bộc sống lâu năm nhất trong nhà ông, và cũng là người quản lý mọi tài sản của ông: "Chú hãy đặt tay dưới đùi tôi, 3 và tôi xin chú nhân danh Ðức Chúa là Chúa trời đất, mà thề rằng chú sẽ không cưới cho con trai tôi một người vợ trong số con gái xứ Ca-na-an, nơi tôi đang sống. 4 Nhưng chú sẽ về quê tôi, đến với họ hàng tôi, mà cưới vợ cho con tôi là I-xa-ác.” 5 Người lão bộc thưa với ông: "Có thể người đàn bà ấy không chịu đi theo tôi về đất này; vậy tôi có phải đưa cậu con trai ông về đất mà từ đó ông đã ra đi không?” 6 Ông Áp-ra-ham bảo người ấy: "Coi chừng, đừng có đưa con trai tôi về đó! 7 Ðức Chúa là Chúa Trời, Ðấng đã đưa tôi ra khỏi nhà cha tôi, khỏi quê hương tôi, Ðấng đã phán với tôi và thề với tôi rằng: "Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi đất này", chính Người sẽ sai sứ thần Người đi trước mặt chú, để từ nơi đó chú cưới vợ về cho con tôi. 8 Nếu người đàn bà không chịu đi theo chú, thì chú không còn buộc phải giữ lời thề với tôi nữa. Nhưng dù sao, cũng đừng đưa con tôi về đó.” 9 Người lão bộc đặt tay dưới đùi ông Áp-ra-ham, chủ mình, và thề với ông điều ấy.

10 Người lão bộc lấy mười con lạc đà trong số lạc đà của chủ và ra đi. Ông lên đường đi về miền A-ram Na-ha-ra-gim, về thành của ông Na-kho, đem theo tất cả những gì quý báu của chủ, mà lên đường đi đến A-ram Na-ha-ra-im, đến thành Na-khor.

11 Ông cho lạc đà nằm phục ở ngoài thành, gần giếng nước, vào buổi chiều lúc đàn bà con gái ra múc nước. 12 Ông khấn: "Lạy Ðức Chúa là Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham, chủ con, xin cho con hôm nay gặp được may mắn, và xin tỏ tình thương đối với ông Áp-ra-ham, chủ con. 13 Ðây con đứng gần suối nước, con gái của người trong thành đang ra múc nước. 14 Cô nào con nói: "Cô làm ơn nghiêng vò cho tôi uống", mà cô ấy trả lời: "Xin mời ông, con sẽ cho cả lạc đà của ông uống nữa", thì đó là người Chúa đã xe duyên cho tôi tớ Chúa là I-xa-ác; cứ đó, con sẽ biết rằng Chúa đã tỏ tình thương đối với chủ con."

15 Ông chưa khấn xong, thì này cô Rê-bê-ca vai mang vò đi ra; cô là con gái ông Bơ-thu-ên, ông này là con trai bà Min-ca, vợ ông Na-kho; ông Na-kho là em ông Áp-ra-ham. 16 Cô gái nhan sắc tuyệt vời; cô còn trinh, chưa người đàn ông nào ăn ở với cô. Cô xuống suối, múc đầy nước, rồi đi lên. 17 Người lão bộc chạy lại đón cô và nói: "Cô làm ơn cho tôi uống chút nước trong vò của cô.” 18 Cô thưa: "Thưa ngài, mời ngài uống", rồi cô vội vã hạ vò xuống tay và mời ông uống. 19 Mời ông uống xong, cô nói: "Con cũng sẽ múc cho lạc đà của ngài nữa, cho đến khi chúng uống xong.” 20 Cô vội đổ hết vò vào máng, lại chạy đến giếng để múc, và múc cho tất cả lạc đà của ông. 21 Ðang khi đó, ông già cứ lặng lẽ ngắm cô, tự hỏi xem Ðức Chúa có cho chuyến đi của mình thành công hay không.

22 Vậy khi lạc đà uống xong, ông lấy một chiếc khuyên vàng hai chỉ và một đôi xuyến vàng ba lượng đeo vào tay cô. 23 Rồi ông hỏi: "Cô là con ai? Xin làm ơn cho biết. Nhà cha cô có chỗ cho chúng tôi trọ đêm không?” 24 Cô trả lời ông: "Con là con gái ông Bơ-thu-ên, ông Bơ-thu-ên là người con trai mà bà Min-ca đã sinh cho ông Na-kho.” 25 Cô tiếp: "Nhà con có nhiều rơm, nhiều cỏ, có cả chỗ trọ đêm nữa.” 26 Ông già phủ phục xuống thờ lạy Ðức Chúa 27 và nói: "Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham, chủ tôi, đã không ngừng tỏ tình thương và lòng thành tín của Người đối với chủ tôi; còn tôi, Ðức Chúa đã dẫn dắt tôi trên đường đến nhà anh em họ hàng của chủ tôi."

28 Cô gái chạy về nhà mẹ cô, báo cho biết những việc ấy. 29 Cô Rê-bê-ca có một người anh tên là La-ban. Ông La-ban chạy ra ngoài, đến với ông già, ở bên suối. 30 Khi ông thấy chiếc khuyên và đôi xuyến ở tay em gái, và khi nghe những lời của cô Rê-bê-ca, em gái ông, nói rằng: "Người ấy đã nói với em như thế!", thì ông đến gặp ông già, lúc đó đang đứng cạnh các con lạc đà, ở bên suối. 31 Ông nói: "Xin mời ông vào, hỡi người được Ðức Chúa chúc phúc, sao lại đứng ở ngoài? Tôi đã dọn dẹp nhà cửa và cả chỗ cho lạc đà.” 32 Ông già vào nhà. Người ta tháo yên cho lạc đà, lấy rơm và cỏ cho lạc đà ăn, và đem nước cho ông già và những người cùng đi với ông rửa chân.

33 Người ta dọn cho ông ăn, nhưng ông nói: "Tôi sẽ không ăn gì trước khi nói những điều tôi cần phải nói." Ông La-ban thưa: "Xin ông cứ nói.” 34 Ông nói: "Tôi là đầy tớ ông Áp-ra-ham. 35 Ðức Chúa đã đổ muôn vàn phúc lộc xuống cho chủ tôi. Ông đã trở nên một phú hào; Ðức Chúa đã ban cho ông chiên bò, bạc vàng, tôi trai tớ gái, lạc đà và lừa. 36 Bà Xa-ra, vợ của chủ tôi, lúc tuổi già đã sinh cho ông một con trai. Ông đã cho cậu mọi tài sản của ông. 37 Chủ tôi đã bắt tôi thề, ông nói: "Chú sẽ không cưới cho con trai tôi một người vợ trong số con gái xứ Ca-na-an, nơi tôi đang sống. 38 Nhưng chú sẽ đi về nhà cha tôi, về gia tộc tôi, cưới vợ cho con trai tôi.” 39 Tôi thưa với chủ tôi: "Có thể người đàn bà ấy sẽ không đi theo tôi.” 40 Ông nói: "Tôi đã bước đi trước tôn nhan Ðức Chúa, thì chính Người sẽ sai sứ thần của Người ở với chú và Người sẽ cho chuyến đi của chú thành công. Chú sẽ cưới cho con trai tôi một người vợ thuộc gia tộc tôi và nhà cha tôi. 41 Chú sẽ không còn buộc phải giữ lời tôi đã bắt chú thề, nếu chú đến với gia tộc tôi; nếu họ không chịu gả, thì chú sẽ không còn buộc phải giữ lời tôi đã bắt chú thề.” 42 Vậy hôm nay tôi đã đến suối và khấn: "Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham, chủ con, nếu Ngài thương cho chuyến đi con đang thực hiện được thành công, 43 thì này con đứng gần suối nước: hễ thiếu nữ nào ra múc nước và con nói với cô ấy: Cô làm ơn cho tôi uống chút nước, 44 mà cô ấy trả lời: Xin mời ông cứ uống, con sẽ múc cho cả lạc đà của ông nữa, thì đó là người vợ mà Ðức Chúa đã xe duyên cho con trai chủ con.” 45 Tôi thầm khấn chưa xong, thì này cô Rê-bê-ca vai mang vò đi ra. Cô xuống suối và múc nước. Tôi nói với cô: "Cô làm ơn cho tôi uống.” 46 Cô vội vã hạ vò xuống, và nói: "Xin mời ông, con sẽ cho cả lạc đà của ông uống nữa." Tôi uống và cô cho cả lạc đà uống nữa. 47 Tôi hỏi cô rằng: "Cô là con ai? " Cô trả lời: "Con là con gái ông Bơ-thu-ên; ông Bơ-thu-ên là con trai ông Na-kho mà bà Min-kha đã sinh cho ông ấy." Tôi đã xỏ khuyên vào mũi và đeo xuyến vào tay cô ấy. 48 Tôi đã phủ phục xuống thờ lạy Ðức Chúa và đã chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham, chủ tôi, đã dẫn dắt tôi đi đúng đường, để cưới con gái người anh em họ hàng của chủ tôi cho con trai ông ấy. 49 Vậy bây giờ, nếu quý ông muốn tỏ ra có tình có nghĩa với chủ tôi, thì xin cho tôi biết. Bằng không, thì xin cũng cho tôi biết để tôi còn liệu cách này cách khác."

50 Ông La-ban và ông Bơ-thu-ên trả lời: "Việc này Ðức Chúa đã xe định, chúng tôi không thể nói thuận hay nghịch nữa. 51 Rê-bê-ca đang ở trước mặt ông đây: Ông cứ đưa nó về. Nó sẽ thành vợ của con trai chủ ông, như Ðức Chúa đã phán.” 52 Khi người lão bộc của ông Áp-ra-ham nghe những lời họ nói, thì phủ phục xuống đất thờ lạy Ðức Chúa. 53 Rồi người lão bộc đưa ra những đồ bạc, đồ vàng và quần áo tặng cô Rê-bê-ca, và biếu anh và mẹ cô những món quà quý giá. 54 Ông và những người đi với ông ăn uống rồi nghỉ đêm.

55 Anh và mẹ cô trả lời: "Xin cho con bé ở lại với chúng tôi ít bữa, khoảng mươi ngày thôi, sau đó nó sẽ đi.” 56 Ông nói với họ: "Xin đừng giữ tôi lại. Ðức Chúa đã cho chuyến đi của tôi thành công, xin cho tôi đi, để tôi trở về với chủ tôi.” 57 Họ đáp: "Chúng ta hãy gọi con bé ra và hỏi xem ý nó thế nào.” 58 Họ gọi cô Rê-bê-ca ra và hỏi: "Rê-bê-ca, có muốn đi với ông này không?" Cô trả lời: "Có.” 59 Thế rồi họ tiễn cô Rê-bê-ca, người em của họ, đi cùng với người vú nuôi của cô, người lão bộc của ông Áp-ra-ham và những người đi theo ông. 60 Họ chúc phúc cho cô Rê-bê-ca rằng:

"Chúc em sinh vạn sinh ngàn.

Giống dòng chiếm cứ cửa thành địch quân."

61 Cô Rê-bê-ca cùng với các tớ gái đứng dậy, cỡi lên lạc đà mà đi theo người lão bộc. Ông nhận cô Rê-bê-ca và ra đi.

62 Khi ấy cậu I-xa-ác đã bỏ vùng giếng La-khai Rô-i, và đang ở trong miền Ne-ghép. 63 Cậu I-xa-ác ra ngoài đồng dạo mát lúc chiều tà. 64 Ngước mắt lên, cậu thấy một bầy lạc đà đang tiến đến. Ngước mắt lên, cô Rê-bê-ca thấy cậu I-xa-ác, cô bèn từ trên lưng lạc đà nhảy xuống 65 và hỏi người lão bộc: "Người đang đi ngoài đồng tiến về phía chúng ta là ai đó?" Người lão bộc trả lời: "Chủ tôi đấy!" Cô bèn lấy chiếc khăn che mặt.

66 Người lão bộc thưa lại với cậu I-xa-ác tất cả những gì ông đã làm. 67 Cậu I-xa-ác đưa cô Rê-bê-ca vào lều của bà Xa-ra mẹ cậu; cậu lấy cô làm vợ, cậu yêu thương cô và khuây khoả được nỗi buồn mất mẹ.

Chương 25

Dòng dõi bà Cơ-tu-ra (1 Sb 1:32 -33)

1 Ông Áp-ra-ham lấy thêm một bà vợ nữa, tên là Cơ-tu-ra. 2 Bà sinh cho ông: Dim-ran, Gióc-san, Mơ-đan, Ma-đi-an, Gít-bắc và Su-ác. 3 Ông Gióc-san sinh Sơ-va và Ðơ-đan; các con của ông Ðơ-đan là người Át-su-ri, Lơ-tu-sim và Lơ-um-mim. 4 Các con của ông Ma-đi-an là: Ê-pha, Ê-phe, Kha-nốc, A-vi-đa, En-đa-a. Tất cả những người ấy là con cháu bà Cơ-tu-ra.

5 Ông Áp-ra-ham đã cho ông I-xa-ác tất cả những gì ông có. 6 Còn những người con của các bà vợ lẽ ông, thì ông Áp-ra-ham đã tặng họ quà, và ngay khi còn sống, ông cho họ đi xa ông I-xa-ác, con ông, về hướng đông, về đất Phương Ðông.

Ông Áp-ra-ham qua đời

7 Ông Áp-ra-ham sống thọ một trăm bảy mươi lăm tuổi 8 rồi tắt thở. Ông qua đời khi đã cao niên, đã sống tuổi già hạnh phúc và được mãn nguyện; và ông được về sum họp với gia tiên. 9 Các con ông I-xa-ác và Ít-ma-ên chôn cất ông trong hang Mác-pê-la, trong cánh đồng của ông Ép-rôn, con ông Xô-kha, người Khết, đối diện với Mam-rê. 10 Ðó là cánh đồng ông Áp-ra-ham đã tậu của con cái ông Khết. Ông Áp-ra-ham được chôn ở đó, cũng như bà Xa-ra, vợ ông. 11 Sau khi ông Áp-ra-ham qua đời, Thiên Chúa chúc phúc cho ông I-xa-ác, con ông. Ông I-xa-ác ở gần giếng La-khai Rô-i.

Dòng dõi ông Ít-ma-ên (1 Sb 1:28 -31)

12 Ðây là gia đình ông Ít-ma-ên, con ông Áp-ra-ham, mà bà Ha-ga, người Ai-cập, nữ tỳ của bà Xa-ra, đã sinh cho ông Áp-ra-ham. 13 Ðây là tên các con trai ông Ít-ma-ên, tên xếp theo gia đình của họ: Nơ-va-giốt, con đầu lòng của ông Ít-ma-ên, rồi đến Kê-đa, Át-bơ-ên, Mít-xam, 14 Mít-ma, Ðu-ma, Ma-xa, 15 Kha-đát, Tê-ma, Giơ-tua, Na-phít, Kết-ma. 16 Ðó là các con ông Ít-ma-ên, và đó là tên của họ, theo các làng và trại của họ: mười hai đầu mục cho bấy nhiêu bộ lạc.

17 Ðây là số năm ông Ít-ma-ên đã sống: một trăm ba mươi bảy năm. Rồi ông tắt thở, qua đời và được về sum họp với gia tiên. 18 Ông đã ở từ Kha-vi-la đến Sua, đối diện với Ai-cập, về phía Át-sua. Ông định cư đối diện với tất cả anh em của ông.

III. Sự Tích Ông I-Xa-Ác Và Ông Gia-Cóp

Ông Ê-xau và ông Gia-cóp chào đời

19 Ðây là gia đình ông I-xa-ác, con ông Áp-ra-ham. Ông Áp-ra-ham sinh ra ông I-xa-ác. 20 Ông I-xa-ác được bốn mươi tuổi, khi ông lấy bà Rê-bê-ca làm vợ; bà này là con ông Bơ-thu-ên, người A-ram ở Pát-đan A-ram, và là em ông La-ban, người A-ram. 21 Ông I-xa-ác khẩn cầu Ðức Chúa cho vợ ông, vì bà hiếm hoi. Ðức Chúa nhậm lời ông, và bà Rê-bê-ca vợ ông có thai. 22 Các đứa con đụng nhau trong lòng bà, nên bà kêu lên: "Nếu vậy thì tại sao tôi thế này?" Bà thỉnh ý Ðức Chúa. 23 Ðức Chúa phán với bà:

"Có hai dân tộc trong lòng ngươi,

hai dân từ dạ ngươi sinh ra và sẽ chia rẽ nhau.

Dân này sẽ mạnh hơn dân kia, đứa lớn sẽ làm tôi đứa bé."

24 Khi đến ngày sinh nở thì quả là bà đã mang hai đứa con trong lòng. 25 Ðứa ra trước đỏ hoe, toàn thân như một chiếc áo choàng bằng lông: người ta đặt tên cho nó là Ê-xau. 26 Sau đó, đứa em ra, tay nắm gót chân của Ê-xau: người ta đặt tên cho nó là Gia-cóp. Ông I-xa-ác được sáu mươi tuổi khi chúng sinh ra.

27 Hai đứa trẻ lớn lên. Ê-xau là người thạo nghề săn bắn, chuyên rong ruổi ngoài đồng; còn Gia-cóp thì trầm tĩnh, chỉ sống ở lều. 28 Ông I-xa-ác thương Ê-xau vì ông thích ăn thịt rừng, còn bà Rê-bê-ca thì thương Gia-cóp.

Ông Ê-xau nhượng quyền trưởng nam

29 Lần kia, Gia-cóp đang nấu cháo, thì Ê-xau từ ngoài đồng về, mệt lả. 30 Ê-xau nói với Gia-cóp: "Cho anh ăn món đo đỏ kia với, vì anh đang mệt lả." Vì thế người ta đặt tên cho nó là Ê-đôm. 31 Gia-cóp nói: "Anh hãy bán quyền trưởng nam của anh cho em trước đã!” 32 Ê-xau nói: "Anh đang sắp chết, thì quyền trưởng nam có ích gì cho anh?” 33 Gia-cóp nói: "Vậy anh thề ngay với em đi." Ê-xau liền thề và bán quyền trưởng nam của mình cho Gia-cóp. 34 Bấy giờ Gia-cóp cho Ê-xau bánh và cháo đậu. Ê-xau ăn uống, rồi đứng dậy đi. Ê-xau đã coi thường quyền trưởng nam.

Chương 26

Ông I-xa-ác tại Gơ-ra

1 Bấy giờ trong xứ xảy ra một nạn đói, không phải nạn đói đã xảy ra trước kia thời ông Áp-ra-ham. Ông I-xa-ác đi Gơ-ra, đến với A-vi-me-léc, vua người Phi-li-tinh. 2 Ðức Chúa hiện ra với ông và phán: "Ðừng xuống Ai-cập, hãy ở trong đất Ta sẽ chỉ cho. 3 Hãy trú ngụ trong đất này; Ta sẽ ở với ngươi và sẽ chúc phúc cho ngươi, vì Ta sẽ ban tất cả những miền đất này cho ngươi và dòng dõi ngươi, và Ta sẽ giữ lời Ta đã thề với Áp-ra-ham, cha ngươi. 4 Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi ra nhiều như sao trên trời, sẽ ban cho dòng dõi ngươi tất cả những miền đất này; và nhờ dòng dõi ngươi, mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc, 5 bởi vì Áp-ra-ham đã vâng lời Ta, đã giữ điều Ta truyền, cũng như các mệnh lệnh, thánh chỉ và luật điều của Ta.” 6 Vậy ông I-xa-ác sống ở Gơ-ra.

7 Người địa phương hỏi về vợ ông, thì ông trả lời: "Nàng là em tôi." Ông không dám nói: "Nàng là vợ tôi", sợ người địa phương giết ông vì bà Rê-bê-ca, bởi lẽ bà có nhan sắc. 8 Khi ông đã ở đó lâu ngày, thì A-vi-me-léc, vua người Phi-li-tinh, nhìn xuống qua cửa sổ thì thấy ông I-xa-ác đang cười giỡn với bà Rê-bê-ca, vợ ông. 9 Vua A-vi-me-léc cho gọi ông I-xa-ác đến và nói: "Ðúng là vợ ông! Sao ông lại nói: Nàng là em tôi?" Ông I-xa-ác trả lời vua: "Tôi đã nói như thế vì sợ phải chết vì nàng."10 Vua A-vi-me-léc nói: "Ông đã làm gì chúng tôi thế? Thiếu chút nữa là một người trong dân sẽ nằm với vợ ông, và ông làm cho chúng tôi phải vương vào một tội!” 11 Vua A-vi-me-léc truyền cho toàn dân rằng: "Ai mà động đến ông này và vợ ông, sẽ bị xử tử."

12 Ông I-xa-ác đã gieo vãi trong đất ấy, và năm đó ông thu hoạch gấp trăm lần. Ðức Chúa chúc phúc cho ông 13 và ông trở nên giàu có, mỗi ngày một giàu thêm, giàu vô kể. 14 Ông có những đàn chiên, đàn bò, có nhiều đầy tớ, khiến người Phi-li-tinh phải ghen.

Những giếng nước giữa Gơ-ra và Bơ-e Se-va

15 Tất cả những giếng mà đầy tớ của cha ông đã đào dưới thời ông Áp-ra-ham, cha ông, thì người Phi-li-tinh đã bít lại và lấp đầy đất. 16 Vua A-vi-me-léc nói với ông I-xa-ác: "Ông hãy đi khỏi xứ chúng tôi, vì ông đã trở nên quá mạnh so với chúng tôi.” 17 Ông I-xa-ác đi khỏi đó, cắm lều trong thung lũng Gơ-ra và ở lại đây. 18 Ông I-xa-ác đào lại những giếng nước mà người ta đã đào thời ông Áp-ra-ham, cha ông, và người Phi-li-tinh đã bít đi sau khi ông Áp-ra-ham qua đời. Ông lấy chính những tên cha ông đã đặt mà đặt cho các giếng ấy.

19 Ðầy tớ ông I-xa-ác đào trong thung lũng và tìm thấy ở đó một giếng nước mạch. 20 Những người chăn súc vật ở Gơ-ra tranh chấp với những người chăn súc vật của ông I-xa-ác, chúng nói: "Nước của chúng tôi!" Ông đã đặt tên giếng là Ê-xéc, bởi vì chúng đã gây gỗ với ông. 21 Họ đào một giếng khác và người ta lại tranh chấp về giếng đó; ông đặt tên giếng là Xít-na. 22 Ông bỏ chỗ ấy ra đi đào một giếng khác; người ta không tranh chấp về giếng này, và ông đặt tên giếng là Rơ-khô-vốt; ông nói: "Vì giờ đây Ðức Chúa đã cho chúng ta được thênh thang, và chúng ta sẽ sinh sôi trong đất này."

23 Từ chỗ ấy, ông lên Bơ-e Se-va. 24 Ðêm ấy, Ðức Chúa hiện ra với ông và phán:

"Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, cha ngươi.

Ðừng sợ, vì Ta ở với ngươi.

Vì Áp-ra-ham, tôi tớ của Ta, Ta sẽ chúc phúc cho ngươi,

sẽ làm cho dòng dõi ngươi ra nhiều."

25 Tại đây ông dựng một bàn thờ và kêu cầu danh Ðức Chúa. Cũng tại đây ông cắm lều, và các đầy tớ ông I-xa-ác đã khơi một cái giếng.

Giao ước với vua A-vi-me-léc

26 Từ Gơ-ra, vua A-vi-me-léc cùng với ông A-khu-dát, bạn của vua, và ông Pi-khôn, người chỉ huy quân đội của vua, đến gặp ông I-xa-ác. 27 Ông I-xa-ác nói với họ: "Các ông ghét tôi và đã đuổi tôi đi khỏi xứ các ông, thì các ông còn đến gặp tôi làm gì?” 28 Họ trả lời: "Chúng tôi đã thấy rõ là Ðức Chúa ở với ông và chúng tôi nói: phải có một lời thề nguyền giữa chúng ta, giữa chúng tôi và ông. Chúng tôi muốn lập giao ước với ông: 29 Ông sẽ không làm hại chúng tôi, cũng như chúng tôi đã không động đến ông, mà đã chỉ làm điều tốt cho ông và đã để cho ông đi bình an. Giờ đây ông là người được Ðức Chúa chúc phúc.” 30 Ông làm tiệc đãi họ, và họ ăn uống.

31 Sáng hôm sau, họ dậy sớm, hai bên thề với nhau, rồi ông I-xa-ác để họ đi và họ từ giã ông ra đi bình an. 32 Chính ngày hôm ấy, các đầy tớ ông I-xa-ác đến báo tin cho ông về cái giếng họ đã đào; họ nói với ông: "Chúng tôi đã tìm thấy nước.” 33 Ông gọi giếng ấy là Síp-a; vì thế tên thành ấy là Bơ-e Se-va; cho đến ngày nay.

Các bà vợ người Khết của ông Ê-xau

34 Khi Ê-xau được bốn mươi tuổi thì lấy hai người vợ là Giu-đi-tha, con gái ông Bơ-ê-ri người Khết, và Ba-xơ-mát, con gái ông Ê-lôn người Khết. 35 Hai người phụ nữ này làm cho ông I-xa-ác và bà Rê-bê-ca phải cay đắng trong lòng.

Chương 27

Ông Gia-cóp đoạt lời chúc phúc của ông I-xa-ác

1 Ông I-xa-ác đã già, mắt ông loà không trông thấy nữa. Ông bèn gọi Ê-xau, con trai lớn của ông, ông nói: "Con ơi! " Cậu thưa: "Dạ, con đây.” 2 Ông nói: "Con thấy không, cha già rồi, không biết chết ngày nào. 3 Bây giờ con hãy lấy khí giới của con, ống tên và cây cung của con, ra đồng săn thú cho cha. 4 Con hãy làm cho cha một món ăn ngon như cha thích, rồi đem đến cho cha ăn, để cha đích thân chúc phúc cho con trước khi chết.” 5 Ðang khi ông I-xa-ác nói với Ê-xau, con trai ông, thì bà Rê-bê-ca nghe được. Ê-xau đi ra đồng để săn thú mang về.

6 Bà Rê-bê-ca nói với ông Gia-cóp, con trai bà: "Này, mẹ vừa nghe cha con nói với anh con rằng: 7 "Con hãy đem thịt rừng về cho cha và làm cho cha một món ăn ngon, để cha ăn và chúc phúc cho con trước mặt Ðức Chúa, trước khi cha chết.” 8 Giờ đây, con ơi, hãy nghe lời mẹ mà làm như mẹ dạy con. 9 Con đến bầy súc vật bắt cho mẹ hai con dê đực non và mập; mẹ sẽ làm thành một món ăn ngon cho cha con như cha con thích. 10 Con sẽ đem đến cho cha con và cha con sẽ ăn, để người chúc phúc cho con trước khi chết."

11 Gia-cóp nói với mẹ: "Mẹ coi, anh Ê-xau con thì lông lá, còn con thì nhẵn nhụi. 12 Biết đâu cha con sẽ rờ con; con sẽ bị cha coi như một tên lừa gạt, và sẽ phải chuốc lấy lời nguyền rủa, thay vì được chúc phúc.” 13 Mẹ cậu bảo: "Con ơi, nếu con bị nguyền rủa, mẹ sẽ gánh cho; cứ nghe lời mẹ và đi bắt dê cho mẹ.” 14 Cậu đi bắt, đem lại cho mẹ, và mẹ cậu đã làm thành món ăn ngon như cha cậu thích. 15 Bà Rê-bê-ca lấy áo của Ê-xau, con trai lớn của bà, áo sang nhất mà bà có ở nhà, và mặc cho Gia-cóp, con trai nhỏ của bà. 16 Bà lấy da dê non mà bọc lấy tay và phần cổ nhẵn nhụi của cậu. 17 Rồi bà đặt món ăn ngon và bánh đã làm vào tay Gia-cóp, con bà.

18 Cậu vào với cha và thưa: "Cha ơi!" Ông đáp: "Cha đây! Con là đứa nào đấy con?” 19 Gia-cóp thưa với cha: "Con là Ê-xau, con trưởng của cha; con đã làm như cha bảo. Mời cha ngồi dậy xơi món thịt rừng của con, để cha đích thân chúc phúc cho con.” 20 Ông I-xa-ác hỏi con: "Con ơi! sao con tìm được mau thế?" Cậu thưa: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha, đã cho con gặp được may mắn.” 21 Ông I-xa-ác bảo Gia-cóp: "Con ơi, lại gần đây, để cha rờ con, xem con có đúng là Ê-xau, con cha, hay không.” 22 Gia-cóp lại gần ông I-xa-ác, cha ông; ông rờ cậu và nói: "Tiếng thì tiếng Gia-cóp, mà tay là tay Ê-xau.” 23 Ông không nhận ra cậu, vì tay cậu lông lá như tay Ê-xau, anh cậu; thế là ông chúc lành cho cậu. 24 Ông hỏi: "Con có đúng là Ê-xau, con cha không?" Cậu thưa: "Vâng, chính con.” 25 Ông nói: "Con ơi, bưng lại cho cha ăn món thịt rừng, để cha đích thân chúc phúc cho con." Cậu bưng lại cho ông, ông ăn; rồi cậu đem rượu đến, ông uống.26 Ông I-xa-ác, cha cậu, bảo: "Con ơi, lại gần đây và hôn cha đi!” 27 Cậu lại gần và hôn ông. Ông hít mùi áo cậu và chúc phúc cho cậu rằng:

"Kìa, mùi thơm con tôi

như mùi thơm cánh đồng Ðức Chúa đã chúc phúc.

28 Xin Thiên Chúa ban cho con,

sương trời với đất đai màu mỡ, và lúa mì rượu mới dồi dào.

29 Các dân phải làm tôi con, các nước phải sụp xuống lạy con.

Con hãy làm chủ các anh em con,

và các con của mẹ con phải sụp xuống lạy con.

Kẻ nguyền rủa con sẽ bị nguyền rủa,

kẻ chúc phúc cho con sẽ được chúc phúc."

30 Khi ông I-xa-ác chúc phúc cho Gia-cóp xong, và Gia-cóp vừa từ chỗ cha cậu là ông I-xa-ác mà đi ra, thì Ê-xau, anh cậu, đi săn về. 31 Ê-xau cũng làm một món ăn ngon, đem lại cho cha và thưa với cha: "Mời cha dậy xơi món thịt rừng của con cha, để cha đích thân chúc phúc cho con.” 32 Ông I-xa-ác, cha cậu, nói với cậu: "Con là đứa nào đây?" Cậu thưa: "Con là Ê-xau, con trai cha, con trưởng của cha!” 33 Ông I-xa-ác run lên, run bắn người lên và hỏi: "Vậy ai là người đã săn thịt rừng và đem lại cho cha? Cha đã ăn tất cả trước khi con vào. Cha đã chúc phúc cho nó, và dù sao nó vẫn được chúc phúc.” 34 Khi Ê-xau nghe những lời của cha, cậu kêu lên một tiếng lớn và cay đắng vô cùng. Cậu thưa với cha: "Cha ơi, xin cha chúc phúc cho cả con nữa.” 35 Ông nói: "Em con đã dùng mưu gian mà đến, và đoạt lời chúc của con.” 36 Cậu nói: "Có phải vì nó tên là Gia-cóp, mà nó đã hất cẳng con đến hai lần? Nó đã đoạt quyền trưởng nam của con, bây giờ đây nó lại đoạt lời chúc phúc của con!" Rồi cậu thêm: "Cha chẳng dành cho con một lời chúc phúc sao?” 37 Ông I-xa-ác đáp lại Ê-xau: "Con xem, cha đã đặt nó làm chủ con và đã khiến tất cả các anh em nó làm tôi nó. Cha đã liệu cho nó có lúa mì rượu mới. Vậy cha làm gì được cho con, con ơi!” 38 Ê-xau thưa với cha: "Cha chỉ có một lời chúc phúc ấy thôi sao? Xin cha cũng chúc phúc cho cả con nữa, cha ơi!" Rồi Ê-xau oà lên khóc. 39 Bấy giờ, ông I-xa-ác, cha cậu, lên tiếng nói:

"Kìa, nơi ở của con sẽ cách xa đất đai màu mỡ

và không được sương từ trời cao gieo xuống.

40 Con sẽ sống nhờ thanh gươm của con, sẽ làm tôi em con.

Nhưng khi còn nay đây mai đó,

con sẽ giũ được ách em con ra khỏi cổ con."

41 Ê-xau hận với Gia-cóp vì lời chúc phúc cậu này đã được cha ban cho. Ê-xau tự nhủ: "Sắp đến ngày lo đám tang cho cha ta rồi; bấy giờ ta sẽ giết Gia-cóp, em ta!” 42 Người ta báo cho bà Rê-bê-ca biết những lời của Ê-xau, con trai lớn của bà. Bà liền cho gọi Gia-cóp, con trai nhỏ của bà đến và bảo: "Ê-xau, anh con, đang muốn giết con để trả thù. 43 Giờ đây, con ơi, hãy nghe lời mẹ, đứng lên và trốn sang bên bác La-ban, anh của mẹ ở Kha-ran.44 Con sẽ ở với bác một thời gian, cho đến khi anh con nguôi giận. 45 Chừng nào anh con không còn giận con nữa và quên đi điều con đã làm cho anh, thì mẹ sẽ sai người đưa con từ đó về. Lẽ nào trong một ngày mẹ phải mất cả hai con?"

Ông I-xa-ác sai ông Gia-cóp đến nhà ông La-ban

46 Bà Rê-bê-ca nói với ông I-xa-ác: "Tôi chán không muốn sống nữa, vì các con gái ông Khết. Nếu Gia-cóp cưới ai trong số con gái ông Khết như những cô này, đám con gái xứ này, thì tôi còn sống làm gì nữa?"

Chương 28

1 Ông I-xa-ác gọi ông Gia-cóp đến, chúc phúc cho cậu và truyền rằng: "Con không được cưới ai trong số con gái Ca-na-an. 2 Ðứng lên! Ði về Pát-đan A-ram, đến nhà ông Bơ-thu-ên, ông ngoại con, và ở đó con lấy con gái ông La-ban, bác con, làm vợ. 3 Xin Thiên Chúa toàn năng chúc phúc cho con, xin Người làm cho con sinh sôi nảy nở thật nhiều, để con trở nên một cộng đồng nhiều dân nước. 4 Xin Người ban cho con và dòng dõi con phúc lành của ông Áp-ra-ham, để con chiếm hữu miền đất con đang trú ngụ, là miền đất Thiên Chúa đã ban cho ông Áp-ra-ham.” 5 Ông I-xa-ác sai ông Gia-cóp đi về Pát-đan A-ram, đến nhà ông La-ban là con trai ông Bơ-thu-ên, người A-ram, và là anh bà Rê-bê-ca, mẹ của Gia-cóp và Ê-xau.

Ông Ê-xau lấy vợ lần nữa

6 Ê-xau thấy rằng ông I-xa-ác đã chúc phúc cho Gia-cóp và sai về Pát-đan A-ram để lấy vợ ở đó, và thấy rằng khi Gia-cóp đi, thì ông đã truyền: "Con không được cưới ai trong số con gái Ca-na-an.” 7 Gia-cóp vâng lời cha mẹ mà đi Pát-đan A-ram. 8 Ê-xau thấy rằng những người con gái Ca-na-an không vừa ý ông I-xa-ác, cha cậu. 9 Vậy Ê-xau đến nhà ông Ít-ma-ên, và ngoài những người vợ đã có, cậu lại cưới thêm cô Ma-kha-lát là con gái ông Ít-ma-ên, con ông Áp-ra-ham, và là em gái ông Nơ-va-giốt.

Giấc mộng của ông Gia-cóp

10 Gia-cóp ra khỏi Bơ-e Se-va và đi về Kha-ran. 11 Cậu đến một nơi kia và nghỉ đêm tại đó vì mặt trời đã lặn. Cậu lấy một hòn đá ở nơi đó để gối đầu và nằm ngủ ở đó. 12 Cậu chiêm bao thấy một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời, trên đó có các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống. 13 Và kìa Ðức Chúa đứng bên trên thang mà phán: "Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, tổ phụ ngươi, và là Thiên Chúa của I-xa-ác. Ðất ngươi đang nằm, Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi. 14 Dòng dõi ngươi sẽ nhiều như bụi trên đất; ngươi sẽ lan tràn ra khắp đông tây nam bắc. Nhờ ngươi và dòng dõi ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc. 15 Này Ta ở với ngươi; ngươi đi bất cứ nơi nào, Ta sẽ giữ gìn ngươi, và Ta sẽ đưa ngươi về đất này, vì Ta sẽ không bỏ ngươi cho đến khi Ta hoàn thành điều Ta đã phán với ngươi.” 16 Gia-cóp tỉnh giấc và nói: "Quả thật, có Ðức Chúa ở nơi này mà tôi không biết!” 17 Cậu phát sợ và nói: "Nơi này đáng sợ thay! Ðây là nhà của Thiên Chúa, là cửa trời, chứ không phải là gì khác.” 18 Sáng hôm sau, Gia-cóp dậy sớm, lấy hòn đá cậu đã gối đầu, dựng lên làm trụ và đổ dầu lên đầu trụ. 19 Cậu đặt tên cho nơi đó là Bết Ên; trước đó, tên thành ấy là Lút.

20 Gia-cóp khấn rằng: "Nếu Thiên Chúa ở với tôi và giữ gìn tôi trong chuyến đi tôi đang thực hiện, nếu Người ban cho tôi bánh ăn áo mặc, 21 nếu tôi được trở về nhà cha tôi bình an, thì Ðức Chúa sẽ là Thiên Chúa của tôi, 22 hòn đá này là hòn đá tôi đã dựng lên làm trụ sẽ là nhà của Thiên Chúa, và lạy Chúa, mọi sự Ngài ban cho con, con sẽ dâng cho Ngài một phần mười."

Chương 29

Gia-cóp đến nhà ông La-ban

1 Gia-cóp cất bước đi về đất con cái Phương Ðông. 2 Cậu nhìn và thấy một cái giếng ở ngoài đồng. Ở đó có ba đàn chiên đang nằm gần giếng, vì người ta cho các đàn vật uống nước giếng này. Trên miệng giếng, có một tảng đá lớn. 3 Khi các đàn vật đã tụ tập đông đủ, thì người ta lăn tảng đá ra khỏi miệng giếng và cho chiên uống, rồi lại đưa tảng đá về chỗ cũ trên miệng giếng. 4 Gia-cóp hỏi họ: "Anh em ở đâu đến?" Họ đáp: "Chúng tôi từ Kha-ran đến.” 5 Cậu hỏi: "Anh em có biết ông La-ban, con cháu ông Na-kho không?" Họ trả lời: "Chúng tôi biết.” 6 Cậu lại hỏi: "Ông ấy có được bình an không?" Họ trả lời: "Ông ấy được bình an; cô Ra-khen, con gái ông ấy, đang đến cùng với chiên dê kia kìa.” 7 Cậu nói: "Trời còn sáng thế này, chưa phải là lúc tụ tập đàn vật, anh em cho chiên dê uống rồi đi chăn đi!” 8 Họ đáp: "Chúng tôi không được làm như vậy, trước khi các đàn vật tụ tập đông đủ; bấy giờ người ta mới lăn tảng đá khỏi miệng giếng, và chúng tôi sẽ cho chiên dê uống."

9 Ông còn đang nói chuyện với họ, thì cô Ra-khen đến cùng với chiên dê của cha cô, vì cô là người chăn súc vật. 10 Gia-cóp vừa nhìn thấy cô Ra-khen, con gái ông La-ban, anh của mẹ cậu, và chiên dê của ông La-ban, anh của mẹ cậu, thì cậu lăn tảng đá ra khỏi miệng giếng, và cho chiên dê của ông La-ban, anh của mẹ cậu, uống. 11 Gia-cóp hôn cô Ra-khen rồi oà lên khóc. 12 Gia-cóp nói cho cô Ra-khen biết cậu là anh em họ hàng với cha cô và là con trai bà Rê-bê-ca; cô liền chạy về báo tin cho cha. 13 Ông La-ban vừa nghe nói đến Gia-cóp, con của em gái ông, liền chạy ra đón, ôm cậu mà hôn, rồi đưa vào nhà. Cậu kể lại cho ông La-ban hết mọi việc. 14 Ông La-ban nói: "Cháu đúng là cốt nhục của bác." Cậu ở lại với ông trọn một tháng.

Ông Gia-cóp lấy hai vợ

15 Ông La-ban nói với Gia-cóp: "Vì cháu là anh em họ hàng với bác, mà cháu phục vụ bác không công hay sao? Cháu cứ cho bác biết công xá của cháu thế nào.” 16 Ông La-ban có hai con gái, cô chị tên là Lê-a, cô em tên là Ra-khen. 17 Cô Lê-a mắt lờ đờ, còn cô Ra-khen thì duyên dáng và có nhan sắc. 18 Gia-cóp yêu cô Ra-khen, nên cậu nói: "Cháu sẽ phục vụ bác bảy năm để được Ra-khen, con gái út của bác.” 19 Ông La-ban nói: "Bác gả nó cho cháu thì hơn là gả cho người khác. Cháu cứ ở lại với bác.” 20 Vì cô Ra-khen, Gia-cóp đã phục vụ bảy năm, nhưng đối với cậu chỉ như vài ngày vì cậu quá yêu cô. 21 Gia-cóp nói với ông La-ban: "Xin bác giao vợ cháu cho cháu, vì cháu đã mãn hạn, và cháu muốn lui tới với nàng.” 22 Ông La-ban mời mọi người nơi ấy đến và làm tiệc. 23 Chiều tối, ông dẫn cô Lê-a, con gái ông, đến cho cậu, và cậu ăn nằm với cô. 24 Ông La-ban cho con gái ông là Lê-a, người nữ tỳ của ông là Din-pa, để làm nữ tỳ cho cô. 25 Sáng ngày ra, mới thấy là cô Lê-a! Cậu nói với ông La-ban: "Cha đã làm gì con thế? Con đã chẳng phục vụ cha để được Ra-khen sao? Sao cha lại đánh lừa con?” 26 Ông La-ban trả lời cậu: "Trong miền chúng tôi không có lệ gả em trước khi gả chị. 27 Con cứ qua trọn tuần lễ cưới với đứa này đã, rồi cha sẽ gả cho con cả đứa kia, để bù lại công con phục vụ ở nhà cha thêm bảy năm nữa.” 28 Gia-cóp đã làm như vậy: cậu đã qua trọn tuần lễ cưới với cô Lê-a, rồi ông gả cho cậu cô Ra-khen, con gái ông, làm vợ. 29 Ông La-ban cho con gái ông là Ra-khen, người nữ tỳ của ông là Bin-ha, để làm nữ tỳ cho cô. 30 Gia-cóp cũng ăn nằm với cô Ra-khen, cậu còn yêu cô Ra-khen hơn cô Lê-a, và cậu phục vụ ở nhà ông La-ban thêm bảy năm nữa.

Các con ông Gia-cóp

31 Ðức Chúa thấy rằng bà Lê-a không được yêu, nên Người cho bà sinh đẻ, còn bà Ra-khen thì hiếm hoi. 32 Bà Lê-a có thai, sinh con trai và đặt tên cho nó là Rưu-vên, vì bà nói: "Ðức Chúa đã thấy cảnh khổ cực của tôi, bây giờ chồng tôi sẽ yêu tôi.” 33 Bà lại có thai và sinh con trai. Bà nói: "Ðức Chúa đã nghe biết là tôi không được yêu, và Người đã cho tôi đứa này nữa", và bà đặt tên cho nó là Si-mê-ôn. 34 Bà lại có thai và sinh con trai. Bà nói: "Phen này, chồng tôi sẽ gắn bó với tôi, vì tôi đã sinh cho ông ba đứa con trai", vì thế bà đặt tên cho nó là Lê-vi. 35 Bà lại có thai và sinh con trai. Bà nói: "Phen này, tôi sẽ tạ ơn Ðức Chúa", vì thế bà đặt tên cho nó là Giu-đa. Rồi bà thôi không sinh đẻ nữa.

Chương 30

1 Khi bà Ra-khen thấy mình không sinh con cho ông Gia-cóp, thì ghen với chị và nói với ông Gia-cóp: "Cho tôi có con đi, không thì tôi chết mất!” 2 Ông Gia-cóp nổi nóng với bà Ra-khen và nói: "Tôi đâu có thay quyền Thiên Chúa là Ðấng đã không cho bà sinh đẻ!” 3 Bà nói: "Ðây Bin-ha, nữ tỳ của tôi, ông hãy đi lại với nó, để nó sinh con trên đầu gối tôi, và nhờ nó mà cả tôi nữa, cũng có con.” 4 Bà hiến nữ tỳ của bà là Bin-ha cho ông, để nàng làm vợ ông, và ông Gia-cóp đi lại với nàng. 5 Bin-ha có thai và sinh cho ông Gia-cóp một đứa con trai. 6 Bà Ra-khen nói: "Thiên Chúa đã xét xử cho tôi; Người cũng đã nghe tiếng tôi và đã cho tôi một đứa con trai"; vì thế bà đặt tên cho nó là Ðan. 7 Bin-ha, nữ tỳ của bà Ra-khen, lại có thai và sinh một người con trai thứ hai cho ông Gia-cóp. 8 Bà Ra-khen nói: "Tôi đã chiến đấu với chị tôi những cuộc chiến thần thánh, và tôi đã thắng"; và bà đặt tên cho nó là Náp-ta-li.

9 Khi bà Lê-a thấy mình thôi không sinh đẻ nữa, thì bà đem nữ tỳ của bà là Din-pa hiến cho ông Gia-cóp, để nàng làm vợ ông. 10 Din-pa, nữ tỳ của bà Lê-a, sinh cho ông Gia-cóp một đứa con trai. 11 Bà Lê-a nói: "May quá!"; và bà đặt tên cho nó là Gát. 12 Din-pa, nữ tỳ của bà Lê-a, sinh một người con trai thứ hai cho ông Gia-cóp. 13 Bà Lê-a nói: "Tôi hạnh phúc biết bao! Vì các cô gái sẽ khen ngợi tôi có phúc"; và bà đặt tên cho nó là A-se.

14 Vào mùa gặt lúa mì, Rưu-vên đi ra, tìm thấy ở ngoài đồng những quả ngải sâm, và mang về cho bà Lê-a, mẹ mình. Bà Ra-khen nói với bà Lê-a: "Xin chị cho em mấy quả ngải sâm của con chị.” 15 Bà Lê-a nói với em: "Ðoạt chồng của tôi, đối với cô còn chưa đủ hay sao, mà cô lại muốn lấy cả quả ngải sâm của con tôi nữa?" Bà Ra-khen nói: "Thế thì ông ấy cứ nằm với chị đêm nay, để đổi lấy mấy quả ngải sâm của con chị.” 16 Ðến chiều, khi ông Gia-cóp từ ngoài đồng về, bà Lê-a ra đón ông và bảo: "Ông phải đến với tôi, vì tôi đã bỏ ra mấy quả ngải sâm của con tôi để đổi lấy ông." Và ông đã nằm với bà đêm ấy. 17 Thiên Chúa đã nhận lời bà Lê-a. Bà có thai và sinh một người con trai thứ năm cho ông Gia-cóp. 18 Bà Lê-a nói: "Thiên Chúa đã trả công cho tôi, vì tôi đã hiến nữ tỳ của tôi cho chồng tôi"; và bà đặt tên cho nó là Ít-xa-kha. 19 Bà Lê-a lại có thai và sinh một người con trai thứ sáu cho ông Gia-cóp. 20 Bà Lê-a nói: "Thiên Chúa đã tặng tôi một món quà quý. Phen này, chồng tôi sẽ ở với tôi, vì tôi đã sinh cho ông sáu đứa con trai"; và bà đặt tên cho nó là Dơ-vu-lun. 21 Sau đó, bà sinh một đứa con gái và đặt tên cho nó là Ði-na.

22 Thiên Chúa đã nhớ đến bà Ra-khen, Thiên Chúa đã nhận lời bà và đã cho bà sinh đẻ được. 23 Bà có thai và sinh một đứa con trai. Bà nói: "Thiên Chúa đã cất nỗi hổ nhục của tôi"; 24 và bà đặt tên cho nó là Giu-se, bà nói: "Xin Ðức Chúa thêm cho tôi một đứa con trai khác."

Ông Gia-cóp làm giàu

25 Khi bà Ra-khen sinh được Giu-se, thì ông Gia-cóp nói với ông La-ban: "Xin cho con đi, để con về quê hương xứ sở của con. 26 Xin cho con vợ con của con; vì những người vợ ấy, con đã phục vụ cha. Xin để con đi. Cha biết con đã làm lụng thế nào để phục vụ cha. 27 Ông La-ban nói với ông: "Nếu cha được đẹp lòng con... nhờ bói toán, cha biết được là ÐỨC CHÚA đã vì con mà chúc phúc cho cha.” 28 Rồi ông nói: "Con hãy ấn định cho cha mức công xá của con, và cha sẽ trả.” 29 Ông Gia-cóp nói với ông: "Cha biết con đã phục vụ cha thế nào, và nhờ con mà đàn súc vật của cha đã ra sao. 30 Trước khi con đến, tài sản cha chẳng có bao nhiêu, mà nay đã tăng lên rất nhiều. Con bước đi tới đâu là Ðức Chúa chúc phúc cho cha tới đó. Bây giờ, khi nào con mới được lo cho gia đình con?” 31 Ông nói: "Cha phải trả cho con cái gì đây?" Ông Gia-cóp thưa: "Cha không phải trả gì cho con cả. Nếu cha làm cho con điều sau đây, thì con sẽ lại chăn giữ đàn chiên dê của cha.

32 Hôm nay con sẽ đi qua tất cả đàn chiên dê của cha, cha hãy để riêng ra mọi chiên con lốm đốm và lấm chấm, mọi chiên con đen tuyền trong số chiên, và con nào lấm chấm và lốm đốm trong số dê cái: đó sẽ là công xá của con. 33 Mai ngày, khi cha đến kiểm soát công xá của con, thì sự lương thiện của con sẽ làm chứng cho con: Tất cả những con dê không lấm chấm và lốm đốm, những con chiên không đen tuyền trong đàn vật của con, sẽ là của ăn cắp. 34 Ông La-ban nói: "Ðược, thì cứ như con nói!” 35 Ngày hôm ấy, ông để riêng ra các dê đực vằn và lấm chấm, mọi dê cái lốm đốm và lấm chấm, mọi con vật có vệt trắng, và mọi con chiên đen tuyền; và ông giao chúng cho các con trai ông. 36 Rồi ông để khoảng cách ba ngày đường giữa ông và ông Gia-cóp. Ông Gia-cóp thì chăn những chiên dê còn lại của ông La-ban. 37 Ông Gia-cóp kiếm những cành cây bạch dương, hạnh đào và tiêu huyền còn tươi. Ông bóc vỏ cho lộ ra phần lõi trắng trên cành, để làm thành những vệt trắng. 38 Rồi ông đặt các cành cây đã bóc vỏ vào các máng uống nước, nơi chiên dê đến uống, cho chúng thấy; chúng động đực khi đến uống. 39 Các con vật giao nhau trước các cành cây và đẻ ra những con vằn, lốm đốm và lấm chấm. 40 Còn những con chiên thì ông Gia-cóp tách riêng ra, và cho chúng quay về những con vằn và tất cả những con lốm đốm trong đàn vật của ông La-ban. Bằng cách đó, ông gây cho mình những đàn vật riêng và không đặt chung với đàn vật của ông La-ban. 41 Mỗi khi các con vật khoẻ giao nhau, thì ông Gia-cóp đặt các cành vào trong máng, trước mắt chúng, để chúng giao nhau trước các cành đó. 42 Nếu là các con vật yếu thì ông không đặt, thành ra các con yếu thuộc về ông La-ban, còn những con khoẻ thuộc về ông Gia-cóp. 43 Thế là ông trở nên giàu, thật giàu; ông có chiên dê đầy đàn, có tôi trai tớ gái, lạc đà và lừa.

Chương 31

Ông Gia-cóp trốn đi

1 Ông Gia-cóp nghe được những lời của các con trai ông La-ban nói rằng: "Gia-cóp đã lấy tất cả tài sản của cha chúng ta, và nhờ tài sản của cha chúng ta mà làm nên cơ đồ ấy.” 2 Ông Gia-cóp nhìn nét mặt ông La-ban và thấy rằng, đối với mình, cha không còn như xưa nữa. 3 Ðức Chúa phán với ông Gia-cóp: "Hãy trở về quê cha đất tổ, về với họ hàng ngươi: Ta sẽ ở với ngươi.” 4 Ông Gia-cóp sai người đi gọi bà Ra-khen và bà Lê-a ra ngoài đồng, đến chỗ đàn chiên dê của ông. 5 Ông nói với họ: "Tôi thấy rằng nét mặt của cha các bà đối với tôi không còn như xưa nữa; nhưng Thiên Chúa của cha tôi đã ở với tôi. 6 Chính các bà biết rằng tôi đã phục vụ cha các bà bằng tất cả sức lực của tôi. 7 Cha các bà đã đánh lừa tôi, và đã đổi công xá của tôi mười lần, nhưng Thiên Chúa đã không để cho ông ấy làm hại tôi. 8 Mỗi khi ông nói: "Những con lốm đốm sẽ là công xá của con", thì tất cả chiên dê đẻ ra những con lốm đốm; mỗi khi ông nói: "Những con vằn sẽ là công xá của con", thì tất cả chiên dê đẻ ra những con vằn. 9 Thiên Chúa đã lấy đàn vật của cha các bà mà cho tôi. 10 Vào thời chiên dê giao nhau, tôi ngước mắt lên và chiêm bao thấy rằng: những con dê đực phủ những con cái thì vằn, lốm đốm và khoang. 11 Sứ thần của Thiên Chúa nói với tôi trong giấc chiêm bao: "Gia-cóp!" Tôi thưa: "Dạ, con đây!” 12 Người phán: "Ngước mắt lên mà nhìn: mọi con dê đực phủ những con cái thì vằn, lốm đốm và khoang, vì La-ban đối xử với ngươi thế nào, Ta đã thấy hết. 13 Ta là Thiên Chúa, Ðấng đã hiện ra với ngươi ở Bết Ên, nơi ngươi đã xức dầu một trụ đá, nơi ngươi đã khấn hứa với Ta. Giờ đây, đứng lên! Ra khỏi đất này mà trở về quê hương ngươi."

14 Bà Ra-khen và Lê-a trả lời ông rằng: "Nào chúng tôi còn được chung phần và hưởng cơ nghiệp trong nhà cha chúng tôi nữa đâu? 15 Chúng tôi chẳng bị cha coi là người xa lạ đó sao? Vì cha đã bán chúng tôi đi, lại còn nuốt ngon tiền bạc của chúng tôi. 16 Vâng, tất cả tài sản Thiên Chúa đã lấy của cha chúng tôi thì thuộc về chúng ta và con cái chúng ta. Giờ đây mọi điều Thiên Chúa đã phán với ông, ông cứ làm."

17 Ông Gia-cóp đứng lên, đưa các con và các bà vợ lên lạc đà. 18 Ông đưa tất cả đàn vật và mọi tài sản ông đã gây được, đàn vật riêng của ông mà ông đã gây được ở Pát-đan A-ram, để đi về với ông I-xa-ác, cha ông, ở đất Ca-na-an. 19 Trong lúc ông La-ban đi xén lông chiên, thì bà Ra-khen lấy trộm các tượng thần của cha bà. 20 Ông Gia-cóp đánh lừa ông La-ban, người A-ram, không cho ông ấy biết mình đi trốn. 21 Ông trốn đi với tất cả những gì thuộc về ông; ông đứng lên, sang Sông Cả và hướng thẳng về núi Ga-la-át.

Ông La-ban đuổi theo ông Gia-cóp

22 Sang ngày thứ ba, người ta báo cho ông La-ban biết ông Gia-cóp đã trốn đi. 23 Ông đem anh em họ hàng đi với mình, rượt theo ông Gia-cóp bảy ngày đường, và đuổi kịp ông này ở núi Ga-la-át. 24 Ban đêm Thiên Chúa đến báo mộng cho ông La-ban, người A-ram, rằng: "Coi chừng, đừng nói bất cứ điều gì với Gia-cóp.” 25 Ông La-ban theo kịp ông Gia-cóp. Ông Gia-cóp đã cắm lều trên núi; ông La-ban với các anh em họ hàng cũng cắm lều trên núi Ga-la-át.

26 Ông La-ban nói với ông Gia-cóp: "Con đã làm gì thế? Con đã đánh lừa cha mà đem các con gái cha đi như thể tù chiến tranh. 27 Tại sao con đã lén lút trốn đi và đã lừa cha, không cho cha biết, để cha còn tiễn đưa con trong niềm vui tiếng hát, trong tiếng trống tiếng đàn? 28 Con đã không để cho cha hôn con hôn cháu cha. Thật con đã hành động ngu xuẩn! 29 Cha có đủ khả năng làm hại các con, nhưng đêm qua Thiên Chúa của cha các con đã phán với cha rằng: "Coi chừng, đừng nói bất cứ điều gì với Gia-cóp.” 30 Bây giờ thì con đi vì quá nhớ nhà cha con, nhưng tại sao con lại lấy trộm các thần của cha?” 31 Ông Gia-cóp đáp lại ông La-ban: "Vì con sợ, và con tự bảo: có khi cha sẽ dùng sức mạnh mà đoạt lại các con gái của cha. 32 Còn nếu cha tìm được các thần của cha nơi người nào, thì người ấy không được sống nữa. Có anh em họ hàng của cha con ta chứng kiến, xin cha nhận ra cái gì là của cha trong những thứ con có ở đây, và cứ lấy lại." Ông Gia-cóp không biết rằng bà Ra-khen đã lấy trộm các tượng ấy. 33 Ông La-ban vào lều ông Gia-cóp, rồi vào lều bà Lê-a và lều hai người nữ tỳ, nhưng không tìm thấy gì. Ông ra khỏi lều bà Lê-a và vào lều bà Ra-khen. 34 Bà Ra-khen đã lấy các tượng thần, để trong yên lạc đà rồi ngồi lên trên. Ông La-ban lục lọi khắp cả lều mà không tìm thấy. 35 Bà thưa với cha: "Xin ngài đừng nổi nóng nếu con không thể đứng lên trước mặt ngài, vì con đang có điều thường xảy đến cho đàn bà." Ông tìm tòi nhưng không thấy các tượng thần.

36 Bấy giờ ông Gia-cóp nổi nóng và trách móc ông La-ban; ông lên tiếng nói với ông La-ban: "Con có tội có lỗi gì mà cha cứ theo con gắt gao như vậy? 37 Lục lọi tất cả đồ đạc của con, cha có tìm được đồ đạc gì của nhà cha không? Cha cứ đưa ra đây trước mặt anh em họ hàng của con và anh em họ hàng của cha, để họ phân xử cho đôi bên. 38 Suốt hai mươi năm con đã ở với cha, chiên cái dê cái của cha không hề sẩy thai, con không hề ăn con chiên đực nào trong đàn vật của cha. 39 Con vật bị cắn xé, con không đưa về cho cha, chính con chịu đền; con bị mất trộm con nào ban ngày hay ban đêm, cha đều đòi con phải trả. 40 Ban ngày con bị nắng thiêu, ban đêm con bị lạnh buốt, không sao chợp mắt ngủ được. 41 Con ở nhà cha đã được hai mươi năm, con đã phục vụ cha được mười bốn năm để được hai cô con gái của cha, sáu năm để được chiên của cha, cha đã đổi công xá của con mười lần. 42 Giả như Thiên Chúa của cha con, là Thiên Chúa ông Áp-ra-ham thờ và là Ðấng ông I-xa-ác khiếp sợ, đã không ở với con, thì bây giờ hẳn cha đã để con về tay không. Thiên Chúa đã thấy cảnh khổ cực và công lao vất vả của con, và đêm qua Người đã phân xử."

Thoả hiệp giữa ông Gia-cóp và ông La-ban

43 Ông La-ban đáp lại ông Gia-cóp: "Các cô này là con gái của cha, các cháu này là cháu của cha, chiên dê này là chiên dê của cha, tất cả những gì con thấy đều là của cha. Hôm nay cha có thể làm gì cho các con gái của cha, hoặc cho những đứa con chúng đã sinh ra? 44 Bây giờ, nào cha con ta hãy lập giao ước, giao ước đó sẽ làm chứng giữa cha con ta."

45 Ông Gia-cóp lấy một tảng đá dựng lên làm trụ. 46 Ông Gia-cóp nói với anh em họ hàng mình: "Hãy nhặt đá." Họ lấy đá làm thành một đống. Họ ăn tại đó, trên đống đá ấy. 47 Ông La-ban gọi chỗ đó là Giơ-ga Xa-ha-đu-tha, còn ông Gia-cóp thì gọi là Ga-lơ-ét. 48 Ông La-ban nói: "Ðống đá này hôm nay làm chứng giữa cha con ta." Vì thế người ta gọi nó là Ga-lơ-ét 49 và cũng gọi là Mít-pa, vì ông nói: "Xin Ðức Chúa canh giữ giữa cha con ta, khi chúng ta khuất mặt nhau. 50 Nếu con hành hạ các con gái cha, và nếu ngoài các con gái cha, con còn lấy thêm vợ khác, thì dù không có ai ở với chúng ta, con hãy coi chừng: Thiên Chúa làm chứng giữa cha con ta.” 51 Ông La-ban nói với ông Gia-cóp: "Ðây đống đá này, và đây trụ đá cha đã đặt giữa cha và con. 52 Ðống đá này làm chứng và trụ đá này cũng làm chứng rằng cha không được vượt qua đống đá này sang bên con, và con cũng không được vượt qua đống đá này và trụ đá này sang bên cha với ý đồ xấu. 53 Xin Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham và Thiên Chúa của ông Na-kho -Thiên Chúa của cha các ngài- xét xử giữa chúng ta." Ông Gia-cóp đã thề nhân danh Ðấng mà cha ông là I-xa-ác khiếp sợ. 54 Ông dâng lễ tế trên núi và mời anh em họ hàng đến dùng bữa. Họ dùng bữa và nghỉ đêm trên núi.

Chương 32

1 Sáng hôm sau, ông La-ban dậy sớm, hôn các con gái và các cháu ông, chúc phúc cho chúng, rồi lên đường về nhà. 2 Ông Gia-cóp đang đi đường thì có những sứ thần của Thiên Chúa gặp ông. 3 Vừa thấy các sứ thần, ông Gia-cóp nói: "Ðây là trại của Thiên Chúa", và ông đặt tên cho nơi ấy là Ma-kha-na-gim.

Ông Gia-cóp chuẩn bị gặp ông Ê-xau

4 Ông Gia-cóp sai sứ giả đi trước ông đến với ông Ê-xau tại đất Xê-ia, trong lãnh thổ Ê-đôm. 5 Ông ra lệnh cho họ rằng: "Các anh sẽ nói với ông Ê-xau, chủ tôi, thế này: "Tôi tớ ngài là ông Gia-cóp nói như sau: Tôi đã trú ngụ tại nhà ông La-ban và đã ở lại mãi đến bây giờ. 6 Tôi có bò lừa, chiên dê, tôi trai tớ gái, và tôi sai người báo tin cho ngài để được đẹp lòng ngài."

7 Sứ giả trở về với ông Gia-cóp và nói: "Chúng tôi đã đến với ông Ê-xau, anh ông. Ông ấy cũng đang tiến về phía ông, và có bốn trăm người đi cùng."

8 Ông Gia-cóp sợ hãi kinh hoàng. Ông chia những người đi với ông, cũng như chiên dê, bò và lạc đà, đóng ở hai trại. 9 Ông tự nhủ: "Nếu ông Ê-xau đến đánh phá một trại, thì trại còn lại có thể thoát.” 10 Ông Gia-cóp cầu nguyện: "Lạy Thiên Chúa của tổ phụ con là ông Áp-ra-ham, Thiên Chúa của cha con là ông I-xa-ác, lạy Ðức Chúa, Ðấng đã phán bảo con: "Hãy trở về xứ sở, về với họ hàng ngươi, và Ta sẽ đối xử nhân hậu với ngươi", 11 con bé nhỏ, đâu xứng với tất cả mọi ân huệ và tất cả lòng thành tín mà Ngài đã tỏ cho tôi tớ Ngài đây. Thật vậy, khi qua sông Gio-đan, con chỉ có cây gậy, thế mà giờ đây đã thành ra hai trại. 12 Xin giải thoát con khỏi tay anh con, khỏi tay anh Ê-xau, vì con sợ anh ấy, sợ anh ấy đến đánh chúng con, đánh cả mẹ lẫn con. 13 Chính Ngài đã phán với con: "Ta sẽ đối xử rất nhân hậu với ngươi, và sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên nhiều như cát ngoài biển, không thể đếm được vì quá đông.” 14 Ông nghỉ đêm tại đó.

15 hai trăm dê cái và hai mươi dê đực, hai trăm chiên cái và hai mươi chiên đực 16 ba mươi lạc đà cái đang cho bú và con của chúng, bốn mươi bò cái và mười bò đực, hai mươi lừa cái và mười lừa con. 17 Ông giao từng đàn vật riêng rẽ cho các đầy tớ và bảo họ: "Các anh hãy đi trước tôi và để một khoảng cách giữa mỗi đàn vật.” 18 Ông truyền cho người đầy tớ thứ nhất rằng: "Khi ông Ê-xau, anh tôi, gặp anh và hỏi: "Anh là người của ai? Anh đi đâu? Ðàn vật đi trước anh là của ai?” 19 thì anh trả lời: "Của tôi tớ ngài là ông Gia-cóp. Ðây là tặng phẩm ông ấy gửi biếu ngài Ê-xau, còn chính ông thì đang đi đàng sau chúng tôi.” 20 Ông cũng truyền cho người thứ hai, người thứ ba, rồi cho tất cả những người đi sau các đàn vật, rằng: "Các anh hãy dùng những lời lẽ ấy mà thưa với ông Ê-xau, khi các anh gặp ông; 21 các anh hãy nói: "Tôi tớ ngài là ông Gia-cóp cũng đi đàng sau chúng tôi." Thật vậy, ông tự nhủ: "Ta cho tặng phẩm này đi trước để làm cho anh ấy nguôi giận; sau đó ta sẽ giáp mặt anh ấy và may ra anh ấy sẽ nể ta.” 22 Tặng phẩm đi trước, còn chính ông nghỉ lại đêm ấy trong trại.

Vật lộn với Thiên Chúa

23 Ðêm đó, ông Gia-cóp dậy, đem theo hai bà vợ, hai người nữ tỳ và mười một đứa con, và ông lội qua sông Giáp-bốc.24 Ông đem họ theo, đưa họ qua sông, rồi đưa tài sản của ông qua.25 Ông Gia-cóp ở lại một mình.

26 Thấy không thắng được ông, người đó bèn đánh vào khớp xương hông của ông, và khớp xương hông của ông Gia-cóp bị trật đang khi ông vật lộn với người đó.27 Người đó nói: "Buông ta ra, vì đã rạng đông rồi." Nhưng ông đáp: "Tôi sẽ không buông ngài ra, nếu ngài không chúc phúc cho tôi."28 Người đó hỏi ông: "Tên ngươi là gì? " Ông đáp: "Tên tôi là Gia-cóp."29 Người đó nói: "Người ta sẽ không gọi tên ngươi là Gia-cóp nữa, nhưng là Ít-ra-en, vì ngươi đã đấu với Thiên Chúa và với người ta, và ngươi đã thắng."30 Ông Gia-cóp hỏi: "Xin cho tôi biết tên ngài." Người đó nói: "Sao ngươi lại hỏi tên ta? " Và người đó chúc phúc cho ông tại đấy.

31 Ông Gia-cóp đặt tên cho nơi đó là Pơ-nu-ên, "vì -ông nói- tôi đã thấy Thiên Chúa mặt đối mặt, mà tôi đã được tha mạng."32 Khi mặt trời mọc, ông đi qua Pơ-nu-ên; ông đi khập khiễng vì bị trật xương hông.33 Bởi thế, con cái Ít-ra-en, cho đến nay, không ăn cái gân đùi ở khớp xương hông, vì người đó đã đánh vào khớp xương hông của ông Gia-cóp, vào gân đùi.

Chương 33

Ông Gia-cóp gặp ông Ê-xau

1 Ông Gia-cóp ngước mắt lên, thấy ông Ê-xau đang tiến đến, có bốn trăm người đi cùng. Ông Gia-cóp bèn chia các con cho bà Lê-a, bà Ra-khen và hai người nữ tỳ. 2 Ông xếp các nữ tỳ với con của họ đi đầu, bà Lê-a với con bà đi sau, bà Ra-khen với Giu-se đi sau chót. 3 Còn ông thì vượt lên phía trước họ và sụp xuống đất lạy bảy lần trước khi đến gần anh mình. 4 Ông Ê-xau chạy lại đón em, ôm chầm lấy, bá cổ mà hôn, rồi cả hai cùng khóc. 5 Ngước mắt lên, ông Ê-xau thấy đám đàn bà con trẻ thì hỏi: "Những người kia là ai đối với chú?" Ông Gia-cóp trả lời: "Ðó là những đứa con Thiên Chúa đã thương ban cho tôi tớ ngài.” 6 Bấy giờ hai người nữ tỳ cùng với các con của họ đến gần và sụp xuống lạy. 7 Ðến lượt bà Lê-a cùng với các con của bà đến gần và sụp xuống lạy. Sau đó Giu-se và bà Ra-khen cũng đến gần và sụp xuống lạy.

8 Ông Ê-xau hỏi: "Tất cả trại tôi vừa gặp kia, chú tính để làm gì đó?" Ông Gia-cóp trả lời: "Là để tôi được đẹp lòng ngài.” 9 Ông Ê-xau nói: "Tôi có nhiều rồi, chú ạ! Cái gì của chú, chú cứ giữ lấy.” 10 Ông Gia-cóp nói: "Không đâu! Nếu tôi được đẹp lòng ngài, thì xin ngài nhận tặng phẩm tự tay tôi biếu. Thật vậy, tôi đã nhìn thấy mặt ngài như nhìn thấy mặt Thiên Chúa, và ngài đã tỏ lòng thương đối với tôi. 11 Xin ngài nhận lấy món quà đưa đến để cầu phúc cho ngài, vì Thiên Chúa đã thương ban cho tôi và tôi có đủ mọi sự." Ông nài ép, và ông Ê-xau đã nhận.

Ông Gia-cóp và ông Ê-xau chia tay

12 Ông Ê-xau nói: "Nào chúng ta lên đường, tôi sẽ đi trước chú.” 13 Ông Gia-cóp trả lời: "Ngài biết là lũ trẻ thì yếu ớt, còn tôi phải lo cho đám chiên và bò đang cho con bú; nếu hối thúc chúng, dù một ngày thôi, thì chiên dê sẽ chết hết. 14 Vậy xin ngài cứ vượt lên phía trước tôi tớ ngài; phần tôi, tôi sẽ đi chậm chậm, theo chân đàn vật đi trước và theo chân lũ trẻ, cho tới khi đến với ngài tại Xê-ia.” 15 Ông Ê-xau nói: "Tôi muốn để ít người trong số người đi với tôi ở lại với chú." Ông Gia-cóp trả lời: "Như thế để làm gì? Tôi chỉ mong được đẹp lòng ngài thôi!” 16 Ngày đó, ông Ê-xau trở về Xê-ia. 17 Phần ông Gia-cóp thì lên đường đi Xúc-cốt. Ở đó ông dựng nhà và làm những lều bằng cành cây cho súc vật, bởi thế, ông đặt tên cho nơi này là Xúc-cốt.

Ông Gia-cóp đi Si-khem

18 Khi ở Pát-đan A-ram về, ông Gia-cóp đến thành Si-khem, trong đất Ca-na-an, bình an vô sự, và ông cắm trại đối diện với thành. 19 Ông tậu của con cái ông Kha-mo, cha của Si-khem, một thửa đất, nơi ông đã căng lều, với giá một trăm đồng bạc. 20 Tại đây, ông dựng một bàn thờ mà ông gọi là "En, Thiên Chúa của Ít-ra-en."

Vật lộn với Thiên Chúa

23 Ðêm đó, ông Gia-cóp dậy, đem theo hai bà vợ, hai người nữ tỳ và mười một đứa con, và ông lội qua sông Giáp-bốc. 24 Ông đem họ theo, đưa họ qua sông, rồi đưa tài sản của ông qua. 25 Ông Gia-cóp ở lại một mình.

26 Thấy không thắng được ông, người đó bèn đánh vào khớp xương hông của ông, và khớp xương hông của ông Gia-cóp bị trật đang khi ông vật lộn với người đó. 27 Người đó nói: "Buông ta ra, vì đã rạng đông rồi." Nhưng ông đáp: "Tôi sẽ không buông ngài ra, nếu ngài không chúc phúc cho tôi.” 28 Người đó hỏi ông: "Tên ngươi là gì?" Ông đáp: "Tên tôi là Gia-cóp.” 29 Người đó nói: "Người ta sẽ không gọi tên ngươi là Gia-cóp nữa, nhưng là Ít-ra-en, vì ngươi đã đấu với Thiên Chúa và với người ta, và ngươi đã thắng.” 30 Ông Gia-cóp hỏi: "Xin cho tôi biết tên ngài." Người đó nói: "Sao ngươi lại hỏi tên ta?" Và người đó chúc phúc cho ông tại đấy.

31 Ông Gia-cóp đặt tên cho nơi đó là Pơ-nu-ên, "vì - ông nói - tôi đã thấy Thiên Chúa mặt đối mặt, mà tôi đã được tha mạng.” 32 Khi mặt trời mọc, ông đi qua Pơ-nu-ên; ông đi khập khiễng vì bị trật xương hông. 33 Bởi thế, con cái Ít-ra-en, cho đến nay, không ăn cái gân đùi ở khớp xương hông, vì người đó đã đánh vào khớp xương hông của ông Gia-cóp, vào gân đùi.

Chương 34

Cô Ði-na bị làm nhục

1 Ði-na, người con gái bà Lê-a đã sinh cho ông Gia-cóp, đi ra xem các con gái xứ ấy. 2 Si-khem, con trai ông Kha-mo, người Khi-vi, đầu mục xứ ấy, trông thấy thì bắt cô, rồi cưỡng ép cô ăn nằm với mình. 3 Rồi lòng cậu quyến luyến Ði-na, con gái ông Gia-cóp; cậu yêu cô gái và âu yếm dỗ dành cô. 4 Si-khem thưa với ông Kha-mo, cha cậu, rằng: "Xin cha cưới cô bé ấy cho con.” 5 Ông Gia-cóp nghe biết Si-khem đã xâm phạm tiết hạnh của Ði-na, con gái ông, nhưng vì các con trai ông còn đang ở ngoài đồng với đàn vật của ông, nên ông làm thinh cho đến lúc họ về.

Thoả thuận về hôn nhân với dân thành Si-khem

6 Ông Kha-mo, cha của Si-khem, ra gặp ông Gia-cóp để nói chuyện với ông. 7 Các con trai ông Gia-cóp ở ngoài đồng về. Vừa nghe biết chuyện, những người này bực tức và giận dữ lắm, vì Si-khem đã làm điều đồi bại trong Ít-ra-en, khi ăn nằm với con gái ông Gia-cóp, một điều không được phép làm. 8 Ông Kha-mo nói với họ rằng: "Si-khem, con trai tôi, phải lòng con gái các ông, xin các ông gả cô ấy cho nó. 9 Các ông hãy kết nghĩa thông gia với chúng tôi: các ông sẽ gả các con gái của các ông cho chúng tôi và sẽ cưới các con gái của chúng tôi về. 10 Các ông sẽ ở với chúng tôi, và xứ này sẽ mở ra trước mặt các ông: các ông cứ ở đây, đi lại buôn bán ở đây và tậu đất đai ở đây làm sở hữu.” 11 Si-khem nói với cha và anh em cô gái: "Cháu chỉ mong được đẹp lòng bác và các anh, rồi bác và các anh đòi gì, cháu cũng xin nộp. 12 Bác và các anh thách sính lễ quà cáp bao nhiêu, cháu cũng xin nộp như bác và các anh đòi, chỉ xin gả cô gái cho cháu."

13 Khi trả lời cho Si-khem và ông Kha-mo, cha cậu, các con trai ông Gia-cóp đã dùng mưu mà nói, vì cậu đã xâm phạm tiết hạnh của Ði-na, em gái họ. 14 Họ nói với những người kia: "Chúng tôi không thể làm điều này là gả em gái chúng tôi cho một người không được cắt bì, vì đối với chúng tôi, đó là một điều sỉ nhục. 15 Chúng tôi chỉ đồng ý với điều kiện là các ông trở nên như chúng tôi, nghĩa là cắt bì mọi đàn ông con trai. 16 Bấy giờ chúng tôi sẽ gả các con gái của chúng tôi cho các ông và sẽ cưới các con gái của các ông về, chúng tôi sẽ ở với các ông và chúng ta sẽ thành một dân duy nhất. 17 Còn nếu các ông không nghe chúng tôi mà chịu cắt bì, thì chúng tôi sẽ bắt con gái chúng tôi về, và chúng tôi sẽ ra đi.” 18 Lời lẽ của họ vừa lòng ông Kha-mo và Si-khem, con ông Kha-mo. 19 Chàng trai làm ngay điều đó, không chậm trễ, vì cậu mê con gái ông Gia-cóp; cậu lại là người có uy tín nhất trong gia đình.

20 Ông Kha-mo và ông Si-khem, con ông, ra cửa thành nói với dân rằng: 21 "Những người ấy hiền hoà với chúng ta. Cứ để họ ở trong xứ, đi lại buôn bán ở đây; xứ này có đủ chỗ cho họ. Chúng ta sẽ cưới các con gái của họ về, và sẽ gả các con gái của chúng ta cho họ. 22 Nhưng những người ấy chỉ đồng ý ở với chúng ta để thành một dân duy nhất, với điều kiện là mọi đàn ông con trai của chúng ta phải chịu cắt bì như họ. 23 Các đàn vật của họ, tài sản của họ, gia súc của họ sẽ chẳng thuộc về chúng ta sao? Chúng ta chỉ cần đồng ý với họ là họ sẽ ở với chúng ta.” 24 Tất cả những người ra họp ở cửa thành ông Kha-mo đều nghe lời ông và Si-khem, con trai ông; mọi đàn ông con trai, mọi người ra họp ở cửa thành đều chịu cắt bì.

Ông Si-mê-ôn và ông Lê-vi bội ước và báo thù

25 Sang ngày thứ ba, khi họ còn đang đau, thì hai con trai ông Gia-cóp là Si-mê-ôn và Lê-vi, anh của Ði-na, mỗi người xách một thanh gươm, vào thành lúc không ai ngờ, và giết mọi đàn ông con trai. 26 Các cậu đã dùng gươm giết ông Kha-mo và Si-khem, con trai ông Kha-mo, đem Ði-na ra khỏi nhà Si-khem, rồi đi. 27 Các con trai ông Gia-cóp còn đạp lên các xác chết và cướp phá thành, bởi vì người ta đã xâm phạm tiết hạnh em gái các cậu. 28 Chiên dê, bò lừa của họ, những gì ở trong thành và ngoài đồng, các cậu đều lấy đi. 29 Các cậu mang theo mọi tài sản cũng như mọi đàn bà con trẻ của họ, và cướp phá mọi thứ trong nhà.

30 Ông Gia-cóp nói với Si-mê-ôn và Lê-vi: "Các con đã mang hoạ đến cho cha, làm cho cha trở nên đáng ghét đối với dân cư xứ này, tức là người Ca-na-an và người Pơ-rít-di. Cha chỉ có một dúm người, chúng sẽ hợp nhau lại chống cha và sẽ đánh cha, cha và gia đình sẽ bị tiêu diệt.” 31 Họ đáp: "Chẳng lẽ nó được phép xử với em gái chúng con như với một gái điếm sao?"

Chương 35

Ông Gia-cóp tại Bết Ên

1 Thiên Chúa phán bảo ông Gia-cóp: "Ðứng dậy! Hãy lên Bết Ên và ở đó. Hãy làm ở đó một bàn thờ để kính Thiên Chúa, Ðấng đã hiện ra với ngươi khi ngươi đang trốn Ê-xau, anh ngươi.” 2 Ông Gia-cóp bảo gia đình ông và tất cả những người cùng đi với ông: "Hãy loại bỏ các thần ngoại bang ở giữa các người, hãy tẩy uế mình và thay áo. 3 Nào ta hãy đứng dậy và lên Bết Ên! Tại đó tôi sẽ làm một bàn thờ để kính Thiên Chúa, Ðấng đã đáp lời tôi ngày tôi gặp bước gian truân, và đã ở với tôi trong chuyến đi tôi đã thực hiện.” 4 Họ nộp cho ông Gia-cóp hết các thần ngoại bang họ đang giữ và các khuyên họ đeo ở tai, và ông Gia-cóp chôn những thứ ấy dưới gốc cây vân hương ở gần Si-khem. 5 Họ lên đường, và Thiên Chúa gieo kinh hãi xuống các thành chung quanh, khiến người ta không đuổi theo con cái ông Gia-cóp.

6 Ông Gia-cóp đến Lút, tức là Bết Ên, trong đất Ca-na-an, ông và những người cùng đi với ông. 7 Tại đây, ông dựng một bàn thờ và đặt tên cho nơi ấy là Ên Bết Ên, vì tại đây thần minh đã tỏ mình ra cho ông, đang khi ông trốn anh. 8 Bấy giờ bà Ðơ-vô-ra, vú nuôi bà Rê-bê-ca, qua đời và được chôn ở phía dưới Bết Ên, dưới gốc cây sồi, và ông Gia-cóp đặt tên cho cây ấy là Cây Sồi Than Khóc.

9 Thiên Chúa lại hiện ra với ông Gia-cóp khi ông từ Pát-đan A-ram về, và Người chúc phúc cho ông. 10 Thiên Chúa phán với ông: "Tên ngươi là Gia-cóp nhưng người ta sẽ không gọi ngươi là Gia-cóp nữa, mà tên ngươi sẽ là Ít-ra-en." Và Người đặt tên cho ông là Ít-ra-en.

11 Thiên Chúa phán với ông: "Ta là Thiên Chúa toàn năng. Ngươi hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều. Một dân tộc và một cộng đồng nhiều dân tộc sẽ từ ngươi mà ra, và vua chúa sẽ phát xuất từ lòng ngươi. 12 Ðất Ta đã ban cho Áp-ra-ham và I-xa-ác, thì Ta sẽ ban cho ngươi; Ta sẽ ban đất ấy cho dòng dõi ngươi sau này.” 13 Rồi Thiên Chúa từ giã ông mà đi lên, từ chỗ Người đã phán với ông.

14 Ông Gia-cóp dựng một cái trụ tại chỗ Thiên Chúa đã phán với ông, một trụ đá; ông rưới rượu và đổ dầu lên đó. 15 Ông Gia-cóp đặt tên cho nơi Thiên Chúa đã phán với ông là Bết Ên.

Ông Ben-gia-min chào đời. Bà Ra-khen từ trần.

16 Cả đoàn rời Bết Ên lên đường. Khi họ còn cách Ép-ra-tha một quãng đường, thì bà Ra-khen đến ngày sinh, nhưng lại gặp khó khăn. 17 Trong lúc bà khó sinh, cô đỡ nói với bà: "Bà đừng sợ, bà lại được một con trai nữa!” 18 Khi bà thở hắt ra, vì đang hấp hối, thì đặt tên cho con là Ben Ô-ni, nhưng cha nó lại đặt tên là Ben-gia-min. 19 Bà Ra-khen qua đời và được chôn trên con đường đi Ép-ra-tha, tức là Bê-lem. 20 Ông Gia-cóp dựng một bia đá trên mộ bà, đó là bia mộ bà Ra-khen, vẫn còn cho đến ngày nay.

Ông Rưu-vên loạn luân

21 Ông Ít-ra-en lên đường và cắm lều ở xa hơn Mích-đan Ê-đe. 22 Trong khi ông Ít-ra-en ở xứ ấy, thì Rưu-vên đến nằm với Bin-ha, vợ lẽ của cha cậu, và ông Ít-ra-en nghe biết chuyện này.

23 Con trai bà Lê-a: Rưu-vên, con đầu lòng của ông Gia-cóp, rồi đến Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Ít-xa-kha và Dơ-vu-lun. 24 Con trai bà Ra-khen: Giu-se và Ben-gia-min. 25 Con trai bà Bin-ha, nữ tỳ của bà Ra-khen: Ðan và Náp-ta-li. 26 Con trai bà Din-pa, nữ tỳ của bà Lê-a: Gát và A-se. Ðó là những con trai ông Gia-cóp sinh được tại Pát-đan A-ram.

Ông I-xa-ác qua đời

27 Ông Gia-cóp về với ông I-xa-ác, cha ông, ở Mam-rê, tại Kia-giát Ác-ba, tức là Khép-rôn, nơi ông Áp-ra-ham và ông I-xa-ác đã từng trú ngụ. 28 Ông I-xa-ác sống được một trăm tám mươi năm. 29 Rồi ông I-xa-ác tắt thở. Ông qua đời và được về sum họp với gia tiên, khi đã cao niên và no đầy tuổi tác. Các con ông là Ê-xau và Gia-cóp chôn cất ông.

Chương 36

Ông Ê-xau tại Ê-đôm

1 Sau đây là gia đình ông Ê-xau, tức là ông Ê-đôm. 2 Ông Ê-xau cưới vợ trong số con gái Ca-na-an, đó là: A-đa, con gái ông Ê-lôn, người Khết; O-ho-li-va-ma, con gái ông A-na, ông này là con trai ông Xíp-ôn, người Khi-vi; 3 và Ba-xơ-mát, con gái ông Ít-ma-ên, em gái ông Nơ-va-giốt. 4 Bà A-đa sinh Ê-li-phát cho ông Ê-xau, bà Ba-xơ-mát sinh Rơ-u-ên. 5 Bà O-ho-li-va-ma sinh Giơ-út, Gia-lam và Cô-rắc. Ðó là những con trai ông Ê-xau sinh được tại đất Ca-na-an.

Ông Ê-xau di cư

6 Ông Ê-xau đem các bà vợ, các con trai con gái, mọi người nhà, tất cả đàn vật, gia súc và tất cả của cải ông đã gây được tại đất Ca-na-an, và đi đến một xứ, cách xa ông Gia-cóp, em ông. 7 Thật vậy, họ quá nhiều tài sản không ở chung được, và đất họ đang trú ngụ không thể đủ chỗ cho họ chăn những đàn vật của họ. 8 Ông Ê-xau sống ở vùng núi Xê-ia. Ông Ê-xau chính là ông Ê-đôm.

Dòng dõi ông Ê-xau tại Xê-ia (1 Sb 1:35 -37)

9 Sau đây là gia đình ông Ê-xau, cha dân Ê-đôm, ở vùng núi Xê-ia.

10 Ðây là tên các con trai ông Ê-xau: Ê-li-phát, con trai bà A-đa, vợ ông Ê-xau, và Rơ-u-ên, con trai bà Ba-xơ-mát, vợ ông Ê-xau.

11 Các con trai ông Ê-li-phát là: Tê-man, Ô-ma, Xơ-phô, Ga-ơ-tam và Cơ-nát. 12 Bà Tim-na là vợ lẽ ông Ê-li-phát, con trai ông Ê-xau; bà sinh A-ma-lếch cho ông Ê-li-phát. Ðó là các con cháu bà A-đa, vợ ông Ê-xau.

13 Sau đây là các con trai ông Rơ-u-ên: Na-khắt, De-rác, Sam-ma và Mít-da. Ðó là các con cháu bà Ba-xơ-mát, vợ ông Ê-xau.

14 Còn đây là các con trai của vợ ông Ê-xau là bà O-ho-li-va-ma, con gái ông A-na; ông A-na là con trai ông Xíp-ôn: bà sinh Giơ-út, Gia-lam và Cô-rắc cho ông Ê-xau.

Các tộc trưởng dân Ê-đôm

15 Sau đây là các tộc trưởng của con cái Ê-xau. Các con trai ông Ê-li-phát, con đầu lòng của ông Ê-xau, là: tộc trưởng Tê-man, tộc trưởng Ô-ma, tộc trưởng Xơ-phô, tộc trưởng Cơ-nát, 16 tộc trưởng Cô-rắc, tộc trưởng Ga-ơ-tam, tộc trưởng A-ma-lếch. Ðó là các tộc trưởng phát xuất từ ông Ê-li-phát ở đất Ê-đôm, đó là các con cháu bà A-đa.

17 Sau đây là các con trai ông Rơ-u-ên, con trai ông Ê-xau: tộc trưởng Na-khắt, tộc trưởng De-rác, tộc trưởng Sam-ma, tộc trưởng Mít-da. Ðó là các tộc trưởng phát xuất từ ông Rơ-u-ên ở đất Ê-đôm, đó là các con cháu bà Ba-xơ-mát, vợ ông Ê-xau.

18 Sau đây là các con trai bà O-ho-li-va-ma, vợ ông Ê-xau: tộc trưởng Giơ-út, tộc trưởng Gia-lam, tộc trưởng Cô-rắc. Ðó là các tộc trưởng phát xuất từ bà O-ho-li-va-ma, con gái ông A-na, vợ ông Ê-xau.

19 Ðó là các con trai ông Ê-xau, đó là các tộc trưởng của họ. Ðó là Ê-đôm.

Dòng dõi ông Xê-ia, người Khô-ri (1 Sb 1:38 -42)

20 Sau đây là các con trai ông Xê-ia, người Khô-ri, là dân bản xứ: Lô-tan, Sô-van, Xíp-ôn, A-na, 21 Ði-sôn, Ê-xe, Ði-san. Ðó là các tộc trưởng người Khô-ri, là các con trai ông Xê-ia, ở đất Ê-đôm. 22 Các con trai ông Lô-tan là: Khô-ri và Hê-mam; em gái ông Lô-tan là Tim-na. 23 Ðây là các con trai ông Sô-van: An-van, Ma-na-khát, Ê-van, Sơ-phô và Ô-nam. 24 Ðây là các con trai ông Xíp-ôn: Ai-gia và A-na. Ông A-na này là người đã tìm thấy suối nước nóng trong sa mạc khi chăn lừa cho cha mình là ông Xíp-ôn. 25 Ðây là các con ông A-na: Ði-sôn và O-ho-li-va-ma, con gái ông A-na. 26 Ðây là các con trai ông Ði-sôn: Khem-đan, Ét-ban, Gít-ran và Cơ-ran. 27 Ðây là các con trai ông Ê-xe: Bin-han, Da-a-van và A-can. 28 Ðây là các con trai ông Ði-san: Út và A-ran.

29 Sau đây là các tộc trưởng người Khô-ri: tộc trưởng Lô-tan, tộc trưởng Sô-van, tộc trưởng Xíp-ôn, tộc trưởng A-na, 30 tộc trưởng Ði-sôn, tộc trưởng Ê-xe, tộc trưởng Ði-san. Ðó là các tộc trưởng người Khô-ri theo các thị tộc của họ, ở đất Xê-ia.

Các vua Ê-đôm (1 Sb 1:43 -50)

31 Sau đây là các vua đã trị vì đất Ê-đôm trước khi có một vua trị vì con cái Ít-ra-en. 32 Vua Be-la, con ông Bơ-o, trị vì Ê-đôm; thành của vua tên là Ðin-ha-va. 33 Vua Be-la qua đời, ông Giô-váp, con ông De-rác, người thành Bót-ra, lên kế vị. 34 Vua Giô-váp qua đời, ông Khu-sam, người gốc xứ Tê-man, lên kế vị. 35 Vua Khu-sam qua đời, ông Ha-đát, con ông Bơ-đát, lên kế vị. Vua này đánh bại người Ma-đi-an trong cánh đồng Mô-áp; thành của vua tên là A-vít. 36 Vua Ha-đát qua đời, ông Xam-la, người thành Mát-rê-ca, lên kế vị. 37 Vua Xam-la qua đời, vua Sa-un, người thành Rơ-khô-vốt Ha Na-ha lên kế vị. 38 Vua Sa-un qua đời, ông Ba-an Kha-nan, con ông Ác-bo, lên kế vị. 39 Vua Ba-an Kha-nan, con ông Ác-bo, qua đời, ông Ha-đa lên kế vị; thành của vua tên là Pa-u, vợ vua tên là Mơ-hê-táp-ên, con gái ông Mát-rết, người thành Mê Da-háp.

Lại nói về các tộc trưởng Ê-đôm (1 Sb 1:51 -54)

40 Sau đây là tên các tộc trưởng phát xuất từ ông Ê-xau, theo dòng họ và địa phương của họ, theo tên của họ: tộc trưởng Tim-ma, tộc trưởng An-va, tộc trưởng Giơ-thết, 41 tộc trưởng O-ho-li-va-ma, tộc trưởng Ê-la, tộc trưởng Pi-nôn, 42 tộc trưởng Cơ-nát, tộc trưởng Tê-man, tộc trưởng Míp-xa, 43 tộc trưởng Mác-đi-ên, tộc trưởng I-ram. Ðó là các tộc trưởng Ê-đôm, theo nơi ở của họ trong đất thuộc quyền sở hữu của họ. Chính ông Ê-xau là cha của dân Ê-đôm.

Chương 37

1 Ông Gia-cóp sống trong đất mà cha của ông đã trú ngụ, là đất Ca-an-an.

IV.- Sự Tích Ông Giu-Se

Ông Giu-se và các anh

2 Sau đây là gia đình ông Gia-cóp. Giu-se được mười bảy tuổi thì đi chăn chiên dê với các anh. Khi ấy cậu còn trẻ, cậu đi với các con trai bà Bin-ha và các con trai bà Din-pa, là các bà vợ của cha cậu. Cậu mách cha tiếng đồn không hay về họ.

3 Ông Ít-ra-en yêu Giu-se hơn tất cả các con, vì ông đã già mới sinh được cậu, và ông may cho cậu một áo chùng dài tay. 4 Các anh cậu thấy cha yêu cậu hơn tất cả các anh, thì sinh lòng ghét cậu và không thể nói năng tử tế với cậu.

5 Giu-se chiêm bao, cậu thuật lại cho các anh, khiến họ càng ghét cậu thêm. 6 Cậu nói với họ: "Xin nghe em kể giấc chiêm bao của em. 7 Em thấy chúng ta đang bó những bó lúa ở giữa đồng, thì bó lúa của em vươn dậy, đứng thẳng lên, còn những bó lúa của các anh bao quanh và sụp xuống lạy bó lúa của em.” 8 Các anh bảo cậu: "Mày muốn làm vua làm chúa thống trị chúng tao sao?" Và họ càng ghét cậu thêm vì những chiêm bao và những lời nói của cậu. 9 Một lần khác cậu lại chiêm bao và kể cho các anh. Cậu nói: "Em lại chiêm bao. Em thấy mặt trời, mặt trăng và mười một ngôi sao đang sụp xuống lạy em.” 10 Cậu kể lại cho cha và các anh, nhưng cha cậu mắng cậu và nói: "Giấc chiêm bao mày đã thấy là gì? Tao, mẹ mày và các anh mày lại phải đến sụp xuống đất lạy mày sao?” 11 Các anh ghen với cậu, còn cha cậu thì ghi nhớ điều ấy.

Ông Giu-se bị các anh bán

12 Các anh cậu đã đi chăn chiên dê của cha họ ở Si-khem. 13 Ông Ít-ra-en bảo Giu-se: "Các anh con đang chăn chiên dê ở Si-khem phải không? Lại đây, cha sai con đến với các anh." Cậu thưa: "Dạ, con đây!” 14 Ông bảo cậu: "Con hãy đi xem các anh con có được yên lành không, xem chiên dê có được yên lành không, rồi đem tin về cho cha." Rồi ông sai cậu đi từ thung lũng Khép-rôn, và cậu đến Si-khem.

15 Có người gặp thấy cậu đi lang thang ngoài đồng; người đó hỏi cậu rằng: "Anh tìm gì đấy?” 16 Cậu đáp: "Tôi đang tìm các anh tôi. Xin làm ơn chỉ cho tôi biết họ đang chăn ở đâu.” 17 Người đó nói: "Họ đã lên đường đi khỏi đây, vì tôi có nghe họ nói: "Chúng ta đi Ðô-than nào!" Giu-se theo các anh và tìm thấy họ ở Ðô-than.

18 Họ thấy cậu từ xa, và trước khi cậu tới gần họ thì họ lập mưu giết chết cậu. 19 Họ bảo nhau: "Thằng tướng chiêm bao đang đến kia! 20 Bây giờ, nào ta giết và ném nó xuống một cái giếng. Ta sẽ nói là một thú dữ đã ăn thịt nó. Rồi ta sẽ thấy các chiêm bao của nó đi tới đâu!"

21 Nghe thấy thế, Rưu-vên tìm cách cứu em khỏi tay họ; cậu nói: "Ta đừng đụng tới mạng sống nó.” 22 Rưu-vên bảo họ: "Ðừng đổ máu! Cứ ném nó xuống cái giếng kia trong sa mạc, nhưng đừng giơ tay hại nó." Cậu có ý cứu em khỏi tay họ và đưa về cho cha. 23 Vậy khi Giu-se đến chỗ các anh, thì họ lột áo chùng của cậu, chiếc áo chùng dài tay cậu đang mặc. 24 Họ túm lấy cậu và ném xuống cái giếng; giếng đó cạn, không có nước. 25 Rồi họ ngồi xuống dùng bữa.

26 Giu-đa nói với các anh em: "Ta giết em và phủ lấp máu nó, nào có ích lợi gì? 27 Thôi, ta hãy bán nó cho người Ít-ma-ên, nhưng đừng động tay tới nó, vì nó là em ta, là ruột thịt của ta." Các anh em nghe cậu.

28 Những lái buôn người Ma-đi-an đi qua đó kéo Giu-se lên khỏi giếng, rồi bán cậu cho người Ít-ma-ên hai mươi đồng bạc. Những người này đưa Giu-se sang Ai-cập. 29 Khi Rưu-vên trở lại giếng thì thấy Giu-se không còn ở dưới giếng nữa. Cậu liền xé áo mình ra. 30 Cậu đến nói với các em: "Thằng bé không còn nữa! Còn tôi, tôi biết đi đâu bây giờ!"

31 Họ lấy áo chùng của Giu-se, giết một con dê đực, rồi nhúng áo chùng vào máu. 32 Họ gửi người mang cái áo chùng dài tay về cho cha họ và nói: "Chúng con đã thấy cái này. Xin cha nhận ra xem có phải là áo của con cha hay không.” 33 Ông nhận ra cái áo và kêu lên: "Áo chùng của con tôi đây! Thú dữ đã ăn thịt nó! Giu-se đã bị xé xác rồi!” 34 Ông Gia-cóp xé áo mình ra, quấn áo vải thô ngang lưng và để tang Giu-se lâu ngày. 35 Tất cả các con trai con gái ông đến an ủi ông, nhưng ông không chịu cho người ta an ủi; ông nói: "Cha sẽ để tang mà xuống với con cha ở âm phủ." Và cha cậu khóc thương cậu.

36 Người Ma-đi-an đem bán cậu tại Ai-cập cho ông Pô-ti-pha là thái giám của Pha-ra-ô và là chỉ huy thị vệ.

Chương 38

Ông Giu-đa và bà Ta-ma

1 Thời ấy, ông Giu-đa rời bỏ anh em, xuống thăm một người thành A-đu-lam tên là Khi-ra. 2 Tại đó ông Giu-đa thấy con gái một người Ca-na-an, tên ông này là Su-a. Ông lấy nàng và ăn ở với nàng. 3 Nàng có thai, sinh con trai, và ông đặt tên cho nó là Er. 4 Nàng lại có thai, sinh con trai, và ông đặt tên cho nó là Ô-nan. 5 Một lần nữa, nàng lại sinh con trai, và ông đặt tên cho nó là Sê-la. Ông đang ở Cơ-díp khi nàng sinh nó.

6 Ông Giu-đa cưới cho Er, con trai đầu lòng của ông, một người vợ tên là Ta-ma. 7 Er, con đầu lòng ông Giu-đa, làm mất lòng Ðức Chúa, nên Ðức Chúa khiến cậu chết. 8 Ông Giu-đa bảo Ô-nan: "Con hãy ăn ở với chị dâu con, hãy chu toàn nhiệm vụ của một người em chồng, và làm cho anh con có người nối dõi.” 9 Ô-nan biết rằng dòng dõi sinh ra sẽ không phải là của mình, nên khi ăn ở với chị dâu, thì cậu lại cho tinh rơi xuống đất, để không cho anh cậu có người nối dõi. 10 Hành động của cậu không đẹp lòng Ðức Chúa, nên Người cũng khiến cậu chết. 11 Ông Giu-đa nói với Ta-ma, con dâu ông: "Con cứ ở goá bên nhà cha con, chờ khi Sê-la, con cha, lớn đã." Thật vậy, ông tự nhủ: "Lỡ ra cả thằng này nữa cũng phải chết như các anh nó!" Vậy Ta-ma về ở bên nhà cha mình.

12 Ngày tháng trôi qua, người con gái ông Su-a, là vợ ông Giu-đa, qua đời. Mãn tang vợ, ông Giu-đa, cùng với bạn là ông Khi-ra, người A-đu-lam, lên Tim-na gặp các thợ xén lông chiên của ông. 13 Người ta báo cho Ta-ma hay rằng: "Này, cha chồng của chị đang lên Tim-na xén lông chiên của ông ấy!” 14 Nàng liền bỏ áo bà goá, lấy khăn trùm lên, phủ kín mình, rồi ngồi ở lối vào Ê-na-gim, một thành nằm trên đường đi Tim-na. Nàng làm thế vì thấy rằng Sê-la đã lớn mà người ta không cho nàng làm vợ cậu.

15 Ông Giu-đa trông thấy nàng, tưởng là một gái điếm, vì nàng đã che mặt. 16 Ông rẽ qua phía nàng bên lề đường và nói: "Cho tôi đến với cô." Ông không biết nàng là con dâu ông. Nàng hỏi: "Ông cho em gì để đến với em?” 17 Ông đáp: "Tôi sẽ bắt một con dê con trong đàn gửi đến cho cô." Nàng lại nói: "Vậy xin ông cho em một vật làm tin, cho tới khi ông gửi đến.” 18 Ông hỏi: "Tôi phải cho cô vật gì làm tin?" Nàng đáp: "Chiếc ấn của ông, sợi dây đeo ấn và cây gậy ông cầm ở tay." Ông đưa cho nàng những thứ đó, rồi đến với nàng, và nàng có thai với ông. 19 Nàng đứng lên, đi khỏi, bỏ khăn trùm và mặc lại áo bà goá.

20 Ông Giu-đa nhờ người bạn ở A-đu-lam mang dê con đến, để lấy lại vật làm tin từ tay người đàn bà, nhưng ông này không tìm thấy nàng. 21 Ông này hỏi người địa phương: "Cô điếm thần ở Ê-na-gim, vẫn ngồi trên đường, đâu rồi?" Họ đã trả lời: "Ở đây chẳng hề có điếm thần.” 22 Ông về nói với ông Giu-đa: "Tôi không tìm thấy cô ta. Người địa phương còn nói là ở đấy chẳng hề có điếm thần.” 23 Ông Giu-đa nói: "Cô ta cứ việc giữ những thứ ấy! Miễn sao chúng ta đừng bị chê cười. Tôi quả đã gửi con dê con này, còn anh lại không tìm thấy cô ấy!"

24 Khoảng ba tháng sau, người ta báo cho ông Giu-đa rằng: "Ta-ma, con dâu ông, đã đi làm điếm; nó còn có thai vì làm điếm nữa!" Ông Giu-đa nói: "Lôi nó ra mà thiêu sống!” 25 Khi bị lôi ra, nàng nhờ người nói với cha chồng rằng: "Chính chủ những vật này đã làm cho con có thai!" Nàng còn nói: "Xin cha nhận ra xem chiếc ấn, sợi dây đeo ấn và cây gậy này là của ai.” 26 Ông Giu-đa nhận ra và nói: "Nó công chính hơn tôi. Quả thực tôi đã không cho nó làm vợ Sê-la, con trai tôi." Rồi ông không ăn ở với nàng nữa.

27 Ðến ngày sinh, nàng sinh đôi. 28 Khi nàng sinh thì một đứa thò tay ra, bà đỡ cầm lấy tay, buộc sợi chỉ đỏ vào và nói: "Ðứa này ra trước.” 29 Rồi nó rụt tay vào, và đứa kia ra. Bà đỡ nói: "Thật mày đã xé rào!" Người ta bèn đặt tên cho nó là Pe-rét. 30 Sau đó, đứa trước mới ra, có sợi chỉ đỏ ở tay; người ta đặt tên cho nó là De-rác.

Chương 39

Thời đầu của ông Giu-se bên Ai-cập

1 Giu-se bị đưa xuống Ai-cập. Ông Pô-ti-pha thái giám của Pha-ra-ô và chỉ huy thị vệ, một người Ai-cập, đã mua cậu từ tay người Ít-ma-ên là những người đã đưa cậu xuống đó. 2 Ðức Chúa ở với Giu-se và cậu là một con người thành công; cậu ở trong nhà chủ cậu, người Ai-cập. 3 Chủ cậu thấy rằng Ðức Chúa ở với cậu và mọi việc cậu làm thì Ðức Chúa cho thành công. 4 Giu-se được đẹp lòng chủ, cậu là người phụ tá cho ông. Ông đặt cậu làm quản gia và giao phó cho cậu mọi tài sản của ông. 5 Từ khi ông đặt cậu làm quản gia coi sóc mọi tài sản của ông, thì vì Giu-se, Ðức Chúa chúc phúc cho nhà người Ai-cập; phúc lành của Ðức Chúa xuống trên mọi tài sản của ông, trong nhà cũng như ngoài đồng. 6 Tài sản của ông, ông phó mặc tất cả trong tay Giu-se, và có Giu-se thì ông không còn lo gì cả, chỉ biết đến bữa là ăn.

Giu-se lại có duyên và đẹp trai.

Ông Giu-se bị quyến rũ

7 Sau các việc đó, bà vợ ông chủ để mắt tới Giu-se; bà nói với cậu: "Nằm với tôi đi!"

8 Nhưng cậu từ chối và nói với bà vợ ông chủ: "Bà coi, có tôi thì ông chủ tôi không còn phải lo gì đến việc nhà. Tài sản của ông, ông đã giao phó tất cả trong tay tôi. 9 Trong nhà này, chính ông cũng không lớn hơn tôi, và ông không giữ lại thứ gì mà không trao cho tôi, trừ bà ra, vì bà là vợ ông. Vậy sao tôi có thể làm điều ác tày đình như thế và phạm đến Thiên Chúa?” 10 Ngày ngày bà cứ nói với Giu-se, nhưng cậu không chịu nghe mà nằm cạnh bà để ngủ với bà.

11 Một ngày kia, cậu vào trong nhà để làm phận sự và không có gia nhân nào trong nhà, 12 thì bà níu áo cậu mà nói: "Nằm với tôi đi!" Cậu bỏ áo lại trong tay bà, chạy trốn và ra ngoài. 13 Khi bà thấy rằng cậu đã bỏ áo lại trong tay bà và chạy trốn ra ngoài, 14 thì bà gọi người nhà và nói với họ: "Các người xem đấy: người ta đã đưa về cho chúng ta một tên Híp-ri để đú đởn với chúng ta. Hắn đã đến với tôi để nằm với tôi, nhưng tôi đã lớn tiếng kêu. 15 Khi nghe tôi cất tiếng kêu, thì hắn bỏ áo lại bên cạnh tôi, chạy trốn và ra ngoài."

16 Bà để áo cậu bên cạnh mình cho đến khi ông chủ của cậu về nhà. 17 Bà cũng dùng những lời lẽ như trên và nói với ông: "Tên nô lệ Híp-ri ông đã đưa về cho chúng ta, đã đến với tôi để đú đởn với tôi. 18 Khi tôi cất tiếng kêu, thì hắn bỏ áo lại bên cạnh tôi và chạy trốn ra ngoài.” 19 Khi ông chủ của cậu nghe những lời bà vợ nói với ông: "Tên nô lệ của ông đối xử với tôi như thế đó!" thì ông đùng đùng nổi giận. 20 Ông chủ của Giu-se bắt cậu và tống vào nhà tù, nơi các tù nhân của nhà vua bị giam giữ.

Ông Giu-se trong tù

21 Nhưng có Ðức Chúa ở với ông. Người tỏ lòng yêu thương ông và cho ông được cảm tình của viên quản đốc nhà tù. 22 Viên quản đốc nhà tù giao phó cho Giu-se hết mọi tù nhân trong nhà tù, và tất cả những gì họ làm, đều do cậu cho làm. 23 Viên quản đốc nhà tù chẳng ngó ngàng chi đến tất cả những việc đã giao phó cho Giu-se, vì Ðức Chúa ở với cậu, và điều gì cậu làm, thì Ðức Chúa cho thành công.

Chương 40

Ông Giu-se giải mộng cho các quan của Pha-ra-ô

1 Sau các việc đó, quan chước tửu và quan ngự thiện của vua Ai-cập lỗi phạm cùng chủ mình là vua Ai-cập. 2 Nhà vua nổi giận với hai viên thái giám của mình, là quan chánh chước tửu và quan chánh ngự thiện. 3 Vua cho giam họ trong nhà viên chỉ huy thị vệ, trong nhà tù nơi Giu-se đang bị giữ. 4 Viên chỉ huy thị vệ cắt đặt Giu-se ở với họ và phục vụ họ. Họ bị giam giữ một thời gian. 5 Cả hai người, quan chước tửu và quan ngự thiện của vua Ai-cập đang bị giam giữ tại nhà tù, đều cùng chiêm bao trong một đêm; mỗi người có giấc chiêm bao riêng, và mỗi giấc chiêm bao có một ý nghĩa khác. 6 Sáng ngày ra, Giu-se đến với họ và thấy họ ủ rũ. 7 Cậu hỏi hai viên thái giám của Pha-ra-ô đang bị giam giữ tại nhà của chủ cậu rằng: "Tại sao hôm nay mặt mày các ông buồn bã thế?” 8 Họ trả lời cậu: "Chúng tôi đã chiêm bao, mà không có ai giải thích cả!" Giu-se nói với họ: "Giải thích chẳng phải là việc của Thiên Chúa sao? Nhưng xin hai ông cứ kể lại cho tôi.” 9 Quan chánh chước tửu kể lại giấc chiêm bao của mình cho Giu-se, ông nói: "Trong giấc chiêm bao, tôi thấy trước mặt tôi có một cây nho, 10 trên cây nho có ba ngành. Khi cây đâm chồi thì hoa nở ra và các chùm nho chín. 11 Trong tay tôi có chén của Pha-ra-ô. Tôi hái nho, ép nước đổ vào chén của Pha-ra-ô, rồi đặt chén vào lòng bàn tay Pha-ra-ô.” 12 Giu-se nói với ông ấy: "Ðây là lời giải thích giấc chiêm bao. Ba ngành là ba ngày. 13 Còn ba ngày nữa, Pha-ra-ô sẽ nâng đầu ông lên. Vua sẽ phục hồi chức vụ cho ông, và ông sẽ đặt chén của Pha-ra-ô vào tay vua, như ông quen làm trước đây, khi còn là quan chước tửu của vua. 14 Nhưng nếu ông nhớ tôi đã ở với ông, thì khi người ta xử tốt với ông, xin ông tỏ tình thương đối với tôi và tâu với Pha-ra-ô về tôi, để vua đưa tôi ra khỏi nhà này. 15 Thật vậy, tôi đã bị bắt cóc đưa ra khỏi đất người Híp-ri, và ngay ở đây, tôi cũng không làm gì để người ta giam tôi trong hầm."

16 Quan chánh ngự thiện thấy Giu-se đã giải thích theo chiều hướng thuận lợi, nên nói với ông: "Cả tôi nữa, trong giấc chiêm bao, tôi thấy ba giỏ bánh trên đầu tôi. 17 Trong giỏ trên cùng, có đủ thứ bánh ngọt để cho Pha-ra-ô ăn. Chim chóc rỉa những thứ đó trong cái giỏ trên đầu tôi.” 18 Giu-se trả lời rằng: "Ðây là lời giải thích giấc chiêm bao. Ba giỏ là ba ngày. 19 Còn ba ngày nữa, Pha-ra-ô sẽ nâng đầu ông lên khỏi thân ông. Vua sẽ treo ông lên cây, và chim chóc sẽ rỉa thịt ông."

20 Sang ngày thứ ba, là ngày sinh nhật của Pha-ra-ô, vua mở tiệc thết đãi triều thần và nâng đầu quan chánh chước tửu và quan chánh ngự thiện lên giữa triều thần. 21 Vua phục hồi chức vụ cho quan chánh chước tửu, và ông đặt chén vào lòng bàn tay Pha-ra-ô. 22 Còn quan chánh ngự thiện, thì vua treo lên, như Giu-se đã giải thích cho họ. 23 Nhưng quan chánh chước tửu không nhớ đến Giu-se, ông đã quên mất cậu.

Chương 41

Các giấc chiêm bao của Pha-ra-ô

1 Hai năm sau, Pha-ra-ô chiêm bao. Vua thấy mình đang đứng trên bờ sông Nin, 2 và từ sông Nin có bảy con bò cái đi lên, hình dáng đẹp đẽ và da thịt béo tốt; chúng gặm cỏ trong đám sậy. 3 Rồi sau những con ấy, có bảy con bò cái khác từ sông Nin đi lên, hình dáng xấu xí và da thịt gầy còm, chúng đứng bên cạnh những con bò kia, trên bờ sông Nin. 4 Bảy con bò cái hình dáng xấu xí và da thịt gầy còm ăn thịt bảy con bò cái hình dáng đẹp đẽ và béo tốt. Bấy giờ Pha-ra-ô tỉnh dậy.

5 Vua ngủ lại và chiêm bao một lần thứ hai; vua thấy bảy bông lúa đâm lên trên cùng một cọng, mẩy và tốt. 6 Rồi có bảy bông lúa lép và nám cháy vì gió đông, mọc lên sau chúng. 7 Bảy bông lúa lép nuốt chửng bảy bông lúa mẩy và chắc. Bấy giờ Pha-ra-ô tỉnh dậy, thì thấy rằng đó là một giấc chiêm bao!

8 Sáng ngày ra, tâm thần vua xao xuyến, vua vời tất cả các phù thủy và hiền sĩ Ai-cập đến: Pha-ra-ô kể lại cho họ các giấc chiêm bao của mình, nhưng không có ai giải thích được cho vua. 9 Bấy giờ quan chánh chước tửu mới thưa Pha-ra-ô rằng: "Hôm nay tôi xin nhắc lại những lầm lỗi của tôi. 10 Pha-ra-ô đã nổi giận với bề tôi mình và cho giam tôi trong nhà viên chỉ huy thị vệ, tôi và quan chánh ngự thiện. 11 Tôi và ông ấy, chúng tôi chiêm bao trong cùng một đêm; chúng tôi chiêm bao, và mỗi giấc chiêm bao có một ý nghĩa khác. 12 Cùng ở với chúng tôi có một thanh niên Híp-ri, nô lệ của viên chỉ huy thị vệ. Chúng tôi đã kể lại cho anh ta, và anh ta đã giải thích cho chúng tôi các chiêm bao của chúng tôi; anh ta giải thích chiêm bao của mỗi người. 13 Sự việc đã xảy ra như anh ta đã giải thích cho chúng tôi: tôi thì được phục hồi chức vụ, còn ông kia thì bị treo cổ."

14 Pha-ra-ô vời ông Giu-se đến. Người ta vội đưa cậu ra khỏi hầm. Cậu cạo râu cắt tóc, thay quần áo và vào chầu Pha-ra-ô. 15 Pha-ra-ô nói với Giu-se: "Ta đã chiêm bao mà không ai có thể giải thích. Ta đã nghe nói rằng ngươi chỉ cần nghe kể lại chiêm bao là giải thích được.” 16 Giu-se thưa Pha-ra-ô rằng: "Không phải tôi, mà là Thiên Chúa sẽ cho câu trả lời đem lại bình an cho Pha-ra-ô."

17 Pha-ra-ô nói với Giu-se: "Trong chiêm bao của ta, ta thấy mình đang đứng trên bờ sông Nin. 18 Từ sông có bảy con bò cái đi lên, da thịt béo tốt, thân hình đẹp đẽ; chúng gặm cỏ trong đám sậy. 19 Rồi sau những con ấy, có bảy con bò cái khác đi lên, gầy guộc, thân hình rất xấu xí, da thịt ốm nhom; ta chưa thấy bò nào xấu như chúng trong toàn cõi Ai-cập. 20 Các con bò cái ốm nhom và xấu xí ăn thịt bảy con bò cái trước, những con béo tốt. 21 Các con béo tốt vào bụng các con ốm nhom, mà người ta không biết rằng chúng đã vào bụng các con ốm nhom, vì hình dáng các con này vẫn xấu xí như trước. Bấy giờ ta tỉnh dậy. 22 Ta lại thấy trong chiêm bao của ta có bảy bông lúa đâm lên trên cùng một cọng, chắc và tốt. 23 Rồi có bảy bông lúa đẹt, lép và nám cháy vì gió đông, mọc lên sau chúng. 24 Bảy bông lúa lép nuốt chửng bảy bông lúa tốt. Ta đã nói cho các phù thuỷ, nhưng không ai có thể cắt nghĩa cho ta."

25 Giu-se thưa Pha-ra-ô: "Giấc chiêm bao của Pha-ra-ô chỉ là một. Ðiều Thiên Chúa sắp làm thì Người đã báo cho Pha-ra-ô biết. 26 Bảy con bò cái tốt là bảy năm, bảy bông lúa tốt là bảy năm: đó là một chiêm bao duy nhất. 27 Bảy con bò cái ốm nhom và xấu xí đi lên sau chúng là bảy năm, và bảy bông lúa còi và nám cháy vì gió đông là bảy năm đói kém. 28 Ðó là điều tôi đã thưa với Pha-ra-ô: "Ðiều Thiên Chúa sắp làm thì Người đã cho Pha-ra-ô thấy.” 29 Sắp tới là bảy năm rất sung túc trong toàn cõi Ai-cập. 30 Tiếp sau những năm đó là bảy năm đói kém; trong xứ Ai-cập người ta sẽ quên đi tất cả sự sung túc, và nạn đói sẽ làm cho xứ kiệt quệ. 31 Trong xứ người ta sẽ không còn biết sự sung túc là gì, do nạn đói tiếp theo đó, một nạn đói trầm trọng. 32 Giấc chiêm bao của Pha-ra-ô được lặp lại hai lần, nghĩa là sự việc đã được Thiên Chúa quyết định và Thiên Chúa sẽ mau thực hiện.

33 Vậy bây giờ xin Pha-ra-ô xem có người nào thông minh và khôn ngoan, thì đặt người ấy cai quản xứ Ai-cập. 34 Xin Pha-ra-ô hành động và đặt những quản đốc lo việc trong xứ, và vua sẽ đánh thuế một phần năm trên thóc lúa xứ Ai-cập trong bảy năm sung túc. 35 Họ sẽ thu mọi lương thực của những năm được mùa sắp tới này. Họ sẽ chất chứa lúa mì làm lương thực trong các thành, và sẽ giữ lại, để Pha-ra-ô tuỳ quyền sử dụng. 36 Số lương thực ấy sẽ là dự trữ trong xứ, phòng bảy năm đói kém sẽ xảy đến trong xứ Ai-cập, và xứ sẽ không bị huỷ diệt vì nạn đói."

Ông Giu-se làm quan

37 Lời đó vừa lòng Pha-ra-ô và triều thần. 38 Vua nói với triều thần: "Chúng ta tìm đâu được một người như người này, một người có Thần Khí Thiên Chúa?” 39 Pha-ra-ô nói với ông Giu-se: "Sau khi Thiên Chúa đã cho ông biết tất cả những điều ấy, không ai thông minh và khôn ngoan như ông. 40 Ông sẽ là tể tướng triều đình của ta, toàn thể dân ta sẽ phục tùng mệnh lệnh của ông; ta lớn hơn ông chỉ vì ngai vua mà thôi.” 41 Pha-ra-ô nói với ông Giu-se: "Coi đây, ta đặt ông cai quản toàn cõi Ai-cập.” 42 Pha-ra-ô rút nhẫn ra khỏi tay mình và xỏ vào tay ông Giu-se, mặc cho ông y phục vải gai mịn, và đeo vào cổ ông chiếc vòng vàng. 43 Vua cho ông lên xa giá thứ hai của vua, và người ta hô trước mặt ông: "Quỳ xuống!" Như vậy, vua đặt ông cai quản toàn cõi Ai-cập.

44 Pha-ra-ô nói với ông Giu-se: "Ta là Pha-ra-ô. Không có lệnh của ông, không ai được cử động tay chân trong toàn cõi Ai-cập.” 45 Pha-ra-ô đặt tên cho ông Giu-se là Xóp-nát Pa-nê-ác và gả cô Át-nát cho ông, cô là con gái ông Pô-ti Phê-ra, tư tế thành Ôn. Ông Giu-se đi kinh lý xứ Ai-cập.

46 Ông Giu-se được ba mươi tuổi khi ra trình diện Pha-ra-ô, vua Ai-cập. Ông cáo biệt Pha-ra-ô và rảo qua khắp xứ Ai-cập. 47 Trong bảy năm sung túc, đất đã sinh ra mùa màng dư dật. 48 Ông thu tất cả lương thực của bảy năm liên tiếp trong xứ Ai-cập và chứa trong các thành; ông chứa trong mỗi thành lương thực sản xuất trong đồng ruộng chung quanh thành đó. 49 Ông Giu-se chất chứa lúa mì rất nhiều, như cát biển, đến mức ông thôi không đong lường nữa, vì không thể đong lường được.

Các con ông Giu-se

50 Ông Giu-se được hai con trai sinh ra trước năm đói; đó là hai người con mà bà Át-nát, con gái ông Pô-ti Phê-ra, tư tế thành Ôn, đã sinh cho ông. 51 Ông Giu-se đặt tên cho con đầu lòng là Mơ-na-se, ông nói: "Vì Thiên Chúa đã làm cho tôi quên đi mọi gian khổ của tôi và tất cả nhà cha tôi.” 52 Ông đặt tên cho con thứ hai là Ép-ra-im, ông nói: "Vì Thiên Chúa đã cho tôi sinh sôi nảy nở trong xứ tôi phải chịu khổ cực."

53 Khi bảy năm sung túc tại xứ Ai-cập chấm dứt, 54 thì bảy năm đói kém bắt đầu, như ông Giu-se đã nói. Mọi xứ khác đều bị đói kém, nhưng trong toàn xứ Ai-cập thì có bánh ăn. 55 Rồi toàn xứ Ai-cập bị đói và dân chúng kêu lên Pha-ra-ô xin bánh ăn. Pha-ra-ô nói với mọi người Ai-cập: "Cứ đến với ông Giu-se; ông bảo gì, các ngươi hãy làm theo.” 56 Khắp nơi trong xứ bị đói kém. Ông Giu-se mở hết các kho lúa mì và bán cho người Ai-cập. Nạn đói hoành hành trong đất Ai-cập. 57 Từ mọi xứ, người ta đến Ai-cập để mua lúa mì của ông Giu-se, vì nạn đói hoành hành trên khắp mặt đất."

Chương 42

Ông Giu-se gặp các anh lần đầu tiên

1 Ông Gia-cóp thấy bên Ai-cập có lúa bán, liền nói với các con trai: "Sao các con cứ ngồi nhìn nhau?” 2 Rồi ông nói: "Cha nghe nói bên Ai-cập có lúa bán; các con hãy xuống đó mua lúa về, để chúng ta sống chứ không phải chết.” 3 Mười người anh ông Giu-se bèn xuống mua lúa mì ở Ai-cập. 4 Nhưng Ben-gia-min, em của ông Giu-se, thì ông Gia-cóp không sai đi với các anh, vì ông nói: "Lỡ ra nó gặp tai hoạ."

5 Giữa đám người đến mua lúa, cũng có mặt các con ông Ít-ra-en, vì đất Ca-na-an bị đói kém. 6 Ông Giu-se bấy giờ có toàn quyền trong xứ, và ông bán lúa cho toàn dân trong xứ. Các anh ông Giu-se đến và cúi sấp mặt xuống đất lạy ông. 7 Vừa nhìn thấy các anh mình, ông Giu-se nhận ra họ, nhưng làm như người xa lạ đối với họ, và nói với họ cách cứng cỏi. Ông hỏi họ: "Các người từ đâu đến?" Họ đáp: "Thưa từ đất Ca-na-an, để mua lương thực."

8 Ông Giu-se nhận ra các anh, nhưng họ không nhận ra ông. 9 Ông Giu-se nhớ lại những giấc chiêm bao của ông liên quan đến họ, nên nói với họ: "Các người là bọn do thám. Các người đến để dò xét những chỗ sơ hở của xứ này.” 10 Họ nói: "Thưa ngài, không phải đâu! Các tôi tớ ngài đến để mua lương thực. 11 Chúng tôi đều là con cùng một cha, chúng tôi là người lương thiện; các tôi tớ ngài không phải là bọn do thám.” 12 Ông nói với họ: "Không! Các người đến để dò xét những chỗ sơ hở của xứ này.” 13 Họ nói: "Các tôi tớ ngài là mười hai anh em, chúng tôi là con cùng một cha, ở đất Ca-na-an. Ðứa út hiện đang ở với cha chúng tôi, còn một đứa thì không còn nữa.” 14 Ông Giu-se bảo họ: "Ðúng như ta đã nói với các người: các người là bọn do thám! 15 Ta sẽ thử thách các người như thế này: Ta lấy mạng sống Pha-ra-ô mà thề rằng: các người sẽ không được ra khỏi đây, trước khi đứa em út của các người đến. 16 Hãy cho một anh em về tìm đứa em, còn các người thì phải ở tù. Ta sẽ thử xem lời các người nói có đúng sự thật hay không. Bằng không, ta lấy mạng sống Pha-ra-ô mà thề rằng: các người là bọn do thám.” 17 Rồi ông giam giữ họ ba ngày.

18 Ðến ngày thứ ba, ông Giu-se bảo họ: "Các người muốn sống thì hãy làm thế này, vì ta kính sợ Thiên Chúa. 19 Nếu các người là những kẻ lương thiện, thì một anh em cứ phải chịu giam trong nhà tù này, còn các người khác thì hãy ra đi, đem lúa về cho gia đình khỏi đói. 20 Rồi các người hãy đem đứa em út đến cho ta. Bấy giờ sẽ rõ là các người nói đúng, và các người sẽ không phải chết." Họ đã làm như vậy. 21 Họ bảo nhau: "Than ôi! Chúng ta có lỗi với em chúng ta: chúng ta đã thấy nó phải ngặt nghèo. Nó đã năn nỉ chúng ta, nhưng chúng ta chẳng nghe. Chính vì thế mà chúng ta gặp cảnh ngặt nghèo này.” 22 Ông Rưu-vên trả lời họ rằng: "Tôi đã chẳng bảo các chú thế này sao: "Ðừng phạm tội hại đến thằng bé!" nhưng các chú đã không chịu nghe. Bây giờ thì phải đền nợ máu nó!” 23 Họ không biết rằng ông Giu-se hiểu được, vì giữa ông và họ có người phiên dịch. 24 Bấy giờ ông lánh ra chỗ khác mà khóc, sau đó mới trở lại nói chuyện với họ. Trong số họ, ông bắt ông Si-mê-ôn và cho trói trước mặt họ.

Các con ông Gia-cóp trở về xứ Ca-na-an

25 Rồi ông Giu-se truyền đổ đầy lúa mì vào bao bị của họ, và truyền trả lại bạc: của ai thì để vào bao người ấy, đồng thời cho họ lương thực ăn đường. Ông đã xử sự với họ như thế. 26 Họ chất lúa của mình lên lưng lừa và đi khỏi đó. 27 Tại nơi họ dừng lại nghỉ đêm, một người trong bọn họ mở bao của mình để cho lừa ăn, thì thấy bạc của mình: bạc ấy ở miệng bao lúa mì. 28 Người ấy nói với anh em mình: "Người ta đã trả lại bạc của tôi! Nó ở trong bao lúa mì của tôi đây này!" Họ hết hồn hết vía, kinh hoàng nói với nhau: "Thiên Chúa làm gì cho chúng ta thế này!"

29 Khi trở về với ông Gia-cóp, cha họ, ở đất Ca-na-an, họ thuật lại cho ông mọi việc đã xảy đến với họ; họ nói: 30 "Ông chúa xứ ấy đã ăn nói với chúng con cách cứng cỏi, và coi chúng con là bọn người đến do thám xứ ấy. 31 Chúng con nói với ông ta: "Chúng tôi là người lương thiện, không phải là bọn do thám. 32 Chúng tôi là mười hai anh em, con cùng một cha. Một đứa không còn nữa, đứa út thì hiện đang ở với cha chúng tôi tại đất Ca-na-an.” 33 Nhưng ông chúa xứ ấy bảo chúng con: "Căn cứ vào điều này, ta sẽ biết các người là những kẻ lương thiện: các người hãy để một anh em ở lại với ta, hãy lãnh phần lương thực cứu đói cho gia đình và ra đi. 34 Các người hãy đem đứa em út đến cho ta; như vậy ta sẽ biết các người không phải là bọn do thám, nhưng là người lương thiện. Ta sẽ trả lại người anh em kia, và các người sẽ có thể đi lại mua bán trong xứ."

35 Khi họ đổ bao ra, thì mỗi người thấy trong bao có túi bạc của mình. Thấy những túi bạc, họ và cha họ phát sợ. 36 Ông Gia-cóp, cha họ, bảo: "Chúng mày cướp con tao! Giu-se không còn nữa, Si-mê-ôn không còn nữa, mà Ben-gia-min, chúng mày cũng muốn bắt đem đi! Mọi chuyện đổ lên đầu tao!” 37 Ông Rưu-vên nói với cha: "Cha cứ giết hai đứa con trai của con đi, nếu con không đưa em về cho cha! Cha cứ giao em cho con, và chính con sẽ đem nó về cho cha.” 38 Nhưng ông đáp: "Con tao sẽ không xuống đó với chúng mày, vì anh nó đã chết, chỉ còn lại một mình nó thôi. Nó mà gặp tai hoạ trong chuyến đi chúng mày sắp thực hiện, thì chúng mày sẽ làm cho kẻ bạc đầu này phải buồn sầu mà xuống âm phủ."

Chương 43

Các con ông Gia-cóp đem Ben-gia-min đi theo

1 Nạn đói trong xứ trở nên trầm trọng. 2 Khi họ ăn hết lúa đưa từ Ai-cập về, thì cha họ bảo: "Hãy trở lại mua ít lương thực về.” 3 Ông Giu-đa thưa với cha: "Ông ấy đã tuyên bố rõ với chúng con: "Các người sẽ không được gặp mặt ta, nếu em các người không cùng đến với các người.” 4 Nếu cha sai em đi với chúng con, thì chúng con mới xuống mua lương thực cho cha được; 5 còn nếu cha không sai nó đi, thì chúng con sẽ không xuống, vì ông ấy đã bảo chúng con: "Các người sẽ không được gặp mặt ta, nếu em các người không cùng đến với các người.” 6 Ông Ít-ra-en nói: "Sao các con lại làm hại cha mà đi khai với ông ấy rằng các con còn một đứa em?” 7 Họ trả lời: "Ông ấy hỏi đi hỏi lại về chúng con và họ hàng chúng con; ông ấy nói: "Cha các người còn sống không? Các người có em không?" Chúng con cứ theo các câu hỏi ấy mà khai với ông ta. Có ngờ đâu là ông ấy sẽ bảo chúng con: "Ðưa em các người xuống đây!” 8 Ông Giu-đa thưa với ông Ít-ra-en, cha mình: "Xin cha sai thằng bé đi với con; chúng con sẽ chỗi dậy lên đường, và chúng ta sẽ sống chứ không chết cả đám, cha cũng như chúng con và lũ trẻ. 9 Chính con xin bảo lãnh cho nó; cha cứ bắt con chịu trách nhiệm; nếu con không đưa nó về cho cha và đặt nó trước mặt cha, thì con sẽ đắc tội với cha suốt đời. 10 Giả như không chần chừ thế này, thì bây giờ chúng con đã đi được hai chuyến rồi!"

11 Ông Ít-ra-en, cha họ, bảo: "Nếu vậy thì các con cứ làm thế này: hãy đem trong bao bị một số đặc sản địa phương và đưa xuống làm quà cho ông ấy: ít nhũ hương, ít mật ong, nhựa thơm và mộc dược, đào lạc và hạnh nhân. 12 Hãy đem theo số bạc gấp đôi, vì chúng con phải giao lại số bạc mà có khi vì lầm lẫn người ta đã đặt lại vào miệng bao. 13 Hãy đưa em các con đi theo và lên đường trở lại với ông ấy. 14 Xin Thiên Chúa toàn năng làm cho ông ấy chạnh lòng thương các con, mà để cho người anh em kia và Ben-gia-min cùng về với các con. Còn cha, nếu phải mất con, thì cha đành chịu mất vậy!"

Cuộc gặp gỡ tại nhà ông Giu-se

15 Những người này lấy những món quà đó, mang theo số bạc gấp đôi, và đem Ben-gia-min theo. Họ đứng lên, xuống Ai-cập và vào trình diện ông Giu-se. 16 Khi ông Giu-se thấy Ben-gia-min cùng đến với họ, thì nói với người quản gia của ông: "Anh đưa những người này về nhà, giết một con vật, và làm các món ăn, vì những người này sẽ dùng bữa với tôi trưa nay.” 17 Người này làm như ông Giu-se truyền, ông ta đưa họ về nhà ông Giu-se.

18 Họ sợ hãi khi bị đưa về nhà ông Giu-se, họ nói: "Chúng ta bị đưa đi vì chuyện số bạc đã được trả lại trong bao lúa của chúng ta lần trước. Người ta sắp xông tới, nhảy bổ vào chúng ta, bắt chúng ta làm nô lệ, và lấy lừa của chúng ta.” 19 Họ lại gần người quản gia của ông Giu-se và nói với ông ở lối vào nhà: 20 "Thưa ngài, xin xá lỗi, lần trước chúng tôi đã xuống mua lương thực. 21 Nhưng khi chúng tôi tới nơi dừng lại nghỉ đêm và mở các bao lúa của chúng tôi, thì mỗi người thấy số bạc của mình ở miệng bao lúa của mình, chính số bạc chúng tôi đã cân; chúng tôi lại đem đến đây. 22 Chúng tôi cũng đem theo số bạc khác xuống để mua lương thực. Chúng tôi không biết ai đã để số bạc của chúng tôi vào bao lúa chúng tôi.” 23 Người quản gia nói: "Các ông cứ an tâm, đừng sợ. Chính Thiên Chúa của các ông, Thiên Chúa của cha các ông, đã đặt cho các ông một kho tàng trong các bao lúa của các ông. Số bạc của các ông đã đến tay tôi rồi." Sau đó ông dẫn ông Si-mê-ôn ra cho họ.

24 Ông đưa họ vào nhà ông Giu-se, đem nước cho họ rửa chân và lấy cỏ cho lừa của họ ăn. 25 Họ bày quà ra, trong khi chờ ông Giu-se về vào buổi trưa, vì họ nghe rằng họ sẽ dùng bữa ở đó.

26 Khi ông Giu-se vào nhà, họ dâng ông quà họ đã mang theo vào nhà đó, và sụp xuống đất lạy ông. 27 Ông vấn an họ và nói: "Các người đã nói đến cha già của các người, ông cụ có được bình an không? Ông cụ còn sống không?” 28 Họ đáp: "Tôi tớ ngài, là cha của chúng tôi, vẫn được bình an, người vẫn còn sống." Rồi họ quỳ sụp xuống lạy. 29 Ngước mắt lên, ông thấy Ben-gia-min, người em cùng mẹ với ông, ông liền hỏi: "Ðây là đứa em út mà các người đã nói với ta, có phải không?", đoạn ông nói: "Con ơi, xin Thiên Chúa đoái thương con.” 30 Trông thấy em, ông xúc động nghẹn ngào, rồi đi vội vào phòng riêng mà khóc. 31 Sau đó, ông rửa mặt và đi ra; ông cầm lòng mà nói: "Dọn bữa lên!” 32 Người ta dọn riêng cho ông, riêng cho họ và riêng cho những người Ai-cập cùng ăn với ông, vì người Ai-cập không thể dùng bữa với người Híp-ri: đó là điều ghê tởm đối với người Ai-cập. 33 Các anh em ngồi đối diện với ông, anh cả ngồi vào chỗ anh cả, em út ngồi vào chỗ em út, và họ nhìn nhau kinh ngạc. 34 Ông truyền đem cho họ những phần thức ăn dọn trước mặt ông, nhưng phần của Ben-gia-min thì nhiều gấp năm phần của tất cả những người khác. Họ cùng với ông ăn uống say sưa.

Chương 44

Chén bạc của ông Giu-se trong bao của ông Ben-gia-min

1 Ông Giu-se truyền cho người quản gia của ông: "Anh hãy đổ đầy bao lúa của mấy người này; họ mang được bao nhiêu thì đổ cho họ bấy nhiêu, rồi bạc của người nào thì đặt vào miệng bao của người ấy. 2 Chén của tôi cái chén bạc, thì anh đặt vào miệng bao lúa của đứa út, cùng với số bạc mua lúa của nó." Người quản gia làm như lời ông dặn.

3 Khi trời sáng, người ta để cho các anh em ra đi, cùng với lừa của họ. 4 Họ vừa ra khỏi thành, chưa được bao xa, thì ông Giu-se bảo người quản gia của ông: "Ðứng lên! hãy rượt theo những người kia, và khi đuổi kịp thì bảo họ: "Sao các ông lại lấy oán đền ơn? 5 Ðó chẳng phải là đồ vật chủ tôi dùng để uống và để bói toán sao? Các ông làm như vậy là xấu!"

6 Người ấy đuổi kịp họ và nói với họ những lời trên. 7 Họ đáp: "Sao ngài lại nói những lời lẽ như vậy? Không đời nào các tôi tớ ngài lại làm một chuyện như thế! 8 Ngài coi: số bạc chúng tôi đã tìm thấy ở miệng các bao lúa của chúng tôi, chúng tôi đã đem từ đất Ca-na-an đến trả lại cho ngài. Làm sao chúng tôi lại có thể lấy trộm bạc hay vàng trong nhà ông chủ ngài được? 9 Hễ tìm thấy đồ vật đó nơi ai, thì người ấy phải chết; còn chúng tôi sẽ làm nô lệ cho ngài.” 10 Người quản gia nói: "Thôi được, cứ như lời các ông. Hễ tìm thấy đồ vật đó nơi ai, thì người ấy phải làm nô lệ cho tôi còn các ông sẽ vô can.” 11 Ai nấy vội vàng hạ bao lúa của mình xuống đất, rồi mở bao ra. 12 Người quản gia lục soát, bắt đầu từ người anh cả và kết thúc nơi người em út. Cái chén được tìm thấy trong bao lúa của Ben-gia-min. 13 Họ xé áo mình ra, rồi mỗi người chất đồ lên lưng lừa của mình và trở về thành.

14 Khi ông Giu-đa và các anh em vào nhà ông Giu-se, thì ông còn đang ở đó, và họ cúi rạp xuống đất, trước mặt ông. 15 Ông Giu-se nói với họ: "Các người làm gì vậy? Các người không biết rằng một người như ta phải có tài bói toán sao?” 16 Ông Giu-đa nói: "Chúng tôi biết thưa gì với ngài, nói năng làm sao, tự biện hộ thế nào? Thiên Chúa đã phơi bày tội của các tôi tớ ngài ra. Chúng tôi xin làm nô lệ cho ngài, cả chúng tôi lẫn người bị tìm thấy đang giữ cái chén.” 17 Ông Giu-se nói: "Không đời nào ta làm điều ấy! Người bị tìm thấy đang giữ cái chén, thì sẽ phải làm nô lệ cho ta, còn các người thì cứ về bình an với cha các người."

Ông Giu-đa can thiệp

18 Bấy giờ, ông Giu-đa lại gần ông và nói: "Thưa ngài, xin xá lỗi. Xin cho tôi tớ ngài được nói một lời thấu đến tai ngài. Xin ngài đừng trút cơn thịnh nộ xuống tôi tớ ngài: quả thật, ngài ngang hàng với Pha-ra-ô. 19 Ngài đã hỏi các tôi tớ ngài rằng: "Các người còn cha hay anh em nào không?” 20 Chúng tôi đã thưa với ngài: "Chúng tôi có cha già và một đứa em út, sinh ra lúc người đã già; thằng anh cùng mẹ với nó đã chết, chỉ còn lại mình nó, nên người thương nó. 21 Ngài đã bảo các tôi tớ ngài: "Các người đưa nó xuống cho ta, để ta nhìn thấy nó tận mắt.” 22 Chúng tôi đã thưa với ngài: "Thằng bé không thể rời cha, nếu nó rời cha, thì người sẽ chết mất!” 23 Nhưng ngài đã bảo các tôi tớ ngài: "Nếu em út các người không cùng xuống với các người, thì các người sẽ không được gặp mặt ta nữa.” 24 Vậy khi chúng tôi về với tôi tớ ngài, là cha của tôi, thì chúng tôi đã nói lại với người những lời của ngài. 25 Cha chúng tôi bảo: "Hãy trở lại mua ít lương thực về.” 26 Chúng tôi trả lời: "Chúng con không thể xuống đó được. Nếu có em út cùng đi với chúng con, thì chúng con mới xuống; vì chúng con không thể gặp mặt ông ấy, nếu em út không cùng đi với chúng con.” 27 Tôi tớ ngài, là cha của tôi, nói với chúng tôi: "Các con biết rằng vợ của cha đã sinh cho cha hai đứa. 28 Một đứa đã lìa cha, và cha đã nói: Ðúng là nó đã bị xé xác, và cho đến nay cha chẳng được nhìn lại nó. 29 Nếu các con đem cả đứa này đi xa cha, và nó gặp tai hoạ, thì các con sẽ làm cho kẻ bạc đầu này phải đau khổ mà xuống âm phủ.” 30 Vậy bây giờ nếu tôi về với tôi tớ ngài, là cha của tôi, mà không có thằng bé cùng về với chúng tôi, bởi vì người chỉ sống khi nó sống, 31 thì khi thấy là không có thằng bé, người sẽ chết mất. Các tôi tớ ngài sẽ làm cho kẻ bạc đầu, là tôi tớ ngài và là cha của chúng tôi, phải buồn sầu mà xuống âm phủ. 32 Trước mặt cha tôi, tôi tớ ngài đã bảo lãnh cho thằng bé và nói: "Nếu con không đưa nó về cho cha, thì con sẽ đắc tội với cha suốt đời.” 33 Vậy bây giờ, tôi tớ ngài xin ở lại làm nô lệ ngài thế cho thằng bé, còn thằng bé thì xin cho về với các anh nó. 34 Thật vậy, tôi về với cha tôi thế nào được, nếu thằng bé không cùng đi với tôi? Tôi không thể nào chứng kiến tai hoạ sẽ giáng xuống cha tôi!"

Chương 45

Ông Giu-se tỏ cho anh em nhận ra mình

1 Ông Giu-se không thể cầm lòng trước mặt tất cả những người đứng bên ông, nên ông kêu lên: "Bảo mọi người ra khỏi đây!" Khi không còn người nào ở với ông, ông Giu-se mới tỏ cho anh em nhận ra mình. 2 Ông oà lên khóc và người Ai-cập nghe được, triều đình Pha-ra-ô cũng nghe thấy.

3 Ông Giu-se nói với anh em: "Tôi là Giu-se đây! Cha tôi còn sống không?" Nhưng anh em không thể trả lời: thấy mình đối diện với ông, họ bàng hoàng. 4 Ông Giu-se nói với anh em: "Hãy lại gần tôi." Họ lại gần. Ông nói: "Tôi là Giu-se, đứa em mà các anh đã bán sang Ai-cập. 5 Nhưng bây giờ, các anh đừng buồn phiền, đừng hối hận vì đã bán tôi sang đây: chính là để duy trì sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em. 6 Thật vậy, đây là năm thứ hai có nạn đói trong xứ, và sẽ còn năm năm nữa không cày không gặt. 7 Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em, để giữ cho anh em một số người sống sót trong xứ, và để cứu sống anh em, nhằm thực hiện cuộc giải thoát vĩ đại. 8 Vậy không phải các anh đã gửi tôi đến đây, nhưng là Thiên Chúa. Người đã đặt tôi làm cha của Pha-ra-ô, làm chúa tất cả triều đình, và làm tể tướng trên khắp cõi Ai-cập.

9 "Anh em hãy mau về với cha tôi và thưa người rằng: "Con trai cha là Giu-se nói thế này: Thiên Chúa đã đặt con làm chúa toàn cõi Ai-cập; xin cha xuống đây với con, đừng trì hoãn. 10 Cha sẽ ở đất Gô-sen và sẽ ở gần con, cha và các con cháu, chiên bò và tất cả những gì cha có. 11 Tại đó con sẽ cấp dưỡng cho cha, để cha khỏi bị thiếu thốn, cha, gia đình cha và mọi người thuộc về cha, vì còn năm năm đói kém nữa. 12 Các anh và em tôi là Ben-gia-min cũng thấy tận mắt là chính tôi đang mở miệng nói với anh em. 13 Các anh hãy kể lại cho cha tôi biết tất cả vinh hoa của tôi ở Ai-cập, và tất cả những gì các anh đã thấy; rồi mau đưa cha xuống đây."

14 Bấy giờ, ông bá cổ Ben-gia-min, em ông, mà khóc; Ben-gia-min cũng gục vào cổ ông mà khóc. 15 Rồi ông hôn tất cả các anh và ôm họ mà khóc, sau đó anh em ông nói chuyện với ông.

Pha-ra-ô mời gia đình ông Gia-cóp sang Ai-cập

16 Tiếng đồn lan ra trong triều đình Pha-ra-ô rằng: "Anh em ông Giu-se đã đến!" Ðiều đó làm hài lòng Pha-ra-ô cũng như triều thần. 17 Pha-ra-ô nói với ông Giu-se: "Ông hãy nói với anh em ông: Các ông làm thế này: Hãy chất đồ lên lưng súc vật của các ông và đi về đất Ca-na-an. 18 Hãy đón cha các ông và gia đình các ông đến với ta. Ta sẽ cho các ông cái gì tốt nhất trong xứ Ai-cập, và các ông sẽ được hưởng màu mỡ của xứ này. 19 Còn ông, hãy chuyển lệnh này cho họ: Các ông làm thế này: Hãy đem xe từ Ai-cập về chở đàn bà con trẻ của các ông, rước cha các ông, và đến đây. 20 Các ông đừng luyến tiếc những đồ đạc các ông bỏ lại, bởi vì những gì tốt nhất của toàn xứ Ai-cập sẽ thuộc về các ông."

Anh em ông Giu-se trở về đất Ca-na-an

21 Các con trai ông Ít-ra-en đã làm như thế. Theo lệnh Pha-ra-ô, ông Giu-se đã cấp cho họ những chiếc xe; ông cũng cho họ lương thực ăn đường. 22 Ông tặng mỗi người một bộ quần áo, còn Ben-gia-min thì ông tặng ba trăm đồng tiền bạc và năm bộ quần áo. 23 Cũng vậy, ông gửi cho cha ông mười con lừa chở những thứ tốt nhất của Ai-cập, và mười con lừa cái chở lúa mì, bánh và lương thực để cha dùng khi đi đường. 24 Rồi ông tiễn anh em đi và họ lên đường; ông bảo họ: "Ðừng cãi cọ dọc đường."

25 Họ từ Ai-cập lên và về với ông Gia-cóp, cha họ, ở đất Ca-na-an. 26 Họ báo cho ông: "Giu-se còn sống, và hiện làm tể tướng trên khắp cõi Ai-cập!" Nhưng lòng ông không hề xúc động, vì ông không tin họ. 27 Khi họ thưa lại với ông tất cả những lời ông Giu-se đã nói với họ, và ông thấy xe cộ ông Giu-se đã cho về rước ông, thì tâm thần ông Gia-cóp, cha họ, mới hồi sinh. 28 Ông Ít-ra-en nói: "Thế là đủ! Giu-se, con cha, vẫn còn sống! Cha sẽ đi để nhìn thấy nó trước khi chết!"

Chương 46

Ông Gia-cóp lên đường đi Ai-cập

1 Ông Ít-ra-en lên đường, đem theo tất cả những gì ông có. Ông đến Bơ-e Se-va và ông dâng những lễ tế lên Thiên Chúa của cha ông là I-xa-ác. 2 Thiên Chúa phán với ông Ít-ra-en trong thị kiến ban đêm, Người phán: "Gia-cóp! Gia-cóp!" Ông thưa: "Dạ, con đây!” 3 Người phán: "Ta là En, Thiên Chúa của cha ngươi. Ðừng sợ xuống Ai-cập, vì ở đó Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn. 4 Chính Ta sẽ xuống Ai-cập với ngươi và chính Ta cũng sẽ đưa ngươi lên. Giu-se sẽ vuốt mắt cho ngươi.” 5 Ông Gia-cóp rời Bơ-e Se-va. Các con trai ông Ít-ra-en đã chở ông Gia-cóp, cha họ, và đàn bà con trẻ của họ trên những chiếc xe Pha-ra-ô đã gửi đến để rước ông đi.

6 Họ đem theo các đàn vật của họ và các tài sản họ đã gây được ở đất Ca-na-an, và họ đến Ai-cập, ông Gia-cóp và tất cả dòng dõi ông cùng với ông: 7 các con trai, cháu nội trai, con gái, cháu nội gái của ông. Ông đưa tất cả dòng dõi ông vào Ai-cập với ông.

Gia đình ông Gia-cóp

8 Sau đây là tên con cái Ít-ra-en đã đến Ai-cập: Ông Gia-cóp và các con trai ông. Con đầu lòng của ông Gia-cóp: Rưu-vên. 9 Các con trai ông Rưu-vên: Kha-nốc, Pa-lu, Khét-rôn, Các-mi. 10 Các con trai ông Si-mê-ôn: Giơ-mu-ên, Gia-min, Ô-hát, Gia-khin, Xô-pha, Sa-un, con của người đàn bà Ca-na-an. 11 Các con trai ông Lê-vi: Ghéc-sôn, Cơ-hát, Mơ-ra-ri. 12 Các con trai ông Giu-đa: E, Ô-nan, Sê-la, Pe-rét, De-rác. E và Ô-nan đã chết ở đất Ca-na-an. Các con trai ông Pe-rét là Khét-rôn và Kha-mun. 13 Các con trai ông Ít-xa-kha: Tô-la, Pu-va, Giốp, Sim-rôn. 14 Các con trai ông Dơ-vu-lun: Xe-rét, Ê-lôn, Giác-lơ-ên. 15 Ðó là các con trai mà bà Lê-a đã sinh ra cho ông Gia-cóp tại Pát-đan A-ram, cộng thêm cô Ði-na, con gái ông. Con trai con gái ông, tổng cộng là ba mươi ba người.

16 Các con trai ông Gát: Xíp-giôn, Khác-ghi, Su-ni, Ét-bôn, Ê-ri, A-rô-đi, Ác-ê-li. 17 Các con trai ông A-se: Gim-na, Gít-va, Gít-vi, Bơ-ri-a, và em gái họ là Xe-rác. Các con trai ông Bơ-ri-a: Khe-ve, Man-ki-ên. 18 Ðó là các con trai bà Din-pa, người mà ông La-ban đã cho bà Lê-a, con gái ông. Bà đã sinh cho ông Gia-cóp những người ấy: mười sáu người.

19 Các con trai bà Ra-khen, vợ ông Gia-cóp: Giu-se và Ben-gia-min. 20 Ở xứ Ai-cập, ông Giu-se có thêm Mơ-na-se và Ép-ra-im, mà bà Át-nát, con gái ông Pô-ti Phê-ra, tư tế thành Ôn, đã sinh cho ông. 21 Các con trai ông Ben-gia-min: Be-la, Be-khe, Át-bên, Ghê-ra, Na-a-man, Ê-khi, Rốt, Múp-pim, Khúp-pim, Ác-đơ. 22 Ðó là các con trai mà bà Ra-khen đã sinh cho ông Gia-cóp, tổng cộng là mười bốn người.

23 Con trai ông Ðan: Khu-sim. 24 Các con trai ông Náp-ta-li: Giác-xơ-ên, Gu-ni, Giê-xe, Si-lêm. 25 Ðó là các con trai bà Bin-ha, người mà ông La-ban đã cho bà Ra-khen, con gái ông. Bà đã sinh cho ông Gia-cóp những người ấy: tổng cộng là bảy người.

26 Tất cả những người thuộc về ông Gia-cóp, tức là dòng giống của ông, đã đến Ai-cập, không kể các con dâu ông Gia-cóp, tổng cộng là sáu mươi sáu người. 27 Con trai ông Giu-se sinh được tại Ai-cập: hai người. Những người thuộc gia đình ông Gia-cóp đã đến Ai-cập: tổng cộng là bảy mươi người.

Ông Giu-se đón tiếp cha

28 Ông Gia-cóp đã sai ông Giu-đa đi trước, đến với ông Giu-se, để ông Giu-se tới Gô-sen gặp ông. Khi họ đến đất Gô-sen, 29 thì ông Giu-se cho thắng xe riêng và lên Gô-sen đón ông Ít-ra-en, cha ông. Khi hai cha con vừa thấy nhau, thì ông Giu-se bá cổ cha và gục đầu vào cổ cha mà khóc hồi lâu. 30 Ông Ít-ra-en nói với ông Giu-se: "Phen này, cha chết cũng được, sau khi đã thấy mặt con, và thấy con còn sống."

31 Ông Giu-se nói với anh em ông và gia đình cha ông: "Tôi sẽ lên báo tin cho Pha-ra-ô và tâu vua rằng: "Anh em tôi và gia đình cha tôi ở đất Ca-na-an đã đến với tôi. 32 Những người này làm nghề chăn chiên, vì họ chuyên nuôi súc vật; họ đã đem chiên bò và tất cả những gì họ có đến đây.” 33 Vậy khi Pha-ra-ô triệu anh em đến và hỏi: "Các ông làm nghề gì?", 34 anh em sẽ thưa: "Từ thuở bé đến giờ, các tôi tớ ngài chuyên nuôi súc vật, chúng tôi cũng như cha ông chúng tôi." Như vậy anh em sẽ có thể ở đất Gô-sen; bởi vì người Ai-cập ghê tởm mọi người làm nghề chăn chiên."

Chương 47

Vào chầu Pha-ra-ô

1 Ông Giu-se vào báo tin cho Pha-ra-ô, ông nói: "Cha tôi, anh em tôi, cùng với chiên bò và tất cả những gì họ có, đã từ đất Ca-na-an đến, và họ đang ở đất Gô-sen.” 2 Ông chọn năm người trong số các anh em và dẫn vào yết kiến Pha-ra-ô. 3 Pha-ra-ô hỏi anh em ông: "Các ông làm nghề gì?" Họ thưa với Pha-ra-ô: "Các tôi tớ ngài làm nghề chăn chiên, chúng tôi cũng như cha ông chúng tôi.” 4 Họ thưa với Pha-ra-ô: "Chúng tôi đến trú ngụ trong đất này, vì ở đất Ca-na-an không còn cỏ ngoài đồng cho chiên dê của các tôi tớ ngài ăn, và nạn đói trở nên trầm trọng. Vậy bây giờ, xin cho các tôi tớ ngài được ở đất Gô-sen."

5 Pha-ra-ô nói với ông Giu-se rằng: "Cha và anh em ông đã đến với ông. 6 Ðất Ai-cập mở ra trước mặt ông, ông hãy cho cha và anh em ông ở chỗ tốt nhất trong xứ. Họ cứ việc ở đất Gô-sen. Nếu ông biết trong số những người ấy có ai tài giỏi, thì ông hãy đặt họ làm người trông coi những đàn vật của ta."

7 Ông Giu-se đưa ông Gia-cóp, cha ông, vào trình diện Pha-ra-ô. Ông Gia-cóp chúc phúc cho Pha-ra-ô. 8 Pha-ra-ô hỏi ông Gia-cóp: "Cụ được bao nhiêu tuổi rồi?” 9 Ông Gia-cóp trả lời Pha-ra-ô: "Cuộc đời phiêu bạt của tôi mới được một trăm ba mươi năm, đó là những năm tháng ngắn ngủi và khổ cực, không được như cuộc đời của cha ông tôi, những người cũng sống phiêu bạt.” 10 Ông Gia-cóp chúc phúc cho Pha-ra-ô và cáo biệt Pha-ra-ô. 11 Ông Giu-se cho cha và anh em ông định cư, cấp cho họ đất đai làm sở hữu trong xứ Ai-cập, ở chỗ tốt nhất trong xứ, tại đất Ram-xết, như Pha-ra-ô đã truyền.

12 Ông Giu-se cấp dưỡng cho cha ông, anh em ông và tất cả gia đình cha ông, ít nhiều tuỳ theo số con cái họ.

Chính sách điền địa của ông Giu-se

13 Trong khắp xứ không còn bánh ăn, vì nạn đói trở nên rất trầm trọng. Xứ Ai-cập và xứ Ca-na-an bị nạn đói làm cho kiệt quệ. 14 Ông Giu-se thu tất cả bạc có ở xứ Ai-cập và xứ Ca-na-an, tức là bạc người ta dùng để mua lúa, và ông đưa vào triều đình Pha-ra-ô.

15 Khi xứ Ai-cập và xứ Ca-na-an hết bạc, thì mọi người Ai-cập đến nói với ông Giu-se rằng: "Xin ngài cho chúng tôi bánh ăn! Sao chúng tôi lại phải chết trước mặt ngài vì không còn bạc?” 16 Ông Giu-se đáp: "Nếu không còn bạc, thì các người hãy nộp các đàn vật của các người, và ta sẽ cho các người bánh, đổi lấy đàn vật của các người.” 17 Vậy họ đưa các đàn vật của họ đến cho ông Giu-se, và ông đã cho họ bánh, đổi lấy ngựa, lấy đàn chiên dê, đàn bò và lấy lừa. Năm đó, ông cung cấp bánh cho họ, đổi lấy tất cả những đàn vật của họ.

18 Năm ấy qua đi, năm sau họ lại đến với ông và nói: "Thưa ngài, chúng tôi chẳng dám giấu gì ngài: bạc đã hết, và đàn gia súc đã thuộc về ngài. Trước mặt ngài chỉ còn thân xác chúng tôi và đất đai chúng tôi. 19 Lẽ nào chúng tôi phải chết trước mặt ngài, cả chúng tôi, cả đất đai chúng tôi? Xin ngài lấy bánh mà mua chúng tôi và đất đai chúng tôi; chúng tôi cùng với đất đai chúng tôi sẽ làm nô lệ cho Pha-ra-ô. Xin ngài cho chúng tôi hạt giống, để chúng tôi sống chứ không phải chết, và đất đai khỏi bị bỏ hoang."

20 Ông Giu-se đã mua cho Pha-ra-ô tất cả đất đai của Ai-cập: mọi người Ai-cập bán thửa đất của mình, vì bị nạn đói thúc bách. Và đất về tay Pha-ra-ô. 21 Còn dân thì ông đưa vào các thành, từ đầu đến cuối lãnh thổ Ai-cập. 22 Chỉ có đất của các tư tế là ông không mua, vì các tư tế được trợ cấp nhất định của Pha-ra-ô, và họ sống nhờ trợ cấp nhất định Pha-ra-ô ban; do đó họ không phải bán đất đai của họ.

23 Ông Giu-se bảo dân: "Hôm nay tôi đã mua các người và đất các người cho Pha-ra-ô. Ðây là hạt giống cho các người, để các người gieo xuống đất. 24 Nhưng đến mùa, các người sẽ nộp một phần năm cho Pha-ra-ô, còn bốn phần kia sẽ là của các người, để làm hạt giống gieo vào đồng ruộng, để làm lương thực cho các người, cho những người trong nhà và cho trẻ nhỏ.” 25 Họ nói: "Ngài đã cứu sống chúng tôi. Chúng tôi mong được đẹp lòng ngài, và sẽ làm nô lệ cho Pha-ra-ô.” 26 Ông Giu-se đặt điều ấy thành luật vẫn còn giá trị cho đến ngày nay đối với đất đai của Ai-cập, là phải nộp một phần năm cho Pha-ra-ô. Chỉ có đất đai của các tư tế là không thuộc về Pha-ra-ô.

Những lời trối trăng của ông Gia-cóp

27 Ông Ít-ra-en ở xứ Ai-cập, trong đất Gô-sen. Con cháu ông tậu đất đai ở đó làm sở hữu, họ sinh sôi nảy nở thật nhiều. 28 Ông Gia-cóp sống ở xứ Ai-cập mười bảy năm. Tuổi đời của ông là một trăm bốn mươi bảy năm. 29 Khi gần đến ngày ông Ít-ra-en qua đời, ông gọi con là Giu-se đến và bảo: "Nếu cha được đẹp lòng con, thì con hãy đặt tay dưới đùi cha và hãy tỏ ra có tình có nghĩa với cha: đừng chôn cha tại Ai-cập. 30 Khi cha đã nằm xuống với cha ông, con hãy đưa cha ra khỏi Ai-cập và chôn cha trong phần mộ của các ngài." Ông Giu-se thưa: "Con sẽ làm như lời cha dạy.” 31 Ông Ít-ra-en nói: "Con thề với cha đi!" Ông Giu-se thề với cha và ông Ít-ra-en sụp xuống lạy ở đầu giường.

Chương 48

Ông Gia-cóp nhận hai người con ông Giu-se làm con và chúc phúc cho chúng

1 Sau các việc đó, người ta nói với ông Giu-se: "Cha ông bị bệnh." Ông đưa hai con trai là Mơ-na-se và Ép-ra-im đến. 2 Người ta báo cho ông Gia-cóp rằng: "Có ông Giu-se, con cụ, đến thăm cụ." Ông Ít-ra-en cố gượng dậy ngồi trên giường. 3 Ông Gia-cóp nói với ông Giu-se: "Thiên Chúa toàn năng đã hiện ra với cha ở Lút trong đất Ca-na-an và chúc phúc cho cha. 4 Người đã phán với cha: "Ðây Ta làm cho ngươi sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ làm cho ngươi thành một cộng đồng nhiều dân nước, và sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi về sau làm sở hữu vĩnh viễn. 5 Bây giờ hai đứa con trai con đã sinh được tại xứ Ai-cập trước khi cha đến Ai-cập với con, sẽ là của cha: Ép-ra-im và Mơ-na-se sẽ là của cha như Rưu-vên và Si-mê-ôn. 6 Còn những đứa con mà con sinh ra sau hai đứa ấy sẽ là của con; chúng sẽ được gọi bằng tên hai anh chúng để được hưởng gia tài.

7 "Phần cha, khi từ Pát-đan về, cha đã mất bà Ra-khen, trong đất Ca-na-an, khi còn cách Ép-ra-tha một quãng đường; cha đã chôn người tại đó, trên đường đi Ép-ra-tha, tức là Bê-lem."

8 Khi ông Ít-ra-en thấy các con trai ông Giu-se, thì hỏi: "Những đứa này là ai?” 9 Ông Giu-se thưa cha: "Chúng là những con trai mà Thiên Chúa đã ban cho con ở đây." Ông Ít-ra-en nói tiếp: "Ðem chúng đến cho cha, để cha chúc phúc cho chúng.” 10 Mắt ông Ít-ra-en đã mờ vì tuổi già, ông không thể nhìn thấy nữa. Ông Giu-se đưa chúng lại gần ông, ông hôn và ôm chúng. 11 Ông Ít-ra-en nói với ông Giu-se: "Cha không nghĩ rằng lại nhìn thấy mặt con, thế mà Thiên Chúa lại cho cha nhìn thấy cả dòng dõi con nữa!” 12 Ông Giu-se kéo chúng ra khỏi đầu gối ông Ít-ra-en và cúi sấp mặt xuống đất.

13 Ông Giu-se nắm lấy cả hai đứa, Ép-ra-im ở tay phải ông, tức là tay trái ông Ít-ra-en, Mơ-na-se ở tay trái ông, tức là tay phải ông Ít-ra-en, và đưa chúng đến gần ông Ít-ra-en. 14 Ông Ít-ra-en đưa tay phải ra, đặt lên đầu Ép-ra-im là em, và đặt tay trái lên đầu Mơ-na-se; ông bắt tréo tay, vì Mơ-na-se là con cả. 15 Ông chúc phúc cho ông Giu-se rằng:

16 "Xin Sứ thần là Ðấng đã giải thoát cha khỏi mọi tai hoạ, chúc phúc cho những đứa trẻ này.

Ước gì nhờ chúng, tên tuổi của cha và của cha ông cha là Áp-ra-ham và I-xa-ác được nhắc tới, và ước gì chúng lan tràn khắp xứ!"

17 Ông Giu-se thấy cha đặt tay phải lên đầu Ép-ra-im thì không bằng lòng, nên ông cầm tay cha kéo ra khỏi đầu Ép-ra-im mà đưa lên đầu Mơ-na-se. 18 Ông Giu-se nói với cha: "Thưa cha, xin đừng làm thế, vì thằng này mới là con đầu lòng, xin cha đặt tay phải lên đầu nó.” 19 Nhưng cha ông từ chối và nói: "Cha biết, con ơi, cha biết: nó cũng sẽ trở thành một dân, và nó cũng sẽ lớn. Nhưng em nó sẽ lớn hơn nó và dòng dõi của em nó sẽ thành rất nhiều dân tộc."

20 Ngày đó, ông chúc phúc cho chúng rằng: "Ước gì Ít-ra-en lấy tên con mà chúc phúc và nói: Xin Thiên Chúa làm cho bạn nên như Ép-ra-im và như Mơ-na-se!"

21 Rồi ông Ít-ra-en nói với ông Giu-se: "Này cha sắp chết, nhưng Thiên Chúa sẽ ở với các con và sẽ đưa các con về quê cha đất tổ. 22 Còn cha, cha cho con thêm một phần hơn các anh em con, là thành Si-khem cha đã dùng gươm và cung của cha mà chiếm được từ tay người E-mô-ri."

Chương 49

Những lời chúc phúc của ông Gia-cóp

1 Ông Gia-cóp gọi các con trai lại và nói: "Hãy tập họp lại để cha báo cho các con điều sẽ xảy đến cho các con sau này.

2 Hỡi các con của Gia-cóp, hãy tụ tập lại mà nghe,

hãy nghe Ít-ra-en, cha các con.

3 Rưu-vên, con là con đầu lòng của cha,

là sức mạnh của cha, là tinh hoa của sinh lực cha,

địa vị con trổi vượt, thế lực con trổi vượt.

4 Dù mạnh như nước cuốn, con sẽ không trổi vượt,

vì con đã trèo lên chỗ cha con nằm,

khi ấy con đã xúc phạm đến nơi chăn gối của cha con.

5 Si-mê-ôn và Lê-vi là hai anh em;

chúng đã dùng gươm mà bạo động.

6 Tôi sẽ không đồng lòng với phe nhóm chúng,

không nhất trí với bè lũ chúng,

vì trong cơn giận, chúng đã giết người,

trong lúc hung hăng, chúng đã cắt gân bò mộng.

7 Ðáng nguyền rủa thay cơn giận dữ của chúng, vì nó vũ phu,

đáng nguyền rủa thay cơn lôi đình của chúng, vì nó tàn bạo!

Tôi sẽ phân tán chúng trong nhà Gia-cóp,

sẽ làm chúng tản mác trong dân Ít-ra-en.

8 Giu-đa, con sẽ được anh em con ca tụng,

tay con sẽ đặt trên ót các địch thù,

anh em cùng cha với con sẽ sụp xuống lạy con.

9 Giu-đa là sư tử con. Con ơi, săn mồi xong con lại trở về.

Nó quỳ xuống, nằm phục như sư tử

và như sư tử cái: ai sẽ làm cho nó đứng dậy?

10 Vương trượng sẽ không rời khỏi Giu-đa,

gậy chỉ huy sẽ không lìa đầu gối nó,

cho tới khi người làm chủ vương trượng đến,

người mà muôn dân phải vâng phục.

11 Người buộc con lừa của mình vào gốc nho,

buộc lừa con của mình vào cây nho quý.

Người lấy rượu giặt áo, lấy máu trái nho giặt áo choàng.

12 Mắt người sẫm hơn rượu, răng người trắng hơn sữa.

13 Dơ-vu-lun ở trên bờ biển, nơi tàu bè ghé bến,

sườn của nó đụng tới Xi-đôn.

14 Ít-xa-kha là con lừa xương cốt mạnh mẽ,

nằm giữa chuồng súc vật:

15 Nó thấy rằng nghỉ ngơi là tốt, và xứ sở tươi xinh.

Nó khòm lưng chở nặng, nó phải làm việc khổ sai như tôi đòi.

16 Ðan xét xử dân nó, như một trong các chi tộc Ít-ra-en.

17 Ước gì Ðan là một con rắn trên đường, một con rắn lục ở lối đi,

cắn gót chân ngựa, khiến người cưỡi phải ngã ngửa.

18 Lạy Ðức Chúa, con trông chờ ơn Ngài cứu độ!

19 Gát bị một bọn cướp cướp nó, nhưng nó đuổi theo cướp lại.

20 A-se làm bánh có nhiều chất béo,

nó cung cấp cao lương mỹ vị cho vua.

21 Náp-ta-li là nai cái thả rong,

đẻ ra những nai con xinh đẹp.

22 Giu-se là cây sai quả, cây sai quả bên suối;

các cành nó vượt qua tường.

23 Những người bắn cung đã khiêu khích,

đã bắn tên và tấn công nó.

24 Nhưng cây cung của nó vẫn vững vàng,

và những cánh tay của nó vẫn lanh lẹ,

nhờ tay Ðấng Vạn Năng của Gia-cóp,

nhờ danh Vị Mục Tử, Tảng đá của Ít-ra-en.

25 Xin Thiên Chúa của cha con phù trợ con,

Xin Thiên Chúa toàn năng chúc phúc cho con!

Phúc lành của trời ở trên cao,

phúc lành của vực thẳm ở phía dưới,

phúc lành của nhũ hoa và tử cung!

26 Phúc lành của cha con trổi vượt,

hơn cả phúc lành của núi non vạn đại,

và ước nguyện của gò nổng thiên thu.

Ước chi những phúc lành ấy xuống trên đầu Giu-se,

trên đỉnh đầu người được thánh hiến giữa anh em mình.

27 Ben-gia-min là chó sói hay cắn xé,

buổi sáng nó ăn mồi, buổi chiều nó chia phần cướp được."

28 Ðó là tất cả mười hai chi tộc Ít-ra-en, và đó là điều mà cha họ đã nói với họ; ông chúc phúc cho họ, chúc cho mỗi người một lời chúc phúc riêng.

Ông Gia-cóp qua đời

29 Ông truyền cho họ rằng: "Cha sắp được về sum họp với gia tiên. Hãy chôn cất cha bên cạnh cha ông của cha, trong cái hang ở cánh đồng của ông Ép-rôn, người Khết, 30 trong cái hang ở cánh đồng Mác-pê-la, đối diện với Mam-rê, tại đất Ca-na-an, cánh đồng ông Áp-ra-ham đã tậu của ông Ép-rôn, người Khết, làm miếng đất riêng dành cho phần mộ. 31 Ở đó đã chôn ông Áp-ra-ham và vợ ông là bà Xa-ra; ở đó đã chôn ông I-xa-ác và vợ ông là bà Rê-bê-ca; ở đó cha đã chôn bà Lê-a. 32 Cánh đồng và cái hang ở đó đã tậu của con cái ông Khết."

33 Khi truyền lệnh cho các con trai ông xong, thì ông Gia-cóp rút chân lên giường; ông tắt thở và được về sum họp với gia tiên.

Chương 50

Ðám tang ông Gia-cóp

1 Ông Giu-se gục vào mặt cha mà khóc và hôn cha. 2 Rồi ông Giu-se truyền cho các thầy thuốc vẫn giúp việc ông, ướp xác cha ông. Các thầy thuốc ướp xác ông Ít-ra-en. 3 Việc đó kéo dài bốn mươi ngày, vì việc ướp xác phải kéo dài bấy nhiêu ngày.

4 Khi thời gian khóc ông đã qua, ông Giu-se nói với triều đình Pha-ra-ô rằng: "Nếu tôi được đẹp lòng các ông, thì xin các ông nói thấu tai Pha-ra-ô như sau: 5 "Cha tôi đã bắt tôi thề, người nói: Này cha sắp chết. Trong ngôi mộ cha đã đào cho cha ở đất Ca-na-an, con hãy chôn cất cha ở đó." Bây giờ tôi xin được lên đó chôn cất cha tôi, rồi tôi sẽ trở lại.” 6 Pha-ra-ô nói: "Cứ lên mà chôn cất cha ông, như cụ đã bắt ông thề."

7 Ông Giu-se lên chôn cất cha. Toàn thể triều thần Pha-ra-ô, các quan lớn trong triều đình, và toàn thể kỳ mục xứ Ai-cập cùng lên với ông, 8 cũng như gia đình ông Giu-se, các anh em ông và gia đình cha ông. Họ chỉ để lại ở đất Gô-sen trẻ con và chiên bò của họ. 9 Cùng lên với ông có cả chiến xa và kỵ binh: đó là một đoàn người đông đảo.

10 Khi đến Gô-ren Ha-a-tát ở bên kia sông Gio-đan, họ cử hành tang lễ lớn và rất long trọng. Ông Giu-se làm lễ chôn cất cha trong bảy ngày. 11 Dân bản xứ, tức là người Ca-na-an, thấy đám ma ở Gô-ren Ha-a-tát thì nói: "Ðó là một đám ma long trọng của người Ai-cập." Vì vậy người ta đặt tên cho nơi ấy là A-vên Mít-ra-gim, một nơi ở bên kia sông Gio-đan.

12 Các con trai ông Gia-cóp làm cho ông như ông đã truyền cho họ. 13 Các con trai ông đưa ông về đất Ca-na-an và chôn cất ông trong cái hang ở cánh đồng Mác-pê-la, cánh đồng ông Áp-ra-ham đã tậu của ông Ép-rôn, người Khết, làm miếng đất riêng dành cho phần mộ, đối diện với Mam-rê.

14 Sau khi chôn cất cha, ông Giu-se trở lại Ai-cập, ông, các anh em ông và tất cả những người đã cùng lên với ông để chôn cất cha ông.

Từ khi ông Gia-cóp qua đời đến khi ông Giu-se qua đời

15 Các anh ông Giu-se thấy cha mình đã chết thì bảo nhau: "Không khéo Giu-se còn hận chúng ta và trả lại cho chúng ta tất cả điều ác chúng ta đã gây ra cho nó!” 16 Họ sai người đến nói với ông: "Cha của chú trước khi chết đã truyền rằng: 17 Các con hãy nói thế này với Giu-se: "Thôi! Xin con tha tội tha lỗi cho các anh con, vì họ đã gây ra điều ác cho con." Bây giờ xin chú tha tội cho các kẻ làm tôi Thiên Chúa của cha chú!" Ông Giu-se khóc, khi họ nói với ông như thế.

18 Các anh ông đích thân đến cúi rạp xuống trước mặt ông và nói: "Này chúng tôi là nô lệ của chú.” 19 Ông Giu-se nói với họ: "Ðừng sợ! Tôi đâu có thay quyền Thiên Chúa! 20 Các anh đã định làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên Chúa lại định cho nó thành điều tốt, để thực hiện điều xảy ra hôm nay, là cứu sống một dân đông đảo. 21 Bây giờ các anh đừng sợ, tôi sẽ cấp dưỡng cho các anh và con cái các anh." Ông an ủi và chuyện trò thân mật với họ.

22 Ông Giu-se, ông và gia đình cha ông ở bên Ai-cập. Ông Giu-se sống được một trăm mười tuổi. 23 Ông được thấy con cháu của Ép-ra-im đến ba đời. Cả các con của Ma-khia - ông này là con của Mơ-na-se -, cũng sinh ra trên đầu gối ông Giu-se. 24 Ông Giu-se nói với các anh em: "Tôi sắp chết, nhưng thế nào Thiên Chúa cũng sẽ viếng thăm anh em và đưa anh em từ đất này lên đất mà Người đã thề hứa với ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp.” 25 Ông Giu-se bắt con cái Ít-ra-en thề, ông nói: "Thế nào Thiên Chúa cũng sẽ viếng thăm anh em, bấy giờ anh em sẽ đưa hài cốt tôi lên khỏi đây."

26 Ông Giu-se qua đời, thọ một trăm mười tuổi. Người ta ướp xác ông và đặt ông vào một quan tài ở Ai-cập.

Xuất Hành

Chương 01

I. Công Cuộc Giải Thoát Khỏi Ai-Cập

1. Dân Ít-Ra-En Bên Ai-Cập

Cảnh sống thịnh vượng của người Híp-ri ở Ai-cập

1 Sau đây là tên những con cái Ít-ra-en đã đến Ai-cập với ông Gia-cóp, mỗi người đem theo gia đình mình: 2 Rưu-vên, Si-mê-ôn, Lê-vi và Giu-đa, 3 Ít-xa-kha, Dơ-vu-lun và Ben-gia-min, 4 Ðan và Náp-ta-li, Gát và A-se. 5 Dòng giống ông Gia-cóp tính tất cả là bảy mươi người; ông Giu-se thì đang ở bên Ai-cập. 6 Rồi ông Giu-se qua đời, cũng như anh em ông và tất cả thế hệ đó. 7 Con cái Ít-ra-en sinh sôi nảy nở, nên đông đúc và ngày càng hùng mạnh: họ lan tràn khắp xứ.

Dân Híp-ri bị áp bức

8 Thời ấy có một vua mới lên trị vì nước Ai-cập, vua này không biết ông Giu-se. 9 Vua nói với dân mình: "Này đám dân con cái Ít-ra-en đông đúc và hùng mạnh hơn chúng ta. 10 Chúng ta hãy dùng những biện pháp khôn ngoan đối với dân đó, đừng để chúng nên đông đúc, kẻo khi có chiến tranh, chúng hùa với địch mà đánh lại chúng ta, rồi ra khỏi xứ.” 11 Người ta bèn đặt lên đầu lên cổ họ những viên đốc công, để hành hạ họ bằng những việc khổ sai; họ phải xây cho Pha-ra-ô các thành làm kho lương thực là Pi-thôm và Ram-xết. 12 Nhưng chúng càng hành hạ họ, thì họ càng nên đông đúc và lan tràn, khiến chúng đâm ra sợ con cái Ít-ra-en. 13 Người Ai-cập cưỡng bách con cái Ít-ra-en lao động cực nhọc. 14 Chúng làm cho đời sống họ ra cay đắng vì phải lao động cực nhọc: phải trộn hồ làm gạch, phải làm đủ thứ công việc đồng áng; tóm lại, tất cả những việc lao động cực nhọc, chúng đều cưỡng bách họ làm.

15 Vua Ai-cập nói với những bà đỡ đi giúp sản phụ Híp-ri, một bà tên là Síp-ra, một bà tên là Pu-a: 16 "Khi đỡ cho sản phụ Híp-ri, các người hãy xem đứa trẻ là trai hay gái. Nếu là trai thì giết đi, nếu là gái thì để cho sống.” 17 Nhưng các bà đỡ có lòng kính sợ Thiên Chúa, nên không làm như vua Ai-cập đã truyền, và cứ để cho con trai sống. 18 Vua Ai-cập bèn gọi các bà đỡ đến và hỏi: "Tại sao các ngươi làm thế và cứ để cho con trai sống?” 19 Các bà đỡ thưa với Pha-ra-ô: "Ðàn bà Híp-ri không như đàn bà Ai-cập, họ khoẻ lắm: bà đỡ chưa kịp đến thì họ đã sinh rồi.” 20 Thiên Chúa ban ơn lành cho các bà đỡ; còn dân thì trở nên đông đúc và rất hùng mạnh. 21 Vậy, vì các bà đỡ có lòng kính sợ Thiên Chúa, nên Người đã cho họ có con để nối dòng.

22 Pha-ra-ô ra lệnh cho toàn dân của mình: "Mọi con trai Híp-ri sinh ra, hãy ném xuống sông Nin; mọi con gái thì để cho sống."

Chương 02

2. Thời Niên Thiếu Và Ơn Gọi Của Ông Mô-Sê

Ông Mô-sê chào đời

1 Có một người thuộc dòng họ Lê-vi đi lấy một người con gái cũng thuộc họ Lê-vi. 2 Người đàn bà ấy thụ thai và sinh một con trai. Thấy đứa bé kháu khỉnh, nàng giấu nó ba tháng trời. 3 Khi không thể giấu lâu hơn được nữa, nàng lấy một cái thúng cói, trét hắc ín và nhựa chai, bỏ đứa bé vào, rồi đặt thúng trong đám sậy ở bờ sông Nin. 4 Chị đứa bé đứng đàng xa để xem cho biết cái gì sẽ xảy ra cho em nó. 5 Có nàng công chúa của Pha-ra-ô xuống tắm dưới sông, trong khi các thị nữ đi đi lại lại trên bờ. Nàng thấy chiếc thúng ở giữa đám sậy, thì sai con hầu đi lấy. 6 Mở thúng ra, nàng thấy đứa trẻ: thì ra là một bé trai đang khóc. Nàng động lòng thương nó và nói: "Thằng này là một trong những đứa trẻ Híp-ri.” 7 Chị đứa bé thưa với công chúa của Pha-ra-ô: "Bà có muốn con đi gọi cho bà một vú nuôi người Híp-ri, để nuôi đứa bé cho bà không?” 8 Công chúa của Pha-ra-ô trả lời: "Cứ đi đi!" Người con gái liền đi gọi mẹ đứa bé. 9 Công chúa của Pha-ra-ô bảo bà ấy: "Chị đem đứa bé này về nuôi cho tôi. Chính tôi sẽ trả công cho chị." Người đàn bà mang ngay đứa bé về nuôi. 10 Khi đứa bé lớn lên, bà đưa nó đến cho công chúa của Pha-ra-ô. Nàng coi nó như con và đặt tên là Mô-sê; nàng nói: "Ðó là vì ta đã vớt nó lên khỏi nước."

Ông Mô-sê trốn sang Ma-đi-an

11 Hồi đó, ông Mô-sê đã lớn, ông ra ngoài thăm anh em đồng bào và thấy những việc khổ sai họ phải làm. Ông thấy một người Ai-cập đang đánh một người Híp-ri, anh em đồng bào của ông. 12 Nhìn trước nhìn sau không thấy có ai, ông liền giết người Ai-cập, rồi vùi dưới cát. 13 Hôm sau, ông lại đi ra, gặp hai người Híp-ri đang xô xát nhau, ông nói với người có lỗi: "Tại sao anh lại đánh người đồng chủng?” 14 Người đó trả lời: "Ai đã đặt ông lên làm người lãnh đạo và xét xử chúng tôi? Hay là ông tính giết tôi như đã giết tên Ai-cập?" Ông Mô-sê phát sợ và tự bảo: "Vậy ra người ta đã biết chuyện rồi!” 15 Nghe biết chuyện này, Pha-ra-ô tìm cách giết ông Mô-sê. Ông Mô-sê liền đi trốn Pha-ra-ô và ở lại miền Ma-đi-an. Ông ngồi bên bờ giếng.

16 Thầy tư tế Ma-đi-an có bảy người con gái. Các cô đến múc nước và đổ đầy máng cho chiên của cha mình uống. 17 Bấy giờ, có những người chăn chiên đến và đuổi các cô đi. Ông Mô-sê liền đứng lên bênh vực các cô và cho chiên uống. 18 Các cô về với cha là ông Rơ-u-ên. Ông hỏi: "Sao hôm nay các con về sớm thế?” 19 Các cô thưa: "Có một người Ai-cập đã cứu chúng con khỏi tay bọn chăn chiên, lại còn múc nước giùm chúng con và cho chiên uống nữa.” 20 Người cha hỏi các con: "Thế người đó đâu rồi? Sao lại bỏ người ta ở đấy? Mời người ta đến dùng bữa đi!” 21 Ông Mô-sê bằng lòng ở lại với thầy tư tế, và ông này gả con gái là Xíp-pô-ra cho ông. 22 Nàng sinh một con trai và ông đặt tên cho nó là Ghéc-sôm, vì ông nói: "Tôi là ngoại kiều nơi đất khách quê người."

Thiên Chúa nhớ tới dân Ít-ra-en

23 Sau những năm dài ấy, vua Ai-cập qua đời. Con cái Ít-ra-en rên siết trong cảnh nô lệ. Họ ta thán, và tiếng họ kêu từ cảnh nô lệ đã thấu tới Thiên Chúa. 24 Thiên Chúa đã nghe tiếng họ than van và Thiên Chúa nhớ lại giao ước của Người với các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. 25 Thiên Chúa đã nhìn thấy con cái Ít-ra-en và Thiên Chúa đã biết.

Chương 03

Thiên Chúa gọi ông Mô-sê từ bụi cây bốc cháy

1 Bấy giờ ông Mô-sê đang chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô, tư tế Ma-đi-an. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khô-rếp. 2 Thiên sứ của Ðức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Mô-sê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. 3 Ông tự bảo: "Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi?” 4 Ðức Chúa thấy ông lại xem, thì từ giữa bụi cây Thiên Chúa gọi ông: "Mô-sê! Mô-sê!" Ông thưa: "Dạ, tôi đây!” 5 Người phán: "Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh.” 6 Người lại phán: "Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp." Ông Mô-sê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa.

Sứ mạng của ông Mô-sê

7 Ðức Chúa phán: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. 8 Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật, xứ sở của người Ca-na-an, Khết, E-mô-ri, Pơ-rít-di, Khi-vi và Giơ-vút. 9 Giờ đây, tiếng rên siết của con cái Ít-ra-en đã thấu tới Ta; Ta cũng đã thấy cảnh áp bức chúng phải chịu vì người Ai-cập. 10 Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập."

11 Ông Mô-sê thưa với Thiên Chúa: "Con là ai mà dám đến với Pha-ra-ô và đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập?” 12 Người phán: "Ta sẽ ở với ngươi. Và đây là dấu cho ngươi biết là Ta đã sai ngươi: khi ngươi đưa dân ra khỏi Ai-cập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này."

Mặc khải danh Thiên Chúa

13 Ông Mô-sê thưa với Thiên Chúa: "Bây giờ, con đến gặp con cái Ít-ra-en và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Ðấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?” 14 Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: "Ta là Ðấng Hiện Hữu." Người phán: "Ngươi nói với con cái Ít-ra-en thế này: "Ðấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em.” 15 Thiên Chúa lại phán với ông Mô-sê: "Ngươi sẽ nói với con cái Ít-ra-en thế này: Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp, sai tôi đến với anh em. Ðó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia."

Chỉ thị về sứ mạng của ông Mô-sê

16 "Ngươi hãy đi triệu tập các kỳ mục Ít-ra-en và nói với họ: Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, của I-xa-ác, của Gia-cóp, đã hiện ra với tôi và phán: Ta đã thật sự quan tâm đến các ngươi và cách người ta đối xử với các ngươi bên Ai-cập. 17 Ta đã phán: Ta sẽ cho các ngươi thoát cảnh khổ cực bên Ai-cập mà lên miền đất người Ca-na-an, Khết, E-mô-ri, Pơ-rít-di, Khi-vi và Giơ-vút, lên miền đất tràn trề sữa và mật. 18 Họ sẽ nghe tiếng ngươi, rồi ngươi sẽ đi với các kỳ mục Ít-ra-en đến cùng vua Ai-cập, các ngươi sẽ nói với vua ấy rằng: Ðức Chúa, Thiên Chúa của người Híp-ri, đã cho chúng tôi được gặp Người. Giờ đây, xin cho chúng tôi đi ba ngày đường vào sa mạc để tế lễ Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi. 19 Ta thừa biết rằng vua Ai-cập sẽ không cho các ngươi đi, trừ phi là có một bàn tay mạnh mẽ can thiệp. 20 Ta sẽ ra tay, sẽ làm mọi thứ phép lạ giữa dân Ai-cập để đánh nó, và sau đó vua ấy sẽ cho các ngươi đi.

Tước đoạt của cải người Ai-cập

21 "Ta sẽ cho dân này được lòng người Ai-cập; nên khi ra đi, các ngươi sẽ chẳng ra đi tay không. 22 Mỗi người đàn bà sẽ xin đàn bà láng giềng và người ở chung một nhà những đồ bạc, đồ vàng, và áo xống. Các ngươi sẽ cho con trai con gái các ngươi mang những thứ đó. Như vậy là các ngươi tước đoạt của cải người Ai-cập."

Chương 04

Ông Mô-sê làm dấu lạ

1 Ông Mô-sê đáp: "Họ sẽ không tin con đâu, họ sẽ không nghe lời con, vì họ sẽ nói: Ðức Chúa chẳng có hiện ra với ông.” 2 Ðức Chúa phán với ông: "Tay ngươi cầm cái gì đó? " Ông đáp: "Thưa một cây gậy.” 3 Người phán: "Vất nó xuống đất đi!" Ông Mô-sê vất nó xuống đất, và nó hoá ra con rắn. Ông Mô-sê liền chạy trốn. 4 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy giơ tay nắm lấy đuôi nó!" - Ông giơ tay bắt lấy nó và nó lại hoá thành cây gậy trong tay ông. - 5 "Ấy là để họ tin rằng Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông họ, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp, đã hiện ra với ngươi."

6 Ðức Chúa còn phán với ông: "Hãy luồn tay vào ngực ngươi!" Ông luồn tay vào ngực, rồi rút tay ra. Và này tay ông bị phong cùi, trắng như tuyết. 7 Người phán: "Hãy lại cho tay vào ngực ngươi!" - Ông lại cho tay vào ngực, rồi rút ra khỏi ngực. Thì này tay ông trở lại như da thịt của ông. - 8 "Như thế, nếu họ không tin ngươi và không hiểu ý nghĩa của dấu thứ nhất, thì họ sẽ tin dấu thứ hai. 9 Mà nếu họ cũng không tin cả hai dấu ấy và không nghe tiếng ngươi, thì ngươi sẽ lấy nước sông Nin mà đổ trên đất khô. Nước ngươi đã lấy dưới sông Nin sẽ hoá thành máu trên đất khô."

Ông A-ha-ron, phát ngôn viên của ông Mô-sê

10 Ông Mô-sê thưa với Ðức Chúa: "Lạy Chúa, xin xá lỗi cho con, từ hồi nào đến giờ, ngay cả từ lúc Chúa ban lời cho tôi tớ Ngài, con không phải là kẻ có tài ăn nói, vì con cứng miệng cứng lưỡi.” 11 Ðức Chúa phán: "Ai cho con người có mồm có miệng? Ai làm cho nó phải câm phải điếc, cho mắt nó sáng hay phải mù loà? Há chẳng phải là Ta, Ðức Chúa, đó sao? 12 Vậy bây giờ ngươi hãy đi, chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi, và Ta sẽ chỉ cho ngươi phải nói những gì."

13 Ông thưa: "Lạy Chúa, xin xá lỗi cho con, xin Chúa sai ai làm môi giới thì sai.” 14 Ðức Chúa nổi giận với ông Mô-sê; Người phán: "Nào chẳng có A-ha-ron, anh ngươi, là người Lê-vi đó sao? Ta biết: nó ăn nói được lắm; hơn nữa, kìa nó ra đón ngươi, và khi thấy ngươi, lòng nó sẽ hoan hỷ. 15 Ngươi sẽ nói với anh ngươi và đặt lời lẽ vào miệng nó. Chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi và nơi miệng nó. Ta sẽ chỉ cho các ngươi những gì các ngươi phải làm. 16 Chính anh ngươi sẽ thay ngươi mà nói với dân. Chính nó sẽ là miệng của ngươi; còn ngươi, ngươi sẽ là một vị thần đối với nó. 17 Cây gậy này, ngươi hãy cầm lấy trong tay; ngươi sẽ dùng nó mà làm các dấu lạ."

Ông Mô-sê rời Ma-đi-an trở về Ai-cập

18 Ông Mô-sê ra đi, trở về với bố vợ là ông Gít-rô và nói: "Xin để con đi về với anh em con bên Ai-cập xem họ còn sống hay không." Ông Gít-rô trả lời ông Mô-sê: "Anh đi bình an!"

19 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê ở Ma-đi-an: "Ði đi, hãy trở về Ai-cập, bởi vì mọi kẻ tìm cách làm hại mạng sống ngươi đã chết cả rồi.” 20 Ông Mô-sê đem vợ và con cái đi theo, cho họ cỡi lừa và trở về đất Ai-cập. Ông Mô-sê cầm cây gậy của Thiên Chúa trong tay. 21 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Khi ngươi ra đi để trở về Ai-cập, ngươi hãy nhìn xem: mọi điều lạ lùng Ta đã ban cho ngươi có quyền làm, thì ngươi sẽ làm trước mặt Pha-ra-ô. Nhưng Ta, Ta sẽ làm cho nó cứng lòng và nó sẽ không thả cho dân đi!” 22 Bấy giờ, ngươi sẽ nói với Pha-ra-ô: "Ðức Chúa phán thế này: Con đầu lòng của Ta là Ít-ra-en. 23 Ta đã phán với ngươi: Hãy thả con Ta ra để nó đi thờ phượng Ta. Nhưng ngươi đã từ chối không thả nó đi, thì này chính Ta sẽ giết chết con đầu lòng của ngươi."

Con ông Mô-sê được cắt bì

24 Vậy dọc đường, tại nơi ông dừng lại nghỉ đêm, Ðức Chúa bắt gặp ông và tìm cách giết ông. 25 Bấy giờ, bà Xíp-pô-ra lấy mảnh đá sắc cắt bì cho con, đụng vào chân ông, rồi nói: "Nhờ máu, ông đã kết nghĩa vợ chồng với tôi.” 26 Và Ðức Chúa tha cho ông. Bà nói: "Nhờ máu, ông đã kết nghĩa vợ chồng với tôi" là vì phép cắt bì.

Ông Mô-sê gặp ông A-ha-ron

27 Ðức Chúa phán với ông A-ha-ron: "Ngươi hãy đi vào sa mạc đón Mô-sê." Ông đi và gặp ông Mô-sê trên núi của Thiên Chúa; ông đã ôm hôn ông Mô-sê. 28 Ông Mô-sê cho ông A-ha-ron biết mọi lời Ðức Chúa đã sai ông nói, và mọi dấu lạ Người đã truyền cho ông làm. 29 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron đi triệu tập mọi kỳ mục của con cái Ít-ra-en. 30 Ông A-ha-ron nói tất cả những lời Ðức Chúa đã ngỏ cùng ông Mô-sê và làm những dấu lạ trước mắt dân. 31 Và dân đã tin. Họ đã hiểu là Ðức Chúa đến viếng thăm con cái Ít-ra-en và nhìn thấy cảnh khổ cực của họ. Và họ đã phủ phục mà thờ lạy.

Chương 05

Cuộc hội kiến đầu tiên với Pha-ra-ô

1 Sau đó, ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến nói với Pha-ra-ô: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: Hãy thả cho dân Ta đi, để chúng mở lễ kính Ta trong sa mạc.” 2 Pha-ra-ô đáp: "Ðức Chúa là ai, khiến ta phải nghe lời mà thả cho Ít-ra-en đi? Ta chẳng biết Ðức Chúa, cũng sẽ không thả cho Ít-ra-en đi.” 3 Hai ông nói: "Thiên Chúa của người Híp-ri đã hiện ra với chúng tôi. Xin cho chúng tôi đi ba ngày đường vào sa mạc để tế lễ Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi; nếu không, Người sẽ dùng dịch hạch hay gươm giáo mà giết chết chúng tôi.” 4 Vua Ai-cập nói với các ông: "Mô-sê và A-ha-ron, sao các ngươi lại muốn xúi dân bỏ việc? Ði lao động đi!” 5 Pha-ra-ô nói: "Bây giờ dân trong nước thì đông, mà các ngươi lại muốn cho chúng nghỉ lao động!"

Chỉ thị cho các ông cai

6 Ngày hôm đó, Pha-ra-ô ra lệnh cho các ông cai và ký lục: 7 "Ðừng cung cấp rơm cho dân để làm gạch như trước nữa. Chúng phải tự mình đi lượm rơm mà làm. 8 Cứ bắt chúng phải nộp đủ số gạch như chúng vẫn làm trước đây, đừng giảm bớt chi cả. Chúng là quân lười biếng, vì thế mà chúng hô lên: Nào chúng ta đi tế lễ Thiên Chúa chúng ta! 9 Phải giao cho bọn người ấy những công việc thật nặng nhọc để chúng lo làm, mà khỏi chú ý vào những lời dối trá."

10 Các ông cai và ký lục ra ngoài nói với dân: "Pha-ra-ô phán thế này: Ta không cung cấp rơm cho các ngươi nữa. 11 Các ngươi thấy rơm ở đâu thì phải tự mình đi kiếm lấy. Nhưng công việc thì không được giảm bớt chút nào.” 12 Dân liền đi tản mác khắp nước Ai-cập, để lượm rạ thay rơm. 13 Các ông cai thúc họ: "Làm cho xong việc đi! Mỗi ngày phải đủ số, y như khi có rơm!” 14 Người ta đánh đập và hạch sách các ký lục của con cái Ít-ra-en, mà các ông cai của Pha-ra-ô đã đặt lên trông coi dân: "Tại sao hôm qua và hôm nay, các anh đã không làm đủ số gạch ấn định như trước kia?"

Các ký lục của người Ít-ra-en than phiền

15 Các ký lục của con cái Ít-ra-en đến kêu với Pha-ra-ô: "Tại sao bệ hạ lại xử với các bề tôi như thế? 16 Rơm thì người ta không cung cấp cho bề tôi nữa, mà lại bảo: Sản xuất gạch đi! Bệ hạ coi: người ta đánh bề tôi, như thể dân của bệ hạ đây có lỗi.” 17 Vua đáp: "Các ngươi là quân lười biếng, quân lười biếng! Vì thế, các ngươi mới nói: chúng ta hãy đi tế lễ Ðức Chúa. 18 Bây giờ đi làm việc đi! Sẽ không cung cấp rơm cho các ngươi nữa, nhưng gạch thì các ngươi vẫn phải nộp cho đủ số."

Dân than trách. Ông Mô-sê kêu cầu.

19 Các ký lục của con cái Ít-ra-en thấy mình ở trong hoàn cảnh khó xử, khi người ta bảo họ: "Không được bớt số gạch phải làm. Ngày nào phải đủ số ngày đó!” 20 Ra khỏi đền Pha-ra-ô, họ gặp ngay ông Mô-sê và ông A-ha-ron đang đứng chờ họ. 21 Họ nói với hai ông: "Xin Ðức Chúa chứng giám và xét xử cho: các ông đã làm cho chúng tôi trở nên đáng ghét trước mắt Pha-ra-ô và bề tôi của vua; thật các ông đã trao gươm vào tay họ để giết chúng tôi.” 22 Ông Mô-sê hướng về Ðức Chúa và thưa: "Lạy Chúa, tại sao Ngài đã làm khổ dân này? Tại sao Ngài đã sai con đi? 23 Từ khi con đến với Pha-ra-ô để nhân danh Ngài mà nói, thì vua ấy làm khổ dân này, và Ngài chẳng giải thoát dân Ngài gì cả!"

Chương 06

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Giờ đây ngươi sắp thấy điều Ta làm cho Pha-ra-ô: Bị áp lực của một bàn tay mạnh mẽ, vua ấy sẽ phải thả cho họ đi; bị áp lực của một bàn tay mạnh mẽ, vua ấy sẽ đuổi họ ra khỏi nước."

Trình thuật khác về việc Thiên Chúa gọi ông Mô-sê

2 Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: "Ta là Ðức Chúa. 3 Ta đã hiện ra với Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp với tư cách là Thiên Chúa Toàn Năng, nhưng Ta đã không cho họ biết danh của Ta là Ðức Chúa. 4 Ta lại còn lập giao ước của Ta với họ để ban cho họ đất Ca-na-an, là đất khách quê người, nơi họ sống như những khách lạ. 5 Chính Ta đã nghe thấy tiếng rên siết của con cái Ít-ra-en đang bị người Ai-cập bắt làm nô lệ, và Ta đã nhớ lại giao ước của Ta. 6 Vì vậy, ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en: Ta là Ðức Chúa. Ta sẽ cứu các ngươi khỏi phải làm việc khổ sai cho người Ai-cập, sẽ giải thoát các ngươi khỏi làm nô lệ chúng. Ta sẽ giơ cánh tay, dùng uy quyền mà chuộc các ngươi lại. 7 Ta sẽ nhận các ngươi làm dân riêng của Ta, và đối với các ngươi, Ta sẽ là Thiên Chúa. Các ngươi sẽ biết rằng Ta, Ðức Chúa, là Thiên Chúa các ngươi, Ðấng cứu các ngươi khỏi phải làm việc khổ sai cho người Ai-cập. 8 Ta sẽ đưa các ngươi vào miền đất mà Ta đã giơ tay thề sẽ ban cho Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Ta sẽ ban đất ấy cho các ngươi làm sở hữu. Ta là Ðức Chúa.” 9 Ông Mô-sê nói thế với con cái Ít-ra-en, nhưng họ không nghe ông Mô-sê, vì ách nô lệ quá nặng nề làm cho họ kiệt sức.

10 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 11 "Hãy đi nói với Pha-ra-ô, vua Ai-cập, để vua ấy thả con cái Ít-ra-en ra khỏi nước.” 12 Nhưng ông Mô-sê thưa trước nhan Ðức Chúa: "Chúa coi: con cái Ít-ra-en đã không nghe con; làm sao Pha-ra-ô lại nghe con, một người ăn nói không được dễ dàng?” 13 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron, truyền cho hai ông đến gặp con cái Ít-ra-en và gặp Pha-ra-ô, vua Ai-cập, để đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi nước Ai-cập.

Gia phả ông Mô-sê và ông A-ha-ron

14 Ðây là những người làm đầu các gia tộc của họ: con cái ông Rưu-vên, trưởng nam của Ít-ra-en: Kha-nốc, Pa-lu, Khét-rôn, Các-mi. Ðó là các thị tộc của ông Rưu-vên.

15 Con cái ông Si-mê-ôn: Giơ-mu-ên, Gia-min, Ô-hát, Gia-khin, Xô-kha, Sa-un, con của người đàn bà Ca-na-an. Ðó là các thị tộc của ông Si-mê-ôn.

16 Ðây là tên con cái ông Lê-vi, theo thứ tự trước sau: Ghéc-sôn, Cơ-hát, Mơ-ra-ri. Ông Lê-vi sống được một trăm ba mươi bảy tuổi. 17 Con cái của Ghéc-sôn: Líp-ni và Sim-y, với các thị tộc của họ.

18 Con cái ông Cơ-hát: Am-ram, Gít-ha, Khép-rôn và Út-di-ên. Ông Cơ-hát sống được một trăm ba mươi ba tuổi.

19 Con cái ông Mơ-ra-ri: Mác-li và Mu-si. Ðó là các thị tộc của ông Lê-vi theo thứ tự trước sau.

20 Ông Am-ram lấy cô mình là bà Giô-khe-vét làm vợ. Bà đã sinh được cho ông hai người con là ông A-ha-ron và ông Mô-sê. Ông Am-ram sống được một trăm ba mươi bảy tuổi.

21 Con cái ông Gít-ha: Cô-rắc, Ne-phéc và Dích-ri.

22 Con cái ông Út-di-ên: Mi-sa-ên, En-xa-phan và Xít-ri.

23 Ông A-ha-ron lấy bà Ê-li-se-va làm vợ. Bà là con gái ông Am-mi-na-đáp và là em gái của ông Nác-sôn. Bà đã sinh được cho ông mấy người con: Na-đáp, A-vi-hu, E-la-da và I-tha-ma.

24 Con cái ông Cô-rắc: Át-xia, En-ca-na, A-vi-a-xáp. Ðó là các thị tộc của dòng họ Cô-rắc.

25 Ông E-la-da, con ông A-ha-ron, lấy một trong những người con gái của ông Pu-ti-ên làm vợ. Bà đã sinh được cho ông một người con là Pin-khát.

Ðó là những người làm đầu các gia tộc Lê-vi, với các thị tộc của họ.

26 Chính các ông A-ha-ron và Mô-sê đã được nghe Ðức Chúa phán bảo: "Hãy đem con cái Ít-ra-en ra khỏi đất Ai-cập theo binh ngũ của chúng.” 27 Chính các ông Mô-sê và A-ha-ron đã nói với Pha-ra-ô, vua Ai-cập, để đem con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập.

Trình thuật tiếp về việc Thiên Chúa gọi ông Mô-sê

28 Vào ngày Ðức Chúa phán với ông Mô-sê ở đất Ai-cập, 29 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ta là Ðức Chúa. Ngươi hãy nói lại với Pha-ra-ô, vua Ai-cập, tất cả những gì Ta nói với ngươi.” 30 Ông Mô-sê thưa trước nhan Ðức Chúa: "Chúa coi: con là người ăn nói không được dễ dàng, làm sao vua Pha-ra-ô nghe con?"

Chương 07

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Coi này, Ta làm cho ngươi nên một vị thần đối với Pha-ra-ô, còn A-ha-ron, anh ngươi, sẽ là ngôn sứ của ngươi. 2 Chính ngươi sẽ nói tất cả những gì Ta truyền cho ngươi, và A-ha-ron, anh ngươi, sẽ nói lại với Pha-ra-ô để vua ấy thả con cái Ít-ra-en ra khỏi nước của vua. 3 Nhưng Ta, Ta sẽ làm cho Pha-ra-ô ra cứng lòng. Ta sẽ tăng thêm nhiều dấu lạ điềm thiêng tại nước Ai-cập. 4 Pha-ra-ô sẽ không nghe các ngươi đâu. Ta sẽ ra tay giáng phạt Ai-cập và sẽ dùng uy quyền mà đưa các binh ngũ của Ta, là dân Ta, con cái Ít-ra-en, ra khỏi nước Ai-cập. 5 Bấy giờ người Ai-cập sẽ biết rằng Ta là Ðức Chúa, khi Ta giương cánh tay chống lại người Ai-cập và đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi nước chúng."

6 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron làm như Ðức Chúa đã truyền cho các ông; các ông đã làm như vậy. 7 Ông Mô-sê được tám mươi tuổi, còn ông A-ha-ron tám mươi ba, khi các ông đến nói với Pha-ra-ô.

3. Các Tai Ướng Ở Ai-Cập. Lễ Vượt Qua.

Cây gậy biến thành con rắn

8 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: 9 "Nếu Pha-ra-ô bảo các ngươi: Hãy làm một phép lạ xem, thì ngươi hãy nói với A-ha-ron: Anh cầm cây gậy của anh, ném xuống trước mặt Pha-ra-ô, và gậy sẽ hoá thành một con rắn to.” 10 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron liền đến với Pha-ra-ô và làm như Ðức Chúa đã truyền. Ông A-ha-ron ném cây gậy của mình xuống trước mặt Pha-ra-ô và bề tôi của vua: gậy hoá thành một con rắn to. 11 Pha-ra-ô cũng triệu các hiền sĩ và pháp sư đến; và các phù thủy Ai-cập cũng dùng phù phép của mình mà làm như vậy: 12 mỗi người ném cây gậy của mình và gậy hoá thành một con rắn to. Nhưng gậy của ông A-ha-ron nuốt gậy của họ. 13 Dù vậy, Pha-ra-ô vẫn cứng lòng, không nghe ông Mô-sê và ông A-ha-ron, như Ðức Chúa đã nói trước.

(1) Nước biến thành máu

14 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Lòng Pha-ra-ô nặng nề cứng cỏi, vua không chịu thả cho dân đi. 15 Ngươi hãy đến nói với Pha-ra-ô lúc sáng sớm, khi nhà vua ra mé nước. Hãy đứng chờ để đón vua ở bên bờ sông Nin. Hãy cầm trong tay cây gậy đã biến thành rắn. 16 Ngươi sẽ nói với vua ấy: Ðức Chúa, Thiên Chúa của người Híp-ri, đã sai tôi nói với bệ hạ: Hãy thả dân Ta ra, để chúng đi thờ phượng Ta trong sa mạc. Nhưng cho đến bây giờ bệ hạ đã không nghe. 17 Ðức Chúa phán thế này: Cứ dấu này các ngươi sẽ biết Ta là Ðức Chúa. Tôi sẽ dùng cây gậy đang cầm trong tay mà đập nước sông, và nước sẽ hoá thành máu. 18 Cá dưới sông sẽ chết, sông sẽ ra hôi thối, và người Ai-cập sẽ không thể uống nước sông được nữa."

19 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy nói với A-ha-ron: Anh cầm lấy gậy của anh và giơ tay trên mặt nước của Ai-cập, trên các sông ngòi, kinh rạch, hồ ao của nó, trên tất cả những chỗ có nước, và nước sẽ hoá thành máu; trong cả nước Ai-cập chỗ nào cũng có máu, trong thùng gỗ cũng như vại đá.” 20 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron làm như Ðức Chúa đã truyền. Ông A-ha-ron giơ gậy lên và đập nước sông, trước mặt Pha-ra-ô và bề tôi của nhà vua. Tất cả nước sông liền biến thành máu. 21 Cá dưới sông bị chết, sông ra hôi thối, và người Ai-cập không thể uống nước sông được nữa; trong cả nước Ai-cập, chỗ nào cũng có máu.

22 Nhưng các phù thủy Ai-cập cũng dùng phù phép của mình mà làm như vậy. Lòng Pha-ra-ô vẫn chai đá, vua không nghe hai ông, như Ðức Chúa đã nói trước. 23 Pha-ra-ô trở về cung điện và cả đến chuyện đó vua cũng không thèm bận tâm. 24 Tất cả người Ai-cập đào đất ở gần sông để tìm nước uống, vì không thể uống nước sông. 25 Bảy ngày đã trôi qua sau khi Ðức Chúa giáng hoạ trên sông Nin.

(2) Ếch nhái

26 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đến gặp Pha-ra-ô và nói với vua ấy: Ðức Chúa phán thế này: Hãy thả dân Ta ra, để họ đi thờ phượng Ta. 27 Nếu ngươi không chịu thả cho họ đi, thì này Ta sẽ dùng nạn ếch nhái mà đánh phạt toàn thể lãnh thổ ngươi. 28 Sông Nin sẽ nhung nhúc ếch nhái; chúng sẽ ngoi lên, nhảy vào cung điện ngươi, vào phòng ngủ của ngươi, nhảy lên giường ngươi, vào nhà bề tôi của ngươi và nhà dân ngươi, nhảy vào lò, vào cối nhồi bột của ngươi. 29 Ếch nhái sẽ leo lên thân thể ngươi, thân thể dân ngươi và mọi bề tôi của ngươi."

Chương 08

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy nói với A-ha-ron: Anh hãy cầm gậy giơ tay trên sông ngòi và hồ ao, làm cho ếch nhái ngoi lên trên đất Ai-cập.” 2 Ông A-ha-ron giơ tay trên mặt nước của Ai-cập và ếch nhái ngoi lên, lan tràn khắp đất Ai-cập. 3 Các phù thủy dùng phù phép của mình cũng làm được như thế: họ làm cho ếch nhái ngoi lên trên đất Ai-cập.

4 Pha-ra-ô mới triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và bảo: "Hãy cầu xin Ðức Chúa đuổi ếch nhái đi xa ta và dân ta, rồi ta sẽ thả dân ra để chúng đi tế lễ Ðức Chúa.” 5 Ông Mô-sê thưa với Pha-ra-ô: "Xin cho tôi được hân hạnh biết khi nào tôi phải cầu xin cho bệ hạ, cho bề tôi và dân của bệ hạ, để ếch nhái rời khỏi bệ hạ và cung điện, mà chỉ còn ở lại trong sông Nin.” 6 Vua trả lời: "Ngày mai." Ông Mô-sê nói: "Sẽ xảy ra như lời bệ hạ xin, để bệ hạ biết là chẳng có ai bằng Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi. 7 Ếch nhái sẽ đi xa bệ hạ và cung điện, xa bề tôi và dân của bệ hạ, và sẽ chỉ còn ở lại trong sông Nin.” 8 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron ra khỏi cung điện vua Pha-ra-ô. Ông Mô-sê kêu lên Ðức Chúa về nạn ếch nhái Người đã gây ra để hại Pha-ra-ô. 9 Ðức Chúa đã làm như lời ông Mô-sê xin, và ếch nhái chết trong nhà, ngoài sân và ngoài đồng. 10 Người ta thu lại từng đống và cả xứ nặc mùi hôi thối. 11 Thấy tạm yên, lòng Pha-ra-ô lại ra nặng nề cứng cỏi, vua không nghe lời các ông, như Ðức Chúa đã nói trước.

(3) Muỗi

12 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy nói với A-ha-ron: Anh hãy giơ gậy lên, rồi đập xuống bụi dưới đất cho nó biến thành muỗi trong khắp đất Ai-cập.” 13 Hai ông đã làm như thế: ông A-ha-ron giơ tay cầm gậy lên, rồi đập xuống bụi dưới đất; liền có muỗi trên thân thể người ta và thú vật; tất cả bụi dưới đất biến thành muỗi trong khắp đất Ai-cập. 14 Các phù thủy dùng phù phép của mình cũng làm như thế để bắt muỗi phải ra khỏi đất Ai-cập, nhưng không được. Muỗi cứ ở lại trên thân thể người ta và thú vật. 15 Các phù thủy thưa với Pha-ra-ô: "Ðó là ngón tay của Thiên Chúa!" Nhưng lòng Pha-ra-ô vẫn chai đá và vua không nghe hai ông, như Ðức Chúa đã nói trước.

(4) Ruồi nhặng

16 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Sáng mai, hãy dậy sớm và đến đứng trước mặt Pha-ra-ô; này vua ấy sẽ ra mé nước. Ngươi sẽ nói với vua: Ðức Chúa phán thế này: Hãy thả dân Ta ra, để chúng đi thờ phượng Ta. 17 Nếu ngươi không thả cho dân Ta đi, thì này Ta sẽ thả ruồi nhặng xuống trên ngươi và bề tôi ngươi, trên dân và cung điện của ngươi. Nhà cửa Ai-cập sẽ đầy ruồi nhặng, ngay cả đất đai nơi chúng ở cũng thế. 18 Nhưng trong ngày ấy, Ta sẽ chừa ra đất Gô-sen là nơi dân Ta đang ở, để nơi đó không có ruồi nhặng, và để ngươi biết rằng Ta là Ðức Chúa, Ta ngự giữa đất này. 19 Ta sẽ phân biệt dân của Ta với dân của ngươi, nội ngày mai sẽ có dấu lạ đó.” 20 Và Ðức Chúa đã làm như thế: một đám ruồi nhặng đen nghịt kéo vào cung điện Pha-ra-ô, vào nhà cửa bề tôi của vua và toàn cõi đất Ai-cập; cả đất ấy bị ruồi nhặng tàn phá.

21 Pha-ra-ô liền triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và bảo: "Các ngươi cứ việc đi tế lễ Thiên Chúa của các ngươi ngay trong đất này!” 22 Ông Mô-sê trả lời: "Không nên làm như thế: những gì chúng tôi tế dâng Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, đều ghê tởm đối với người Ai-cập. Vậy nếu chúng tôi tế dâng trước mắt người Ai-cập những gì là ghê tởm trước mắt họ, thì làm sao họ lại không ném đá chúng tôi được? 23 Chúng tôi sẽ đi ba ngày đường để vào sa mạc tế lễ Ðức Chúa là Thiên Chúa của chúng tôi, như Người phán với chúng tôi.” 24 Pha-ra-ô nói: "Ta, ta sẽ thả các ngươi ra, để các ngươi đi tế lễ Ðức Chúa là Thiên Chúa của các ngươi, trong sa mạc; chỉ có điều là không được đi xa quá. Các ngươi hãy cầu cho ta.” 25 Ông Mô-sê thưa: "Khi ra khỏi nơi đây, tôi sẽ cầu Ðức Chúa. Ngày mai, ruồi nhặng sẽ rời khỏi bệ hạ, khỏi bề tôi và dân của bệ hạ. Có điều là xin bệ hạ đừng phỉnh gạt hoài, không chịu thả dân ra để họ đi tế lễ Ðức Chúa.” 26 Ông Mô-sê ra khỏi cung điện Pha-ra-ô và khẩn cầu Ðức Chúa. 27 Ðức Chúa đã làm theo lời ông Mô-sê xin: Người khiến ruồi nhặng rời khỏi Pha-ra-ô, khỏi bề tôi và dân của vua, không sót lại con nào. 28 Nhưng cả lần này nữa, lòng Pha-ra-ô vẫn nặng nề cứng cỏi; vua không thả cho dân đi.

Chương 09

(5) Ôn dịch

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đến với Pha-ra-ô và nói với vua: Ðức Chúa, Thiên Chúa của người Híp-ri, phán thế này: Hãy thả dân Ta ra, để chúng đi thờ phượng Ta. 2 Nếu ngươi không chịu thả cho chúng đi, mà cứ cầm giữ lại, 3 thì này tay của Ðức Chúa sẽ giáng ôn dịch rất nặng xuống trên súc vật của ngươi ở ngoài đồng, trên ngựa, lừa, lạc đà, bò bê và chiên cừu. 4 Ðức Chúa sẽ đối xử với súc vật của Ít-ra-en khác súc vật của Ai-cập, và không có gì thuộc về con cái Ít-ra-en sẽ phải chết.” 5 Và Ðức Chúa ấn định thời gian, Người phán: "Ngày mai, Ðức Chúa sẽ làm điều ấy trong xứ.” 6 Ngay hôm sau, Ðức Chúa làm điều ấy: tất cả súc vật của người Ai-cập đều chết, còn trong đàn súc vật của con cái Ít-ra-en, thì không con nào chết cả. 7 Pha-ra-ô sai người đi xem, thì này trong đàn súc vật của Ít-ra-en, không con nào chết cả. Nhưng lòng Pha-ra-ô đã ra nặng nề cứng cỏi; vua không thả cho dân đi.

(6) Ung nhọt

8 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: "Hãy bốc hai nắm mồ hóng trong lò, rồi Mô-sê hãy tung lên trời trước mắt Pha-ra-ô. 9 Mồ hóng đó sẽ biến thành bụi trên khắp đất Ai-cập; trên khắp đất Ai-cập, nơi thân thể người ta và thú vật, sẽ có ung nhọt mọc lên và mưng mủ.” 10 Các ông lấy mồ hóng trong lò, rồi đến đứng trước mặt Pha-ra-ô. Ông Mô-sê tung lên trời và mồ hóng biến thành ung nhọt rồi mưng mủ nơi thân thể người ta và thú vật. 11 Các phù thủy không đứng nổi trước mặt ông Mô-sê được, vì ung nhọt mọc đầy mình các phù thủy cũng như mọi người Ai-cập. 12 Nhưng Ðức Chúa làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá, nên vua ấy không nghe lời các ông như Ðức Chúa đã nói trước với ông Mô-sê.

(7) Mưa đá

13 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Sáng mai, ngươi hãy dậy sớm, và đến đứng trước mặt Pha-ra-ô. Ngươi sẽ nói với vua ấy: Ðức Chúa, Thiên Chúa của người Híp-ri, phán thế này: Hãy thả dân Ta ra để chúng đi thờ phượng Ta. 14 Vì lần này chính Ta sẽ giáng mọi tai ương xuống trên ngươi, trên bề tôi và dân ngươi, để ngươi biết rằng trên khắp mặt đất không có ai bằng Ta. 15 Nếu bây giờ Ta ra tay, dùng dịch hạch mà đánh phạt ngươi và dân ngươi, thì dân ngươi sẽ biến khỏi mặt đất. 16 Nhưng sở dĩ Ta còn cho ngươi sống, là để ngươi nhìn thấy sức mạnh của Ta, và để thiên hạ loan truyền danh Ta trên khắp mặt đất. 17 Nếu ngươi cứ chống lại dân Ta, không thả cho chúng đi, 18 thì đây, ngày mai, vào giờ này, Ta sẽ cho mưa đá rất nặng, như chưa từng có ở Ai-cập từ ngày dựng nước cho đến bây giờ. 19 Vậy ngay bây giờ, ngươi hãy sai người dẫn vào nơi trú ẩn: súc vật của ngươi và tất cả những gì thuộc về ngươi đang ở ngoài đồng. Bất cứ người hay thú vật nào ở ngoài đồng mà không đem vào nhà, thì mưa đá rơi xuống, người ấy, vật ấy sẽ chết.” 20 Trong số các bề tôi của Pha-ra-ô, ai kính sợ lời Ðức Chúa thì đưa tôi tớ và súc vật vào nhà để trú ẩn; 21 còn kẻ không quan tâm đến lời Ðức Chúa, thì để tôi tớ và súc vật ở lại ngoài đồng.

22 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy giơ tay lên trời và làm cho mưa đá rơi xuống trên khắp đất Ai-cập, trên người ta, trên thú vật và mọi cỏ cây ngoài đồng tại đất Ai-cập.” 23 Ông Mô-sê giơ gậy lên trời, và Ðức Chúa làm cho sấm vang lên và mưa đá rơi xuống; sét đánh xuống mặt đất, và Ðức Chúa làm cho mưa đá rơi xuống trên đất Ai-cập. 24 Ðã có mưa đá và lửa loé ra giữa mưa đá; mưa đá rất nặng, như chưa từng có trên khắp đất Ai-cập, kể từ khi chúng thành một dân. 25 Trên khắp đất Ai-cập, mưa đá đã tàn phá tất cả những gì đang ở ngoài đồng, từ người cho đến thú vật; mưa đá cũng tàn phá mọi cỏ cây ngoài đồng và bẻ gãy mọi cây cối ngoài đồng. 26 Chỉ có đất Gô-sen, nơi con cái Ít-ra-en ở, là không có mưa đá.

27 Pha-ra-ô sai người triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và nói với các ông: "Lần này, chính ta có tội. Ðức Chúa là Ðấng công chính, còn ta và dân ta đều lầm lỗi. 28 Hãy khẩn cầu Ðức Chúa đi! Sấm sét và mưa đá như thế đủ rồi! Ta sẽ thả các ngươi ra và các ngươi sẽ không còn phải ở lại lâu hơn nữa.” 29 Ông Mô-sê nói với vua: "Khi ra khỏi thành, tôi sẽ giơ tay lên khẩn cầu Ðức Chúa. Sấm sẽ ngưng và mưa đá sẽ tạnh, để bệ hạ biết là cõi đất thuộc về Ðức Chúa. 30 Nhưng tôi biết rằng cả bệ hạ lẫn bề tôi của bệ hạ vẫn chưa kính sợ Ðức Chúa là Thiên Chúa.” 31 Cây gai, lúa mạch bị tàn phá, vì lúa mạch đã lên gié, cây gai đã trổ bông. 32 Còn lúa mì, lúa miến không bị tàn phá vì mọc muộn hơn.

33 Ông Mô-sê ra khỏi cung điện Pha-ra-ô và rời bỏ thành. Ông giơ tay lên khẩn cầu Ðức Chúa; sấm và mưa đá ngưng, còn mưa cũng đã tạnh trên mặt đất. 34 Pha-ra-ô thấy mưa đã tạnh và mưa đá cũng như sấm đã ngưng, thì lại phạm tội: lòng vua và lòng bề tôi của vua lại ra nặng nề cứng cỏi. 35 Lòng Pha-ra-ô vẫn chai đá và vua không thả cho con cái Ít-ra-en đi, như Ðức Chúa đã dùng ông Mô-sê mà nói trước.

Chương 10

(8) Châu chấu

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đến với Pha-ra-ô, vì chính Ta đã làm cho lòng vua ấy và lòng bề tôi của vua ấy ra nặng nề cứng cỏi, để Ta thực hiện các dấu lạ này giữa dân, 2 và để ngươi thuật lại cho con cháu ngươi nghe Ta đã giáng hoạ xuống Ai-cập làm sao, và Ta đã thực hiện những dấu lạ nào giữa họ, khiến các ngươi biết Ta đây là Ðức Chúa.” 3 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến với Pha-ra-ô và nói với vua: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của người Híp-ri, phán thế này: cho đến bao giờ ngươi vẫn không chịu hạ mình xuống trước nhan Ta? Hãy thả dân Ta ra, để chúng đi thờ phượng Ta. 4 Nếu ngươi không chịu thả cho dân Ta đi, thì đây ngày mai Ta sẽ cho châu chấu vào lãnh thổ ngươi. 5 Chúng sẽ che kín cả mặt đất, khiến người ta không thể thấy mặt đất nữa. Chúng sẽ ăn sạch những gì còn lại sau khi thoát tai ương, những gì trận mưa đá còn để sót lại cho các ngươi: chúng sẽ ăn sạch mọi cây cối của các ngươi mọc ngoài đồng. 6 Cung điện của ngươi, nhà của mọi bề tôi ngươi, nhà của mọi người Ai-cập sẽ tràn ngập châu chấu; đó là điều mà cha ông ngươi, cũng như cha ông của cha ông ngươi chưa từng thấy từ ngày có họ trên mặt đất cho đến ngày hôm nay." Rồi ông Mô-sê quay gót, ra khỏi cung điện Pha-ra-ô. 7 Bề tôi Pha-ra-ô thưa với vua: "Tên ấy còn gieo hoạ cho chúng ta đến bao giờ nữa đây? Xin bệ hạ thả bọn người ấy ra, để họ đi thờ phượng Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ. Bệ hạ chưa biết Ai-cập đang đi tới chỗ diệt vong hay sao?"

8 Người ta bảo ông Mô-sê và ông A-ha-ron trở lại với Pha-ra-ô, và vua nói với các ông: "Các ngươi hãy đi thờ phượng Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi. Nhưng ai sẽ đi?” 9 Ông Mô-sê trả lời: "Chúng tôi sẽ cùng đi với người trẻ, người già, chúng tôi sẽ cùng đi với con trai, con gái chúng tôi, với chiên cừu, bò bê của chúng tôi, bởi vì đối với chúng tôi, đây là một lễ kính Ðức Chúa.” 10 Vua nói với các ông: "Thì Ðức Chúa cứ việc ở với các ngươi, xem ta có thả các ngươi và con cái các ngươi đi không! Các ngươi coi: các ngươi có những ý định xấu xa! 11 Không như thế được đâu! Bọn đàn ông các ngươi hãy đi mà thờ phượng Ðức Chúa, vì đó chính là điều các ngươi yêu cầu." Rồi người ta đuổi các ông đi cho khuất mắt Pha-ra-ô.

12 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy giơ tay lên trên đất Ai-cập cho châu chấu kéo đến: chúng sẽ bay lên trên đất Ai-cập mà ăn sạch cỏ cây trong xứ, tất cả những gì trận mưa đá còn để sót lại.” 13 Ông Mô-sê giơ gậy lên trên đất Ai-cập, và Ðức Chúa cho một luồng gió đông thổi vào đất này suốt ngày hôm đó và suốt đêm; đến sáng, thì gió đông đã đưa châu chấu vào rồi.

14 Châu chấu bay lên trên khắp đất Ai-cập; chúng đậu trên khắp cả lãnh thổ Ai-cập, đông vô kể. Trước kia chưa bao giờ có nhiều châu chấu như thế, và sau này cũng chẳng có như vậy. 15 Chúng che kín cả mặt đất, làm đen nghịt cả mặt đất. Châu chấu ăn sạch cỏ cây trong xứ và mọi trái cây mà mưa đá còn để sót lại; không còn một chút xanh tươi nào trên cây, trên cỏ ngoài đồng, trong khắp đất Ai-cập.

16 Pha-ra-ô vội triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và nói: "Ta đắc tội với Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, và với các ngươi. 17 Vậy giờ đây, xin xá tội cho ta lần này nữa thôi, và hãy khẩn nài Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, ít ra là đẩy xa ta cái tai hoạ chết người này.” 18 Ông Mô-sê ra khỏi cung điện Pha-ra-ô và khẩn nài Ðức Chúa. 19 Ðức Chúa cho gió biển nổi lên rất mạnh, cuốn châu chấu đi và đẩy xuống Biển Sậy; không còn sót một con châu chấu nào trên toàn lãnh thổ Ai-cập nữa. 20 Nhưng Ðức Chúa làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá, và vua không thả cho con cái Ít-ra-en đi.

(9) Cảnh tối tăm

21 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy giơ tay lên trời, cho bóng tối bao trùm đất Ai-cập, bóng tối như sờ thấy được.” 22 Ông Mô-sê giơ tay lên trời, và bóng tối dày đặc bao trùm cả đất Ai-cập trong ba ngày. 23 Trong ba ngày, người ta không nhìn thấy nhau và không ai rời chỗ mình được. Nhưng tất cả con cái Ít-ra-en đều có ánh sáng tại nơi họ ở.

24 Pha-ra-ô triệu ông Mô-sê đến và bảo: "Các ngươi hãy đi thờ phượng Ðức Chúa; chỉ có chiên cừu, bò dê của các ngươi phải ở lại, còn trẻ con có thể cùng đi với các ngươi.” 25 Ông Mô-sê nói: "Vậy xin bệ hạ cấp cho chúng tôi những tế phẩm và của lễ toàn thiêu để chúng tôi dâng lên Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi. 26 Cả những đàn súc vật của chúng tôi cũng sẽ đi với chúng tôi, không để sót lại một móng chân nào, vì chúng tôi phải lấy một số trong những con vật đó mà dùng vào việc thờ phượng Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi. Chính chúng tôi cũng không biết phải dâng gì cho Ðức Chúa, bao lâu chưa đến đó."

27 Nhưng Ðức Chúa làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá và vua không chịu thả cho họ đi. 28 Pha-ra-ô nói với ông Mô-sê: "Ra khỏi đây! Liệu hồn, đừng có đến trước mặt ta nữa, vì ngày nào ngươi đến trước mặt ta thì ngươi sẽ phải chết!” 29 Ông Mô-sê đáp: "Ðúng như bệ hạ nói! Tôi sẽ không bao giờ đến trước mặt bệ hạ nữa!"

Chương 11

Báo tin các con đầu lòng sẽ phải chết

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ta sẽ giáng một tai ương nữa xuống Pha-ra-ô và Ai-cập. Sau đó, vua ấy sẽ thả các ngươi ra khỏi đây. Hơn nữa, thay vì thả các ngươi, vua ấy lại còn đuổi hẳn các ngươi đi là đàng khác. 2 Vậy ngươi hãy nói cho dân nghe: Ðàn ông thì hỏi anh hàng xóm, đàn bà thì hỏi chị láng giềng, lấy những đồ bạc và đồ vàng.” 3 Ðức Chúa cho dân được cảm tình của người Ai-cập. Hơn nữa, trong đất Ai-cập, chính ông Mô-sê là một nhân vật rất quan trọng đối với các bề tôi của Pha-ra-ô và đối với dân.

4 Ông Mô-sê nói: "Ðức Chúa phán thế này: vào quãng nửa đêm, Ta sẽ rảo khắp Ai-cập. 5 Mọi con đầu lòng trong đất Ai-cập sẽ phải chết, từ con đầu lòng của vị Pha-ra-ô đang ngồi trên ngai báu, đến con đầu lòng của đứa đầy tớ gái ngồi sau cối xay, đến mọi con đầu lòng của loài vật. 6 Trong khắp đất Ai-cập, sẽ vang lên tiếng kêu la như chưa từng có và không bao giờ có nữa. 7 Còn nơi mọi con cái Ít-ra-en, sẽ không có một con chó nào sủa, dù sủa người hay sủa thú vật; như thế, các ngươi sẽ biết rằng Ðức Chúa phân biệt Ít-ra-en với Ai-cập. 8 Bấy giờ tất cả các bề tôi của bệ hạ sẽ xuống tìm tôi, phục xuống lạy tôi và thưa: xin ông và toàn dân theo ông ra khỏi nước cho. Sau đó tôi sẽ đi ra." Ông Mô-sê nổi giận bừng bừng, ra khỏi cung điện Pha-ra-ô.

9 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Pha-ra-ô sẽ không nghe các ngươi, là để Ta làm thêm nhiều phép lạ trong đất Ai-cập.” 10 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron làm mọi phép lạ đó trước mặt Pha-ra-ô; nhưng Ðức Chúa làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá, và vua không thả con cái Ít-ra-en ra khỏi đất ấy.

Chương 12

Lễ Vượt Qua

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron trên đất Ai-cập: 2 "Tháng này, các ngươi phải kể là tháng đứng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm. 3 Hãy nói với toàn thể cộng đồng Ít-ra-en: Mồng mười tháng này, ai nấy phải bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con. 4 Nếu nhà ít người, không ăn hết một con, thì chung với người hàng xóm gần nhà mình nhất, tuỳ theo số người. Các ngươi sẽ tuỳ theo sức mỗi người ăn được bao nhiêu mà chọn con chiên. 5 Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được. 6 Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, 7 lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. 8 Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh không men và rau đắng. 9 Các ngươi không được ăn sống hay luộc, nhưng chỉ được ăn nướng, với cả đầu, chân và lòng. 10 Không được để lại gì đến sáng; cái gì còn lại đến sáng, phải đốt đi. 11 Các ngươi phải ăn thế này: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Các ngươi phải ăn vội vã: đó là lễ Vượt Qua mừng Ðức Chúa. 12 Ðêm ấy Ta sẽ rảo khắp đất Ai-cập, sẽ sát hại các con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ loài người cho đến loài thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai-cập: vì Ta là Ðức Chúa. 13 Còn vết máu trên nhà các ngươi sẽ là dấu hiệu cho biết có các ngươi ở đó. Thấy máu, Ta sẽ vượt qua, và các ngươi sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Ta giáng hoạ trên đất Ai-cập. 14 Các ngươi phải lấy ngày đó làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng Ðức Chúa. Qua mọi thế hệ, các ngươi phải mừng ngày lễ này: đó là luật quy định cho đến muôn đời.

Lễ Bánh Không Men

15 "Trong bảy ngày, các ngươi phải ăn Bánh Không Men. Ngay từ ngày thứ nhất, các ngươi phải loại men ra khỏi nhà, vì phàm ai ăn bánh có men, từ ngày thứ nhất đến ngày thứ bảy, người đó sẽ bị khai trừ khỏi Ít-ra-en. 16 Ngày thứ nhất, các ngươi phải họp nhau thờ phượng Ta, ngày thứ bảy cũng họp nhau thờ phượng Ta. Những ngày đó không được làm công việc nào cả, chỉ được dọn bữa cho ai nấy ăn mà thôi. 17 Các ngươi sẽ giữ tục lệ mừng lễ Bánh Không Men, vì vào chính ngày đó, Ta đã đưa các đạo binh của các ngươi ra khỏi đất Ai-cập. Qua mọi thế hệ, các ngươi phải giữ tục lệ mừng ngày lễ ấy: đó là điều luật vĩnh viễn. 18 Tháng Giêng, ngày mười bốn trong tháng, từ buổi chiều, các ngươi sẽ ăn bánh không men, cho đến buổi chiều ngày hai mươi mốt. 19 Trong bảy ngày, không được giữ men trong nhà các ngươi, vì phàm ai ăn bánh có men, người đó sẽ bị khai trừ khỏi cộng đoàn Ít-ra-en, bất luận là ngoại kiều hay người bản xứ. 20 Các ngươi không được ăn các thứ bánh có men; dù ở đâu, các ngươi cũng phải ăn bánh không men."

Chỉ thị về lễ Vượt Qua

21 Ông Mô-sê triệu tập tất cả các kỳ mục Ít-ra-en và nói với họ: "Hãy đi bắt chiên cừu về cho gia đình anh em, và sát tế làm lễ Vượt Qua. 22 Anh em sẽ lấy một bó hương thảo, nhúng vào máu trong chậu và lấy máu từ trong chậu bôi lên khung cửa; và không ai trong anh em sẽ ra khỏi cửa nhà mình cho đến sáng. 23 Ðức Chúa sẽ rảo khắp Ai-cập để đánh phạt, và khi thấy máu trên khung cửa, Ðức Chúa sẽ vượt qua trước cửa và không để cho Thần Tru Diệt vào nhà anh em mà đánh phạt. 24 Anh em phải giữ điều đó như điều luật vĩnh viễn cho mình và cho con cháu. 25 Khi được vào đất mà Ðức Chúa ban cho anh em như Người đã phán, anh em sẽ giữ nghi lễ đó. 26 Khi con cháu anh em hỏi anh em: "Nghi lễ này có ý nghĩa gì đối với quý vị?, 27 anh em sẽ trả lời: Ðó là lễ tế Vượt Qua mừng Ðức Chúa, Ðấng đã vượt qua các nhà của con cái Ít-ra-en tại Ai-cập, khi Người đánh phạt Ai-cập và cho các nhà chúng ta thoát nạn." Dân quỳ xuống và phủ phục. 28 Con cái Ít-ra-en ra đi và làm y như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê và ông A-ha-ron.

Tai ương thứ mười: các con đầu lòng bị giết

29 Vào nửa đêm, Ðức Chúa sát hại mọi con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ con đầu lòng của vị Pha-ra-ô đang ngồi trên ngai báu, đến con đầu lòng của người tù đang ở trong ngục và mọi con đầu lòng của loài vật. 30 Ðêm ấy, Pha-ra-ô thức dậy, cùng với tất cả bề tôi và mọi người Ai-cập, và tại Ai-cập vang lên tiếng kêu la, vì không có nhà nào mà không có người chết. 31 Ðang đêm nhà vua triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và bảo: "Cả các ngươi lẫn con cái Ít-ra-en, đứng lên, đi ra, không được ở giữa dân ta nữa! Ði mà thờ phượng Ðức Chúa như các ngươi đã nói! 32 Cả chiên cừu, bò bê của các ngươi, cũng hãy đem đi như các ngươi đã nói. Ði đi và cầu phúc cho cả ta nữa.” 33 Người Ai-cập hối thúc con cái Ít-ra-en và vội vàng thả cho họ ra khỏi nước, vì chúng nói: "Chúng ta chết cả lũ đến nơi rồi!” 34 Dân phải mang theo bột đã nhào chưa kịp dậy men; họ cuộn bột đã nhào trong thùng vào áo choàng, rồi vác lên vai.

Tước đoạt của cải người Ai-cập

35 Con cái Ít-ra-en đã làm theo lời ông Mô-sê; họ đã xin người Ai-cập những đồ bạc, đồ vàng và áo xống. 36 Ðức Chúa cho dân được cảm tình của người Ai-cập, chúng làm như lời họ xin, và họ đã tước đoạt của cải người Ai-cập.

Dân Ít-ra-en ra đi

37 Con cái Ít-ra-en nhổ trại rời Ram-xết đi Xúc-cốt, có khoảng sáu trăm ngàn bộ hành, chỉ kể đàn ông không kể trẻ con. 38 Cả một đám đông hỗn tạp cùng lên với họ, mang theo chiên cừu, bò dê, họp thành một đàn súc vật đông đảo. 39 Họ lấy bột đã nhào đưa từ Ai-cập ra mà nướng thành bánh không men, vì bột chưa dậy men; họ bị trục xuất khỏi Ai-cập, không được chậm trễ, nên ngay cả lương thực cũng không kịp chuẩn bị. 40 Thời gian con cái Ít-ra-en ở Ai-cập là bốn trăm ba mươi năm. 41 Vào đúng ngày chấm dứt bốn trăm ba mươi năm đó, toàn thể các đạo binh của Ðức Chúa đã ra khỏi đất Ai-cập. 42 Ðó là đêm Ðức Chúa canh thức để đưa họ ra khỏi đất Ai-cập; đêm đó thuộc về Ðức Chúa, đêm canh thức của toàn thể con cái Ít-ra-en, qua mọi thế hệ.

Chỉ thị về lễ Vượt Qua

43 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: "Ðây là quy định về chiên lễ Vượt Qua: không người dân ngoại nào được ăn. 44 Mọi nô lệ mua bằng tiền đã được ngươi cắt bì, thì được ăn. 45 Khách vãng lai và người làm thuê không được ăn. 46 Chỉ được ăn chiên trong nhà mà thôi; không được mang thịt ra khỏi nhà. Các ngươi không được làm gãy một chiếc xương nào của nó. 47 Toàn thể cộng đồng Ít-ra-en sẽ mừng lễ Vượt Qua. 48 Nếu có ngoại kiều ở với ngươi mà muốn cử hành lễ Vượt Qua kính Ðức Chúa, thì mọi đàn ông con trai nhà ấy phải chịu cắt bì. Bấy giờ nó mới được đến gần để mừng lễ, nó sẽ như người bản xứ; nhưng ai không cắt bì thì không được ăn. 49 Luật đó là luật chung cho người bản xứ và ngoại kiều sống giữa ngươi.” 50 Mọi con cái Ít-ra-en đã làm y như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê và ông A-ha-ron. 51 Chính ngày ấy Ðức Chúa đã đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập, theo binh ngũ của chúng.

Chương 13

Các con đầu lòng

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Ít-ra-en, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta."

Bánh không men

3 Ông Mô-sê nói với dân: "Hãy ghi nhớ ngày hôm nay là ngày anh em ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ, vì Ðức Chúa đã dùng cánh tay mạnh mẽ của Người mà đưa anh em ra khỏi đó. Anh em không được ăn bánh có men. 4 Ngày anh em ra đi là một ngày trong tháng A-víp. 5 Khi nào Ðức Chúa đưa ngươi vào đất của người Ca-na-an, Khết, E-mô-ri, Khi-vi và Giơ-vút, đất tràn trề sữa và mật, mà Người đã thề với cha ông ngươi là sẽ ban cho ngươi, ngươi sẽ cử hành nghi thức đó vào tháng này. 6 Trong vòng bảy ngày, ngươi sẽ ăn bánh không men, và ngày thứ bảy là lễ kính Ðức Chúa. 7 Phải ăn bánh không men trong vòng bảy ngày; không được thấy bánh có men trong nhà ngươi và cũng không được thấy men trong nhà ngươi, trên toàn lãnh thổ ngươi. 8 Trong ngày ấy, ngươi sẽ kể lại cho con của ngươi rằng: Sở dĩ như vậy là vì những gì Ðức Chúa đã làm cho cha khi cha ra khỏi Ai-cập. 9 Ngươi sẽ coi đó như là dấu ở tay ngươi, là kỷ vật đeo trên trán, để cho Luật của Ðức Chúa ở trên môi miệng ngươi, bởi vì Ðức Chúa đã dùng cánh tay mạnh mẽ mà đưa ngươi ra khỏi Ai-cập. 10 Từ năm này qua năm khác, ngươi phải giữ thánh chỉ này vào đúng thời kỳ của nó.

Các con đầu lòng

11 "Vậy khi Ðức Chúa đã đưa ngươi vào đất Ca-na-an như Người đã thề với ngươi và cha ông của ngươi, và khi Người đã ban đất ấy cho ngươi, 12 thì ngươi phải nhượng lại cho Ðức Chúa mọi con đầu lòng của loài người và mọi con đầu lòng của loài vật trong đàn vật của ngươi: các con đực thuộc về Ðức Chúa. 13 Mọi con đầu lòng của giống lừa, ngươi sẽ lấy một con chiên mà chuộc lại; nếu ngươi không chuộc lại, thì đánh gãy ót nó đi. Còn mọi con đầu lòng của loài người trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại. 14 Vậy mai ngày con của ngươi có hỏi: "Ðiều đó nghĩa là gì? Thì ngươi sẽ nói với nó: "Ðức Chúa đã dùng cánh tay mạnh mẽ của Người mà đưa chúng ta ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. 15 Bởi vì Pha-ra-ô làm khó dễ khi phải thả chúng ta ra, nên Ðức Chúa đã sát hại mọi con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ con đầu lòng của loài người cho đến con đầu lòng của loài vật, vì thế mà cha tế dâng Ðức Chúa mọi con so giống đực; còn con đầu lòng trong số con cái cha, thì cha chuộc lại.16 Ðó sẽ là dấu ở tay ngươi, và là phù hiệu trên trán ngươi, vì Ðức Chúa đã dùng cánh tay mạnh mẽ mà đưa chúng ta ra khỏi Ai-cập."

4. Ra Khỏi Ai-Cập

Dân Ít-ra-en ra đi

17 Khi Pha-ra-ô thả cho dân đi, Thiên Chúa không dẫn họ theo ngả đường xuyên qua xứ Phi-li-tinh, dù đường đó gần hơn, vì Thiên Chúa nói: "Khi thấy phải chiến đấu, dân có thể hối hận mà quay về Ai-cập.” 18 Vậy Thiên Chúa đưa dân đi vòng, qua ngả đường sa mạc Biển Sậy. Con cái Ít-ra-en võ trang đầy đủ từ đất Ai-cập đi lên. 19 Ông Mô-sê đem theo hài cốt ông Giu-se, vì ông Giu-se đã bắt con cái Ít-ra-en thề khi ông nói: "Thế nào Thiên Chúa cũng sẽ thăm viếng anh em; bấy giờ anh em sẽ đưa hài cốt tôi từ đây lên với anh em."

20 Họ nhổ trại rời Xúc-cốt tới đóng trại ở Ê-tham, ven sa mạc.

21 Ðức Chúa đi đằng trước họ: ban ngày thì ở trong cột mây để dẫn đường, ban đêm thì ở trong cột lửa để soi sáng, nên họ có thể đi cả ban ngày lẫn ban đêm. 22 Ban ngày cột mây đi trước dân không rời, ban đêm cột lửa cũng vậy.

Chương 14

Từ Ê-tham đến Biển Ðỏ

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Ngươi hãy bảo con cái Ít-ra-en quay lại đóng trại đối diện với Pi Ha-khi-rốt, giữa Mích-đôn và biển, đối diện với Ba-an Xơ-phôn; các ngươi sẽ đóng trại ngay đằng trước đó, bên bờ biển. 3 Bấy giờ Pha-ra-ô sẽ nói về con cái Ít-ra-en: "Chúng đi luẩn quẩn trong vùng, sa mạc nhốt chúng lại rồi. 4 Ta sẽ làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá và vua ấy sẽ đuổi theo dân. Nhưng Ta sẽ được vẻ vang hiển hách vì đã đánh bại Pha-ra-ô cùng toàn thể quân lực của vua ấy, và người Ai-cập sẽ biết Ta là Ðức Chúa." Con cái Ít-ra-en đã làm như vậy.

Người Ai-cập đuổi theo dân Ít-ra-en

5 Có tin báo cho vua Ai-cập là dân đã chạy trốn rồi. Pha-ra-ô và bề tôi liền thay lòng đổi dạ với dân. Chúng nói: "Ta đã làm gì vậy? Ta đã thả cho Ít-ra-en đi, thành ra bọn chúng hết làm nô lệ cho ta!” 6 Nhà vua cho thắng chiến xa và đem quân đi theo. 7 Vua lấy sáu trăm chiến xa tốt nhất, và tất cả các chiến xa của Ai-cập, chiếc nào cũng có chiến binh. 8 Ðức Chúa làm cho lòng Pha-ra-ô vua Ai-cập ra chai đá, và vua ấy đuổi theo con cái Ít-ra-en, trong khi con cái Ít-ra-en đi ra, giơ tay đắc thắng. 9 Quân Ai-cập, gồm toàn thể chiến mã, chiến xa của Pha-ra-ô, kỵ binh và quân lực của vua ấy, đuổi theo và bắt kịp họ, khi họ đóng trại bên bờ biển, gần Pi Ha-khi-rốt, đối diện với Ba-an Xơ-phôn. 10 Khi Pha-ra-ô tới gần, con cái Ít-ra-en ngước mắt lên thì thấy người Ai-cập tiến đến sau lưng họ. Con cái Ít-ra-en kinh hãi, liền lớn tiếng kêu cầu Ðức Chúa. 11 Họ nói với ông Mô-sê: "Bên Ai-cập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? Ông làm gì chúng tôi vậy, khi ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập? 12 Ðó chẳng phải là điều chúng tôi từng nói với ông bên Ai-cập sao? Chúng tôi đã bảo: Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Ai-cập! Thà làm nô lệ Ai-cập còn hơn chết trong sa mạc!” 13 Ông Mô-sê nói với dân: "Ðừng sợ! Cứ đứng vững, rồi anh em sẽ thấy việc Ðức Chúa làm hôm nay để cứu thoát anh em: những người Ai-cập anh em thấy hôm nay, không bao giờ anh em thấy lại nữa. 14 Ðức Chúa sẽ chiến đấu cho anh em. Anh em chỉ có việc ngồi yên."

Phép lạ tại Biển Ðỏ

15 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Có gì mà phải kêu cứu Ta? Hãy bảo con cái Ít-ra-en cứ nhổ trại. 16 Phần ngươi, cầm gậy lên, giơ tay trên mặt biển, rẽ nước ra cho có lối đi khô ráo ngay giữa lòng biển, để con cái Ít-ra-en đi vào. 17 Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập ra chai đá. Chúng sẽ tiến vào theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ được vẻ vang hiển hách khi đánh bại Pha-ra-ô cùng toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy. 18 Người Ai-cập sẽ biết rằng chính Ta là Ðức Chúa, khi Ta được vẻ vang hiển hách vì đã đánh bại Pha-ra-ô cùng chiến xa và kỵ binh của vua ấy."

19 Thiên sứ của Thiên Chúa đang đi trước hàng ngũ Ít-ra-en, lại rời chỗ mà xuống đi đàng sau họ. Cột mây bỏ phía trước mà đứng về phía sau, 20 chen vào giữa hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Ít-ra-en. Bên kia, mây toả mịt mù, bên này, mây lại sáng soi đêm tối, khiến cho hai bên suốt đêm không xáp lại gần nhau được. 21 Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, Ðức Chúa cho một cơn gió đông thổi mạnh suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô cạn. Nước rẽ ra, 22 và con cái Ít-ra-en đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu. 23 Quân Ai-cập đuổi theo; toàn thể chiến mã, chiến xa và kỵ binh của Pha-ra-ô tiến vào giữa lòng biển, đằng sau dân Ít-ra-en. 24 Vào lúc gần sáng, từ cột lửa và mây, Ðức Chúa nhìn xuống hàng ngũ Ai-cập, Người gây rối loạn trong hàng ngũ chúng. 25 Người làm cho chiến xa kẹt bánh, khiến chúng phải vất vả mới di chuyển nổi. Quân Ai-cập bảo nhau: "Ta phải trốn bọn Ít-ra-en, vì Ðức Chúa chiến đấu chống lại người Ai-cập để giúp họ.” 26 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy giơ tay trên mặt biển, nước sẽ ập xuống trên quân Ai-cập cùng với chiến xa và kỵ binh của chúng.” 27 Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, và biển ập lại như cũ, vào lúc tảng sáng. Quân Ai-cập đang chạy trốn thì gặp nước biển, Ðức Chúa xô ngã quân Ai-cập giữa lòng biển. 28 Nước ập xuống, vùi lấp chiến xa và kỵ binh, vùi lấp toàn thể quân lực của Pha-ra-ô đã theo dân Ít-ra-en đi vào lòng biển. Không một tên nào sống sót. 29 Còn con cái Ít-ra-en đã đi giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu. 30 Ngày đó, Ðức Chúa đã cứu Ít-ra-en khỏi tay quân Ai-cập. Ít-ra-en thấy quân Ai-cập phơi thây trên bờ biển. 31 Ít-ra-en thấy Ðức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập. Toàn dân kính sợ Ðức Chúa, tin vào Ðức Chúa, tin vào ông Mô-sê, tôi trung của Người.

Chương 15

Bài ca chiến thắng

1 Bấy giờ ông Mô-sê cùng với con cái Ít-ra-en hát mừng Ðức Chúa bài ca sau đây. Họ ca rằng:

"Tôi xin hát mừng Chúa, Ðấng cao cả uy hùng:

Kỵ binh cùng chiến mã, Người xô xuống đại dương.

2 Chúa là sức mạnh tôi, là Ðấng tôi ca ngợi,

chính Người cứu độ tôi.

Người là Chúa tôi thờ, xin dâng lời vinh chúc,

Người là Chúa tổ tiên, xin mừng câu tán tụng.

3 Người là trang chiến binh, danh Người là "Ðức Chúa!"

4 Xa mã Pha-ra-ô, Người xô xuống lòng biển,

tướng dũng với binh hùng chết chìm trong Biển Sậy.

5 Vực thẳm vùi lấp chúng, chúng chìm xuống nước sâu

chẳng khác nào hòn đá.

6 Lạy Chúa, tay hữu Ngài đã biểu dương sức mạnh.

Tay hữu Ngài, lạy Chúa, đã nghiền nát địch quân.

7 Lấy dũng lực oai hùng, Chúa quật ngã đối phương;

Ngài nổi cơn thịnh nộ, thiêu chúng cháy như rơm.

8 Nộ khí Ngài, lạy Chúa, đã khiến nước dâng lên,

sóng trùng dương dồn lại dựng đứng như tường thành;

giữa lòng biển thẳm sâu, nước bỗng đâu ngừng chảy.

9 Ðịch quân tự nhủ rằng: "Ta đuổi theo bắt lấy,

chiến lợi phẩm đem chia, mới no lòng thoả dạ;

ta tuốt lưỡi gươm trần, cứ thẳng tay tiêu diệt."

10 Ngài hà hơi nổi gió, biển vùi lấp chúng đi,

chìm lỉm tựa như chì giữa nước sâu cuồn cuộn.

11 Ai trong bậc thần minh được như Ngài, lạy Chúa?

Ai sánh được như Ngài, Ðấng rạng ngời thánh thiện,

lập chiến công khủng khiếp, làm nên việc diệu kỳ?

12 Tay hữu Ngài giơ lên, đất rẽ ra nuốt chúng.

13 Còn dân đã chuộc về, Ngài yêu thương dìu dắt,

lấy quyền lực dẫn đưa tới đất thiêng Ngài ngự.

14 Khi vừa nghe tin đó, chư dân run lẩy bẩy;

người xứ Phi-li-tinh phải đớn đau quằn quại.

15 Bấy giờ tại Ê-đôm, các thủ lãnh kinh hoàng,

và quan quyền Mô-áp đều sợ hãi khiếp run,

người xứ Ca-na-an phải rụng rời hốt hoảng.

16 Kinh hoàng và sợ hãi ập xuống trên đầu họ.

Cánh tay hùng mạnh Ngài làm chúng đờ như đá,

bao lâu dân của Ngài vẫn còn đang qua biển,

lạy Chúa chúng con thờ, bao lâu dân Ngài tậu

vẫn còn đang qua biển.

17 Ngài cho dân tiến vào, định cư họ trên núi,

núi gia nghiệp của Ngài.

Lạy Chúa, chính nơi đây Ngài chọn làm chỗ ở,

đây cũng là đền thánh tự tay Ngài lập nên.

18 Chúa là vua hiển trị đến muôn thuở muôn đời."

19 Khi chiến mã của Pha-ra-ô cùng với chiến xa và kỵ binh tiến vào biển, Ðức Chúa cho nước biển ập xuống trên họ, còn con cái Ít-ra-en thì đi giữa lòng biển khô cạn.

20 Nữ ngôn sứ Mi-ri-am, em ông A-ha-ron, cầm lấy trống; mọi phụ nữ theo bà đi ra, đánh trống và nhảy múa. 21 Bà Mi-ri-am xướng lên rằng:

"Hãy hát mừng Ðức Chúa, Ðấng cao cả uy hùng,

kỵ binh cùng chiến mã, Người xô xuống đại dương."

II. Cuộc Hành Trình Trong Sa Mạc

"Ma-ra"

22 Ông Mô-sê cho dân Ít-ra-en nhổ trại rời Biển Sậy. Họ ra khỏi đó, tiến vào sa mạc Sua. Họ đi ba ngày trong sa mạc mà không tìm ra nước. 23 Nhưng khi tới Ma-ra, họ không thể uống được nước ở Ma-ra, vì nước đó đắng. Bởi thế, người ta gọi nơi ấy là Ma-ra. 24 Dân kêu trách ông Mô-sê, họ nói: "Chúng tôi sẽ lấy gì mà uống?” 25 Ông kêu lên Ðức Chúa, và Ðức Chúa chỉ cho ông một khúc gỗ. Ông thả xuống nước và nước hoá ra ngọt.

Chính tại đó Ðức Chúa đã ra thánh chỉ và quyết định cho dân; chính tại đó Người đã thử lòng họ.

26 Người phán: "Nếu ngươi thực sự nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, nếu ngươi làm điều ngay chính trước mắt Người, nếu ngươi lắng tai nghe các mệnh lệnh của Người, và giữ mọi thánh chỉ của Người, thì Ta sẽ không giáng xuống ngươi bệnh hoạn nào như Ta đã giáng xuống Ai-cập. Vì Ta là Ðức Chúa, Ðấng chữa lành ngươi."

27 Họ đã đến Ê-lim, nơi có mười hai suối nước và bảy mươi cây chà là. Và họ đóng trại ở đó, bên bờ nước.

Chương 16

Man-na và chim cút

1 Họ nhổ trại rời Ê-lim lên đường, và toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en tới sa mạc Xin, giữa Ê-lim và Xi-nai, vào ngày mười lăm tháng thứ hai kể từ khi họ ra khỏi đất Ai-cập. 2 Trong sa mạc, toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron. 3 Con cái Ít-ra-en nói với các ông: "Phải chi chúng tôi chết bởi tay Ðức Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!"

4 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không. 5 Ngày thứ sáu, khi chúng dọn phần ăn đã đưa về, sẽ có gấp đôi phần chúng lượm mỗi ngày."

6 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron nói với toàn thể con cái Ít-ra-en: "Chiều nay, anh em sẽ biết là chính Ðức Chúa đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập; 7 vào buổi sáng, anh em sẽ thấy vinh quang của Ðức Chúa, vì Ðức Chúa đã nghe thấy những lời anh em kêu trách Người. Còn chúng tôi, chúng tôi là gì mà anh em kêu trách chúng tôi?” 8 Ông Mô-sê nói: "Ðức Chúa cho anh em chiều có thịt để ăn, và sáng có bánh để được thoả thuê, vì Ðức Chúa đã nghe thấy những lời anh em kêu trách Người. Còn chúng tôi, chúng tôi là gì? Không phải anh em đã kêu trách chúng tôi, mà là kêu trách Ðức Chúa."

9 Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron: "Xin anh nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en thế này: Anh em hãy lại gần thánh nhan Ðức Chúa, vì Người đã nghe thấy những lời anh em kêu trách.” 10 Trong khi ông A-ha-ron nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, họ quay mặt về phía sa mạc, và kìa, vinh quang Ðức Chúa xuất hiện trong đám mây. 11 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 12 "Ta đã nghe tiếng con cái Ít-ra-en kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.” 13 Thật vậy, buổi chiều, chim cút bay đến rợp cả trại. Và buổi sáng thì có lớp sương phủ quanh trại. 14 Rồi khi sương tan đi thì trên mặt hoang địa, có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. 15 Khi con cái Ít-ra-en thấy thế, họ liền hỏi nhau: "Man hu?" Nghĩa là: "Cái gì đây?" Vì họ không biết đó là cái gì. Ông Mô-sê bảo họ: "Ðó là bánh Ðức Chúa ban cho anh em làm của ăn! 16 Ðây là điều Ðức Chúa đã truyền: Mỗi người hãy tuỳ theo sức mình ăn được bao nhiêu mà lượm, mỗi người một đấu, tuỳ theo số người; mỗi người hãy lấy luôn cho những người ở cùng lều với mình."

17 Con cái Ít-ra-en đã làm như thế; họ lượm kẻ nhiều người ít. 18 Rồi họ lấy đấu đong: kẻ có nhiều thì không dư, người có ít thì không thiếu. Mỗi người đã lượm tuỳ theo sức mình ăn được bao nhiêu.

19 Ông Mô-sê nói với họ: "Ðừng có ai để dành cho đến sáng.” 20 Một số người đã không nghe lời ông Mô-sê: họ để dành cho đến sáng, nhưng trong đó có giòi bọ và xông ra mùi hôi thối. Bấy giờ ông Mô-sê nổi giận với họ. 21 Sáng nào cũng vậy, mỗi người lượm tuỳ theo sức mình ăn được bao nhiêu. Và khi mặt trời toả sức nóng, thì nó tan ra.

22 Ngày thứ sáu, họ lượm bánh gấp đôi, mỗi người hai đấu. Tất cả những người lãnh đạo cộng đồng đến báo tin cho ông Mô-sê. 23 Ông nói với họ: "Ðây là điều Ðức Chúa phán: mai là ngày nghỉ, ngày sa-bát thánh để kính Ðức Chúa. Cái gì phải nấu, thì nấu; cái gì phải luộc, thì luộc; tất cả những gì còn dư, thì hãy cất đi, để dành cho đến sáng hôm sau.” 24 Họ cất đi cho đến sáng hôm sau như ông Mô-sê đã truyền, mà không thấy hôi và cũng không thấy có giòi bọ. 25 Ông Mô-sê nói: "Hôm nay anh em ăn phần đó đi, vì hôm nay là ngày sa-bát kính Ðức Chúa; hôm nay, anh em sẽ không tìm thấy gì ở ngoài đồng. 26 Trong sáu ngày, anh em hãy lượm man-na; còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát, thì sẽ không có.” 27 Dầu vậy, ngày thứ bảy cũng có người trong dân đi ra lượm mà không tìm thấy. 28 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Cho đến bao giờ nữa các ngươi từ chối không tuân giữ các mệnh lệnh và luật lệ của Ta? 29 Các ngươi xem: Ðức Chúa đã ban ngày sa-bát cho các ngươi; vì thế, ngày thứ sáu, Người ban cho các ngươi bánh đủ ăn hai ngày. Ai nấy hãy ở yên một chỗ; ngày thứ bảy, đừng có ai ra khỏi chỗ ở của mình.” 30 Vậy dân nghỉ việc ngày thứ bảy.

31 Nhà Ít-ra-en đặt tên cho vật ấy là man-na. Nó giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong.

32 Ông Mô-sê nói: "Ðây là điều Ðức Chúa đã truyền: Hãy đong cho đầy một đấu để giữ lại cho con cháu các ngươi; như thế, chúng sẽ thấy bánh Ta đã cho các ngươi ăn trong sa mạc, lúc Ta đem các ngươi ra khỏi đất Ai-cập.” 33 Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron: "Hãy lấy một cái bình và đổ vào đó một đấu đầy man-na, rồi đặt trước nhan Ðức Chúa để giữ lại cho con cháu anh em.” 34 Theo như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê, ông A-ha-ron đã đặt cái bình ấy đằng trước Chứng Ước, để giữ lại.

35 Con cái Ít-ra-en đã ăn man-na suốt bốn mươi năm, cho đến khi họ tới đất định cư; họ đã ăn man-na cho đến khi tới ranh giới đất Ca-na-an. 36 Một đấu tương đương bốn lít rưỡi.

Chương 17

Nước phun ra từ tảng đá (Ds 2:1-13)

1 Toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en nhổ trại rời sa mạc Xin, đi từ chặng này đến chặng khác, theo lệnh của Ðức Chúa. Họ đã đóng trại ở Rơ-phi-đim, nhưng tại đấy không có nước cho dân uống. 2 Dân gây sự với ông Mô-sê. Họ nói: "Cho chúng tôi nước uống đi!" Ông Mô-sê nói: "Tại sao anh em lại gây sự với tôi? Tại sao lại thử thách Ðức Chúa?” 3 Ở đó, dân khát nước nên đã kêu trách ông Mô-sê rằng: "Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập để làm gì? Có phải là để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của (chúng) tôi bị chết khát hay không?” 4 Ông Mô-sê kêu lên cùng Ðức Chúa: "Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con!” 5 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy đi lên phía trước dân, đem theo một số kỳ mục Ít-ra-en; cầm lấy cây gậy ngươi đã dùng để đập xuống sông Nin, và đi đi. 6 Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng kia trước mặt ngươi, trên tảng đá ở núi Khô-rếp. Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy ra cho dân uống." Ông Mô-sê đã làm như vậy trước mắt các kỳ mục Ít-ra-en. 7 Ông đặt tên cho nơi ấy là Ma-xa và Mơ-ri-va, nghĩa là thử thách và gây sự, vì con cái Ít-ra-en đã gây sự và thử thách Ðức Chúa mà rằng: "Có Ðức Chúa ở giữa chúng ta hay không?"

Giao chiến với người A-ma-lếch

8 A-ma-lếch đến đánh Ít-ra-en tại Rơ-phi-đim. 9 Ông Mô-sê bảo ông Giô-suê: "Anh hãy chọn một số người, và ngày mai ra đánh A-ma-lếch. Còn tôi, tôi sẽ đứng trên đỉnh đồi, tay cầm cây gậy của Thiên Chúa.” 10 Ông Giô-suê làm như ông Mô-sê đã bảo: ông đã giao chiến với A-ma-lếch, còn các ông Mô-sê, A-ha-ron và Khua thì lên đỉnh đồi. 11 Khi nào ông Mô-sê giơ tay lên, thì dân Ít-ra-en thắng thế; còn khi ông hạ tay xuống, thì A-ma-lếch thắng thế. 12 Nhưng ông Mô-sê mỏi tay, nên người ta lấy một hòn đá kê cho ông ngồi, còn ông A-ha-ron và ông Khua thì đỡ tay ông, mỗi người một bên.

13 Ông Giô-suê đã dùng lưỡi gươm đánh bại A-ma-lếch và dân của ông ta. 14 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy chép lại việc này vào sách để lưu niệm và hãy nói vào tai Giô-suê rằng: Ta sẽ xoá hẳn tên tuổi A-ma-lếch, khiến cho thiên hạ không còn nhớ đến nó nữa.” 15 Ông Mô-sê dựng một bàn thờ và đặt tên là: "Ðức Chúa, cờ trận của tôi.” 16 Ông nói: "Bởi vì một bàn tay đã giơ lên chống lại ngai của Ðức Chúa, nên có chiến tranh giữa Ðức Chúa và A-ma-lếch từ đời nọ đến đời kia."

Chương 18

Ông Mô-sê gặp ông Gít-rô

1 Ông Gít-rô là tư tế Ma-đi-an và là nhạc phụ ông Mô-sê, nghe biết mọi điều Thiên Chúa đã làm cho ông Mô-sê và Ít-ra-en, dân của Người, khi Ðức Chúa đem Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập. 2 Ông Gít-rô, nhạc phụ ông Mô-sê, trước kia đã đón nhận bà Xíp-pô-ra, người vợ mà ông Mô-sê đã gửi về, 3 cùng với hai người con trai của bà. Một người tên là Ghéc-sôm, vì ông nói: "Tôi là ngoại kiều nơi đất khách quê người"; 4 người kia tên là Ê-li-e-de, vì "Thiên Chúa của cha tôi đã cứu giúp tôi và đã giải thoát tôi khỏi gươm Pha-ra-ô.” 5 Ông Gít-rô, nhạc phụ ông Mô-sê, cùng với vợ con ông Mô-sê đến gặp ông Mô-sê ở sa mạc, nơi ông này dựng lều, gần núi của Thiên Chúa. 6 Ông cho người đến nói với ông Mô-sê: "Tôi là Gít-rô, nhạc phụ của anh, cùng với vợ con anh đến gặp anh.” 7 Ông Mô-sê ra đón tiếp nhạc phụ, phủ phục và ôm hôn ông. Rồi các ông vấn an nhau và bước vào lều. 8 Ông Mô-sê kể cho nhạc phụ nghe tất cả những gì Ðức Chúa đã giáng xuống Pha-ra-ô và Ai-cập vì Ít-ra-en, mọi nỗi gian truân Ít-ra-en gặp phải trên đường và cách Ðức Chúa đã giải thoát họ. 9 Ông Gít-rô lấy làm vui sướng vì mọi sự lành Ðức Chúa đã làm cho Ít-ra-en, khi Người giải thoát họ khỏi tay người Ai-cập. 10 Ông Gít-rô nói: "Chúc tụng Ðức Chúa đã giải thoát các ông khỏi tay người Ai-cập và tay Pha-ra-ô, đã giải thoát dân khỏi tay người Ai-cập! 11 Giờ đây, tôi nhận biết rằng Ðức Chúa cao cả hơn hết mọi thần minh, vì Người đã chứng tỏ điều đó khi người ta đối xử ngạo mạn với dân."

12 Ông Gít-rô, nhạc phụ ông Mô-sê, dâng lên Thiên Chúa lễ toàn thiêu và các hy lễ. Ông A-ha-ron và mọi kỳ mục của Ít-ra-en đã đến ăn bánh với nhạc phụ ông Mô-sê trước nhan Thiên Chúa.

Ðặt các thẩm phán (Ðnl 1:9-18)

13 Hôm sau, ông Mô-sê ngồi xử kiện cho dân. Dân đứng bên ông Mô-sê từ sáng đến chiều. 14 Nhạc phụ của ông Mô-sê thấy tất cả những gì ông đã làm cho dân thì nói: "Anh đang làm gì cho dân vậy? Tại sao chỉ có một mình anh ngồi xử, trong khi cả dân đứng chầu chực anh từ sáng đến chiều? “ 15 Ông Mô-sê nói với nhạc phụ: "Ấy là vì dân đến với con để thỉnh ý Thiên Chúa. 16 Khi họ có việc gì, họ đến với con; con phân xử cho đôi bên và cho biết những thánh chỉ và lề luật của Thiên Chúa.” 17 Nhạc phụ ông Mô-sê nói với ông: "Anh làm như thế không tốt đâu! 18 Chắc chắn anh sẽ kiệt sức, và cả dân đang ở đây với anh cũng vậy; vì công việc quá nặng đối với anh, anh không thể làm nổi một mình. 19 Bây giờ anh hãy nghe lời tôi khuyên; cầu chúc Thiên Chúa ở với anh! Còn anh, anh hãy đứng ra thay mặt dân trước nhan Thiên Chúa: chính anh sẽ trình các việc lên Thiên Chúa, 20 sẽ dạy cho họ các thánh chỉ, các lề luật, và cho họ biết đường lối phải đi và cách phải xử sự. 21 Rồi anh hãy xem trong toàn dân những ai là người có tài, biết kính sợ Thiên Chúa, đáng tin cậy, không ham của bất chính, thì đặt họ làm người chỉ huy: điều khiển một ngàn hay một trăm, năm mươi hay mười người. 22 Họ sẽ thường trực xử kiện cho dân; việc nào lớn thì họ trình lên anh, còn việc nào nhỏ thì chính họ xử lấy: hãy làm như vậy để nhẹ gánh cho anh. Họ phải gánh việc đỡ anh. 23 Nếu anh làm điều đó, thì Thiên Chúa sẽ chỉ bảo cho anh, anh sẽ có thể đứng vững, và hơn nữa cả đám dân này có thể về nhà bình an."

24 Ông Mô-sê nghe lời nhạc phụ và đã làm tất cả những điều ông ấy nói. 25 Ông Mô-sê chọn trong toàn dân Ít-ra-en những người có tài và đặt họ làm đầu dân, điều khiển một ngàn hay một trăm, năm mươi hay mười người. 26 Họ thường trực xử kiện cho dân: việc khó thì họ trình lên ông Mô-sê, mọi việc nhỏ thì chính họ xử lấy. 27 Rồi ông Mô-sê tiễn chân nhạc phụ, và ông này trở về xứ mình.

Chương 19

III. Giao Ước Xi-Nai

1. Giao Ước Và Mười Ðiều Răn

Tới núi Xi-nai

1 Tháng thứ ba kể từ khi ra khỏi đất Ai-cập, chính ngày đó con cái Ít-ra-en tới sa mạc Xi-nai. 2 Họ đã nhổ trại rời Rơ-phi-đim tới sa mạc Xi-nai, và dựng trại trong sa mạc. Ít-ra-en đóng trại ở đó, đối diện với núi.

Thiên Chúa hứa ban giao ước

3 Ông Mô-sê lên gặp Thiên Chúa. Từ trên núi, Ðức Chúa gọi ông và phán: "Ngươi sẽ nói với nhà Gia-cóp, sẽ thông báo cho con cái Ít-ra-en thế này: 4 Các ngươi thấy Ta đã xử với Ai-cập thế nào, và đã mang các ngươi như trên cánh chim bằng, mà đem đến với Ta. 5 Vậy giờ đây, nếu các ngươi thực sự nghe tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, thì giữa hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu riêng của Ta. Vì toàn cõi đất đều là của Ta. 6 Ta sẽ coi các ngươi là một vương quốc tư tế, một dân thánh. Ðó là những lời ngươi sẽ nói với con cái Ít-ra-en.” 7 Ông Mô-sê về triệu tập các kỳ mục trong dân, trình bày cho họ biết tất cả những lời Ðức Chúa đã truyền cho ông. 8 Toàn dân nhất trí đáp lại: "Mọi điều Ðức Chúa phán bảo, chúng tôi xin làm theo." Ông Mô-sê thưa lại với Ðức Chúa những lời dân nói.

Chuẩn bị giao ước

9 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Này Ta sẽ đến với ngươi trong đám mây dày đặc, để khi Ta nói với ngươi thì dân nghe thấy và cũng tin vào ngươi luôn mãi." Ông Mô-sê thưa lại với Ðức Chúa những lời dân nói.

10 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đến với dân và bảo họ: hôm nay và ngày mai phải giữ mình cho khỏi nhiễm uế, phải giặt quần áo, 11 và đến ngày kia phải sẵn sàng, vì ngày kia Ðức Chúa sẽ ngự xuống trên núi Xi-nai trước mắt toàn dân. 12 Ngươi sẽ định rõ cho dân một giới hạn chung quanh núi và bảo họ: Anh em phải coi chừng không được lên núi và chạm đến chân núi. Ai chạm đến núi thì sẽ bị giết. 13 Không bàn tay nào được chạm đến người đó; nó sẽ bị ném đá cho chết hoặc bị bắn bằng cung tên, dù là thú vật hay là người, nó sẽ không được sống. Khi tù và rúc, dân sẽ lên núi."

14 Ông Mô-sê từ trên núi xuống với dân và bảo họ giữ mình cho khỏi nhiễm uế; họ giặt quần áo. 15 Ông Mô-sê bảo dân: "Trong ba ngày, anh em phải chuẩn bị sẵn sàng. Ðừng gần gũi đàn bà."

Cuộc thần hiện

16 Ðến ngày thứ ba, ngay từ sáng, có sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi, và có tiếng tù và thổi rất mạnh. Toàn dân trong trại đều run sợ. 17 Ông Mô-sê đưa dân ra khỏi trại để nghênh đón Thiên Chúa; họ đứng dưới chân núi. 18 Cả núi Xi-nai nghi ngút khói, vì Ðức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh. 19 Tiếng tù và mỗi lúc một tăng lên rất mạnh. Ông Mô-sê nói, và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm. 20 Ðức Chúa ngự xuống trên núi Xi-nai, trên đỉnh núi. Người gọi ông Mô-sê lên đỉnh núi, và ông đi lên. 21 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy xuống cảnh cáo dân đừng kéo nhau lên để xem Ðức Chúa, kẻo nhiều người phải lăn ra chết. 22 Ngay các tư tế đến gần Ðức Chúa cũng phải giữ mình cho khỏi nhiễm uế, kẻo bị Ðức Chúa đánh phạt.” 23 Ông Mô-sê thưa với Ðức Chúa: "Dân không thể lên núi Xi-nai được, vì chính Ngài đã cảnh cáo chúng con rằng: Hãy vạch rõ ranh giới của núi và tuyên bố đó là núi thánh.” 24 Ðức Chúa phán với ông: "Hãy đi xuống, rồi lại trở lên, đem theo A-ha-ron với ngươi. Còn tư tế và dân thì đừng có kéo nhau lên Ðức Chúa, kẻo bị Ðức Chúa đánh phạt.” 25 Ông Mô-sê xuống với dân và nói với họ.

Chương 20

Mười điều răn (Ðnl 5:1-33)

1 Thiên Chúa phán tất cả những lời sau đây:

2 "Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ.

3 Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta.

4 Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ.

5 Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Ðối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. 6 Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời.

7 Ngươi không được dùng danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Ðức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng.

8 Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. 9 Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. 10 Còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. 11 Vì trong sáu ngày, Ðức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Ðức Chúa đã chúc phúc cho ngày sa-bát và coi đó là ngày thánh.

12 Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi.

13 Ngươi không được giết người.

14 Ngươi không được ngoại tình.

15 Ngươi không được trộm cắp.

16 Ngươi không được làm chứng gian hại người.

17 Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta."

18 Khi nghe tiếng sấm sét, tiếng tù và, khi thấy ánh lửa và núi bốc khói, toàn dân sợ hãi run rẩy và đứng xa xa. 19 Họ nói với ông Mô-sê: "Xin chính ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất!” 20 Ông Mô-sê bảo dân: "Ðừng sợ hãi, vì Thiên Chúa đến là để thử thách anh em và làm cho anh em luôn luôn kính sợ Người, ngõ hầu anh em đừng phạm tội.” 21 Dân đứng xa xa, còn ông Mô-sê thì tiến lại gần đám mây đen, nơi Thiên Chúa đang ngự.

2. Bộ Luật Giao Ước

Luật về bàn thờ

22 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi sẽ bảo con cái Ít-ra-en như thế này: Chính các ngươi đã thấy là tự trời Ta đã nói với các ngươi. 23 Các ngươi đừng tạc tượng thần bằng bạc mà đặt bên cạnh Ta, và cũng đừng tạc tượng thần bằng vàng để thờ.

24 Ngươi sẽ dựng cho Ta một bàn thờ bằng đất, trên đó ngươi sẽ dâng lễ toàn thiêu, lễ kỳ an, dâng chiên cừu bò bê. Ở bất cứ nơi nào Ta tỏ danh Ta cho ngươi ghi nhớ, Ta sẽ đến với ngươi và chúc phúc cho ngươi. 25 Nếu ngươi dựng cho Ta một bàn thờ bằng đá, thì đừng lấy đá đẽo mà dựng, bởi vì lấy đục mà đẽo, thì làm cho đá ra bất xứng. 26 Ngươi sẽ không dùng bậc để bước lên bàn thờ của Ta, kẻo ngươi hở hang trước bàn thờ.

Chương 21

Luật về người nô lệ (Ðnl 15:12 -18)

1 Ðây là những luật lệ ngươi sẽ trình bày cho họ. 2 Nếu ngươi mua một người nô lệ Híp-ri, người đó sẽ hầu hạ sáu năm; đến năm thứ bảy, người đó sẽ được tự do ra đi, mà không phải trả tiền. 3 Nếu người đó đến một mình, thì sẽ ra đi một mình; nếu người đó đã lấy vợ, thì vợ sẽ ra đi với người đó. 4 Nếu chủ cưới vợ cho người đó và nếu vợ sinh được con trai hoặc con gái, thì vợ con đều thuộc về chủ, còn người đó sẽ ra đi một mình. 5 Nhưng nếu người nô lệ nói: Tôi mến chủ tôi và thương vợ thương con, tôi không muốn được tự do ra đi, 6 thì chủ sẽ dẫn người đó đến trước mặt Thiên Chúa, dẫn đến sát cánh cửa hoặc khung cửa, và lấy dùi xỏ tai người đó. Như thế, người đó sẽ hầu hạ chủ suốt đời. 7 Nếu có ai bán con gái làm nàng hầu, người con gái đó sẽ không được ra đi như các nô lệ nam. 8 Nếu người con gái đó không vừa ý chủ, và chủ không muốn giữ lại cho mình, thì chủ phải cho chuộc, chứ không có quyền bán cho dân nước ngoài, vì như vậy là phản bội người con gái đó. 9 Nếu muốn dành người con gái đó cho con trai mình, thì chủ sẽ xử sự theo luật áp dụng cho con gái của mình. 10 Nếu chủ lấy một người khác, thì không được giảm bớt lương thực, quần áo và quyền làm vợ của người trước. 11 Nếu chủ không thi hành ba khoản đó, thì nàng được ra đi, khỏi cần trả tiền trả bạc.

Giết người

12 Ai đánh chết người, thì phải bị giết chết. 13 Nhưng nếu không có mưu tính trước, mà chỉ vì Thiên Chúa đã để lỡ tay, thì Ta sẽ chỉ cho ngươi một nơi mà kẻ giết người có thể vào trú ẩn. 14 Nếu có ai cố tình hại người thân cận tới mức dùng mưu mà giết nó, thì ngươi sẽ lôi kẻ ấy ra khỏi bàn thờ của Ta mà giết chết.

15 Ai đánh cha hoặc mẹ, thì phải bị giết chết. 16 Ai bắt cóc người - dù đã bán đi hay còn giữ trong tay, - thì phải bị giết chết. 17 Kẻ nào nguyền rủa cha hoặc mẹ, thì phải bị giết chết.

Ðánh đập và gây thương tích

18 Trong một cuộc cãi lộn, nếu người này ném đá hoặc đấm người kia mà không làm người kia chết, nhưng phải liệt giường, 19 và nếu người kia trỗi dậy, còn chống gậy ra ngoài đi lại được, thì kẻ đã đánh được tha; chỉ phải bồi thường cho người kia trong thời gian người ấy phải nghỉ việc, và lo chữa người ấy cho lành.

20 Nếu có ai lấy gậy đánh tôi tớ nam nữ của mình, làm cho nó chết ngay dưới tay mình, thì nó phải được báo oán. 21 Nhưng nếu nạn nhân còn sống được một hai ngày, thì sẽ không được báo oán, vì chủ đã bỏ tiền ra mua nó.

22 Nếu đàn ông đánh nhau mà xô phải một người đàn bà có thai, làm sẩy thai nhưng không gây tổn thương nào khác, thì phải bồi thường theo đòi hỏi của người chồng, và phải trả trước mặt trọng tài. 23 Nếu có gây tổn thương, thì ngươi phải lấy mạng đền mạng, 24 mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, 25 vết bỏng đền vết bỏng, vết thương đền vết thương, vết bầm đền vết bầm.

26 Nếu có ai đánh vào mắt tôi tớ nam nữ của mình, và làm hư mắt đó, thì phải phóng thích nó để đền mắt. 27 Nếu có ai làm gãy răng tôi tớ nam nữ của mình, thì phải phóng thích nó để đền răng.

28 Nếu bò húc chết một người đàn ông hay đàn bà, thì phải ném đá con bò ấy cho chết, và không được ăn thịt nó; còn người chủ sẽ được tha bổng. 29 Nếu trước đó con bò đã quen húc người, và chủ nó đã được cảnh cáo mà không canh giữ, để nó húc chết người, thì con bò sẽ bị ném đá cho chết và chủ nó cũng sẽ phải chết. 30 Nếu người ta đòi tiền chuộc, thì chủ phải trả để chuộc mạng sống mình, thể theo tất cả những đòi hỏi của người ta. 31 Nếu bò húc con trai hay con gái, thì người ta cũng sẽ xử trí theo luật đó. 32 Nếu bò húc tôi tớ nam nữ, thì người ta sẽ đưa cho chủ của nạn nhân ba mươi đồng bạc, còn bò thì sẽ bị ném đá cho chết.

33 Khi có ai mở nắp hoặc đào một bể nước mà không đậy nắp lại, và nếu bò lừa sa vào đó, 34 thì chủ bể nước phải thường tiền cho chủ con vật, nhưng con vật chết được thuộc về chủ bể nước. 35 Nếu bò người này húc chết bò người kia, thì hai người chủ sẽ bán con bò sống và chia nhau tiền; họ cũng sẽ chia nhau con bò chết nữa. 36 Nếu đã rõ là bò quen húc, mà chủ nó không canh giữ, thì phải lấy bò đền bò; nhưng con vật chết thuộc về người ấy.

Lấy trộm thú vật

37 Nếu có ai lấy trộm chiên bò, rồi làm thịt hoặc đem bán, thì sẽ lấy năm con bò đền một, và bốn con chiên đền một.

Chương 22

1 Nếu kẻ trộm bị bắt quả tang đang lúc đào ngạch và bị đánh chết, thì không có chuyện đòi nợ máu. 2 Nhưng nếu mặt trời đã mọc, thì phải đòi nợ máu. Ăn trộm phải bồi thường; nếu không có gì bồi thường, thì bán nó đi mà đền những gì nó đã lấy trộm. 3 Nếu tìm thấy trong tay nó của đã lấy trộm, dù là bò, lừa hay chiên cừu còn sống, thì nó phải bồi thường gấp đôi.

Những tội phải bồi thường

4 Khi có ai làm hại ruộng đồng hay vườn nho và thả súc vật cho nó ăn hại ruộng người khác, thì phải lấy phần tốt nhất trong ruộng, trong vườn nho của mình mà bồi thường.

5 Khi có đám cháy lan đến bụi gai và thiêu huỷ đồng lúa đã gặt, lúa chưa gặt, hoặc ruộng nương, thì kẻ gây hoả hoạn phải bồi thường.

6 Khi có ai gửi người thân cận giữ hộ tiền bạc hay đồ vật mà bị mất trộm tại nhà người này, và nếu tìm thấy kẻ trộm, thì kẻ trộm phải bồi thường gấp đôi. 7 Nếu không tìm thấy kẻ trộm, thì chủ nhà phải tiến lại gần Thiên Chúa mà thề không có đụng tới của cải người thân cận.

8 Về mọi nố tội phạm liên quan đến bò lừa, chiên và quần áo, đến mọi vật bị mất, mà nếu có người nói: của tôi đó! Thì đôi bên phải đưa sự việc ra trước mặt Thiên Chúa. Kẻ bị Thiên Chúa tuyên bố là có tội, phải bồi thường gấp đôi cho người thân cận.

9 Khi có ai gửi người thân cận giữ hộ mình lừa, bò, chiên hay thú vật nào, nếu con vật ấy chết, bị thương hoặc bị lấy trộm mà không có ai chứng kiến, 10 thì đôi bên phải đến trước mặt Ðức Chúa: người giữ con vật phải thề không có đụng tới của cải người thân cận. Chủ con vật phải chấp nhận lời thề và người kia không phải bồi thường. 11 Nếu con vật bị lấy trộm trong nhà người giữ hộ, thì người này phải bồi thường cho chủ con vật. 12 Nếu con vật hoàn toàn bị thú dữ xé xác, và nếu người giữ hộ đưa ra bằng chứng, thì không phải bồi thường.

13 Khi có ai mượn người thân cận một con vật và để con vật bị thương hoặc chết trong khi chủ vắng mặt, thì người mượn phải bồi thường. 14 Nếu chủ có mặt, thì người ấy không phải bồi thường. Nếu là con vật cho thuê, chủ sẽ lấy tiền thuê.

Xâm phạm tiết hạnh gái trinh

15 Khi có ai dụ dỗ một thiếu nữ chưa đính hôn và ăn nằm với nàng, thì phải trả tiền cưới cho gia đình nàng. Nàng sẽ thành vợ người đó. 16 Nếu cha nàng nhất định không chịu gả, người ấy sẽ phải nộp một số tiền tương đương với tiền cưới một người con gái.

Luật đạo đức và luật tôn giáo

17 Ðàn bà phù thuỷ, ngươi không được để cho sống.

18 Kẻ giao hợp với thú vật phải bị tử hình.

19 Kẻ tế thần khác ngoài Ðức Chúa, sẽ bị Ðức Chúa loại trừ.

20 Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập. 21 Mẹ goá con côi, các ngươi không được ức hiếp. 22 Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu. 23 Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các ngươi: thế là vợ các ngươi sẽ thành goá bụa, và con các ngươi sẽ thành côi cút.

24 Nếu ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì ngươi không được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi.

25 Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn. 26 Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ.

27 Ngươi không được nói phạm đến Thiên Chúa, không được nguyền rủa người đầu mục trong dân.

Của đầu mùa và con đầu lòng

28 Ngươi không được chậm trễ dâng phần hoa màu và rượu nho của ngươi. Con đầu lòng trong số con cái ngươi, ngươi sẽ dâng cho Ta. 29 Bò và chiên cừu của ngươi, ngươi cũng phải làm thế: con đầu lòng sẽ ở với mẹ nó bảy ngày, ngày thứ tám ngươi sẽ dâng nó cho Ta.

30 Các ngươi sẽ là những người được thánh hiến cho Ta: thịt con vật bị thú dữ xé ngoài đồng, các ngươi đừng ăn, nhưng phải ném cho chó.

Chương 23

Công lý. Bổn phận đối với kẻ thù.

1 Ngươi không được phao tin đồn nhảm. Ðừng làm chứng gian mà tiếp tay với kẻ xấu. 2 Ngươi không được hùa theo số đông để làm điều trái; trong một vụ kiện, ngươi không được ngả theo số đông mà làm chứng, khiến công lý bị sai lệch. 3 Ngươi không được thiên vị người yếu thế khi họ có việc kiện tụng.

4 Nếu gặp bò hay lừa của kẻ thù đi lạc, ngươi phải dẫn nó về cho người ấy. 5 Nếu thấy lừa của kẻ ghét ngươi quỵ ngã vì chở nặng, ngươi không được để mặc người ấy; ngươi phải giúp người ấy đỡ lừa dậy.

6 Ngươi không được làm thiệt hại đến quyền lợi của người nghèo cậy nhờ ngươi, khi họ có việc kiện tụng. 7 Ngươi phải lánh xa điều gian dối. Ngươi không được giết kẻ vô tội và công chính, vì Ta không cho kẻ có tội được trắng án. 8 Ngươi không được nhận quà hối lộ, vì quà hối lộ làm cho những kẻ sáng mắt hoá ra đui mù và làm hỏng việc của những người công chính.

9 Người ngoại kiều, các ngươi không được áp bức; chính các ngươi đã biết thân phận của người ngoại kiều, vì các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập.

Năm sa-bát và ngày sa-bát

10 Trong vòng sáu năm, ngươi sẽ cày cấy ruộng đất ngươi, gieo trồng và thu hoa lợi. 11 Nhưng năm thứ bảy, ngươi sẽ để đất ngưng sinh hoa màu, để đất hưu canh; những người nghèo trong dân ngươi sẽ được hưởng hoa màu đó, những gì còn lại thì bỏ cho dã thú ăn. Vườn nho và vườn ô-liu, ngươi cũng sẽ làm như thế.

12 Trong sáu ngày, ngươi sẽ làm công việc của ngươi; nhưng ngày thứ bảy, ngươi sẽ nghỉ, để bò lừa của ngươi được nghỉ ngơi, và để đứa con của nữ tỳ ngươi và người ngoại kiều lấy lại sức.

13 Các ngươi sẽ lưu tâm đến mọi điều Ta đã nói với các ngươi. Các ngươi đừng nhắc tên những thần khác: chớ để người ta nghe miệng ngươi thốt ra những tên ấy.

Các ngày lễ của Ít-ra-en (Xh 34:18 -26; Ðnl 16:1-7)

14 Ngươi sẽ mừng lễ kính Ta mỗi năm ba lần. 15 Ngươi sẽ giữ tục lệ mừng lễ Bánh Không Men: trong bảy ngày, ngươi sẽ ăn bánh không men vào thời chỉ định trong tháng A-víp, như Ta đã truyền cho ngươi, vì trong tháng đó ngươi đã ra khỏi Ai-cập. Người ta không được đi tay không đến trước nhan Ta. 16 Ngươi cũng sẽ giữ tục lệ mừng lễ Mùa gặt, lễ dâng của đầu mùa, do sức lao động ngươi làm ra, do công ngươi gieo cấy ngoài đồng; rồi ngươi sẽ giữ tục lệ mừng lễ Thu hoạch vào cuối năm, khi ngươi thu hoạch hoa màu ngoài đồng ngươi đã làm ra. 17 Mỗi năm ba lần, tất cả đàn ông con trai phải đến trước nhan Chúa Tể là Ðức Chúa.

18 Khi dâng lễ vật hy sinh, ngươi đừng dâng máu của nó cùng với bánh có men, và chớ giữ lại mỡ của ngày lễ kính Ta suốt đêm cho đến sáng hôm sau.

19 Của đầu mùa tốt nhất của đất đai ngươi, ngươi phải đem đến nhà Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi.

Ngươi không được lấy sữa dê mẹ mà nấu thịt dê con.

Lời hứa và chỉ thị liên quan đến biến cố vào xứ Ca-na-an

20 Lời hứa và chỉ thị liên quan đến biến cố vào xứ Ca-na-an

Này Ta sai thiên sứ đi trước ngươi, để giữ gìn ngươi khi đi đường, và đưa ngươi vào nơi Ta đã dọn sẵn. 21 Trước mặt người, hãy ý tứ và nghe lời người. Ðừng làm cho người phải chịu cay đắng; người sẽ không tha lỗi cho các ngươi, vì danh Ta ngự trong người. 22 Nếu thực sự ngươi nghe lời người, nếu ngươi làm mọi điều Ta nói, Ta sẽ trở thành kẻ thù của kẻ thù ngươi, đối phương của đối phương ngươi. 23 Thiên sứ của Ta sẽ đi trước mặt ngươi và dẫn ngươi vào xứ người E-mô-ri, Khết, Pơ-rít-di, Ca-na-an, Khi-vi, Giơ-vút; và Ta sẽ tiêu diệt chúng. 24 Ngươi không được phủ phục trước các thần của chúng, cũng đừng phụng thờ các thần ấy; ngươi không được làm theo các việc chúng làm, nhưng phải phá huỷ thần của chúng và đập vỡ các trụ đá của chúng. 25 Các ngươi phải thờ phượng Ðức Chúa, Thiên Chúa các ngươi; Người sẽ chúc phúc cho bánh ngươi ăn, cho nước ngươi uống. Ta sẽ đẩy bệnh tật xa ngươi. 26 Trong xứ của ngươi, sẽ không có phụ nữ sẩy thai hay son sẻ. Ta sẽ cho ngươi sống đầy đủ số năm tháng ngày giờ dành cho ngươi.

27 Ta sẽ gieo kinh hoàng xuống nơi ngươi sẽ đến, sẽ gây rối loạn nơi hết mọi dân tộc ngươi sẽ tới, và Ta sẽ làm cho tất cả thù địch của ngươi phải quay lưng chạy trốn ngươi. 28 Ta sẽ thả ong bầu bay đi trước ngươi; chúng sẽ đuổi người Khi-vi, người Ca-na-an và người Khết đi khuất mắt ngươi. 29 Ta sẽ không đuổi các dân này đi khuất mắt ngươi ngay trong một năm, kẻo xứ ấy trở thành hoang vu, và dã thú sinh sôi nẩy nở làm hại ngươi. 30 Dần dần Ta sẽ đuổi chúng đi khuất mắt ngươi, cho đến khi ngươi sinh sản ra nhiều, mà thừa hưởng xứ này. 31 Ta sẽ ấn định ranh giới lãnh thổ ngươi từ Biển Sậy cho đến Biển của người Phi-li-tinh, từ sa mạc cho đến Sông Cả, vì Ta sẽ nộp dân bản xứ vào tay ngươi và sẽ đuổi chúng đi cho khuất mắt ngươi. 32 Ngươi sẽ không ký giao ước với chúng và các thần của chúng. 33 Chúng sẽ không ở trong xứ của ngươi, kẻo chúng làm cho ngươi lỗi phạm đến Ta, vì ngươi có thể phụng thờ các thần của chúng, và điều đó trở thành cạm bẫy cho ngươi."

Chương 24

3. Ký Giao Ước

1 Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy lên với Ðức Chúa, ngươi cùng với A-ha-ron, Na-đáp, A-vi-hu và bảy mươi người trong hàng kỳ mục Ít-ra-en. Các ngươi sẽ phủ phục ở đằng xa. 2 Một mình Mô-sê sẽ lại gần Ðức Chúa, còn những người khác sẽ không được lại gần. Dân cũng sẽ không được lên với Mô-sê.” 3 Ông Mô-sê xuống thuật lại cho dân mọi lời của Ðức Chúa và mọi điều luật. Toàn dân đồng thanh đáp: "Mọi lời Ðức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành.” 4 Ông Mô-sê chép lại mọi lời của Ðức Chúa. Sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn thờ dưới chân núi và dựng mười hai trụ đá cho mười hai chi tộc Ít-ra-en. 5 Rồi ông sai các thanh niên trong dân Ít-ra-en dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò làm hy lễ kỳ an tế Ðức Chúa. 6 Ông Mô-sê lấy một nửa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. 7 Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: "Tất cả những gì Ðức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo.” 8 Bấy giờ, ông Mô-sê lấy máu rảy lên dân và nói: "Ðây là máu giao ước Ðức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này."

9 Ông Mô-sê đi lên cùng với ông A-ha-ron, Na-đáp, A-vi-hu và bảy mươi người trong hàng kỳ mục Ít-ra-en. 10 Họ nhìn thấy Thiên Chúa của Ít-ra-en; dưới chân Người như có nền lát bằng lam ngọc, trong vắt như chính bầu trời. 11 Người không ra tay hại những bậc vị vọng của Ít-ra-en; họ được chiêm ngưỡng Thiên Chúa, và sau đó họ ăn uống.

Ông Mô-sê ở trên núi

12 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy lên núi với Ta và ở lại đó; Ta sẽ ban cho ngươi những bia đá: luật và mệnh lệnh Ta đã viết ra để dạy dỗ chúng.” 13 Ông Mô-sê đứng lên cùng với người phụ tá là ông Giô-suê, rồi ông Mô-sê lên núi của Thiên Chúa. 14 Ông nói với các kỳ mục: "Các ông đợi chúng tôi ở đây cho đến khi chúng tôi trở lại với các ông. Ðây có ông A-ha-ron và ông Khua ở với các ông. Ai có việc gì, cứ đến với hai ông ấy.” 15 Ông Mô-sê lên núi.

16 Vinh quang Ðức Chúa ngự trên núi Xi-nai và mây bao phủ núi sáu ngày. Ðến ngày thứ bảy, từ giữa đám mây, Người gọi ông Mô-sê. 17 Vinh quang Ðức Chúa xuất hiện trên đỉnh núi trông giống như ngọn lửa thiêu, trước mắt con cái Ít-ra-en. 18 Ông Mô-sê vào giữa đám mây và đi lên núi. Ông Mô-sê ở trên núi bốn mươi ngày bốn mươi đêm.

Chương 25

4. Chỉ Thị Về Việc Dựng Nơi Thánh Và Về Các Tư Tế

Ðóng góp để dựng nơi thánh (Xh 35:4-9)

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 2 "Hãy bảo con cái Ít-ra-en là phải đóng góp vào việc thờ phượng Ta. Các ngươi hãy nhận phần đóng góp nơi những người nhiệt tâm. 3 Ðây là phần đóng góp các ngươi sẽ nhận của họ: vàng, bạc và đồng, 4 vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm, vải gai mịn và lông dê, 5 da cừu nhuộm đỏ, da cá heo và gỗ keo, 6 dầu thắp đèn, hương liệu để chế dầu tấn phong và làm hương thơm, 7 hồng mã não và ngọc quý để nhận vào áo ê-phốt và túi đeo trước ngực. 8 Chúng sẽ dựng cho Ta một nơi thánh để Ta ngự ở giữa chúng. 9 Theo như các mẫu chính Ta sẽ chỉ cho ngươi: Nhà Tạm và mọi đồ dùng, các ngươi sẽ làm như vậy.

Nhà Tạm và Hòm Bia (Xh 37:1-9)

10 "Chúng phải làm một Hòm Bia bằng gỗ keo, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi. 11 Ngươi sẽ lấy vàng ròng mà bọc, ngươi sẽ lấy vàng mà bọc cả trong lẫn ngoài. Ngươi sẽ làm trên đó một đường viền chung quanh bằng vàng. 12 Ngươi sẽ đúc cho Hòm Bia bốn chiếc vòng bằng vàng và gắn vào bốn chân Hòm Bia: bên này hai vòng, bên kia hai vòng. 13 Ngươi sẽ làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng. 14 Ngươi sẽ xỏ đòn vào những vòng bên sườn Hòm Bia để khiêng. 15 Ðòn để xỏ vào vòng của Hòm Bia thì không được rút ra nữa. 16 Ngươi sẽ đặt vào Hòm Bia Chứng Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi.

17 Ngươi sẽ làm một cái nắp xá tội bằng vàng ròng, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi. 18 Ngươi sẽ làm hai tượng thần hộ giá bằng vàng gò, ngươi sẽ làm các tượng ấy ở hai đầu nắp. 19 Ngươi sẽ làm một tượng ở đầu này, một tượng ở đầu kia; ngươi sẽ làm các tượng thần hộ giá gắn liền với nắp, ở hai đầu. 20 Các tượng thần hộ giá có cánh giương lên và phủ trên nắp. Hai tượng đối diện với nhau, cùng cúi mặt xuống nắp. 21 Ngươi sẽ đậy nắp xá tội trên Hòm Bia, và ngươi sẽ đặt vào đó Chứng Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi. 22 Ở đó Ta sẽ gặp gỡ ngươi. Từ trên nắp, giữa hai tượng thần hộ giá đặt trên Hòm Bia Chứng Ước, Ta sẽ nói với ngươi tất cả những gì Ta truyền cho ngươi để ngươi nói lại cho con cái Ít-ra-en.

Bàn để bánh tiến (Xh 37:10 -16)

23 "Ngươi sẽ làm một cái bàn bằng gỗ keo, dài một thước, rộng nửa thước và cao bảy tấc rưỡi. 24 Ngươi sẽ lấy vàng ròng mà bọc, và ngươi sẽ làm một đường viền chung quanh bằng vàng. 25 Chung quanh bàn, ngươi sẽ đóng nẹp rộng một tấc và viền nẹp bằng vàng. 26 Ngươi sẽ làm bốn vòng bằng vàng và đặt các vòng đó vào bốn góc, ở bốn chân bàn. 27 Các vòng đó ở gần nẹp, dùng để xỏ đòn khiêng bàn. 28 Ngươi sẽ làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng để khiêng bàn. 29 Ngươi sẽ làm khay, ly, bình và chén để tế lễ; ngươi sẽ làm những đồ ấy bằng vàng ròng. 30 Ngươi phải luôn luôn đặt bánh tiến trên bàn, trước nhan Ta.

Trụ đèn (Xh 37:17 -24)

31 "Ngươi sẽ làm một trụ đèn bằng vàng ròng. Ngươi sẽ làm trụ đèn, chân đèn và nhánh đèn bằng vàng gò; đài hoa, nụ hoa và cánh hoa gắn liền với trụ đèn. 32 Sáu nhánh đâm ra hai bên: ba nhánh bên này, ba nhánh bên kia. 33 Trên nhánh bên này, có ba đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ và cánh hoa; trên nhánh bên kia, có ba đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ hoa và cánh hoa. Sáu nhánh từ trụ đèn đâm ra sẽ đều như thế. 34 Ở thân trụ đèn, có bốn đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ hoa và cánh hoa. 35 Một nụ hoa nằm dưới hai nhánh đầu gắn liền với trụ đèn, một nụ hoa nằm dưới hai nhánh giữa gắn liền với trụ đèn, và một nụ hoa nằm dưới hai nhánh cuối gắn liền với trụ đèn. Sáu nhánh từ trụ đèn đâm ra sẽ đều như thế. 36 Các nụ hoa và nhánh đều gắn liền với trụ đèn; tất cả thành một khối bằng vàng gò, bằng vàng ròng. 37 Rồi ngươi sẽ làm bảy cái đèn, đặt lên đó thế nào cho chúng toả ánh sáng ra phía trước trụ đèn. 38 Kéo cắt bấc và đĩa đựng tàn sẽ bằng vàng ròng. 39 Ngươi phải dùng đến ba mươi ký vàng ròng để làm trụ đèn và mọi đồ phụ tùng đó. 40 Hãy nhìn xem và làm theo mẫu đã chỉ cho ngươi trên núi.

Chương 26

Nhà Tạm. Vải và bạt. (Xh 36:8-19)

1 "Ngươi sẽ dựng Nhà Tạm với mười tấm thảm bằng sợi gai mịn xe, vải đỏ tía, vải điều và vải đỏ thẫm. Ngươi sẽ cho thêu trên đó những thần hộ giá rất mỹ thuật. 2 Mỗi tấm thảm dài mười bốn thước, rộng hai thước; tấm nào cũng có kích thước như vậy. 3 Năm tấm khâu liền với nhau, còn năm tấm kia cũng khâu liền với nhau. 4 Ngươi sẽ lấy vải đỏ tía làm dải đính vào mép tấm thứ nhất của những tấm thảm ráp lại; ngươi cũng đính như thế vào mép tấm cuối cùng của những tấm thảm ráp lại bên kia. 5 Ngươi sẽ đính năm mươi dải vào tấm thứ nhất, và cũng sẽ đính năm mươi dải vào mép tấm cuối cùng của những tấm thảm ráp lại bên kia; các dải ấy phải thật cân đối với nhau. 6 Ngươi sẽ làm năm mươi cái móc bằng vàng, và dùng những móc ấy để nối các tấm thảm lại với nhau. Như thế, Nhà Tạm sẽ thành một khối duy nhất.

7 Ngươi sẽ làm những tấm thảm lông dê để làm một cái lều ở bên trên Nhà Tạm; ngươi sẽ làm mười một tấm. 8 Mỗi tấm dài mười lăm thước, rộng hai thước. Mười một tấm đều có cùng một kích thước. 9 Ngươi sẽ khâu liền năm tấm thành một mái, và sáu tấm kia thành một mái khác; ngươi sẽ gấp tấm thứ sáu về phía trước lều. 10 Ngươi sẽ đính năm mươi dải vào mép tấm thứ nhất của những tấm thảm ráp lại, và năm mươi dải vào mép tấm cuối cùng của những tấm thảm ráp lại bên kia. 11 Ngươi sẽ làm năm mươi móc đồng, và sẽ xỏ móc vào dải; ngươi sẽ ghép lại thành một cái lều, và như vậy sẽ chỉ có một lều duy nhất.

12 Phần tấm thảm còn dư nhô ra, thì một nửa cho rủ xuống phía sau Nhà Tạm. 13 Mỗi bên để dư ra nửa thước theo chiều dài các tấm thảm của lều, cho rủ xuống hai bên để che Nhà Tạm.

14 Ngươi sẽ làm một tấm bạt che lều bằng da cừu nhuộm đỏ, và một tấm bạt bằng da cá heo phủ ở bên trên.

Khung lều (Xh 36: 20 -34)

15 "Ngươi sẽ lấy những tấm ván gỗ keo dựng thẳng lên để căng Nhà Tạm. 16 Mỗi tấm dài năm thước, rộng bảy tấc rưỡi. 17 Mỗi tấm có hai mộng song song. Ngươi sẽ làm mọi tấm ván của Nhà Tạm theo kiểu đó. 18 Ngươi sẽ đặt ván để dựng Nhà Tạm như sau: hai mươi tấm hướng về Ne-ghép, về phía nam. 19 Ngươi sẽ làm bốn mươi đế bạc đặt dưới hai mươi tấm ván đó: hai đế dưới một tấm ván ăn khớp với hai mộng của ván, và hai đế dưới một tấm ván khác ăn khớp với hai mộng của ván. 20 Phía bên kia của Nhà Tạm, hướng bắc, ngươi cũng sẽ đặt hai mươi tấm ván, 21 và cũng làm bốn mươi đế bạc, cứ hai đế dưới một tấm, hai đế dưới một tấm. 22 Phía trong cùng Nhà Tạm, hướng tây, ngươi sẽ đặt sáu tấm ván. 23 Ngươi sẽ đặt hai tấm ván ở các góc Nhà Tạm, ở phía trong cùng. 24 Các tấm ván sẽ được ghép đôi lại với nhau từ dưới lên trên, cho tới cái vòng thứ nhất. Hai tấm ván ở hai bên góc đều như thế. 25 Vậy sẽ có tám tấm ván với các đế bạc, tất cả là mười sáu đế: cứ hai đế dưới một tấm, hai đế dưới một tấm.

26 Ngươi sẽ làm các thanh ngang bằng gỗ keo: năm cái cho các tấm ván ở mặt thứ nhất của Nhà Tạm, 27 năm cái cho các tấm ván ở mặt bên kia của Nhà Tạm, cũng như năm cái cho các tấm ván phía trong cùng Nhà Tạm, hướng tây. 28 Thanh ngang giữa, ở nửa độ cao các tấm ván, sẽ chạy suốt từ đầu này đến đầu kia. 29 Ngươi sẽ thiếp vàng các tấm ván; ngươi sẽ đúc những vòng bằng vàng để xỏ các thanh ngang; ngươi cũng sẽ thiếp vàng các thanh ngang ấy. 30 Ngươi sẽ dựng Nhà Tạm theo kiểu đã chỉ cho ngươi trên núi.

Bức trướng (Xh 36:35 -38)

31 "Ngươi sẽ làm một bức trướng bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và sợi gai mịn xe. Ngươi sẽ cho thêu trên đó những thần hộ giá rất mỹ thuật. 32 Ngươi sẽ căng bức màn trướng đó lên bốn cột gỗ keo thiếp vàng có những móc bằng vàng, đặt trên đế bằng bạc. 33 Ngươi sẽ mắc bức trướng vào những cái móc. Ngươi sẽ đưa Hòm Bia Chứng Ước vào đó, sau bức trướng; đối với các ngươi, bức trướng sẽ phân chia Nơi Thánh với Nơi Cực Thánh. 34 Ngươi sẽ đặt nắp xá tội lên trên Hòm Bia Chứng Ước ở Nơi Cực Thánh. 35 Ngươi sẽ đặt cái bàn đằng trước bức trướng, và đặt trụ đèn đối diện với bàn đó, ở phía nam Nhà Tạm; còn cái bàn, thì ngươi đặt ở phía bắc. 36 Ngươi sẽ làm một bức màn che cửa lều bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và sợi gai mịn xe: đó là công việc của thợ thêu. 37 Ngươi sẽ làm năm cột gỗ keo thiếp vàng để treo bức màn đó; những cột ấy có móc bằng vàng; ngươi sẽ đúc năm đế bằng đồng để dựng những cột ấy.

Chương 27

Bàn thờ dâng lễ toàn thiêu (Xh 38:1-7)

1 "Ngươi sẽ làm bàn thờ bằng gỗ keo: dài hai thước rưỡi, rộng hai thước rưỡi - nghĩa là hình vuông - cao một thước rưỡi. 2 Ngươi sẽ làm bốn cái sừng ở bốn góc, các sừng ấy sẽ làm thành một khối với bàn thờ. Ngươi sẽ lấy đồng mà bọc bàn thờ. 3 Ngươi sẽ làm những cái nồi để đựng tro lễ vật, làm xẻng, bình rảy, xiên và lư hương; các đồ vật ấy, ngươi sẽ làm bằng đồng. 4 Ngươi sẽ làm một cái vỉ bằng đồng, hình lưới. Ngươi sẽ làm bốn chiếc vòng bằng đồng, ở bốn góc lưới. 5 Ngươi sẽ bọc lưới đó quanh chân bàn thờ, dưới chỗ mặt bàn nhô ra, từ đất lên; lưới ấy chỉ cao bằng nửa chiều cao của bàn thờ. 6 Ngươi sẽ làm những cây đòn để khiêng bàn thờ, những cây đòn ấy làm bằng gỗ keo. Ngươi sẽ bọc đồng những cây đòn ấy. 7 Người ta sẽ xỏ đòn vào vòng; khi khiêng bàn thờ thì những cây đòn đó sẽ ở hai bên bàn thờ. 8 Ngươi sẽ làm bàn thờ rỗng, bằng ván ghép lại; như đã chỉ cho ngươi trên núi thế nào, thì người ta sẽ phải làm như vậy.

Khuôn viên (Xh 38:9-20)

9 "Ngươi sẽ làm khuôn viên của Nhà Tạm. Phía nam, hướng Ne-ghép, khuôn viên sẽ có những tấm rèm bằng sợi gai mịn xe, phía này dài năm mươi thước. 10 Hai mươi cột treo rèm dựng trên hai mươi đế bằng đồng; móc ở các cột và thanh treo rèm thì bằng bạc. 11 Phía bắc cũng vậy, sẽ có những tấm rèm dài năm mươi thước. Hai mươi cột treo rèm dựng trên hai mươi đế bằng đồng; móc ở các cột và thanh treo rèm thì bằng bạc. 12 Chiều rộng của khuôn viên, về phía biển, sẽ có những tấm rèm hai mươi lăm thước, với mười cột và mười đế. 13 Về hướng đông, phía mặt trời mọc, khuôn viên sẽ rộng hai mươi lăm thước; 14 một bên che tấm rèm bảy thước rưỡi, có ba cột với ba đế; 15 bên kia cũng che tấm rèm bảy thước rưỡi, có ba cột với ba đế. 16 Ở cửa khuôn viên, sẽ có một bức màn mười thước bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và sợi gai mịn xe: đó là công việc của thợ thêu; bức màn này treo lên bốn cột đặt trên bốn đế. 17 Mọi cột chung quanh khuôn viên nối liền với nhau nhờ những thanh treo màn bằng bạc; móc sẽ bằng bạc và đế bằng đồng. 18 Khuôn viên sẽ dài năm mươi thước, rộng hai mươi lăm thước, cao hai thước rưỡi; bức màn sẽ bằng sợi gai mịn xe, còn các đế sẽ bằng đồng. 19 Tất cả các đồ vật trong Nhà Tạm dùng vào mọi việc phụng sự tại đó, cũng như mọi cái cọc của Nhà Tạm và của khuôn viên sẽ đều bằng đồng.

Dầu thắp đèn (Lv 24:1-4)

20 "Phần ngươi, ngươi sẽ truyền cho con cái Ít-ra-en phải giã ô-liu lấy dầu nguyên chất, để thắp đèn, hầu cho luôn luôn có ngọn lửa cháy. 21 Ông A-ha-ron và con cái sẽ đặt chiếc đèn đó trong Lều Hội Ngộ, bên ngoài bức trướng treo đằng trước Chứng Ước, sao cho nó cháy từ chiều đến sáng trước nhan Ðức Chúa. Ðó là điều luật vĩnh viễn cho các thế hệ con cái Ít-ra-en.

Chương 28

Phẩm phục của các tư tế

1 "Phần ngươi, hãy tách A-ha-ron, anh ngươi, và các con ông ra khỏi hàng ngũ con cái Ít-ra-en, để ông ở bên cạnh ngươi mà thi hành chức tư tế phục vụ Ta: A-ha-ron và các con của A-ha-ron là Na-đáp, A-vi-hu, E-la-da và I-tha-ma. 2 Ngươi sẽ may cho A-ha-ron, anh ngươi, những lễ phục để ông được vẻ uy nghi rực rỡ. 3 Chính ngươi sẽ bảo tất cả những thợ giỏi, đã được Ta ban tràn đầy tài năng khôn khéo, may áo tế cho A-ha-ron, để ông được thánh hiến mà thi hành chức tư tế phục vụ Ta. 4 Ðây là các phẩm phục họ sẽ may: túi đeo trước ngực, áo ê-phốt, áo khoác, áo dài thêu, mũ tế và đai lưng. Họ sẽ may lễ phục cho A-ha-ron, anh ngươi, và cho con cái ông, để ông thi hành chức tư tế phục vụ Ta. 5 Còn họ, họ sẽ lấy vàng, vải tía, vải điều, vải đỏ thẫm và vải gai mịn, mà làm.

Áo ê-phốt (Xh 39:1-7)

6 "Họ sẽ làm áo ê-phốt bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe. 7 Sẽ có hai cầu vai nối liền với hai đầu áo ê-phốt, và như vậy hai thân áo sẽ nối liền với nhau. 8 Băng chéo đeo trên áo ê-phốt để giữ áo thì sẽ làm cùng một kiểu và đính liền vào đó; băng chéo ấy sẽ bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm, và sợi gai mịn xe. 9 Ngươi sẽ lấy hai viên mã não và sẽ khắc trên đó tên con cái Ít-ra-en: 10 trên viên thứ nhất có ghi sáu tên, và trên viên thứ hai, sáu tên còn lại, theo thứ tự trước sau. 11 Ngươi sẽ khắc tên con cái Ít-ra-en vào hai viên ngọc đó theo kiểu thợ chạm khắc dấu ấn; ngươi sẽ nhận những viên ngọc đó vào những ổ bằng vàng. 12 Ngươi sẽ đặt hai viên ngọc đó trên cầu vai của áo ê-phốt để làm kỷ vật tưởng nhớ con cái Ít-ra-en; A-ha-ron sẽ mang tên của chúng trên hai vai, trước nhan Ðức Chúa, để làm kỷ vật. 13 Ngươi sẽ làm những ổ bằng vàng 14 và hai dây chuyền bằng vàng ròng; ngươi sẽ làm hai dây chuyền đó theo kiểu khoen lật để làm như dải buộc; ngươi sẽ đặt hai dây chuyền khoen lật đó vào ổ hột.

Túi đeo trước ngực (Xh 39:8-21)

15 "Ngươi sẽ làm một túi đeo trước ngực rất mỹ thuật đựng thẻ xăm cho biết phán quyết của Thiên Chúa. Ngươi sẽ làm túi đó theo kiểu áo ê-phốt: bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe. 16 Túi đó hình vuông, may kép, dài một gang, rộng một gang. 17 Ngươi sẽ nhận vào đó bốn hàng ngọc: ở hàng thứ nhất có nhận xích não, hoàng ngọc và bích ngọc; 18 ở hàng thứ hai có nhận hồng ngọc, lam ngọc và kim cương; 19 ở hàng thứ ba có nhận miêu nhãn thạch, mã não và tử ngọc; 20 ở hàng thứ tư có nhận kim lục thạch, mã não có vân và vân thạch. Những viên ngọc đó sẽ được nhận vào những ổ bằng vàng.21 Các viên ngọc sẽ mang tên con cái Ít-ra-en: mười hai viên ngọc mang mười hai tên của chúng khắc theo kiểu dấu ấn, mỗi viên ngọc mang tên của một trong mười hai chi tộc. 22 Ngươi sẽ làm cho túi đeo trước ngực những dây chuyền khoen lật bằng vàng ròng để làm dải buộc. 23 Ngươi sẽ làm cho túi đó hai vòng bằng vàng, và ngươi sẽ đính hai vòng đó vào hai góc túi. 24 Ngươi sẽ xâu hai dây chuyền khoen lật bằng vàng đó vào hai vòng đặt ở góc túi. 25 Ngươi sẽ đặt hai đầu dây chuyền khoen lật vào hai ổ, rồi đặt lên cầu vai của áo ê-phốt, mặt phải. 26 Ngươi sẽ làm hai vòng bằng vàng, rồi gắn vào hai đầu túi ở mép trong, mặt trái áp áo ê-phốt. 27 Ngươi sẽ làm hai vòng bằng vàng, rồi đính vào hai cầu vai của áo ê-phốt bên dưới, mặt phải, gần chỗ buộc, bên trên băng chéo của áo ê-phốt. 28 Người ta sẽ lấy một dải vải đỏ tía mà buộc các vòng của túi đeo trước ngực vào các vòng của áo ê-phốt, để túi đó nằm trên băng chéo của áo ê-phốt: như thế, túi sẽ không xê dịch được trên áo ê-phốt. 29 Khi vào nơi thánh, A-ha-ron sẽ mang trên ngực tên con cái Ít-ra-en, làm kỷ vật vĩnh viễn trước nhan Ðức Chúa, được ghi vào túi đeo trước ngực, chỗ đựng thẻ xăm phán quyết. 30 Ngươi sẽ đặt các thẻ xăm phán quyết u-rim và tum-mim vào túi đeo trước ngực; những vật này sẽ nằm trên ngực A-ha-ron, khi ông đến trước nhan Ðức Chúa. Như thế, trước nhan Ðức Chúa, A-ha-ron sẽ luôn mang trên ngực phương tiện cho biết phán quyết của Thiên Chúa về con cái Ít-ra-en.

Áo khoác (Xh 39:22 -26)

31 "Ngươi sẽ làm áo khoác toàn bằng sợi đỏ tía, để mặc dưới áo ê-phốt. 32 Ở giữa, sẽ khoét cổ để chui đầu vào; chung quanh cổ áo, sẽ có một đường viền: đó là công trình của thợ dệt; cổ đó sẽ giống như cổ áo giáp, không sao rách được. 33 Ngươi sẽ làm ở vòng quanh gấu dưới những quả lựu bằng chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm; những lục lạc bằng vàng xen kẽ với những quả lựu, và ngươi sẽ làm như thế cho hết vòng: 34 một lục lạc bằng vàng rồi một quả lựu, một lục lạc bằng vàng rồi một quả lựu, vòng quanh gấu dưới áo khoác. 35 A-ha-ron sẽ mặc áo đó khi hành lễ. Người ta sẽ nghe tiếng lục lạc, khi ông đến nơi thánh, trước nhan Ðức Chúa, và khi ông bước ra: như vậy, ông sẽ khỏi phải chết.

Dấu thánh hiến (Xh 39:30 -31)

36 "Ngươi sẽ làm một huy hiệu bằng vàng ròng. Ngươi sẽ khắc trên đó những chữ sau đây, theo kiểu khắc dấu ấn: "Thánh hiến cho Ðức Chúa.” 37 Ngươi sẽ đính huy hiệu đó trên một dây bằng chỉ đỏ tía buộc vào mũ tế; huy hiệu đó sẽ ở mặt trước mũ tế. 38 Huy hiệu đó sẽ ở trên trán A-ha-ron. Như vậy, A-ha-ron sẽ mang lấy những lỗi lầm con cái Ít-ra-en đã phạm liên quan đến những của thánh, khi chúng thánh hiến những lễ vật thánh. Huy hiệu đó sẽ luôn luôn ở trên trán ông, để Ðức Chúa đoái nhận những của lễ ấy. 39 Ngươi sẽ dệt một áo dài bằng sợi gai mịn, và làm một mũ tế cũng bằng sợi gai mịn. Ngươi sẽ làm một đai lưng: đó là công trình của thợ thêu.

Y phục của tư tế (Xh 39:27 -29)

40 "Ngươi sẽ may áo dài cho các con ông A-ha-ron và làm đai lưng cho họ. Ngươi cũng sẽ làm cho họ những chiếc mũ để họ được vẻ uy nghi rực rỡ. 41 Ngươi sẽ cho A-ha-ron anh ngươi, và các con ông mặc các phẩm phục ấy. Ngươi sẽ xức dầu cho họ, tấn phong và thánh hiến họ làm tư tế phục vụ Ta. 42 Ngươi cũng sẽ may quần đùi bằng vải gai cho họ, để họ khỏi bị hở hang; quần đó sẽ che thân từ ngang lưng đến vế. 43 A-ha-ron và các con ông sẽ mặc quần ấy lúc vào Lều Hội Ngộ, hoặc khi tiến đến gần bàn thờ để hành lễ trong nơi thánh; như thế, họ sẽ không mang tội và khỏi phải chết. Ðó là một điều luật vĩnh viễn cho A-ha-ron và dòng dõi đến sau ông.

Chương 29

Lễ vật (Lv 8:14 -24, 30)

10 "Ngươi sẽ dắt con bò đến trước Lều Hội Ngộ. A-ha-ron và các con ông sẽ đặt tay lên đầu con bò. 11 Ngươi sẽ sát tế con bò đó trước nhan Ðức Chúa, ở cửa Lều Hội Ngộ. 12 Ngươi sẽ lấy máu con bò, dùng ngón tay mà bôi vào các góc bàn thờ, và đổ tất cả máu còn lại xuống trên bàn thờ. 13 Ngươi sẽ lấy tất cả lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, cả khối mỡ trên gan, hai trái cật với lớp mỡ dính ngoài, mà đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. 14 Nhưng thịt, da và phân bò, thì ngươi sẽ bỏ vào lửa mà thiêu ở ngoài trại: đó là lễ tạ tội.

15 Ngươi sẽ bắt một trong hai con cừu đực. A-ha-ron và các con ông sẽ đặt tay lên đầu nó. 16 Ngươi sẽ sát tế con cừu đó, lấy máu rảy chung quanh bàn thờ. 17 Ngươi sẽ chặt nó ra làm tư, rửa bộ lòng và cẳng, rồi đặt lên bốn phần thịt và đầu con vật. 18 Sau đó, ngươi sẽ đốt trên bàn thờ tất cả con cừu cho cháy nghi ngút. Ðó là lễ toàn thiêu dâng lên Ðức Chúa, hương thơm làm đẹp lòng Người, đó là lễ hoả tế dâng Ðức Chúa.

19 Ngươi sẽ bắt con cừu đực thứ hai. A-ha-ron và các con ông sẽ đặt tay lên đầu nó. 20 Ngươi sẽ sát tế con cừu đó, rồi lấy máu bôi vào trái tai phải của A-ha-ron, vào trái tai phải của các con ông, vào ngón cái tay phải và ngón cái chân phải; rồi ngươi lấy máu còn lại rưới chung quanh bàn thờ. 21 Ngươi sẽ lấy máu trên bàn thờ và dầu tấn phong rảy trên A-ha-ron và phẩm phục của ông, trên các con ông và phẩm phục của họ; như thế, A-ha-ron và phẩm phục của ông, các con ông và phẩm phục của họ, sẽ được thánh hiến.

Lễ tấn phong các tư tế (Lv 8:25 -29)

22 "Ngươi sẽ lấy mỡ con cừu, lấy đuôi, lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, khối mỡ của gan, hai trái cật với lớp mỡ dính ngoài, cũng như đùi bên phải; vì đó là con cừu dùng cho lễ tấn phong; 23 ngươi cũng sẽ lấy một ổ bánh mì, một tấm bánh ngọt chiên với dầu và một tấm bánh tráng trong giỏ bánh không men ở trước nhan Ðức Chúa; 24 tất cả những thứ đó, ngươi sẽ đặt trên bàn tay A-ha-ron và trên bàn tay các con ông, rồi ngươi sẽ cử hành nghi thức tiến dâng trước nhan Ðức Chúa. 25 Sau đó, ngươi sẽ lấy lại các vật ấy từ tay họ và đem đốt cho cháy nghi ngút ở bàn thờ, bên trên của lễ toàn thiêu, khiến các vật ấy trở thành hương thơm trước nhan Ðức Chúa, làm đẹp lòng Người: đó là lễ hoả tế dâng Ðức Chúa.

26 Ngươi sẽ lấy cái ức con cừu dùng cho lễ tấn phong A-ha-ron, rồi ngươi sẽ cử hành nghi thức dâng tiến trước nhan Ðức Chúa: đó sẽ là phần của ngươi. 27 Ngươi sẽ thánh hiến cái ức đã được tiến dâng và cái đùi đã được tách ra: đó là phần đã được tiến dâng và tách ra từ con cừu dùng cho lễ tấn phong A-ha-ron và các con ông. 28 Ðó là những gì mà A-ha-ron và các con ông sẽ luôn luôn nhận được từ con cái Ít-ra-en, bởi vì đó là phần dâng cúng; con cái Ít-ra-en phải lấy một phần lễ vật để dâng cúng mỗi khi dâng hy lễ kỳ an; đó là phần dâng cúng Ðức Chúa.

29 Lễ phục A-ha-ron mặc sẽ truyền lại cho các con đến sau ông; các con ông sẽ mặc lễ phục đó khi họ được xức dầu tấn phong. 30 Trong vòng bảy ngày, người nào trong số các con ông thay thế ông làm tư tế và vào Lều Hội Ngộ để hành lễ trong nơi thánh, thì sẽ mặc lễ phục đó.

Tiệc thánh (Lv 8:31 -36)

31 "Ngươi sẽ lấy thịt con cừu đực dùng cho lễ tấn phong đem nấu trong nơi thánh. 32 A-ha-ron và các con ông sẽ ăn thịt cừu và bánh trong giỏ, ở cửa Lều Hội Ngộ. 33 Họ sẽ ăn các của lễ xá tội đã được dâng tiến để cử hành lễ tấn phong và thánh hiến họ; nhưng không người phàm nào được ăn những của ấy, vì đó là của thánh. 34 Nếu đến sáng hôm sau còn thừa lại thịt ngày lễ tấn phong và bánh, thì ngươi sẽ đem đốt đi; không được ăn các thứ ấy, vì đó là của thánh. 35 Ngươi sẽ làm như thế cho A-ha-ron và các con ông đúng như Ta đã truyền cho ngươi. Ngươi sẽ dành bảy ngày để làm lễ tấn phong cho họ.

Thánh hiến bàn thờ dâng lễ toàn thiêu

36 "Mỗi ngày ngươi sẽ lấy một con bò mà dâng lễ tạ tội, làm lễ vật xá tội; ngươi sẽ dâng lễ tạ tội để thanh tẩy bàn thờ khi cử hành lễ xá tội trên đó, rồi xức dầu bàn thờ để thánh hiến. 37 Trong bảy ngày, ngươi sẽ cử hành lễ xá tội trên bàn thờ và sẽ thánh hiến bàn thờ. Như thế, bàn thờ sẽ là vật rất thánh; tất cả những gì chạm đến bàn thờ cũng sẽ là vật thánh.

Lễ toàn thiêu thường nhật (Ðn 28:3-8)

38 "Ðây là những gì ngươi sẽ dâng trên bàn thờ: hai con chiên một tuổi, ngày nào cũng vậy, phải giữ như thế mãi mãi. 39 Ngươi sẽ dâng một con lúc sáng, còn con thứ hai thì dâng vào lúc chập tối. 40 Cùng với con chiên thứ nhất, ngươi sẽ dâng bốn lít rưỡi tinh bột lúa miến nhào với hai lít dầu ô-liu giã trong cối, và lấy hai lít rượu nho làm rượu tế. 41 Còn con chiên thứ hai, ngươi sẽ dâng vào lúc chập tối, và dâng cùng với lễ phẩm và lễ tưới rượu như ban sáng. Ðó là hương thơm làm đẹp lòng Ðức Chúa, là lễ hoả tế dâng Ðức Chúa. 42 Ðó là lễ toàn thiêu phải dâng luôn mãi qua mọi thế hệ, ở cửa Lều Hội Ngộ, trước nhan Ðức Chúa, nơi Ta sẽ gặp gỡ các ngươi, để nói chuyện với ngươi.

43 Chính đó là nơi Ta gặp gỡ con cái Ít-ra-en, Ta sẽ lấy vinh quang của Ta mà thánh hiến nơi đó. 44 Ta sẽ thánh hiến Lều Hội Ngộ và bàn thờ, Ta cũng sẽ thánh hiến A-ha-ron và các con ông làm tư tế phục vụ Ta. 45 Ta sẽ ngự giữa con cái Ít-ra-en và sẽ là Thiên Chúa của chúng. 46 Và chúng sẽ biết rằng chính Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng, Ðấng đã đưa chúng ra khỏi đất Ai-cập để ngự giữa chúng, chính Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng.

Chương 30

Hương án (Xh 37:25 -28)

1 "Ngươi sẽ làm một bàn thờ để đốt hương; ngươi sẽ làm bằng gỗ keo. 2 Hương án đó sẽ dài nửa thước, rộng nửa thước - nghĩa là hình vuông - và cao một thước; các góc hình sừng làm thành một khối với hương án. 3 Ngươi sẽ lấy vàng ròng mà bọc hương án: mặt trên, bốn mặt chung quanh và các góc hình sừng. Chung quanh hương án, ngươi sẽ làm một đường viền bằng vàng. 4 Ngươi sẽ làm hai vòng bằng vàng, phía dưới đường viền, ở hai bên sườn; ngươi sẽ làm hai vòng đó ở hai bên, để xỏ đòn khiêng hương án. 5 Ngươi sẽ làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng. 6 Ngươi sẽ đặt hương án đó trước bức trướng che Hòm Bia Chứng Ước, trước nắp xá tội nằm ở trên Chứng Ước là nơi Ta sẽ gặp gỡ ngươi. 7 Trên đó, A-ha-ron sẽ đốt hương thơm: sáng nào, ông ấy cũng đốt hương thơm khi chuẩn bị dầu đèn, 8 và lúc A-ha-ron thắp đèn lên vào chập tối, ông ấy cũng sẽ đốt hương thơm: đó là hương vĩnh viễn dâng trước nhan Ðức Chúa qua mọi thế hệ của các ngươi. 9 Trên hương án đó, các ngươi sẽ không dâng các thứ hương thường, hay lễ toàn thiêu, hoặc lễ phẩm; các ngươi cũng không tưới rượu tế trên đó. 10 Mỗi năm một lần, A-ha-ron sẽ cử hành lễ xá tội trên các góc hương án đó. Qua mọi thế hệ, các ngươi sẽ lấy máu con vật dùng trong lễ tạ tội, dâng vào ngày xá tội mỗi năm một lần, mà cử hành lễ xá tội, trên các góc hương án. Ðó sẽ là vật rất thánh dâng Ðức Chúa."

Thuế thân

11 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 12 "Khi nào ngươi kiểm tra dân số để biết số con cái Ít-ra-en, thì mỗi người dân phải dâng lên Ðức Chúa tiền chuộc mạng trong lúc kiểm tra dân số; và như thế sẽ không có tai ương nào xảy ra trong lúc kiểm tra dân số. 13 Ðây là những gì mà bất cứ ai thuộc diện kiểm tra dân số phải nộp: hai chỉ bạc, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện; hai chỉ bạc đó sẽ là phần dâng cúng Ðức Chúa. 14 Bất cứ ai thuộc diện kiểm tra dân số, từ hai mươi tuổi trở lên, sẽ phải nộp phần dâng cúng Ðức Chúa. 15 Người giàu sẽ không nộp hơn hai chỉ bạc, và người nghèo sẽ không nộp ít hơn, để dâng cúng Ðức Chúa mà chuộc mạng mình. 16 Ngươi sẽ lấy tiền con cái Ít-ra-en chuộc mạng mà dùng vào việc phục vụ Lều Hội Ngộ: đối với con cái Ít-ra-en, đó sẽ là kỷ vật trước nhan Ðức Chúa nhắc nhở rằng các ngươi đã chuộc mạng."

Vạc đồng

17 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 18 "Ngươi sẽ làm một cái vạc đồng có đế cũng bằng đồng dùng vào việc tẩy rửa; ngươi sẽ đặt cái vạc đó giữa Lều Hội Ngộ và bàn thờ. Ngươi sẽ đổ nước vào đó; 19 A-ha-ron và các con ông sẽ dùng nước đó mà tẩy rửa tay chân. 20 Khi vào Lều Hội Ngộ, họ sẽ lấy nước đó mà tẩy rửa để khỏi phải chết; hoặc khi tiến đến bàn thờ để hành lễ, để đốt của lễ hoả tế mà dâng Ðức Chúa, thì cũng vậy. 21 Họ sẽ tẩy rửa tay chân để khỏi phải chết. Ðó sẽ là điều luật vĩnh viễn cho họ, cho A-ha-ron và dòng dõi ông qua mọi thế hệ."

Dầu tấn phong

22 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 23 "Phần ngươi, hãy lo cho có hương liệu hảo hạng: năm ký mộc dược nguyên chất; một nửa nghĩa là hai ký rưỡi hương nhục quế; hai ký rưỡi hương quế thanh; 24 năm ký quế bì, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện, và bảy lít dầu ô-liu. 25 Ngươi sẽ lấy những thứ đó pha chế thành dầu thánh để tấn phong, hợp chất các hương dược này là sản phẩm của thợ chế nước hoa: đó sẽ là dầu thánh để tấn phong. 26 Ngươi sẽ xức dầu Lều Hội Ngộ và Hòm Bia Chứng Ước, 27 bàn và mọi đồ phụ tùng, trụ đèn và các đồ phụ tùng, hương án, 28 bàn thờ dâng lễ toàn thiêu và mọi đồ phụ tùng, vạc và đế vạc. 29 Ngươi sẽ thánh hiến các đồ vật ấy; và các đồ vật ấy sẽ là một cái gì rất thánh: tất cả những gì chạm đến các đồ vật ấy sẽ là đồ vật thánh. 30 Ngươi cũng xức dầu cho A-ha-ron và các con ông; ngươi sẽ thánh hiến họ làm tư tế phục vụ Ta. 31 Ngươi sẽ nói lại với con cái Ít-ra-en: "Ðó sẽ là dầu thánh của Ta, dùng để tấn phong qua mọi thế hệ.” 32 Sẽ không được đổ dầu xuống trên da thịt người thường, và các ngươi cũng không được chế một thứ dầu nào khác giống thứ dầu này: đó là một vật thánh, các ngươi sẽ coi như một vật thánh. 33 Kẻ nào chế một hương thơm giống như thế mà xức cho người phàm, thì sẽ bị khai trừ khỏi dân nó."

Hương thơm

34 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy lấy các thứ hương chất: tô hợp hương, hương loa, phong tử hương, các hương chất và nhũ hương nguyên chất; số lượng mỗi thứ sẽ đồng đều. 35 Ngươi sẽ lấy các thứ hương chất đó chế thành hương để đốt: hợp chất các hương này sẽ là sản phẩm của thợ làm hương; hương đó sẽ là hương pha muối, nguyên chất, và là hương thánh. 36 Ngươi sẽ lấy một phần tán thành bột, và sẽ đặt trước Chứng Ước, trong Lều Hội Ngộ, nơi Ta sẽ gặp gỡ ngươi. Ðối với các ngươi, đó sẽ là một vật rất thánh. 37 Các ngươi sẽ không được chế hương theo kiểu ấy mà dùng: đối với ngươi, đó sẽ là một vật thánh, dành riêng cho Ðức Chúa. 38 Kẻ nào chế hương như thế để ngửi mùi thơm, thì sẽ bị khai trừ khỏi dân nó."

Chương 31

Thợ dựng nơi thánh (Xh 35:30 -36, 1)

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Ngươi hãy coi: Ta đã gọi đích danh Bơ-xan-ên con của U-ri, con của Khua, thuộc chi tộc Giu-đa. 3 Ta sẽ ban cho nó dồi dào thần khí của Thiên Chúa, để nó thành người khéo tay, giỏi giang và lành nghề mà làm mọi công việc, 4 để nó nghĩ ra những tác phẩm nghệ thuật, làm bằng vàng, bạc, hay đồng, 5 mài ngọc đính áo, chạm gỗ và thực hiện mọi công việc. 6 Này Ta đã cho nó một người phụ tá là O-ho-li-áp, con của A-khi-xa-mác, thuộc chi tộc Ðan. Và Ta ban cho mọi người thợ khéo tay được lòng trí khôn ngoan, để họ làm tất cả những gì Ta đã truyền cho ngươi: 7 Lều Hội Ngộ, Hòm Bia Chứng Ước, nắp xá tội trên Hòm Bia, và tất cả đồ đạc trong lều; 8 bàn và các đồ phụ tùng; trụ đèn bằng vàng ròng và mọi đồ phụ tùng; hương án; 9 bàn dâng lễ toàn thiêu và mọi đồ phụ tùng; vạc và đế vạc; 10 phẩm phục và lễ phục dành cho tư tế A-ha-ron và y phục các con ông mặc để thi hành chức tư tế; 11 dầu tấn phong và hương thơm dùng trong nơi thánh. Họ sẽ làm đúng theo mọi điều Ta đã truyền cho ngươi."

Nghỉ ngày sa-bát

12 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 13 "Phần ngươi, hãy nói với con cái Ít-ra-en: cách riêng, các ngươi sẽ giữ các ngày sa-bát của Ta, bởi vì đó là một dấu hiệu giữa Ta và con cái các ngươi qua mọi thế hệ, để người ta biết rằng chính Ta là Ðức Chúa, Ðấng thánh hiến các ngươi. 14 Các ngươi sẽ giữ ngày sa-bát, vì đó là ngày thánh đối với các ngươi. Kẻ nào vi phạm điều ấy, thì sẽ bị xử tử; phải, kẻ nào làm việc trong ngày ấy, sẽ bị khai trừ khỏi dân nó. 15 Trong sáu ngày, người ta sẽ làm việc, nhưng ngày thứ bảy là một ngày sa-bát, một ngày nghỉ hoàn toàn, dâng Ðức Chúa: kẻ nào làm việc trong ngày sa-bát sẽ bị xử tử. 16 Con cái Ít-ra-en sẽ giữ ngày sa-bát, nghĩa là nghỉ ngơi trong ngày đó, qua mọi thế hệ: đó là một giao ước vĩnh viễn. 17 Ðó là một dấu hiệu vĩnh viễn giữa Ta và con cái Ít-ra-en; vì trong sáu ngày Ðức Chúa đã dựng nên trời đất, nhưng ngày thứ bảy Người đã ngưng các việc và nghỉ xả hơi."

Thiên Chúa trao cho ông Mô-sê các tấm bia ghi Lề Luật

18 Sau khi phán với ông Mô-sê trên núi Xi-nai, Ðức Chúa ban cho ông hai tấm bia Chứng Ước, hai tấm bia đá do chính tay Thiên Chúa viết.

Chương 32

5. Con Bê Bằng Vàng. Tái Lập Giao Ước.

Con bê bằng vàng

1 Dân thấy ông Mô-sê lâu quá không xuống núi, bèn tụ họp bên ông A-ha-ron và nói với ông: "Xin ông đứng lên, làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Mô-sê này, là người đã đưa chúng tôi lên từ đất Ai-cập.” 2 Ông A-ha-ron nói với họ: "Hãy gỡ các khuyên vàng mà vợ và con trai con gái anh em đeo ở tai, rồi đem đến cho tôi.” 3 Toàn dân gỡ các khuyên vàng đeo tai và đem đến cho ông A-ha-ron. 4 Ông lấy vàng từ tay họ trao cho, đem đúc và dùng dao mà gọt đẽo thành một con bê. Bấy giờ họ nói: "Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập.” 5 Thấy vậy, ông A-ha-ron dựng một bàn thờ trước tượng con bê, rồi hô to: "Mai có lễ kính Ðức Chúa!"

6 Ngay hôm sau, họ dậy sớm, dâng tiến những của lễ toàn thiêu và những lễ vật kỳ an. Dân ngồi xuống ăn uống, rồi đứng lên bày trò vui chơi.

Ðức Chúa báo tin cho Mô-sê (Ðnl 9:12 -14)

7 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đi xuống, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi, dân mà ngươi đã đưa lên từ đất Ai-cập. 8 Chúng đã vội đi ra ngoài con đường Ta truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một con bê, rồi sụp xuống lạy nó, tế nó và nói: "Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập.” 9 Ðức Chúa lại phán với ông Mô-sê: "Ta đã thấy dân này rồi, đó là một dân cứng đầu cứng cổ. 10 Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Nhưng Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn."

Ông Mô-sê chuyển cầu cho dân (Ðnl 9:26 -29)

11 Ông Mô-sê cố làm cho nét mặt Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, dịu lại. Ông thưa: "Lạy Ðức Chúa, tại sao Ngài lại bừng bừng nổi giận với dân Ngài, dân mà Ngài đã giơ cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ra khỏi đất Ai-cập? 12 Tại sao người Ai-cập lại có thể rêu rao: Chính vì ác tâm mà Người đã đưa chúng ra, để giết chúng trong miền núi và tiêu diệt chúng khỏi mặt đất? Xin Ngài nguôi cơn thịnh nộ và xin Ngài thương đừng hại dân Ngài. 13 Xin Ngài nhớ đến các tôi tớ Ngài là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en; Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa; chúng sẽ được thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời.” 14 Ðức Chúa đã thương, không giáng phạt dân Người như Người đã đe.

Ông Mô-sê đập vỡ các tấm bia Lề Luật

15 Ông Mô-sê từ núi trở xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước; những bia ấy có viết cả hai mặt, mặt trước cũng như mặt sau. 16 Những bia ấy là do Thiên Chúa làm ra, chữ là chữ của Thiên Chúa, khắc trên các bia.

17 Ông Giô-suê nghe tiếng dân reo hò, thì nói với ông Mô-sê: "Có tiếng giao tranh trong trại!” 18 Nhưng ông Mô-sê nói:

"Tôi nghe không phải tiếng ca chiến thắng,

không phải lời than bại trận mà là tiếng ca đối đáp!"

19 Vậy khi đến gần trại, ông thấy con bê và những bọn người đang nhảy múa. Ông Mô-sê nổi cơn thịnh nộ: Ông ném các tấm bia đang cầm trong tay và đập vỡ dưới chân núi. 20 Ông lấy con bê họ đã làm, đốt đi, tán nhuyễn ra, rắc lên mặt nước, rồi bắt con cái Ít-ra-en uống.

Vai trò của ông A-ha-ron trong lỗi lầm của dân

21 Ông Mô-sê bảo ông A-ha-ron: "Dân này đã làm gì ông mà ông đưa họ tới chỗ phạm một tội lớn như thế?” 22 Ông A-ha-ron nói: "Xin ngài chớ bừng bừng nổi giận; chính ngài biết: dân này có khuynh hướng xấu. 23 Họ nói với tôi: Xin ông làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Mô-sê này, là người đã đưa chúng tôi lên từ đất Ai-cập. 24 Tôi nói với họ: Ai có vàng? Họ đã gỡ đồ vàng đeo tai và đưa cho tôi; tôi ném vào lửa, và đã ra con bê này."

Lòng nhiệt thành của các thầy Lê-vi

25 Ông Mô-sê thấy dân sống buông thả, vì ông A-ha-ron đã để họ sống buông thả, khiến họ nên trò cười cho địch thủ của họ. 26 Ông Mô-sê đứng ở cổng trại và hô: "Ai thờ Ðức Chúa thì theo tôi!" Tất cả con cái ông Lê-vi đều tập họp bên ông Mô-sê. 27 Ông bảo họ: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: Mỗi người hãy đeo gươm vào. Hãy đi đi lại lại trong khắp trại, từ cửa này sang cửa khác mà giết: kẻ thì giết anh em, người thì giết bạn hữu, kẻ thì giết người thân cận của mình.” 28 Con cái ông Lê-vi đã làm theo lời ông Mô-sê; trong ngày ấy, có ba ngàn người trong dân đã ngã gục. 29 Ông Mô-sê nói: "Hôm nay, anh em được phong chức để phục vụ Ðức Chúa, vì kẻ thì đã hy sinh con mình, kẻ thì đã hy sinh anh em mình, khiến Người chúc phúc cho anh em hôm nay."

Ông Mô-sê lại chuyển cầu cho dân

30 Ngày hôm sau, ông Mô-sê nói với dân: "Anh em đã phạm một tội lớn, nhưng giờ đây tôi sắp lên gặp Ðức Chúa; may ra tôi sẽ xin được Người xá tội cho anh em.” 31 Ông Mô-sê trở lại với Ðức Chúa và thưa: "Than ôi, dân này đã phạm một tội lớn! Họ đã làm cho mình một tượng thần bằng vàng! 32 Nhưng giờ đây, ước gì Ngài miễn chấp tội họ! Bằng không, thì xin Ngài xoá tên con khỏi cuốn sách Ngài đã viết.” 33 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Kẻ nào phạm tội làm mất lòng Ta, Ta sẽ xoá tên nó khỏi cuốn sách của Ta. 34 Bây giờ, ngươi hãy đi, đưa dân tới nơi Ta đã chỉ cho ngươi. Này thiên sứ của Ta sẽ đi trước mặt ngươi; nhưng đến ngày Ta trừng phạt, Ta sẽ trừng phạt chúng vì tội đã phạm.” 35 Ðức Chúa đánh phạt dân vì họ đã đúc con bê, chính con bê mà ông A-ha-ron đã đúc.

Chương 33

Lệnh lên đường

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy đi, từ nơi đây ngươi hãy đi lên cùng với dân mà ngươi đã đưa lên từ đất Ai-cập, tới đất Ta đã hứa ban cho Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, khi phán: Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi. 2 Ta sẽ sai một thiên sứ đi trước mặt (các) ngươi và Ta sẽ đuổi người Ca-na-an, người E-mô-ri, người Khết và người Pơ-rít-di, người Khi-vi và người Giơ-vút. 3 Ta sẽ cho (các) ngươi vào một miền đất tràn trề sữa và mật; nhưng Ta sẽ không đi lên đó cùng với (các) ngươi, vì (các) ngươi là một dân cứng đầu cứng cổ; vì nếu cùng đi, thì e rằng Ta sẽ tiêu diệt các ngươi dọc đường!” 4 Dân nghe lời chẳng lành ấy thì mặc áo tang; không ai mang đồ trang sức trên mình. 5 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en: các ngươi là một dân cứng đầu cứng cổ! Ta mà cùng đi lên với các ngươi dù chỉ một chốc lát thôi, thì Ta sẽ tiêu diệt (các) ngươi! Vậy, bây giờ (các) ngươi hãy bỏ các đồ trang sức đi, rồi Ta xem sẽ phải đối xử với (các) ngươi thế nào!” 6 Con cái Ít-ra-en đã bỏ đồ trang sức từ khi ở núi Khô-rếp.

Lều Hội Ngộ

7 Ông Mô-sê lấy một chiếc lều và đem dựng cho mình bên ngoài trại, cách một quãng xa. Ông gọi lều ấy là Lều Hội Ngộ. Ai thỉnh ý Ðức Chúa thì ra Lều Hội Ngộ, ở ngoài trại. 8 Mỗi khi ông Mô-sê ra Lều, toàn dân đứng lên, ai nấy đứng ở cửa lều mình và nhìn theo ông Mô-sê cho đến khi ông vào trong Lều. 9 Mỗi khi ông Mô-sê vào trong Lều, thì cột mây đáp xuống, đứng ở cửa Lều, và Ðức Chúa đàm đạo với ông Mô-sê. 10 Khi thấy cột mây đứng ở cửa Lều, toàn dân đứng dậy; và ai nấy phủ phục ở cửa lều mình. 11 Ðức Chúa đàm đạo với ông Mô-sê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau. Rồi ông Mô-sê trở về trại; nhưng phụ tá của ông là chàng thanh niên Giô-suê, con ông Nun, thì cứ ở trong Lều, không rời khỏi đó.

Ông Mô-sê chuyển cầu cho dân

12 Ông Mô-sê thưa với Ðức Chúa: "Xin Ngài coi, chính Ngài đã phán với con: "Hãy đưa dân ấy lên, vậy mà Ngài lại không cho con biết Ngài sẽ cử ai đi với con. Tuy nhiên chính Ngài đã phán: Ta biết đích danh ngươi, và hơn nữa ngươi đã được nghĩa với Ta. 13 Vậy bây giờ, nếu quả thật con đã được nghĩa với Ngài, xin khấng tỏ cho con biết đường lối của Ngài, để con biết Ngài, và được nghĩa với Ngài. Xin cũng coi dân tộc này là dân của Ngài.” 14 Ðức Chúa phán: "Ðích thân Ta sẽ đi, và Ta sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi.” 15 Ông Mô-sê thưa với Người: "Nếu Ngài không đích thân đi, xin Ngài đừng đưa chúng con lên khỏi đây. 16 Nhưng làm thế nào biết được là con và dân của Ngài được nghĩa với Ngài? Há chẳng phải vì có Ngài đi với chúng con sao? Như thế, con và dân của Ngài mới khác với mọi dân trên mặt đất.” 17 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngay cả điều ngươi vừa nói đó, Ta cũng sẽ làm, vì ngươi đã được nghĩa với Ta, và Ta biết đích danh ngươi."

Ông Mô-sê ở trên núi

18 Ông Mô-sê nói: "Xin Ngài thương cho con được thấy vinh quang của Ngài.” 19 Người phán: "Ta sẽ cho tất cả vẻ đẹp của Ta đi qua trước mặt ngươi, và sẽ xưng danh Ta là Ðức Chúa trước mặt ngươi. Ta thương ai thì thương, xót ai thì xót.” 20 Người phán: "Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống.” 21 Ðức Chúa còn phán: "Ðây là chỗ gần Ta; ngươi sẽ đứng trên tảng đá. 22 Khi vinh quang của Ta đi qua, Ta sẽ đặt ngươi vào trong hốc đá, và lấy bàn tay che ngươi cho đến khi Ta đã đi qua. 23 Rồi Ta sẽ rút tay lại, và ngươi sẽ xem thấy lưng Ta, còn tôn nhan Ta thì không được thấy."

Chương 34

Tái lập giao ước. Các bia ghi Lề Luật. (Ðnl 10:1-5)

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy đẽo hai bia đá giống như hai bia trước. Và Ta sẽ ghi lại trên đó những lời đã ghi trên các bia trước mà ngươi đã đập vỡ. 2 Ngươi hãy chuẩn bị sẵn sàng cho sáng ngày mai. Ngay từ sáng, ngươi hãy lên núi Xi-nai và đứng chờ Ta ở đó, trên đỉnh núi. 3 Không ai được lên với ngươi; cũng không ai được xuất hiện trên khắp vùng núi; ngay cả bò bê hay dê cừu cũng không được ăn cỏ trên sườn núi đó.” 4 Vậy ông Mô-sê đẽo hai bia đá giống như những bia trước; rồi sáng sớm ông thức dậy và lên núi Xi-nai theo lệnh của Ðức Chúa, tay mang hai bia đá.

Ðức Chúa hiện ra

5 Ðức Chúa ngự xuống trong đám mây và đứng đó với ông. Người xưng danh Người là Ðức Chúa. 6 Ðức Chúa đi qua trước mặt ông và xướng: "Ðức Chúa! Ðức Chúa! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, 7 giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi, nhưng không bỏ qua điều gì, và trừng phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông.” 8 Ông Mô-sê vội vàng phục xuống đất thờ lạy 9 và thưa: "Lạy Chúa, nếu quả thật con được nghĩa với Chúa, thì xin Chúa cùng đi với chúng con. Dân này là một dân cứng đầu cứng cổ, nhưng xin Ngài tha thứ những lỗi lầm và tội lỗi của chúng con, và nhận chúng con làm cơ nghiệp của Ngài."

Giao Ước (Xh 23:14 -19; Ðnl 7:1-5; 16:1-17)

10 Ðức Chúa phán: "Này Ta sắp lập một giao ước. Trước mặt toàn dân của ngươi, Ta sẽ làm những việc lạ lùng chưa hề được thực hiện trong một nước hay một dân nào. Toàn dân ở chung quanh ngươi sẽ thấy việc Ðức Chúa làm, vì điều Ta sắp dùng ngươi mà làm thì thật đáng sợ. 11 Hãy giữ kỹ điều Ta truyền cho ngươi hôm nay. Này Ta sắp đuổi cho khuất mắt ngươi những người E-mô-ri, Ca-na-an, Khết, Pơ-rít-di, Khi-vi, Giơ-vút. 12 Hãy ý tứ, đừng lập giao ước với dân cư trong xứ nơi ngươi sắp vào, kẻo chúng trở thành một cạm bẫy ở giữa ngươi. 13 Trái lại, bàn thờ của chúng, phải phá huỷ, trụ đá của chúng, phải đập tan, cột thờ của chúng, phải chặt đi. 14 Vậy ngươi không được phủ phục trước một thần nào khác, vì Ðức Chúa mang danh là Ðấng ghen tương, Người là một Vị Thần ghen tương.

15 Ngươi không được lập giao ước với dân cư trong xứ, kẻo khi chúng đàng điếm với các thần của chúng và tế họ, chúng sẽ mời ngươi và ngươi sẽ ăn đồ cúng của chúng,16 ngươi sẽ kén vợ cho con trai ngươi trong số con gái chúng, con gái chúng sẽ đàng điếm với các thần của chúng và làm cho con trai ngươi đàng điếm với các thần đó.

17 Ngươi không được đúc tượng thần.

18 Ngươi sẽ giữ tục lệ mừng lễ Bánh Không Men: trong bảy ngày, ngươi sẽ ăn bánh không men vào thời chỉ định trong tháng A-víp, như Ta đã truyền cho ngươi, vì trong tháng A-víp ngươi đã ra khỏi Ai-cập.

19 Mọi con đầu lòng đều thuộc về Ta: mọi con đực trong súc vật ngươi, con đầu lòng của bò cũng như của chiên. 20 Mọi con đầu lòng của giống lừa, ngươi sẽ lấy một con chiên mà chuộc lại, nếu ngươi không chuộc lại thì đánh gãy ót nó đi; còn mọi con đầu lòng trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại. Người ta không được đến tay không trước nhan Ta.

21 Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động, nhưng ngày thứ bảy ngươi sẽ nghỉ; dù đang vụ cày hay vụ gặt, ngươi cũng sẽ nghỉ.

22 Ngươi sẽ mừng lễ các Tuần, dâng lúa mì đầu mùa, rồi mừng lễ Thu hoạch cuối năm.

23 Mỗi năm ba lần, tất cả đàn ông con trai của ngươi phải đến trước nhan Chúa Tể là Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en.

24 Ta sẽ truất hữu các dân cho chúng đi khuất mắt ngươi, và mở rộng bờ cõi ngươi; sẽ không có ai ham chiếm đất của ngươi khi ngươi đi lên để đến trước nhan Ðức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, mỗi năm ba lần.

25 Ngươi không được lấy máu của một tế vật nào mà dâng lên Ta cùng với bánh có men; tế vật lễ Vượt Qua, ngươi không được giữ lại qua đêm cho đến sáng.

26 Của đầu mùa tốt nhất của đất đai ngươi, ngươi phải đem đến nhà Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngươi không được lấy sữa dê mẹ mà nấu thịt dê con."

27 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy ghi chép những lời này, vì dựa trên chính những lời này mà Ta đã lập giao ước với ngươi và với Ít-ra-en."

28 Ông ở đó với Ðức Chúa bốn mươi ngày bốn mươi đêm, không ăn không uống, và ông viết trên những bia các điều khoản của giao ước, tức là Thập Ðiều.

Ông Mô-sê lại xuống núi

29 Ông Mô-sê từ trên núi Xi-nai xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước, khi xuống núi, ông Mô-sê không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa. 30 Khi ông A-ha-ron và toàn thể con cái con Ít-ra-en thấy ông Mô-sê, thì này đây da mặt ông sáng chói, nên họ sợ không dám lại gần ông. 31 Ông Mô-sê gọi họ: ông A-ha-ron và các đầu mục của cộng đồng trở lại với ông, và ông nói chuyện với họ. 32 Sau đó, toàn thể con cái Ít-ra-en lại gần ông, và ông truyền cho họ tất cả những điều Ðức Chúa đã phán với ông trên núi Xi-nai. 33 Nói với họ xong, ông lấy khăn che mặt đi. 34 Khi vào trước nhan Ðức Chúa để đàm đạo với Người, thì ông bỏ khăn cho đến lúc trở ra; ông trở ra và nói lại với con cái Ít-ra-en những mệnh lệnh ông đã nhận được. 35 Con cái Ít-ra-en nhìn mặt ông Mô-sê thấy da mặt ông sáng chói; ông Mô-sê lại lấy khăn che mặt, cho đến khi vào đàm đạo với Thiên Chúa.

Chương 35

6. Dựng Nơi Thánh

Luật nghỉ ngày sa-bát

1 Ông Mô-sê triệu tập toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và nói: "Ðây là những điều Ðức Chúa truyền phải thi hành: 2 Trong sáu ngày, người ta sẽ làm việc, nhưng đối với anh em, ngày thứ bảy sẽ là một ngày thánh, một ngày sa-bát, một ngày nghỉ hoàn toàn, dành cho Ðức Chúa; kẻ nào làm việc trong ngày ấy sẽ bị xử tử. 3 Anh em sẽ không được đốt lửa trong ngày sa-bát tại những nơi anh em ở."

Quyên góp vật liệu (Xh 25 : 1-9; 39:33 -43)

4 Ông Mô-sê nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en: "Ðây là điều Ðức Chúa đã truyền: 5 Anh em hãy lấy của cải mình mà đóng góp vào việc thờ phượng Ðức Chúa. Ai có nhiệt tâm hãy mang đến phần dâng cúng dành cho Ðức Chúa: vàng, bạc và đồng, 6 vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm, vải gai mịn và lông dê, 7 da cừu nhuộm đỏ và da cá heo, gỗ keo, 8 dầu thắp đèn, hương liệu để chế dầu tấn phong và làm hương thơm, 9 hồng mã não và ngọc quý để đính vào áo ê-phốt và túi đeo trước ngực. 10 Trong anh em, ai là người khéo tay thì hãy đến thực hiện tất cả những gì Ðức Chúa đã truyền: 11 Nhà Tạm, lều và bạt, móc, ván, thanh ngang, cột và đế, 12 Hòm Bia và đòn khiêng, nắp xá tội, bức trướng làm màn che, 13 bàn và đòn khiêng, mọi đồ phụ tùng và bánh tiến, 14 trụ đèn và các đồ phụ tùng, đèn và dầu thắp đèn, 15 hương án và đòn khiêng, dầu tấn phong và hương thơm, màn che cửa Nhà Tạm, 16 bàn thờ dâng lễ toàn thiêu và vỉ đồng, đòn khiêng và mọi đồ phụ tùng; vạc và đế, 17 rèm chung quanh khuôn viên, cột và đế, màn che cửa khuôn viên, 18 cọc Nhà Tạm và cọc khuôn viên cũng như dây thừng; 19 phẩm phục để hành lễ trong nơi thánh; lễ phục dành cho tư tế A-ha-ron và y phục các con ông mặc để thi hành chức tư tế."

20 Toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en rời ông Mô-sê mà lui ra. 21 Rồi những người có nhiệt tâm, mọi kẻ có tinh thần kéo đến, mang theo phần của mình dâng cúng Ðức Chúa, để dựng Lều Hội Ngộ và làm những công việc liên quan đến Lều, cũng như để may lễ phục. 22 Ðàn ông cũng như đàn bà kéo nhau đến: tất cả những người có nhiệt tâm đem tới nào trâm, khuyên, nào nhẫn với kiềng, mọi thứ đồ vàng; ai nấy đều lấy vàng làm lễ vật dâng Ðức Chúa. 23 Những người có sẵn trong nhà vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm, vải gai mịn và lông dê, da cừu nhuộm đỏ và da cá heo, thì cũng đem tới. 24 Tất cả những ai lấy bạc và đồng mà dâng cúng, thì đem phần ấy dâng cho Ðức Chúa; và tất cả những ai có sẵn trong nhà gỗ keo để dùng vào mọi công việc cần đến, thì cũng đem tới. 25 Mọi phụ nữ khéo tay đã tự mình dệt, rồi đem những gì đã dệt đến: vải đỏ tía và vải điều, vải đỏ thẫm và vải gai mịn. 26 Mọi phụ nữ có nhiệt tâm và khéo tay thì lấy lông dê mà kéo sợi. 27 Các thủ lãnh đem đến hồng mã não và ngọc quý để đính vào áo ê-phốt và túi đeo trước ngực, 28 hương liệu, dầu thắp đèn, dầu tấn phong và hương nhang. 29 Mọi con cái Ít-ra-en, đàn ông cũng như đàn bà, có nhiệt tâm góp phần vào mọi công việc Ðức Chúa đã dùng ông Mô-sê mà truyền phải thực hiện, thì đã đem lễ vật tự nguyện dâng Ðưc Chúa.

Thợ dựng nơi thánh (Xh 31:1-11 )

30 Ông Mô-sê nói với con cái Ít-ra-en: "Anh em coi, Ðức Chúa đã gọi đích danh ông Bơ-xan-ên, con ông U-ri, con ông Khua, thuộc chi tộc Giu-đa. 31 Người đã ban cho ông ấy dồi dào thần khí của Thiên Chúa, để ông ấy thành người khéo tay, giỏi giang và lành nghề mà làm mọi công việc, 32 để ông ấy nghĩ ra những tác phẩm nghệ thuật, làm bằng vàng, bạc, hay đồng, 33 mài ngọc đính áo, chạm gỗ và thực hiện mọi công việc nghệ thuật. 34 Người còn ban tài dạy bảo cho ông ấy, cũng như cho ông O-ho-li-áp, con của ông A-khi-xa-mác, thuộc chi tộc Ðan. 35 Người đã cho họ lòng trí dồi dào khôn ngoan để thực hiện mọi tác phẩm của thợ chạm, của người nghệ sĩ, của thợ thêu dùng chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm, sợi gai mịn, cũng như của thợ dệt: tất cả những người thực hiện mọi công việc, và nghĩ ra những tác phẩm nghệ thuật.

Chương 36

1 Ông Bơ-xan-ên, ông O-ho-li-áp và mọi người lòng trí khôn ngoan mà Ðức Chúa đã ban cho được khéo tay và giỏi giang, để biết chu toàn mọi việc phục vụ nơi thánh, những người ấy sẽ làm theo tất cả những gì Ðức Chúa đã truyền.

Ông Mô-sê cho ngưng quyên góp vật liệu

2 Ông Mô-sê gọi các ông Bơ-xan-ên và O-ho-li-áp lại, cùng với mọi người lòng trí khôn ngoan đã được Ðức Chúa đặt sự khôn ngoan vào lòng, mọi kẻ có nhiệt tâm bắt tay vào việc. 3 Mọi phần dâng cúng mà con cái Ít-ra-en đã mang tới trước mặt ông Mô-sê để dùng vào việc phục vụ nơi thánh, thì họ đem đi để thực hiện công trình. Nhưng sáng nào, con cái Ít-ra-en cũng cứ đem lễ vật tự nguyện tới, 4 nên tất cả những người thợ khéo tay đang thực hiện mọi công việc phục vụ nơi thánh đều ngưng công việc đang làm, để tới 5 nói với ông Mô-sê: "Dân chúng đem dâng quá số cần thiết cho công việc mà Ðức Chúa đã truyền làm.” 6 Ông Mô-sê ra lệnh phải rao trong trại những lời này: "Xin mọi người, nam cũng như nữ, đừng dâng cúng gì thêm cho nơi thánh." Và dân đã ngừng, không đem gì tới nữa. 7 Vật liệu đã đủ cho mọi công việc phải làm, mà còn dư thừa nữa.

Nhà Tạm (Xh 26:1-14)

8 Trong đám thợ đang thực hiện công trình, tất cả những người khôn ngoan tài giỏi thì dựng Nhà Tạm; ông Mô-sê cho dựng Nhà đó với mười tấm thảm bằng sợi gai mịn xe, chỉ đỏ tía, chỉ điều và chỉ đỏ thẫm; ông cho thêu trên đó những thần hộ giá rất mỹ thuật. 9 Mỗi tấm thảm dài mười bốn thước, rộng hai thước; tấm nào cũng có kích thước như vậy. 10 Ông cho khâu năm tấm này liền với nhau và năm tấm kia liền với nhau. 11 Ông cho lấy vải đỏ tía làm dải đính vào mép tấm thứ nhất của những tấm thảm ráp lại; ông cũng cho đính như thế vào mép tấm cuối cùng của những tấm thảm ráp lại bên kia. 12 Ông cho đính năm mươi dải vào tấm thứ nhất, và cũng cho đính năm mươi dải vào mép tấm cuối cùng của những tấm thảm ráp lại bên kia; các dải ấy phải thật cân đối với nhau. 13 Ông cho làm năm mươi cái móc bằng vàng, và dùng những móc ấy để nối các tấm vải bố lại với nhau. Như thế, Nhà Tạm thành một khối duy nhất. 14 Ông cho làm những tấm thảm lông dê để làm một cái lều, ở bên trên Nhà Tạm; ông cho làm mười một tấm. 15 Mỗi tấm dài mười lăm thước, rộng hai thước. Mười một tấm đều có cùng một kích thước. 16 Ông cho khâu liền năm tấm thành một mái, và sáu tấm kia thành một mái khác. 17 Ông cho đính năm mươi dải vào mép tấm thứ nhất của những tấm thảm ráp lại, và ông cũng cho đính năm mươi dải vào mép tấm cuối cùng của những tấm thảm ráp lại bên kia. 18 Ông cho làm năm mươi móc bằng đồng để ghép lại thành một cái lều, sao cho chỉ có một lều duy nhất. 19 Ông cho làm một tấm bạt che lều bằng da cừu nhuộm đỏ, và một tấm bạt bằng da cá heo phủ ở bên trên.

Khung lều (Xh 26:15 -30)

20 Ông cho lấy những tấm ván gỗ keo dựng thẳng lên để căng Nhà Tạm. 21 Mỗi tấm dài năm thước, rộng bảy tấc rưỡi. 22 Mỗi tấm có hai mộng song song. Ông cho làm mọi tấm ván của Nhà Tạm theo kiểu đó. 23 Ông cho đặt ván để dựng Nhà Tạm như sau: hai mươi tấm hướng về Ne-ghép, về phía nam. 24 Ông cho làm bốn mươi đế bạc đặt dưới hai mươi tấm ván đó: hai đế dưới một tấm ván ăn khớp với hai mộng của ván, và hai đế dưới tấm ván khác ăn khớp với hai mộng của ván. 25 Hông bên kia của Nhà Tạm, hướng bắc, ông cho đặt hai mươi tấm ván, 26 và cũng cho làm bốn mươi đế bạc, cứ hai đế dưới một tấm, hai đế dưới một tấm. 27 Phía trong cùng Nhà Tạm, hướng tây, ông cho đặt sáu tấm ván. 28 Ông cho đặt hai tấm ván ở các góc Nhà Tạm, ở phía trong cùng. 29 Các tấm ván được ghép đôi lại với nhau ở phía dưới, và ghép đôi như thế cho tới đỉnh, chỗ vòng thứ nhất. Ông cho đóng hai tấm ván như thế ở hai góc. 30 Vậy có tám tấm ván với các đế bạc, tất cả là mười sáu đế: cứ hai đế dưới một tấm, hai đế dưới một tấm. 31 Ông cho làm các thanh ngang bằng gỗ keo: năm cái cho các tấm ván ở hông thứ nhất của Nhà Tạm; 32 và năm cái cho các tấm ván hông bên kia của Nhà Tạm; cũng như năm cái cho các tấm ván phía trong cùng Nhà Tạm, hướng tây. 33 Ông cho làm thanh ngang giữa, cho nó nằm ở nửa độ cao các tấm ván, chạy suốt từ đầu này đến đầu kia. 34 Ông cho thiếp vàng các tấm ván; ông cho đúc những vòng bằng vàng để xỏ các thanh ngang; ông cũng cho thiếp vàng các thanh ngang ấy.

Bức trướng (Xh 26:31 -37)

35 Ông cho làm bức trướng bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và sợi gai mịn xe. Ông cho thêu trên đó những thần hộ giá rất mỹ thuật. 36 Ông cho làm bốn cột gỗ keo thiếp vàng, có những móc bằng vàng để treo bức màn trướng; và ông cho đúc bốn đế bạc để dựng những cột ấy. 37 Ông cho làm một bức màn che cửa lều bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và sợi gai mịn xe: đó là công việc của thợ thêu; 38 Ông cũng cho làm năm cột có móc, cho thiếp vàng đầu cột và thanh treo bức trướng; còn năm đế thì bằng đồng.

Chương 37

Hòm Bia (Xh 25:10-22)

1 Ông Bơ-xan-ên làm Hòm Bia bằng gỗ keo, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi. 2 Ông lấy vàng ròng mà bọc cả trong lẫn ngoài; ông làm một đường viền chung quanh bằng vàng. 3 Ông đúc cho Hòm Bia bốn chiếc vòng bằng vàng gắn vào bốn chân: bên này hai vòng, bên kia hai vòng. 4 Ông làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng. 5 Ông xỏ đòn vào những vòng bên sườn Hòm Bia để khiêng. 6 Ông làm một cái nắp xá tội bằng vàng ròng, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi. 7 Ông làm hai tượng thần hộ giá bằng vàng, ông làm bằng vàng gò và đặt ở hai đầu nắp: 8 một tượng ở đầu này, một tượng ở đầu kia. Ông làm các tượng thần hộ giá gắn liền với nắp, ở hai đầu. 9 Các tượng thần hộ giá có hai cánh giương lên và phủ trên nắp. Hai tượng đối diện nhau, cùng cúi mặt xuống nắp.

Bàn để bánh tiến (Xh 25:23-30)

10 Ông làm cái bàn bằng gỗ keo, dài một thước, rộng nửa thước và cao bảy tấc rưỡi. 11 Ông lấy vàng ròng mà bọc, và ông làm một đường viền chung quanh bằng vàng. 12 Chung quanh bàn, ông đóng nẹp rộng một tấc và viền nẹp bằng vàng. 13 Ông đúc bốn vòng bằng vàng và đặt các vòng đó vào bốn góc, ở bốn chân bàn. 14 Các vòng đó ở gần nẹp, dùng để xỏ đòn khiêng bàn. 15 Ông làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng để khiêng bàn. 16 Ông làm những đồ dùng để trên bàn: khay, ly, chén và bình để tế lễ; ông làm những đồ ấy bằng vàng ròng.

Trụ đèn (Xh 25:31-40)

17 Ông làm trụ đèn bằng vàng ròng. Ông làm trụ đèn, chân đèn và nhánh đèn bằng vàng gò; đài hoa, nụ hoa và cánh hoa gắn liền với trụ đèn. 18 Sáu nhánh đâm ra hai bên: ba nhánh bên này, ba nhánh bên kia. 19 Trên nhánh bên này, có ba đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ và cánh hoa; trên nhánh bên kia, có ba đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ hoa và cánh hoa. Sáu nhánh từ trụ đèn đâm ra đều như thế. 20 Ở thân trụ đèn, có bốn đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ và cánh hoa. 21 Một nụ hoa nằm dưới hai nhánh đầu gắn liền với trụ đèn, một nụ hoa nằm dưới hai nhánh giữa gắn liền với trụ đèn, và một nụ hoa nằm dưới hai nhánh cuối gắn liền với trụ đèn. Sáu nhánh từ trụ đèn đâm ra đều như thế. 22 Các nụ hoa và nhánh đều gắn liền với trụ đèn; tất cả thành một khối bằng vàng gò, bằng vàng ròng. 23 Ông làm bảy cái đèn, kéo cắt bấc và đĩa đựng tàn bằng vàng ròng. 24 Ông dùng ba mươi ký vàng ròng để làm trụ đèn cũng như mọi đồ dùng.

Hương án. Dầu tấn phong và hương thơm. (Xh 30:1-5)

25 Ông làm hương án bằng gỗ keo. Hương án đó dài nửa thước, rộng nửa thước - nghĩa là hình vuông - và cao một thước; các góc hình sừng làm thành một khối với hương án. 26 Ông lấy vàng ròng mà bọc hương án: mặt trên, bốn mặt chung quanh và các góc. Chung quanh hương án, ông làm một đường viền bằng vàng. 27 Ông làm hai vòng bằng vàng, phía dưới đường viền, ở hai bên sườn, ở hai bên, để xỏ đòn khiêng hương án. 28 Ông làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng. 29 Ông pha chế dầu thánh để tấn phong, cũng như hương thơm nguyên chất, là sản phẩm của thợ chế nước hoa.

Chương 38

Bàn thờ dâng lễ toàn thiêu (Xh 27:1-8)

1 Ông làm bàn thờ dâng lễ toàn thiêu bằng gỗ keo: dài hai thước rưỡi, rộng hai thước rưỡi - nghĩa là hình vuông -, cao một thước rưỡi; 2 ông làm bốn cái sừng ở bốn góc, các sừng ấy làm thành một khối với bàn thờ. Ông lấy đồng mà bọc bàn thờ. 3 Ông làm các đồ dùng trên bàn thờ: nồi, xẻng, bình rảy, xiên và lư hương; các đồ dùng ấy, ông làm bằng đồng. 4 Ông làm một cái vỉ bằng đồng, hình lưới, bọc quanh chân bàn thờ, từ đất lên đến nửa chiều cao của bàn thờ. 5 Ông đúc bốn chiếc vòng đặt ở bốn góc vỉ đồng, dùng để xỏ đòn. 6 Ông làm những cây đòn bằng gỗ keo, và bọc đồng những đòn ấy. 7 Ông xỏ đòn vào vòng ở hai bên bàn thờ, để khiêng. Ông làm bàn thờ rỗng, bằng ván ghép lại.

Vạc đồng (Xh 30:18)

8 Ông làm cái vạc đồng có đế cũng bằng đồng, với những gương soi cho phụ nữ phục vụ ở cửa Lều Hội Ngộ.

Khuôn viên (Xh 27:9-19)

9 Ông làm khuôn viên. Phía nam, hướng Ne-ghép, khuôn viên có những tấm rèm bằng sợi gai mịn xe dài năm mươi thước. 10 Hai mươi cột treo rèm dựng trên hai mươi đế bằng đồng; móc ở các cột và thanh treo rèm thì bằng bạc. 11 Phía bắc, có những tấm rèm năm mươi thước; hai mươi cột treo rèm dựng trên hai mươi đế bằng đồng; móc ở các cột và thanh treo rèm thì bằng bạc. 12 Phía biển, có những tấm rèm hai mươi lăm thước, với mười cột và mười đế. 13 Về hướng đông, phía mặt trời mọc, khuôn viên rộng hai mươi lăm thước; 14 một bên che tấm rèm bảy thước rưỡi, có ba cột với ba đế; 15 bên kia, - nghĩa là hai bên cửa khuôn viên -, cũng che tấm rèm bảy thước rưỡi, có ba cột với ba đế. 16 Tất cả các rèm chung quanh khuôn viên đều bằng sợi gai mịn xe. 17 Những đế cột thì bằng đồng, những móc ở các cột và thanh treo rèm thì bằng bạc, đầu cột thiếp bạc. Như vậy, mọi cột trong khuôn viên đều nối liền với nhau nhờ những thanh treo rèm bằng bạc. 18 Bức màn ở cửa khuôn viên thì bằng chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe: đó là công việc của thợ thêu. Bức màn đó dài mười thước, cao - nghĩa là rộng -, hai thước rưỡi, như những tấm rèm của khuôn viên. 19 Bốn cột treo rèm và bốn đế thì bằng đồng, móc bằng bạc, đầu cột thiếp bạc, thanh treo rèm cũng bằng bạc. 20 Mọi cái cọc của Nhà Tạm và chung quanh khuôn viên đều bằng đồng.

Bảng kết toán

21 Ðây là bảng kết toán về Nhà Tạm, Nhà Tạm Chứng Ước. Ông Mô-sê đã ra lệnh cho các thầy Lê-vi, dưới sự hướng dẫn của ông I-tha-ma, con của tư tế A-ha-ron, phải làm bảng này.

22 Chính ông Bơ-xan-ên, con ông U-ri, con ông Khua, thuộc chi tộc Giu-đa, đã thi hành mọi điều Ðức Chúa truyền cho ông Mô-sê. 23 Người phụ tá của ông là O-ho-li-áp, con của ông A-khi-xa-mác, thuộc chi tộc Ðan; ông là thợ chạm và là nghệ nhân, là thợ thêu chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn.

24 Tổng số vàng dân đã dâng cúng để dùng vào công trình, công trình dựng nơi thánh, là tám trăm bảy mươi ký và hai trăm hai mươi lượng, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện. 25 Số bạc những người trong cộng đồng thuộc diện kiểm tra dân số đã dâng là ba ngàn ký và năm trăm ba mươi lượng, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện. 26 Mỗi đầu người là hai chỉ bạc, tức là nửa se-ken, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện; bất cứ ai thuộc diện kiểm tra dân số từ hai mươi tuổi trở lên, tức là sáu trăm lẻ ba ngàn năm trăm năm mươi người, đều phải đóng góp như vậy. 27 Ba ngàn ký bạc để đúc các đế của nơi thánh và của bức trướng: một trăm đế mất ba ngàn ký, mỗi đế ba mươi ký. 28 Ông dùng năm trăm ba mươi lượng để làm móc cột, thiếp đầu cột và nối các cột lại nhờ những thanh treo màn. 29 Số đồng người ta dâng cúng là hai ngàn một trăm hai mươi bốn ký. 30 Ông đem dùng làm các đế đặt ở cửa Lều Hội Ngộ, bàn thờ đồng và vỉ đồng, mọi đồ phụ tùng của bàn thờ, 31 các đế chung quanh khuôn viên, các đế ở cửa khuôn viên, mọi cái cọc của Nhà Tạm và chung quanh khuôn viên.

Chương 39

Y phục của thượng tế

1 Người ta lấy chỉ đỏ tía, chỉ điều và chỉ đỏ thẫm làm phẩm phục để dùng khi hành lễ trong nơi thánh. Người ta làm lễ phục cho ông A-ha-ron, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.

Áo ê-phốt (Xh 2 8:6-14)

2 Người ta làm áo ê-phốt bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe. 3 Người ta cán vàng thành từng lá và kéo thành chỉ để xen vào chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn, và làm nên một công trình rất mỹ thuật. 4 Người ta làm cầu vai cho áo ê-phốt và hai thân áo ê-phốt được khâu liền vào hai đầu cầu vai. 5 Băng chéo đeo trên áo ê-phốt để giữ áo thì đính liền vào đó; băng chéo đó làm cùng một kiểu với áo ê-phốt: bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 6 Người ta giũa mã não, nhận vào những ổ bằng vàng, khắc tên con cái Ít-ra-en vào các viên ngọc đó theo kiểu thợ chạm khắc dấu ấn. 7 Người ta đặt các viên ngọc đó trên cầu vai của áo ê-phốt để làm kỷ vật tưởng nhớ con cái Ít-ra-en, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.

Túi đeo trước ngực (Xh 28:15-30)

8 Người ta may túi đeo trước ngực rất mỹ thuật theo kiểu áo ê-phốt: bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe. 9 Túi đó hình vuông may kép, dài một gang, rộng một gang. 10 Người ta nhận vào đó bốn hàng ngọc: ở hàng thứ nhất có nhận xích não, hoàng ngọc và bích ngọc; 11 ở hàng thứ hai có nhận hồng ngọc, lam ngọc và kim cương; 12 Ở hàng thứ ba có nhận miêu nhãn thạch, mã não và tử ngọc; 13 ở hàng thứ tư có nhận kim lục thạch, mã não có vân và vân thạch. Những viên ngọc đó được nhận vào những ổ bằng vàng. 14 Các viên ngọc mang tên con cái Ít-ra-en: mười hai viên ngọc mang mười hai tên của họ khắc theo kiểu dấu ấn, mỗi viên ngọc mang tên của một trong mười hai chi tộc. 15 Người ta làm cho túi đeo trước ngực những dây chuyền khoen lật bằng vàng ròng để làm dải buộc. 16 Người ta làm hai ổ bằng vàng và hai vòng bằng vàng, và đính hai vòng đó vào hai góc túi. 17 Người ta xâu hai dây chuyền khoen lật bằng vàng đó vào hai vòng đặt ở góc túi. 18 Người ta đặt hai đầu dây chuyền khoen lật vào hai ổ, rồi đặt lên cầu vai của áo ê-phốt, mặt phải. 19 Người ta làm hai vòng bằng vàng, rồi gắn vào hai đầu túi ở mép trong, mặt trái áp áo ê-phốt. 20 Người ta làm hai vòng bằng vàng, rồi đính vào hai cầu vai của áo ê-phốt bên dưới, mặt phải, gần chỗ buộc, bên trên băng chéo của áo ê-phốt. 21 Người ta lấy một dải vải đỏ tía mà buộc các vòng của túi đeo trước ngực vào các vòng của áo ê-phốt, để túi nằm trên băng chéo của áo ê-phốt: như thế, túi không xê dịch được trên áo ê-phốt, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.

Áo khoác (Xh 28:31 -35)

22 Người ta làm áo khoác toàn bằng sợi đỏ tía: đó là công trình của thợ dệt. 23 Cổ áo khoét ở giữa giống như cổ áo giáp: đường viền chung quanh cổ áo không sao rách được. 24 Người ta làm ở gấu dưới của áo khoác những quả lựu bằng chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe. 25 Người ta làm những lục lạc bằng vàng ròng, rồi xếp những lục lạc đó xen kẽ với những quả lựu, vòng quanh gấu dưới áo khoác, xen kẽ với những quả lựu: 26 một lục lạc rồi một quả lựu, một lục lạc rồi một quả lựu, vòng quanh gấu dưới áo khoác, để cử hành nghi lễ, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.

Y phục tư tế (Xh 28:40-43)

27 Người ta làm những áo dài bằng sợi gai mịn cho ông A-ha-ron và các con ông: đó là công trình của thợ dệt; 28 người ta cũng làm mũ tế bằng sợi gai mịn, khăn chít bằng sợi gai mịn để trang sức, quần bằng sợi gai, sợi gai mịn xe, 29 đai lưng bằng sợi gai mịn xe, bằng chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm: đó là công trình của thợ thêu, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.

30 Người ta làm huy hiệu bằng vàng ròng, là dấu thánh hiến, và ghi trên đó những chữ sau đây theo kiểu khắc dấu ấn: "Thánh hiến cho Ðức Chúa.” 31 Người ta đính nó trên một dây bằng chỉ đỏ tía buộc vào phía trên mũ tế, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.

32 Như thế, mọi công việc dựng Nhà Tạm, dựng Lều Hội Ngộ đều hoàn thành. Con cái Ít-ra-en làm mọi sự đúng y như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.

33 Họ đem lại cho ông Mô-sê Nhà Tạm, gồm: Lều và mọi đồ phụ tùng, móc, ván, thanh ngang, cột và đế; 34 bạt bằng da cừu nhuộm đỏ và bạt bằng da cá heo, bức trướng dùng làm màn che; 35 Hòm Bia Chứng Ước, đòn khiêng và nắp xá tội; 36 bàn và mọi đồ dùng, bánh tiến; 37 trụ đèn bằng vàng ròng và các thứ đèn đặt trên đó, mọi đồ dùng và dầu thắp đèn; 38 bàn thờ bằng vàng, dầu tấn phong, hương thơm, màn che cửa Lều; 39 bàn thờ bằng đồng và vỉ bằng đồng, đòn khiêng và mọi đồ dùng, vạc và đế; 40 màn của khuôn viên, cột, đế và tấm màn che cửa khuôn viên, dây thừng và cọc, cũng như mọi đồ dùng để phục vụ Nhà Tạm, cần cho Lều Hội Ngộ; 41 phẩm phục để hành lễ trong nơi thánh, lễ phục dành cho tư tế A-ha-ron và y phục các con ông mặc để thi hành chức tư tế. 42 Con cái Ít-ra-en thực hiện tất cả công trình đó hoàn toàn đúng y như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.

43 Ông Mô-sê nhìn xem mọi công việc đó: họ thực hiện đúng y như Ðức Chúa đã truyền. Ông Mô-sê chúc phúc cho họ.

Chương 40

Dựng và thánh hiến Nhà Tạm

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Vào ngày mồng một tháng giêng, ngươi sẽ dựng Nhà Tạm, dựng Lều Hội Ngộ. 3 Ngươi sẽ đặt vào đó Hòm Bia Chứng Ước và lấy bức trướng mà che Hòm Bia ấy. 4 Ngươi sẽ đem bàn tới và bày trên đó những gì cần phải bày ra. Ngươi sẽ đem trụ đèn tới và đặt đèn lên đó. 5 Ngươi sẽ đặt hương án bằng vàng trước Hòm Bia Chứng Ước, và treo màn che cửa Nhà Tạm. 6 Ngươi sẽ đặt bàn thờ dâng lễ toàn thiêu trước cửa Nhà Tạm, trước cửa Lều Hội Ngộ. 7 Ngươi sẽ đặt cái vạc ở giữa Lều Hội Ngộ và bàn thờ, và đổ nước vào đó. 8 Ngươi sẽ làm khuôn viên chung quanh và treo màn che cửa khuôn viên. 9 Ngươi sẽ lấy dầu tấn phong xức Nhà Tạm và tất cả những gì trong đó; ngươi sẽ thánh hiến Nhà Tạm và mọi đồ vật trong đó; như thế, Nhà Tạm sẽ là vật thánh. 10 Ngươi sẽ xức dầu bàn thờ dâng lễ toàn thiêu và mọi đồ dùng; ngươi sẽ thánh hiến bàn thờ, và bàn thờ sẽ là vật rất thánh. 11 Ngươi sẽ xức dầu cái vạc và đế, ngươi sẽ thánh hiến cái vạc đó. 12 Ngươi sẽ dẫn A-ha-ron và các con ông đến gần cửa Lều Hội Ngộ và lấy nước tẩy rửa họ. 13 Ngươi sẽ lấy phẩm phục mặc cho A-ha-ron, xức dầu thánh hiến để ông ấy thi hành chức tư tế phục vụ Ta. 14 Ngươi sẽ dẫn các con ông lại gần và cho họ mặc áo dài. 15 Ngươi đã xức dầu họ như đã xức dầu cha họ, để họ thi hành chức tư tế phục vụ Ta. Ngươi sẽ làm như thế, để nhờ việc xức dầu, họ trở nên tư tế vĩnh viễn, đời nọ đến đời kia.

Thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa

16 Ông Mô-sê làm mọi sự đúng y như Ðức Chúa đã truyền cho ông. 17 Ngày mồng một tháng giêng năm thứ hai, Nhà Tạm được dựng lên. 18 Ông Mô-sê cho dựng Nhà Tạm. Ông cho đặt đế, ghép ván, đặt thanh ngang và dựng cột. 19 Ông cho căng lều trên Nhà Tạm, lấy bạt che phía trên lều, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 20 Ông lấy Chứng Ước đặt vào Hòm Bia, xỏ đòn vào Hòm Bia, đặt nắp xá tội lên trên đó. 21 Ông rước Hòm Bia vào trong Nhà Tạm và treo bức trướng để che khuất Hòm Bia Chứng Ước, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 22 Ông cho đặt chiếc bàn trong Lều Hội Ngộ, bên cạnh Nhà Tạm, phía bắc, bên ngoài bức trướng, 23 rồi cho bày một hàng bánh trên đó, trước nhan Ðức Chúa, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 24 Ông cho đặt trụ đèn trong Lều Hội Ngộ, đối diện với bàn, bên cạnh Nhà tạm, phía nam, 25 rồi cho đặt đèn lên đó, trước nhan Ðức Chúa, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 26 Ông cho đặt bàn thờ bằng vàng trong Lều Hội Ngộ, phía trước bức trướng, 27 rồi cho đốt hương thơm trên đó, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 28 Ông cho treo màn che cửa Nhà Tạm. 29 Bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, ông cho đặt ở cửa Nhà Tạm, ở cửa lều Hội Ngộ, rồi ông dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm trên đó, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 30 Ông cho đặt cái vạc ở giữa Lều Hội Ngộ và bàn thờ, rồi đổ nước vào đó, để dùng vào việc tẩy rửa. 31 Ông A-ha-ron và các con ông lấy nước ấy mà rửa tay chân. 32 Mỗi khi họ vào Lều Hội Ngộ và tới gần bàn thờ, thì họ tẩy rửa, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 33 Ông cho làm khuôn viên chung quanh Nhà Tạm và bàn thờ, rồi cho treo màn che cửa khuôn viên. Như thế, ông Mô-sê đã hoàn thành công việc.

Ðức Chúa chiếm hữu Nhà Tạm (Ðn 9:15-16)

34 Ðám mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang Ðức Chúa đầy tràn Nhà Tạm. 35 Ông Mô-sê không thể vào Lều Hội Ngộ vì đám mây đậu trên đó, và vinh quang Ðức Chúa đầy tràn Nhà Tạm.

Mây dẫn đường cho dân Ít-ra-en (Ðn 9:17 -23)

36 Ở mỗi chặng đường của họ, khi nào đám mây bay lên khỏi Nhà Tạm, thì con cái Ít-ra-en nhổ trại. 37 Nếu mây không bay lên, thì họ không nhổ trại cho đến ngày mây lại bay lên. 38 Quả vậy, đám mây của Ðức Chúa đậu trên Nhà Tạm ban ngày, còn ban đêm thì có lửa trong mây, trước mắt toàn thể con cái Ít-ra-en, ở mỗi chặng đường họ đi.

Lêvi

Chương 01

I. Nghi Thức Các Lễ Tế

Lễ toàn thiêu

1 Ðức Chúa gọi ông Mô-sê, và từ Lều Hội Ngộ, Người phán với ông rằng:

2 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Khi một người trong các ngươi dâng lễ tiến lên Ðức Chúa, nếu là gia súc thì các ngươi phải dâng bò hay chiên dê làm lễ tiến.

3 Nếu người ấy tiến dâng một con bò làm lễ toàn thiêu, thì phải tiến dâng một con đực toàn vẹn; người ấy sẽ tiến dâng nó ở cửa Lều Hội Ngộ, để được Ðức Chúa đoái nhận. 4 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật dâng làm lễ toàn thiêu, và nó sẽ được đoái nhận để cử hành nghi thức xá tội cho người ấy. 5 Người ấy sẽ sát tế con bò tơ trước nhan Ðức Chúa, và các con A-ha-ron là các tư tế, sẽ tiến dâng máu; chúng sẽ rảy máu chung quanh bàn thờ đặt ở cửa Lều Hội Ngộ. 6 Người ấy sẽ lột da con vật dâng làm lễ toàn thiêu, và xả nó ra từng mảnh. 7 Các con A-ha-ron, là các tư tế, sẽ nhóm lửa trên bàn thờ và xếp củi trên lửa. 8 Các con A-ha-ron là các tư tế, sẽ xếp các mảnh thịt, cùng với đầu và mỡ, trên củi đặt trên lửa ở bàn thờ. 9 Còn lòng và chân, người ấy sẽ lấy nước mà rửa, rồi tư tế sẽ đốt tất cả cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. Ðó là lễ toàn thiêu, lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa.

10 Nếu người ấy tiến dâng chiên dê làm lễ toàn thiêu, một con chiên con hay một con dê, thì phải tiến dâng một con đực toàn vẹn. 11 Người ấy sẽ sát tế nó bên cạnh bàn thờ, về phía bắc, trước nhan Ðức Chúa, và các con A-ha-ron là các tư tế, sẽ rảy máu nó chung quanh bàn thờ. 12 Người ấy sẽ xả nó ra từng mảnh, rồi tư tế sẽ xếp những mảnh ấy, cùng với đầu và mỡ, trên củi đặt trên lửa ở bàn thờ. 13 Còn lòng và chân, người ấy sẽ lấy nước mà rửa, rồi tư tế sẽ tiến dâng tất cả và đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. Ðó là lễ toàn thiêu, lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. 14 Nếu người ấy tiến dâng lên Ðức Chúa một con chim làm lễ toàn thiêu, thì phải dâng chim gáy hoặc bồ câu non. 15 Tư tế sẽ tiến dâng nó tại bàn thờ, cấu đầu nó và đốt nó cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, máu thì bóp vào thành bàn thờ. 16 Tư tế sẽ lấy cái diều và bộ lông ra, ném bên cạnh bàn thờ, về phía đông, vào chỗ đổ tro. 17 Người ta sẽ chặt đôi nó ở giữa hai cánh, nhưng không tách hẳn ra; tư tế sẽ đốt nó cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, trên củi đặt trên lửa. Ðó là lễ toàn thiêu, lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa.

Chương 02

Lễ phẩm

1 Khi có ai tiến dâng lễ phẩm lên Ðức Chúa, thì phải dâng tinh bột; người ấy sẽ rưới dầu lên trên và đổ nhũ hương vào. 2 Người ấy sẽ đưa lễ phẩm đến cho các con A-ha-ron là các tư tế. Tư tế sẽ bốc một nắm đầy tinh bột, dầu và tất cả nhũ hương, rồi đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, làm kỷ vật dành cho Ðức Chúa. Ðó là lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. 3 Phần còn lại của lễ phẩm thì thuộc về A-ha-ron và các con nó; đó là phần rất thánh lấy từ các lễ hoả tế dâng Ðức Chúa.

4 Khi (các) ngươi dâng lễ phẩm là bột nhào nướng lò làm lễ tiến, thì đó phải là tinh bột làm thành bánh ngọt không men nhào với dầu, và làm thành bánh tráng không men phết dầu.

5 Nếu lễ tiến của (các) ngươi là một lễ phẩm nướng chảo, thì phải là tinh bột nhào với dầu, không men. 6 (Các) ngươi sẽ bẻ nó ra từng miếng và rưới dầu lên trên. Ðó là lễ phẩm. 7 Nếu lễ tiến của (các) ngươi là một lễ phẩm nấu trong nồi, thì phải làm bằng tinh bột với dầu.

8 (Các) ngươi sẽ đem đến dâng Ðức Chúa lễ phẩm làm bằng các thứ ấy; người ta sẽ tiến dâng cho tư tế, tư tế sẽ đem đến gần bàn thờ. 9 Từ lễ phẩm ấy, tư tế sẽ lấy ra phần kỷ vật dành cho Ðức Chúa, đem đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. Ðó là lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa.

10 Phần còn lại của lễ phẩm thì thuộc về A-ha-ron và các con; đó là phần rất thánh lấy từ các lễ hoả tế dâng Ðức Chúa.

11 Không lễ phẩm nào (các) ngươi tiến dâng Ðức Chúa được làm bằng chất lên men, vì (các) ngươi không bao giờ được lấy men và lấy mật ong mà đốt cho cháy nghi ngút làm lễ hoả tế dâng Ðức Chúa. 12 (Các) ngươi có thể dâng những thứ ấy lên Ðức Chúa làm lễ tiến sản phẩm đầu mùa, nhưng không được đưa lên bàn thờ để thành hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. 13 (Các) ngươi phải bỏ muối vào mọi lễ phẩm (các) ngươi dâng tiến; (các) ngươi không được để lễ phẩm (các) ngươi thiếu muối của giao ước của Thiên Chúa (các) ngươi; (các) ngươi phải dâng muối cùng với mọi lễ tiến của (các) ngươi. 14 Nếu (các) ngươi tiến dâng Ðức Chúa của đầu mùa làm lễ phẩm, thì phải tiến dâng gié lúa rang, hột lúa mới đã xay, làm lễ phẩm của đầu mùa. 15 (Các) ngươi sẽ đổ dầu lên trên và bỏ nhũ hương vào. Ðó là lễ phẩm. 16 Tư tế sẽ đốt cho cháy nghi ngút phần kỷ vật dành cho Ðức Chúa, tức là một phần hột lúa xay và dầu cùng với tất cả nhũ hương. Ðó là lễ hoả tế dâng Ðức Chúa.

Chương 03

Hy lễ kỳ an

1 Nếu lễ tiến của người ấy là một hy lễ kỳ an, và người ấy muốn tiến dâng bò đực hay bò cái, thì phải tiến dâng trước nhan Ðức Chúa một con vật toàn vẹn. 2 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật dâng làm lễ tiến, và sẽ sát tế nó ở cửa Lều Hội Ngộ. Các con A-ha-ron, là các tư tế, sẽ rảy máu nó chung quanh bàn thờ. 3 Người ấy sẽ tiến dâng một phần hy lễ kỳ an làm lễ hoả tế dâng Ðức Chúa, đó là lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, tất cả lớp mỡ ở trên bộ lòng, 4 hai trái cật và lớp mỡ bọc ngoài, gần lưng, và khối mỡ trên gan mà người ấy sẽ tách ra cùng với các trái cật. 5 Các con A-ha-ron sẽ đốt những thứ ấy cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, bên trên lễ toàn thiêu đặt trên củi ở trên lửa. Ðó là lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa.

6 Nếu người ấy tiến dâng chiên dê làm lễ kỳ an dâng Ðức Chúa, thì phải tiến dâng một con đực hay một con cái toàn vẹn.

7 Nếu người ấy dâng một chiên con làm lễ tiến, thì phải tiến dâng nó trước nhan Ðức Chúa. 8 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật dâng làm lễ tiến, và sẽ sát tế nó trước Lều Hội Ngộ. Các con A-ha-ron sẽ rảy máu nó chung quanh bàn thờ. 9 Người ấy sẽ tiến dâng một phần hy lễ kỳ an làm lễ hoả tế dâng Ðức Chúa, đó là: mỡ của nó, trọn cái đuôi mà người ấy sẽ cắt sát xương cùng, lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, tất cả lớp mỡ ở trên bộ lòng, 10 hai trái cật và lớp mỡ bọc ngoài, gần lưng, và khối mỡ trên gan mà người ấy sẽ tách ra cùng với các trái cật. 11 Tư tế sẽ đốt những thứ ấy cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. Ðó là thức ăn hoả tế dâng Ðức Chúa.

12 Nếu lễ tiến của người ấy là một con dê, thì phải tiến dâng nó trước nhan Ðức Chúa. 13 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật, và sẽ sát tế nó trước cửa Lều Hội Ngộ. Các con A-ha-ron sẽ rảy máu nó chung quanh bàn thờ. 14 Người ấy sẽ tiến dâng một phần con vật làm lễ tiến, làm lễ hoả tế dâng Ðức Chúa, đó là: lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, tất cả lớp mỡ ở trên bộ lòng, 15 hai trái cật và lớp mỡ bọc ngoài, gần lưng, và khối mỡ trên gan mà người ấy sẽ tách ra cùng với các trái cật. 16 Tư tế sẽ đốt những thứ ấy cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. Ðó là thức ăn hoả tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa.

17 Ðây là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi, tại khắp nơi các ngươi ở: tất cả những gì là mỡ và huyết, các ngươi không được ăn.

Chương 04

Lễ tạ tội

a. Tạ tội cho tư tế

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

2 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en: Khi có người nào vô ý phạm tội trái với một trong các mệnh lệnh của Ðức Chúa và làm một trong những điều không được làm, 3 nếu là tư tế đã được xức dầu tấn phong mà phạm tội, khiến dân cũng mắc lỗi, thì vì tội đã phạm, nó phải tiến dâng một con bò tơ toàn vẹn lên Ðức Chúa làm lễ tạ tội. 4 Nó sẽ đưa con bò đến cửa Lều Hội Ngộ trước nhan Ðức Chúa; nó sẽ đặt tay trên đầu con bò và sát tế con bò trước nhan Ðức Chúa. 5 Tư tế đã được xức dầu tấn phong sẽ lấy một phần máu con bò và đưa vào Lều Hội Ngộ. 6 Tư tế sẽ nhúng ngón tay vào máu và rảy máu đó bảy lần trước nhan Ðức Chúa, phía trước màn trướng thánh điện. 7 Tư tế sẽ bôi máu lên các góc cong của bàn thờ dâng hương thơm đặt trong Lều Hội Ngộ, trước nhan Ðức Chúa, rồi đổ tất cả máu bò còn lại xuống chân bàn thờ dâng lễ toàn thiêu đặt ở cửa Lều Hội Ngộ.

8 Còn tất cả mỡ của con bò dâng làm lễ tạ tội, nó sẽ trích riêng ra, đó là: lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, tất cả lớp mỡ ở trên bộ lòng, 9 hai trái cật và lớp mỡ bọc ngoài, gần lưng, và khối mỡ trên gan mà nó sẽ tách ra cùng với các trái cật - 10 giống như phần trích riêng ra từ con bò dâng làm hy lễ kỳ an - rồi tư tế sẽ đốt những thứ ấy cho cháy nghi ngút trên bàn thờ dâng lễ toàn thiêu. 11 Còn da con bò, tất cả thịt của nó, cùng với đầu, chân, lòng và phân của nó, 12 tóm lại tất cả con bò, thì tư tế sẽ đưa ra ngoài trại, ở một nơi thanh sạch, chỗ đổ tro, và thiêu trên củi đang cháy; nó sẽ được thiêu tại chính nơi đổ tro.

b. Tạ tội cho cộng đồng Ít-ra-en

13 Nếu toàn thể cộng đồng Ít-ra-en vô ý phạm tội và đại hội không nhận thấy điều đó, nếu chúng làm một trong những điều mà mệnh lệnh Ðức Chúa cấm làm, khiến chúng mắc lỗi, 14 nhưng rồi chúng biết được tội đã phạm, thì đại hội phải tiến dâng một bò tơ làm lễ tạ tội, và sẽ đưa nó đến trước Lều Hội Ngộ. 15 Các kỳ mục của cộng đồng sẽ đặt tay trên đầu con bò, trước nhan Ðức Chúa, và người ta sẽ sát tế con bò trước nhan Ðức Chúa.

16 Tư tế đã được xức dầu tấn phong sẽ đem một phần máu con bò vào Lều Hội Ngộ. 17 Tư tế sẽ nhúng ngón tay vào máu và rảy bảy lần trước nhan Ðức Chúa, phía trước màn trướng. 18 Tư tế sẽ bôi máu vào các góc cong của bàn thờ đặt trong Lều Hội Ngộ, trước nhan Ðức Chúa, rồi đổ tất cả máu còn lại xuống chân bàn thờ dâng lễ toàn thiêu đặt ở cửa Lều Hội Ngộ.

19 Còn tất cả mỡ, tư tế sẽ lấy riêng ra và đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. 20 Nó sẽ tế con bò này như đã tế con bò dâng làm lễ tạ tội; tư tế sẽ tế nó như vậy. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho chúng và chúng sẽ được tha.

21 Tư tế sẽ đưa con bò ra ngoài trại và thiêu nó như đã thiêu con bò trước. Ðó là lễ tạ tội cho đại hội.

c. Tạ tội cho một đầu mục

22 Nếu một đầu mục phạm tội, và vô ý làm một trong những điều mà mệnh lệnh Ðức Chúa, Thiên Chúa của nó, cấm làm, khiến nó mắc lỗi, 23 nếu người ta cho nó biết tội nó đã phạm, thì nó phải đưa đến một con dê làm lễ tiến, một con đực toàn vẹn. 24 Nó sẽ đặt tay trên đầu con dê và sát tế trước nhan Ðức Chúa, ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu. Ðó là lễ tạ tội. 25 Tư tế sẽ dùng ngón tay lấy máu lễ vật tạ tội và bôi lên các góc cong của bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, rồi đổ máu còn lại xuống chân bàn thờ dâng lễ toàn thiêu. 26 Còn tất cả mỡ, tư tế sẽ đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, như mỡ của hy lễ kỳ an. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho người ấy khỏi tội của mình, và người ấy sẽ được tha.

d. Tạ tội cho một thường dân

27 Nếu một thường dân vô ý phạm tội, làm một trong những điều mà mệnh lệnh của Ðức Chúa cấm làm, khiến nó mắc lỗi, 28 nếu người ta cho nó biết tội nó đã phạm, thì vì tội đã phạm, nó sẽ đưa đến một con dê làm lễ tiến, một dê cái toàn vẹn. 29 Nó sẽ đặt tay trên đầu lễ vật tạ tội và sát tế lễ vật tạ tội ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu. 30 Tư tế sẽ dùng ngón tay lấy máu con vật và bôi lên các góc cong của bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, rồi đổ tất cả máu còn lại xuống chân bàn thờ. 31 Còn tất cả mỡ, tư tế sẽ tách ra như người ta tách mỡ ra khỏi hy lễ kỳ an, rồi tư tế sẽ đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ thành hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho người ấy, và người ấy sẽ được tha.

32 Nếu người ấy đem dâng tiến một con chiên làm lễ tạ tội, thì phải đem đến một con chiên cái toàn vẹn. 33 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu lễ vật tạ tội và sát tế làm lễ tạ tội ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu. 34 Tư tế sẽ dùng ngón tay lấy máu lễ vật tạ tội và bôi lên các góc cong của bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, rồi đổ tất cả máu còn lại xuống chân bàn thờ. 35 Còn tất cả mỡ, tư tế sẽ tách ra như người ta tách mỡ của con chiên dâng làm hy lễ kỳ an, rồi tư tế sẽ đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, bên trên các lễ hoả tế dâng Ðức Chúa. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho người ấy, vì tội người ấy đã phạm, và người ấy sẽ được tha.

Chương 05

Một số trường hợp phải dâng lễ tạ tội

1 Khi một người nào phạm tội, vì tuy là nhân chứng về một việc đã thấy hoặc đã biết, mà không chịu nói ra sau khi đã nghe lời khuyến cáo long trọng, thì nó phải mang lấy tội một mình;

2 hoặc khi một người nào đụng đến bất cứ vật gì ô uế -như xác chết một dã thú ô uế, xác chết một gia súc ô uế, xác chết một con vật ô uế- mà không biết, thì nó trở nên ô uế và mắc lỗi;

3 hoặc khi người ấy đụng đến một cái gì ô uế của người ta - những thứ ô uế khiến người ta trở nên ô uế - mà không biết, thì sau khi biết, nó mắc lỗi;

4 hoặc khi một người nào lỡ lời mà thề làm điều gì bất kỳ tốt xấu - trong mọi điều một người có thể lỡ lời mà thề - nhưng không biết, thì sau khi biết, nó mắc lỗi về một trong những điều ấy.

5 Vậy khi ai mắc lỗi về một trong những điều trên, thì nó phải xưng thú tội mình đã phạm, 6 rồi phải đưa đến dâng Ðức Chúa lễ vật đền tội vì tội đã phạm, là một con chiên cái hay một con dê cái làm lễ tạ tội, và tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó khỏi tội.

Lễ tạ tội cho một thường dân (tiếp)

7 Nếu người ấy không có phương tiện kiếm được chiên dê, thì vì tội đã phạm, nó phải đưa đến dâng Ðức Chúa lễ vật đền tội, là một đôi chim gáy hay một đôi bồ câu non, một con làm lễ tạ tội, một con làm lễ toàn thiêu. 8 Nó sẽ đưa đôi chim đến cho tư tế. Trước tiên tư tế sẽ tiến dâng con chim làm lễ tạ tội; tư tế sẽ cấu đầu con chim ở gần gáy, nhưng không tách hẳn ra; 9 tư tế sẽ rảy máu lễ vật tạ tội vào thành bàn thờ, phần máu còn lại sẽ được bóp vào chân bàn thờ. Ðó là lễ tạ tội. 10 Còn con thứ hai, tư tế sẽ dâng làm lễ toàn thiêu như luật định. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho nó khỏi tội đã phạm, và nó sẽ được tha.

11 Nếu người ấy không thể kiếm được một đôi chim gáy hay một đôi bồ câu non, thì vì tội đã phạm, nó phải đưa đến dâng lễ tiến, là bốn lít rưỡi tinh bột làm lễ tạ tội. Người ấy sẽ không đổ dầu lên trên, cũng không bỏ hương vào, vì đó là lễ tạ tội. 12 Người ấy sẽ đưa đến cho tư tế, tư tế sẽ bốc một nắm làm phần kỷ vật dành cho Ðức Chúa và đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, bên trên các lễ hoả tế dâng Ðức Chúa. 13 Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho nó, vì tội nó đã phạm trái với một trong những điều trên, và nó sẽ được tha. Tư tế sẽ có phần, như khi người ta dâng lễ phẩm."

Lễ đền tội

14 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

15 "Khi một người nào bất trung, vô ý phạm đến những của thánh dành cho Ðức Chúa, thì phải đem dâng Ðức Chúa lễ vật đền tội, là một con chiên đực toàn vẹn bắt từ bầy chiên, giá trị bằng một số chỉ bạc - tính theo đơn vị đo lường của thánh điện - để làm lễ đền tội.16 Tội nó đã làm thiệt thánh điện bao nhiêu, nó sẽ phải đền, cộng thêm một phần năm, và nộp cho tư tế. Tư tế sẽ dùng con chiên đực dâng làm lễ chuộc tội mà cử hành lễ xá tội cho nó, và nó sẽ được tha.

17 Nếu một người nào phạm tội và vô tình làm một trong những điều mệnh lệnh Ðức Chúa cấm làm, thì nó mắc lỗi và phải mang lấy tội mình. 18 Nó phải đưa đến cho tư tế một con chiên đực toàn vẹn bắt từ bầy chiên, giá trị như đã quy định, để làm lễ đền tội. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó về tội nó đã vô ý phạm mà không biết, và nó sẽ được tha. 19 Ðó là lễ đền tội; nó quả là mắc lỗi với Ðức Chúa."

20 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

21 "Khi một người nào phạm tội và bất trung với Ðức Chúa, vì đã từ chối không trả cho người đồng bào một vật ký thác, một vật gởi tay hay một vật mất trộm, hoặc vì đã bóc lột người đồng bào, 22 hoặc vì đã từ chối không trả một vật bắt được, khi nó đã thề gian về một trong những điều trên là những tội người ta có thể phạm, 23 thì kẻ phạm tội và mắc lỗi như thế phải trả lại vật mình đã ăn trộm, hoặc của đã bóc lột, hoặc cái đã được ký thác cho mình, hoặc vật bị mất mà mình đã bắt được, 24 hoặc bất cứ vật nào mà nó đã thề gian là không giữ. Nó phải đền đầy đủ, cộng thêm một phần năm, và phải nộp cho chủ của, ngày mà nó dâng lễ đền tội. 25 Nó phải đem dâng Ðức Chúa lễ vật đền tội, là một con chiên đực toàn vẹn bắt từ bầy chiên, giá trị như đã quy định, nộp cho tư tế làm lễ vật đền tội. 26 Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó trước nhan Ðức Chúa, thì nó sẽ được tha, bất kể nó đã làm gì khiến mình mắc lỗi."

Chương 06

Hàng tư tế và các lễ tế

A. Lễ thượng hiến

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

2 "Hãy truyền cho A-ha-ron và các con nó: Ðây là luật về lễ toàn thiêu. Lễ vật toàn thiêu phải ở trên lò trên bàn thờ suốt đêm cho đến sáng, và lửa phải cháy luôn trên bàn thờ.

3 Tư tế sẽ mặc áo vải gai và mặc quần đùi vải gai che mình; nó sẽ hốt tro lễ toàn thiêu mà lửa đã đốt trên bàn thờ, và đổ bên cạnh bàn thờ. 4 Nó sẽ cởi phẩm phục ra, mặc phẩm phục khác vào, rồi đưa tro ra ngoài trại, ở một nơi thanh sạch.

5 Lửa trên bàn thờ phải cháy luôn không tắt: sáng sáng, tư tế sẽ đốt củi trên đó, xếp lễ vật toàn thiêu lên trên và đốt mỡ của lễ vật kỳ an. 6 Lửa phải thường xuyên cháy trên bàn thờ, không bao giờ tắt.

B. Lễ phẩm

7 Ðây là luật về lễ phẩm:

8 Từ lễ phẩm đó, tư tế sẽ trích ra một nắm tinh bột, dầu và tất cả nhũ hương ở trên lễ phẩm, rồi đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, thành hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa, đó là phần kỷ vật dành cho Ðức Chúa. 9 Phần còn lại của lễ phẩm thì A-ha-ron và các con sẽ được ăn; phần đó sẽ được làm thành bánh không men và ăn trong một nơi thánh; chúng sẽ ăn nó tại khuôn viên Lều Hội Ngộ. 10 Phần đó không được trộn men mà nướng. Ðó là phần Ta ban cho chúng từ các lễ hoả tế dâng cho Ta; đó là của rất thánh, giống như lễ tạ tội và lễ đền tội. 11 Mọi đàn ông con trai trong các con A-ha-ron sẽ được ăn phần ấy; đó là quy luật vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi, trong những lễ hoả tế dâng Ðức Chúa; tất cả những gì chạm đến các vật ấy sẽ được thánh hiến."

12 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

13 "Ðây là lễ tiến mà A-ha-ron và các con sẽ dâng lên Ðức Chúa ngày được xức dầu tấn phong; bốn lít rưỡi tinh bột làm lễ phẩm thường xuyên, một nửa ban sáng và một nửa ban chiều. 14 Lễ phẩm ấy sẽ được chiên trên chảo, với dầu. Sau khi trộn kỹ, ngươi sẽ đem dâng lễ phẩm ấy là bánh đã bẻ thành miếng: đó là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. 15 Trong số các con A-ha-ron, tư tế được xức dầu tấn phong để kế vị nó, cũng sẽ làm như thế: đó là quy luật vĩnh viễn. Lễ phẩm sẽ được đốt trọn vẹn cho cháy nghi ngút dâng Ðức Chúa.

16 Mọi lễ phẩm của tư tế phải được dâng trọn vẹn, không được ăn."

C. Lễ tạ tội

17 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

18 "Hãy nói với A-ha-ron và các con nó:

Ðây là luật về lễ tạ tội:

19 Tư tế cử hành lễ tạ tội được ăn lễ vật đó; lễ vật sẽ được ăn trong một nơi thánh, trong khuôn viên Lều Hội Ngộ, 20 tất cả những gì chạm đến thịt lễ vật sẽ được thánh hiến; nếu có máu bắn vào quần áo, thì ngươi phải giặt chỗ có máu bắn vào, trong một nơi thánh. 21 Nồi đất đã dùng để nấu lễ vật sẽ phải đập vỡ, còn nếu nó đã được nấu trong nồi đồng, thì nồi đó phải được cọ sạch và rửa bằng nước. 22 Mọi đàn ông con trai thuộc hàng tư tế sẽ được ăn: đó là của rất thánh. 23 Nhưng mọi lễ vật tạ tội mà máu đã được mang vào Lều Hội Ngộ để cử hành lễ xá tội trong nơi thánh, thì không được ăn; lễ vật đó phải bỏ vào lửa mà thiêu.

Chương 07

D. Lễ đền tội

1 Ðây là luật về lễ đền tội, về một của rất thánh:

2 Phải sát tế lễ vật đền tội ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu, và tư tế sẽ rảy máu nó chung quanh bàn thờ. 3 Tư tế sẽ tiến dâng tất cả mỡ của nó: cái đuôi, lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, 4 hai trái cật và lớp mỡ bọc ngoài, gần lưng, và khối mỡ trên gan mà tư tế sẽ tách ra cùng với các trái cật. 5 Tư tế sẽ đốt những thứ ấy cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, làm lễ hoả tế dâng Ðức Chúa. Ðó là lễ đền tội. 6 Mọi đàn ông con trai thuộc hàng tư tế sẽ được ăn; lễ vật ấy sẽ được ăn trong một nơi thánh: đó là của rất thánh.

Quyền lợi của các tư tế

7 Lễ tạ tội thế nào, lễ đền tội cũng vậy: chỉ có một luật duy nhất cho cả hai. Tư tế nào dâng lễ vật để cử hành lễ xá tội, thì lễ vật sẽ thuộc về tư tế đó. 8 Tư tế tiến dâng lễ toàn thiêu của người nào, thì da của lễ vật mà tư tế đó tiến dâng sẽ thuộc về tư tế đó. 9 Mọi lễ phẩm nướng trong lò, mọi lễ phẩm nấu trong nồi hay chiên trên chảo sẽ thuộc về tư tế tiến dâng lễ phẩm ấy. 10 Mọi lễ phẩm nhào với dầu hay để khô sẽ thuộc về các con A-ha-ron.

Ð. Hy lễ kỳ an

a. Hy lễ tạ ơn

11 Ðây là luật về hy lễ kỳ an tiến dâng Ðức Chúa:

12 Nếu tiến dâng hy lễ kỳ an kèm với lễ tạ ơn, thì cùng với hy lễ tạ ơn, phải tiến dâng bánh ngọt không men nhào với dầu, bánh tráng không men phết dầu và tinh bột trộn kỹ làm thành bánh nhào với dầu. 13 Cùng với bánh ngọt đó, phải dâng bánh có men làm lễ tiến, kèm theo lễ kỳ an. 14 Phải tiến dâng một phần lấy từ mọi lễ tiến làm phần trích dâng Ðức Chúa. Phần ấy sẽ thuộc về tư tế đã rảy máu của lễ vật kỳ an. 15 Còn thịt của hy lễ kỳ an để tạ ơn, thì phải ăn trong chính ngày tiến dâng, không được để lại gì cho đến sáng hôm sau.

b. Lễ vật đã khấn hứa hay lễ vật tự nguyện

16 Nếu hy lễ tiến dâng là lễ vật đã khấn hứa hay lễ vật tự nguyện, thì phải ăn trong chính ngày tiến dâng hy lễ; phần còn lại, được ăn ngày hôm sau. 17 Sang ngày thứ ba, những gì còn lại của hy lễ, phải bỏ vào lửa mà thiêu.

Quy tắc chung

18 Sang ngày thứ ba mà người ta cứ ăn thịt của hy lễ kỳ an, thì người tiến dâng hy lễ sẽ không được đoái nhận; nó sẽ không được kể là đã dâng hy lễ: đó là thịt ôi, và người nào ăn thì phải mang tội.

19 Thịt đã chạm đến bất cứ cái gì ô uế, thì không được ăn, nhưng phải bỏ vào lửa mà thiêu.

20 Nhưng người nào ở trong tình trạng ô uế mà ăn thịt của hy lễ kỳ an dâng Ðức Chúa, thì sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ. 21 Người nào chạm tới bất cứ cái gì ô uế - cái gì ô uế của người ta, hay loài vật ô uế, hay bất cứ vật ô uế kinh tởm nào - mà ăn thịt của hy lễ kỳ an dâng Ðức Chúa, thì người ấy sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ."

22 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

23 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en: Tất cả những gì là mỡ, mỡ bò, mỡ chiên hay mỡ dê, các ngươi không được ăn. 24 Mỡ của con vật chết và mỡ của con vật bị thú dữ xé, có thể dùng vào mọi việc, nhưng tuyệt đối các ngươi không được ăn. 25 Phàm ai ăn mỡ con vật mà người ta đã dâng tiến một phần làm lễ hoả tế dâng Ðức Chúa, thì chính người ăn sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ.

26 Tại khắp nơi các ngươi ở, tất cả những gì là tiết, dù là tiết chim hay tiết loài vật, các ngươi không được ăn. 27 Phàm người nào ăn bất cứ cái gì là tiết, thì sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ."

Phần của tư tế

28 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

29 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en: Ai tiến dâng Ðức Chúa hy lễ kỳ an, thì sẽ đem đến một phần hy lễ kỳ an của mình làm lễ tiến, dâng Ðức Chúa. 30 Chính tay người ấy sẽ đem đến những lễ hoả tế của Ðức Chúa là mỡ kèm theo cái ức, nó sẽ đem cái ức đến để làm nghi thức tiến dâng trước nhan Ðức Chúa. 31 Tư tế sẽ đốt mỡ cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, còn cái ức thì thuộc về A-ha-ron và các con nó. 32 Các ngươi sẽ cho tư tế cái đùi phải, làm phần trích ra từ hy lễ kỳ an của các ngươi. 33 Người nào trong các con A-ha-ron dâng tiến máu và mỡ của lễ kỳ an, thì cái đùi phải sẽ là phần của nó. 34 Thật vậy, cái ức đã tiến dâng theo nghi thức và cái đùi đã trích ra, thì Ta lấy của con cái Ít-ra-en, từ các hy lễ kỳ an của chúng, và Ta ban cho tư tế A-ha-ron và các con nó: đó là quy luật vĩnh viễn cho con cái Ít-ra-en."

Kết luận

35 Ðó là phần của ông A-ha-ron và phần của các con ông, lấy từ các lễ hoả tế dâng Ðức Chúa, từ ngày họ được tiến dâng để làm tư tế của Ðức Chúa. 36 Phần đó, Ðức Chúa đã truyền cho con cái Ít-ra-en tặng cho họ, từ ngày Người xức dầu tấn phong họ: đó là quy tắc vĩnh viễn cho họ từ thế hệ này qua thế hệ kia.

37 Ðó là luật về lễ toàn thiêu, lễ phẩm, lễ tạ tội, lễ đền tội, lễ trao quyền và hy lễ kỳ an; 38 luật đó, Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê trên núi Xi-nai, trong ngày Người truyền cho con cái Ít-ra-en dâng Ðức Chúa các lễ tiến của họ trong sa mạc Xi-nai.

Chương 08

II. Lễ Tấn Phong Tư Tế

Nghi thức thánh hiến (Xh 29:1-37)

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

2 "Hãy đem theo A-ha-ron cùng với các con nó, và lấy các phẩm phục, dầu tấn phong, con bò dùng làm lễ tạ tội, hai con cừu đực và giỏ bánh không men. 3 Rồi hãy tập hợp toàn thể cộng đồng ở cửa Lều Hội Ngộ."

4 Ông Mô-sê làm như Ðức Chúa đã truyền cho ông, và cộng đồng tụ tập ở cửa Lều Hội Ngộ. 5 Ông Mô-sê nói với cộng đồng: "Ðây là điều Ðức Chúa truyền phải làm."

6 Ông Mô-sê cho ông A-ha-ron và các con ông ấy đến gần, và lấy nước tắm rửa họ.

7 Ông mặc áo dài cho ông ấy, thắt đai lưng, choàng áo khoác, và đặt áo ê-phốt trên ông; ông lấy băng chéo của áo ê-phốt thắt cho ông và cho ông mặc áo ấy; 8 ông đeo khăn ngực cho ông ấy và bỏ các thẻ xăm u-rim và tum-mim vào khăn ngực; 9 ông lấy mũ tế đội lên đầu ông ấy và đính vào phía trước mũ tế huy hiệu bằng vàng, là dấu thánh hiến, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.

10 Ông Mô-sê lấy dầu tấn phong xức Nhà Tạm cùng mọi vật ở trong, và thánh hiến tất cả; 11 ông lấy dầu rảy trên bàn thờ bảy lần, rồi xức dầu bàn thờ cùng mọi đồ phụ thuộc, vạc và đế vạc, để thánh hiến những vật đó. 12 Ông đổ dầu tấn phong lên đầu ông A-ha-ron và xức dầu để thánh hiến ông.

13 Ông cho các con ông A-ha-ron đến gần, mặc áo dài cho họ, thắt đai lưng và lấy mũ đội lên đầu họ, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.

14 Ông Mô-sê cho dẫn con bò dùng làm lễ tạ tội đến. Ông A-ha-ron và các con ông đặt tay lên đầu con bò dùng làm lễ tạ tội. 15 Ông Mô-sê sát tế nó, lấy máu nó và dùng ngón tay mà bôi vào các góc cong ở chung quanh bàn thờ, và xoá tội cho bàn thờ; ông đổ máu còn lại xuống chân bàn thờ, và cử hành lễ xoá tội cho bàn thờ để thánh hiến. 16 Ông Mô-sê lấy tất cả lớp mỡ ở trên bộ lòng, khối mỡ gan, hai trái cật với lớp mỡ, mà đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. 17 Nhưng con bò, da, thịt và phân nó, thì ông bỏ vào lửa mà thiêu bên ngoài trại, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.

18 Ông cho dẫn con cừu đực dùng làm lễ toàn thiêu đến gần. Ông A-ha-ron và các con ông đặt tay lên đầu con cừu. 19 Ông Mô-sê sát tế nó và rảy máu chung quanh bàn thờ; 20 ông xả con cừu ra từng mảnh, rồi đốt cái đầu, các mảnh đã xẻ và mỡ cho cháy nghi ngút. 21 Còn lòng và chân, ông Mô-sê lấy nước mà rửa, rồi ông đốt tất cả con cừu cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. Ðó là lễ toàn thiêu, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.

22 Ông cho dẫn con cừu đực thứ hai đến gần, con cừu dùng cho lễ trao quyền. Ông A-ha-ron và các con ông đặt tay lên nó. 23 Ông Mô-sê sát tế nó, rồi lấy máu bôi vào trái tai phải ông A-ha-ron, vào ngón cái tay phải và ngón cái chân phải ông; 24 ông Mô-sê cho các con ông A-ha-ron lại gần và lấy máu bôi vào trái tai phải của họ, vào ngón cái tay phải của họ, và vào ngón cái chân phải của họ; ông Mô-sê rảy máu chung quanh bàn thờ. 25 Ông lấy mỡ, đuôi, tất cả lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, khối mỡ của gan, hai trái cật với lớp mỡ, và đùi phải. 26 Từ trong giỏ bánh không men ở trước nhan Ðức Chúa, ông lấy ra một tấm bánh ngọt không men, một tấm bánh ngọt chiên với dầu và một tấm bánh tráng, và đặt lên trên mỡ và đùi phải. 27 Tất cả những thứ đó, ông đặt trên bàn tay ông A-ha-ron và trên bàn tay các con ông ấy, rồi làm nghi thức tiến dâng trước nhan Ðức Chúa. 28 Sau đó, ông lấy lại các vật ấy từ bàn tay họ, và đem đốt cho cháy nghi ngút ở bàn thờ, bên trên lễ vật toàn thiêu. Ðó là hy lễ dâng trong ngày trao quyền, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa, là lễ hoả tế dâng Ðức Chúa. 29 Ông Mô-sê lấy cái ức và làm nghi thức tiến dâng trước nhan Ðức Chúa; đó là phần dành cho ông Mô-sê, lấy từ con cừu dâng trong lễ trao quyền, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.

30 Ông Mô-sê lấy dầu tấn phong và lấy máu trên bàn thờ rảy trên ông A-ha-ron và phẩm phục của ông, trên các con ông ấy và phẩm phục của họ; như thế ông thánh hiến ông A-ha-ron và phẩm phục của ông, các con ông và phẩm phục của họ.

31 Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron và các con ông: "Hãy nấu thịt ở cửa Lều Hội Ngộ, ở đó hãy ăn thịt và ăn bánh để trong giỏ dùng trong lễ trao quyền, như tôi đã truyền rằng: "Ông A-ha-ron và các con sẽ ăn thứ ấy. 32 Thịt và bánh còn thừa, ông và anh em hãy bỏ vào lửa mà thiêu. 33 Trong vòng bảy ngày, ông và anh em không được ra khỏi Lều Hội Ngộ, cho đến khi mãn thời gian làm lễ trao quyền cho ông và anh em, vì người ta sẽ làm lễ trao quyền cho ông và anh em trong vòng bảy ngày. 34 Ðức Chúa đã truyền phải làm như hôm nay người ta đã làm để cử hành lễ xá tội cho ông và anh em. 35 Trong vòng bảy ngày, ông và anh em phải ở lại cửa Lều Hội Ngộ, ngày và đêm, phải giữ điều Ðức Chúa truyền giữ, để ông và anh em khỏi chết. Ðó là lệnh truyền tôi đã nhận được.” 36 Ông A-ha-ron và các con đã làm điều Ðức Chúa dùng ông Mô-sê mà truyền.

Chương 09

Các tư tế nhậm chức

1 Ðến ngày thứ tám, ông Mô-sê gọi ông A-ha-ron và các con ông ấy, cũng như các kỳ mục Ít-ra-en, 2 và nói với ông A-ha-ron: "Ông hãy bắt một con bê để làm lễ tạ tội, với một con cừu đực để làm lễ toàn thiêu, cả hai còn toàn vẹn, và hãy tiến dâng chúng trước nhan Ðức Chúa. 3 Rồi ông hãy nói với con cái Ít-ra-en rằng: "Hãy bắt một con dê đực để làm lễ tạ tội, một con bê với một con chiên, cả hai phải được một tuổi, toàn vẹn, để làm lễ toàn thiêu, 4 một con bò đực và một con dê đực để làm lễ kỳ an dâng trước nhan Ðức Chúa, và một lễ phẩm nhào với dầu; vì hôm nay Ðức Chúa sẽ xuất hiện giữa anh em."

5 Họ đưa đến trước Lều Hội Ngộ những gì ông Mô-sê đã truyền, rồi toàn thể cộng đồng lại gần và đứng trước nhan Ðức Chúa. 6 Ông Mô-sê nói: "Ðây là điều Ðức Chúa đã truyền cho anh em; anh em hãy thi hành để vinh quang Ðức Chúa xuất hiện giữa anh em.” 7 Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron: "Ông hãy lại gần bàn thờ, hãy dâng lễ tạ tội và lễ toàn thiêu của ông, để làm lễ xá tội cho ông và cho dân, rồi hãy dâng lễ tiến của dân để cử hành lễ xá tội cho họ, như Ðức Chúa đã truyền.” 8 Ông A-ha-ron lại gần bàn thờ và sát tế con bê để làm lễ tạ tội cho chính mình. 9 Các con ông A-ha-ron đem máu lại cho ông; ông nhúng ngón tay vào máu, bôi lên các góc cong của bàn thờ, rồi đổ máu xuống trên bàn thờ. 10 Mỡ, hai trái cật và khối mỡ lấy từ gan của lễ vật tạ tội, thì ông đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê; 11 còn thịt và da, ông bỏ vào lửa mà thiêu bên ngoài trại.

12 Ông sát tế lễ vật toàn thiêu; các con ông A-ha-ron mang máu đến cho ông, và ông rảy máu chung quanh bàn thờ. 13 Họ cũng mang đến cho ông lễ vật toàn thiêu đã xả thành mảnh, cùng với cái đầu, và ông đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. 14 Ông rửa lòng và chân nó, rồi đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, bên trên lễ toàn thiêu.

15 Ông dâng lễ tiến của dân: ông bắt con dê đực dùng làm lễ tạ tội cho dân, sát tế và dâng nó làm lễ tạ tội như con trước. 16 Ông dâng tiến lễ toàn thiêu và làm như luật định. 17 Ông tiến dâng lễ phẩm: ông bốc một nắm đầy lễ phẩm và đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, thêm vào lễ toàn thiêu buổi sáng.

18 Ông sát tế con bò đực, và con cừu đực làm hy lễ kỳ an cho dân; các con ông A-ha-ron mang máu đến cho ông, và ông rảy máu chung quanh bàn thờ. 19 Mỡ con bò và mỡ con cừu, cái đuôi, mỡ chài, hai trái cật và khối mỡ của gan, 20 thì họ đặt trên những cái ức, và ông đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. 21 Ức và đùi phải, thì ông A-ha-ron làm nghi thức tiến dâng trước nhan Ðức Chúa, như ông Mô-sê đã truyền.

22 Ông A-ha-ron giơ tay trên dân và chúc phúc cho họ; rồi ông đi xuống, sau khi đã cử hành lễ tạ tội, lễ toàn thiêu và lễ kỳ an. 23 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron vào Lều Hội Ngộ, rồi đi ra chúc phúc cho dân. Vinh quang Ðức Chúa xuất hiện giữa toàn dân. 24 Lửa phát ra từ trước nhan Ðức Chúa đốt sạch lễ toàn thiêu và mỡ trên bàn thờ. Thấy thế, toàn dân reo mừng và cúi rạp xuống.

Chương 10

Quy định bổ sung

A. Trường hợp Na-đap và A-vi-hu

1 Hai người con của ông A-ha-ron là Na-đáp và A-vi-hu, mỗi người lấy bình hương của mình, bỏ lửa vào, rồi đặt hương lên trên, họ tiến dâng Ðức Chúa lửa phàm tục, điều mà Người đã không truyền cho họ. 2 Bấy giờ lửa từ trước nhan Ðức Chúa phát ra, thiêu sống họ, họ đã chết trước nhan Ðức Chúa. 3 Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron: "Ðó là điều Ðức Chúa đã phán:

Giữa các kẻ đến gần Ta,

Ta sẽ biểu dương sự thánh thiện của Ta;

trước mặt toàn dân, Ta sẽ cho thấy vinh quang của Ta."

Ông A-ha-ron lặng thinh.

B. Khiêng xác đi

4 Ông Mô-sê gọi các ông Mi-sa-ên và En-xa-phan, con ông Út-di-ên là chú ông A-ha-ron, và bảo họ: "Các chú lại đây, khiêng các người anh em của các chú từ nơi thánh ra ngoài trại.” 5 Họ lại gần, khiêng hai người kia vẫn còn mặc áo dài, đưa ra ngoài trại, như ông Mô-sê đã nói.

C. Tang chế của tư tế

6 Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron và hai người con ông ấy là E-la-da và I-tha-ma: "Ông và các anh đừng xoã tóc cũng đừng xé áo, để khỏi phải chết, và để Người khỏi nổi giận với toàn thể cộng đồng. Các người anh em của ông và các anh cùng toàn thể nhà Ít-ra-en sẽ khóc những kẻ Ðức Chúa đã thiêu. 7 Ông và các anh cũng không được rời cửa Lều Hội Ngộ, để khỏi phải chết, vì ông và các anh đã được xức dầu tấn phong của Ðức Chúa." Họ làm theo lời ông Mô-sê.

D. Cấm uống rượu

8 Ðức Chúa phán với ông A-ha-ron rằng:

9 "Ngươi cùng các con ngươi không được uống rượu và đồ uống có men, khi các ngươi vào Lều Hội Ngộ, kẻo các ngươi phải chết. Ðó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi. 10 Như vậy là để phân biệt của thánh với của phàm tục, vật ô uế với vật thanh sạch, 11 và để dạy con cái Ít-ra-en mọi thánh chỉ Ðức Chúa đã dùng ông Mô-sê mà phán với các ngươi."

Ð. Phần lễ tiến dành cho tư tế

12 Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron và hai người con còn lại của ông ấy là E-la-da và I-tha-ma: "Ông và các anh hãy lấy phần lễ phẩm còn lại sau khi đã dâng hoả tế lên Ðức Chúa, và hãy làm thành bánh không men mà ăn bên cạnh bàn thờ, vì đó là của rất thánh. 13 Ông và các anh hãy ăn trong một nơi thánh, vì đó là quyền lợi của ông và quyền lợi của con cái ông, mỗi khi có lễ hoả tế dâng Ðức Chúa. Ðó là lệnh truyền tôi đã nhận được.

14 Còn cái ức đã tiến dâng theo nghi thức trước nhan Ðức Chúa và cái đùi đã trích ra, ông cùng các con trai con gái ông sẽ ăn trong một nơi thanh sạch, vì những thứ ấy là phần quy định cho ông và phần quy định cho các con ông, mỗi khi con cái Ít-ra-en dâng hy lễ kỳ an. 15 Cái đùi trích ra và cái ức tiến dâng theo nghi thức, người ta sẽ đem đến cùng với các phần mỡ làm lễ hoả tế, để làm nghi thức tiến dâng trước nhan Ðức Chúa; rồi đùi và ức đó sẽ là của ông và các con ông. Ðó là quy luật vĩnh viễn, như Ðức Chúa đã truyền."

E. Quy định đặc biệt về lễ tạ tội

16 Ông Mô-sê hỏi đi hỏi lại về con dê đực dâng làm lễ tạ tội và thấy là nó đã bị thiêu. Ông nổi giận với hai người con còn lại của ông A-ha-ron là E-la-da và I-tha-ma, và nói: 17 "Tại sao các anh không ăn lễ vật tạ tội trong nơi thánh, vì đó là của rất thánh? Người đã ban nó cho các anh để xoá bỏ tội lỗi của cộng đồng, để cử hành lễ xá tội cho họ trước nhan Ðức Chúa. 18 Vì máu nó đã không được đưa vào nơi thánh, nên lẽ ra các anh phải ăn nó trong nơi thánh, như tôi đã truyền.” 19 Ông A-ha-ron nói với ông Mô-sê: "Này, hôm nay chúng đã tiến dâng lễ tạ tội và lễ toàn thiêu của chúng trước nhan Ðức Chúa. Sau khi sự việc đã xảy đến cho tôi như thế, nếu hôm nay tôi ăn lễ vật tạ tội, thì liệu điều ấy có vừa lòng Ðức Chúa không?” 20 Nghe vậy, ông Mô-sê lấy làm vừa lòng.

Chương 11

III. Luật Liên Quan Ðến Cái Thanh Sạch Và Cái Ô Uế

Loài vật thanh sạch và loài vật ô uế

A. Vật trên đất

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron và bảo các ông rằng:

2 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en: Trong tất cả các loài vật sống trên đất, đây là những loài các ngươi được ăn:

3 Mọi con vật có chân chẻ làm hai móng và thuộc loài nhai lại, thì các ngươi được ăn. 4 Tuy nhiên, trong các loài nhai lại và các loài có móng chẻ hai, các ngươi không được ăn các con này: con lạc đà, vì nó nhai lại, nhưng không có móng chẻ hai: các ngươi phải coi nó là loài ô uế; 5 con ngân thử, vì nó nhai lại, nhưng không có móng chẻ hai: các ngươi phải coi nó là loài ô uế; 6 con thỏ rừng, vì nó nhai lại, nhưng không có móng chẻ hai: các ngươi phải coi nó là ô uế; 7 con heo, vì nó có chân chẻ làm hai móng, nhưng không nhai lại: các ngươi phải coi nó là loài ô uế. 8 Thịt của chúng, các ngươi không được ăn, xác chết của chúng, các ngươi không được đụng đến; các ngươi phải coi chúng là loài ô uế.

B. Vật dưới nước

9 Trong tất cả các loài sống dưới nước, đây là những loài các ngươi được ăn:

10 Còn tất cả những loài không có vây, không có vảy, ở sông hay ở biển, trong số mọi vật nhỏ sống dưới nước và mọi sinh vật sống dưới nước, thì các ngươi phải coi chúng là loài kinh tởm. 11 Các ngươi phải coi chúng là loài kinh tởm: thịt của chúng, các ngươi không được ăn, xác chết của chúng, các ngươi phải coi là vật kinh tởm. 12 Tất cả những loài sống dưới nước mà không có vây, không có vảy, các ngươi phải coi là loài kinh tởm.

C. Chim chóc

13 Trong các loài chim, đây là những loài các ngươi phải coi là kinh tởm: người ta không được ăn, vì là loài kinh tởm: đại bàng, diều hâu, ó biển, 14 diều hâu đen, mọi thứ kền kền, 15 mọi thứ quạ, 16 đà điểu, cú, mòng biển, mọi thứ bồ cắt, 17 cú vọ, cóc, cú mèo,18 chim lợn, bồ nông, ó, 19 cò, mọi thứ diệc, chim đầu rìu và dơi.

D. Côn trùng có cánh

20 Mọi loài vật nhỏ có cánh đi bằng bốn chân, các ngươi phải coi là loài kinh tởm. 21 Trong các loài vật nhỏ có cánh đi bằng bốn chân, các ngươi chỉ được ăn những thứ sau đây: những con ngoài chân ra có thêm càng để nhảy trên đất. 22 Trong số những loài đó, đây là những loài các ngươi được ăn: mọi thứ cào cào, mọi thứ châu chấu, mọi thứ muỗm, mọi thứ dế. 23 Nhưng mọi vật nhỏ có cánh mà có bốn chân, các ngươi phải coi là loài kinh tởm.

Ðụng vào loài vật ô uế

24 Vì các vật ấy, các ngươi sẽ ra ô uế: ai đụng vào xác chết của chúng, sẽ ra ô uế cho đến chiều, 25 bất cứ ai mang xác chết của chúng, thì phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều. 26 Mọi con vật không có chân chẻ làm hai móng và không nhai lại, các ngươi phải coi là loài ô uế: bất cứ ai đụng vào chúng, sẽ ra ô uế. 27 Trong số các loài vật đi bằng bốn chân, tất cả các con đi bằng bàn chân, các ngươi phải coi là loài ô uế; bất cứ ai đụng vào chúng, sẽ ra ô uế cho đến chiều. 28 Bất cứ ai mang xác chết của chúng, thì phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều; các ngươi phải coi chúng là vật ô uế.

Ð. Vật nhỏ sống trên mặt đất

29 Trong số các loài vật nhỏ lúc nhúc trên mặt đất, các ngươi phải coi những loài này là ô uế: chuột chũi, chuột nhắt, mọi thứ thằn lằn, 30 tắc kè, kỳ đà, cắc ké, kỳ nhông, thạch sùng.

Quy định khác về việc đụng vào vật ô uế

31 Trong số mọi loài vật nhỏ, các ngươi phải coi những loài trên là ô uế. Bất cứ ai đụng đến chúng khi chúng đã chết, thì sẽ ra ô uế cho đến chiều.

32 Trong những con vật đó, con nào chết mà rơi trên bất cứ vật gì, thì vật ấy sẽ ra ô uế, dù là đồ dùng bằng gỗ, quần áo, da, bị, mọi đồ dùng để làm một công việc gì; phải nhúng vật ấy vào nước, nó sẽ ra ô uế cho đến chiều, rồi sẽ được thanh sạch. 33 Nếu một con vật rơi vào trong bất cứ bình sành nào, thì tất cả những gì trong đó sẽ ra ô uế, và các ngươi phải đập vỡ bình ấy. 34 Mọi thứ người ta ăn, nếu bị nước bình ấy đổ lên trên, thì sẽ ra ô uế; mọi thứ người ta uống, đựng trong bất cứ bình nào nói trên, sẽ ra ô uế. 35 Một xác chết của chúng mà rơi trên bất cứ vật gì, thì vật ấy sẽ ra ô uế; lò và bếp sẽ phải phá đi: các vật ấy là ô uế và các ngươi phải coi là những vật ô uế. 36 Tuy nhiên suối và hầm nước thì khối nước vẫn thanh sạch, nhưng ai đụng đến xác chết của chúng, sẽ ra ô uế. 37 Nếu một xác chết của chúng rơi trên hạt giống để gieo, thì hạt giống vẫn thanh sạch; 38 nhưng nếu đã đổ nước vào hạt giống, mà một xác chết của chúng rơi trên đó, thì các ngươi phải coi hạt giống đó là ô uế.

39 Nếu một con vật làm đồ ăn cho các ngươi mà chết, thì ai đụng vào xác chết của nó, sẽ ra ô uế cho đến chiều; 40 ai ăn thịt xác chết của nó, sẽ phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều; ai mang xác chết của nó, sẽ phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều.

41 Mọi loài vật nhỏ lúc nhúc trên mặt đất là vật kinh tởm, không được ăn. 42 Mọi con vật bò bằng bụng, mọi thứ đi bằng bốn chân hay nhiều chân hơn, tóm lại mọi loài vật lúc nhúc trên mặt đất, các ngươi không được ăn, vì chúng là vật kinh tởm. 43 Các ngươi đừng làm cho chính mình ra kinh tởm vì mọi loài vật nhỏ lúc nhúc, các ngươi đừng làm cho mình ra ô uế vì chúng: các ngươi sẽ ra ô uế vì chúng. 44 Thật vậy, Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi; các ngươi phải nên thánh và phải thánh thiện, vì Ta là Ðấng Thánh; các ngươi đừng làm cho chính mình ra ô uế vì mọi loài vật nhỏ bò trên đất. 45 Thật vậy, Ta là Ðức Chúa, Ðấng đã đưa các ngươi từ đất Ai-cập lên, để Ta làm Thiên Chúa của các ngươi; vậy các ngươi phải thánh thiện vì Ta là Ðấng Thánh."

Kết luận

46 Ðó là luật về loài vật, chim chóc, mọi sinh vật vẫy vùng dưới nước và mọi sinh vật lúc nhúc trên mặt đất, 47 để phân biệt vật ô uế với vật thanh sạch, loài vật được ăn với loài vật không được ăn.

Chương 12

Thanh tẩy đàn bà mới ở cữ

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

2 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en: Khi một người đàn bà có thai và sinh con trai, thì sẽ ra ô uế trong vòng bảy ngày, nó sẽ ra ô uế như những ngày bị khó ở vì kinh nguyệt. 3 Ðến ngày thứ tám, đứa trẻ sẽ được cắt bì nơi da quy đầu. 4 Rồi người đàn bà phải đợi ba mươi ba ngày cho máu được thanh tẩy; nó không được đụng đến vật thánh nào và không được vào thánh điện, cho đến khi mãn thời gian thanh tẩy của mình.

5 Nếu sinh con gái, thì người đàn bà sẽ ra ô uế trong vòng hai tuần, như khi có kinh; rồi nó phải đợi sáu mươi sáu ngày cho máu được thanh tẩy.

6 Khi mãn thời gian thanh tẩy, dù sinh con trai hay con gái, nó phải đem đến cho tư tế, ở cửa Lều Hội Ngộ, một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu, và một bồ câu non hay một chim gáy làm lễ tạ tội. 7 Tư tế sẽ tiến dâng chúng trước nhan Ðức Chúa và cử hành lễ xá tội cho nó và nó sẽ được thanh tẩy sau khi đã xuất huyết.

8 Nếu không có phương tiện kiếm được chiên, thì nó sẽ bắt một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non, một con để làm lễ toàn thiêu, một con để làm lễ tạ tội. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó, và nó sẽ ra thanh sạch."

Chương 13

Bệnh phong hủi ở người

A. Nhọt, lác, đốm

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron:

2 "Khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết thương phong hủi, thì người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế A-ha-ron hoặc với một trong các tư tế, con của A-ha-ron. 3 Tư tế sẽ khám vết thương trên da thịt nó: nếu lông ở vết thương đã chuyển sang màu trắng và vết thương xem ra lõm vào da thịt, thì đó là vết thương phong hủi; sau khi khám, tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế. 4 Nếu là đốm trắng trên da thịt, mà xem ra không lõm vào da, và lông không chuyển sang màu trắng, thì tư tế sẽ cô lập người mắc vết thương trong vòng bảy ngày. 5 Ðến ngày thứ bảy, tư tế sẽ khám nó: nếu chính mắt tư tế thấy là vết thương vẫn y nguyên, không lan ra trên da, thì tư tế sẽ lại cô lập nó trong vòng bảy ngày nữa. 6 Ðến ngày thứ bảy, tư tế sẽ tái khám nó: nếu vết thương đã mờ đi và không lan ra trên da, thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là thanh sạch: đó là lác; nó sẽ giặt áo và sẽ ra thanh sạch.

7 Nhưng nếu lác cứ lan ra trên da, sau khi người ấy đã được tư tế khám để được tuyên bố là thanh sạch, thì nó phải được tư tế tái khám. 8 Tư tế sẽ khám: nếu lác đã lan ra trên da, tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là bệnh phong hủi.

B. Phong hủi kinh niên

9 Khi trên người nào có vết thương phong hủi, thì phải đưa nó đến với tư tế. 10 Tư tế sẽ khám: nếu ở trên da có nhọt trắng, và nhọt ấy làm cho lông chuyển sang màu trắng, và trong nhọt có thịt đỏ lòm sùi ra, 11 thì đó là bệnh phong hủi kinh niên ở da thịt nó. Tư tế sẽ tuyên bố nó là ô uế; tư tế sẽ không cô lập nó, vì nó là ô uế.

12 Nhưng nếu phong hủi ấy cứ loang ra trên da và phủ tất cả da của người bệnh, từ đầu đến chân, bất kỳ đâu đâu mắt tư tế nhìn thấy, 13 thì tư tế sẽ khám: nếu phong hủi phủ tất cả da, thì tư tế sẽ tuyên bố người bệnh là thanh sạch: nó đã chuyển tất cả ra màu trắng, nó thanh sạch. 14 Nhưng ngày nào thấy người ấy có chỗ thịt đỏ lòm, thì nó sẽ ra ô uế; 15 tư tế sẽ khám chỗ thịt đỏ lòm và sẽ tuyên bố người ấy là ô uế; thịt đỏ lòm là ô uế: đó là bệnh phong hủi. 16 Hoặc khi thịt đỏ lòm lại chuyển sang màu trắng, thì nó sẽ đến với tư tế; 17 tư tế sẽ khám nó: nếu vết thương đã chuyển sang màu trắng, tư tế sẽ tuyên bố vết thương là thanh sạch: người ấy thanh sạch.

C. Ung

18 Khi người nào có ung ở da mà đã khỏi, 19 nhưng ở chỗ cái ung lại có một nhọt trắng hay một đốm trắng đỏ nhạt, thì nó phải để cho tư tế khám. 20 Tư tế sẽ khám: nếu đốm ấy xem ra ăn sâu vào da và lông đã chuyển sang màu trắng, thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là một vết thương phong hủi đã loang ra chỗ cái ung. 21 Nhưng nếu khi tư tế khám mà thấy ở đó không có lông trắng, cái ung không ăn sâu vào da và đã mờ đi, thì tư tế sẽ cô lập nó trong vòng bảy ngày. 22 Nếu vết đốm cứ loang ra trên da, thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là một vết thương. 23 Nhưng nếu vết đốm vẫn y nguyên, không lan ra, thì đó là sẹo của cái ung: tư tế sẽ tuyên bố người ấy là thanh sạch.

D. Phỏng

24 Trường hợp khác: khi người nào có chỗ phỏng lửa trên da và ở chỗ phỏng có đốm trắng đỏ nhạt hoặc trắng, 25 thì tư tế sẽ khám chỗ ấy: nếu lông ở đốm đã chuyển sang màu trắng, và vết đốm xem ra lõm vào da, thì đó là phong hủi loang ra ở chỗ phỏng; tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là vết thương phong hủi. 26 Nhưng nếu khi tư tế khám mà thấy vết đốm không có lông trắng, không ăn sâu vào da và đã mờ đi, thì tư tế sẽ cô lập người ấy trong vòng bảy ngày. 27 Ðến ngày thứ bảy, tư tế sẽ khám người ấy: nếu vết đốm cứ lan ra trên da, thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là vết thương phong hủi. 28 Nhưng nếu vết đốm cứ y nguyên, không lan ra trên da, và đã mờ đi, thì đó là một cái nhọt do phỏng gây ra; tư tế sẽ tuyên bố người ấy là thanh sạch, vì đó là sẹo của chỗ phỏng.

Ð. Chốc

29 Khi một người đàn ông hay một người đàn bà có vết thương ở đầu hoặc cằm, 30 thì tư tế sẽ khám vết thương: nếu nó xem ra lõm vào da, có lông vàng và nhỏ, thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là chốc, tức là phong hủi ở đầu hay ở cằm. 31 Nhưng nếu khi tư tế khám vết thương chốc, mà nó xem ra không lõm vào da và không có lông đen, thì tư tế sẽ cô lập người có vết thương chốc trong vòng bảy ngày. 32 Ðến ngày thứ bảy, tư tế sẽ khám vết thương: nếu chốc không lan ra, không có lông vàng và chốc xem ra không lõm vào da, 33 thì người ấy phải cạo đầu cạo cằm nhưng không cạo chỗ chốc, rồi tư tế sẽ lại cô lập người bị chốc trong vòng bảy ngày nữa. 34 Ðến ngày thứ bảy, tư tế sẽ khám chỗ chốc: nếu chỗ chốc không lan ra trên da và xem ra không lõm vào da, thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là thanh sạch; nó sẽ giặt áo và sẽ ra thanh sạch. 35 Nhưng nếu chỗ chốc cứ lan ra trên da, sau khi người ấy được tuyên bố là thanh sạch, 36 thì tư tế sẽ khám người ấy: nếu chỗ chốc đã lan ra trên da, thì tư tế sẽ không phải tìm xem có lông vàng không; người ấy ô uế. 37 Nhưng nếu chính mắt tư tế thấy là chỗ chốc vẫn y nguyên và có lông đen mọc ở đó, thì chỗ chốc đã khỏi và người ấy là thanh sạch; tư tế sẽ tuyên bố người ấy là thanh sạch.

E. Lang ben

38 Khi trên da thịt một người đàn ông hay một người đàn bà phát ra những đốm, những đốm trắng, 39 thì tư tế sẽ khám: nếu những đốm trên da thịt họ trắng đục, thì đó là lang ben đã loang ra trên da: họ thanh sạch.

G. Sói đầu

40 Người rụng tóc ở đầu là người sói đầu: người ấy thanh sạch. 41 Người rụng tóc phía trước là người sói trán: người ấy thanh sạch. 42 Nhưng nếu chỗ sói đầu hoặc sói trán có vết thương trắng đỏ nhạt, thì đó là phong hủi loang ra ở chỗ sói đầu hoặc sói trán. 43 Tư tế sẽ khám người ấy: nếu nhọt ở vết thương có màu trắng đỏ nhạt ở chỗ sói đầu hoặc sói trán, trông giống như phong hủi da thịt, 44 thì người ấy bị phong hủi: người ấy ô uế. Tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế; nó bị vết thương ở đầu.

Quy chế người phong hủi

45 Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: "Ô uế! Ô uế!” 46 Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại.

Phong hủi ở quần áo

47 Khi áo có vết phong hủi, áo len hay áo gai,48 áo dệt hay áo đan bằng gai hoặc bằng len, hoặc da hay bất cứ đồ vật gì bằng da, 49 nếu vết ấy xanh hay đỏ nhạt trên áo, trên da, trên áo dệt hoặc đan, hay trên bất cứ đồ vật gì bằng da, thì đó là vết phong hủi: phải đưa cho tư tế khám. 50 Tư tế sẽ khám vết ấy và để riêng đồ vật có vết ra, trong vòng bảy ngày. 51 Ðến ngày thứ bảy, tư tế sẽ khám vết ấy: nếu vết đã lan ra trên áo, áo dệt hay áo đan, trên da, trên bất cứ đồ vật gì làm bằng da, thì đó là phong hủi dễ lây: vật đó là ô uế. 52 Người ta phải đốt áo dệt hay áo đan bằng len hay bằng gai, hay bất cứ đồ vật gì bằng da có vết, vì đó là phong hủi dễ lây; đồ vật ấy phải bỏ vào lửa mà thiêu.

53 Nhưng nếu khi tư tế khám, vết ấy không lan ra trên áo, áo dệt hoặc áo đan, hay trên bất cứ đồ vật gì bằng da, 54 thì tư tế sẽ truyền giặt đồ vật có vết, rồi lại để riêng nó ra, trong vòng bảy ngày nữa. 55 Sau khi vết đã được gột rửa, tư tế sẽ khám: nếu vết ấy không thay đổi hình dạng và không lan ra, thì đồ vật ấy là ô uế, các ngươi phải bỏ vào lửa mà thiêu: đó là đồ vật bị ăn thủng mặt phải hay mặt trái.

56 Nhưng nếu khi tư tế khám, vết ấy đã mờ đi sau khi gột rửa, thì tư tế sẽ xé chỗ đó ra khỏi áo hay khỏi da, khỏi áo dệt hoặc áo đan. 57 Nếu nó lại xuất hiện trên áo, áo dệt hoặc áo đan, hay bất cứ đồ vật gì bằng da, thì đó là phong hủi đã loang ra: ngươi phải bỏ đồ vật có vết vào lửa mà thiêu. 58 Áo, áo dệt hoặc áo đan, hay bất cứ đồ vật gì bằng da, các ngươi đã giặt mà vết đã biến đi, thì sẽ được giặt một lần thứ hai, và sẽ thanh sạch."

59 Ðó là luật về vết phong hủi trên áo bằng len hoặc bằng gai, áo dệt hoặc áo đan, hay bất cứ đồ vật gì bằng da, để dựa vào đó mà tuyên bố đồ vật ấy thanh sạch hay ô uế.

Chương 14

10 Ngày thứ tám, nó sẽ lấy hai con chiên đực toàn vẹn, một con chiên cái toàn vẹn, một tuổi, mười ba lít rưỡi tinh bột nhào với dầu làm lễ phẩm, và nửa lít dầu. 11 Tư tế cử hành lễ thanh tẩy sẽ đặt người được thanh tẩy cùng với các lễ vật trước nhan Ðức Chúa, ở cửa Lều Hội Ngộ. 12 Tư tế sẽ bắt một con chiên, tiến dâng làm lễ đền tội cùng với nửa lít dầu, và tư tế sẽ làm nghi thức tiến dâng những thứ ấy trước nhan Ðức Chúa. 13 Tư tế sẽ sát tế con chiên ở nơi sát tế lễ vật tạ tội và lễ vật toàn thiêu, trong nơi thánh; - vì lễ vật đền tội thuộc về tư tế, cũng như lễ vật tạ tội: đó là của rất thánh. - 14 Tư tế sẽ lấy máu lễ vật đền tội bôi vào trái tai phải người được thanh tẩy, vào ngón cái tay phải và ngón cái chân phải nó. 15 Tư tế sẽ lấy nửa lít dầu, đổ một ít vào lòng bàn tay trái; 16 Tư tế sẽ nhúng một ngón tay phải vào dầu ở trong lòng bàn tay trái và lấy ngón tay rảy dầu bảy lần trước nhan Ðức Chúa. 17 Tư tế sẽ lấy dầu còn lại trong lòng bàn tay bôi vào trái tai phải người được thanh tẩy, vào ngón cái tay phải và ngón cái chân phải nó, bên trên máu lễ vật đền tội. 18 Chỗ dầu còn lại trong lòng bàn tay, tư tế sẽ bôi lên đầu người được thanh tẩy. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó trước nhan Ðức Chúa.

19 Tư tế sẽ làm lễ tạ tội và sẽ cử hành lễ xá tội cho người đang được thanh tẩy khỏi sự ô uế, sau đó sẽ sát tế lễ vật toàn thiêu. 20 Tư tế sẽ dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm trên bàn thờ; tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó và nó sẽ thanh sạch.

21 Nếu nó nghèo không thể kiếm được những thứ ấy, thì nó sẽ chỉ bắt một con chiên đực dùng làm lễ đền tội, người ta sẽ làm nghi thức tiến dâng con chiên ấy để cử hành lễ xá tội cho nó; nó cũng sẽ lấy bốn lít tinh bột nhào với dầu làm lễ phẩm, một nửa lít dầu, 22 và một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non, là những thứ nó có thể kiếm được, một con sẽ dùng làm lễ tạ tội, một con làm lễ toàn thiêu. 23 Ðến ngày thứ tám, nó sẽ mang những thứ ấy đến cho tư tế, ở cửa lều Hội Ngộ, trước nhan Ðức Chúa, để được thanh tẩy. 24 Tư tế sẽ lấy con chiên dâng làm lễ đền tội và nửa lít dầu mà làm nghi thức tiến dâng trước nhan Ðức Chúa. 25 Tư tế sẽ sát tế con chiên làm lễ đền tội, rồi lấy máu lễ vật đền tội bôi vào trái tai phải người được thanh tẩy, vào ngón cái tay phải và ngón cái chân phải nó. 26 Tư tế sẽ đổ một ít dầu vào lòng bàn tay trái; 27 tư tế sẽ dùng một ngón tay phải lấy dầu ở trong lòng bàn tay trái rảy bảy lần trước nhan Ðức Chúa. 28 Tư tế sẽ lấy dầu trong lòng bàn tay bôi vào trái tai phải người được thanh tẩy, vào ngón cái tay phải và ngón cái chân phải nó, ở chỗ đã bôi máu lễ vật đền tội. 29 Chỗ dầu còn lại trong lòng bàn tay, tư tế sẽ bôi lên đầu người được thanh tẩy, để cử hành lễ xá tội cho nó trước nhan Ðức Chúa. 30 Còn đôi chim gáy hay cặp bồ câu non, là những thứ người ấy có thể kiếm được, 31 thì trong những con chim nó đã có thể kiếm được, tư tế sẽ dâng một con làm lễ tạ tội, một con làm lễ toàn thiêu kèm với lễ phẩm. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho người được thanh tẩy, trước nhan Ðức Chúa."

32 Ðó là luật về người có vết thương phong hủi mà không thể kiếm được cái cần thiết cho lễ nghi thanh tẩy của mình.

Phong hủi nơi nhà cửa

33 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng:

34 "Khi các ngươi vào đất Ca-na-an mà Ta ban cho các ngươi làm sở hữu, nếu Ta đặt một vết phong hủi vào một nhà trong đất là sở hữu các ngươi, 35 thì chủ nhà sẽ đến báo cho tư tế rằng: "Tôi thấy trong nhà tôi có cái gì như vết phong hủi.” 36 Trước khi vào khám vết đó, tư tế sẽ truyền dọn trống nhà, để không có vật gì trong nhà ra ô uế; sau đó tư tế sẽ vào khám nhà. 37 Tư tế sẽ khám vết: nếu vết ở các tường nhà làm thành những chỗ lõm xanh xanh hoặc đỏ đỏ xem ra như ăn sâu vào tường, 38 thì tư tế sẽ ra khỏi nhà, đến tận cửa, và cô lập căn nhà trong vòng bảy ngày. 39 Ðến ngày thứ bảy, tư tế sẽ trở lại khám: nếu vết đã lan ra các tường nhà, 40 thì tư tế sẽ truyền gỡ những viên đá có vết và ném ra ngoài thành, vào một nơi ô uế; 41 rồi tư tế sẽ cho cạo tất cả bên trong nhà và đổ vữa đã cạo ra ngoài thành, vào một nơi ô uế. 42 Người ta sẽ lấy những viên đá khác thay vào các viên đá trước, và lấy vữa khác mà trát nhà.

43 Nếu vết lại loang ra trong nhà, sau khi đã gỡ đá ra, sau khi đã cạo và trát nhà, 44 thì tư tế sẽ đến khám: nếu vết đã lan ra trong nhà, thì đó là phong hủi dễ lây trong nhà, nhà đó ô uế. 45 Người ta sẽ phá nhà đi: đá, gỗ, tất cả vữa của nhà ấy, người ta sẽ đưa ra ngoài thành, vào một nơi ô uế.

46 Ai vào nhà trong suốt thời gian nhà bị cô lập, sẽ ra ô uế cho đến chiều. 47 Ai ngủ trong nhà sẽ phải giặt áo, ai ăn trong nhà sẽ phải giặt áo. 48 Nhưng nếu khi tư tế vào khám, vết đã không lan ra trong nhà sau khi trát lại nhà, thì tư tế sẽ tuyên bố nhà ấy là thanh sạch, vì vết phong hủi đã lành.

49 Ðể xoá tội cho nhà ấy, tư tế sẽ lấy hai con chim, gỗ bá hương, phẩm cánh kiến và cành hương thảo. 50 Tư tế sẽ sát tế một con chim trên một bình sành đựng nước mạch. 51 Tư tế sẽ lấy gỗ bá hương, cành hương thảo, phẩm cánh kiến và con chim còn sống, nhúng vào máu con chim đã bị sát tế và vào nước mạch, và rảy vào nhà bảy lần; 52 sau khi đã dùng máu con chim, dùng nước mạch, con chim còn sống, gỗ bá hương, cành hương thảo và phẩm cánh kiến mà xoá tội cho căn nhà, 53 tư tế sẽ thả con chim còn sống ra ngoài đồng, ở ngoài thành. Tư tế sẽ cử hành nghi thức xá tội cho căn nhà, và nhà ấy sẽ thanh sạch."

54 Ðó là luật về mọi vết phong hủi, về chốc, 55 về phong hủi nơi áo và nhà cửa, 56 về nhọt, lác, đốm, 57 để xác định khi nào một vật ô uế, khi nào thanh sạch.

Ðó là luật về phong hủi.

Chương 15

Ô uế về sinh dục

A. Ðàn ông

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng:

2 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Khi bất cứ một người đàn ông nào mắc bệnh lậu trong thân thể, thì bệnh lậu đó làm nó ra ô uế. 3 Sự ô uế của nó khi có bệnh lậu là thế này:

Dù thân thể nó tiết ra hay giữ lại mủ lậu, thì nó cũng mắc phải ô uế.

4 Mọi giường người bị lậu nằm, sẽ ra ô uế, mọi đồ vật nó ngồi lên, sẽ ra ô uế.

5 Người nào đụng vào giường của nó, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.

6 Ai ngồi lên đồ vật người bị lậu đã ngồi lên, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.

7 Ai đụng đến thân thể người bị lậu, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.

8 Nếu người bị lậu nhổ vào một người thanh sạch, người này sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.

9 Mọi cái yên người bị lậu cưỡi lên sẽ ra ô uế.

10 Bất cứ ai đụng vào một đồ vật nào mà người ấy nằm hay ngồi lên, sẽ ra ô uế cho đến chiều.

Ai mang một đồ vật như thế, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.

11 Người bị lậu chưa rửa tay mà đụng vào bất cứ người nào, thì người ấy sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.

12 Bình sành người bị lậu đụng vào, sẽ phải đập vỡ, còn mọi bình gỗ sẽ được rửa bằng nước.

13 Khi người bị lậu được lành bệnh, nó phải tính bảy ngày mới được thanh tẩy; nó phải giặt áo, lấy nước tắm rửa thân thể, và nó sẽ ra thanh sạch. 14 Ngày thứ tám, nó sẽ bắt một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu non, đến trước nhan Ðức Chúa, ở cửa Lều Hội Ngộ, mà đưa cho tư tế. 15 Tư tế sẽ dâng một con làm lễ tạ tội, một con làm lễ toàn thiêu; tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó, trước nhan Ðức Chúa, vì nó đã bị lậu.

16 Khi một người đàn ông xuất tinh, thì phải lấy nước tắm rửa thân thể, và sẽ ra ô uế cho đến chiều, 17 khi có xuất tinh mà giây ra bất cứ áo hay đồ da nào, thì sẽ phải lấy nước mà giặt rửa, và những thứ ấy sẽ ra ô uế cho đến chiều.

18 Khi một người đàn bà giao hợp với một người đàn ông, thì cả hai phải lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.

B. Ðàn bà

19 Khi một người đàn bà ra huyết, huyết từ thân thể chảy ra, thì nó sẽ ra ô uế bảy ngày vì có kinh.

Bất cứ ai đụng vào nó, sẽ ra ô uế cho đến chiều.

20 Mọi cái gì nó nằm khi có kinh, sẽ ra ô uế, mọi đồ vật nó ngồi lên, sẽ ra ô uế. 21 Bất cứ ai đụng vào giường của nó, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều. 22 Bất cứ ai đụng vào đồ vật nó đã ngồi lên, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều. 23 Nếu có cái gì trên giường hoặc trên đồ vật nó đã ngồi lên, thì ai đụng đến cái đó, sẽ ra ô uế cho đến chiều.

24 Nếu một người đàn ông cứ nằm với nó, thì sự ô uế của kinh nguyệt của nó sẽ truyền sang người ấy: người ấy sẽ ra ô uế trong vòng bảy ngày, và bất cứ giường nào người ấy nằm, sẽ ra ô uế.

25 Khi một người đàn bà bị rong huyết trong vòng nhiều ngày, ngoài thời kỳ kinh nguyệt, hoặc rong huyết quá thời kỳ kinh nguyệt, thì sự ô uế sẽ kéo dài suốt thời gian bị rong huyết; nó sẽ ra ô uế như trong thời gian có kinh. 26 Mọi giường nó nằm trong suốt thời gian rong huyết, sẽ ra ô uế như cái giường trong thời gian nó có kinh; mọi đồ vật nó ngồi lên, sẽ ra ô uế, như bị ô uế trong thời gian nó có kinh. 27 Bất cứ ai đụng vào những thứ đó, sẽ ra ô uế; nó sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.

28 Nếu nó không còn rong huyết, nó phải tính bảy ngày, sau đó sẽ được thanh sạch. 29 Ngày thứ tám, nó sẽ bắt một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu non và đem đến cho tư tế, ở cửa Lều Hội Ngộ. 30 Tư tế sẽ dâng một con làm lễ tạ tội, một con làm lễ toàn thiêu. Trước nhan Ðức Chúa, tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó, khỏi chứng rong huyết làm cho nó ra ô uế.

Kết luận

31 Các ngươi hãy bảo con cái Ít-ra-en kiêng cữ khi bị ô uế, như vậy chúng sẽ không phải chết vì sự ô uế của chúng, khi chúng làm cho Nhà Tạm của Ta ở giữa chúng ra ô uế."

32 Ðó là luật về người bị bệnh lậu và người xuất tinh và bởi vậy ra ô uế, 33 về người khó ở vì kinh nguyệt, về người đàn ông bị lậu hay người đàn bà bị rong huyết, cũng như về người đàn ông nằm với người đàn bà bị ô uế.

Chương 16

Ngày xá tội

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê sau khi hai người con của ông A-ha-ron chết; chúng đã chết khi lại gần Ðức Chúa.

2 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy nói với A-ha-ron, anh ngươi, đừng vào bất cứ lúc nào trong thánh điện, phía sau màn trướng, trước nắp xá tội ở trên Hòm Bia, và như vậy nó sẽ không phải chết khi Ta hiện ra trong đám mây trên nắp xá tội.

3 A-ha-ron sẽ vào thánh điện như thế này: Nó phải bắt một bò tơ để làm lễ tạ tội và một cừu đực để làm lễ toàn thiêu. 4 Nó sẽ mặc áo dài thánh bằng vải gai, mặc trên mình quần đùi vải gai, thắt đai lưng vải gai, đội mũ tế vải gai. Ðó là phẩm phục thánh, nó sẽ lấy nước tắm rửa thân thể trước khi mặc vào.

5 Nó sẽ nhận hai con dê đực để làm lễ tạ tội và một con cừu đực để làm lễ toàn thiêu, do cộng đồng con cái Ít-ra-en đem tới. 6 A-ha-ron sẽ tiến dâng con bò tơ làm lễ tạ tội cho chính mình, và sẽ cử hành lễ xá tội cho mình và cho nhà mình. 7 Nó sẽ lấy hai con dê và đặt trước nhan Ðức Chúa, ở cửa Lều Hội Ngộ. 8 Nó sẽ bắt thăm chọn giữa hai con dê: một thăm "dành cho Ðức Chúa", một thăm "dành cho quỷ A-da-dên.” 9 A-ha-ron sẽ tiến dâng con dê trúng thăm "dành cho Ðức Chúa" và dùng làm lễ tạ tội. 10 Còn con dê trúng thăm "dành cho A-da-dên", A-ha-ron sẽ để sống và đặt trước nhan Ðức Chúa, để cử hành lễ xá tội trên nó và thả nó cho A-da-dên trong sa mạc.

11 A-ha-ron sẽ tiến dâng con bò tơ dùng làm lễ tạ tội cho chính mình, và cử hành lễ xá tội cho mình và cho nhà mình: nó sẽ sát tế con bò tơ làm lễ tạ tội cho chính mình. 12 Nó sẽ lấy than hồng trên bàn thờ trước nhan Ðức Chúa bỏ đầy vào bình hương, sẽ bốc hai nắm đầy bột hương thơm, và đem vào phía sau màn trướng. 13 Nó sẽ bỏ hương vào lửa, trước nhan Ðức Chúa, và khói hương như mây sẽ phủ nắp xá tội ở trên Chứng Ước, và như vậy nó sẽ không phải chết. 14 Nó sẽ dùng một ngón tay lấy máu con bò tơ rảy trên nắp xá tội, về phía đông; rồi đằng trước nắp xá tội, nó cũng dùng ngón tay mà rảy máu bảy lần.

15 Nó sẽ sát tế con dê dùng làm lễ tạ tội cho dân, sẽ đem máu nó vào phía sau màn trướng, và cũng sẽ lấy máu đó mà rảy như đã rảy máu con bò tơ: nó sẽ rảy máu đó lên nắp xá tội, và đàng trước nắp xá tội. 16 Nó sẽ cử hành lễ xá tội cho thánh điện, vì những điều ô uế của con cái Ít-ra-en và những việc phản nghịch của chúng, nghĩa là mọi tội lỗi chúng.

17 Không một người nào được có mặt trong Lều Hội Ngộ, từ khi A-ha-ron vào để cử hành lễ xá tội trong thánh điện, cho đến khi nó ra.

18 Rồi nó sẽ ra ngoài, đến bàn thờ ở trước nhan Ðức Chúa và sẽ cử hành lễ xá tội cho bàn thờ: nó sẽ lấy máu con bò tơ và máu con dê mà bôi lên các góc cong của bàn thờ. 19 Nó sẽ dùng một ngón tay rảy máu bảy lần lên bàn thờ, mà thanh tẩy cho khỏi các điều ô uế của con cái Ít-ra-en, và thánh hiến bàn thờ.

20 Khi đã cử hành xong lễ xá tội cho thánh điện, cho Lều Hội Ngộ và bàn thờ, nó sẽ cho dẫn con dê còn sống tới. 21 A-ha-ron sẽ đặt hai tay lên đầu con dê còn sống, sẽ xưng thú trên con vật mọi lỗi lầm của con cái Ít-ra-en, mọi việc phản nghịch của chúng, nghĩa là mọi tội lỗi chúng; nó sẽ trút cả lên đầu con dê, rồi sẽ dùng tay một người đang chờ sẵn mà thả vào sa mạc. 22 Con dê sẽ mang trên mình mọi lỗi lầm của chúng vào hoang địa.

23 A-ha-ron sẽ vào trong Lều Hội Ngộ, cởi phẩm phục bằng vải gai nó đã mặc khi vào thánh điện; và để lại đó. 24 Nó sẽ lấy nước tắm rửa thân thể trong một nơi thánh, và sẽ mặc lại phẩm phục. Rồi nó sẽ ra mà dâng lễ toàn thiêu của mình và lễ toàn thiêu của dân; nó sẽ cử hành lễ xá tội cho chính mình và cho dân. 25 Còn mỡ của lễ tạ tội, thì nó sẽ đốt cho cháy nghi ngút ở bàn thờ.

26 Người đã thả con dê "dành cho A-da-dên" sẽ giặt áo, lấy nước tắm rửa thân thể, sau đó mới được về trại. 27 Con bò tơ dùng làm lễ tạ tội và con dê dùng làm lễ tạ tội, mà máu đã được đưa vào thánh điện để cử hành lễ xá tội, người ta sẽ đem ra bên ngoài trại, bỏ vào lửa mà thiêu, cả da, cả thịt, cả phân. 28 Người đã đốt những con vật đó phải giặt áo, lấy nước tắm rửa thân thể, sau đó mới được về trại.

29 Ðó sẽ là quy tắc vĩnh viễn cho các ngươi.

30 Thật vậy, ngày ấy, sẽ cử hành lễ xá tội cho các ngươi, để thanh tẩy các ngươi: trước nhan Ðức Chúa, các ngươi sẽ được thanh sạch khỏi mọi tội lỗi của các ngươi. 31 Ðối với các ngươi, đó sẽ là một ngày sa-bát, một ngày nghỉ: đó là quy tắc vĩnh viễn.

32 Tư tế đã được xức dầu và được trao quyền làm tư tế thay cho cha mình, sẽ cử hành lễ xá tội. Nó sẽ mặc phẩm phục bằng vải gai, phẩm phục thánh; 33 nó sẽ cử hành lễ xá tội cho thánh điện cực thánh; nó sẽ cử hành lễ xá tội cho Lều Hội Ngộ và cho bàn thờ; nó sẽ cử hành lễ xá tội cho các tư tế và cho toàn dân trong đại hội. 34 Ðó sẽ là quy tắc vĩnh viễn cho các ngươi: mỗi năm một lần sẽ cử hành lễ xá tội cho con cái Ít-ra-en khỏi mọi tội của chúng."

Người ta đã làm như Ðức Chúa truyền cho ông Mô-sê.

Chương 17

IV. Luật Về Sự Thánh Thiện

Sát sinh. Các lễ vật.

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 2 "Hãy nói với A-ha-ron, với các con nó cùng toàn thể con cái Ít-ra-en, và bảo chúng: Ðây là lời Ðức Chúa truyền:

3 Bất cứ người đàn ông nào thuộc nhà Ít-ra-en giết bò, chiên, hoặc dê trong trại, hay giết ngoài trại, 4 mà không mang con vật đến cửa Lều Hội Ngộ để dâng làm lễ tiến cho Ðức Chúa trước Nhà Tạm Ðức Chúa, thì nó sẽ chịu trách nhiệm về máu ấy: nó đã đổ máu, nó sẽ bị khai trừ khỏi dân nó. 5 Như vậy, con cái Ít-ra-en sẽ mang đến những hy lễ mà chúng tế ở ngoài đồng; chúng sẽ mang đến cho tư tế, để dâng Ðức Chúa, ở cửa Lều Hội Ngộ, và chúng sẽ tế dâng Ðức Chúa làm hy lễ kỳ an. 6 Tư tế sẽ rảy máu trên bàn thờ Ðức Chúa ở cửa Lều Hội Ngộ, và sẽ đốt mỡ cho cháy nghi ngút thành hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. 7 Chúng sẽ không còn tế dâng các hy lễ của chúng cho các thần dê, những thần chúng chạy theo mà làm điếm. Ðó là quy tắc vĩnh viễn cho chúng, cho các thế hệ của chúng.

8 Ngươi hãy bảo chúng: bất cứ người nào, thuộc nhà Ít-ra-en hoặc trong số ngoại kiều sống giữa chúng, dâng lễ toàn thiêu hay hy lễ, 9 mà không đem đến cửa Lều Hội Ngộ để dâng lên Ðức Chúa, thì người ấy sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ.

10 Bất cứ người nào thuộc nhà Ít-ra-en hoặc trong số ngoại kiều sống giữa chúng, ăn bất cứ thứ huyết nào, thì Ta sẽ quay mặt lại phạt kẻ ăn huyết và sẽ khai trừ khỏi dân nó; 11 vì mạng sống của xác thịt thì ở trong máu, và Ta, Ta đã ban máu cho các ngươi, trên bàn thờ, để cử hành lễ xá tội cho mạng sống các ngươi. Thật vậy, máu xá tội được vì nó là mạng sống. 12 Vì thế, Ta đã bảo con cái Ít-ra-en: Không một ai trong các ngươi được ăn huyết, ngoại kiều sống giữa các ngươi cũng không được ăn huyết.

13 Bất cứ người nào, thuộc con cái Ít-ra-en hoặc trong số ngoại kiều sống giữa chúng, săn được một con thú hoặc một con chim được phép ăn, thì phải đổ máu nó ra và lấy bụi đất phủ lên; 14 vì mạng sống của mọi xác thịt là máu nó bao lâu nó còn sống, và Ta đã bảo con cái Ít-ra-en: Các ngươi không được ăn huyết của bất cứ xác thịt nào, vì mạng sống của mọi xác thịt là máu nó; bất cứ ai ăn huyết sẽ bị khai trừ.

15 Phàm người nào, dù là người bản xứ hay ngoại kiều, ăn con vật chết hay bị xé, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều, rồi nó sẽ được thanh sạch. 16 Nếu nó không giặt áo và tắm rửa thân thể, nó sẽ phải mang lấy tội mình."

Chương 18

Những điều cấm đoán về sinh dục

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

2 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi. 3 Các ngươi không được làm như người ta làm trên đất Ai-cập, nơi các ngươi đã ở; các ngươi không được làm như người ta làm trên đất Ca-na-an, nơi Ta sắp đưa các ngươi vào. Các ngươi không được theo các quy tắc của chúng. 4 Các ngươi hãy thi hành các quyết định của Ta, giữ và theo các quy tắc của Ta.

5 Các ngươi phải giữ các quy tắc và quyết định của Ta: khi con người đem các điều ấy ra thực hành thì nhờ đó sẽ được sống.

Ta là Ðức Chúa.

6 Không người nào trong các ngươi được đến gần một người bà con ruột thịt để lột trần chỗ kín của nó. Ta là Ðức Chúa.

7 Ngươi không được lột trần chỗ kín của cha ngươi và chỗ kín của mẹ ngươi: đó là mẹ ngươi, ngươi không được lột trần chỗ kín của nó.

8 Ngươi không được lột trần chỗ kín của vợ của cha ngươi: đó là chỗ kín của cha ngươi.

9 Ngươi không được lột trần chỗ kín của chị em ngươi, dù là con gái của cha ngươi hay con gái của mẹ ngươi, sinh tại nhà hay sinh ở ngoài; ngươi không được lột trần chỗ kín của chúng.

10 Ngươi không được lột trần chỗ kín của cháu nội gái hay cháu ngoại gái ngươi, vì đó là chỗ kín của ngươi.

11 Ngươi không được lột trần chỗ kín của chị em cùng cha khác mẹ với ngươi: đó là chị em ngươi, ngươi không được lột trần chỗ kín của chúng.

12 Ngươi không được lột trần chỗ kín của chị em gái của cha ngươi: đó là ruột thịt của cha ngươi.

13 Ngươi không được lột trần chỗ kín của chị em gái của mẹ ngươi: đó là ruột thịt của mẹ ngươi.

14 Ngươi không được lột trần chỗ kín của chú bác ngươi; ngươi không được đến gần vợ của chúng: đó là bác gái, là thím ngươi.

15 Ngươi không được lột trần chỗ kín của con dâu ngươi: đó là vợ của con trai ngươi, ngươi không được lột trần chỗ kín của nó.

16 Ngươi không được lột trần chỗ kín của chị em dâu ngươi: đó là chỗ kín của anh em ngươi.

17 Ngươi không được lột trần chỗ kín của một người đàn bà và của con gái nó; ngươi không được lấy cháu nội gái hay cháu ngoại gái của nó để lột trần chỗ kín của chúng: đó là ruột thịt của nó; đó là tội ác tày trời.

18 Ngươi không được lấy chị em của vợ ngươi mà gây ra cảnh ghen tuông, khi lột trần chỗ kín của chúng, lúc vợ ngươi còn sống.

19 Ngươi không được đến gần một người đàn bà đang bị ô uế vì kinh nguyệt, để lột trần chỗ kín của nó.

20 Ngươi không được giao hợp với vợ của một người đồng bào, để khỏi ra ô uế vì người đàn bà ấy.

21 Ngươi không được lấy đứa nào trong con cái ngươi mà nhượng lại cho thần Mô-léc và không được xúc phạm đến danh của Thiên Chúa ngươi. Ta là Ðức Chúa.

22 Ngươi không được nằm với đàn ông như nằm với đàn bà: đó là điều ghê tởm.

23 Ngươi không được giao hợp với bất cứ con vật nào, để khỏi ra ô uế vì nó; đàn bà không được đứng trước thú vật để giao cấu với nó: đó là điều quái đản.

24 Các ngươi đừng làm cho mình ra ô uế vì tất cả những điều đó, bởi lẽ tại tất cả những điều đó, mà các dân tộc Ta sắp tống đi cho khuất mắt các ngươi, đã ra ô uế. 25 Ðất đã ra ô uế: Ta đã phạt nó vì tội lỗi nó, và nó đã mửa dân cư nó ra. 26 Phần các ngươi, hãy giữ các quy tắc và quyết định của Ta, và không được làm một điều nào trong những điều ghê tởm ấy, dù là người bản xứ hay ngoại kiều sống giữa các ngươi. 27 Thật vậy, những người ở trong đất trước các ngươi đã làm tất cả những điều ghê tởm ấy, và đất đã ra ô uế. 28 Nhưng đất sẽ không mửa các ngươi ra, khi các ngươi làm cho nó ra ô uế, như nó đã mửa dân tộc ở đó trước các ngươi. 29 Vì bất cứ ai làm một trong những điều ghê tởm ấy, thì chính người làm sẽ bị khai trừ ra khỏi dân nó. 30 Các ngươi phải giữ điều Ta truyền giữ, là không được thực hành các quy tắc ghê tởm mà người ta đã thực hành trước các ngươi, và các ngươi không được làm cho mình ra ô uế vì những điều ấy. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi."

Chương 19

Chỉ thị về luân lý và phụng tự

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

2 "Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Ðấng Thánh.

3 Mỗi người trong các ngươi phải kính sợ cha mẹ.

Các ngươi phải giữ những ngày sa-bát của Ta. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.

4 Các ngươi không được hướng về các tà thần, không được đúc tượng thần mà thờ. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.

5 Khi các ngươi tế hy lễ kỳ an dâng Ðức Chúa, các ngươi phải tế thế nào để được đoái nhận. 6 Phải ăn lễ vật đó trong ngày tế lễ và ngày hôm sau; sang ngày thứ ba, cái gì còn lại phải bỏ vào lửa mà thiêu. 7 Sang ngày thứ ba mà cứ ăn, thì đó là thịt ôi, và lễ tế sẽ không được đoái nhận. 8 Người nào ăn, phải mang lấy tội mình, vì đã xúc phạm đến của được thánh hiến cho Ðức Chúa; người ấy sẽ bị khai trừ ra khỏi dòng họ.

9 Khi các ngươi gặt lúa trong đất của các ngươi, (các) ngươi không được gặt cho tới sát bờ ruộng; lúa gặt sót, (các) ngươi không được mót. 10 Vườn nho (các) ngươi, (các) ngươi không được hái lại, những trái rớt, (các) ngươi không được nhặt: (các) ngươi sẽ bỏ lại cho người nghèo và ngoại kiều. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.

11 Các ngươi không được trộm cắp, không được nói dối, không được lừa gạt đồng bào mình. 12 Các ngươi không được lấy danh Ta mà thề gian: làm thế là (các) ngươi xúc phạm đến danh Thiên Chúa của (các) ngươi. Ta là Ðức Chúa. 13 Ngươi không được bóc lột người đồng loại, không được cướp của; tiền công người làm thuê, ngươi không được giữ lại qua đêm cho đến sáng. 14 Ngươi không được rủa người điếc, đặt chướng ngại cho người mù vấp chân, nhưng phải kính sợ Thiên Chúa của ngươi, Ta là Ðức Chúa. 15 Các ngươi không được làm điều bất công khi xét xử: không được thiên vị người yếu thế, cũng không được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho người đồng bào. 16 Ngươi không được vu khống những người trong dòng họ, không được ra toà đòi người đồng loại phải chết. Ta là Ðức Chúa. 17 Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. 18 Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là Ðức Chúa.

19 Các ngươi phải giữ các quy tắc của Ta.

Ngươi không được cho hai con vật khác giống giao cấu với nhau, không được gieo trong cánh đồng của ngươi hai thứ hạt khác nhau, không được mặc áo vải hỗn hợp, dệt bằng hai thứ sợi khác nhau.

20 Khi một người đàn ông giao hợp với một người đàn bà, mà người này lại là tỳ thiếp của một người đàn ông khác, nhưng chưa được chuộc hay phóng thích, thì người đàn ông kia sẽ bị phạt; chúng sẽ không bị xử tử, vì người đàn bà chưa được phóng thích. 21 Người đàn ông sẽ đem dâng Ðức Chúa lễ vật đền tội của mình ở cửa Lều Hội Ngộ, đó là con cừu đực dùng làm lễ đền tội. 22 Tư tế sẽ lấy con cừu đực dùng làm lễ đền tội mà cử hành lễ xá tội cho nó, trước nhan Ðức Chúa, vì tội nó đã phạm, và nó sẽ được tha tội đã phạm.

23 Khi các ngươi đã vào đất và trồng bất cứ cây ăn trái nào, thì các ngươi sẽ kể trái nó là chưa cắt bì; trong ba năm các ngươi phải coi trái nó là chưa cắt bì, không được ăn. 24 Năm thứ tư, mọi trái nó sẽ được thánh hiến trong một buổi lễ mừng Ðức Chúa. 25 Năm thứ năm, các ngươi được ăn trái nó; như thế hoa trái nó sẽ tăng thêm cho các ngươi. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.

26 Các ngươi không được ăn gì với máu. Các ngươi không được làm nghề tướng số, chiêm tinh.

27 Các ngươi không được hớt tóc vòng quanh đầu, không được xén râu. 28 Các ngươi không được rạch mình mà để tang một người chết, không được xăm mình. Ta là Ðức Chúa. 29 Ðừng xúc phạm đến con gái ngươi, nghĩa là bắt nó làm điếm, kẻo đất cũng làm điếm và tràn ngập tội ác tày trời.

30 Các ngươi phải giữ các ngày sa-bát của Ta và kính trọng thánh điện của Ta. Ta là Ðức Chúa.

31 Các ngươi không được đến với các người ngồi đồng ngồi bóng và không được hỏi ý kiến chúng, kẻo vì chúng mà ra ô uế. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.

32 Thấy người đầu bạc, ngươi phải đứng lên, ngươi phải kính trọng người già cả: như vậy là ngươi kính sợ Thiên Chúa của ngươi. Ta là Ðức Chúa. 33 Khi có ngoại kiều cư ngụ với (các) ngươi trong xứ các ngươi, các ngươi đừng bức hiếp nó. 34 (Các) ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; (các) ngươi phải yêu nó như chính mình, vì các ngươi đã từng là ngoại kiều tại đất Ai-cập. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.

35 Các ngươi không được làm điều bất công khi xét xử, cũng như khi đo đạc hay cân đong. 36 Các ngươi phải có cán cân đúng, quả cân đúng, đúng thùng, đúng lít. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ðấng đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập.

37 Các ngươi phải giữ mọi quy tắc, mọi quyết định của Ta và đem ra thực hành. Ta là Ðức Chúa.

Chương 20

Quy định về hình phạt

A. Tội về nghi tiết

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

2 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en: Bất cứ người nào, thuộc con cái Ít-ra-en hoặc trong số ngoại kiều sống tại Ít-ra-en, dâng một đứa trong con cái mình cho thần Mô-léc, thì sẽ bị xử tử; dân trong xứ sẽ ném đá nó. 3 Phần Ta, Ta sẽ quay mặt lại phạt nó và sẽ khai trừ khỏi dân nó, vì nó đã dâng một đứa con trong con cái mình cho thần Mô-léc, khiến thánh điện Ta ra ô uế và thánh danh Ta bị xúc phạm. 4 Nếu dân trong xứ che mắt không nhìn người ấy, khi nó dâng một đứa trong con cái mình cho thần Mô-léc, để khỏi phải giết nó, 5 thì chính Ta sẽ hướng mặt Ta về người ấy và dòng họ nó, Ta sẽ khai trừ nó và những kẻ làm điếm như nó, những kẻ chạy theo thần Mô-léc mà làm điếm, Ta sẽ khai trừ khỏi dân của chúng.

6 Người nào đến với các người ngồi đồng ngồi bóng để chạy theo chúng mà làm điếm, thì Ta sẽ quay mặt lại phạt người ấy và sẽ khai trừ khỏi dân nó.

7 Các ngươi phải nên thánh và phải thánh thiện, vì Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.

B. Tội liên quan đến gia đình

8 Các ngươi phải giữ các quy tắc của Ta và đem ra thực hành. Ta là Ðức Chúa, Ðấng thánh hiến các ngươi.

9 Vậy: Bất cứ người nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Nó đã nguyền rủa cha mẹ, thì máu nó đổ xuống đầu nó.

10 Khi người đàn ông nào ngoại tình với đàn bà có chồng, ngoại tình với vợ người đồng loại, thì cả đàn ông ngoại tình lẫn đàn bà ngoại tình phải bị xử tử.

11 Khi người đàn ông nào nằm với vợ của cha mình, thì đã lột trần chỗ kín của cha mình; cả hai phải bị xử tử, máu chúng đổ xuống đầu chúng.

12 Khi người đàn ông nào nằm với con dâu mình, thì cả hai phải bị xử tử; chúng đã làm điều quái đản, máu chúng đổ xuống đầu chúng.

13 Khi người đàn ông nào nằm với một người đàn ông như nằm với đàn bà, thì cả hai đã làm điều ghê tởm; chúng phải bị xử tử, máu chúng đổ xuống đầu chúng.

14 Khi người đàn ông nào lấy cả con gái lẫn mẹ, thì đó là tội ác tày trời; người ta sẽ bỏ nó và hai người đàn bà vào lửa mà thiêu, để không còn tội ác tày trời giữa các ngươi.

15 Khi người đàn ông nào giao hợp với con vật, thì phải bị xử tử, và các ngươi sẽ giết con vật.

16 Khi người đàn bà nào đến gần bất cứ con vật nào để giao cấu với nó, thì (các) ngươi phải giết người đàn bà và con vật; chúng phải bị xử tử, máu chúng đổ xuống đầu chúng.

17 Khi người đàn ông nào lấy chị em mình, dù là con gái của cha mình hay con gái của mẹ mình, và thấy chỗ kín của người chị em cũng như người này thấy chỗ kín của nó, thì đó là điều bỉ ổi; chúng sẽ bị khai trừ trước mắt những người thuộc về dân của chúng; nó đã lột trần chỗ kín của người chị em nó, thì nó sẽ phải mang lấy tội mình.

18 Khi người đàn ông nào nằm với một người đàn bà đang khó ở, và lột trần chỗ kín của người đàn bà, thì nó phơi bày nguồn máu của người đàn bà, và người đàn bà lột trần nguồn máu của mình; cả hai sẽ bị khai trừ khỏi dân chúng.

19 Ngươi không được lột trần chỗ kín của chị em gái của mẹ ngươi hay chị em gái của cha ngươi; đó là lột trần người ruột thịt của chính mình; chúng sẽ phải mang lấy tội mình.

20 Khi người đàn ông nào nằm với bác gái hay thím mình, thì đã lột trần chỗ kín của bác hay chú mình, chúng sẽ phải mang lấy tội mình, chúng sẽ chết không con cái.

21 Khi người đàn ông nào lấy chị dâu hay em dâu mình, thì đó là một điều nhơ nhớp; nó đã lột trần chỗ kín của anh em nó, chúng sẽ không có con cái.

Lời khuyên nhủ cuối cùng

22 Các ngươi phải giữ mọi quy tắc, mọi quyết định của Ta và đem ra thực hành; như vậy đất Ta sắp đưa các ngươi vào ở đó, sẽ không mửa các ngươi ra. 23 Các ngươi không được theo các quy tắc của dân tộc mà Ta sắp tống đi cho khuất mắt các ngươi, vì chúng đã làm tất cả những điều đó, và Ta đã chán ngấy chúng. 24 Bởi vậy Ta đã nói với các ngươi: "Chính các ngươi sẽ chiếm hữu đất đai của chúng, và chính Ta sẽ ban cho các ngươi chiếm hữu nó, miền đất tràn trề sữa và mật." Chính Ta, Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, đã tách biệt các ngươi ra khỏi các dân. 25 Vậy các ngươi phải phân biệt giữa thú vật thanh sạch và ô uế, giữa chim ô uế và thanh sạch; các ngươi đừng làm cho chính mình ra kinh tởm vì thú vật, các loài chim và mọi loài bò dưới đất, tức là các loài Ta đã phân biệt để các ngươi coi chúng là ô uế.

26 Các ngươi phải thuộc về Ta, phải thánh thiện, vì Ta, Ðức Chúa, Ta là Ðấng Thánh, và Ta đã tách biệt các ngươi ra khỏi các dân để các ngươi thuộc về Ta.

27 Khi người đàn ông hay người đàn bà nào có ma nhập thần ốp, thì phải bị xử tử; người ta sẽ ném đá chúng, máu chúng đổ xuống đầu chúng."

Chương 21

Sự thánh thiện của hàng tư tế

A. Các tư tế

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê:

2 ngoại trừ vì một người gần nhất, một người ruột thịt: mẹ, cha, con trai, con gái, anh em nó. 3 Một người chị em còn trinh, vẫn là người gần nhất với nó, vì chưa thuộc về một người đàn ông, thì nó có thể làm cho mình ra ô uế vì người ấy. 4 Vì là người đứng đầu trong dòng họ mình, nó không được làm cho mình ra ô uế mà trở nên phàm tục.

5 Các tư tế không được cạo đầu và cắt riềm râu, không được rạch mình. 6 Chúng sẽ được thánh hiến cho Thiên Chúa của chúng và không được xúc phạm đến danh Thiên Chúa của chúng, vì chúng là những người tiến dâng lên Ðức Chúa các lễ hoả tế, là thức ăn dành cho Thiên Chúa của chúng; chúng phải sống thánh thiện.

7 Chúng không được lấy một gái điếm hay một người đàn bà bị làm nhục, chúng không được lấy một người đàn bà bị chồng bỏ, vì tư tế được thánh hiến cho Thiên Chúa của mình.

8 Ngươi phải coi nó là thánh, vì nó là người tiến dâng thức ăn dành cho Thiên Chúa của ngươi: đối với ngươi, nó sẽ là thánh, vì Ta là Ðấng Thánh, Ta, Ðức Chúa, Ðấng thánh hoá các ngươi.

9 Nếu con gái của một tư tế làm nhục chính mình mà đi làm điếm, thì nó làm nhục chính cha nó; nó phải bị bỏ vào lửa mà thiêu.

B. Thượng tế

10 Tư tế lớn nhất trong hàng anh em nó, người đã được đổ dầu tấn phong lên đầu và được trao quyền khi mặc phẩm phục, thì không được xoã tóc và xé áo, 11 không được đến gần người chết nào, và không được làm cho mình ra ô uế, dù vì cha hay vì mẹ mình. 12 Nó không được ra khỏi thánh điện và không được xúc phạm đến thánh điện của Thiên Chúa nó, vì nó đã được dầu tấn phong của Thiên Chúa nó ghi dấu trên mình. Ta là Ðức Chúa.

13 Nó sẽ cưới một người nữ còn trinh. 14 Ðàn bà goá hay bị chồng bỏ, người bị làm nhục hay làm điếm, những người đó nó không được lấy, mà chỉ được lấy một trinh nữ trong gia tộc mình làm vợ; 15 như vậy, nó sẽ không làm nhục dòng dõi nó trong gia tộc nó, vì Ta là Ðức Chúa, Ðấng thánh hoá nó."

C. Những trường hợp không được làm tư tế

16 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

17 "Hãy nói với A-ha-ron: Qua các thế hệ, người đàn ông nào trong dòng dõi ngươi có tật, thì không được lại gần để tiến dâng thức ăn dành cho Thiên chúa của nó. 18 Thật vậy, bất cứ người nào có tật không được lại gần: người đui mù, què quặt, dị tướng, dị hình, 19 người bị gãy chân gãy tay, 20 gù, còi, bị đốm ở mắt, ghẻ, hắc lào, hay bị giập tinh hoàn. 21 Bất cứ người đàn ông nào trong dòng dõi tư tế A-ha-ron có tật, thì không được đến gần để tiến dâng các lễ hoả tế lên Ðức Chúa; nó có tật, nó không được đến gần để tiến dâng thức ăn dành cho Thiên Chúa của nó.

22 Thức ăn dành cho Thiên Chúa của nó, những của rất thánh, và những của thánh, nó được ăn, 23 nhưng nó không được tới chỗ màn trướng, không được đến gần bàn thờ, vì nó có tật; như vậy nó sẽ không xúc phạm đến các nơi thánh của Ta, vì Ta là Ðức Chúa, Ðấng thánh hoá những nơi ấy."

24 Ông Mô-sê nói thế với ông A-ha-ron, với các con ông này và toàn thể con cái Ít-ra-en.

Chương 22

Phải thánh mới được ăn của thánh

A. Các tư tế

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

2 "Hãy bảo A-ha-ron và các con nó, trong những trường hợp sau đây, phải kiêng những của thánh con cái Ít-ra-en thánh hiến cho ta, để khỏi xúc phạm đến thánh danh Ta. Ta là Ðức Chúa. 3 Hãy bảo chúng: Trong các thế hệ các ngươi, bất cứ người nào trong dòng dõi các ngươi, khi bị ô uế, mà lại gần các của thánh con cái Ít-ra-en thánh hiến cho Ðức Chúa, thì người ấy sẽ bị khai trừ cho khuất mắt Ta. Ta là Ðức Chúa.

4 Không người nào trong dòng dõi A-ha-ron bị phong hủi hay bị lậu, được ăn các của thánh khi chưa được thanh sạch. Ai đụng vào bất cứ cái gì đã ra ô uế vì xác chết, người đàn ông đã xuất tinh, 5 người đàn ông đã đụng vào bất cứ một con vật nhỏ nào làm cho người ấy ra ô uế, hay đụng vào người nào làm cho người ấy ra ô uế, dù là thứ ô uế nào, 6 ai đã đụng vào những thứ như vậy, sẽ ra ô uế cho đến chiều, và không được ăn những của thánh khi chưa lấy nước tắm rửa thân thể. 7 Lúc mặt trời lặn, nó sẽ được thanh sạch, bấy giờ nó được ăn những của thánh, vì đó là thức ăn của nó.

8 Con vật chết hay bị thú dữ xé, nó không được ăn, kẻo ra ô uế vì vật đó. Ta là Ðức Chúa.

9 Chúng phải giữ điều Ta truyền giữ, nếu không sẽ mang tội vì chuyện đó và phải chết vì phạm đến của thánh. Ta là Ðức Chúa, Ðấng thánh hoá những của ấy.

B. Người ngoài

10 Không người ngoài nào được ăn của thánh; khách trọ nhà tư tế và người làm thuê không được ăn của thánh. 11 Nhưng nếu tư tế dùng tiền mà mua người nào, thì người ấy được ăn; nô lệ sinh ra trong nhà cũng được ăn thức ăn của tư tế. 12 Con gái một tư tế, nếu lấy một người ngoài, thì không được ăn phần trích ra từ các của thánh; 13 nhưng nếu con gái tư tế goá chồng hay bị chồng bỏ, mà không có con, trở về nhà cha mình như khi còn trẻ, thì được ăn thức ăn của cha, mặc dầu không một người ngoài nào được ăn. 14 Nếu người nào vô ý ăn của thánh, thì phải đền của thánh cho tư tế, cộng thêm một phần năm.

15 Các tư tế không được phạm đến các của thánh con cái Ít-ra-en đã trích dâng Ðức Chúa; 16 tư tế sẽ làm cho chúng mang một lỗi, một lỗi mà chúng phải đền vì đã ăn các của thánh, vì Ta là Ðức Chúa, Ðấng thánh hoá những của ấy."

C. Tế vật

17 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

18 "Hãy nói với A-ha-ron, với các con nó cùng toàn thể con cái Ít-ra-en, và bảo chúng: Bất cứ người nào, trong nhà Ít-ra-en hoặc trong số ngoại kiều sống tại Ít-ra-en, vì đã khấn hứa hay tự nguyện, mà dâng lễ tiến của mình, và tiến dâng Ðức Chúa làm lễ toàn thiêu 19 thì phải dâng một con đực toàn vẹn bắt từ đàn bò, chiên hay dê, nếu muốn được đoái nhận. 20 Các ngươi không được tiến dâng con vật nào có tật, vì các ngươi sẽ không được đoái nhận. 21 Khi một người tiến dâng Ðức Chúa bò hay chiên dê làm hy lễ kỳ an để giữ trọn lời khấn hứa hoặc vì đã tự nguyện, thì con vật phải toàn vẹn, không có một tật nào, nếu muốn được đoái nhận. 22 Con vật mù, què, bị cắt xẻo, lở loét, ghẻ, hắc lào, thì các ngươi không được tiến dâng lên Ðức Chúa, không được lấy phần nào đặt trên bàn thờ làm lễ hoả tế dâng Ðức Chúa. 23 Bò, chiên dê dị hình hay còi, ngươi có thể dâng làm lễ vật tự nguyện, nhưng nếu dâng làm lễ vật đã khấn hứa, thì chúng sẽ không được đoái nhận. 24 Các ngươi không được tiến dâng Ðức Chúa một con vật có tinh hoàn bị giập, bị nghiền, bị moi hay cắt; các ngươi không được làm thế trong đất các ngươi. 25 Các ngươi không được nhận những con vật như thế từ tay người nước ngoài, để tiến dâng làm thức ăn dành cho Thiên Chúa các ngươi: chúng bị thiến tức là có tật, chúng sẽ không được đoái nhận như lễ vật của các ngươi."

26 ÐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: 27 "Bê, chiên hay dê, sau khi sinh, sẽ ở với mẹ nó bảy ngày; từ ngày thứ tám trở đi, nó sẽ được đoái nhận làm lễ tiến, làm lễ hoả tế dâng Ðức Chúa. 28 Dù là bò hay chiên dê, ngươi không được sát tế mẹ và con cùng một ngày. 29 Khi các ngươi dâng Ðức Chúa hy lễ tạ ơn, hãy dâng thế nào để được đoái nhận; 30 phải ăn lễ vật trong chính ngày đó, các ngươi không được để lại gì cho đến sáng hôm sau. Ta là Ðức Chúa.

Lời khuyên nhủ cuối cùng

31 Các ngươi phải giữ các mệnh lệnh của Ta và đem ra thực hành. Ta là Ðức Chúa. 32 Các ngươi không được xúc phạm đến thánh danh Ta, để Ta biểu dương sự thánh thiện của Ta giữa con cái Ít-ra-en. Ta là Ðức Chúa, Ðấng thánh hoá các ngươi. 33 Ðấng đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập để làm Thiên Chúa của các ngươi, chính là Ta, Ðức Chúa.

Chương 23

Nghi thức cử hành các lễ trong năm

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

2 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các đại lễ của Ðức Chúa là những ngày mà các ngươi phải triệu tập những cuộc họp để thờ phượng Ta. Ðây là những đại lễ của Ta:

A. Ngày sa-bát

3 Trong sáu ngày, người ta sẽ làm công việc của mình; còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát, một ngày nghỉ, có cuộc họp để thờ phượng, các ngươi không được làm công việc nào. Ðó là ngày sa-bát kính Ðức Chúa, tại khắp nơi các ngươi ở.

4 Ðây là các đại lễ của Ðức Chúa, các cuộc họp để thờ phượng mà các ngươi phải triệu tập vào thời gian ấn định:

5 Tháng thứ nhất, ngày mười bốn trong tháng, vào lúc chập tối, là lễ Vượt Qua kính Ðức Chúa. 6 Ngày mười lăm tháng ấy là lễ Bánh Không Men kính Ðức Chúa. Trong vòng bảy ngày, các ngươi phải ăn bánh không men. 7 Ngày đầu tiên, các ngươi phải họp nhau để thờ phượng Ta, các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào. 8 Trong vòng bảy ngày, các ngươi phải tiến dâng lễ hoả tế lên Ðức Chúa. Ngày thứ bảy, có cuộc họp để thờ phượng Ta, các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào.

C. Dâng bó lúa đầu mùa

9 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

10 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Khi các ngươi vào đất Ta ban cho các ngươi, và gặt mùa ở đó, thì phải đem đến cho tư tế một bó lúa, sản phẩm đầu mùa gặt hái của các ngươi. 11 Nó sẽ làm nghi thức tiến dâng trước nhan Ðức Chúa để các ngươi được đoái nhận; tư tế sẽ làm nghi thức tiến dâng hôm sau ngày sa-bát. 12 Ngày các ngươi làm nghi thức tiến dâng bó lúa ấy, các ngươi phải dâng một con chiên toàn vẹn, một tuổi, làm lễ toàn thiêu lên Ðức Chúa, 13 cùng với lễ phẩm là chín lít tinh bột nhào với dầu: đó là lễ hoả tế dâng Ðức Chúa, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa; lễ tưới rượu kèm theo là hai lít. 14 Cho đến chính ngày đó, khi các ngươi mang lễ phẩm của Thiên Chúa các ngươi đến, các ngươi không được ăn bánh, ăn gié lúa rang và hột lúa mới. Ðó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi, tại khắp nơi các ngươi ở.

15 Từ hôm sau ngày sa-bát, ngày các ngươi đem bó lúa đến để làm nghi thức tiến dâng, các ngươi phải tính bảy tuần, bảy tuần chẵn. 16 Các ngươi phải tính năm mươi ngày cho đến hôm sau ngày sa-bát thứ bảy, và các ngươi sẽ tiến dâng một lễ phẩm mới lên Ðức Chúa: 17 từ những nơi các ngươi ở, các ngươi phải đem đến hai chiếc bánh để làm nghi thức tiến dâng, bánh làm bằng chín lít tinh bột và trộn men mà nướng: đó là của đầu mùa dâng Ðức Chúa. 18 Thêm vào với bánh, các ngươi phải tiến dâng bảy con chiên toàn vẹn, một tuổi, một con bò tơ và hai con cừu đực làm lễ toàn thiêu dâng Ðức Chúa, cùng với lễ phẩm và lễ tưới rượu kèm theo: đó là lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. 19 Các ngươi phải lấy một con dê đực làm lễ tạ tội và hai con chiên một tuổi làm hy lễ kỳ an; 20 tư tế sẽ làm nghi thức tiến dâng trước nhan Ðức Chúa hai con chiên cùng với bánh đầu mùa: đó là của thánh thuộc về Ðức Chúa, dành cho tư tế.

21 Chính ngày đó, các ngươi phải triệu tập dân, phải họp nhau để thờ phượng Ta; các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào. Ðó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi, tại khắp nơi các ngươi ở.

22 Khi các ngươi gặt lúa trong đất các ngươi, (các) ngươi không được gặt cho tới sát bờ ruộng; lúa gặt sót, (các) ngươi không được mót: (các) ngươi sẽ bỏ lại cho người nghèo và ngoại kiều. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi."

23 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

24 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Tháng thứ bảy, ngày mồng một, đối với các ngươi sẽ là một ngày nghỉ, một ngày tưởng niệm giữa tiếng reo hò, và họp nhau để thờ phượng Ta. 25 Các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào, và phải tiến dâng một lễ hoả tế lên Ðức Chúa."

26 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

27 "Ngoài ra, ngày mồng mười tháng bảy là ngày Xá tội, các ngươi phải họp nhau để thờ phượng Ta, phải ăn chay hãm mình và tiến dâng một lễ hoả tế lên Ðức Chúa. 28 Chính ngày ấy, các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào, vì đó là ngày Xá tội, ngày cử hành lễ xá tội cho các ngươi trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi. 29 Như vậy bất cứ người nào không ăn chay hãm mình vào chính ngày đó, sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ; 30 và bất cứ người nào làm một việc gì vào chính ngày đó, Ta sẽ làm cho nó biến mất không còn dấu vết giữa dân nó. 31 Các ngươi không được làm một công việc nào: đó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi, tại khắp nơi các ngươi ở. 32 Ðối với các ngươi, đó sẽ là một ngày sa-bát, một ngày nghỉ, và các ngươi phải ăn chay hãm mình. Từ chiều ngày mồng chín đến chiều hôm sau, các ngươi phải nghỉ để giữ ngày sa-bát."

33 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

34 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en: Ngày mười lăm tháng bảy là lễ Lều kính Ðức Chúa, trong vòng bảy ngày. 35 Ngày đầu tiên, phải họp nhau để thờ phượng Ta, các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào. 36 Trong vòng bảy ngày, các ngươi phải tiến dâng lễ hoả tế lên Ðức Chúa. Ngày thứ tám, các ngươi phải họp nhau để thờ phượng Ta, và phải tiến dâng một lễ hoả tế lên Ðức Chúa: đó là một buổi họp long trọng, các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào.

Kết luận (Ðn 29:39)

37 Ðó là các đại lễ của Ðức Chúa, là những ngày mà các ngươi phải triệu tập những cuộc họp để thờ phượng Ta, để tiến dâng lễ hoả tế lên Ðức Chúa: lễ toàn thiêu hay lễ phẩm, hy lễ hay những lễ tưới rượu, việc nào vào ngày đó, 38 không kể các ngày sa-bát của Ðức Chúa, không kể các lễ vật, không kể tất cả các lễ vật đã khấn hứa và tất cả các lễ vật tự nguyện các ngươi dâng Ðức Chúa.

Lại nói về lễ Lều

39 Ngoài ra, ngày mười lăm tháng bảy, khi các ngươi đã thu hoa lợi ruộng đất, các ngươi phải mở lễ kính Ðức Chúa trong vòng bảy ngày. Ngày đầu tiên là ngày nghỉ, ngày thứ tám là ngày nghỉ. 40 Ngày đầu tiên, các ngươi phải lấy những trái cây đẹp, những tàu lá chà là, những cành cây nhiều lá và cành liễu mọc bên bờ suối, và phải liên hoan trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, trong vòng bảy ngày. 41 Các ngươi phải mừng lễ đó như một lễ kính Ðức Chúa trong vòng bảy ngày mỗi năm: đó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi.

42 Trong vòng bảy ngày, các ngươi phải ở trong lều bằng cành cây; mọi người bản xứ tại Ít-ra-en phải ở trong lều bằng cành cây,43 để các thế hệ của các ngươi biết rằng Ta đã cho con cái Ít-ra-en ở trong lều bằng cành cây, khi Ta đưa chúng ra khỏi đất Ai-cập. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi."

44 Ông Mô-sê nói cho con cái Ít-ra-en biết các đại lễ của Ðức Chúa.

Chương 24

Quy định bổ sung về nghi lễ

A. Ðèn cháy liên lỉ

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

2 "Hãy truyền cho con cái Ít-ra-en phải giã ô-liu lấy dầu nguyên chất cho ngươi, để thắp đèn, hầu cho luôn luôn có ngọn lửa cháy. 3 A-ha-ron sẽ đặt chiếc đèn đó bên ngoài bức màn trướng che Chứng Ước, trong Lều Hội Ngộ, sao cho nó luôn luôn cháy từ chiều đến sáng trước nhan Ðức Chúa. Ðó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi. 4 A-ha-ron sẽ phải đặt các đèn trên trụ đèn bằng vàng ròng trước nhan Ðức Chúa, luôn luôn.

B. Bánh tiến

5 Ngươi phải lấy tinh bột và nướng thành mười hai cái bánh, mỗi cái sẽ là chín lít bột. 6 Ngươi phải xếp bánh thành hai chồng, mỗi chồng sáu cái, trên bàn bằng vàng ròng, trước nhan Ðức Chúa. 7 Trên mỗi chồng, ngươi phải để hương tinh khiết, hương đó sẽ là kỷ vật thay cho bánh, là hoả tế dâng Ðức Chúa. 8 Mỗi ngày sa-bát, người ta phải đặt luôn luôn trước nhan Ðức Chúa, bánh con cái Ít-ra-en dâng: đó là một giao ước vĩnh cửu. 9 Bánh đó sẽ dành cho A-ha-ron và các con nó; chúng sẽ ăn trong một nơi thánh, vì đó là của rất thánh dành cho nó, lấy từ các lễ hoả tế dâng Ðức Chúa: đó là quy luật vĩnh viễn."

Nói phạm thượng. Luật báo phục tương xứng.

10 Có một người con trai, mẹ là người Ít-ra-en, cha là người Ai-cập, đến giữa con cái Ít-ra-en, và ngay giữa trại, con của người đàn bà Ít-ra-en đó xô xát với một người đàn ông Ít-ra-en. 11 Con của người đàn bà Ít-ra-en đó nói phạm đến thánh danh và buông lời nguyền rủa. Người ta đem nó đến cho ông Mô-sê. Mẹ nó tên là Sơ-lô-mít, con ông Ðíp-ri, thuộc chi tộc Ðan. 12 Người ta nhốt nó lại, để chờ quyết định theo lệnh Ðức Chúa.

13 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê:

14 "Hãy đưa kẻ nói lời nguyền rủa ra ngoài trại. Tất cả những ai đã nghe, phải đặt tay lên đầu nó, và toàn thể cộng đồng phải ném đá nó. 15 Rồi ngươi sẽ nói với con cái Ít-ra-en rằng: Bất cứ người nào nguyền rủa Thiên Chúa của nó, sẽ phải mang lấy tội mình. 16 Ai nói phạm đến danh Ðức Chúa, sẽ bị xử tử: toàn thể cộng đồng sẽ ném đá nó; dù là ngoại kiều hay người bản xứ, nếu nói phạm đến thánh danh, sẽ bị xử tử.

17 Nếu ai đánh chết bất cứ người nào, thì sẽ bị xử tử. 18 Ai đánh chết một con vật, thì phải đền: vật sống đền vật sống.

19 Nếu ai làm cho người đồng bào phải mang tật, thì phải xử với nó như nó đã xử với người ta: 20 chỗ gãy đền chỗ gãy, mắt đền mắt, răng đền răng; nó đã làm cho người khác mang tật thế nào, thì người ta cũng sẽ làm cho nó như vậy. 21 Ai đánh chết một con vật, thì phải đền; ai đánh chết người, sẽ bị xử tử. 22 Các ngươi chỉ được có một pháp luật, cho ngoại kiều cũng như cho người bản xứ, vì Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi."

23 Ông Mô-sê nói thế với con cái Ít-ra-en. Họ liền đưa kẻ nói lời nguyền rủa ra ngoài trại và ném đá nó. Con cái Ít-ra-en làm như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.

Chương 25

Các năm thánh

A. Năm hưu lễ

1 Trên núi Xi-nai, Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

2 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Khi các ngươi vào đất Ta sắp ban cho các ngươi, đất phải nghỉ một sa-bát kính Ðức Chúa. 3 Trong sáu năm, (các) ngươi sẽ gieo vãi trong cánh đồng của (các) ngươi, trong sáu năm, (các) ngươi sẽ tỉa vườn nho của (các) ngươi, và (các) ngươi sẽ thu hoa lợi. 4 Nhưng năm thứ bảy sẽ là một sa-bát, một thời kỳ đất nghỉ, một sa-bát kính Ðức Chúa: (các) ngươi không được gieo vãi trong cánh đồng của (các) ngươi, không được tỉa vườn nho của các ngươi; 5 (các) ngươi không được gặt lúa tự nhiên mọc sau mùa gặt, không được hái những chùm nho từ vườn nho không cắt tỉa của (các) ngươi: đó sẽ là một năm đất nghỉ. 6 Sản phẩm tự nhiên của đất trong năm sa-bát sẽ nuôi các ngươi, tôi tớ nam nữ của (các) ngươi, người làm thuê của (các) ngươi, khách trọ nhà (các) ngươi; tóm lại các người trú ngụ nơi (các) ngươi. 7 Còn gia súc và dã thú ở trong đất (các) ngươi, thì tất cả hoa lợi của đất sẽ là lương thực cho chúng.

B. Năm toàn xá

8 (Các) ngươi phải tính bảy tuần năm, nghĩa là bảy lần bảy năm; thời gian của bảy tuần năm đó là bốn mươi chín năm. 9 Tháng thứ bảy, ngày mồng mười trong tháng, (các) ngươi sẽ thổi tù và giữa tiếng reo hò; vào ngày Xá tội, (các) ngươi sẽ thổi tù và trong toàn xứ các ngươi. 10 Các ngươi sẽ công bố năm thứ năm mươi là năm thánh và sẽ tuyên cáo trong xứ lệnh ân xá cho mọi người sống tại đó. Ðối với (các) ngươi, đó là thời kỳ toàn xá: mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở hữu của mình, mỗi người sẽ trở về dòng họ của mình. 11 Ðối với các ngươi, năm thứ năm mươi sẽ là thời kỳ toàn xá: các ngươi không được gieo, không được gặt lúa tự nhiên mọc, không được hái trong vườn nho không cắt tỉa. 12 Vì đó là thời kỳ toàn xá, một năm thánh đối với các ngươi, các ngươi sẽ ăn hoa lợi của đồng ruộng.

13 Năm toàn xá đó, mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở hữu của mình. 14 Nếu các ngươi bán cái gì cho người đồng bào hoặc mua cái gì từ tay người đồng bào, thì đừng ai làm thiệt hại người anh em mình. 15 Ngươi sẽ mua của người đồng bào theo số năm sau năm toàn xá, và nó sẽ bán cho ngươi theo số năm thu hoạch. 16 Còn nhiều năm thì ngươi mua giá cao, còn ít năm thì ngươi mua giá thấp, vì nó bán cho ngươi một số năm thu hoạch. 17 Không ai trong các ngươi được làm thiệt hại người đồng bào, nhưng (các) ngươi phải kính sợ Thiên Chúa của (các) ngươi, vì Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của (các) ngươi.

Thiên Chúa bảo đảm về năm sa-bát

18 Các ngươi phải đem ra thực hành các quy tắc của Ta, phải giữ và đem ra thực hành các quyết định của Ta, và các ngươi sẽ được sống yên hàn trên đất ấy. 19 Ðất sẽ sinh hoa trái, các ngươi sẽ được ăn no nê và được sống yên hàn tại đó.

20 Có lẽ các ngươi sẽ nói: "Năm thứ bảy chúng tôi sẽ ăn gì, nếu chúng tôi không gieo vãi và không thu hoa lợi?” 21 Ta sẽ truyền cho phúc lành của Ta đến với các ngươi vào năm thứ sáu, và phúc lành sẽ sinh hoa lợi đủ cho ba năm. 22 Năm thứ tám, các ngươi sẽ gieo vãi, nhưng sẽ lấy hoa lợi cũ mà ăn; đến năm thứ chín, đến khi gặt hoa lợi năm ấy, các ngươi sẽ ăn hoa lợi cũ.

Chuộc đất, chuộc nhà

23 Ðất thì không được bán đứt, vì đất là của Ta, còn các ngươi chỉ là ngoại kiều, là khách trọ nhà Ta. 24 Trong toàn xứ sẽ thuộc quyền sở hữu của các ngươi, các ngươi phải cho người ta quyền chuộc lại đất. 25 Nếu người anh em của (các) ngươi lâm cảnh túng thiếu và phải bán một phần sở hữu của nó, thì người có quyền chuộc, tức là người bà con gần nhất, sẽ đến chuộc lại cái mà người anh em nó đã bán. 26 Nếu ai không có bà con có quyền chuộc, nhưng lại có phương tiện và kiếm được tiền chuộc, 27 thì nó sẽ tính những năm từ khi bán, còn trội bao nhiêu, nó sẽ trả cho người mua, và sẽ trở về phần sở hữu của mình. 28 Nhưng nếu nó không kiếm được phương tiện để trả tiền lại cho người kia, thì của nó bán sẽ ở lại trong tay người mua cho đến năm toàn xá; đến thời kỳ toàn xá, của bán sẽ ra khỏi tay người mua, và người bán sẽ trở về phần sở hữu của mình.

29 Nếu người nào bán nhà ở, trong một thành có tường luỹ, thì quyền chuộc sẽ kéo dài đến hết năm bán; quyền chuộc nhà sẽ kéo dài một năm. 30 Nếu trong vòng một năm trọn mà nhà không được chuộc, thì nhà ở trong thành có tường luỹ sẽ thuộc hẳn về người mua và con cháu nó; vào năm toàn xá, nhà sẽ không ra khỏi tay nó. 31 Nhà cửa trong các làng không có tường luỹ chung quanh, thì được kể như đồng ruộng; người ta có quyền chuộc những nhà ấy, và năm toàn xá những nhà ấy sẽ ra khỏi tay người mua.

32 Còn các thành của các thầy Lê-vi, nhà cửa trong các thành thuộc quyền sở hữu của chúng, thì các thầy Lê-vi mãi mãi có quyền chuộc. 33 Dù một thầy Lê-vi đã mua, thì nhà đã bán -trong một thành là sở hữu của nó- sẽ ra khỏi tay người mua vào thời kỳ toàn xá, vì nhà cửa trong các thành của các thầy Lê-vi là sở hữu của chúng giữa con cái Ít-ra-en. 34 Còn đồng cỏ chung quanh các thành của chúng thì không được bán, vì đó là phần sở hữu vĩnh viễn của chúng.

Chuộc người

35 Nếu người anh em của (các) ngươi lâm cảnh túng thiếu, và không trả nợ được (các) ngươi, thì (các) ngươi phải nâng đỡ nó, dù nó là ngoại kiều hay khách trọ, để nó có thể sống bên (các) ngươi. 36 Với nó, (các) ngươi không được lấy lãi ăn lời, nhưng (các) ngươi phải kính sợ Thiên Chúa, và người anh em của (các) ngươi sẽ có thể sống bên (các) ngươi. 37 (Các) ngươi không được cho nó vay bạc của (các) ngươi để lấy lãi và vay lương thực của (các) ngươi để ăn lời. 38 Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ðấng đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, để ban cho các ngươi đất Ca-na-an và để làm Thiên chúa của các ngươi.

39 Nếu người anh em của (các) ngươi lâm cảnh túng thiếu bên cạnh (các) ngươi và phải bán mình cho (các) ngươi, thì (các) ngươi không được bắt nó làm công việc của người nô lệ; 40 nó sẽ ở với (các) ngươi như một người làm thuê, một khách trọ, và sẽ phục vụ trong nhà (các) ngươi cho đến năm toàn xá; 41 khi đó, nó cùng với con cái nó sẽ ra khỏi nhà (các) ngươi, sẽ trở về thị tộc mình, sẽ trở về phần sở hữu của cha ông nó. 42 Quả thế, chúng là tôi tớ của Ta, mà Ta đã đưa ra khỏi đất Ai-cập, không được bán chúng như bán nô lệ. 43 (Các) ngươi không được thống trị chúng cách hà khắc, nhưng hãy kính sợ Thiên Chúa của (các) ngươi.

44 Tôi tớ nam nữ mà (các) ngươi sẽ có, phải là những người thuộc các dân tộc chung quanh các ngươi; các ngươi sẽ mua tôi tớ nam nữ từ các dân tộc ấy. 45 Các ngươi cũng có thể mua trong số con cái các khách trọ, trú ngụ giữa các ngươi, trong các gia đình của chúng đang ở giữa các ngươi, những kẻ chúng đã sinh ra trên đất các ngươi: chúng sẽ là sở hữu của các ngươi. 46 Các ngươi sẽ để chúng lại làm gia nghiệp cho con cái các ngươi mai sau; để con cái các ngươi giữ làm sở hữu. Các ngươi có thể bắt chúng làm nô lệ mãi mãi, nhưng anh em các ngươi là con cái Ít-ra-en, thì không ai trong các ngươi được thống trị cách hà khắc.

47 Nếu một ngoại kiều hay khách trọ giữa (các) ngươi có phương tiện, và nếu người anh em của (các) ngươi lâm cảnh túng thiếu bên cạnh nó và phải bán mình cho ngoại kiều đó hoặc cho khách trọ giữa (các) ngươi, hoặc cho con cháu một gia đình ngoại kiều, 48 thì sau khi bán mình, người anh em ấy vẫn có quyền chuộc: một người trong các anh em nó có thể chuộc nó; 49 chú bác nó hay con của chú bác nó, hay một người bà con ruột thịt trong gia tộc nó có thể chuộc nó; hoặc nếu có phương tiện thì có thể tự chuộc mình. 50 Với người đã mua nó, nó sẽ tính thời gian từ năm nó bán mình cho đến năm toàn xá, và giá tiền bán nó cứ tuỳ số năm mà tính, theo lương công nhật của người làm thuê. 51 Nếu còn nhiều năm, thì nó cứ tuỳ theo số năm ấy mà khấu trừ vào tiền bán nó, để trả tiền chuộc mình. 52 Nếu còn lại ít năm trước năm toàn xá, thì nó sẽ tính theo số năm ấy mà trả tiền chuộc. 53 Nó sẽ ở với người kia như một người làm thuê từ năm nọ sang năm kia, nhưng người kia không được thống trị nó cách hà khắc.

54 Nếu nó không được chuộc bằng những cách trên, thì nó sẽ được ra đi, nó cùng với các con nó, vào năm toàn xá. 55 Thật vậy, con cái Ít-ra-en làm tôi tớ cho Ta, chúng là tôi tớ của Ta, những kẻ Ta đã đưa ra khỏi đất Ai-cập. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.

Chương 26

Tóm kết

1 Các người không được làm ra các tà thần mà thờ, không được dựng tượng và trụ đá để mà thờ, không được đặt trong đất các ngươi hình tượng bằng đá để sụp lạy chúng, vì Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi. 2 Các ngươi phải giữ ngày sa-bát của Ta và kính sợ thánh điện của Ta. Ta là Ðức Chúa.

Các lời chúc phúc (Ðnl 7:12-24; 28:1-14)

3 Nếu các ngươi theo các quy tắc của Ta, nếu các ngươi giữ các mệnh lệnh của Ta và đem ra thực hành, 4 thì Ta sẽ ban mưa cho các ngươi đúng mùa, đất sẽ sinh hoa màu, cây cối ngoài đồng sẽ ra trái; 5 các ngươi sẽ được gặt lúa cho đến thời hái nho, và sẽ được hái nho cho đến thời gieo giống; các ngươi sẽ được ăn bánh của mình no nê và sẽ được sống yên hàn trên đất các ngươi.

6 Ta sẽ thiết lập hoà bình trong đất các ngươi, và các ngươi sẽ ngủ nghỉ mà không ai quấy phá, Ta sẽ khiến thú dữ biến khỏi đất các ngươi, và gươm sẽ không đi qua đất các ngươi. 7 Các ngươi sẽ đuổi kẻ thù của các ngươi, và chúng sẽ bị gươm đâm ngã gục trước mặt các ngươi. 8 Năm người trong các ngươi sẽ đuổi được một trăm, một trăm người trong các ngươi sẽ đuổi được mười ngàn, và kẻ thù của các ngươi sẽ bị gươm đâm ngã gục trước mặt các ngươi.

9 Ta sẽ hướng về các ngươi, sẽ cho các ngươi sinh sôi nảy nở thật nhiều và sẽ giữ vững giao ước của Ta với các ngươi.

10 Các ngươi sẽ ăn lúa cũ, lúa mùa trước, và sẽ đổ lúa cũ ra lấy chỗ cho lúa mới.

11 Ta sẽ đặt Nhà Tạm của ta giữa các ngươi, và sẽ không chán ghét các ngươi. 12 Ta sẽ đi đi lại lại giữa các ngươi; Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi, còn các ngươi sẽ là dân của Ta. 13 Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ðấng đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, để các ngươi không còn làm nô lệ cho chúng nữa; Ta đã bẻ gông bẻ ách cho các ngươi và đã cho các ngươi tiến bước hiên ngang.

Các lời nguyền rủa (Ðnl 28:15 -68)

14 Nhưng nếu các ngươi không nghe Ta và không đem tất cả các mệnh lệnh đó ra thực hành, 15 nếu các ngươi gạt bỏ các quy tắc của Ta và chán ghét các quyết định của Ta, mà không đem ra thực hành các mệnh lệnh của Ta, lại huỷ bỏ giao ước của Ta, 16 thì Ta cũng vậy, Ta sẽ làm cho các ngươi như thế này:

17 Ta sẽ quay mặt lại phạt các ngươi và các ngươi sẽ bị quân thù đánh bại; các kẻ ghét các ngươi sẽ thống trị các ngươi, và các ngươi sẽ chạy trốn dù không có người đuổi theo.

18 Dù vậy, nếu các ngươi vẫn không chịu nghe Ta, thì Ta sẽ còn sửa phạt các ngươi gấp bảy lần vì tội lỗi của các ngươi. 19 Ta sẽ bẻ gãy sự kiêu hùng của các ngươi, Ta sẽ làm cho trời các ngươi ra như sắt, đất các ngươi ra như đồng; 20 các ngươi sẽ tiêu hao sức lực uổng công, đất các ngươi sẽ không còn sinh hoa màu, cây cối của đất sẽ không còn ra trái.

21 Nếu các ngươi chống Ta và không muốn nghe Ta, thì Ta sẽ còn đánh phạt các ngươi gấp bảy lần tội lỗi các ngươi. 22 Ta sẽ sai dã thú đến giữa các ngươi, chúng sẽ cướp con cái các ngươi, tiêu diệt gia súc các ngươi và giảm dân số các ngươi đến nỗi đường sá của các ngươi thành hoang vắng.

23 Dù vậy, nếu các ngươi vẫn không chịu để Ta sửa dạy, mà cứ chống Ta, 24 thì Ta cũng vậy, Ta sẽ chống các ngươi và Ta cũng sẽ đánh phạt các ngươi gấp bảy lần vì tội lỗi các ngươi. 25 Ta sẽ giáng xuống các ngươi lưỡi gươm báo oán để rửa hận cho giao ước. Các ngươi sẽ rút cả vào trong các thành của các ngươi, nhưng Ta sẽ gửi ôn dịch đến giữa các ngươi, và các ngươi sẽ bị trao vào tay kẻ thù. 26 Khi Ta làm cạn nguồn lương thực nuôi các ngươi, thì mười người đàn bà sẽ nướng bánh của các ngươi trong một lò duy nhất và sẽ chia bánh cho các ngươi theo định lượng; các ngươi sẽ ăn mà chẳng được no.

27 Dù vậy, nếu các ngươi vẫn không chịu nghe Ta mà cứ chống Ta, 28 thì Ta sẽ nổi cơn lôi đình chống các ngươi và Ta cũng sẽ sửa phạt các ngươi gấp bảy lần vì tội lỗi các ngươi. 29 Các ngươi sẽ ăn thịt con trai, ăn thịt con gái các ngươi. 30 Ta sẽ tiêu huỷ những nơi cao của các ngươi, sẽ chặt những hương án của các ngươi, sẽ chất thây các ngươi trên thây những ngẫu tượng của các ngươi, và Ta sẽ chán ghét các ngươi. 31 Ta sẽ làm cho thành thị của các ngươi nên chốn tan hoang, sẽ tàn phá những thánh điện của các ngươi; các ngươi có dâng hương thơm làm vui lòng Ta, Ta cũng không ngửi. 32 Chính Ta sẽ tàn phá đất của các ngươi, và kẻ thù của các ngươi đến ở đó sẽ phải sửng sốt trước cảnh tượng ấy. 33 Còn các ngươi, Ta sẽ phân tán giữa các dân tộc, Ta sẽ tuốt gươm đuổi theo các ngươi; đất các ngươi sẽ bị tàn phá và thành thị của các ngươi sẽ nên chốn tan hoang. 34 Bấy giờ đất sẽ được hưởng bù những năm sa-bát của nó, suốt thời gian nó bị tàn phá và các ngươi phải ở trong đất của kẻ thù; bấy giờ đất sẽ nghỉ và sẽ được hưởng bù những năm sa-bát của nó. 35 Suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ bù những năm sa-bát của các ngươi mà nó đã không được nghỉ, khi các ngươi sống ở đó. 36 Những kẻ còn lại trong số các ngươi, Ta sẽ làm cho chúng nản lòng trong đất của kẻ thù chúng. Tiếng một chiếc lá bay sẽ đuổi theo chúng; chúng sẽ chạy trốn như chạy trốn lưỡi gươm, và sẽ ngã gục dù không có người đuổi theo. 37 Chúng sẽ vấp vào nhau, người nọ vào người kia, như trước lưỡi gươm, dù không có người đuổi theo. Các ngươi sẽ không đứng vững trước mặt quân thù; 38 các ngươi sẽ bị diệt vong giữa các dân tộc, và đất của kẻ thù các ngươi sẽ nuốt các ngươi. 39 Những kẻ còn lại trong số các ngươi sẽ chết dần chết mòn vì lỗi lầm của chúng, trong đất của kẻ thù chúng; chúng sẽ chết dần chết mòn vì lỗi lầm của cha ông chúng, cộng với lỗi lầm của chúng.

40 Chúng sẽ xưng thú lỗi lầm của chúng và lỗi lầm của cha ông chúng: chúng đã phạm tội bất trung đối với Ta, lại còn chống Ta, 41 khiến Ta cũng chống chúng và đưa chúng đến đất của kẻ thù chúng. Bấy giờ tâm hồn không cắt bì của chúng sẽ tự hạ, và bấy giờ chúng sẽ chịu phạt vì lỗi lầm của chúng. 42 Ta sẽ nhớ lại giao ước của Ta với Gia-cóp, Ta cũng sẽ nhớ lại giao ước của Ta với I-xa-ác và giao ước của Ta với Áp-ra-ham; Ta sẽ nhớ lại đất ấy.

43 Ðất sẽ bị chúng bỏ rơi và sẽ được hưởng bù những năm sa-bát của nó, khi đất bị tàn phá không có chúng ở nữa, khi chúng chịu phạt vì lỗi lầm của chúng, bởi lẽ chúng đã gạt bỏ các quyết định của Ta và chán ghét các quy tắc của Ta.

44 Nhưng cả khi ấy nữa, khi chúng ở trong đất của kẻ thù chúng, Ta cũng sẽ không gạt bỏ chúng và không chán ghét chúng, đến nỗi tận diệt chúng và huỷ bỏ giao ước của Ta với chúng, vì Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng. 45 Vì chúng, Ta sẽ nhớ lại giao ước với tiền nhân chúng, những kẻ Ta đã đưa ra khỏi đất Ai-cập, trước mắt các dân tộc, để Ta là Thiên Chúa của chúng. Ta là Ðức Chúa."

46 Ðó là các thánh chỉ, quyết định và luật lệ Ðức Chúa đã dùng ông Mô-sê mà lập ra giữa Người với con cái Ít-ra-en tại núi Xi-nai.

Chương 27

Phụ Lục

A. Loài người

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:

2 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Nếu ai muốn giữ trọn lời khấn hứa dâng một người cho Ðức Chúa, thì phải định giá như sau:

3 Nếu là phái nam từ hai mươi đến sáu mươi tuổi, thì phải định giá là mười lăm lượng bạc, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện; 4 nếu là phái nữ, thì phải định giá là chín lượng;

5 từ năm đến hai mươi tuổi, thì phải định giá nam là sáu lượng, nữ là ba lượng;

6 từ một tháng đến năm tuổi, thì phải định giá nam là mười lăm chỉ bạc, nữ là chín chỉ bạc;

7 từ sáu mươi tuổi trở lên, thì phải định giá nam là bốn mươi lăm chỉ bạc, nữ là ba lượng.

8 Nếu ai túng thiếu, không trả nổi giá đó, thì phải đặt nó trước mặt tư tế để tư tế định giá; tư tế sẽ dựa vào khả năng của người khấn hứa mà định giá.

B. Loài vật

9 Nếu là một con vật thuộc loại có thể dâng làm lễ tiến lên Ðức Chúa, thì bất cứ con nào người ta hiến cho Ðức Chúa đều là của thánh. 10 Không được đổi, không được thay thế con tốt bằng con xấu, hay con xấu bằng con tốt. Nếu cứ thay thế một con vật này bằng một con khác, thì cả con vật này lẫn con vật thay thế đều là của thánh. 11 Nếu là một con vật ô uế, thuộc loại không được dâng làm lễ tiến lên Ðức Chúa, thì phải đặt con vật trước mặt tư tế; 12 tư tế sẽ định giá nó là tốt hay xấu, và tư tế định giá thế nào thì cứ như vậy. 13 Nếu muốn chuộc lại, thì phải trả thêm một phần năm giá đã định.

C. Nhà cửa

14 Khi một người thánh hiến nhà mình làm của thánh dâng Ðức Chúa, thì tư tế sẽ định giá nhà ấy là tốt hay xấu; tư tế định giá thế nào thì cứ y như vậy. 15 Nếu người đã thánh hiến nhà muốn chuộc lại, thì sẽ phải trả thêm một phần năm giá đã định và nhà ấy sẽ là của nó.

D. Ðồng ruộng

16 Nếu một người thánh hiến cho Ðức Chúa một cánh đồng là sở hữu của mình, thì phải dựa vào số lượng lúa giống mà định giá: hai mươi thùng giống lúa mạch là mười lăm lượng bạc. 17 Nếu nó thánh hiến cánh đồng ngay từ năm toàn xá, thì cứ theo như giá đã định. 18 Nếu nó thánh hiến cánh đồng sau năm toàn xá, thì tư tế sẽ tính giá tuỳ theo số năm còn lại cho đến năm toàn xá, và có giảm bớt giá đã định.

19 Nếu người đã thánh hiến cánh đồng muốn chuộc lại, thì sẽ phải trả thêm vào đó một phần năm giá đã định, và cánh đồng sẽ thuộc về nó. 20 Nếu nó không chuộc lại cánh đồng nhưng bán cho người khác, thì cánh đồng không chuộc lại được nữa, 21 và khi cánh đồng ra khỏi tay người mua, vào thời kỳ toàn xá, thì cánh đồng sẽ là của thánh dâng Ðức Chúa, như một cánh đồng được biệt hiến; cánh đồng sẽ thuộc quyền sở hữu của tư tế.

22 Nếu nó thánh hiến cho Ðức Chúa một cánh đồng nó đã mua, chứ không phải cánh đồng thuộc quyền sở hữu của nó, 23 thì tư tế sẽ tính số tiền phải trả cho đến năm toàn xá, và ngay hôm đó người kia phải nộp theo giá đã định; đó là của thánh dâng Ðức Chúa. 24 Ðến năm toàn xá, cánh đồng sẽ lại về tay người bán, là người có quyền sở hữu đất. 25 Mỗi khi định giá thì phải theo đơn vị đo lường của thánh điện: một se-ken ăn hai mươi ghê-ra.

Quy định đặc biệt về việc chuộc lại những của thánh hiến

a. Con đầu lòng

26 Con đầu lòng trong đàn gia súc, không ai được thánh hiến: vì là con đầu lòng, nó đã thuộc về Ðức Chúa; dù là bò hay chiên dê, nó thuộc về Ðức Chúa. 27 Nhưng nếu là loài vật ô uế, thì có thể chuộc theo giá đã định, cộng thêm một phần năm; nếu nó không được chuộc, thì sẽ được bán theo giá đã định.

b. Của biệt hiến

28 Tuy nhiên, trong những cái thuộc về một người - như người, gia súc hay cánh đồng là sở hữu của nó - bất cứ cái gì nó đã biệt hiến dâng Ðức Chúa làm của biệt hiến, thì không được bán, cũng không được chuộc. Mọi của biệt hiến là của rất thánh, nó thuộc về Ðức Chúa. 29 Của biệt hiến mà là một người biệt hiến, thì không thể được chuộc: nó phải bị xử tử.

c. Thuế thập phân

30 Mọi thuế thập phân đánh vào đất, trích từ sản phẩm của đất và từ hoa trái của cây cối, đều thuộc về Ðức Chúa: đó là của thánh dâng Ðức Chúa. 31 Nếu người nào muốn chuộc một phần thuế thập phân, thì phải trả thêm một phần năm.

32 Mọi thuế thập phân đánh vào bò và chiên dê, tức là một phần mười của mọi vật đi qua dưới cây gậy người chăn, đều là của rất thánh dâng Ðức Chúa. 33 Không được tìm xem con nào tốt hay xấu và không được thay thế; nếu cứ thay thế, thì con vật ấy và con vật thay thế sẽ là của rất thánh, không thể được chuộc lại."

34 Ðó là những mệnh lệnh Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê nói lại cho con cái Ít-ra-en, trên núi Xi-nai.

Dân Số

Chương 01

I. Kiểm Tra Dân Số

1 Tại sa mạc Xi-nai ngày mồng một tháng hai năm thứ hai kể từ khi con cái Ít-ra-en ra khỏi đất Ai-cập, Ðức Chúa phán với ông Mô-sê trong Lều Hội Ngộ rằng:

2 "Các ngươi hãy kiểm tra dân số toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en theo thị tộc và gia tộc, lập danh sách mọi người đàn ông từng người một. 3 Những người từ hai mươi tuổi trở lên, nghĩa là mọi người trong dân Ít-ra-en đến tuổi nhập ngũ, thì ngươi và A-ha-ron hãy liệt kê theo đơn vị của chúng. 4 Mỗi chi tộc còn phải có một người giúp các ngươi, người ấy phải là tộc trưởng.

Nhân viên kiểm tra

5 Ðây là danh sách những người đứng ra giúp các ngươi: "Chi tộc Rưu-vên có Ê-li-xua, con Sơ-đê-ua.

6 Chi tộc Si-mê-ôn có Sơ-lu-mi-ên, con Xu-ri-sát-đai.

7 Chi tộc Giu-đa có Nác-sôn, con Am-mi-na-đáp.

8 Chi tộc Ít-xa-kha có Nơ-than-ên, con Xu-a.

9 Chi tộc Dơ-vu-lun có Ê-li-áp, con Khe-lôn.

10 Con cháu Giu-se: chi tộc Ép-ra-im có Ê-li-sa-ma, con Am-mi-hút, và chi tộc Mơ-na-se có Gam-li-ên, con Pơ-đa-xua.

11 Chi tộc Ben-gia-min có A-vi-đan, con Ghít-ô-ni.

12 Chi tộc Ðan có A-khi-e-de, con Am-mi-sát-đai.

13 Chi tộc A-se có Pác-i-ên, con Oóc-ran.

14 Chi tộc Gát có En-gia-xáp, con Rơ-u-ên.

15 Chi tộc Náp-ta-li có A-khi-ra, con Ê-nan."

16 Ðó là những người đại diện của cộng đồng, họ đều là những người phụ trách các chi tộc của họ, chỉ huy quân ngũ Ít-ra-en.

17 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron nhận những người vừa được chỉ định đích danh, 18 và triệu tập toàn thể cộng đồng vào ngày mồng một tháng hai. Người ta xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, lập danh sách những người đàn ông, từ hai mươi tuổi trở lên, từng người một. 19 Như Ðức Chúa đã truyền cho ông, ông Mô-sê kiểm tra họ trong sa mạc Xi-nai.

Cuộc kiểm tra

20 Con cháu Rưu-vên, trưởng nam của Ít-ra-en, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 21 những người được kiểm tra thuộc chi tộc Rưu-vên, là 46,500.

22 Con cháu Si-mê-ôn, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 23 những người được kiểm tra thuộc chi tộc Si-mê-ôn, là 59,300.

24 Con cháu Gát, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 25 những người được kiểm tra thuộc chi tộc Gát, là 45,650.

26 Con cháu Giu-đa, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 27 những người được kiểm tra thuộc chi tộc Giu-đa, là 74,600.

28 Con cháu Ít-xa-kha, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 29 những người được kiểm tra thuộc chi tộc Ít-xa-kha, là 54,400.

30 Con cháu Dơ-vu-lun, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 31 những người được kiểm tra thuộc chi tộc Dơ-vu-lun, là 57,400.

32 Con cháu Giu-se: thuộc chi tộc Ép-ra-im, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 33 những người được kiểm tra thuộc chi tộc Ép-ra-im, là 40,500.

34 Còn chi tộc Mơ-na-se, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 35 những người được kiểm tra thuộc chi tộc Mơ-na-se, là 32,200.

36 Con cháu Ben-gia-min, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 37 những người được kiểm tra thuộc chi tộc Ben-gia-min, là 35,400.

38 Con cháu Ðan, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 39 những người được kiểm tra thuộc chi tộc Ðan, là 62,700.

40 Con cháu A-se, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 41 những người được kiểm tra thuộc chi tộc A-se, là 41,500.

42 Con cháu Náp-ta-li, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 43 những người được kiểm tra thuộc chi tộc Náp-ta-li, là 53,400.

44 Ðó là những người đã được ông Mô-sê và ông A-ha-ron kiểm tra cùng với mười hai người phụ trách Ít-ra-en, mỗi người phụ trách gia tộc mình. 45 Tất cả con cái Ít-ra-en đã được kiểm tra theo gia tộc của họ, từ hai mươi tuổi trở lên, tất cả các chiến binh trong dân Ít-ra-en, 46 tổng số người được kiểm tra, là 603,550.

Quy chế các thầy Lê-vi

47 Còn các thầy Lê-vi, vì quy chế chi tộc của mình, thì không được liệt kê vào số đó.

48 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 49 "Riêng chi tộc Lê-vi, ngươi sẽ không kiểm tra và không liệt kê chung với con cái Ít-ra-en. 50 Nhưng hãy đặt các thầy Lê-vi phụ trách Nhà Tạm Chứng Ước, cũng như mọi vật dụng và tất cả những gì liên quan tới Nhà Tạm đó. Chính họ sẽ lo việc di chuyển Nhà Tạm và mọi vật dụng, sẽ phục vụ và dựng lều chung quanh Nhà Tạm. 51 Khi dời Nhà Tạm, các thầy Lê-vi sẽ hạ Nhà Tạm xuống, và lúc Nhà Tạm dừng lại thì họ sẽ dựng Nhà Tạm lên. Còn ai khác mà tới gần sẽ phải chết. 52 Con cái Ít-ra-en sẽ dựng lều, mỗi người nơi doanh trại mình, theo cờ hiệu của từng đoàn quân. 53 Còn các thầy Lê-vi thì sẽ dựng lều chung quanh Nhà Tạm Chứng Ước. Như thế thịnh nộ (của Ta) sẽ không giáng xuống cộng đồng con cái Ít-ra-en. Các thầy Lê-vi sẽ phụ trách Nhà Tạm."

54 Con cái Ít-ra-en đã thi hành tất cả mọi điều y như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.

Chương 02

Thứ tự các chi tộc

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng: 2 "Con cái Ít-ra-en sẽ đóng trại, mỗi người theo cờ hiệu và huy hiệu của gia tộc mình. Chúng sẽ đóng trại ở vòng ngoài, hướng về Lều Hội Ngộ.

3 Ðóng ở phía đông, hướng mặt trời mọc, là cờ hiệu doanh trại Giu-đa theo đoàn quân của chúng. Ðứng đầu con cháu Giu-đa là Nác-sôn, con Am-mi-na-đáp. 4 Ðoàn quân của chúng, những người đã được kiểm tra, là 74,600.

5 Ðóng trại bên cạnh chúng là chi tộc Ít-xa-kha. Ðứng đầu con cháu Ít-xa-kha là Nơ-than-ên, con Xu-a. 6 Ðoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 54,400.

7 Tiếp theo là chi tộc Dơ-vu-lun, đứng đầu là Ê-li-áp, con Khe-lôn. 8 Ðoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 57,400.

9 Tổng số những người được kiểm tra thuộc doanh trại Giu-đa là 186,400. Những người này sẽ đi tuyến đầu.

10 Phía nam là cờ hiệu doanh trại Rưu-vên theo đoàn quân của chúng. Ðứng đầu là Ê-li-xua, con Sơ-đê-ua. 11 Ðoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 46,500.

12 Ðóng trại bên cạnh chúng là chi tộc Si-mê-ôn. Ðứng đầu con cháu Si-mê-ôn là Sơ-lu-mi-ên, con Xu-ri-sát-đai. 13 Ðoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 59,300.

14 Kế đến là chi tộc Gát. Ðứng đầu con cháu Gát là En-gia-xáp, con Rơ-u-ên. 15 Ðoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 45,650.

16 Tổng số những người được kiểm tra thuộc doanh trại Rưu-vên là 151,450 theo đoàn quân của chúng. Những người này sẽ đi tuyến hai.

17 Tiếp đó Lều Hội Ngộ sẽ lên đường, cùng với doanh trại Lê-vi, đi giữa các doanh trại khác. Ðóng trại theo thứ tự nào thì lên đường cũng theo thứ tự ấy, mỗi người cứ giữ vị trí của mình, tuỳ theo cờ hiệu của mình.

18 Cờ hiệu doanh trại Ép-ra-im theo đoàn quân của chúng sẽ nằm ở phía tây. Ðứng đầu con cháu Ép-ra-im là Ê-li-sa-ma, con Am-mi-hút. 19 Ðoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 40,500.

20 Bên cạnh chúng là chi tộc Mơ-na-se. Ðứng đầu con cháu Mơ-na-se là Gam-li-ên, con Pơ-đa-xua. 21 Ðoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 32,200.

22 Rồi đến chi tộc Ben-gia-min. Ðứng đầu con cháu Ben-gia-min là A-vi-đan, con Ghít-ô-ni. 23 Ðoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 35,400.

24 Tổng số những người được kiểm tra thuộc doanh trại Ép-ra-im, là 108,100, tính theo đoàn quân của chúng. Chúng sẽ đi tuyến ba.

25 Cờ hiệu doanh trại Ðan theo đoàn quân của chúng sẽ nằm ở phía bắc. Ðứng đầu con cháu Ðan là A-khi-e-de, con Am-mi-sát-đai. 26 Ðoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 62,700.

27 Ðóng trại bên cạnh chúng là chi tộc A-se. Ðứng đầu con cháu A-se là Pác-i-ên, con Oóc-ran. 28 Ðoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 41,500.

29 Kế đến là chi tộc Náp-ta-li. Ðứng đầu con cháu Náp-ta-li là A-khi-ra, con Ê-nan. 30 Ðoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 53,400.

31 Tổng số những người được kiểm tra thuộc doanh trại Ðan là 157,600. Chúng sẽ đi tuyến cuối cùng, theo cờ hiệu của mình."

32 Ðó là con cái Ít-ra-en được kiểm tra theo gia tộc của họ. Tổng số những người được kiểm tra, thuộc các doanh trại, theo đoàn quân của họ, là 603,550. 33 Riêng các thầy Lê-vi, thì không phải kiểm tra cùng với con cái Ít-ra-en, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.

34 Con cái Ít-ra-en đã thi hành tất cả mọi điều y như Ðức Chúa truyền cho ông Mô-sê. Họ đóng trại theo cờ hiệu, và họ lên đường, mỗi người theo thị tộc và gia tộc của mình.

Chương 03

Chi tộc Lê-vi

A. Các tư tế

1 Ðây là dòng dõi ông A-ha-ron và ông Mô-sê vào thời Ðức Chúa phán với ông Mô-sê trên núi Xi-nai.

2 Tên các con ông A-ha-ron như sau: trưởng nam là Na-đáp, rồi đến A-vi-hu, E-la-da và I-tha-ma. 3 Ðó là tên các con ông A-ha-ron, những tư tế đã được xức dầu tấn phong để thi hành chức vụ tư tế. 4 Ông Na-đáp và ông A-vi-hu đã chết trước nhan Ðức Chúa, vì đã dâng lửa phàm tục trước Thánh Nhan, khi còn ở sa mạc Xi-nai; các ông không có con. Chỉ còn hai ông E-la-da và I-tha-ma thi hành chức vụ tư tế trước mặt ông A-ha-ron, thân phụ các ông.

B. Các thầy Lê-vi. Chức vụ của họ.

5 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 6 "Hãy gọi chi tộc Lê-vi lại và đặt chúng túc trực bên cạnh tư tế A-ha-ron để giúp nó. 7 Chúng phải đảm nhiệm công việc của nó, cũng như công việc của toàn thể cộng đồng trước Lều Hội Ngộ, để lo phục dịch Nhà Tạm. 8 Chúng sẽ trông coi tất cả các vật dụng trong Lều Hội Ngộ, đồng thời đảm nhiệm công việc của con cái Ít-ra-en, để lo phục dịch Nhà Tạm. 9 Ngươi hãy trao các thầy Lê-vi cho A-ha-ron và các con nó như những người được dâng hiến, những người được dâng hiến mà con cái Ít-ra-en nộp cho nó. 10 Ngươi hãy đặt A-ha-ron và các con nó đảm nhận chức vụ tư tế, còn ai khác mà tới gần sẽ phải chết."

C. Tuyển chọn các thầy Lê-vi

11 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 12 "Ðây, chính Ta đã chọn các thầy Lê-vi giữa con cái Ít-ra-en thay thế tất cả các trưởng nam, các con đầu lòng trong số con cái Ít-ra-en, cho nên các thầy Lê-vi thuộc về Ta. 13 Thật vậy, tất cả các con đầu lòng đều thuộc về Ta, từ ngày Ta đánh phạt tất cả các con đầu lòng trong đất Ai-cập; Ta đã thánh hiến cho Ta tất cả các con đầu lòng trong Ít-ra-en, của loài người cũng như của súc vật: chúng thuộc về Ta. Ta là Ðức Chúa."

D. Kiểm tra các thầy Lê-vi

14 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê trong sa mạc Xi-nai rằng: 15 "Hãy kiểm tra con cái Lê-vi theo gia tộc và thị tộc, tất cả đàn ông con trai tuổi từ một tháng trở lên, hãy ghi số.” 16 Vậy, ông Mô-sê đã kiểm tra họ theo lệnh Ðức Chúa, như Người đã truyền cho ông. 17 Ðây là con cái Lê-vi nêu đích danh: Ghéc-sôn, Cơ-hát, Mơ-ra-ri. 18 Và đây là tên con cái Ghéc-sôn theo thị tộc: Líp-ni và Sim-y. 19 Con cái Cơ-hát theo thị tộc là Am-ram và Gít-ha, Khép-rôn và Út-di-ên. 20 Con cái Mơ-ra-ri theo thị tộc là Mác-li và Mu-si. Ðó là những thị tộc Lê-vi tính theo gia tộc họ.

21 Về phần Ghéc-sôn, có thị tộc Líp-ni và thị tộc Sim-y. Ðó là các thị tộc thuộc dòng họ Ghéc-sôn. 22 Những người được kiểm tra, tính tất cả con trai của họ, tuổi từ một tháng trở lên, là 7,500. 23 Các thị tộc thuộc dòng họ Ghéc-sôn đóng trại đàng sau Nhà Tạm, ở phía tây. 24 Ðứng đầu dòng họ Ghéc-sôn là En-gia-xáp, con La-ên. 25 Công việc của con cháu Ghéc-sôn ở cửa Lều Hội Ngộ là trông coi Nhà Tạm và Lều, cũng như bạt che và bức màn ở lối vào Lều Hội Ngộ, 26 cùng các tấm rèm che khuôn viên, bức màn ở lối vào khuôn viên bao quanh Nhà Tạm và bàn thờ, cũng như các dây thừng dùng vào việc phục dịch.

27 Về phần Cơ-hát, có thị tộc Am-ram, thị tộc Gít-ha, thị tộc Khép-rôn và thị tộc Út-di-ên. Ðó là các thị tộc thuộc dòng họ Cơ-hát. 28 Tổng cộng tất cả con trai tuổi từ một tháng trở lên, là 8,300. Họ trông coi thánh điện. 29 Các thị tộc thuộc dòng họ Cơ-hát đóng trại bên cạnh Nhà Tạm, ở phía nam. 30 Ðứng đầu dòng họ Cơ-hát là Ê-li-xa-phan, con của Út-di-ên. 31 Công việc của họ là trông coi Hòm Bia, bàn, trụ đèn, các bàn thờ, các đồ thờ dùng trong thánh điện, bức màn, cũng như tất cả các dịch vụ liên hệ. 32 Ðứng đầu các thủ lãnh của các thầy Lê-vi là ông E-la-da, con tư tế A-ha-ron. Ông giám sát các nhân viên phụ trách công việc trong nơi thánh.

33 Về phần Mơ-ra-ri, có thị tộc Mác-li và thị tộc Mu-si. Ðó là các thị tộc thuộc dòng họ Mơ-ra-ri. 34 Những người được kiểm tra, tính tất cả các con trai của họ, tuổi từ một tháng trở lên, là 6,200. 35 Ðứng đầu dòng họ Mơ-ra-ri là Xu-ri-ên, con A-vi-kha-gin. Họ đóng trại bên cạnh Nhà Tạm, ở phía bắc. 36 Công việc của con cháu Mơ-ra-ri là trông coi các tấm ván của Nhà Tạm, các thanh ngang, các cột, đế, cũng như các đồ phụ thuộc và các dịch vụ liên hệ, 37 cũng như các cột chung quanh khuôn viên cùng với các đế, cọc và dây thừng.

38 Các người đóng trại trước Nhà Tạm ở phía đông, nghĩa là trước Lều Hội Ngộ, hướng mặt trời mọc, là ông Mô-sê, ông A-ha-ron và các con ông này, là những người có trách nhiệm trông coi thánh điện thay cho con cái Ít-ra-en; còn ai khác mà tới gần sẽ phải chết. 39 Tổng số những người được kiểm tra thuộc dòng họ Lê-vi, những người ông Mô-sê và ông A-ha-ron đã theo lệnh Ðức Chúa mà kiểm tra theo các thị tộc của họ, tất cả các con trai tuổi từ một tháng trở lên, là 22,000.

E. Các người thuộc chi tộc Lê-vi. Chuộc các con đầu lòng.

40 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy kiểm tra tất cả các trưởng nam của con cái Ít-ra-en, tuổi từ một tháng trở lên, và lập danh sách chúng. 41 Ta là Ðức Chúa. Hãy dành các người Lê-vi cho Ta thay cho tất cả các trưởng nam trong số con cái Ít-ra-en, và hãy dành súc vật của các người Lê-vi thay cho tất cả các con vật đầu lòng trong đàn vật của con cái Ít-ra-en.” 42 Theo như Ðức Chúa đã truyền, ông Mô-sê kiểm tra tất cả các con đầu lòng trong số con cái Ít-ra-en. 43 Tổng số các trưởng nam được ghi tên để kiểm tra, tuổi từ một tháng trở lên, là 22,273.

44 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 45 "Hãy lấy các người Lê-vi thay cho các trưởng nam của con cái Ít-ra-en, và súc vật của các người Lê-vi thay thế các súc vật của chúng: các người Lê-vi sẽ thuộc về Ta. Ta là Ðức Chúa. 46 Ðể làm giá chuộc 273 trưởng nam của con cái Ít-ra-en dôi hơn số người Lê-vi, 47 ngươi sẽ lấy mỗi đầu người là mười lăm chỉ bạc, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện. 48 Ngươi sẽ đưa số bạc này cho A-ha-ron và con cái ông làm tiền chuộc số người dôi ra kể trên."

49 Ông Mô-sê đã nhận món tiền chuộc số người dôi ra mà các người Lê-vi không chuộc thay. 50 Số bạc thu được của các trưởng nam trong số con cái Ít-ra-en là mười bốn ký, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện. 51 Ông Mô-sê đã trao số tiền chuộc cho ông A-ha-ron và con cái ông này theo lệnh Ðức Chúa, như Người đã truyền.

Chương 04

Các thị tộc Lê-vi

A. Thị tộc Cơ-hát

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng: 2 "Ngươi hãy lập danh sách con cháu Cơ-hát trong dòng họ Lê-vi theo thị tộc và gia tộc chúng, 3 tuổi từ ba mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những ai đến tuổi nhập ngũ, để chúng phục vụ trong Lều Hội Ngộ.

4 Dịch vụ của con cháu Cơ-hát trong Lều Hội Ngộ là phụ trách các đồ thờ cực thánh.

5 Khi nhổ trại, A-ha-ron sẽ cùng với các con vào Lều, cuốn bức trướng mà phủ lên Hòm Bia Chứng Ước. 6 Chúng sẽ trải lên đó tấm bạt bằng da cá heo, và trên tấm bạt này sẽ phủ tấm vải toàn màu đỏ tía, rồi lắp các đòn khiêng vào.

7 Trên bàn dâng tiến, chúng sẽ trải một tấm vải đỏ tía, rồi đặt lên đó các khay, ly, chén và bình dùng trong lễ tưới rượu. Bánh thường tiến cũng phải có trên đó. 8 Chúng sẽ phủ lên một tấm vải đỏ thẫm và trải thêm tấm bạt da cá heo, rồi lắp các đòn khiêng vào.

9 Chúng sẽ lấy tấm vải đỏ tía mà phủ trụ đèn và đèn, kéo cắt bấc đèn, các đĩa đựng tàn, tất cả các bình đựng dầu đèn. 10 Chúng sẽ để chân đèn cùng tất cả các đồ phụ tùng vào một cái bao da cá heo và đặt lên cáng.

11 Trên bàn thờ bằng vàng, chúng sẽ trải tấm vải đỏ tía và phủ thêm một tấm bạt da cá heo, rồi lắp các đòn khiêng vào.

12 Chúng sẽ lấy các đồ dùng vào việc thờ phượng nơi thánh điện, đem bọc trong tấm vải đỏ tía, phủ thêm một tấm bạt da cá heo, rồi đặt lên cáng.

13 Sau khi đã lấy tro khỏi bàn thờ và trải lên tấm vải điều, 14 chúng sẽ đặt trên đó tất cả đồ dùng vào việc thờ phượng: bình hương, xiên, xẻng, bình rảy, tất cả đồ phụ tùng của bàn thờ, phủ lên đó một tấm bạt bằng da cá heo, và lắp các đòn khiêng vào.

15 Khi A-ha-ron và các con đã hoàn thành việc che phủ thánh điện cùng tất cả các đồ phụ tùng, lúc nhổ trại, thì các con của Cơ-hát sẽ đến khiêng đi; nhưng chúng sẽ không được đụng tới các vật thánh, kẻo phải chết. Ðó là những gì con cái Cơ-hát phải khiêng trong Lều Hội Ngộ. 16 Phận sự của E-la-da, con tư tế A-ha-ron, là lo dầu đèn, hương thơm, lễ phẩm thường tiến, dầu tấn phong; nó phải trông coi toàn bộ Nhà Tạm cùng mọi vật trong đó: các vật thánh và các đồ phụ tùng."

17 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng: 18 "Các ngươi đừng để cho dòng họ các thị tộc Cơ-hát bị xoá bỏ khỏi chi tộc Lê-vi. 19 Ðể chúng được sống chứ không phải chết khi tới gần các vật cực thánh, các ngươi sẽ xử với chúng như thế này: A-ha-ron và các con sẽ đến và đặt mỗi người trước cái gì phải làm, trước cái gì phải khiêng vác. 20 Như vậy chúng sẽ không vào mà nhìn các đồ thánh, dù một giây lát, để rồi phải chết."

B. Thị tộc Ghéc-sôn

21 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 22 "Ngươi cũng hãy lập danh sách con cháu Ghéc-sôn nữa theo gia tộc và thị tộc của chúng; 23 những người tuổi từ ba mươi đến năm mươi, ngươi sẽ kiểm tra hết, nghĩa là tất cả những ai đến tuổi nhập ngũ, để chúng phục vụ trong Lều Hội Ngộ. 24 Ðây là dịch vụ mà các thị tộc Ghéc-sôn phải chu toàn: 25 chúng sẽ mang các tấm thảm của Nhà Tạm và Lều Hội Ngộ, bạt che Lều, tức tấm bạt bằng da cá heo phủ trên Lều, màn che cửa Lều Hội Ngộ, 26 các tấm rèm của khuôn viên, màn che cửa khuôn viên nằm quanh Nhà Tạm và bàn thờ, các dây buộc, các đồ dùng cần thiết cho dịch vụ của chúng, tóm lại tất cả những gì liên quan tới dịch vụ ấy.

27 Con cái Ghéc-sôn phải thi hành mọi dịch vụ khiêng vác cũng như phục dịch, dưới quyền điều khiển của A-ha-ron và các con; các ngươi hãy giao cho chúng trông coi tất cả những gì chúng phải khiêng vác. 28 Ðó là dịch vụ dành cho các thị tộc con cái Ghéc-sôn trong Lều Hội Ngộ, và chúng làm việc dưới quyền kiểm soát của I-tha-ma, con tư tế A-ha-ron.

C. Thị tộc Mơ-ra-ri

29 Ngươi hãy kiểm tra con cháu Mơ-ra-ri theo thị tộc và gia tộc của chúng, 30 tuổi từ ba mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những ai đến tuổi nhập ngũ, để chúng phục vụ trong Lều Hội Ngộ. 31 Ðây là những đồ vật chúng có trách nhiệm phải khiêng vác liên quan đến dịch vụ của chúng trong Lều Hội Ngộ: khung Nhà Tạm, cột, kèo và đế, 32 các cột chung quanh khuôn viên cùng các đế, cọc đóng, dây thừng và tất cả đồ phụ tùng liên quan đến dịch vụ của chúng. Vậy các ngươi hãy kê khai từng thứ một tất cả các đồ vật chúng có trách nhiệm phải khiêng vác.

33 Ðó là các dịch vụ dành cho các thị tộc con cái Mơ-ra-ri, dịch vụ mà chúng phải thi hành trong Lều Hội Ngộ, dưới quyền kiểm soát của I-tha-ma, con tư tế A-ha-ron."

Kiểm tra chi tộc Lê-vi

34 Ông Mô-sê cùng với ông A-ha-ron và các vị lãnh đạo cộng đồng đã kiểm tra con cháu Cơ-hát theo thị tộc và gia tộc họ, 35 tuổi từ ba mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những người đến tuổi nhập ngũ, để họ phục dịch trong Lều Hội Ngộ. 36 Tổng số người được kiểm tra, tính theo thị tộc, là 2,750. 37 Ðó là số những người trong thị tộc Cơ-hát được kiểm tra, tất cả những người phục vụ trong Lều Hội Ngộ, mà ông Mô-sê và ông A-ha-ron đã kiểm tra theo lệnh Ðức Chúa đã truyền qua ông Mô-sê.

38 Số con cháu Ghéc-sôn được kiểm tra theo thị tộc và gia đình tổ tiên họ, 39 tuổi từ ba mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những người đến tuổi nhập ngũ, để phục vụ trong Lều Hội Ngộ, 40 tổng số những người được kiểm tra, theo thị tộc và gia tộc họ, là 2,630. 41 Ðó là số con cháu Ghéc-sôn được kiểm tra theo thị tộc, tất cả những người phục vụ trong Lều Hội Ngộ: ông Mô-sê cùng với ông A-ha-ron kiểm tra họ theo lệnh Ðức Chúa.

42 Các con cháu Mơ-ra-ri được kiểm tra theo thị tộc và gia tộc, 43 tuổi từ ba mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những ai đến tuổi nhập ngũ, để phục vụ trong Lều Hội Ngộ, 44 tổng số những người được kiểm tra, tính theo thị tộc của họ, là 3,200. 45 Ðó là các thị tộc con cháu Mơ-ra-ri, mà ông Mô-sê đã cùng với ông A-ha-ron kiểm tra theo lệnh Ðức Chúa đã truyền qua ông Mô-sê.

46 Tổng số những người Lê-vi mà ông Mô-sê cùng với ông A-ha-ron và các vị lãnh đạo Ít-ra-en đã kiểm tra theo thị tộc và gia tộc của họ, 47 tuổi từ ba mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những người đến tuổi phục dịch và khiêng vác trong Lều Hội Ngộ, 48 tổng số những người được kiểm tra là 8,580. 49 Theo lệnh Ðức Chúa truyền qua ông Mô-sê, người ta kiểm tra họ, chỉ định cho mỗi người việc phải làm và đồ vật phải khiêng vác. Thế là họ được kiểm tra như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.

Chương 05

Loại trừ những người nhiễm uế

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 2 "Hãy truyền cho con cái Ít-ra-en phải đuổi ra khỏi trại mọi người phong hủi, mọi kẻ mắc bệnh lậu, mọi người nhiễm uế vì xác chết: 3 Các ngươi phải đuổi chúng, bất kể đàn ông hay đàn bà, các ngươi phải đuổi ra khỏi trại, kẻo chúng làm ô uế trại, nơi Ta cư ngụ ở giữa chúng."

4 Con cái Ít-ra-en đã làm như thế: họ đã đuổi những người ấy ra khỏi trại. Con cái Ít-ra-en đã làm như Ðức Chúa đã phán với ông Mô-sê.

Luật bồi hoàn

5 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 6 "Ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en: "Phàm ai, đàn ông hay đàn bà, vì bất trung với Ðức Chúa, mà phạm một trong những tội người ta quen phạm, thì con người ấy phải chịu phạt.

7 Nó phải xưng thú tội mình đã phạm và đền bù đầy đủ, ngoài ra còn phải trả thêm một phần năm nữa cho người mình đã làm thiệt hại.

8 Nếu người này không có bà con gần để lãnh của bồi thường thiệt hại, thì vật bồi thường sẽ thuộc về Ðức Chúa, tức là thuộc về tư tế, chưa kể con dê xá tội phải dâng để làm nghi thức xá tội cho người mắc lỗi.

9 Mọi của trích dâng và mọi hiến vật mà con cái Ít-ra-en dâng cho tư tế đều thuộc về tư tế. 10 Hiến vật của ai thì thuộc về người ấy; còn nếu đã dâng cho tư tế thì là của tư tế."

Luật về chuyện ghen tuông

11 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 12 "Ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Nếu ai bị vợ mất nết phản bội, 13 nghĩa là có người nằm với người đàn bà ấy mà người chồng không biết; và người vợ đã bí mật thất tiết mà không có ai làm chứng cáo tội, không bắt được quả tang; 14 hoặc người chồng nổi máu ghen và ghen tức vợ đã thực sự thất tiết, hoặc nổi máu ghen và ghen tức vợ mà thật ra vợ đã không thất tiết, 15 thì bấy giờ người chồng phải dẫn vợ đến gặp tư tế, mà tiến dâng bốn lít rưỡi bột lúa mạch vì chuyện vợ mình; nhưng không rưới dầu lên trên và cũng không đổ hương vào, bởi đó là lễ phẩm dâng vì ghen tuông, lễ phẩm để tố cáo tội lỗi.

16 Tư tế sẽ đưa người đàn bà đến đứng trước nhan Ðức Chúa, 17 và lấy một bình sành đựng nước thánh, rồi lấy chút bụi trên nền Nhà Tạm bỏ vào nước. 18 Sau đó, tư tế đặt người đàn bà đứng trước nhan Ðức Chúa và lột khăn trùm đầu nó ra, rồi đặt lên hai bàn tay nó lễ phẩm tố cáo, nghĩa là lễ phẩm vì ghen tuông; đồng thời tay tư tế cầm bình nước chỉ sự đắng cay và nguyền rủa. 19 Bấy giờ tư tế sẽ buộc người đàn bà thề và nói với nó rằng: "Nếu đã không có người đàn ông nào nằm với chị và nếu chị đã không mất nết mà thất tiết khi chị đang có chồng, thì nước đắng cay và nguyền rủa này sẽ vô hại cho chị. 20 Còn nếu chị có chồng mà mất nết và đã thất tiết với chồng, vì một người đàn ông khác, không phải là chồng chị, đã cho chị nằm với nó - 21 tư tế buộc người đàn bà thề độc và nói với nó - Xin Ðức Chúa làm cho dạ chị héo đi, bụng chị sình lên, khiến giữa đồng bào chị, chị thành đề tài cho người ta nguyền rủa và chúc dữ cho nhau. 22 Xin cho nước đắng cay này ngấm vào nội tạng chị, khiến bụng chị sình lên và dạ chị héo đi. Người đàn bà ấy sẽ thưa: "A-men. A-men."

23 Tư tế viết những lời nguyền rủa ấy vào giấy và cho nhoà đi trong nước đắng cay, 24 rồi bắt người đàn bà phải uống nước đắng cay và nguyền rủa đó; nước nguyền rủa sẽ ngấm vào người ấy để gây ra cay đắng. 25 Tư tế sẽ nhận lấy từ tay người đàn bà lễ phẩm vì ghen tuông, làm nghi thức trước nhan Ðức Chúa và đặt trên bàn thờ. 26 Tư tế sẽ bốc một nắm từ lễ phẩm đó, làm phần truy tưởng, mà đốt trên bàn thờ.

27 Tư tế cho nó uống nước rồi, nếu thật nó đã thất tiết và phản bội chồng, thì nước nguyền rủa sẽ ngấm vào nó để gây ra cay đắng, và tạng phủ nó sẽ sình lên, dạ nó héo đi. Giữa đồng bào, người đàn bà đó sẽ thành đề tài nguyền rủa. 28 Nếu người đàn bà đó đã không thất tiết, nhưng vẫn trong sạch, thì sẽ không bị hại và sẽ sinh con.

29 Ðó là luật về chuyện ghen tuông, khi một người đàn bà có chồng mà mất nết và đã thất tiết với chồng, 30 hoặc khi người đàn ông nổi máu ghen và ghen tức vợ mình: thì người chồng phải đặt vợ trước nhan Ðức Chúa, và tư tế phải áp dụng đầy đủ luật này. 31 Người chồng sẽ vô can, còn người đàn bà sẽ mang lấy tội mình."

Chương 06

Luật về lời khấn na-dia

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 2 "Ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng:

3 thì nó phải kiêng rượu và men nồng: không được uống giấm chua từ chất rượu cũng như giấm chua từ chất men, không được uống mọi thứ nước nho, không được ăn nho tươi cũng như nho khô. 4 Suốt thời gian nó bị ràng buộc bởi lời khấn đó, thì bất cứ thứ gì chiết xuất tự cây nho, từ hột nho cho đến vỏ nho, nó cũng không được ăn. 5 Suốt thời gian nó bị ràng buộc bởi lời khấn, dao cạo không được đụng đến đầu nó; bao lâu chưa mãn thời kỳ khấn đặc biệt để kính Ðức Chúa, thì nó sẽ là người được thánh hiến: nó phải để cho tóc trên đầu mọc tự nhiên. 6 Suốt thời kỳ khấn đặc biệt để kính Ðức Chúa, nó không được tới gần xác chết. 7 Dù là cha mẹ hay anh chị em nó chết, nó cũng không được để cho mình nhiễm uế, bởi vì nó mang trên đầu lời khấn na-dia kính Thiên Chúa. 8 Suốt thời kỳ khấn đặc biệt, nó sẽ là người được thánh hiến cho Ðức Chúa.

9 Nếu có ai chết bất ngờ bên cạnh nó, khiến cho đầu na-dia của nó bị nhiễm uế, thì nó phải cạo đầu trong ngày tẩy uế; ngày thứ bảy nó sẽ cạo đầu. 10 Ngày thứ tám nó sẽ mang một cặp chim gáy hay một cặp bồ câu trao cho tư tế ở cửa Lều Hội Ngộ. 11 Tư tế sẽ dâng một con làm lễ tạ tội, một con làm lễ toàn thiêu, và sẽ làm nghi thức xá tội ô uế nó mắc phải vì người chết. Chính hôm đó nó sẽ thánh hiến đầu mình, 12 nó sẽ lại khấn đặc biệt kiêng giữ để kính Ðức Chúa và đưa một con chiên một tuổi tới làm lễ vật đền tội. Thời gian trước đó không được kể vì lời khấn na-dia đã bị vi phạm.

13 Và đây là luật về người khấn na-dia: trong ngày mãn thời kỳ khấn na-dia, nó sẽ vào cửa Lều Hội Ngộ 14 và đem lễ tiến dâng Ðức Chúa: một chiên đực một tuổi, toàn vẹn, làm lễ toàn thiêu, một chiên cái một tuổi, toàn vẹn, làm lễ tạ tội, một con dê đực toàn vẹn làm lễ kỳ an, 15 một rổ bánh không men làm bằng tinh bột nhào dầu, bánh tráng không men tẩm dầu, cùng với các lễ phẩm ngũ cốc và rượu tế kèm theo. 16 Tư tế sẽ đưa những lễ vật ấy tới trước nhan Ðức Chúa để dâng lễ tạ tội và lễ toàn thiêu của nó. 17 Con chiên đực, ông sẽ sát tế để làm lễ kỳ an kính Ðức Chúa cùng với rổ bánh không men, đồng thời tư tế cũng dâng lễ phẩm ngũ cốc và rượu tế. 18 Người na-dia sẽ cạo đầu trước cửa Lều Hội Ngộ theo lời khấn, và lấy tóc đã được thánh hiến của mình mà bỏ vào lửa đang cháy dưới của lễ kỳ an. 19 Khi bả vai của con dê đã chín, thì tư tế lấy bả vai đó, cùng với một chiếc bánh không men trong rổ và một bánh tráng không men, và đặt các thứ đó vào tay người na-dia, sau khi người này đã cạo đầu theo lời khấn. 20 Rồi tư tế tiến dâng các thứ ấy trước nhan Ðức Chúa, theo nghi thức: đó là của thánh dành cho tư tế, không kể cái ức đã được tiến dâng theo nghi thức và phần đùi được giữ lại. Từ đó, người na-dia được phép uống rượu.

21 Ðó là luật về người khấn na-dia. Lễ tiến của nó dâng cho Ðức Chúa phải theo đúng lời khấn na-dia, ngoài ra nó có thể tuỳ khả năng mình mà dâng thêm. Nó đã khấn theo luật na-dia thế nào, thì phải giữ như vậy."

Công thức chúc lành

22 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 23 "Hãy nói với A-ha-ron và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này:

24 "Nguyện Ðức Chúa chúc lành và gìn giữ anh (em)!

25 Nguyện Ðức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh (em) và dủ lòng thương anh (em)!

26 Nguyện Ðức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh (em)!

Chương 07

III. Tế Phẩm Của Những Người Ðứng Ðầu Các Chi Tộc

Và Nghi Thức Tấn Phong Các Thầy Lê-Vi

Dâng các cỗ xe

1 Ngày ông Mô-sê hoàn thành việc dựng Nhà Tạm, ông xức dầu và thánh hiến nhà ấy cùng với tất cả các vật dụng, bàn thờ và mọi đồ dùng. Khi ông đã xức dầu và thánh hiến tất cả, 2 thì các người đứng đầu Ít-ra-en đã dâng lễ vật; họ là các gia trưởng, những người đứng đầu các chi tộc và phụ trách việc kiểm tra. 3 Lễ tiến họ dâng trước nhan Ðức Chúa là sáu cỗ xe kiệu và mười hai con bò, cứ hai người dâng một cỗ xe và mỗi người một con bò. Họ đem dâng những thứ đó trước Nhà Tạm. 4 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 5 "Ngươi hãy nhận các vật chúng dâng để sung vào việc phục dịch Lều Hội Ngộ; ngươi sẽ trao các thứ ấy cho các thầy Lê-vi, theo dịch vụ của mỗi người.” 6 Vậy ông Mô-sê đã nhận xe và bò, rồi trao cho các thầy Lê-vi: 7 hai cỗ xe và bốn con bò cho các con ông Ghéc-sôn theo dịch vụ của họ; 8 còn bốn cỗ xe và tám con bò kia, thì trao cho các con ông Mơ-ra-ri, theo dịch vụ của họ dưới quyền kiểm soát của ông I-tha-ma, con tư tế A-ha-ron. 9 Phần các con ông Cơ-hát, thì ông Mô-sê không cho gì cả, vì dịch vụ của họ là khiêng các đồ thờ trên vai.

Lễ vật trong nghi thức cung hiến

10 Các người đứng đầu còn tiến dâng lễ vật để cử hành nghi thức cung hiến bàn thờ, trong ngày bàn thờ được xức dầu. Các người đứng đầu tiến dâng lễ vật của họ lên trước bàn thờ. 11 Và Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Mỗi ngày, một trong số những người đứng đầu phải dâng lễ tiến để cử hành nghi thức cung hiến bàn thờ."

12 Người tiến dâng lễ vật ngày đầu tiên là ông Nác-sôn, con ông Am-mi-na-đáp, thuộc chi tộc Giu-đa. 13 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 14 một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 15 một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 16 một con dê đực làm lễ tạ tội; 17 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến mà ông Nác-sôn, con ông Am-mi-na-đáp, đã dâng.

18 Ngày thứ hai, người đem dâng lễ vật là ông Nơ-than-ên, con ông Xu-a, đứng đầu Ít-xa-kha. 19 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 20 một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 21 một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 22 một con dê đực làm lễ tạ tội; 23 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến mà ông Nơ-than-ên, con ông Xu-a, đã dâng.

24 Ngày thứ ba, người đem dâng lễ vật là ông Ê-li-áp, con ông Khe-lôn, đứng đầu con cái Dơ-vu-lun. 25 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng, - tính theo đơn vị đo lường của thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 26 một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 27 một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 28 một con dê đực làm lễ tạ tội; 29 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến ông Ê-li-áp, con ông Khe-lôn, đã dâng.

30 Ngày thứ bốn, người đem dâng lễ vật là ông Ê-li-xua, con ông Sơ-đê-ua, đứng đầu con cái Rưu-vên. 31 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 32 một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 33 một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 34 một con dê đực làm lễ tạ tội; 35 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến mà ông Ê-li-xua, con ông Sơ-đê-ua, đã dâng.

36 Ngày thứ năm, người đem dâng lễ vật là ông Sơ-lu-mi-ên, con ông Xu-ri-sát-đai, đứng đầu con cái Si-mê-ôn. 37 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 38 một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 39 một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 40 một con dê đực làm lễ tạ tội; 41 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến mà ông Sơ-lu-mi-en, con ông Xu-ri-sát-đai, đã dâng.

42 Ngày thứ sáu, người đem dâng lễ vật là ông En-gia-xáp, con ông Rơ-u-ên, đứng đầu con cái Gát. 43 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 44 một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 45 một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 46 một con dê đực làm lễ tạ tội; 47 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến mà ông En-gia-xáp, con ông Rơ-u-ên, đã dâng.

48 Ngày thứ bảy, người đem dâng lễ vật là ông Ê-li-sa-ma, con ông Am-mi-hút, đứng đầu con cái Ép-ra-im. 49 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 50 một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 51 một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 52 một con dê đực làm lễ tạ tội; 53 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến mà ông Ê-li-sa-ma, con ông Am-mi-hút, đã dâng.

54 Ngày thứ tám, người đem dâng lễ vật là ông Gam-li-ên, con ông Pơ-đa-xua, đứng đầu con cái Mơ-na-se. 55 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 56 một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 57 một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 58 một con dê đực làm lễ tạ tội; 59 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến mà ông Gam-li-ên, con ông Pơ-đa-xua, đã dâng.

60 Ngày thứ chín, người đem dâng lễ vật là ông A-vi-đan, con ông Ghít-ô-ni, đứng đầu con cái Ben-gia-min. 61 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 62 một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 63 một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 64 một con dê đực làm lễ tạ tội; 65 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến mà ông A-vi-đan, con ông Ghít-ô-ni, đã dâng.

66 Ngày thứ mười, người đem dâng lễ vật là ông A-khi-e-de, con ông Am-mi-sát-đai, đứng đầu con cái Ðan. 67 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng -tính theo đơn vị đo lường của thánh điện-, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 68 một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 69 một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 70 một con dê đực làm lễ tạ tội; 71 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến mà ông A-khi-e-de, con ông Am-mi-sát-đai, đã dâng.

72 Ngày thứ mười một, người đem dâng lễ vật là ông Pác-i-ên, con ông Oóc-ran, đứng đầu con cái A-se. 73 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 74 một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 75 một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 76 một con dê đực làm lễ tạ tội; 77 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến mà ông Pác-i-ên, con ông Oóc-ran, đã dâng.

78 Ngày thứ mười hai, người đem dâng lễ vật là ông A-khi-ra, con ông Ê-nan, đứng đầu con cái Náp-ta-li. 79 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 80 một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 81 một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 82 một con dê đực làm lễ tạ tội; 83 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến mà ông A-khi-ra, con ông Ê-nan, đã dâng.

84 Trên đây là những lễ vật các người đứng đầu Ít-ra-en dâng cúng để cử hành nghi thức cung hiến bàn thờ trong ngày bàn thờ được xức dầu: mười hai khay bằng bạc, mười hai bình rảy bằng bạc, mười hai chén bằng vàng. 85 Mỗi khay nặng một ký ba, và mỗi bình rảy là bảy lạng. Tất cả các vật dụng bằng bạc ấy cân nặng hai mươi bốn ký tính theo đơn vị đo lường của thánh điện. 86 Mười hai chén bằng vàng đựng đầy hương thơm, mỗi chén ba lượng vàng, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện. Tất cả các chén bằng vàng ấy cân nặng một ký hai.

87 Tổng số súc vật làm lễ toàn thiêu là: mười hai bò mộng, mười hai chiên đực, mười hai chiên con một tuổi cùng với lễ phẩm bằng ngũ cốc kèm theo, mười hai con dê đực làm lễ tạ tội. 88 Và tổng số súc vật làm lễ kỳ an là: hai mươi bốn bò mộng, sáu mươi chiên đực, sáu mươi dê đực, sáu mươi chiên con một tuổi. Ðó là những lễ vật dùng trong nghi thức cung hiến bàn thờ sau khi xức dầu bàn thờ.

89 Khi ông Mô-sê vào Lều Hội Ngộ để đàm đạo với Ðức Chúa, thì ông nghe có tiếng nói với ông từ phía trên nắp xá tội, tức là nắp đậy Hòm Bia Chứng Ước, từ giữa hai thần hộ giá. Và ông đã đàm đạo với Người.

Chương 08

Các ngọn đèn trên trụ đèn

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 2 "Hãy nói với A-ha-ron và bảo nó: khi thắp đèn lên thì bảy ngọn đèn phải toả sáng về phía trước trụ đèn.” 3 Ông A-ha-ron đã làm như thế, ông đã thắp đèn hướng về phía trước trụ đèn, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 4 Trụ đèn được làm như sau: làm bằng vàng gò, từ thân trụ cho tới các nhánh đều được gò. Ông Mô-sê đã làm trụ đèn theo mẫu Ðức Chúa đã cho ông thấy.

Các thầy Lê-vi được dâng cho Ðức Chúa

5 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 6 "Hãy đưa các thầy Lê-vi ra khỏi đám con cái Ít-ra-en mà thanh tẩy chúng. 7 Ngươi sẽ làm thế này để thanh tẩy chúng: Hãy rảy nước xá tội trên chúng; chúng sẽ cạo toàn thân, giặt sạch áo mà thanh tẩy mình. 8 Chúng sẽ lấy một con bò mộng và tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, còn ngươi thì sẽ lấy một con bò mộng nữa làm của lễ tạ tội.

9 Rồi ngươi sẽ đưa các thầy Lê-vi tới trước Lều Hội Ngộ và tập họp toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en lại. 10 Ngươi sẽ dẫn các thầy Lê-vi tới trước nhan Ðức Chúa, và con cái Ít-ra-en sẽ đặt tay trên chúng. 11 A-ha-ron sẽ thay mặt con cái Ít-ra-en làm nghi thức tiến dâng các thầy Lê-vi lên trước nhan Ðức Chúa, và chúng sẽ sung vào việc phục vụ Ðức Chúa.

12 Sau đó các thầy Lê-vi sẽ đặt tay lên đầu các con bò mộng. Ngươi sẽ dâng một con làm của lễ tạ tội, và một con làm của lễ toàn thiêu dâng Ðức Chúa để xin ơn xá tội cho các thầy Lê-vi. 13 Ngươi sẽ đặt các thầy Lê-vi đứng trước mặt A-ha-ron và các con ông, rồi tiến dâng chúng cho Ðức Chúa, theo nghi thức. 14 Như thế, ngươi sẽ tách rời các thầy Lê-vi ra khỏi con cái Ít-ra-en: chúng sẽ thuộc về Ta. 15 Sau đó các thầy Lê-vi sẽ vào phục vụ Lều Hội Ngộ.

16 Thật vậy, chúng được dâng hiến, được dâng hiến cho Ta, từ giữa con cái Ít-ra-en. Ta đã chọn chúng làm của riêng Ta, thay thế tất cả các con đầu lòng, các trưởng nam của con cái Ít-ra-en. 17 Thật vậy, tất cả các con đầu lòng trong số con cái Ít-ra-en, của loài người cũng như của súc vật đều thuộc về Ta. Ngày Ta đánh phạt tất cả các con đầu lòng trong đất Ai-cập, Ta đã thánh hiến chúng cho Ta, 18 và Ta đã nhận các thầy Lê-vi thay thế tất cả các con đầu lòng trong con cái Ít-ra-en. 19 Trong số con cái Ít-ra-en, Ta đã trao các thầy Lê-vi cho A-ha-ron và cho con cái nó, như những người được dâng hiến để sung vào việc phục dịch của con cái Ít-ra-en trong Lều Hội Ngộ, và để cử hành lễ xá tội cho con cái Ít-ra-en; như thế trong con cái Ít-ra-en sẽ không xảy ra tai hoạ phạt kẻ tới gần nơi thánh."

20 Ðối với các thầy Lê-vi, ông Mô-sê và ông A-ha-ron cùng toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en đã thi hành đúng mọi điều Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê về họ; con cái Ít-ra-en đã thi hành như thế đối với họ. 21 Các thầy Lê-vi đã thanh tẩy mình và giặt áo; ông A-ha-ron đã cử hành nghi thức trên dâng họ trước nhan Ðức Chúa, và đã làm lễ xá tội cho họ để thanh tẩy họ. 22 Sau đó các thầy Lê-vi đã vào làm việc phục dịch trong Lều Hội Ngộ, trước mặt ông A-ha-ron và các con. Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê thế nào về các thầy Lê-vi, thì người ta đã thi hành như thế đối với họ.

Thời gian phục vụ của các thầy Lê-vi

23 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 24 "Ðây là những điều liên quan tới các thầy Lê-vi. Từ hai mươi lăm tuổi trở lên, mỗi người phải vào thi hành nghĩa vụ phục dịch Lều Hội Ngộ, 25 và từ năm mươi tuổi thì được về hưu, không phải phục dịch nữa. 26 Người ấy sẽ giúp anh em chu toàn nhiệm vụ trong Lều Hội Ngộ, còn nhiệm vụ của mình thì không phải thi hành nữa. Ngươi sẽ bố trí công việc cho các thầy Lê-vi như thế."

Chương 09

IV. Lễ Vượt Qua Và Cuộc Lên Ðường

Ngày ăn mừng lễ Vượt Qua

1 Tháng giêng năm thứ hai từ khi ra khỏi đất Ai-cập, Ðức Chúa phán với ông Mô-sê trong sa mạc Xi-nai rằng: 2 "Con cái Ít-ra-en phải mừng lễ Vượt Qua vào thời gian quy định. 3 Ngày mười bốn tháng này, lúc chập tối, các ngươi sẽ mừng lễ ấy vào giờ quy định, các ngươi sẽ cứ điều luật và tục lệ mà cử hành lễ ấy."

4 Vậy ông Mô-sê đã nói với con cái Ít-ra-en phải cử hành lễ Vượt Qua; 5 và họ đã cử hành lễ Vượt Qua vào tháng giêng, ngày mười bốn, lúc chập tối, trong sa mạc Xi-nai. Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê thế nào, thì con cái Ít-ra-en đã thi hành như thế.

Trường hợp đặc biệt

6 Có những người nhiễm uế vì đụng đến xác chết, không thể mừng lễ Vượt Qua ngày hôm ấy. Ngay hôm ấy, họ đã đến gặp ông Mô-sê và ông A-ha-ron, 7 và thưa với các ông rằng: "Chúng tôi bị nhiễm uế vì đụng đến xác chết, tại sao chúng tôi bị cấm không được dâng lễ tiến lên Ðức Chúa vào thời gian quy định, cùng với con cái Ít-ra-en?” 8 Ông Mô-sê nói với họ: "Anh em cứ đứng đó, để tôi đi thỉnh ý Ðức Chúa xem Người có dạy gì về anh em."

9 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 10 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en:

11 Tháng thứ hai, ngày mười bốn lúc chập tối, chúng sẽ mừng lễ đó. Chúng sẽ ăn chiên Vượt Qua với bánh không men và rau đắng. 12 Chúng sẽ không để gì thừa lại cho đến sáng hôm sau, và cũng không được làm giập gẫy một xương nào của nó; chúng sẽ mừng lễ Vượt Qua theo đúng mọi điều luật về lễ ấy. 13 Còn người nào vẫn trong sạch, lại không đi xa, mà bỏ không mừng lễ Vượt Qua, thì người đó sẽ bị khai trừ khỏi đồng bào mình, vì nó đã không dâng lễ tiến lên Ðức Chúa vào thời đã quy định; nó phải mang lấy tội mình.

14 Nếu một ngoài kiều cư ngụ với các ngươi, mà mừng lễ Vượt Qua kính Ðức Chúa, thì nó cũng phải cứ theo điều luật và tục lệ về lễ Vượt Qua mà cử hành; chỉ có một điều luật chung, cho các ngươi, ngoại kiều cũng như người bản xứ."

Cột mây (Xh 40:34-38)

15 Trong ngày dựng Nhà Tạm, có mây che phủ Nhà Tạm và Lều Chứng Ước, nhưng đêm đến thì trông như lửa trên Nhà Tạm cho tới sáng. 16 Cứ xảy ra liên tục như thế: mây che phủ Nhà Tạm ban ngày, đêm thì trông như lửa.

17 Mỗi lần mây bốc lên cao khỏi Lều, thì con cái Ít-ra-en nhổ trại, và nơi nào mây đậu lại, thì ở đó con cái Ít-ra-en đóng trại. 18 Cứ lệnh Ðức Chúa mà con cái Ít-ra-en lên đường, và cứ lệnh Ðức Chúa mà họ đóng trại; bao lâu mây đậu lại trên Nhà Tạm, thì họ tiếp tục đóng trại. 19 Khi mây đậu trên Nhà Tạm lâu ngày, thì con cái Ít-ra-en giữ y như điều Ðức Chúa truyền và không nhổ trại lên đường. 20 Có khi mây chỉ đậu ít ngày trên Nhà Tạm, thì họ cũng cứ lệnh Ðức Chúa mà đóng trại, và cứ lệnh Ðức Chúa mà nhổ trại lên đường. 21 Có khi mây đậu lại từ chiều tối tới sáng, và ban sáng khi mây bốc lên, thì lúc đó họ nhổ trại lên đường. 22 Nếu mây lưu lại trên Nhà Tạm hai ngày, hoặc một tháng hay mấy ngày thôi, thì con cái Ít-ra-en cũng cứ theo đó mà đóng trại, chứ không nhổ trại lên đường; rồi khi mây bốc lên, họ mới nhổ trại lên đường. 23 Cứ lệnh Ðức Chúa họ đóng trại, và cứ lệnh Ðức Chúa họ nhổ trại; Ðức Chúa buộc giữ thế nào, thì họ tuân giữ như thế, theo lệnh Ðức Chúa truyền qua ông Mô-sê.

Chương 10

Kèn bạc

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 2 "Ngươi hãy làm hai chiếc kèn, làm bằng bạc gò, để dùng mà triệu tập cộng đồng và nhổ trại. 3 Khi các kèn thổi, thì toàn thể cộng đồng tập họp lại bên ngươi, tại cửa Lều Hội Ngộ. 4 Nếu thổi một chiếc, thì các kỳ mục, những người đứng đầu các thị tộc Ít-ra-en, sẽ tập họp lại bên ngươi.

5 Khi các ngươi thổi kèn báo động, thì các trại nằm ở phía đông sẽ lên đường. 6 Khi các ngươi thổi kèn báo động lần thứ hai, thì các trại ở phía nam sẽ lên đường. Kèn báo động sẽ nổi lên mỗi khi phải nhổ trại lên đường. 7 Còn khi triệu tập đại hội, thì thổi kèn, mà không được báo động. 8 Các con trai của A-ha-ron, là các tư tế, sẽ thổi kèn. Và đó là điều luật vĩnh viễn cho các ngươi và cho dòng dõi các ngươi.

9 Khi các ngươi xuất trận, trong đất nước các ngươi, chống lại kẻ thù tấn công, các ngươi sẽ thổi kèn báo động, và Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, sẽ nhớ đến các ngươi và cứu các ngươi khỏi quân thù. 10 Trong ngày vui mừng của các ngươi, cũng như trong các đại lễ đã quy định, và các tuần trăng mới, các ngươi sẽ thổi kèn, khi dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an. Ðiều đó sẽ làm cho Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, nhớ đến các ngươi. Chính Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi."

Thứ tự lên đường

11 Năm thứ hai, tháng hai, ngày hai mươi trong tháng, mây bốc lên khỏi Nhà Tạm Chứng Ước, 12 và từ sa mạc Xi-nai, con cái Ít-ra-en lên đường theo thứ tự. Rồi cột mây đậu lại trong sa mạc Pa-ran.

13 Họ đã lên đường lần đầu tiên theo lệnh Ðức Chúa truyền qua ông Mô-sê. 14 Trước hết là cờ hiệu doanh trại con cháu Giu-đa lên đường theo các đoàn quân của họ, dưới quyền chỉ huy của ông Nác-sôn, con ông Am-mi-na-đáp. 15 Ðoàn quân chi tộc con cháu Ít-xa-kha dưới quyền chỉ huy của ông Nơ-than-ên, con ông Xu-a. 16 Ðoàn quân chi tộc con cháu Dơ-vu-lun dưới quyền chỉ huy của ông Ê-li-áp, con ông Khe-lôn.

17 Khi tháo Nhà Tạm xuống, thì con cái Ghéc-sôn sẽ lên đường, và con cái Mơ-ra-ri sẽ khiêng Nhà Tạm.

18 Cờ hiệu doanh trại Rưu-vên đã lên đường theo các đoàn quân của họ và dưới quyền chỉ huy của ông Ê-li-xua, con ông Sơ-đê-ua. 19 Ðoàn quân chi tộc con cháu Si-mê-ôn dưới quyền chỉ huy của ông Sơ-lu-mi-ên, con ông Xu-ri-sát-đai. 20 Ðoàn quân chi tộc con cháu Gát dưới quyền chỉ huy của ông En-gia-xáp, con ông Rơ-u-ên.

21 Ðến lượt các người Cơ-hát lên đường, mang theo vật dụng thánh, và Nhà Tạm phải được dựng lên trước khi họ tới.

22 Tiếp đó là cờ hiệu doanh trại con cháu Ép-ra-im lên đường theo các đoàn quân của họ dưới quyền chỉ huy của ông Ê-li-sa-ma, con ông Am-mi-hút. 23 Ðoàn quân chi tộc con cháu Mơ-na-se dưới quyền chỉ huy của ông Gam-li-ên, con ông Pơ-đa-xua. 24 Ðoàn quân chi tộc Ben-gia-min dưới quyền chỉ huy của ông A-vi-đan, con ông Ghít-ô-ni.

25 Sau cùng, làm hậu quân cho tất cả các doanh trại, cờ hiệu doanh trại con cháu Ðan lên đường, theo các đoàn quân của họ dưới quyền chỉ huy của ông A-khi-e-de, con ông Am-mi-sát-đai. 26 Ðoàn quân chi tộc con cháu A-se dưới quyền chỉ huy của ông Pác-i-ên, con ông Oóc-ran. 27 Ðoàn quân chi tộc con cháu Náp-ta-li dưới quyền chỉ huy của ông A-khi-ra, con ông Ê-nan.

28 Ðó là thứ tự các đoàn quân con cái Ít-ra-en khi họ lên đường.

Ông Mô-sê đề nghị với ông Khô-váp

29 Ông Mô-sê nói với nhạc phụ mình là ông Khô-váp, con ông Rơ-u-ên, người Ma-đi-an: "Chúng tôi đang trên đường đi tới nơi mà Ðức Chúa đã hứa: "Ta sẽ ban đất ấy cho các ngươi. Mời cha đi với chúng tôi, chúng tôi sẽ trọng đãi cha, vì Ðức Chúa đã hứa ban phúc lộc cho Ít-ra-en.” 30 Ông Khô-váp trả lời: "Không được, tôi phải về quê cha đất tổ tôi.” 31 Ông Mô-sê nói: "Xin cha đừng bỏ chúng tôi; bởi vì cha biết những nơi chúng tôi phải đóng trại trong sa mạc, cha sẽ là đôi mắt của chúng tôi. 32 Và nếu cha cùng đi với chúng tôi, thì chính phúc lộc Ðức Chúa ban cho chúng tôi, chúng tôi sẽ chia sẻ với cha."

Cuộc lên đường

33 Họ khởi hành từ núi của Ðức Chúa, đi bộ ba ngày; Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa đi trước họ suốt ba ngày, để tìm chỗ cho họ đóng trại.

34 Và mây của Ðức Chúa che phủ họ ban ngày, lúc họ nhổ trại lên đường.

35 Khi Hòm Bia khởi hành, ông Mô-sê lên tiếng:

"Lạy Ðức Chúa, xin đứng lên cho địch thù Ngài tán loạn,

và cho kẻ ghét Ngài phải chạy trốn Thánh Nhan! "

36 Và lúc Hòm Bia dừng lại, ông nói:

"Lạy Ðức Chúa, xin dừng lại,

ngự giữa trăm họ Ít-ra-en!"

Chương 11

V. Những Chặng Ðường Trong Sa Mạc

Táp-ê-ra

1 Thế rồi dân bắt đầu kêu ca thấu tai Ðức Chúa vì những khổ cực của họ, và Ðức Chúa đã nghe được. Cơn thịnh nộ của Người bừng lên và lửa của Ðức Chúa bốc cháy nơi họ ở và thiêu huỷ đầu trại. 2 Dân liền kêu cứu ông Mô-sê, ông Mô-sê chuyển cầu lên Ðức Chúa, và lửa đã tắt. 3 Người ta đặt tên cho nơi đó là Táp-ê-ra, vì lửa của Ðức Chúa đã bốc cháy nơi họ ở.

Kíp-rốt Ha Ta-a-va. Dân ta thán.

4 Ðám dân ô hợp sống giữa dân Ít-ra-en bắt đầu thèm ăn, và cả con cái Ít-ra-en cũng khóc lóc mà nói: "Ai sẽ cho chúng ta có thịt ăn đây? 5 Nhớ thuở nào ta ăn cá bên Ai-cập mà không phải trả tiền, rồi nào dưa gang, dưa bở, nào hẹ, nào hành, nào tỏi. 6 Còn bây giờ đời ta tàn rồi; mọi thứ đó hết sạch, chỉ còn thấy man-na thôi."

7 Man-na như hạt ngò và trông nó như nhựa hương. 8 Dân cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu bánh, và mùi vị của nó như mùi vị bánh chiên dầu. 9 Ðêm về sương rơi trên doanh trại, thì man-na cũng rơi xuống.

Ông Mô-sê can thiệp

10 Ông Mô-sê nghe thấy dân tụm năm tụm bảy theo thị tộc mà kêu khóc tại cửa lều của mình. Còn Ðức Chúa thì bừng bừng nổi giận. Ông lấy làm khổ tâm 11 và thưa với Ðức Chúa: "Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con lại không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con? 12 Có phải con đã cưu mang tất cả dân này không? Có phải con đã sinh ra nó không mà Ngài lại bảo con: "Hãy bồng nó vào lòng, như vú nuôi bồng trẻ thơ, mà đem vào miền đất Ta đã thề hứa với cha ông chúng? 13 Con lấy đâu ra thịt cho cả dân này ăn, khi chúng khóc lóc đòi con: "Cho chúng tôi thịt để chúng tôi ăn? 14 Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. 15 Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn - ấy là nếu con đẹp lòng Ngài! Ðừng để con thấy mình phải khổ nữa!"

Ðức Chúa trả lời

16 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy tập họp lại cho Ta bảy mươi người trong số kỳ mục Ít-ra-en, những kẻ ngươi biết là kỳ mục và ký lục trong dân. Ngươi sẽ đem chúng đến Lều Hội Ngộ, để chúng đứng đó với ngươi. 17 Ta sẽ xuống đó nói chuyện với ngươi. Ta sẽ lấy một phần Thần Khí đang ngự trên ngươi mà đặt trên chúng, chúng sẽ cùng với ngươi gánh vác dân này, và ngươi sẽ không còn phải vác một mình nữa."

18 Ngươi hãy nói với dân: "Anh em hãy thanh tẩy mình để chuẩn bị cho ngày mai và anh em sẽ được ăn thịt. Phải, anh em đã kêu khóc thấu tai Ðức Chúa rằng: "Ai sẽ cho chúng ta có thịt ăn đây? Bên Ai-cập, chúng ta sướng biết mấy! Ðức Chúa sẽ ban thịt cho anh em, và anh em sẽ được ăn. 19 Anh em sẽ ăn, không phải một ngày, hai ngày, năm mười ngày, hay hai mươi ngày mà thôi, 20 nhưng suốt cả tháng, cho đến khi thịt lòi ra lỗ mũi làm anh em phát ngấy, vì anh em đã khinh thường Ðức Chúa, Ðấng ngự giữa anh em, và đã kêu khóc trước nhan Người rằng: Chúng tôi ra khỏi Ai-cập để làm gì?"

21 Ông Mô-sê lại nói: "Con ở giữa một dân có đến sáu trăm ngàn bộ binh, mà Ðức Chúa lại bảo: Ta sẽ ban thịt cho chúng, và chúng sẽ ăn suốt cả tháng. 22 Dù có giết chiên giết bò, liệu có đủ cho họ không? Dù có bắt hết cá dưới biển, liệu có đủ cho họ không?” 23 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ðức Chúa mà chịu bó tay sao? Bây giờ ngươi sẽ thấy lời Ta phán có đúng hay không."

Ðức Chúa ban Thần Khí

24 Ông Mô-sê ra nói lại với dân những lời của Ðức Chúa. Ông tập họp bảy mươi người trong số kỳ mục của dân và đặt họ đứng chung quanh Lều. 25 Ðức Chúa ngự xuống giữa đám mây và nói chuyện với ông Mô-sê. Người lấy một phần Thần Khí đang đậu trên ông mà đặt trên bảy mươi kỳ mục. Khi Thần Khí đậu xuống trên các ông thì các ông bắt đầu phát ngôn, nhưng việc đó không tái diễn nữa.

26 Bấy giờ có hai người ở lại trong trại, một người tên là En-đát, một người tên là Mê-đát. Các ông đã được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng đã không đến Lều. Thần Khí đậu xuống trên các ông và các ông bắt đầu phát ngôn trong trại. 27 Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Mô-sê rằng: "Ông En-đát và ông Mê-đát đang phát ngôn trong trại!” 28 Ông Giô-suê con ông Nun, từng theo hầu ông Mô-sê từ hồi còn nhỏ, lên tiếng nói với ông Mô-sê: "Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ!” 29 Nhưng ông Mô-sê trả lời: "Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Ðức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!" Vì Ðức Chúa đã ban Thần Khí của Người trên họ. 30 Ông Mô-sê đã vào trại cùng với các kỳ mục Ít-ra-en.

Chim cút

31 Một luồng gió do Ðức Chúa khơi dậy đã lùa chim cút từ phía biển tới, và thổi chúng dạt xuống trại thành một đường dài đi một ngày mới hết, ở bốn phía chung quanh trại, dày tới một thước trên mặt đất. 32 Dân bận rộn lượm chim cút suốt ngày suốt đêm ấy và cả ngày hôm sau; người lượm ít nhất cũng được hai trăm thùng, và họ đem phơi chung quanh trại. 33 Thịt còn đang ở giữa hai hàm răng, chưa kịp nhai thì cơn thịnh nộ của Ðức Chúa đã bừng lên trút xuống dân và Ðức Chúa đã đánh phạt dân dữ dội.

34 Và người ta đã đặt tên cho nơi đó là Kíp-rốt Ha Ta-a-va, vì ở đó họ đã chôn đám dân thèm ăn.

35 Từ Kíp-rốt Ha Ta-a-va, dân chúng đã nhổ trại lên đường đi Kha-xê-rốt và ở lại đó.

Chương 12

Bà Mi-ri-am và ông A-ha-ron phản đối ông Mô-sê

1 Bà Mi-ri-am và ông A-ha-ron phản đối ông Mô-sê về người đàn bà xứ Cút mà ông đã lấy, vì ông đã lấy một người đàn bà xứ Cút làm vợ. 2 Họ nói: "Ðức Chúa chỉ phán với một mình Mô-sê sao? Người đã chẳng phán với cả chúng ta nữa ư?" Và Ðức Chúa nghe được. 3 Ông Mô-sê là người hiền lành nhất đời.

Thiên Chúa trả lời

4 Ðột nhiên Ðức Chúa phán với ông Mô-sê, ông A-ha-ron và bà Mi-ri-am: "Cả ba hãy đi ra Lều Hội Ngộ!" Và ba người đã ra. 5 Ðức Chúa ngự xuống giữa đám mây và dừng lại ở cửa Lều. Người gọi ông A-ha-ron và bà Mi-ri-am, và hai người đi ra. 6 Người phán: "Hãy nghe Ta nói đây!

Nếu trong các ngươi có ai là ngôn sứ,

thì Ta, Ðức Chúa, Ta sẽ tỏ mình ra cho nó trong thị kiến,

hoặc sẽ phán với nó trong giấc mộng.

7 Nhưng với Mô-sê tôi tớ Ta thì khác:

tất cả nhà Ta, Ta đã trao cho nó.

8 Ta nói với nó trực diện, nhãn tiền, chứ không nói bí ẩn,

và hình dáng Ðức Chúa, nó được ngắm nhìn.

Vậy tại sao các ngươi không sợ nói động đến Mô-sê, tôi tớ Ta?"

9 Ðức Chúa nổi cơn thịnh nộ với họ mà bỏ đi. 10 Khi mây bốc lên khỏi Lều, thì bà Mi-ri-am bị cùi, mốc thếch như tuyết; ông A-ha-ron quay nhìn bà Mi-ri-am, thì kìa bà đã bị cùi.

Lời chuyển cầu của ông A-ha-ron và ông Mô-sê

11 Ông A-ha-ron nói với ông Mô-sê: "Lỗi tại tôi, thưa ngài, nhưng xin ngài đừng kết tội chúng tôi; chúng tôi đã dại dột mà phạm lỗi và đáng tội. 12 Xin đừng để cho cô ấy nên như đứa chết yểu, vừa lọt lòng mẹ đã bị ăn mòn mất một nửa phần thịt mình rồi."

13 Ông Mô-sê kêu cầu lên Ðức Chúa rằng: "Ôi, lạy Chúa, xin chữa lành cô ấy!” 14 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Nếu cha nó phỉ nhổ vào mặt nó, thì nó không phải nhục nhã ê chề bảy ngày liền sao? Nó vẫn phải biệt cư ở ngoài trại bảy ngày rồi mới được vào lại."

15 Vậy bà Mi-ri-am đã bị biệt cư ở ngoài trại bảy ngày liền, trong khi đó dân chúng không lên đường cho tới khi bà Mi-ri-am được vào lại. 16 Sau đó dân chúng lên đường rời Kha-xê-rốt và đóng trại trong sa mạc Pa-ran.

Chương 13

Do thám đất Ca-na-an (Ðnl 1:19-24)

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Ngươi hãy sai người đi do thám đất Ca-na-an, đất mà Ta sẽ ban cho con cái Ít-ra-en. Các ngươi sẽ sai đi mỗi chi tộc một người và tất cả phải là kỳ mục trong dân."

3 Vậy từ sa mạc Pa-ran, ông Mô-sê đã sai họ đi, theo lệnh Ðức Chúa truyền. Tất cả họ đều là những người đứng đầu trong con cái Ít-ra-en. 4 Ðây là danh sách họ:

Thuộc chi tộc Rưu-vên, có ông Sam-mu-a, con ông Dắc-cua.

5 Thuộc chi tộc Si-mê-ôn, có ông Sa-phát, con ông Khô-ri.

6 Thuộc chi tộc Giu-đa, có ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne.

7 Thuộc chi tộc Ít-xa-kha, có ông Gích-an, con ông Giô-xép.

8 Thuộc chi tộc Ép-ra-im, có ông Hô-sê-a, con ông Nun.

9 Thuộc chi tộc Ben-gia-min, có ông Pan-ti, con ông Ra-phu.

10 Thuộc chi tộc Dơ-vu-lun, có ông Gát-đi-en, con ông Xô-đi.

11 Thuộc chi tộc Giu-se, ngành Mơ-na-se, có ông Gát-đi, con ông Xu-xi.

12 Thuộc chi tộc Ðan, có ông Am-mi-ên, con ông Gơ-ma-li.

13 Thuộc chi tộc A-se, có ông Xơ-tua, con ông Mi-kha-ên.

14 Thuộc chi tộc Náp-ta-li, có ông Nác-bi, con ông Vóp-xi.

15 Thuộc chi tộc Gát, có ông Gơ-u-ên, con ông Ma-khi.

16 Ðó là tên những người ông Mô-sê sai đi do thám đất. Rồi ông Mô-sê đặt tên cho Hô-sê-a, con ông Nun, là Giô-suê.

17 Ông Mô-sê sai họ đi do thám đất Ca-na-an. Ông bảo họ: "Anh em hãy qua miền Ne-ghép mà lên, lên miền núi. 18 Anh em sẽ xem đất, xem nó thế nào, dân ở đó mạnh hay yếu, ít hay nhiều, 19 đất họ ở tốt hay xấu, thành thị của họ là lều trại hay đồn luỹ, 20 đất đai màu mỡ hay cằn cỗi, có cây cối hay không. Anh em hãy can đảm, và lấy ít hoa trái miền đó đem về."

21 Họ đi lên và do thám đất, từ sa mạc Xin đến Rơ-khốp, trên đường vào Cửa Ải Kha-mát. 22 Họ qua miền Ne-ghép đi lên và tới tận Khép-rôn, ở đó có A-khi-man, Sê-sai và Tan-mai là con cháu của A-nác. Khép-rôn đã được xây bảy năm trước Xô-an bên Ai-cập. 23 Họ vào đến thung lũng Ét-côn, ở đó họ chặt một nhành nho và một chùm nho, rồi hai người dùng sào mà khiêng, họ cũng lấy cả lựu và vả. 24 Người ta gọi nơi ấy là thung lũng Ét-côn, vì chùm nho mà con cái Ít-ra-en đã hái ở đó.

Báo cáo của đội do thám (Ðnl 1:25-28)

25 Sau bốn mươi ngày do thám đất, họ trở về. 26 Họ đến gặp ông Mô-sê, ông A-ha-ron và toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, tại Ca-đê trong sa mạc Pa-ran. Họ báo cáo với hai ông và toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, và cho những người đó xem hoa trái miền ấy.

27 Họ thuật lại với ông Mô-sê rằng: "Chúng tôi đã vào miền đất ông sai chúng tôi đến. Ðúng là miền đất tràn trề sữa và mật, và đây là hoa trái miền ấy. 28 Thế nhưng dân cư miền ấy thì mạnh, thành thị lại kiên cố và rộng lớn lắm; ở đó chúng tôi còn thấy cả con cháu A-nác. 29 Có người A-ma-lếch ở miền Ne-ghép, người Khết, người Giơ-vút và người E-mô-ri ở miền núi, còn người Ca-na-an thì ở bờ biển và dọc sông Gio-đan."

30 Bấy giờ ông Ca-lếp truyền cho dân đang phản đối ông Mô-sê phải im lặng, ông nói: "Ta cứ lên chiếm miền ấy, vì chắc chắn ta có thể thắng được.” 31 Những người đã cùng lên với ông đáp lại: "Ta không thể lên đánh dân ấy, vì họ mạnh hơn ta.” 32 Trước mặt con cái Ít-ra-en, họ bắt đầu chê bai miền đất họ đã do thám, họ nói: "Miền đất chúng ta đã đi qua để do thám là đất nuốt những người ở đó, và tất cả những người chúng tôi thấy ở đó đều là những người cao lớn. 33 Ở đó chúng tôi trông thấy những người khổng lồ, con cháu của A-nác thuộc giống người khổng lồ. Chúng tôi thấy mình chỉ như châu chấu, và họ cũng coi chúng tôi như vậy."

Chương 14

Ít-ra-en nổi loạn

1 Toàn thể cộng đồng lớn tiếng kêu la, dân chúng khóc lóc cả đêm ấy. 2 Tất cả con cái Ít-ra-en đều kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron, toàn thể cộng đồng nói với các ông: "Phải chi chúng tôi chết ở bên đất Ai-cập, hoặc phải chi chúng tôi chết trong sa mạc này cho xong! 3 Sao Ðức Chúa lại đem chúng tôi vào đất này để chúng tôi ngã gục dưới lưỡi gươm, để vợ con chúng tôi bị giặc bắt? Chúng tôi trở về Ai-cập có tốt hơn không?” 4 Họ bảo nhau: "Chúng ta hãy đặt lên một người cầm đầu và trở về Ai-cập."

5 Trước mặt toàn thể đại hội của cộng đồng con cái Ít-ra-en, ông Mô-sê và ông A-ha-ron sấp mặt xuống đất. 6 Ông Giô-suê, con ông Nun, và ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, là những người đã tham dự cuộc do thám đất, xé áo mình ra 7 và nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en: "Miền đất chúng tôi đã đi qua để do thám là một đất tốt thật là tốt! 8 Nếu Ðức Chúa thương ta, Người sẽ đưa ta vào đất ấy và ban đất ấy cho ta, một đất tràn trề sữa và mật. 9 Vậy anh em đừng nổi loạn chống Ðức Chúa, và đừng sợ dân đất ấy! Chúng ta sẽ nuốt chửng chúng. Thần hộ mệnh chúng đã lìa xa chúng, còn Ðức Chúa thì ở với ta. Ðừng sợ chúng!"

Cơn thịnh nộ của ÐỨC CHÚA và lời chuyển cầu của ông Mô-sê

10 Cả cộng đồng đang bàn chuyện ném đá các ông, thì vinh quang Ðức Chúa xuất hiện trong Lều Hội Ngộ trước mắt toàn thể con cái Ít-ra-en. 11 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Dân này còn khinh thị Ta đến bao giờ nữa? Cho đến bao giờ, chúng không chịu tin vào Ta, mặc dầu Ta đã làm bấy nhiêu dấu lạ ở giữa chúng? 12 Ta sẽ dùng ôn dịch mà đánh phạt chúng, sẽ không cho chúng hưởng gia nghiệp, rồi Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân tộc lớn và mạnh hơn chúng."

13 Ông Mô-sê thưa với Ðức Chúa: "Người Ai-cập đã nghe biết rằng Ngài đã dùng sức mạnh của Ngài mà đưa dân này ra khỏi đất chúng. 14 Và chúng đã kể lại việc đó cho cư dân đất này. Dân đất này đã nghe biết rằng chính Ngài, Ðức Chúa, Ngài ở giữa dân này, chính Ngài, Ðức Chúa, Ngài cho họ được thấy Ngài tận mắt, rằng đám mây của Ngài dừng trên họ, và Ngài đi trước họ ban ngày trong cột mây và ban đêm trong cột lửa. 15 Thế mà Ðức Chúa lại muốn giết cả dân này như giết một người! Các nước đã từng nghe danh tiếng Ngài sẽ nói: 16 "Chính bởi vì Ðức Chúa đã không thể đem dân ấy vào đất Người đã thề ban cho chúng, mà Người đã hạ sát chúng trong sa mạc. 17 Vậy giờ đây, xin Chúa Thượng của con biểu dương sức mạnh, như Ngài đã phán: 18 "Ðức Chúa chậm giận và giàu ân nghĩa, chịu đựng lỗi lầm và tội ác, nhưng không dung tha điều gì; phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông. 19 Vậy xin Ngài tha thứ lỗi lầm của dân này theo lượng cả ân nghĩa của Ngài, như Ngài đã từng chịu đựng dân này từ Ai-cập cho đến đây."

Tha thứ và trừng phạt

20 Ðức Chúa đáp: "Ta tha thứ như lời ngươi xin. 21 Tuy nhiên, Ta lấy sự sống của Ta, lấy vinh quang của Ta là Ðức Chúa, vinh quang tràn đầy cõi đất, mà thề: 22 Không một ai trong những người đã thấy vinh quang của Ta và những dấu lạ Ta đã làm bên Ai-cập và trong sa mạc, nhưng đã thách thức Ta cả mười lần và đã không chịu nghe theo tiếng Ta, 23 không một ai trong những người ấy sẽ được thấy miền đất Ta đã thề hứa với cha ông chúng, tất cả những ai khinh thị Ta sẽ không được thấy đất ấy. 24 Nhưng tôi trung của Ta là Ca-lếp, vì được một thần khí khác thúc đẩy, và đã một lòng theo Ta, thì Ta sẽ đưa nó vào đất nó đã đi tới, và dòng dõi nó sẽ chiếm hữu đất ấy. 25 Vì người A-ma-lếch và người Ca-na-an ở vùng đồng bằng, nên ngày mai các ngươi hãy quay trở lại, và theo hướng Biển Sậy mà vào sa mạc."

26 Ðức Chúa lại phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: 27 "Cho tới bao giờ cái cộng đồng hư đốn này cứ tiếp tục lẩm bẩm kêu trách Ta? Ta đã nghe thấy toàn những lời cằn nhằn, đám con cái Ít-ra-en này cứ lẩm bẩm chống Ta. 28 Ngươi hãy nói với chúng: Ta thề -sấm của Ðức Chúa - Ta sẽ xử với các ngươi như lời các ngươi kêu thấu tai Ta. 29 Trong sa mạc này, thây các ngươi sẽ ngã gục: trong các ngươi, tất cả những người đã được kiểm tra đăng ký, từ hai mươi tuổi trở lên, mà đã cằn nhằn chống Ta, 30 không một ai sẽ được vào đất mà Ta đã giơ tay thề sẽ đưa các ngươi vào cư ngụ, ngoại trừ Ca-lếp, con của Giơ-phun-ne, và Giô-suê, con của Nun. 31 Còn các trẻ con mà các ngươi cho rằng sẽ bị bắt làm chiến lợi phẩm, thì Ta sẽ đưa chúng vào, và chúng sẽ được biết đất các ngươi đã chê bỏ. 32 Còn các ngươi, thây các ngươi sẽ ngã gục trong sa mạc này. 33 Và con cái các ngươi sẽ đi lang thang trong sa mạc bốn mươi năm, chúng sẽ mang lấy tội phản bội của các ngươi cho tới khi tất cả các ngươi thành thây ma trong sa mạc. 34 Theo số ngày các ngươi đã đi do thám đất - bốn mươi ngày - mỗi ngày tính là một năm, các ngươi sẽ phải gánh chịu tội ác của các ngươi bốn mươi năm, và các ngươi sẽ biết Ta trừng phạt những kẻ bất tuân như thế nào.

35 Ta, Ðức Chúa, Ta đã phán; Ta quyết sẽ thi hành như thế cho toàn thể cộng đồng hư đốn này đã cấu kết với nhau chống lại Ta. Trong sa mạc này chúng sẽ bị tiêu diệt và sẽ chết hết."

36 Những người đã được ông Mô-sê sai đi do thám đất, lúc trở về, đã làm cho cả cộng đồng lẩm bẩm kêu trách ông, vì những lời xuyên tạc về đất ấy, 37 những người đó đã bị phạt chết ngay trước nhan Ðức Chúa, vì manh tâm xuyên tạc về đất ấy. 38 Chỉ có Giô-suê, con ông Nun, và Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, trong số các người đi do thám đất, là còn sống.

Dân Ít-ra-en thất bại (Ðnl 1:41-46)

39 Khi ông Mô-sê thuật lại các những lời ấy cho toàn thể con cái Ít-ra-en, thì dân chúng đã kêu khóc thảm thiết. 40 Thế rồi họ dậy sớm, kéo nhau lên đỉnh núi, và nói: "Này chúng tôi lên nơi mà Ðức Chúa đã nói, vì chúng tôi đã phạm tội.” 41 Ông Mô-sê trả lời: "Sao anh em lại trái lệnh Ðức Chúa như thế? Việc này sẽ không thành công. 42 Ðừng lên, Ðức Chúa không ở với anh em đâu: anh em sẽ bị quân thù đánh bại. 43 Phải, quân A-ma-lếch và quân Ca-na-an sẽ chặn đánh anh em ở đó, và anh em sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, bởi vì anh em đã bỏ không theo Ðức Chúa, và Ðức Chúa không ở với anh em nữa.” 44 Họ khăng khăng kéo lên đỉnh núi, trong khi Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa cũng như ông Mô-sê không rời khỏi trại. 45 Quân A-ma-lếch và quân Ca-na-an đóng trên núi ấy đã tràn xuống tấn công và đánh đuổi họ tan tành cho tới Khoóc-ma.

Chương 15

VI. Luật Lệ Về Hiến Tế.

Quyền Hành Của Các Tư Tế Và Các Thầy Lê-Vi.

Của dâng cúng kèm theo hiến tế

1 Ðức Chúa phán bảo ông Mô-sê: 2 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng rằng: Khi các ngươi đã vào cư ngụ trong đất mà Ta sẽ ban cho các ngươi, 3 và khi các ngươi dâng bò bê hay chiên cừu lên Ðức Chúa làm lễ hoả tế, - bất kỳ lễ toàn thiêu hay lễ hy sinh - hoặc để giữ trọn một lời khấn, hoặc để dâng một của cúng tự nguyện, hoặc để cử hành các đại lễ theo luật định, ngõ hầu làm vui lòng Ðức Chúa vì hương thơm, 4 thì kẻ tiến dâng lễ còn phải tiến dâng lên Ðức Chúa lễ phẩm nữa, là bốn lít rưỡi tinh bột nhào với hai lít dầu ô-liu; 5 còn rượu tế thì cứ một con chiên con phải dâng hai lít, để làm lễ toàn thiêu hoặc lễ hy sinh. 6 Nếu là chiên đực, thì ngươi sẽ dâng lễ vật phụ là chín lít tinh bột nhào với hai lít rưỡi dầu ô-liu, 7 và rượu tế thì dâng hai lít rưỡi như hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. 8 Nếu ngươi dâng một con bò mộng làm lễ toàn thiêu hay lễ hy sinh, để giữ trọn một lời khấn, hoặc để làm lễ kỳ an dâng Ðức Chúa, 9 thì cùng với con bò mộng, ngươi sẽ còn phải dâng một lễ phẩm nữa, là mười ba lít rưỡi tinh bột nhào với bốn lít dầu ô-liu, 10 còn rượu tế thì ngươi sẽ dâng bốn lít, như hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. 11 Mỗi con bò mộng hoặc chiên đực, mỗi con cừu hay dê trong đàn ngươi dâng, thì đều phải làm như vậy. 12 Mỗi lần dâng, ngươi đều phải làm như thế, tuỳ theo số lượng nhiều hay ít.

13 Mọi người bản xứ đều phải làm như thế, khi dâng lễ hoả tế như hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. 14 Nếu có ngoại kiều sinh sống giữa các ngươi, hay con cháu các ngươi, mà dâng lễ hoả tế như hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa, thì nó cũng phải làm như các ngươi. 15 Trong đại hội, chỉ có một điều luật duy nhất cho các ngươi và cho ngoại kiều sống giữa các ngươi, điều luật vĩnh viễn trước mặt Ðức Chúa cho con cháu các ngươi cũng như cho các ngươi và cho ngoại kiều. 16 Một luật pháp và một quyết định cho cả các ngươi lẫn ngoại kiều sinh sống giữa các ngươi."

Bánh đầu mùa

17 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 18 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng rằng: Khi các ngươi tới đất mà Ta sẽ dẫn các ngươi vào, 19 các ngươi ăn thổ sản của đất đó, thì các ngươi phải dành ra trước phần trích dâng để kính Ðức Chúa như sau: 20 từ bột tốt nhất của các ngươi, các ngươi sẽ dâng một chiếc bánh làm phần trích dâng; như ngoài sân lúa người ta dành ra trước phần trích dâng thế nào, thì các ngươi cũng phải làm như vậy; 21 nghĩa là cho đến muôn đời các ngươi sẽ dâng Ðức Chúa phần trích dâng từ bột tốt nhất của các ngươi."

Tẩy xoá những lầm lỗi vì vô ý

22 "Nếu vì vô ý các ngươi không giữ một điều nào trong tất cả các điều răn mà Ðức Chúa đã phán bảo qua ông Mô-sê trên đây, 23 tất cả những gì Ðức Chúa đã truyền cho các ngươi qua Mô-sê, từ ngày Ðức Chúa truyền dạy cho cả con cháu các ngươi về sau nữa, 24 nếu cộng đồng lỗi lầm vì vô ý, thì toàn thể cộng đồng phải dâng một con bò mộng làm lễ toàn thiêu, như hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa, cùng với lễ phẩm và rượu tế theo luật định, lại phải dâng một con dê đực vì lỗi đã phạm. 25 Tư tế sẽ làm nghi thức xá tội trên toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, và chúng sẽ được tha thứ, bởi đó là một tội phạm vì vô ý, và chúng đã dâng lên Ðức Chúa lễ tiến hoả tế cùng với lễ tạ tội lên Ðức Chúa, bởi phạm tội vì vô ý. 26 Như thế toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en cũng như ngoại kiều sinh sống giữa các ngươi đều được tha thứ, bởi toàn dân đã phạm tội vì vô ý.

27 Nếu một cá nhân phạm tội vì vô ý, thì nó sẽ dâng một con dê cái một tuổi làm lễ tạ tội. 28 Tư tế sẽ làm nghi thức xá tội trên người đã phạm tội vì vô ý, bởi nó vô ý trước nhan Ðức Chúa. Khi cử hành nghi thức xá tội như thế, thì người ấy sẽ được tha thứ. 29 Ðối với người bản xứ trong con cái Ít-ra-en cũng như đối với ngoại kiều sinh sống giữa chúng, các ngươi chỉ có một điều luật phải thi hành trong trường hợp phạm tội vì vô ý.

30 Nhưng kẻ nào hành động cố tình, dù là người bản xứ hay ngoại kiều, thì nó xúc phạm đến chính Ðức Chúa. Con người ấy sẽ bị tiễu trừ khỏi đồng bào của nó, 31 vì nó đã khinh khi lời Ðức Chúa và phế bỏ lệnh Người truyền. Con người ấy phải bị tiêu diệt. Nó phải mang lấy tội ác của nó."

Vi phạm ngày sa-bát

32 Khi con cái Ít-ra-en còn ở trong sa mạc, thì người ta bắt được một người đang lượm củi ngày sa-bát. 33 Những người bắt được kẻ đang lượm củi liền điệu y tới ông Mô-sê, ông A-ha-ron và toàn thể cộng đồng. 34 Họ nhốt y lại vì chưa có quyết định phải xử với y như thế nào. 35 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Con người ấy sẽ phải chết; toàn thể cộng đồng sẽ ném đá nó bên ngoài doanh trại.” 36 Theo lệnh Ðức Chúa truyền cho ông Mô-sê, toàn thể cộng đồng đã đưa y ra khỏi trại, ném đá y và y đã chết.

Tua áo

37 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en 38 và bảo chúng phải làm tua khâu vào tà áo của chúng, qua mọi thế hệ, và cột lên tua áo đó một sợi dây đỏ tía. 39 Vậy các ngươi sẽ mang tua áo, và khi nhìn thấy nó, các ngươi sẽ nhớ đến mọi mệnh lệnh của Ðức Chúa mà thi hành, chứ không theo con tim và đôi mắt các ngươi mà đi làm điếm.

40 Như thế các ngươi sẽ nhớ và thi hành tất cả các mệnh lệnh Ta truyền như những người đã được thánh hiến cho Thiên Chúa các ngươi. 41 Chính Ta, Ðức Chúa, là Thiên Chúa các ngươi, Ta đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập để làm Thiên Chúa của các ngươi, Ta, Ðức Chúa, Thiên Chúa các ngươi.

Chương 16

Cô-rắc, Ða-than và A-vi-ram nổi loạn

1 Cô-rắc, con ông Gít-ha, cháu ông Cơ-hát thuộc chi tộc Lê-vi, đã lôi kéo những người thuộc chi tộc Rưu-vên, là Ða-than và A-vi-ram, con của ông Ê-li-áp, với Ôn, con ông Pe-lét. 2 Họ nổi lên chống ông Mô-sê, và cùng với họ có hai trăm năm mươi người trong số con cái Ít-ra-en, là những người lãnh đạo cộng đồng, là thành viên hội đồng và là những nhân vật tên tuổi. 3 Họ tụ tập trước mặt ông Mô-sê và ông A-ha-ron, và nói với hai ông: "Các ông quá lắm rồi! Toàn thể cộng đồng đều là thánh, và Ðức Chúa ngự giữa họ. Vậy tại sao các ông lại đè đầu đè cổ cộng đồng của Ðức Chúa?"

4 Nghe thấy vậy, ông Mô-sê sấp mặt xuống đất. 5 Ông nói với Cô-rắc và đồng bọn rằng: "Sáng mai Ðức Chúa sẽ cho biết ai thuộc về Người, ai được thánh hiến và được Người cho ở gần; kẻ Người chọn thì Người sẽ cho ở gần. 6 Các anh phải làm thế này: Anh Cô-rắc và đồng bọn của anh hãy lấy bình hương, 7 thắp lửa vào bình hương, và ngày mai đổ hương lên trên, trước nhan Ðức Chúa; và kẻ nào Ðức Chúa chọn thì người đó được thánh hiến. Này con cháu Lê-vi, các anh quá quắt lắm đó!"

8 Ông Mô-sê nói với Cô-rắc: "Này con cháu Lê-vi, nghe đây! 9 Thiên Chúa của Ít-ra-en đã biệt đãi các anh giữa cộng đồng Ít-ra-en, đưa các anh đến gần Chúa, để các anh phục dịch Nhà Tạm của Ðức Chúa và túc trực trước cộng đồng mà thi hành tác vụ thay cho họ: như thế, các anh còn cho là quá ít sao? 10 Người đã đưa anh và cùng với anh tất cả các người Lê-vi anh em của anh, tới gần Người, mà các anh còn đòi làm tư tế nữa! 11 Thế là chống Ðức Chúa, anh cùng với cả bọn anh mới toa rập với nhau, chứ ông A-ha-ron là gì mà các anh cằn nhằn ông ấy?"

12 Ông Mô-sê sai đi gọi Ða-than và A-vi-ram, con ông Ê-li-áp, nhưng họ trả lời: "Chúng tôi không đến! 13 Ông đã đưa chúng tôi ra khỏi đất tràn trề sữa và mật, để chúng tôi phải chết trong sa mạc, như thế là ít hay sao mà ông lại còn tự đặt mình làm thủ lãnh chúng tôi nữa? 14 Thật chẳng phải là ông đã dẫn chúng tôi vào một đất tràn trề sữa và mật, ông cũng chẳng cho chúng tôi đồng ruộng và vườn nho làm sở hữu. Ông tưởng móc mắt được những người này cho họ khỏi thấy sao? Chúng tôi không đến!” 15 Ông Mô-sê bừng bừng nổi giận, và thưa với Ðức Chúa: "Xin Ngài đừng chiếu cố lễ phẩm chúng dâng! Dù một con lừa của chúng, con cũng đã không hề lấy, và con cũng chẳng làm thiệt hại một người nào trong bọn chúng."

Hình phạt

16 Ông Mô-sê nói với ông Cô-rắc: "Anh và tất cả đồng bọn của anh, ngày mai hãy đến trước nhan Ðức Chúa, anh và họ cùng với ông A-ha-ron. 17 Mỗi người cầm bình hương của mình, đổ hương vào, rồi ai nấy hãy đưa bình hương tới nhan Ðức Chúa, tất cả là hai trăm năm mươi chiếc. Cả anh và ông A-ha-ron nữa, mỗi người hãy mang bình hương của mình.” 18 Mỗi người cầm bình hương, thắp lửa vào bình và đổ hương lên. Rồi họ đứng ở cửa Lều Hội Ngộ cùng với ông Mô-sê và ông A-ha-ron. 19 Cô-rắc đã triệu tập toàn thể cộng đồng trước mặt các ông, ở cửa Lều Hội Ngộ. Và vinh quang của Ðức Chúa đã xuất hiện trước toàn thể cộng đồng.

20 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng: 21 "Các ngươi hãy rời xa cộng đồng này, vì Ta sẽ huỷ diệt nó trong giây lát. 22 Các ông liền sấp mặt xuống đất và kêu: "Lạy Chúa là Thiên Chúa ban sinh khí cho mọi xác phàm, chỉ có một người phạm tội mà Chúa nổi giận với cả cộng đồng sao?” 23 Ðức Chúa phán bảo ông Mô-sê rằng: 24 "Ngươi hãy nói với cộng đồng: "Hãy tránh xa khu vực quanh nhà của Cô-rắc, Ða-than và A-vi-ram!"

25 Bấy giờ ông Mô-sê đứng dậy đi về phía Ða-than và A-vi-ram, theo sau ông là các kỳ mục Ít-ra-en. 26 Ông nói với cộng đồng: "Này, chớ tới gần lều của những con người hư đốn ấy, và đừng đụng tới tất cả những gì của họ, kẻo vì liên luỵ mà anh em cũng bị huỷ diệt với tất cả tội lỗi của họ.” 27 Và người ta rời xa khu vực quanh nhà của Cô-rắc, Ða-than và A-vi-ram.

28 Ông Mô-sê nói: "Cứ thế này mà anh em biết là Ðức Chúa đã sai tôi làm những công việc đó, chứ không phải tôi tự ý làm: 29 Nếu những người này chết bình thường như mọi người, nghĩa là số phận chung của mọi người cũng là số phận của họ, thì đúng là Ðức Chúa đã không sai tôi. 30 Còn nếu Ðức Chúa làm điều khác thường này là đất mở họng ra nuốt tươi các người ấy cùng với tất cả những gì của họ, nghĩa là họ bị chôn sống dưới âm phủ, thì anh em sẽ biết rằng những người đó đã khinh dể Ðức Chúa."

31 Ông vừa nói những lời ấy xong, đất dưới chân họ liền rẽ ra, 32 mở họng nuốt chửng họ, nhà cửa của họ, mọi người nhà của Cô-rắc cũng như tất cả tài sản.

33 Những người ấy cùng với tất cả những gì của họ đã bị chôn sống dưới âm phủ, và đất đã khép lại vùi lấp họ; họ biến mất khỏi công hội. 34 Tất cả những người Ít-ra-en đứng chung quanh nghe tiếng họ kêu la thì trốn chạy, và nói: "Coi chừng đất nuốt cả chúng ta bây giờ!"

35 Ðức Chúa cho lửa ngốn trọn hai trăm năm mươi người đã dâng hương.

Chương 17

Bình hương

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Ngươi hãy nói với E-la-da, con của tư tế A-ha-ron, phải cất các bình hương trên đám than hồng đi và hất lửa ấy ra xa. 3 Dù những bình hương đó là của những kẻ đã phạm tội mà phải chết, nhưng chúng đã được thánh hiến, nên các ngươi hãy dát thành những tấm đồng mỏng phủ lên bàn thờ. Quả vậy, các kẻ ấy đã tiến dâng trước nhan Ðức Chúa, và đã thánh hiến chúng; chúng sẽ nên dấu hiệu để cảnh giác con cái Ít-ra-en."

4 Tư tế E-la-da lấy các bình hương bằng đồng mà những người chết cháy đã tiến dâng, và dát thành những tấm mỏng phủ lên bàn thờ. 5 Chúng sẽ nhắc cho con cái Ít-ra-en nhớ rằng không một ai ngoài dòng dõi ông A-ha-ron tới gần thắp hương trước nhan Ðức Chúa, mà không bị chung một số phận với Cô-rắc và đồng bọn của y, như Ðức Chúa đã phán qua Mô-sê.

Ông A-ha-ron chuyển cầu

6 Hôm sau toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng: "Chính các ông đã giết dân của Ðức Chúa.” 7 Và khi cộng đồng tụ tập trước mặt ông Mô-sê và ông A-ha-ron, thì họ quay về phía Lều Hội Ngộ. Và kìa, mây bao phủ Lều và vinh quang Ðức Chúa xuất hiện. 8 Bấy giờ ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến trước Lều Hội Ngộ.

9 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 10 "Các ngươi hãy rời xa cộng đồng này, vì Ta sẽ huỷ diệt nó trong giây lát." Các ông liền sấp mặt xuống đất. 11 Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron: "Ông hãy cầm bình hương, lấy lửa trên bàn thờ thắp vào, đổ hương lên, rồi lập tức đến với cộng đồng làm nghi thức xá tội cho họ, vì Ðức Chúa đã nổi cơn thịnh nộ và tai hoạ đã bắt đầu.” 12 Theo lời ông Mô-sê, ông A-ha-ron cầm bình hương, chạy đến giữa công hội, thì này tai hoạ đã bắt đầu hoành hành trong dân. Ông đốt hương và làm nghi thức xá tội cho dân. 13 Ông đứng giữa kẻ chết và người sống, tai hoạ liền chấm dứt. 14 14,700 người đã chết trong tai hoạ này, không kể những người chết trong vụ Cô-rắc. 15 Ông A-ha-ron trở lại đứng bên ông Mô-sê ở cửa Lều Hội Ngộ, thì tai hoạ dứt hẳn.

Cây gậy của ông A-ha-ron

16 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 17 "Hãy bảo con cái Ít-ra-en nộp cho ngươi, qua các trưởng tộc, mỗi gia tộc một cây gậy, tất cả là mười hai cây. Ngươi sẽ viết tên mỗi người vào cây gậy của nó. 18 Ngươi sẽ viết tên của A-ha-ron lên cây gậy của Lê-vi, vì thủ lãnh gia tộc của chúng cũng phải có một cây gậy. 19 Ngươi sẽ đặt các cây gậy đó trong Lều Hội Ngộ, trước Chứng Ước, nơi Ta gặp gỡ các ngươi. 20 Ai được Ta chọn thì gậy của nó sẽ đâm chồi, như thế Ta sẽ làm tiêu tan, không để thấu tới Ta những lời con cái Ít-ra-en kêu ca lẩm bẩm, những lời chúng thốt ra chống lại các ngươi."

21 Ông Mô-sê nói lại với con cái Ít-ra-en và tất cả các trưởng tộc đã trao gậy cho ông, mỗi người một cây gậy theo số các gia tộc: tất cả là mười hai cây, trong đó có cây gậy của ông A-ha-ron. 22 Ông Mô-sê đặt các gậy đó trước nhan Ðức Chúa trong Lều Chứng Ước. 23 Hôm sau ông Mô-sê tới Lều Chứng Ước, thì kìa, cây gậy của ông A-ha-ron thuộc gia tộc Lê-vi đã đâm chồi, trổ bông và kết trái hạnh đào. 24 Từ trước nhan Ðức Chúa, ông Mô-sê lấy tất cả các cây gậy, đưa ra cho toàn thể con cái Ít-ra-en xem, và mỗi người đã nhận lại cây gậy của mình.

25 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đưa cây gậy của A-ha-ron đặt lại trước Chứng Ước, để lưu trữ như dấu chỉ cảnh cáo những đứa phản loạn. Như thế ngươi sẽ làm tiêu tan không để thấu tới Ta những lời chúng kêu ca lẩm bẩm; và chúng sẽ khỏi phải chết.” 26 Ông Mô-sê thi hành như Ðức Chúa đã truyền. Ông đã làm đúng như vậy.

Vai trò đền tội của tư tế

27 Con cái Ít-ra-en thưa với ông Mô-sê: "Chết chúng tôi rồi! Chết hết! Tiêu vong hoàn toàn! 28 Ai mà tới gần Nhà Tạm Ðức Chúa thì sẽ phải chết. Chúng tôi sẽ bị tận diệt sao?"

Chương 18

1 Ðức Chúa phán với ông A-ha-ron: "Ngươi, con cái ngươi và gia tộc ngươi với ngươi, các ngươi phải chịu trách nhiệm về tội phạm đến nơi thánh. Ngươi và con cái ngươi với ngươi, các ngươi phải chịu trách nhiệm về tội phạm đến chức tư tế của các ngươi. 2 Ngươi hãy đưa cả các anh em ngươi, thuộc chi tộc Lê-vi, chi tộc của cha ngươi đến với ngươi để chúng trợ lực và phục vụ ngươi, ngươi và con cái ngươi, trước Lều Chứng Ước. 3 Chúng sẽ lo phục vụ ngươi và phục vụ tất cả Lều, nhưng không được tới gần các vật thánh cũng như bàn thờ, kẻo cả chúng lẫn các ngươi phải chết. 4 Chúng sẽ trợ lực ngươi và đảm nhận việc phục vụ Lều Hội Ngộ, về mọi dịch vụ liên quan tới Lều; không người nào khác được tới gần các ngươi. 5 Các ngươi sẽ đảm nhận việc phục vụ nơi thánh và phục vụ bàn thờ, và thịnh nộ sẽ không giáng xuống trên con cái Ít-ra-en nữa. 6 Ta đây, Ta đã chọn giữa con cái Ít-ra-en các thầy Lê-vi là anh em của các ngươi, để trao tặng cho các ngươi. Họ là "những người được dâng hiến", thuộc về Ðức Chúa, để chuyên lo phục vụ Lều Hội Ngộ. 7 Ngươi cùng với các con ngươi sẽ thi hành chức vụ tư tế trong mọi việc liên quan tới bàn thờ và những gì sau bức màn trướng. Ðó là dịch vụ của các ngươi. Ta ban chức tư tế cho các ngươi như dịch vụ và hồng ân; còn người nào khác mà tới gần sẽ phải chết."

Phần dành cho tư tế

8 Ðức Chúa phán với ông A-ha-ron: "Ta đây, Ta trao cho ngươi đảm nhận phần trích dâng trong tất cả các của lễ con cái Ít-ra-en dâng cho Ta. Ta ban cho ngươi và con cái ngươi như phần riêng chiếu theo một quy luật vĩnh viễn. 9 Ðây là phần dành cho ngươi, trích từ của lễ cực thánh, không bị hoả tế: tất cả lễ tiến người ta hoàn lại cho Ta trong các lễ phẩm, các hiến lễ xá tội và các hiến lễ đền tội. Ðó là của cực thánh dành cho ngươi và con cái ngươi. 10 Các ngươi sẽ ăn của ấy nơi cực thánh, hễ là nam giới thì được ăn của ấy. Ðó là của thánh đối với ngươi.

11 Và đây cũng là phần dành cho ngươi: phần trích dâng trong tất cả những gì con cái Ít-ra-en tiến dâng theo nghi thức. Ta ban những của ấy cho ngươi và cho con trai con gái ngươi, chiếu theo một quy luật vĩnh viễn. Trong nhà ngươi hễ ai thanh sạch, thì được hưởng. 12 Tất cả tinh dầu hảo hạng, mọi thứ rượu mới và lúa miến tốt nhất, tức là những của đầu mùa người ta dâng lên Ðức Chúa, Ta đều ban cho ngươi. 13 Tất cả thổ sản đầu mùa người ta dâng cho Ðức Chúa đều là của ngươi; trong nhà ngươi hễ ai thanh sạch thì được hưởng. 14 Tất cả những gì là huý vật thánh trong Ít-ra-en đều được dành cho ngươi. 15 Tất cả các con đầu lòng của bất cứ xác phàm nào, dù là người hay súc vật, mà người ta dâng cho Ðức Chúa, đều được dành cho ngươi; nhưng ngươi phải cho chuộc lại con đầu lòng của người ta, và con đầu lòng của súc vật không sạch, ngươi cũng cho chuộc lại. 16 Ngươi sẽ cho chuộc khi nó được một tháng; tiền chuộc ngươi sẽ ấn định là mười lăm chỉ bạc, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện. 17 Nhưng bò, chiên và dê đầu lòng, ngươi sẽ không cho chuộc lại. Chúng là vật thánh, nên máu chúng, ngươi sẽ đổ trên bàn thờ, còn mỡ thì sẽ đốt làm hoả tế thành hương thơm làm đẹp lòng Ðức Chúa, 18 và thịt thì để cho ngươi dùng, cũng như thịt sườn đã được tiến dâng theo nghi thức, và thịt đùi bên phải đều thuộc về ngươi. 19 Tất cả các phần trích dâng trong các của lễ thánh mà con cái Ít-ra-en dâng Ðức Chúa, Ta đều ban cho ngươi cũng như cho con trai con gái ngươi, chiếu theo một quy luật vĩnh viễn. Ðó là giao ước muối muôn đời tồn tại trước nhan Ðức Chúa, cho ngươi và dòng dõi ngươi."

Phần dành cho các thầy Lê-vi

20 Ðức Chúa phán với ông A-ha-ron: "Ðất chia cho chúng, ngươi sẽ không có phần; ngươi không có gia nghiệp ở giữa chúng, và chính Ta là gia nghiệp của ngươi giữa con cái Ít-ra-en.

21 Ðây Ta ban cho con cái Lê-vi làm gia nghiệp tất cả thuế thập phân dân Ít-ra-en nộp, vì họ có công phục dịch Lều Hội Ngộ. 22 Con cái Ít-ra-en sẽ không được tới gần Lều Hội Ngộ nữa, kẻo phải mang tội đáng chết. 23 Chính các thầy Lê-vi sẽ phục dịch Lều Hội Ngộ và phải mang lấy trách nhiệm về lầm lỗi của mình. Ðây là quy tắc vĩnh viễn cho dòng dõi các ngươi; giữa con cái Ít-ra-en, các thầy Lê-vi sẽ không có gia nghiệp, 24 vì các thuế thập phân con cái Ít-ra-en trích dâng Ðức Chúa, Ta đã ban cho các thầy Lê-vi làm gia nghiệp. Bởi thế Ta mới bảo chúng rằng: giữa con cái Ít-ra-en, chúng sẽ không có gia nghiệp."

Thuế thập phân

25 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 26 "Ngươi hãy nói với các thầy Lê-vi và bảo họ:

Khi các ngươi thu thuế thập phân của con cái Ít-ra-en nộp, thuế mà Ta đã ban cho các ngươi làm gia nghiệp, thì các ngươi sẽ dành phần trích dâng cho Ðức Chúa, tức là một phần mười thuế thập phân. 27 Của lễ các ngươi dâng đó được kể là phần trích dâng, giống như người ta dâng lúa mì lấy từ ngoài sân và rượu mới lấy từ trong bồn. 28 Như vậy là cả các ngươi nữa, các ngươi cũng dành phần trích dâng Ðức Chúa, từ thuế thập phân mà các ngươi thu của con cái Ít-ra-en. Phần trích dâng cho Ðức Chúa, các ngươi sẽ trao cho tư tế A-ha-ron. 29 Tất cả các món quà người ta biếu, các ngươi phải trích phần dâng cho Ðức Chúa, phần thánh ấy phải là phần tốt nhất.

30 Ngươi hãy nói với họ rằng: Khi các ngươi đã trích dâng phần tốt nhất rồi, thì phần còn lại sẽ được kể là của các ngươi, các thầy Lê-vi, giống như hoa lợi lấy từ ngoài sân và như rượu mới lấy từ trong bồn. 31 Các ngươi cũng như gia đình các ngươi có thể ăn của ấy ở bất cứ nơi nào. Ðó là thù lao của các ngươi, vì các ngươi phục dịch trong Lều Hội Ngộ. 32 Về điểm này các ngươi sẽ không mắc tội gì một khi đã trích dâng phần tuyệt hảo như thế. Nhưng các ngươi chớ xúc phạm đến của thánh con cái Ít-ra-en dâng, kẻo phải chết."

Chương 19

Tro của bò cái màu hung

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: 2 "Ðây là quy tắc trong luật mà Ðức Chúa đã truyền: Ngươi hãy bảo con cái Ít-ra-en đưa tới cho ngươi một con bò cái màu hung đỏ, nguyên tuyền, toàn vẹn và chưa bao giờ mang ách. 3 Các ngươi sẽ trao nó cho tư tế E-la-da. Người ta sẽ đưa nó ra ngoài trại và sát tế nó trước mặt ông. 4 Tư tế E-la-da sẽ lấy ngón tay nhúng vào máu nó mà rảy bảy lần về phía mặt tiền Lều Hội Ngộ. 5 Người ta sẽ thiêu con bò trước mắt ông; da, thịt, máu và phân nó đều đốt hết. 6 Và tư tế sẽ lấy gỗ bá hương, hương thảo và chỉ màu đỏ thẫm mà quăng vào giữa con bò đang cháy. 7 Sau đó tư tế phải giặt áo, và lấy nước rửa mình cho sạch, rồi trở về trại, tư tế sẽ bị nhiễm uế cho tới chiều. 8 Người thiêu con bò ấy cũng phải lấy nước giặt áo và rửa mình cho sạch, và cũng bị nhiễm uế cho tới chiều. 9 Một người nào thanh sạch sẽ hốt tro con bò ấy, để ở một nơi thanh sạch, bên ngoài trại. Ðối với cộng đồng con cái Ít-ra-en, thì tro đó được dự trữ dùng làm nước tẩy uế. Ðó là nghi thức tạ tội. 10 Người đã hốt tro con bò cũng phải giặt áo, và cũng bị nhiễm uế cho tới chiều. Ðối với con cái Ít-ra-en cũng như với ngoại kiều trú ngụ giữa chúng, thì đó là một quy tắc vĩnh viễn.

Trường hợp nhiễm uế

11 Ai đụng vào người chết, bất cứ người chết này là ai, đều bị nhiễm uế trong bảy ngày liền. 12 Ngày thứ ba và thứ bảy, người đó sẽ lấy nước nói trên mà thanh tẩy mình và sẽ được sạch; nếu người đó không thanh tẩy mình ngày thứ ba và thứ bảy, thì sẽ không được sạch. 13 Ai đụng vào người chết -thi thể của một người đã chết- mà không thanh tẩy mình, người đó làm cho Nhà Tạm của Ðức Chúa bị nhiễm uế, người như thế phải bị diệt trừ khỏi Ít-ra-en, vì nó đã không được dội nước tẩy uế. Nó đã bị nhiễm uế, và ô uế vẫn tồn tại nơi nó.

14 Ðây là luật phải giữ khi có người chết trong lều: ai vào lều cũng như mọi người đang ở trong lều, đều bị nhiễm uế trong bảy ngày liền. 15 Mọi bình lọ để mở, không được cột kín, đều bị nhiễm uế.

16 Bất cứ ai ở ngoài đồng đụng vào một người bị gươm đâm, một tử thi, hoặc xương người hay là mồ mả, đều bị nhiễm uế trong bảy ngày liền.

Nghi thức dùng nước tẩy uế

17 Ðể thanh tẩy người bị nhiễm uế, người ta sẽ lấy một chút tro của con vật đã được hoả tế làm lễ tạ tội, mà pha với nước lã trong một chiếc bình. 18 Rồi một người còn thanh sạch lấy nhành hương thảo nhúng vào nước mà rảy lên lều, lên tất cả các vật dụng cùng mọi người ở đó, lên kẻ đã đụng vào xương cốt, vào người bị gươm đâm, hoặc tử thi hay là mồ mả. 19 Ngày thứ ba và thứ bảy, người thanh sạch phải rảy nước lên người bị nhiễm uế; và ngày thứ bảy người bị nhiễm uế sẽ được sạch tội. Người này phải lấy nước giặt áo và tắm rửa; đến chiều nó sẽ được sạch. 20 Thế nhưng kẻ nào đã bị nhiễm uế mà không chịu tẩy uế, thì nó sẽ bị diệt trừ khỏi công hội, vì nó đã làm cho nơi thánh của Ðức Chúa bị nhiễm uế. Nó đã không được dội nước tẩy uế, nên nó vẫn còn bị nhiễm uế.

21 Ðó là quy tắc vĩnh viễn cho chúng. Người nào rảy nước tẩy uế thì phải giặt áo mình; ai đụng vào nước đó sẽ bị nhiễm uế đến chiều. 22 Tất cả những gì mà người bị nhiễm uế đụng vào đều bị nhiễm uế; người nào đụng vào những cái đó cũng bị nhiễm uế cho đến chiều."

Chương 20

VII. Từ Ca-Ðê Tới Mô-Áp

Mạch nước Mơ-ri-va (Xh 17:1-7)

1 Toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en đến sa mạc Xin vào tháng giêng, và dân ở lại Ca-đê. Bà Mi-ri-am đã qua đời và được chôn cất tại đây.

2 Cộng đồng không có nước, họ bèn tụ tập phản đối ông Mô-sê và ông A-ha-ron. 3 Dân gây chuyện với ông Mô-sê, họ nói: "Phải chi lúc anh em chúng tôi tắt thở trước mặt Ðức Chúa, thì chúng tôi cũng tắt thở luôn cho rồi. 4 Hai ông đưa đại hội của Ðức Chúa vào sa mạc này để làm gì? Có phải để chúng tôi và súc vật của chúng tôi chết ở đây hay không? 5 Hai ông đưa chúng tôi từ Ai-cập lên để làm gì? Có phải để đưa chúng tôi vào chốn độc địa này chăng? Ðây không phải là nơi để gieo vãi, không vả, không nho, không lựu, không cả nước uống."

6 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron rời đại hội đến cửa Lều Hội Ngộ, các ông sấp mặt xuống đất. Bấy giờ vinh quang Ðức Chúa hiện ra với các ông. 7 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 8 "Hãy cầm lấy cây gậy, và cùng với A-ha-ron, anh ngươi, triệu tập cộng đồng lại. Trước mặt chúng, các ngươi sẽ nói với tảng đá và chúng sẽ cho nước; từ tảng đá, ngươi sẽ làm cho nước chảy ra cho chúng, và ngươi sẽ cho cộng đồng và súc vật của chúng uống."

9 Ông Mô-sê cầm lấy cây gậy ở trước nhan Ðức Chúa, như Người đã truyền cho ông. 10 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron triệu tập đại hội trước tảng đá; ông Mô-sê nói với họ: "Nghe đây, hỡi quân phản nghịch! Từ tảng đá này, chúng tôi có thể làm cho nước chảy ra cho các người được không?” 11 Ông Mô-sê giơ tay, lấy gậy đập vào tảng đá hai lần; nước trào ra lai láng cho cộng đồng và súc vật uống.

Trừng phạt ông Mô-sê và ông A-ha-ron

12 Bấy giờ Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: "Bởi vì các ngươi đã không tin vào Ta để biểu dương sự thánh thiện của Ta trước mắt con cái Ít-ra-en, nên các ngươi sẽ không được đưa đại hội này vào đất Ta ban cho chúng.” 13 Ðó là mạch nước Mơ-ri-va - nghĩa là gây chuyện - nơi con cái Ít-ra-en đã gây chuyện với ÐỨC CHÚA, và Người đã biểu dương sự thánh thiện của Người giữa họ.

Ê-đôm không cho mượn đường

14 Từ Ca-đê ông Mô-sê sai sứ giả đến nói với vua Ê-đôm rằng: "Bào huynh của ngài là Ít-ra-en xin thưa với ngài như sau: ngài biết tất cả những nỗi khốn khó chúng tôi đã gặp phải; 15 cha ông chúng tôi đã xuống Ai-cập và chúng tôi đã lưu lại Ai-cập lâu dài như thế nào; rồi những người Ai-cập đã hành hạ chúng tôi cũng như cha ông chúng tôi làm sao; 16 chúng tôi đã kêu lên Ðức Chúa và Người đã nghe tiếng chúng tôi và đã sai thần sứ đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập. Và đây, hiện chúng tôi đang ở Ca-đê, một thành sát ranh giới của Ngài. 17 Vậy xin để chúng tôi đi qua đất của ngài. Chúng tôi sẽ không băng qua ruộng rẫy, vườn nho, không uống nước giếng, nhưng sẽ cứ vương lộ mà đi, không rẽ bên phải hay bên trái, cho tới khi ra khỏi biên giới của ngài.” 18 Nhưng Ê-đôm trả lời: "Ngươi không được đi qua đất của ta; nếu không, ta sẽ ra ứng chiến với ngươi.” 19 Con cái Ít-ra-en đáp lại: "Chúng tôi sẽ cứ quan lộ mà lên; và nếu chúng tôi và đàn vật của chúng tôi có uống nước của ngài, thì chúng tôi sẽ tính sòng phẳng; có chuyện gì đâu, chúng tôi chỉ đi bộ qua thôi.” 20 Ê-đôm nói: "Không được", rồi đưa quân đông đảo và võ trang hùng hậu ra chặn đường. 21 Vì Ê-đôm quyết từ chối không cho Ít-ra-en đi qua lãnh thổ của mình, nên Ít-ra-en đã tránh con đường đó.

Ông A-ha-ron qua đời

22 Từ Ca-đê, toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en lên đường, đi vào vùng núi Ho. 23 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron trên núi Ho, giáp ranh giới xứ Ê-đôm, rằng: 24 "A-ha-ron sẽ về sum họp với tổ tiên; nó sẽ không được vào đất Ta đã ban cho con cái Ít-ra-en, bởi vì các ngươi đã cưỡng lại lệnh Ta bên mạch nước Mơ-ri-va. 25 Ngươi hãy gọi A-ha-ron và con của nó là E-la-da lại, và đưa chúng lên núi Ho. 26 Ngươi sẽ cởi phẩm phục của A-ha-ron, mặc cho E-la-da con nó; A-ha-ron sẽ về sum họp với tổ tiên và sẽ chết tại đó."

27 Ông Mô-sê đã làm như Ðức Chúa truyền, và họ lên núi Ho trước mắt toàn thể cộng đồng. 28 Ông Mô-sê cởi phẩm phục của ông A-ha-ron, mặc cho con ông này là E-la-da. Ông A-ha-ron đã qua đời tại đó, trên đỉnh núi. Còn ông Mô-sê và ông E-la-da thì xuống núi. 29 Khi toàn thể cộng đồng hay biết ông A-ha-ron qua đời, thì cả nhà Ít-ra-en đã khóc thương ông ba mươi ngày.

Chương 21

Chiếm Khoóc-ma

1 Vua A-rát, người Ca-na-an, cư ngụ tại Ne-ghép, nghe biết Ít-ra-en theo đường A-tha-rim mà tới, thì đã tấn công Ít-ra-en và bắt được một số tù binh. 2 Bấy giờ Ít-ra-en đã khấn với Ðức Chúa lời khấn như sau: "Nếu Ngài trao dân này vào tay con, con sẽ tru diệt các thành của nó.” 3 Ðức Chúa đã nhận lời Ít-ra-en mà trao người Ca-na-an cho họ, và họ đã tru diệt chúng cùng với các thành của chúng. Người ta đã đặt tên cho nơi đó là Khoóc-ma.

Con rắn đồng

4 Từ núi Ho, họ lên đường theo đường Biển Sậy, vòng qua lãnh thổ Ê-đôm; trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Ít-ra-en mất kiên nhẫn. 5 Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê rằng: "Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này."

6 Bấy giờ Ðức Chúa cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết. 7 Dân đến nói với ông Mô-sê: "Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách Ðức Chúa và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu Ðức Chúa để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi." Ông Mô-sê khẩn cầu cho dân. 8 Ðức Chúa liền nói với ông: "Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.” 9 Ông Mô-sê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống.

Những chặng đường sang hữu ngạn sông Gio-đan

10 Con cái Ít-ra-en đã lên đường và đóng trại ở Ô-vốt. 11 Rồi họ lại rời Ô-vốt lên đường và đóng trại ở I-giê Ha A-va-rim trong sa mạc, đối diện với Mô-áp, ở phía đông. 12 Từ đó họ lên đường và đóng ở suối De-rét. 13 Từ đây họ lên đường và đóng trại ở bên kia suối Ác-nôn. Suối này nằm trong sa mạc, khởi từ biên giới E-mô-ri. Vì suối Ác-nôn là biên giới Mô-áp phân ranh Mô-áp với E-mô-ri. 14 Bởi thế có lời trong cuốn "Chiến sử của Ðức Chúa" rằng:

"Ðánh chiếm Va-hếp tại Xu-pha, đánh chiếm luôn suối Ác-nôn,

15 cả triền suối chạy dài tới khu vực A, dọc theo biên giới Mô-áp."

16 Và từ đó họ đi tới Bơ-e.

Ðây chính là giếng mà Ðức Chúa đã nói đến, khi phán với ông Mô-sê: "Hãy tập họp dân lại, và Ta sẽ ban nước cho chúng."

17 Bấy giờ Ít-ra-en xướng lên bài ca này:

"Vọt lên đi nào, mạch giếng ơi!

Các bạn hãy ca mừng giếng nước!

18 Giếng xưa kia bậc thủ lãnh đã đào,

hàng quyền quý của dân đã khơi

bằng phủ việt, bằng quyền trượng các ngài!"

19 Từ Mát-ta-na tới Na-kha-li-ên, và từ Na-kha-li-ên tới Ba-mốt. 20 Rồi từ Ba-mốt tới thung lũng nằm trong vùng quê Mô-áp, gần đỉnh Pít-ga, đối diện với sa mạc.

Chiếm miền hữu ngạn sông Gio-đan (Ðnl 2:26-3:11)

21 Bấy giờ Ít-ra-en sai các sứ giả đến thưa với Xi-khôn, vua dân E-mô-ri, rằng: 22 "Xin để tôi đi qua đất của ngài; tôi sẽ không băng qua ruộng rẫy, vườn nho, không uống nước giếng; nhưng sẽ cứ vương lộ mà đi, cho tới khi ra khỏi biên giới của ngài.” 23 Nhưng vua Xi-khôn không cho Ít-ra-en băng qua bờ cõi của ông, lại còn tập họp toàn dân, ra chặn đường Ít-ra-en trong sa mạc. Tới Gia-hát, ông giao chiến với Ít-ra-en. 24 Ít-ra-en vung kiếm giết họ và chiếm đất từ Ác-nôn cho tới Giáp-bốc, đến tận biên giới con cái Am-mon. Gia-de là biên giới con cái Am-mon.25 Ít-ra-en đã chiếm lấy tất cả các thành đó và lưu lại trong các thành của người E-mô-ri ở Khét-bôn và các thị trấn phụ thuộc. 26 Khét-bôn quả là kinh thành của Xi-khôn, vua dân E-mô-ri, người đã từng giao tranh với đời vua trước của Mô-áp và chiếm toàn bộ lãnh thổ của vua này cho tới Ác-nôn.

27 Vì thế, thi nhân có lời rằng:

"Hãy đến Khét-bôn mà xây dựng lại,

cho kinh thành Xi-khôn được củng cố!

28 Vì lửa cháy bốc ra từ Khét-bôn và hoả tai từ phố phường Xi-khôn

đã huỷ diệt thành A của Mô-áp

và bọn lãnh chúa trên các điểm cao suối Ác-nôn.

29 Khốn cho mi, Mô-áp hỡi! Này dân Cơ-mốt, ngươi mạt vận rồi!

Con trai ngươi bị đuổi xua chạy trốn,

con gái ngươi bị nộp cho Xi-khôn, vua E-mô-ri.

30 Ruộng rẫy của chúng bị huỷ hoại từ Khét-bôn cho tới Ði-vôn.

Chúng tôi đã nổi lửa đốt phá từ Nô-phác cho tới Mê-đơ-va."

31 Ít-ra-en đã định cư trên đất người E-mô-ri.

32 Ông Mô-sê sai người đi do thám Gia-de: họ đã chiếm các thị trấn phụ thuộc và trục xuất người E-mô-ri cư ngụ tại đó.

33 Rồi họ đổi hướng và lên đường đi Ba-san. Vua Ba-san là Ốc, cùng toàn thể dân của ông ra chặn đường, để giao chiến với họ tại Ét-re-i. 34 Nhưng Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ðừng sợ nó, vì Ta đã trao nó cùng tất cả dân cư và đất đai của nó vào tay ngươi. Ngươi hãy xử với nó như đã xử với Xi-khôn, vua dân E-mô-ri ở Khét-bôn.” 35 Thế là họ đánh bại vua ấy, con cái và toàn dân ông, không để sót một người nào, và họ đã chiếm lấy đất của ông.

Chương 22

1 Sau đó con cái Ít-ra-en lại lên đường và đóng trại ở thảo nguyên Mô-áp, bên kia sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô.

Vua Mô-áp cầu cứu ông Bi-lơ-am

2 Vua Ba-lác, con vua Xíp-po, đã thấy tất cả những gì Ít-ra-en gây cho người E-mô-ri. 3 Người Mô-áp khiếp sợ trước đám dân đó, vì họ quá đông.

Mô-áp kinh hãi phải đối đầu với con cái Ít-ra-en.

4 Mô-áp nói với các kỳ mục Ma-đi-an rằng: "Này đám người ấy sẽ ngốn hết chung quanh chúng ta, như bò ngốn cỏ ngoài đồng."

5 Vua liền sai các sứ giả đến mời Bi-lơ-am, con của Bơ-o, ở Pơ-tho, gần sông Cả, trong đất của con cái Am-mon. Vua nói: "Này, có một dân đã ra khỏi Ai-cập, lan tràn khắp xứ và hiện đang đóng trại đối diện với ta. 6 Bây giờ xin ông đến nguyền rủa dân đó cho ta, vì nó mạnh hơn ta. May ra nhờ thế ta có thể đánh bại được nó và đuổi nó ra khỏi lãnh thổ của ta. Vì ta biết kẻ nào được ông chúc phúc thì được phúc và kẻ nào bị ông nguyền rủa thì mắc hoạ."

7 Các kỳ mục Mô-áp và các kỳ mục Ma-đi-an đã lên đường, cầm theo tiền thù lao cho lời sấm; họ tới gặp ông Bi-lơ-am và chuyển tới ông lời của vua Ba-lác. 8 Ông nói với họ: "Mời các ông qua đêm ở đây, rồi tôi sẽ trả lời cho các ông theo như Ðức Chúa nói với tôi." Vậy các thủ lãnh Mô-áp đã ở lại với ông Bi-lơ-am. 9 Thiên Chúa đến với ông Bi-lơ-am và phán rằng: "Những kẻ đang ở với ngươi là ai đó?” 10 Ông Bi-lơ-am thưa lại với Thiên Chúa: "Ba-lác, con của Xíp-po, vua Mô-áp, đã sai họ đến nói với tôi rằng: 11 Này, đám dân ra khỏi Ai-cập nay đã lan tràn khắp xứ; xin ông đến nguyền rủa nó cho ta. May ra nhờ thế ta có thể giao tranh với nó và đuổi nó đi.” 12 Bấy giờ Thiên Chúa phán bảo ông Bi-lơ-am: "Ngươi không được đi với chúng! Không được nguyền rủa dân đó, vì nó đã được chúc phúc.” 13 Sáng hôm sau ông Bi-lơ-am trỗi dậy và nói với các thủ lãnh vua Ba-lác đã sai đến, rằng: "Các ông hãy trở về xứ các ông; Ðức Chúa đã từ chối không để cho tôi đi với các ông.” 14 Vậy các thủ lãnh Mô-áp trỗi dậy, trở về với vua Ba-lác và nói: "Ông Bi-lơ-am đã từ chối không chịu cùng đến với chúng tôi."

15 Một lần nữa vua Ba-lác lại sai các thủ lãnh đông hơn và có thế giá hơn những người trước. 16 Họ đến gặp ông Bi-lơ-am và thưa rằng: "Vua Ba-lác, con của vua Xíp-po nói thế này: Ông đừng ngại đến với ta; 17 chắc chắn ta sẽ hết sức trọng đãi ông, và tất cả những gì ông bảo, ta sẽ làm; ông cứ đến nguyền rủa dân ấy giúp ta.” 18 Nhưng ông Bi-lơ-am trả lời và nói với bầy tôi vua Ba-lác rằng: "Vua Ba-lác có cho tôi một nhà đầy bạc đầy vàng, tôi cũng chẳng làm gì trái lệnh Ðức Chúa, Thiên Chúa của tôi được, dù việc lớn hay việc nhỏ. 19 Nhưng bây giờ, cả các ông nữa, mời các ông cũng nghỉ đêm ở đây, và tôi sẽ biết Ðức Chúa có phán thêm điều gì với tôi không.” 20 Ðêm ấy Thiên Chúa đến với ông Bi-lơ-am và phán bảo ông: "Những người ấy đến, không phải để gọi ngươi đó sao? Cứ trỗi dậy, đi với chúng. Nhưng ngươi chỉ được làm điều Ta bảo ngươi.” 21 Sáng ngày, ông Bi-lơ-am trỗi dậy, thắng con lừa cái của mình và lên đường với các thủ lãnh Mô-áp.

Con lừa cái của ông Bi-lơ-am

22 Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa bừng lên vì ông đã ra đi, và thần sứ của Ðức Chúa đứng trên đường chận lối ông đi. Ông cỡi con lừa cái của mình, có hai tiểu đồng đi theo. 23 Khi con lừa thấy thần sứ của Ðức Chúa đứng trên đường, gươm trần trong tay, thì nó tránh đường, đi xuống ruộng. Ông Bi-lơ-am đánh con lừa cho nó lên trên đường.

24 Bấy giờ thần sứ của Ðức Chúa đứng chặn tại một đường mòn giữa các vườn nho, tả hữu có tường. 25 Con lừa cái trông thấy thần sứ của Ðức Chúa thì đi ép vào tường khiến chân ông Bi-lơ-am bị cọ xát. Ông lại đánh nó.

26 Thần sứ của Ðức Chúa lại đi tới và đứng ở một nơi chật hẹp đến nỗi không còn chỗ tránh qua bên tả bên hữu. 27 Con lừa trông thấy thần sứ của Ðức Chúa, liền nằm bẹp xuống bên dưới ông Bi-lơ-am. Ông Bi-lơ-am nổi nóng lại dùng gậy đánh con lừa.

28 Bấy giờ Ðức Chúa liền mở miệng con lừa; nó nói với ông Bi-lơ-am: "Tôi đã làm gì ông, mà ông lại đánh tôi những ba lần?” 29 Ông Bi-lơ-am nói với con lừa: "Vì mày đã ngạo tao. Tao mà có sẵn chiếc gươm trong tay, thì tao đã giết mày rồi!” 30 Con lừa nói với ông Bi-lơ-am: "Tôi không phải là con lừa cái của ông, mà ông đã cỡi mãi cho tới ngày hôm nay sao? Tôi có quen làm như vậy với ông bao giờ chưa?" Ông đáp: "Chưa bao giờ."

31 Bấy giờ Ðức Chúa mới mở mắt cho ông Bi-lơ-am thấy thần sứ của Ðức Chúa trên đường, gươm trần trong tay. Ông quỳ xuống, sấp mặt sát đất. 32 Thần sứ của Ðức Chúa nói với ông: "Tại sao ngươi đánh con lừa của ngươi những ba lần? Này, chính Ta đứng ra chặn đường ngươi, vì trước mặt Ta, con đường này nguy hiểm. 33 Con lừa cái thấy Ta, thì nó đã tránh mặt Ta những ba lần. Giả như nó không tránh mặt Ta, thì chắc chắn Ta đã giết chết ngươi, còn nó thì Ta đã để cho sống.” 34 Ông Bi-lơ-am thưa với thần sứ của Ðức Chúa: "Tôi đã trót phạm tội, vì tôi không biết là Ngài đứng chặn đường không cho tôi đi. Bây giờ nếu Ngài thấy là không được, thì tôi sẽ quay về nhà.” 35 Thần sứ của Ðức Chúa nói với ông Bi-lơ-am: "Ngươi cứ đi với các người ấy; nhưng ngươi chỉ được nói điều Ta bảo ngươi." Thế là ông Bi-lơ-am cùng đi với các thủ lãnh của vua Ba-lác.

Ông Bi-lơ-am và vua Ba-lác

36 Khi ông Ba-lác nghe tin ông Bi-lơ-am tới, thì ra đón ông tại kinh thành Mô-áp, trên ranh giới Ác-nôn, ở điểm chót của ranh giới. 37 Vua Ba-lác nói với ông Bi-lơ-am: "Nào tôi đã chẳng cho người đến mời ông sao? Tại sao ông lại không đến với tôi? Dễ thường tôi không đủ khả năng trọng đãi ông?” 38 Ông Bi-lơ-am thưa lại với vua Ba-lác: "Này tôi đã đến với ông đây. Nhưng tôi có thể nói gì bây giờ? Lời nào Thiên Chúa đặt vào miệng tôi thì tôi nói thôi."

39 Ông Bi-lơ-am cùng đi với vua Ba-lác; họ tới Kia-giát Khu-xốt. 40 Vua Ba-lác sát tế bò chiên và gửi biếu ông Bi-lơ-am và các thủ lãnh đang ở với ông này. 41 Sáng hôm sau vua Ba-lác mời ông Bi-lơ-am tới, và đưa ông lên Ba-mốt Ba-an; từ đây ông nhìn thấy phần cuối trại của dân.

Chương 23

1 Ông Bi-lơ-am thưa với vua Ba-lác: "Xin xây cho tôi bảy bàn thờ ngay tại đây, liệu ở đây cho tôi bảy con bò mộng và bảy con cừu đực.” 2 Vua Ba-lác làm như ông Bi-lơ-am nói. Và vua Ba-lác cùng ông Bi-lơ-am dâng một con bò mộng và một con cừu đực tại mỗi bàn thờ. 3 Ông Bi-lơ-am thưa với vua Ba-lác: "Xin ngài đứng cạnh lễ toàn thiêu của ngài; còn tôi, tôi sẽ đi. Có khi Ðức Chúa sẽ hiện ra cho tôi gặp Người; và Người cho tôi thấy gì, tôi sẽ tỏ cho ngài biết." Và ông đi lên một ngọn đồi hoang.

Lời sấm của Bi-lơ-am

4 Thiên Chúa đón gặp ông Bi-lơ-am, và ông thưa với Người: "Tôi đã sắp đặt bảy bàn thờ và đã dâng một con bò mộng và một con cừu đực tại mỗi bàn thờ.” 5 Bấy giờ Ðức Chúa đặt một lời vào miệng ông Bi-lơ-am, và bảo ông rằng: "Hãy trở về với Ba-lác và nói như sau.” 6 Ông trở về với vua, thì này vua đang đứng cạnh lễ toàn thiêu cùng với tất cả các thủ lãnh Mô-áp. 7 Ông cất tiếng đọc bài thơ của mình như sau:

"Từ A-ram, Ba-lác vua Mô-áp đã cho mời tôi đến

từ các vùng đồi núi phía đông:

Hãy đến mà trù Gia-cóp cho ta, hãy đến mà rủa Ít-ra-en!

8 Làm sao tôi trù được kẻ Thượng Ðế không trù?

Làm sao tôi rủa được kẻ Ðức Chúa không rủa?

9 Thật ra, tôi đã thấy nó từ các đỉnh núi cao,

từ các ngọn đồi, tôi đã nhìn ngắm nó:

Nó là một dân được tách biệt;

không bị xếp đồng hàng với chư dân.

10 Ai đếm được bụi đất của Gia-cóp?

Ai điểm được một phần tư của Ít-ra-en?

Ước chi tôi được chết cái chết của người công chính,

và tôi được mãn phần như họ."

11 Vua Ba-lác nói với ông Bi-lơ-am: "Ông làm gì ta thế? Ta đưa ông tới để ông nguyền rủa kẻ thù của ta, thế mà, này ông chỉ chúc phúc thôi!” 12 Ông trả lời và nói: "Tôi lại không phải lo nói điều Ðức Chúa đặt vào miệng tôi sao?” 13 Vua Ba-lác nói với ông: "Mời ông đi chỗ khác với ta, từ nơi ấy ông sẽ thấy dân; ông sẽ chỉ thấy phần cuối của nó, chứ không thấy hết đâu. Từ nơi ấy, ông hãy nguyền rủa nó cho ta.” 14 Bấy giờ vua đưa ông ấy tới cánh đồng Xô-phim, lên ngọn Pít-ga, rồi xây bảy bàn thờ, và dâng một con bò mộng và một con cừu đực làm lễ toàn thiêu tại mỗi bàn thờ. 15 Ông Bi-lơ-am thưa với vua Ba-lác: "Xin ngài đứng đây, bên các lễ toàn thiêu của ngài, còn tôi sẽ đi gặp Thiên Chúa ở đàng kia.” 16 Ðức Chúa đón ông Bi-lơ-am, Người đặt vào miệng ông một lời và bảo ông rằng: "Hãy trở về với Ba-lác và nói như sau.” 17 Ông trở về với vua, thì này vua đang đứng bên các lễ toàn thiêu của mình cùng với các thủ lãnh Mô-áp. Vua Ba-lác hỏi: "Ðức Chúa đã nói gì thế?” 18 Ông Bi-lơ-am cất tiếng đọc bài thơ của mình như sau:

"Này vua Ba-lác, đứng dậy mà nghe,

hãy lắng tai nghe tôi, hỡi con của Xíp-po:

19 Thiên Chúa không phải là phàm nhân mà gian ngoa được,

cũng chẳng là con người mà phải hối hận.

Phải chăng Người nói mà không làm?

Hay Người phán mà không thực hiện?

20 Này Chúa bắt tôi phải chúc phúc,

tôi sẽ chúc phúc mà không tiếc lời.

21 Tôi đã không thấy gian ác nơi Gia-cóp,

cũng chẳng gặp áp bức trong Ít-ra-en.

Ðức Chúa, Thiên Chúa của nó, hằng kề bên,

tiếng "vạn tuế Ðức Vua" trỗi vang lừng.

22 Thiên Chúa đã đưa nó ra khỏi Ai-cập,

Người là sức mạnh của nó tựa sừng trâu.

23 Vì chẳng có tiếng trù hại Gia-cóp,

cũng không có lời rủa chống Ít-ra-en.

Mà người ta còn nói về Gia-cóp

và Ít-ra-en: Thiên Chúa làm gì vậy?

24 Này một dân chỗi dậy như sư tử cái,

như sư tử đực, nó chồm lên.

nó không nằm xuống khi chưa nuốt mồi,

chưa uống máu những người nó đã giết."

25 Vua Ba-lác nói với ông Bi-lơ-am: "Nếu ông không nguyền rủa nó được, thì ít ra đừng chúc phúc cho nó!” 26 Nhưng ông Bi-lơ-am trả lời và nói với vua Ba-lác: "Tôi đã không thưa với ngài là tôi phải làm tất cả những gì Ðức Chúa phán bảo sao?"

27 Vua Ba-lác lại nói với ông Bi-lơ-am: "Ðến đây, ta sẽ đưa ông đi nơi khác, may ra tại đó Thiên Chúa sẽ chấp thuận cho ông nguyền rủa nó cho ta.” 28 Vua Ba-lác đưa ông Bi-lơ-am lên ngọn Pơ-o, là ngọn núi đối diện với sa mạc. 29 Ông Bi-lơ-am nói với vua Ba-lác: "Xin xây cho tôi bảy bàn thờ ngay tại đây, liệu ở đây cho tôi bảy con bò mộng và bảy con cừu đực.” 30 Vua Ba-lác làm như ông Bi-lơ-am nói và ông đã dâng một con bò mộng và một con cừu đực làm lễ toàn thiêu tại mỗi bàn thờ.

Chương 24

1 Khi ông Bi-lơ-am thấy Ðức Chúa vui lòng chúc phúc cho Ít-ra-en, thì ông không đi tìm lời trù rủa như mấy lần trước, nhưng quay mặt về phía sa mạc. 2 Ông Bi-lơ-am ngước mắt lên và nhìn thấy Ít-ra-en đóng trại theo chi tộc của họ. Thần khí Thiên Chúa ở trên ông, 3 ông liền cất tiếng đọc bài thơ sau đây:

"Sấm ngôn của Bi-lơ-am, con Bơ-o,

sấm ngôn của người mắt vẫn mở.

4 Sấm ngôn của người nghe các lời Thiên Chúa,

người ngắm nhìn thị kiến Ðấng Toàn Năng,

của người ngủ mà mắt vẫn mở trong lúc xuất thần.

5 Hỡi Gia-cóp, lều bạt của ngươi đẹp biết mấy!

Hỡi Ít-ra-en, đẹp biết mấy doanh trại của ngươi!

6 Như thung lũng trải dài, như vườn cạnh bờ sông,

như lô hội Ðức Chúa đã trồng,

như hương nam mọc bên dòng nước.

7 Từ các bồn của nó, nước tràn ra,

và hạt giống nó được tưới dồi dào.

Vua của nó cao cả hơn A-gác,

và vương quốc nó được tôn vinh.

8 Thiên Chúa đã đưa nó ra khỏi Ai-cập,

Người là sức mạnh của nó tựa sừng trâu.

Nó sẽ nuốt chư dân thù nghịch nó.

Xương của chúng, nó sẽ nghiền nát tan

và dùng tên bắn gục quân thù.

9 Nó phục xuống, nằm yên như sư tử.

Nó tựa sư tử cái, ai nào dám tấn công?

Phúc thay kẻ chúc phúc cho ngươi!

Và khốn cho kẻ trù rủa ngươi!"

10 Vua Ba-lác nổi giận với ông Bi-lơ-am. Vua đập tay và nói với ông Bi-lơ-am: "Ta đã vời ông đến để ông nguyền rủa quân thù của ta, nhưng này, đã ba lần ông chỉ chúc phúc cho nó. 11 Bây giờ ông hãy về đi. Ta đã nói ta sẽ trọng đãi ông, nhưng này Ðức Chúa không cho ông được trọng đãi.” 12 Ông Bi-lơ-am thưa vua Ba-lác: "Tôi đã không nói với các sứ giả ngài sai đến với tôi thế này sao, là 13 vua Ba-lác có cho tôi một nhà đầy bạc đầy vàng, tôi cũng không thể trái lệnh Ðức Chúa, mà tự ý làm điều gì, dù tốt hay xấu; Ðức Chúa nói sao, tôi nói vậy. 14 Bây giờ tôi sắp về với dân tôi. Này, tôi nói cho ngài biết điều mà dân (Ít-ra-en) sẽ làm cho dân ngài trong những ngày gần đây.” 15 Rồi ông cất tiếng đọc bài thơ của mình như sau:

"Sấm ngôn của Bi-lơ-am, con Bơ-o,

sấm ngôn của người mắt vẫn mở.

16 Sấm ngôn của người nghe các lời Thiên Chúa,

và biết những tư tưởng của Ðấng Tối Cao,

được Ðấng Toàn Năng cho nhìn linh thị,

của người ngủ mà mắt vẫn mở trong lúc xuất thần.

17 Tôi thấy nó, nhưng bây giờ chưa phải lúc,

tôi nhìn, nhưng chưa thấy nó kề bên;

một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp,

một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en

sẽ đập vào màng tang Mô-áp, đánh vỡ sọ tất cả con cái Sết,

18 và xâm chiếm Ê-đôm,

cả Xê-ia cũng bị xâm chiếm nữa.

Ít-ra-en sẽ biểu dương sức mạnh,

19 Gia-cóp sẽ thống trị quân thù,

và tiêu diệt kẻ trốn khỏi thành phố."

20 Khi thấy A-ma-lếch, ông cất tiếng đọc câu thơ như sau:

"A-ma-lếch đứng đầu chư dân

nhưng hậu vận nó sẽ muôn đời tận tuyệt."

21 Khi thấy người Kê-ni, ông cất tiếng đọc câu thơ như sau:

"Hiện nay dinh thự ngươi kiên cố,

và tổ ấm ngươi được đặt trên đá tảng.

22 Nhưng Ca-in sẽ phải tiêu vong,

ngươi sẽ bị Át-sua cầm tù, biết đến khi nao? "

23 Và ông cất tiếng đọc câu thơ như sau:

"Ôi, khi Thiên Chúa ra tay, ai nào sống nổi!

24 Tàu bè từ Kít-tim đến, đàn áp Át-sua, đàn áp Ê-ve,

nhưng chính nó cũng muôn đời tận tuyệt."

25 Sau đó ông Bi-lơ-am đứng dậy lên đường về xứ, còn vua Ba-lác cũng đường mình mà đi.

Chương 25

Ít-ra-en tại Pơ-o

1 Khi trú ngụ tại Sít-tim, dân Ít-ra-en bắt đầu dâm đãng với gái Mô-áp. 2 Bọn này rủ rê dân thờ cúng các thần của chúng; dân đã ăn uống và thờ lạy các thần của chúng. 3 Ít-ra-en bán mình cho Ba-an Pơ-o và Ðức Chúa nổi cơn thịnh nộ với họ.

4 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đem tất cả các thủ lãnh của dân ra ngoài nắng mà treo lên trước mặt Ðức Chúa, để Ðức Chúa nguôi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en.” 5 Ông Mô-sê nói với các thẩm phán: "Mỗi người trong anh em hãy giết những kẻ đã bán mình cho Ba-an Pơ-o."

6 Bỗng một người trong số con cái Ít-ra-en xuất hiện, dẫn theo một gái Ma-đi-an về nhà, ngay trước mắt ông Mô-sê và toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en lúc ấy đang khóc lóc tại cửa Lều Hội Ngộ. 7 Thấy vậy, ông Pin-khát, con của E-la-da, cháu tư tế A-ha-ron, liền đứng lên giữa cộng đồng, cầm một chiếc giáo trong tay, 8 đi theo người Ít-ra-en vào tận phòng hắn và đâm cả hai người, gã đàn ông Ít-ra-en và mụ đàn bà kia ngay giữa bụng. Thế là chấm dứt tai ương đe doạ con cái Ít-ra-en. 9 Số người chết trong tai ương đó, là 24,000.

10 Ðức Chúa phán bảo ông Mô-sê rằng: 11 "Pin-khát con của E-la-da, cháu tư tế A-ha-ron, đã ngăn Ta trút cơn phẫn nộ xuống con cái Ít-ra-en, khi nó cũng nổi ghen như Ta, chống lại bọn người kia. Vì vậy Ta không tiêu diệt con cái Ít-ra-en trong cơn ghen của Ta. 12 Cho nên, ngươi hãy bảo nó: Này, Ta ban cho nó giao ước bình an của Ta. 13 Ðối với nó, cũng như con cháu nó sau này, đó sẽ là giao ước bảo đảm cho nó chức tư tế đời đời, bởi vì nó đã nổi ghen cho Thiên Chúa của nó, và làm cho con cái Ít-ra-en được xá tội."

14 Người Ít-ra-en đã bị đâm cùng với người đàn bà Ma-đi-an tên là Dim-ri, con của Xa-lu, đứng đầu một gia tộc thuộc Si-mê-ôn. 15 Và người đàn bà Ma-đi-an bị đâm tên là Cót-bi, con gái ông Xua, ông này là thủ lãnh các dòng họ một gia tộc Ma-đi-an.

16 Ðức Chúa phán bảo ông Mô-sê rằng: 17 "Hãy tấn công quân Ma-đi-an và giết chúng đi. 18 Vì chúng đã tấn công các ngươi, và dùng mưu mô quỷ quyệt đối với các ngươi trong vụ Pơ-o và vụ Cót-bi, con gái một thủ lãnh Ma-đi-an, chị em của chúng, kẻ đã bị đâm chết ngày xảy ra tai ương trong vụ Pơ-o."

VIII. Quy Ðịnh Mới

Kiểm tra

19 Sau tai ương đó,

Chương 26

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông E-la-da, con tư tế A-ha-ron rằng: 2 "Các ngươi hãy kiểm tra toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, từ hai mươi tuổi trở lên, nghĩa là mọi người đến tuổi nhập ngũ trong dân Ít-ra-en.” 3 Ông Mô-sê và tư tế E-la-da đã kiểm tra tại thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô, 4 những người từ hai mươi tuổi trở lên, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê và con cái Ít-ra-en, khi họ đã ra khỏi đất Ai-cập.

5 Rưu-vên, trưởng nam của Ít-ra-en. Con cái Rưu-vên: Kha-nốc, thủy tổ thị tộc Kha-nốc; Pa-lu, thủy tổ thị tộc Pa-lu; 6 Khét-rôn, thủy tổ thị tộc Khét-rôn; Các-mi, thủy tổ thị tộc Các-mi. 7 Ðó là các thị tộc thuộc chi tộc Rưu-vên. Tổng số người được kiểm là 43,730.

8 Con cháu Pa-lu: Ê-li-áp. 9 Các con Ê-li-áp là Nơ-mu-ên, Ða-than và A-vi-ram. Chính Ða-than và A-vi-ram, những người được chỉ định trong cộng đồng, đã nổi lên chống ông Mô-sê và ông A-ha-ron, cùng toa rập với Cô-rắc chống lại Ðức Chúa. 10 Ðất đã mở họng nuốt chửng chúng và Cô-rắc, khiến cả bọn phải tiêu vong, và lửa đã thiêu huỷ 250 mạng để làm gương. 11 Thế nhưng con cái Cô-rắc đã không chết.

12 Con cháu Si-mê-ôn, theo thị tộc của họ: Nơ-mu-ên, thủy tổ thị tộc Nơ-mu-ên; Gia-min, thủy tổ thị tộc Gia-min; Gia-khin, thủy tổ thị tộc Gia-khin; 13 De-rác, thủy tổ thị tộc De-rác; Sa-un, thủy tổ thị tộc Sa-un. 14 Ðó là các thị tộc thuộc chi tộc Si-mê-ôn, số người được kiểm tra là 22,000.

15 Con cháu Gát, theo thị tộc của họ: Xơ-phôn, thủy tổ thị tộc Xơ-phôn; Khác-ghi, thủy tổ thị tộc Khác-ghi; Su-ni, thủy tổ thị tộc Su-ni; 16 Ót-ni, thủy tổ thị tộc Ót-ni; Ê-ri, thủy tổ thị tộc Ê-ri; 17 A-rốt, thủy tổ thị tộc A-rốt; Ác-ê-li, thủy tổ thị tộc Ác-ê-li. 18 Ðó là các thị tộc con cháu Gát, số người được kiểm tra là 40,500.

19 Các con Giu-đa là E và Ô-nan, nhưng E và Ô-nan chết trong đất Ca-na-an. 20 Con cháu Giu-đa theo thị tộc: Sê-la, thủy tổ thị tộc Sê-la; Pe-rét, thủy tổ thị tộc Pe-rét; De-rác, thủy tổ thị tộc De-rác. 21 Con cháu Pe-rét: Khét-rôn, thủy tổ thị tộc Khét-rôn; Kha-mun, thủy tổ thị tộc Kha-mun. 22 Ðó là các thị tộc thuộc chi tộc Giu-đa, số người được kiểm tra là 76,500.

23 Con cháu Ít-xa-kha theo thị tộc của họ: Tô-la, thủy tổ thị tộc Tô-la; Pu-va, thủy tổ thị tộc Pu-va; 24 Gia-súp, thủy tổ thị tộc Gia-súp; Sim-rôn, thủy tổ thị tộc Sim-rôn. 25 Ðó là các thị tộc thuộc chi tộc Ít-xa-kha, số người được kiểm tra là 64,300.

26 Con cháu Dơ-vu-lun theo thị tộc của họ: Xe-rét, thủy tổ thị tộc Xe-rét; Ê-lôn, thủy tổ thị tộc Ê-lôn; Giác-lơ-ên, thủy tổ thị tộc Giác-lơ-ên. 27 Ðó là các thị tộc thuộc chi tộc Dơ-vu-lun, số người được kiểm tra là 60,500.

28 Con cái Giu-se, theo chi tộc họ: Mơ-na-se và Ép-ra-im. 29 Con cháu Mơ-na-se: Ma-khia, thủy tổ thị tộc Ma-khia; Ma-khia sinh Ga-la-át: Ga-la-át, thủy tổ thị tộc Ga-la-át. 30 Ðây là con cái Ga-la-át: I-e-de, thủy tổ thị tộc I-e-de; Khê-léc, thủy tổ thị tộc Khê-léc. 31 Át-ri-ên, thủy tổ thị tộc Át-ri-ên; Se-khem, thủy tổ thị tộc Se-khem. 32 Sơ-mi-đa, thủy tổ thị tộc Sơ-mi-đa; Khê-phe, thủy tổ thị tộc Khê-phe. 33 Xơ-lóp-khát, con của Khê-phe, không có con trai, chỉ có con gái, và đây là tên các con gái của Xơ-lóp-khát: Mác-la, Nô-a, Khoóc-la, Min-ca và Tia-xa. 34 Ðó là các thị tộc thuộc chi tộc Mơ-na-se; số người được kiểm tra là 52,700.

35 Ðây là con cháu Ép-ra-im, theo thị tộc của họ: Su-the-lác, thủy tổ thị tộc Su-the-lác; Be-khe, thủy tổ thị tộc Be-khe; Ta-khan, thủy tổ thị tộc Ta-khan. 36 Và đây là các con cháu Su-the-lác: Ê-ran, thủy tổ thị tộc Ê-ran. 37 Ðó là các thị tộc con cháu Ép-ra-im, số người được kiểm tra là 32,500. Những người ấy là con cháu Giu-se, theo các thị tộc.

38 Con cháu Ben-gia-min theo thị tộc của họ: Be-la, thủy tổ thị tộc Be-la; Át-bên, thủy tổ thị tộc Át-bên; A-khi-ram, thủy tổ thị tộc A-khi-ram. 39 Sơ-phu-pham, thủy tổ thị tộc Sơ-phu-pham; Khu-pham, thủy tổ thị tộc Khu-pham. 40 Các con của Be-la là: Ác-đơ và Na-a-man; Ác-đơ, thủy tổ thị tộc Ác-đơ; Na-a-man, thủy tổ thị tộc Na-a-man. 41 Ðó là các thị tộc con cháu Ben-gia-min; số người được kiểm tra là 45,600.

42 Ðây là con cháu Ðan theo thị tộc của họ: Su-kham, thủy tổ thị tộc Su-kham. Ðó là các thị tộc thuộc chi tộc Ðan được kiểm tra. 43 Tất cả các thị tộc thuộc Su-kham được kiểm tra, số người là 64,400.

44 Con cháu A-se theo thị tộc của họ: Gim-na, thủy tổ thị tộc Gim-na; Gít-vi, thủy tổ thị tộc Gít-vi; Bơ-ri-a, thủy tổ thị tộc Bơ-ri-a. 45 Thuộc con cháu Bơ-ri-a: Khe-ve, thủy tổ thị tộc Khe-ve; Man-ki-ên, thủy tổ thị tộc Man-ki-ên. 46 Tên người con gái của A-se là Xa-rác. 47 Ðó là các thị tộc con cháu A-se; số người được kiểm tra là 53,400.

48 Con cháu Náp-ta-li theo thị tộc của họ: Giác-xơ-ên, thủy tổ thị tộc Giác-xơ-ên; Gu-ni, thủy tổ thị tộc Gu-ni. 49 Giê-xe, thủy tổ thị tộc Giê-xe; Si-lêm, thủy tổ thị tộc Si-lêm. 50 Ðó là các thị tộc Náp-ta-li, theo các thị tộc của họ; số người được kiểm tra là 45,400.

51 Ðây tổng số con cái Ít-ra-en là 601,730.

52 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 53 "Ðất đai sẽ được phân chia cho những người ấy theo số tên đã ghi. 54 Ðông người thì ngươi sẽ chia cho phần lớn hơn làm gia nghiệp, và ít người thì ngươi sẽ chia cho phần nhỏ hơn làm gia nghiệp; ngươi sẽ cho mỗi chi tộc phần gia nghiệp tương xứng với số người đã được kiểm tra. 55 Nhưng phải bắt thăm để chia đất. Theo tên các chi tộc tổ tiên của chúng mà lãnh phần. 56 Cứ bắt thăm mà lãnh, tuỳ theo đông người hay ít người."

Kiểm tra các thầy Lê-vi

57 Ðây là các thầy Lê-vi đã được kiểm tra theo thị tộc của họ: Ghéc-sôn, thủy tổ thị tộc Ghéc-sôn; Cơ-hát, thủy tổ thị tộc Cơ-hát; Mơ-ra-ri, thủy tổ thị tộc Mơ-ra-ri.

58 Ðây là các thị tộc thuộc chi tộc Lê-vi: Thị tộc Líp-ni, thị tộc Khép-rôn, thị tộc Mác-li, thị tộc Mu-si, thị tộc Cô-rắc.

59 Tên người vợ của Am-ram là Giô-khe-vét, con gái ông Lê-vi, ông đã sinh bên Ai-cập. Bà đã sinh cho ông Am-ram: A-ha-ron, Mô-sê và người em gái là Mi-ri-am. 60 Ông A-ha-ron sinh ra Na-đáp, A-vi-hu, E-la-da, và I-tha-ma. 61 Na-đáp và A-vi-hu đã chết khi họ dâng lửa phàm trước nhan Ðức Chúa.

62 Số người Lê-vi được kiểm tra, tất cả con trai từ một tháng trở lên, là 23,000 bởi họ đã không được kiểm tra chung với con cái Ít-ra-en, vì không được chung phần gia nghiệp.

63 Ðó là những người được ông Mô-sê và tư tế E-la-da kiểm tra, khi các ông kiểm tra con cái Ít-ra-en trong thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô. 64 Không ai trong những người ấy đã được ông Mô-sê và tư tế A-ha-ron kiểm tra, khi các ông kiểm tra con cái Ít-ra-en trong sa mạc Xi-nai. 65 Vì, về những người này, Ðức Chúa đã phán là họ sẽ phải chết trong sa mạc. Bởi vậy, trừ ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, và trừ ông Giô-suê, con ông Nun, thì không còn ai nữa.

Chương 27

Gia tài cho con gái

1 Bấy giờ các con gái của ông Xơ-lóp-khát tiến đến. Ông này là con ông Khê-phe, cháu ông Ga-la-át, chắt ông Ma-khia, chít ông Mơ-na-se, thuộc chi tộc ông Giu-se. Và đây là tên các cô gái đó: Mác-la, Nô-a, Khoóc-la, Min-ca và Tia-xa. 2 Họ đứng trước mặt ông Mô-sê, trước mặt tư tế E-la-da, trước mặt các thủ lãnh và toàn thể cộng đồng, ở cửa Lều Hội Ngộ, và nói: 3 "Cha chúng tôi đã mất trong sa mạc. Người đã không có chân trong nhóm những kẻ toa rập với nhau chống lại Ðức Chúa, tức là nhóm Cô-rắc. Chỉ vì tội riêng mình mà người đã mất đi, khi chưa có con trai. 4 Tại sao cha chúng tôi lại bị xoá tên khỏi thị tộc của người, vì người không có con trai? Xin cho chúng tôi một phần đất giữa các anh em của cha chúng tôi."

5 Ông Mô-sê trình lên Ðức Chúa trường hợp của họ. 6 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 7 "Các con gái của Xơ-lóp-khát nói có lý. Ngươi phải cho chúng một phần đất làm gia nghiệp giữa các anh em của cha chúng; ngươi sẽ chuyển cho chúng gia nghiệp của cha chúng. 8 Và ngươi sẽ nói với con cái Ít-ra-en: "Khi một người nào chết mà không có trai, thì anh em sẽ chuyển gia nghiệp của người đó cho con gái người đó. 9 Nếu người đó không có con gái, anh em sẽ trao gia nghiệp cho anh em của người đó. 10 Nếu người đó không có anh em, thì sẽ trao gia nghiệp cho anh em của cha người đó. 11 Còn nếu cha người đó không có anh em, thì sẽ trao gia nghiệp cho thân nhân gần nhất trong thị tộc; người này sẽ làm chủ gia nghiệp đó. Ðối với con cái Ít-ra-en, đó sẽ là một quy tắc pháp lý, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê."

Ông Giô-suê làm thủ lãnh cộng đồng

12 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy lên ngọn núi kia của dãy A-va-rim, và hãy nhìn xem miền đất mà Ta ban cho con cái Ít-ra-en. 13 Khi đã nhìn xem rồi, ngươi cũng sẽ về sum họp với gia tiên, như A-ha-ron anh ngươi, 14 vì ở sa mạc Xin, trong lúc cộng đồng chống đối Ta, các ngươi đã chống lại lệnh Ta truyền làm cho nước chảy ra để tỏ bày sự thánh thiện của Ta trước mắt chúng. Ðó là vụ nước Mơ-ri-va ở Ca-đê, trong sa mạc Xin."

15 Ông Mô-sê thưa với Ðức Chúa: 16 "Ước gì Ðức Chúa, là Thiên Chúa ban sinh khí cho mọi xác phàm, đặt một người lãnh đạo cộng đồng. 17 Người ấy sẽ ra vào trước họ và dẫn họ ra vào, để cộng đồng của Ðức Chúa đừng giống như đàn chiên không có mục tử chăn dắt.” 18 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy đem theo Giô-suê, con của Nun, là người có thần khí nơi mình, và ngươi sẽ đặt tay trên nó. 19 Ngươi sẽ cho nó đứng trước mặt tư tế E-la-da và trước mặt toàn thể cộng đồng. Ngươi sẽ truyền lệnh cho nó trước mắt chúng. 20 Ngươi sẽ chia cho nó một phần uy quyền của ngươi, để toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en nghe lời nó. 21 Nó sẽ đứng trước mặt tư tế E-la-da. Tư tế sẽ đến trước nhan Ðức Chúa mà xin thẻ xăm u-rim cho nó. Theo lệnh của tư tế, toàn thể cộng đồng, nghĩa là nó và mọi con cái Ít-ra-en, sẽ ra sẽ vào."

22 Ông Mô-sê đã làm như Ðức Chúa truyền cho ông: Ông đã đem theo Giô-suê và cho ông này đứng trước mặt tư tế E-la-da và trước mặt toàn thể cộng đồng. 23 Ông đặt tay trên ông Giô-suê và ra lệnh cho ông ấy như Ðức Chúa đã dùng ông Mô-sê mà phán.

Chương 28

Xác định về các hy lễ

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Hãy ra lệnh cho con cái Ít-ra-en, và nói với chúng lời của Ta:

Vào đúng thời đúng buổi, các ngươi sẽ chăm lo dâng lên Ta lễ vật, lương thực, dưới hình thức hoả tế nghi ngút hương thơm, làm thoả lòng Ta.

3 Ngươi sẽ nói với chúng: Ðây là lễ hoả tế anh em sẽ dâng Ðức Chúa.

A. Hy lễ thường nhật (Xh 29 :38-46)

Mỗi ngày phải dâng làm lễ vật toàn thiêu thường tiến hai con chiên một tuổi, toàn vẹn, 4 một con vào lúc sáng, một con vào lúc chập tối. 5 Ngoài ra ngươi sẽ dâng bốn lít rưỡi tinh bột lúa miến nhào với hai lít dầu ô-liu giã trong cối. 6 Ðó là lễ toàn thiêu thường tiến dâng trên núi Xi-nai, lễ vật nghi ngút hương thơm làm thoả lòng Ðức Chúa; đó là lễ hoả tế dâng Người. 7 Số lượng rượu tế dâng cùng với con chiên thứ nhất là hai lít; người ta sẽ đổ rượu nồng dâng Ðức Chúa, trong nơi thánh. 8 Còn con chiên thứ hai, ngươi sẽ dâng vào lúc chập tối, cùng với lễ phẩm và rượu tế như ban sáng: đó là lễ hoả tế, hương thơm dâng Ðức Chúa, làm thoả lòng Người.

B. Ngày sa-bát

9 Ngày sa-bát, các ngươi sẽ dâng hai con chiên một tuổi, toàn vẹn, cùng với chín lít tinh bột lúa miến nhào với dầu làm lễ phẩm, kèm theo rượu tế. 10 Ðó là lễ toàn thiêu của ngày sa-bát, riêng cho mỗi ngày sa-bát, không kể lễ toàn thiêu thường xuyên và lễ tưới rượu.

C. Ngày sóc

11 Hàng tháng, vào ngày sóc, các ngươi sẽ dâng lên Ðức Chúa làm lễ toàn thiêu: hai con bò tơ, một con cừu đực, bảy chiên một tuổi, toàn vẹn. 12 Khi dâng mỗi con bò, thì phải dâng mười ba lít rưỡi tinh bột lúa miến nhào với dầu làm lễ phẩm; khi dâng con cừu đực độc nhất, thì phải dâng chín lít tinh bột lúa miến nhào với dầu làm lễ phẩm. 13 Mỗi lần dâng một con chiên, thì phải dâng bốn lít rưỡi tinh bột lúa miến nhào với dầu làm lễ phẩm: đó là lễ toàn thiêu, là lễ vật nghi ngút hương thơm, làm thoả lòng Ðức Chúa, là lễ hoả tế dâng Người. 14 Số lượng rượu tế dâng cùng với con bò sẽ là bốn lít, cùng với con cừu đực là hai lít rưỡi, và cùng với con chiên là hai lít. Ðó sẽ là lễ toàn thiêu phải dâng tháng này qua tháng nọ, tất cả mọi tháng trong năm. 15 Không kể lễ toàn thiêu thường tiến, còn phải dâng Ðức Chúa một con cừu đực làm lễ tạ tội, kèm theo lễ tưới rượu.

D. Lễ bánh không men (Lv 23 :5-8)

16 Ngày mười bốn tháng giêng, sẽ cử hành lễ Vượt Qua kính Ðức Chúa, 17 và ngày mười lăm tháng ấy sẽ là một ngày lễ. Trong bảy ngày, người ta sẽ ăn bánh không men. 18 Ngày thứ nhất sẽ phải tập hợp để thờ phượng Ðức Chúa, anh em không được làm một việc nặng nhọc nào. 19 Anh em sẽ dâng hoả tế làm lễ toàn thiêu kính Ðức Chúa: hai bò tơ, một cừu đực và bảy con chiên một tuổi; anh em phải chọn những con toàn vẹn. 20 Phải dâng tinh bột lúa miến nhào với dầu làm lễ phẩm: khi dâng mỗi con bò thì dâng mười ba lít rưỡi, khi dâng con cừu đực thì dâng chín lít; 21 mỗi lần dâng một con chiên trong số bảy con, thì dâng bốn lít rưỡi. 22 Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ vật tạ tội, để cử hành nghi lễ xá tội cho anh em. 23 Anh em sẽ dâng những lễ vật đó, không kể lễ toàn thiêu ban sáng là một phần lễ toàn thiêu thường tiến. 24 Anh em sẽ dâng như thế mỗi ngày trong suốt bảy ngày: đó là lương thực, là hoả tế, là lễ vật nghi ngút hương thơm, làm thoả lòng Ðức Chúa, kèm theo lễ toàn thiêu thường tiến và lễ tưới rượu. 25 Ngày thứ bảy, anh em sẽ phải tập hợp để thờ phượng Ðức Chúa, anh em không được làm một việc nặng nhọc nào.

Ð. Lễ các tuần (Lv 23 :15-22)

26 Ngày hoa trái đầu mùa, khi dâng tiến Ðức Chúa lễ phẩm mới vào lễ các Tuần, anh em sẽ phải tập hợp để thờ phượng Ðức Chúa, anh em không được làm một việc nặng nhọc nào. 27 Anh em sẽ dâng lễ vật toàn thiêu nghi ngút hương thơm, làm thoả lòng Ðức Chúa: hai con bò tơ, một con cừu đực, bảy con chiên một tuổi. 28 Phải dâng tinh bột lúa miến nhào dầu làm lễ phẩm: khi dâng mỗi con bò thì dâng mười ba lít rưỡi, khi dâng con cừu đực độc nhất thì dâng chín lít, 29 mỗi lần dâng một con chiên trong số bảy con, thì dâng bốn lít rưỡi. 30 Cũng phải dâng một con dê đực để cử hành lễ xá tội cho anh em. 31 Anh em sẽ dâng những lễ vật đó, không kể lễ toàn thiêu thường tiến và lễ phẩm của lễ đó; anh em phải chọn những con vật toàn vẹn; anh em sẽ dâng các lễ vật đó kèm theo rượu tế.

Chương 29

E. Ngày hò reo (Lv 23:23-25)

1 Ngày mồng một tháng bảy, anh em sẽ phải tập hợp để thờ phượng Ðức Chúa; anh em không được làm một việc nặng nhọc nào: đối với anh em, đó sẽ là ngày Hò reo. 2 Anh em sẽ dâng lễ toàn thiêu như hương thơm làm thoả lòng Ðức Chúa: một bò tơ, một cừu đực, bảy con chiên một tuổi, toàn vẹn. 3 Phải dâng tinh bột lúa miến nhào dầu làm lễ phẩm: khi dâng con bò, thì dâng mười ba lít rưỡi; khi dâng con cừu đực thì dâng chín lít, 4 và khi dâng mỗi con chiên trong số bảy con, thì dâng bốn lít rưỡi. 5 Anh em cũng phải dâng một con cừu đực làm lễ tạ tội, để cử hành lễ xá tội cho anh em. 6 Ấy là không kể lễ toàn thiêu dâng mỗi tháng với lễ phẩm, lễ toàn thiêu thường tiến với lễ phẩm, và các lễ tưới rượu như luật định. Ðó là những lễ toàn thiêu như hương thơm làm thoả lòng Ðức Chúa, là lễ hoả tế kính Người.

G. Ngày xá tội (Lv 23 :26-32)

7 Ngày mồng mười tháng bảy đó, anh em sẽ phải tập hợp để thờ phượng Ðức Chúa; anh em phải ăn chay hãm mình và không được làm một công việc tay chân nặng nhọc nào. 8 Anh em sẽ dâng lên Ðức Chúa lễ toàn thiêu như hương thơm làm thoả lòng Người: một bò tơ, một cừu đực, bảy con chiên một tuổi; anh em phải chọn những con toàn vẹn. 9 Phải dâng tinh bột lúa miến nhào dầu làm lễ phẩm: khi dâng con bò, thì dâng mười ba lít rưỡi; khi dâng con cừu đực độc nhất, thì dâng chín lít; 10 khi dâng mỗi con chiên trong số bảy con, thì dâng mỗi lần bốn lít rưỡi. 11 Anh em sẽ phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể lễ tạ tội dâng vào ngày xá tội, lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và các thứ rượu tế.

H. Lễ lều (Lv 23 :33-44)

12 Ngày rằm tháng bảy, anh em phải tập hợp để thờ phượng Ðức Chúa; anh em không được làm một việc nặng nhọc nào, và phải mừng lễ kính Ðức Chúa trong bảy ngày. 13 Anh em sẽ dâng lên Ðức Chúa lễ toàn thiêu, lễ hoả tế, như hương thơm làm thoả lòng Người: mười ba bò tơ, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, những con toàn vẹn. 14 Phải dâng tinh bột lúa miến nhào dầu làm lễ phẩm: khi dâng mỗi con bò trong số mười ba con, thì dâng mười hai lít; khi dâng mỗi con cừu đực trong số hai con thì dâng tám lít; 15 mỗi lần dâng một con chiên trong số mười bốn con, thì dâng bốn lít. 16 Anh em cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến, lễ phẩm và rượu tế.

17 Ngày thứ hai thì dâng mười hai con bò tơ, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn, 18 cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò tơ, cừu đực và chiên, như luật định. 19 Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và các thứ rượu tế.

20 Ngày thứ ba thì dâng mười một bò, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn, 21 cùng với các lễ phẩm và rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên, như luật định. 22 Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến cũng như lễ phẩm và rượu tế.

23 Ngày thứ tư thì dâng mười bò, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn, 24 cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên, như luật định. 25 Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và rượu tế.

26 Ngày thứ năm thì dâng chín bò, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn, 27 cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên, như luật định. 28 Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và rượu tế.

29 Ngày thứ sáu thì dâng tám bò, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn, 30 cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên, như luật định. 31 Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và rượu tế.

32 Ngày thứ bảy thì dâng bảy bò, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn, 33 cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên, như luật định. 34 Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và rượu tế.

35 Ngày thứ tám, anh em sẽ có một cuộc họp long trọng, và không được làm một việc nặng nhọc nào. 36 Anh em phải dâng lễ toàn thiêu, lễ hoả tế, như hương thơm làm thoả lòng Ðức Chúa: một bò, một cừu đực, bảy con chiên một tuổi, toàn vẹn, 37 cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên, như luật định. 38 Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và rượu tế.

39 Ðó là những gì anh em phải làm để kính Ðức Chúa trong các ngày lễ của anh em: các lễ toàn thiêu, lễ phẩm, lễ tưới rượu và lễ kỳ an, không kể những lễ vật anh em đã khấn hứa và những lễ vật tự nguyện."

Chương 30

1 Ông Mô-sê đã nói với con cái Ít-ra-en như Ðức Chúa đã truyền cho ông.

Luật về các lời khấn hứa

2 Ông Mô-sê nói với các thủ lãnh các chi tộc con cái Ít-ra-en: "Ðây là điều Ðức Chúa đã truyền:

3 Khi người đàn ông nào khấn hứa với Ðức Chúa hay thề hứa tự buộc mình làm điều gì, thì người ấy sẽ không được lỗi lời mình: người ấy phải thực hiện những gì miệng đã nói ra.

4 Khi một phụ nữ khấn hứa với Ðức Chúa và tự buộc mình làm điều gì, lúc thiếu thời còn ở nhà cha, 5 và nếu cha người ấy nghe nói về lời khấn hứa và điều người ấy tự buộc mình làm, mà ông vẫn im lặng, thì mọi lời khấn hứa của người ấy có hiệu lực, và mọi điều người ấy tự buộc mình làm cũng đều có hiệu lực. 6 Nhưng nếu cha người ấy phản đối ngay trong ngày ông nghe biết được, thì mọi lời khấn hứa và mọi điều người ấy tự buộc mình làm, không có hiệu lực. Ðức Chúa sẽ dung thứ cho người ấy, vì cha người ấy đã phản đối.

7 Nếu người ấy đi lấy chồng, khi vẫn còn phải giữ những lời khấn hứa hay bị ràng buộc bởi một lời hứa thiếu suy nghĩ nào miệng người ấy đã thốt ra, 8 và nếu người chồng nghe biết được mà vẫn im lặng trong ngày nghe biết được chuyện ấy, thì những lời khấn hứa của người phụ nữ ấy có hiệu lực, và những điều mà người ấy tự buộc mình làm cũng đều có hiệu lực. 9 Nhưng nếu trong ngày nghe biết được, chồng người ấy phản đối, thì anh ta huỷ bỏ lời khấn hứa còn ràng buộc người vợ, và lời hứa thiếu suy nghĩ người vợ đã tự buộc mình phải giữ, Ðức Chúa sẽ dung thứ cho người phụ nữ ấy.

10 Lời khấn hứa của người đàn bà goá hoặc bị chồng bỏ, và mọi điều người ấy tự buộc mình làm, đều có hiệu lực đối với người ấy.

11 Nếu tại chính nhà chồng, một phụ nữ đã khấn hứa hoặc lấy lời thề tự buộc mình làm điều gì, 12 và nếu người chồng nghe biết được mà vẫn im lặng, không phản đối, thì mọi lời khấn hứa của người ấy có hiệu lực, và mọi điều người ấy tự buộc mình làm cũng đều có hịệu lực. 13 Nhưng nếu người chồng huỷ bỏ ngay trong ngày nghe biết, thì mọi điều miệng người vợ thốt ra khi khấn hứa và tự buộc mình làm, sẽ không có hiệu lực: người chồng đã huỷ bỏ, thì Ðức Chúa cũng dung thứ cho người phụ nữ ấy.

14 Người chồng có thể chứng nhận là có hiệu lực, hay huỷ bỏ mọi lời người vợ khấn hứa và thề tự buộc ăn chay hãm mình. 15 Nếu người chồng cứ im lặng cho đến hôm sau, thì đó là chứng nhận mọi lời khấn hứa của vợ hoặc mọi điều người vợ tự buộc mình làm có hiệu lực; người chồng chứng nhận là có hiệu lực, vì đã im lặng trong ngày nghe biết được. 16 Nhưng nếu người chồng huỷ bỏ các điều ấy sau khi nghe biết, thì sẽ phải mang lấy tội của vợ."

17 Ðó là những quy luật Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê về mối tương quan giữa chồng và vợ, giữa cha và con gái lúc thiếu thời còn ở nhà cha.

Chương 31

IX. Phân Chia Chiến Lợi Phẩm Và Ðất Ðai

Thánh chiến chống Ma-đi-an

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Hãy trả thù người Ma-đi-an cho con cái Ít-ra-en, rồi ngươi sẽ về sum họp với gia tiên ngươi."

3 Ông Mô-sê nói với dân: "Một số người trong anh em hãy chuẩn bị sẵn sàng để ra trận tiến đánh Ma-đi-an, để trả thù dân ấy cho Ðức Chúa. 4 Anh em sẽ sai người ra trận; cứ mỗi chi tộc trong các chi tộc Ít-ra-en, thì lấy một ngàn người."

5 Trong số ngàn vạn người Ít-ra-en, người ta tuyển mộ mỗi chi tộc một ngàn người, tức là mười hai ngàn người được chuẩn bị sẵn sàng để ra trận. 6 Ông Mô-sê sai họ ra trận, mỗi chi tộc một ngàn người; cùng ra trận với họ, có ông Pin-khát, con của tư tế E-la-da, tay cầm các đồ thánh và kèn thúc quân.

7 Họ đã ra trận, tiến đánh Ma-đi-an, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê, và họ giết tất cả đàn ông con trai. 8 Ngoài những người đã bị sát hại đó, họ còn giết các vua Ma-đi-an: E-vi, Re-kem, Xua, Khua, Re-va, là năm vua Ma-đi-an; rồi họ dùng gươm giết ông Bi-lơ-am, con ông Bơ-o. 9 Con cái Ít-ra-en bắt phụ nữ Ma-đi-an và con cái chúng làm tù nhân; họ đã lấy mọi thú vật, mọi súc vật và mọi của cải chúng làm chiến lợi phẩm. 10 Họ nổi lửa đốt tất cả các thành dân đó ở và mọi lều trại của chúng. 11 Sau đó họ lấy mọi chiến lợi phẩm và tất cả những gì họ chiếm được, cả người lẫn thú vật, 12 rồi đem các tù nhân và những gì đã chiếm được cũng như chiến lợi phẩm về trại, về vùng thảo nguyên Mô-áp gần sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô, để nộp cho ông Mô-sê, cho tư tế E-la-da và cộng đồng con cái Ít-ra-en.

Tàn sát phụ nữ và thanh tẩy chiến lợi phẩm

13 Ông Mô-sê, tư tế E-la-da và mọi thủ lãnh của cộng đồng ra gặp họ ở ngoài trại. 14 Ông Mô-sê nổi giận với các tướng lãnh, với các vị chỉ huy một ngàn quân và các vị chỉ huy một trăm quân đi trận trở về. 15 Ông Mô-sê nói với họ: "Sao anh em lại để cho cả bọn đàn bà này sống? 16 Chính bọn chúng đã nghe lời Bi-lơ-am, mà lôi cuốn con cái Ít-ra-en phạm tội bất trung với Ðức Chúa trong vụ Pơ-o, nên tai hoạ đã giáng xuống cộng đồng của Ðức Chúa. 17 Vậy bây giờ, hãy giết hết các con trai, cũng như mọi phụ nữ đã biết đến việc vợ chồng, đã ăn ở với đàn ông. 18 Còn mọi con gái nhỏ tuổi chưa ăn ở với đàn ông, thì hãy để cho chúng sống và thuộc về anh em. 19 Về phần anh em, ai đã giết người, ai đã đụng tới người bị sát hại, hãy đóng quân ngoài trại trong bảy ngày. Anh em cũng như các tù nhân đều phải thanh tẩy mình vào ngày thứ ba và thứ bảy. 20 Anh em phải thanh tẩy mọi quần áo, mọi đồ bằng da, mọi sản phẩm bằng lông dê và mọi đồ gỗ."

21 Tư tế E-la-da nói với các binh lính đã đi chiến đấu: "Ðây là quy tắc pháp luật Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê: 22 Chỉ có vàng, bạc, đồng, sắt, thiếc, chì, 23 nghĩa là tất cả những gì chịu được lửa, anh em mới phải cho qua lửa để các vật ấy được sạch; tuy nhiên, các vật ấy phải được thanh tẩy bằng nước tẩy uế. Tất cả những gì không chịu được lửa, thì anh em phải nhúng vào nước.

24 Anh em phải giặt quần áo ngày thứ bảy và anh em sẽ được sạch, rồi sau đó mới trở vào trại."

Phân chia chiến lợi phẩm

25 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 26 "Cùng với tư tế E-la-da và các gia trưởng trong cộng đồng, ngươi hãy làm sổ kê khai những gì đã lấy được, đã bắt được, người cũng như súc vật. 27 Rồi ngươi hãy chia những gì đã lấy được: một nửa cho các chiến sĩ đã ra trận và một nửa cho toàn thể cộng đồng. 28 Sau đó, từ phần dành cho các chiến sĩ đã ra trận, ngươi sẽ trích ra một phần năm trăm số người, bò bê, lừa và chiên cừu, để làm thuế nộp cho Ðức Chúa. 29 Anh em sẽ lấy phần đó trong phần dành cho các chiến sĩ mà trao cho tư tế E-la-da, làm phần trích dâng Ðức Chúa. 30 Còn trong phần dành cho con cái Ít-ra-en, ngươi sẽ chọn lấy một phần năm mươi số người, bò bê, lừa, chiên dê, mọi thú vật, rồi trao cho các thầy Lê-vi có nhiệm vụ canh giữ Nhà Tạm của Ðức Chúa."

31 Ông Mô-sê và tư tế E-la-da làm như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 32 Những của đoạt được, những phần còn lại của chiến lợi phẩm mà các người tham chiến đã chiếm lấy, là 675,000 chiên dê, 33 72,000 bò bê, 34 61,000 con lừa, 35 và nhân mạng, tức là những phụ nữ chưa ăn ở với đàn ông, tất cả là 32,000 người. 36 Một nửa phần chiến lợi phẩm chia cho các người đã ra trận là: 337,500 chiên dê, 37 trong số đó, thuế nộp cho Ðức Chúa là 675 con; 38 36,000 bò bê, trong số đó, thuế nộp cho Ðức Chúa là 72 con; 39 30,500 con lừa, trong số đó, thuế nộp cho Ðức Chúa là 61 con; 40 16,000 nhân mạng, trong số đó, thuế nộp cho Ðức Chúa là 32 mạng. 41 Ông Mô-sê đã trao cho tư tế E-la-da phần trích dâng Ðức Chúa, như Người truyền cho ông Mô-sê.

42 Còn nửa phần chiến lợi phẩm kia được chia cho con cái Ít-ra-en, ông Mô-sê đã tách ra khỏi phần chia cho các người đã ra trận; 43 nửa phần đó thuộc về cộng đồng, gồm có 337,500 chiên dê, 44 36,000 bò bê, 45 30,500 con lừa, 46 16,000 nhân mạng. 47 Trong nửa phần đã chia cho con cái Ít-ra-en, ông Mô-sê chọn lấy một phần năm mươi số người và thú vật, rồi trao cho các thầy Lê-vi có nhiệm vụ canh giữ Nhà Tạm của Ðức Chúa, như Người truyền cho ông Mô-sê.

Các lễ phẩm

48 Bấy giờ, các tướng lãnh, các vị chỉ huy một ngàn quân và các vị chỉ huy một trăm quân đến gần ông ông Mô-sê 49 và nói: "Các tôi tớ ngài đã kiểm lại số những người chiến đấu dưới quyền chúng tôi, và không thấy thiếu một người nào cả. 50 Vậy chúng tôi đem những đồ bằng vàng mà mỗi người đã tìm thấy, làm lễ tiến dâng lên Ðức Chúa, để cử hành lễ xá tội cho chúng tôi trước nhan Ðức Chúa. Những đồ bằng vàng đó là vòng cổ tay, vòng cánh tay, nhẫn, khuyên tai và kiềng.” 51 Ông Mô-sê và tư tế E-la-da đã nhận vàng họ dâng và mọi đồ kim hoàn. 52 Tổng cộng số vàng họ đã trích ra để dâng Ðức Chúa là một trăm bảy mươi ký, được các chỉ huy một ngàn quân và các vị chỉ huy một trăm quân đem nộp.

53 Trước đó, ai nấy trong quân đội đều đoạt phần chiến lợi phẩm cho mình. 54 Cho nên, ông Mô-sê và tư tế E-la-da đã nhận vàng của các vị chỉ huy một ngàn quân và một trăm quân, rồi mang đến Lều Hội Ngộ, làm kỷ vật tưởng nhớ con cái Ít-ra-en trước nhan Ðức Chúa.

Chương 32

Phân chia vùng bên kia sông Gio-đan (Ðnl 3:12-22)

1 Con cái ông Rưu-vên và con cái ông Gát có nhiều đàn súc vật rất đông. Khi thấy rằng vùng Gia-de và vùng Ga-la-át là nơi thuận lợi cho việc chăn nuôi súc vật, 2 họ đến thưa với ông Mô-sê, với tư tế E-la-da và các thủ lãnh cộng đồng: 3 "Các thành A-ta-rốt, Ði-vôn, Gia-de, Nim-ra, Khét-bôn, En-a-lê, Xơ-vam, Nơ-vô và Bơ-ôn 4 là vùng đất Ðức Chúa đã đánh phạt trước cộng đồng Ít-ra-en, là vùng đất nuôi được súc vật. Mà các tôi tớ ngài lại có súc vật.” 5 Họ nói tiếp: "Nếu chúng tôi được đẹp lòng ngài, thì xin ban cho các tôi tớ ngài vùng đất này làm sở hữu. Xin đừng để chúng tôi phải đi qua sông Gio-đan."

6 Ông Mô-sê nói với con cái ông Gát và con cái ông Rưu-vên: "Anh em của anh em phải ra chiến trường, mà anh em thì ở lại đây hay sao? 7 Tại sao anh em làm cho con cái Ít-ra-en phải nản lòng không muốn đi qua bên xứ mà Ðức Chúa đã ban cho họ? 8 Cha ông anh em đã làm như thế, khi tôi sai họ đi từ Ca-đê Bác-nê-a để do thám xứ đó. 9 Họ lên đến thung lũng Ét-côn; họ do thám xứ đó, rồi làm cho con cái Ít-ra-en nản lòng, để họ không vào xứ mà Ðức Chúa đã ban cho họ. 10 Nên trong ngày đó, cơn thịnh nộ của Ðức Chúa bừng cháy; Người thề rằng: 11 "Nếu ngày nào những người đã lên từ Ai-cập, hai mươi tuổi trở lên, thấy đất mà Ta đã thề ban cho Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp..., vì chúng đã không trọn tình đi theo Ta; 12 chỉ trừ Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, người Cơ-nát, và Giô-suê, con ông Nun, vì họ đã trọn tình đi theo Ðức Chúa. 13 Cơn thịnh nộ của Ðức Chúa bừng lên phạt Ít-ra-en, và Người đã bắt họ phải đi lang thang trong sa mạc bốn mươi năm, cho đến khi toàn thể thế hệ đã làm sự dữ trước mắt Ðức Chúa đều chết hết. 14 Này đây, hỡi nòi tội nhân, anh em thay thế cha ông mình mà nổi dậy, khiến cơn thịnh nộ của Ðức Chúa đối với Ít-ra-en càng tăng lên! 15 Nếu anh em quay lưng lại với Người, thì Người còn tiếp tục để Ít-ra-en lại trong sa mạc, và như thế, anh em sẽ làm cho tất cả dân này bị tiêu diệt."

16 Họ tiến đến gần ông Mô-sê và nói: "Chúng tôi sẽ làm ở đây bãi quây cho chiên cừu của chúng tôi, và xây thành thị cho con em chúng tôi. 17 Còn chúng tôi sẽ cầm khí giới ngay và dẫn đầu con cái Ít-ra-en, cho tới khi chúng tôi đưa họ đến nơi thuộc về họ; nhưng con em chúng tôi sẽ ở lại trong các thành kiên cố, để khỏi bị dân bản xứ tấn công. 18 Chúng tôi sẽ không trở về nhà cho đến khi ai nấy trong dân Ít-ra-en đều được thừa hưởng phần gia nghiệp của mình. 19 Quả thật, chúng tôi sẽ không chia phần gia nghiệp với họ bên kia sông Gio-đan hoặc xa hơn nữa, vì gia nghiệp bên này sông Gio-đan, ở phía đông, sẽ lọt về phần chúng tôi."

20 Ông Mô-sê nói với họ: "Nếu anh em thực hiện điều đó, nếu anh em cầm khí giới để ra trận trước nhan Ðức Chúa, 21 nếu trong số anh em, tất cả những người được võ trang đi qua sông Gio-đan trước nhan Ðức Chúa, (và ở lại đó) cho đến khi Người đuổi địch thù đi khuất mắt Người, 22 và nếu anh em chỉ trở về sau khi xứ ấy quy hàng trước nhan Ðức Chúa, thì anh em được coi như đã làm xong nhiệm vụ đối với Ðức Chúa, với Ít-ra-en, và vùng đất này sẽ là sở hữu của anh em trước nhan Ðức Chúa. 23 Nhưng nếu anh em không làm như thế, thì anh em sẽ đắc tội với Ðức Chúa; và anh em nên biết rằng chính anh em sẽ chuốc lấy tội đó cho mình. 24 Anh em hãy xây thành cho con em và làm bãi quây cho chiên cừu, hãy thực hiện những gì miệng anh em đã nói."

25 Con cái ông Gát và con cái ông Rưu-vên thưa với ông Mô-sê: "Các tôi tớ ngài sẽ làm như lời ngài truyền. 26 Vợ con, súc vật và mọi thú vật của chúng tôi sẽ ở đây, trong các thành Ga-la-át; 27 nhưng các tôi tớ ngài, mọi kẻ đã được võ trang để ra trận, sẽ đi qua trước nhan Ðức Chúa để chiến đấu, theo lời ngài đã nói."

28 Ông Mô-sê đã ban mệnh lệnh liên quan đến họ cho tư tế E-la-da, cho ông Giô-suê, con ông Nun, và cho những người đứng đầu các gia tộc của các chi tộc con cái Ít-ra-en. 29 Ông Mô-sê nói với họ: "Nếu con cái ông Gát và con cái ông Rưu-vên, mọi kẻ đã được võ trang để chiến đấu, cùng với anh em đi qua sông Gio-đan trước nhan Ðức Chúa, và nếu anh em chinh phục được vùng đất đó, thì anh em sẽ cho họ đất Ga-la-át làm sở hữu. 30 Nhưng nếu họ không chịu mang khí giới đi qua sông với anh em, thì họ sẽ phải nhận một phần đất làm sở hữu giữa anh em, trong xứ Ca-na-an."

31 Con cái ông Gát và con cái ông Rưu-vên thưa: "Ðiều Ðức Chúa đã phán với các tôi tớ ngài, chúng tôi sẽ làm; 32 chính chúng tôi sẽ cầm khí giới đi qua xứ Ca-na-an trước nhan Ðức Chúa; và xin ngài cho chúng tôi được chiếm hữu phần đất bên này sông Gio-đan làm gia nghiệp.” 33 Ông Mô-sê ban cho họ - nghĩa là cho con cái ông Gát, con cái ông Rưu-vên và một nửa chi tộc Mơ-na-se, con ông Giu-se - vương quốc của Xi-khôn, vua E-mô-ri, vương quốc của Ốc, vua Ba-san; đó là vùng đất gồm các thành cùng với lãnh thổ của các thành ấy, thêm vào đó các thành của vùng đất chung quanh.

34 Con cái ông Gát đã xây Ði-vôn, A-ta-rốt, A-rô-e, 35 A-rốt Sô-phan, Gia-de, Gioóc-bô-ha, 36 Bết Nim-ra, Bết Ha-ran, là những thành kiên cố; họ cũng đã làm bãi quây cho chiên cừu.

37 Con cái ông Rưu-vên cũng đã xây Khét-bôn, En-a-lê, Kia-gia-tha-gim, 38 Nơ-vô, Ba-an Mơ-ôn (các thành này đã đổi tên) và Xíp-ma. Họ đặt tên cho các thành họ đã xây.

39 Con cái ông Ma-khia, con ông Mơ-na-se, đi tới xứ Ga-la-át; họ chiếm xứ đó và đuổi người E-mô-ri đang ở đấy. 40 Ông Mô-sê cho ông Ma-khia là con ông Mơ-na-se, xứ Ga-la-át, và ông Ma-khia định cư tại đó. 41 Ông Gia-ia, con ông Mơ-na-se, đi chiếm các trại của họ và đặt tên là trại của Gia-ia. 42 Nô-vác đi chiếm Cơ-nát cùng các vùng phụ cận; ông lấy tên mình là Nô-vác mà đặt cho chỗ đó.

Chương 33

Các chặng đường của cuộc xuất hành

1 Ðây là những chặng đường con cái Ít-ra-en đã qua, khi họ ra khỏi đất Ai-cập, theo đoàn quân của họ, dưới sự hướng dẫn của ông Mô-sê và ông A-ha-ron. 2 Ông Mô-sê ghi lại những điểm khởi hành cho từng chặng đường, theo lệnh của Ðức Chúa. Ðây là những chặng đường của họ, dựa theo các điểm khởi hành.

3 Họ rời Ram-xết lên đường vào tháng giêng, ngày rằm tháng giêng. Hôm sau lễ Vượt Qua, con cái Ít-ra-en ra đi ngang nhiên trước mắt toàn dân Ai-cập, 4 trong khi dân Ai-cập lo chôn cất người nhà của chúng đã bị Ðức Chúa đánh phạt, nghĩa là mọi con trai đầu lòng. Ðức Chúa đã trừng phạt các thần của chúng.

5 Con cái Ít-ra-en lên đường rời Ram-xết và đóng trại ở Xúc-cốt. 6 Họ lên đường rời Xúc-cốt và đóng trại ở Ê-tham, ven sa mạc. 7 Họ lên đường rời Ê-tham, nhưng quay trở lại phía Pi Ha-khi-rốt, đối diện với Ba-an Xơ-phôn, rồi đóng trại đằng trước Mích-đôn. 8 Họ lên đường rời Pi Ha-khi-rốt, đi qua biển mà vào sa mạc; họ đi ba ngày đường trong sa mạc Ê-tham, rồi đóng trại ở Ma-ra. 9 Họ lên đường rời Ma-la tới Ê-lim. Ở Ê-lim, có mười hai suối nước và bảy mươi cây chà là. Và họ đóng trại ở đó. 10 Họ lên đường rời Ê-lim và đóng trại gần Biển Sậy. 11 Họ lên đường rời Biển Sậy và đóng trại gần sa mạc Xin. 12 Họ lên đường rời sa mạc Xin và đóng trại ở Ðốp-ca. 13 Họ lên đường rời Ðốp-ca và đóng trại ở A-lút. 14 Họ lên đường rời A-lút và đóng trại ở Rơ-phi-đim; tại đó không có nước cho dân uống. 15 Họ lên đường rời Rơ-phi-đim và đóng trại trong sa mạc Xi-nai. 16 Họ lên đường rời sa mạc Xi-nai và đóng trại ở Kíp-rốt Ha Ta-a-va. 17 Họ lên đường rời Kíp-rốt Ha Ta-a-va và đóng trại ở Kha-xê-rốt. 18 Họ lên đường rời Kha-xê-rốt và đóng trại ở Rít-ma. 19 Họ lên đường rời Rít-ma và đóng trại ở Rim-môn Pe-rét. 20 Họ lên đường rời Rim-môn Pe-rét và đóng trại ở Líp-na. 21 Họ lên đường rời Líp-na và đóng trại ở Rít-xa. 22 Họ lên đường rời Rít-xa và đóng trại ở Cơ-hê-la-tha. 23 Họ lên đường rời Cơ-hê-la-tha và đóng trại ở núi Se-phe. 24 Họ lên đường rời núi Se-phe và đóng trại ở Kha-ra-đa. 25 Họ lên đường rời Kha-ra-đa và đóng trại ở Mác-hê-lốt. 26 Họ lên đường rời Mác-hê-lốt và đóng trại ở Ta-khát. 27 Họ lên đường rời Ta-khát và đóng trại ở Te-rác. 28 Họ lên đường rời Te-rác và đóng trại ở Mít-ca. 29 Họ lên đường rời Mít-ca và đóng trại ở Khát-mô-na. 30 Họ lên đường rời Khát-mô-na và đóng trại ở Mô-xê-rốt. 31 Họ lên đường rời Mô-xê-rốt và đóng trại ở Bơ-nê Gia-a-can. 32 Họ lên đường rời Bơ-nê Gia-a-can và đóng trại ở Kho Ha Ghít-gát. 33 Họ lên đường rời Kho Ha Ghít-gát và đóng trại ở Giót-va-tha. 34 Họ lên đường rời Giót-va-tha và đóng trại ở Áp-rô-na. 35 Họ lên đường rời Áp-rô-na và đóng trại ở E-xi-ôn Ghe-ve. 36 Họ lên đường rời E-xi-ôn Ghe-ve và đóng trại trong sa mạc Xin, nghĩa là Ca-đê. 37 Họ lên đường rời Ca-đê và đóng trại ở núi Ho, cuối xứ Ê-đôm. 38 Tư tế A-ha-ron lên núi Ho theo lệnh của Ðức Chúa và qua đời ở đó, vào năm thứ bốn mươi sau khi con cái Ít-ra-en ra khỏi đất Ai-cập, ngày mồng một tháng năm. 39 Ông A-ha-ron thọ được một trăm hai mươi ba tuổi, -khi ông qua đời ở núi Ho. 40 Bấy giờ vua A-rát, người Ca-na-an, cư ngụ tại Ne-ghép trong xứ Ca-na-an, nghe tin con cái Ít-ra-en đến. 41 Họ lên đường rời núi Ho và đóng trại ở Xan-mô-na. 42 Họ lên đường rời Xan-mô-na và đóng trại ở Pu-nôn. 43 Họ lên đường rời Pu-nôn và đóng trại ở Ô-vốt. 44 Họ lên đường rời Ô-vốt và đóng trại ở I-giê Ha A-va-rim, giáp giới với Mô-áp. 45 Họ lên đường rời I-gim và đóng trại ở Ði-vôn Gát. 46 Họ lên đường rời Ði-vôn Gát và đóng trại ở An-môn Ðíp-la-tha-gim. 47 Họ lên đường rời An-môn Ðíp-la-tha-gim và đóng trại ở dãy núi A-va-rim, đối diện với Nơ-vô. 48 Họ lên đường rời dãy núi A-va-rim và đóng trại ở vùng thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô. 49 Họ đóng trại gần sông Gio-đan, từ Bết Ha Giơ-si-mốt đến A-vên Ha Sít-tim, trong vùng thảo nguyên Mô-áp.

Phân chia đất Ca-na-an. Mệnh lệnh của Thiên Chúa.

50 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê trong vùng thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô: 51 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en rằng:

52 các ngươi sẽ đuổi mọi dân cư trong xứ cho khuất mắt các ngươi, và phá huỷ tất cả các hình ảnh, các tượng đúc của chúng, các ngươi sẽ tiêu huỷ mọi nơi cao của chúng. 53 Các ngươi sẽ chiếm đất ấy và lập cư ở đó, vì Ta đã cho các ngươi đất ấy để chiếm hữu. 54 Các ngươi sẽ bắt thăm để chia nhau đất ấy làm gia nghiệp, tuỳ theo các thị tộc của các ngươi: thị tộc nào đông người, các ngươi sẽ cho một phần đất lớn làm gia nghiệp; thị tộc nào ít người hơn, các ngươi sẽ cho một phần đất nhỏ hơn làm gia nghiệp. Ai bắt thăm được nơi nào, thì sẽ ở tại đó. Các ngươi sẽ tính theo các chi tộc mà chia phần gia nghiệp. 55 Nếu các ngươi không đuổi các dân cư trong xứ cho khuất mắt, thì những kẻ các ngươi để sót lại sẽ nên như gai chọc mắt, như mũi nhọn đâm sườn; chúng sẽ quấy rối các ngươi trên đất các ngươi đến ở. 56 Và bấy giờ, Ta sẽ đối xử với các ngươi như Ta đã định đối xử với chúng."

Chương 34

Biên giới xứ Ca-na-an

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Hãy ra lệnh cho con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Khi anh em vào đất Ca-na-an, thì phần đất rơi vào tay anh em làm gia nghiệp, chính là đất Ca-na-an với các biên giới như sau:

3 Phía nam, đất của anh em sẽ bắt đầu từ sa mạc Xin, giáp giới Ê-đôm. Ranh giới phía nam sẽ khởi sự từ cuối Biển Muối, ở mạn đông. 4 Rồi ranh giới đó sẽ vòng xuống phía nam, lên giốc Ác-ráp-bim, đi qua Xin, đến phía nam Ca-đê Bác-nê-a, rồi lại tiến về Kha-xa Át-đa và đi qua Át-môn; 5 sau đó, từ Át-môn, ranh giới vòng xuống Suối Ai-cập để đi ra Biển.

6 Phía tây, anh em sẽ có Biển Lớn làm ranh giới. Ðó sẽ là ranh giới phía tây của anh em.

7 Và đây là ranh giới phía bắc: từ Biển Lớn, anh em sẽ vạch một đường lên núi Ho; 8 rồi từ núi Ho, anh em sẽ vạch một đường đến Cửa Ải Kha-mát. Ranh giới sẽ đi đến Xơ-đát, 9 rồi chạy tiếp đến Díp-rôn và đi tới Kha-xa Ê-nan. Ðó sẽ là ranh giới phía bắc của anh em.

10 Sau đó, anh em sẽ vạch một đường làm ranh giới phía đông từ Kha-xa Ê-nan đến Sơ-pham. 11 Từ Sơ-pham, ranh giới đó sẽ đi xuống Ríp-la, ở phía đông A-gin. Ði xuống nữa, ranh giới đó sẽ tiếp giáp với các đồi phía đông biển hồ Kin-ne-rét; 12 rồi đi xuống theo dọc sông Gio-đan và đi tới Biển Muối. Ðó sẽ là đất của anh em với các ranh giới chung quanh."

13 Ông Mô-sê ra lệnh cho con cái Ít-ra-en: "Ðó là đất mà anh em sẽ bắt thăm để chia nhau làm gia nghiệp, đất mà Ðức Chúa đã truyền phải ban cho chín chi tộc và một nửa chi tộc.

14 Vì chi tộc con cái ông Rưu-vên, theo số các gia tộc của họ, chi tộc con cái Gát, theo số các gia tộc của họ đã lãnh phần gia nghiệp của họ rồi, và nửa chi tộc Mơ-na-se cũng đã lãnh phần gia nghiệp của họ. 15 Hai chi tộc và một nửa chi tộc này đã lãnh phần gia nghiệp của họ bên kia sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô, phía đông, phía mặt trời mọc."

Việc chia đất

16 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 17 "Ðây là tên những người sẽ chia đất cho các ngươi làm gia nghiệp; tư tế E-la-da và Giô-suê, con của Nun. 18 Các ngươi sẽ lấy thêm một đầu mục, mỗi chi tộc một người, để phụ trách việc chia đất làm gia nghiệp. 19 Ðây là tên những người đó:

Chi tộc Giu-đa có Ca-lếp, con của Giơ-phun-ne;

20 chi tộc con cái Si-mê-ôn, có Sơ-mu-ên, con của Am-mi-hút;

21 chi tộc Ben-gia-min có Ê-li-đát, con của Kít-lôn;

22 chi tộc con cái Ðan, có đầu mục Búc-ki, con của Gioóc-li;

23 về con cái Giu-se, chi tộc con cái Mơ-na-se, có đầu mục Khan-ni-ên, con của Ê-phốt;

24 chi tộc con cái Ép-ra-im, có đầu mục Cơ-mu-ên, con của Síp-tan;

25 chi tộc con cái Dơ-vu-lun, có đầu mục Ê-li-xa-phan, con của Pác-nác;

26 chi tộc con cái Ít-xa-kha, có đầu mục Pan-ti-ên, con của Át-dan;

27 chi tộc con cái A-se, có đầu mục A-khi-hút, con của Sơ-lô-mi;

28 chi tộc con cái Náp-ta-li, có đầu mục Pơ-đa-ên, con của Am-mi-hút."

29 Ðó là những người Ðức Chúa đã truyền lệnh phải chia cho con cái Ít-ra-en các phần gia nghiệp trong đất Ca-na-an.

Chương 35

Phần dành cho các thầy Lê-vi

1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê trong vùng thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô: 2 "Hãy ra lệnh cho con cái Ít-ra-en phải nhường một số thành, lấy trong gia nghiệp thuộc quyền sở hữu của chúng, cho các người Lê-vi ở; các ngươi cũng sẽ nhường cho các người Lê-vi những đồng cỏ chung quanh các thành ấy. 3 Các thành ấy sẽ là nơi chúng ở; còn các đồng cỏ thì dành cho mọi thú vật, súc vật và các vật dụng của chúng. 4 Ðồng cỏ chung quanh những thành các ngươi nhường cho người Lê-vi, sẽ rộng năm trăm thước kể từ tường thành trở ra.

5 Bên ngoài thành, các ngươi sẽ đo một ngàn thước phía đông, một ngàn thước phía nam, một ngàn thước phía tây, một ngàn thước phía bắc, còn thành thì ở giữa; đó sẽ là đồng cỏ thuộc các thành của chúng. 6 Những thành các ngươi nhường cho người Lê-vi sẽ là sáu thành trú ẩn: các ngươi để cho kẻ sát nhân đến đó nương náu; ngoài ra, các ngươi sẽ nhường thêm bốn mươi hai thành nữa. 7 Tổng số các thành nhường cho người Lê-vi sẽ là bốn mươi tám, cùng với đồng cỏ thuộc các thành ấy. 8 Các thành được nhường là những thành lấy trong số các thành thuộc quyền sở hữu của con cái Ít-ra-en: chi tộc nào có nhiều, các ngươi sẽ lấy nhiều; chi tộc nào có ít, các ngươi sẽ lấy ít; mỗi chi tộc sẽ nhường một số thành của mình cho người Lê-vi, tuỳ theo phần gia nghiệp mình đã nhận được."

Các thành trú ẩn (Ðnl 9:1-13; Gr 20:1-9)

9 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 10 "Hãy bảo con cái Ít-ra-en rằng: Khi đi qua sông Gio-đan vào đất Ca-na-an, 11 các ngươi sẽ chọn một số thành làm thành trú ẩn cho các ngươi; kẻ nào đã vô ý làm thiệt mạng ai, thì sẽ có thể đến đó nương náu. 12 Các thành ấy sẽ là nơi các ngươi trú ẩn để tránh người đòi nợ máu, và như thế kẻ sát nhân sẽ không phải chết khi chưa được xét xử trước mặt cộng đồng. 13 Trong số những thành các ngươi nhường sẽ có sáu thành trú ẩn cho các ngươi: 14 ba thành các ngươi nhường bên kia sông Gio-đan, và ba thành các ngươi nhường trên đất Ca-na-an, sẽ là những thành trú ẩn. 15 Sáu thành đó sẽ là nơi trú ẩn cho con cái Ít-ra-en, cũng như cho khách ngoại kiều và người trú ngụ giữa các ngươi. Kẻ nào đã vô ý làm thiệt mạng ai, thì sẽ có thể đến đó nương náu.

16 Ai dùng đồ sắt mà đánh người khác chết, thì là kẻ sát nhân. Kẻ sát nhân sẽ phải bị xử tử. 17 Ai cầm trong tay một hòn đá chết người mà đánh người khác chết, thì là kẻ sát nhân. Kẻ sát nhân sẽ phải bị xử tử. 18 Ai cầm trong tay đồ vật bằng gỗ có thể giết người mà đánh người khác chết, thì là kẻ sát nhân. Kẻ sát nhân sẽ phải bị xử tử. 19 Chính người đòi nợ máu sẽ giết kẻ sát nhân; khi gặp tên sát nhân, người đó sẽ giết nó.

20 Nếu ai vì căm hờn mà xô ngã người khác, hay cố tình ném vật gì trúng người ấy, làm cho người ấy chết, 21 hoặc ai vì thù ghét mà giơ tay đánh người ấy chết, kẻ đã đánh sẽ bị xử tử: đó là một kẻ sát nhân. Người đòi nợ máu sẽ giết kẻ sát nhân, khi gặp nó. 22 Nhưng nếu vì ngẫu nhiên, chứ không phải vì thù ghét, ai xô ngã người khác, hay vô ý ném vật gì trúng người ấy, 23 hoặc ai vì không thấy mà đánh rơi trúng người ấy một hòn đá chết người, làm cho người ấy chết, tuy chẳng thù ghét cũng chẳng muốn hại người ấy, 24 cộng đồng sẽ chiếu theo các luật đó mà phân xử đôi bên: kẻ đã đánh và người đòi nợ máu. 25 Cộng đồng sẽ gỡ kẻ sát nhân khỏi tay người đòi nợ máu, rồi đưa nó trở về thành trú ẩn là nơi nó đã tới nương náu. Nó sẽ ở lại đó cho đến khi thượng tế, là người đã được xức dầu thánh, qua đời. 26 Nhưng nếu kẻ sát nhân ra khỏi ranh giới thành trú ẩn là nơi nó đã tới nương náu, 27 và người đòi nợ máu gặp thấy nó bên ngoài ranh giới thành nó trú ẩn, và giết nó, thì không mắc tội đổ máu. 28 Vì kẻ sát nhân phải ở lại trong thành nó trú ẩn cho đến khi thượng tế qua đời; chỉ khi nào thượng tế qua đời, kẻ sát nhân mới được trở về đất sở hữu của nó. 29 Ðó sẽ là những quy tắc pháp lý các ngươi phải tuân giữ qua mọi thế hệ, tại bất cứ nơi nào các ngươi ở.

30 Trong mọi trường hợp đánh chết người, người ta sẽ dựa vào lời khai của các chứng nhân mà xử tử kẻ sát nhân. Nhưng lời khai của một chứng nhân duy nhất sẽ không thể làm cho ai bị kết án tử hình. 31 Các ngươi sẽ không được nhận tiền chuộc mạng một kẻ sát nhân can án chết: nó sẽ phải bị xử tử. 32 Các ngươi cũng không được nhận tiền chuộc cho phép kẻ đã trốn vào thành trú ẩn được về ở xứ sở, trước khi thượng tế qua đời. 33 Các ngươi sẽ không được làm nhiễm uế đất các ngươi ở, vì chính máu làm nhiễm uế đất ấy, và không có gì có thể tẩy rửa đất ấy khỏi máu đã đổ ra tại đó, ngoài máu của người đã làm đổ máu. 34 (Các) ngươi sẽ không gây ô nhục cho đất (các) ngươi ở, cũng là nơi Ta ngự; vì Ta là Ðức Chúa, Ta ngự giữa con cái Ít-ra-en."

Chương 36

Gia nghiệp của phụ nữ có chồng

1 Khi đó, các gia trưởng của thị tộc con cái ông Ga-la-át, con ông Ma-khia, cháu ông Mơ-na-se, trong số các thị tộc con cái ông Giu-se, tiến đến và lên tiếng trước mặt ông Mô-sê và các đầu mục cũng là gia trưởng của con cái Ít-ra-en 2 mà rằng: "Ðức Chúa đã truyền lệnh cho đức ông phải dùng lối bắt thăm mà chia đất cho con cái Ít-ra-en làm gia nghiệp. Ðức ông cũng nhận được lệnh của Ðức Chúa bắt phải ban gia nghiệp của ông Xơ-lóp-khát, người anh em của chúng tôi, cho các con gái ông ấy. 3 Mà nếu các cô này lấy chồng thuộc các chi tộc con cái Ít-ra-en, gia nghiệp của họ sẽ bị xén khỏi gia nghiệp cha ông chúng tôi. Gia nghiệp của họ sẽ nhập vào gia nghiệp của chi tộc mà họ sẽ là thành viên, và như vậy phần gia nghiệp của chúng tôi sẽ bị xén bớt. 4 Ðến lúc con cái Ít-ra-en mừng năm toàn xá, gia nghiệp của họ sẽ nhập vào gia nghiệp của chi tộc mà họ là thành viên, và sẽ bị xén khỏi gia nghiệp của chi tộc cha ông chúng tôi."

5 Theo lệnh của Ðức Chúa, ông Mô-sê truyền cho con cái Ít-ra-en rằng: "Chi tộc con cái ông Giu-se nói đúng. 6 Ðây là điều Ðức Chúa đã truyền về các con gái ông Xơ-lóp-khát: chúng sẽ lấy người vừa mắt chúng, nhưng chỉ được lấy người thuộc thị tộc trong chi tộc của cha chúng. 7 Như thế, gia nghiệp con cái Ít-ra-en sẽ không chuyển từ chi tộc này sang chi tộc khác, nhưng mỗi người con cái Ít-ra-en sẽ gắn bó với gia nghiệp của chi tộc cha ông mình. 8 Trong các chi tộc con cái Ít-ra-en, người con gái nào hưởng gia nghiệp, thì phải lấy chồng thuộc một trong các thị tộc của chi tộc cha mình, để mỗi người trong con cái Ít-ra-en giữ được gia nghiệp cha ông mình. 9 Không gia nghiệp nào được chuyển từ chi tộc này sang chi tộc khác, nhưng mỗi chi tộc con cái Ít-ra-en sẽ gắn bó với gia nghiệp của mình."

10 Các con gái ông Xơ-lóp-khát làm đúng như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê: 11 Mác-la, Tia-xa, Khoóc-la, Min-ca và Nô-va, là những con gái ông Xơ-lóp-khát, lấy các con trai của chú bác. 12 Họ đã lấy người thuộc các thị tộc con cái ông Mơ-na-se, con ông Giu-se, và như thế gia nghiệp của họ vẫn thuộc về thị tộc trong chi tộc cha họ.

Kết luận

13 Ðó là những mệnh lệnh và luật lệ Ðức Chúa đã truyền cho con cái Ít-ra-en qua trung gian ông Mô-sê, trong vùng thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô.

Ðệ Nhị Luật

Chương 01

I. Những Diễn Từ Mở Ðầu

Diễn Từ Thứ Nhất Của Ông Mô-Sê

Khung cảnh thời gian và không gian

1 Ðây là những lời ông Mô-sê nói với toàn thể Ít-ra-en, ở bên kia sông Gio-đan, trong sa mạc, trong thung lũng A-ra-va, đối diện với Xúp, giữa Pa-ran, Tô-phen, La-van, Kha-xê-rốt và Ði Da-háp. 2 Từ núi Khô-rếp đến Ca-đê Bác-nê-a, qua đường núi Xê-ia, là mười một ngày đường. 3 Năm thứ bốn mươi, tháng thứ mười một, ngày thứ nhất trong tháng, ông Mô-sê nói với con cái Ít-ra-en, chiếu theo tất cả những gì Ðức Chúa đã truyền cho ông nói với họ. 4 Ông đã đánh bại Xi-khôn, vua người E-mô-ri, đóng đô ở Khét-bôn, và tại Ét-re-i, đã đánh bại Ốc, vua miền Ba-san, đóng đô ở Át-ta-rốt. 5 Sau đó, ở bên kia sông Gio-đan, trong đất Mô-áp, ông Mô-sê bắt đầu trình bày luật sau đây. Ông nói:

Những chỉ thị cuối cùng ở núi Khô-rếp (Xh 18:13 -27)

6 "Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, đã phán với chúng ta tại núi Khô-rếp như sau: "Các ngươi ở núi này đã lâu rồi. 7 Hãy chuyển hướng và lên đường, đi tới núi người E-mô-ri, và tới các dân chung quanh, ở thung lũng A-ra-va, ở miền núi, miền Sơ-phê-la, miền Ne-ghép, miền duyên hải, tới đất người Ca-na-an, núi Li-băng, cho đến Sông Cả, là sông Êu-phơ-rát. 8 Ðây, Ta trao đất đó cho các ngươi, hãy vào và chiếm hữu đất mà Ðức Chúa đã thề với cha ông các ngươi, là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, rằng Người sẽ ban cho họ và dòng dõi họ sau này."

9 Thời ấy, tôi đã nói với anh em: "Một mình tôi không thể gánh vác anh em được. 10 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã làm cho anh em nên đông đúc, và hôm nay, coi đó: anh em nhiều như sao trên trời. 11 Nguyện Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, tăng số anh em lên gấp ngàn lần và chúc phúc cho anh em như Người đã phán với anh em! 12 Làm sao một mình tôi gánh được những phiền hà, yêu sách, tranh tụng của anh em? 13 Mỗi chi tộc của anh em hãy đề cử những người khôn ngoan, thông minh và từng trải, và tôi sẽ đặt họ làm đầu anh em.” 14 Anh em đã trả lời tôi rằng: "Ðiều ông đề nghị làm, hay đó!” 15 Tôi đã chọn những người đứng đầu các chi tộc của anh em, là những người khôn ngoan, từng trải, và đặt họ làm đầu anh em, làm người chỉ huy một ngàn, chỉ huy một trăm, chỉ huy năm mươi, chỉ huy mười người, và làm ký lục cho mỗi chi tộc của anh em. 16 Thời ấy, tôi đã truyền cho các thẩm phán của anh em rằng: "Các ông hãy nghe những điều anh em đồng bào các ông kiện tụng, và hãy xử công minh giữa một người đồng bào với một người đồng bào, hoặc với một ngoại kiều ở với người ấy. 17 Các ông đừng thiên vị ai trong khi xét xử: hãy nghe người nhỏ cũng như người lớn, đừng sợ ai, vì xét xử là việc của Thiên Chúa. Có vụ nào khó quá đối với các ông, thì các ông hãy trình bày với tôi, tôi sẽ nghe vụ đó.” 18 Thời ấy, tôi đã truyền cho anh em mọi điều anh em phải làm.

Ở Ca-đê, dân không chịu tin vào Ðức Chúa (Ðn 13:1-33)

19 Chúng ta đã lên đường từ Khô-rếp và đã đi qua sa mạc mênh mông khủng khiếp ấy mà anh em đã thấy, trên đường tới miền núi của người E-mô-ri, như Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, đã truyền cho chúng ta, và chúng ta đã đến Ca-đê Bác-nê-a. 20 Tôi đã nói với anh em: "Anh em đã tới miền núi của người E-mô-ri, miền núi mà Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ban cho chúng ta. 21 Coi đó: Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã trao đất này cho anh (em); hãy lên và chiếm hữu, như Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh (em), đã phán với anh (em). Ðừng sợ, đừng hãi.” 22 Tất cả anh em đã đến gặp tôi và nói: "Chúng ta hãy phái người đi trước chúng ta để thăm dò đất cho chúng ta; họ sẽ báo cáo cho chúng ta về con đường chúng ta phải đi qua và về các thành chúng ta sẽ đến.” 23 Lời ấy vừa lòng tôi, và tôi đã chọn giữa anh em mười hai người, mỗi chi tộc một người. 24 Họ đã chuyển hướng và lên núi. Khi tới thung lũng Ét-côn, họ đã do thám thung lũng ấy. 25 Tay họ đã lấy hoa trái miền ấy và đưa xuống cho chúng ta. Họ đã báo cáo cho chúng ta, và nói: "Miền đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ban cho chúng ta, tốt tươi thật!” 26 Nhưng anh em đã không muốn lên và đã cưỡng lệnh Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em. 27 Anh em đã lẩm bẩm trong lều trại và nói: "Chính vì Ðức Chúa ghét chúng ta mà Người đã đưa chúng ta ra khỏi đất Ai-cập, để trao chúng ta vào tay người E-mô-ri và tiêu diệt chúng ta. 28 Chúng ta sắp lên chỗ nào đây? Anh em chúng ta đã làm cho chúng ta nản lòng khi nói rằng: "Dân đó lớn và cao hơn chúng ta. Các thành thì lớn, tường luỹ ngất trời. Chúng tôi cũng thấy ở đó con cái A-nác nữa."

29 Tôi đã bảo anh em: "Ðừng run khiếp, đừng sợ chúng! 30 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, Ðấng đi phía trước anh em, sẽ chiến đấu cho anh em, đúng như Người đã làm cho anh em tại Ai-cập trước mắt anh em, 31 và trong sa mạc, nơi anh (em) thấy Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mang anh (em) như một người mang con mình, suốt con đường anh em đã đi cho tới khi anh em đến nơi này."32 Nhưng trong việc ấy anh em đã không tin vào Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, 33 Ðấng đi phía trước anh em trên đường để tìm chỗ cho anh em cắm lều; ban đêm, Người ở trong lửa để cho anh em thấy đường anh em đi, và ban ngày, Người ở trong đám mây.

Huấn thị của Ðức Chúa tại Ca-đê (Ðn 14:20-45)

34 Ðức Chúa đã nghe thấy giọng nói của anh em, Người nổi giận và thề rằng: 35 "Không một người nào thuộc thế hệ gian ác này sẽ được thấy miền đất tốt tươi Ta đã thề sẽ ban cho cha ông các ngươi, 36 ngoại trừ Ca-lếp, con của Giơ-phun-ne: nó sẽ được thấy đất ấy, và đất nó đã giẫm lên, Ta sẽ ban cho nó và các con nó, bởi vì nó đã một lòng theo Ðức Chúa.” 37 Vì anh em, Ðức Chúa cũng nổi cơn thịnh nộ cả với tôi, Người phán: "Cả ngươi nữa, ngươi cũng sẽ không được vào đó! 38 Giô-suê, con của Nun, kẻ chầu chực trước mặt ngươi, sẽ được vào đó. Hãy làm cho nó nên mạnh mẽ, vì chính nó sẽ cho Ít-ra-en hưởng đất ấy làm gia nghiệp. 39 Về phần con cái các ngươi mà các ngươi nói: "Chúng sẽ bị giặc bắt", và con trai các ngươi, những đứa hôm nay chưa biết phân biệt tốt xấu, chúng sẽ được vào đó. Ta sẽ ban cho chúng đất ấy và chúng sẽ chiếm hữu. 40 Còn các ngươi hãy chuyển hướng và lên đường đi sa mạc, theo hướng Biển Sậy."

41 Anh em đã trả lời và nói với tôi: "Chúng tôi đã phạm tội nghịch cùng Ðức Chúa, chúng tôi sẽ lên và sẽ chiến đấu theo tất cả những gì Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, đã truyền cho chúng tôi." Mỗi người trong anh em đã đeo võ khí và tưởng lên núi là việc dễ dàng. 42 Ðức Chúa đã phán với tôi: "Hãy bảo chúng: các ngươi đừng lên, đừng chiến đấu, vì Ta không ở giữa các ngươi. Ðừng để quân địch đánh bại các ngươi!” 43 Tôi đã bảo anh em mà anh em không nghe, anh em đã cưỡng lệnh Ðức Chúa, đã cả gan lên núi. 44 Người E-mô-ri ở miền núi ấy ra đánh anh em, đuổi anh em như ong đuổi, và đánh tan anh em tại Xê-ia đến tận Khoóc-ma. 45 Khi trở về, anh em đã khóc lóc trước mặt Ðức Chúa, nhưng Ðức Chúa đã không nghe tiếng anh em và không để tai nghe anh em. 46 Chính vì vậy mà anh em đã phải ở lại Ca-đê như thế.

Chương 02

Từ Ca-đê đến thung lũng Ác-nôn

1 Chúng ta đã chuyển hướng và lên đường đi sa mạc, theo hướng Biển Sậy, như Ðức Chúa đã phán với tôi, và chúng ta đã đi vòng quanh miền núi Xê-ia lâu ngày. 2 Ðức Chúa phán với tôi rằng: 3 "Các ngươi đi vòng quanh núi này đã lâu rồi, hãy chuyển hướng về phía bắc. 4 Ngươi hãy truyền cho dân rằng: Các ngươi sắp đi qua lãnh thổ của anh em các ngươi là con cái Ê-xau, những người ở Xê-ia. Chúng sẽ sợ các ngươi, nhưng các ngươi phải rất ý tứ: 5 Ðừng khiêu khích chúng, vì Ta sẽ không cho các ngươi một phần đất nào của chúng, dù là chỗ đặt bàn chân: Ta đã ban núi Xê-ia cho Ê-xau làm sở hữu. 6 Lương thực các ngươi ăn, các ngươi sẽ dùng bạc mà mua của chúng; cả nước các ngươi uống, các ngươi cũng sẽ dùng bạc mà mua của chúng. 7 Thật vậy, Ðức Chúa, Thiên Chúa của (các) ngươi, đã chúc phúc cho (các) ngươi trong mọi việc tay (các) ngươi làm, Người đã biết cuộc hành trình của (các) ngươi trong sa mạc mênh mông ấy; đã bốn mươi năm Ðức Chúa, Thiên Chúa của (các) ngươi, ở với (các) ngươi, và (các) ngươi đã chẳng thiếu thốn điều gì."

8 Rời bỏ anh em chúng ta là con cái Ê-xau, những người ở Xê-ia, chúng ta đã đi qua con đường thung lũng A-ra-va, con đường bắt đầu từ Ê-lát và E-xi-ôn Ghe-ve. Rồi chúng ta chuyển hướng và đi qua con đường sa mạc Mô-áp. 9 Ðức Chúa phán với tôi: "Ðừng gây hấn với Mô-áp, đừng khiêu chiến với chúng, vì Ta sẽ không cho ngươi một phần đất nào của chúng làm sở hữu: Ta đã ban A cho con cái Lót làm sở hữu. 10 - Trước kia người Ê-mim ở đất ấy, họ là một dân lớn, đông và cao như người A-nác. 11 Như người A-nác, họ cũng được coi là người Ra-pha, nhưng người Mô-áp gọi họ là người Ê-mim. 12 Tại Xê-ia trước kia có người Khô-ri ở, nhưng con cái Ê-xau đã trục xuất họ, đã tiêu diệt họ khi tới đó và ở thế chỗ họ, như Ít-ra-en đã làm trong đất họ chiếm hữu, đất mà Ðức Chúa đã ban cho họ. - 13 Giờ đây các ngươi hãy đứng lên và qua thung lũng De-rét."

Chúng ta đã qua thung lũng De-rét.

14 Thời gian chúng ta đi từ Ca-đê Bác-nê-a cho đến khi chúng ta qua thung lũng De-rét là ba mươi tám năm, cho đến khi tất cả thế hệ các chiến sĩ biến hết khỏi trại, như Ðức Chúa đã thề với họ. 15 Bàn tay Ðức Chúa cũng đè trên họ để loại họ ra khỏi trại, cho đến khi họ biến hết.

16 Khi các chiến sĩ đã chết, đã biến hết không còn trong dân nữa, 17 thì Ðức Chúa phán với tôi rằng: 18 "Hôm nay ngươi sắp đi qua lãnh thổ Mô-áp, qua Ar. 19 Ngươi sẽ đến gần đất con cái Am-mon. Ðừng gây hấn, đừng khiêu chiến với chúng, vì Ta sẽ không cho ngươi phần đất nào của chúng làm sở hữu: Ta đã ban đất ấy cho con cái Am-mon làm sở hữu. 20 - Cả đất ấy cũng được coi là đất của người Ra-pha; trước kia người Ra-pha đã ở đó, người Am-mon gọi họ là Dam-dum-mim. 21 Họ là một dân lớn, đông và cao như người A-nác, nhưng Ðức Chúa đã tiêu diệt họ, khi người Am-mon đến; những người này đã trục xuất họ và ở thế chỗ họ. 22 Người đã làm như thế cho con cái Ê-xau, những người ở Xê-ia, khi Người tiêu diệt người Khô-ri, lúc con cái Ê-xau đến: những người này đã trục xuất họ và ở thế chỗ họ cho đến ngày nay. 23 Còn người A-vim, những người ở trong các thôn ấp về phía Ga-da cũng thế: người Cáp-to phát xuất từ Cáp-to đã tiêu diệt họ và ở thế chỗ họ. - 24 Các ngươi hãy đứng dậy, lên đường và qua thung lũng Ác-nôn. Hãy coi: Ta trao Xi-khôn, vua Khét-bôn, người E-mô-ri, và đất vua ấy vào tay (các) ngươi. Hãy bắt đầu chiếm hữu đất ấy và hãy khiêu chiến với chúng. 25 Hôm nay, Ta sẽ làm cho các dân khắp thiên hạ kinh khiếp sợ hãi (các) ngươi ra mặt: khi nghe nói đến (các) ngươi, chúng sẽ run rẩy, rụng rời trước mặt (các) ngươi."

Ðánh chiếm vương quốc vua Xi-khôn (Ðn 21:21-30)

26 Từ sa mạc Cơ-đê-mốt, tôi đã sai sứ giả đến với Xi-khôn, vua Khét-bôn, nói những lời hoà bình như sau: 27 "Xin cho tôi mượn đường qua đất ông; tôi sẽ đi trên đường, không quẹo phải quẹo trái. 28 Lương thực tôi ăn, ông sẽ bán cho tôi đổi lấy bạc; nước tôi uống, ông sẽ cung cấp cho tôi đổi lấy bạc. Tôi chỉ xin đi bộ qua thôi - 29 con cái Ê-xau là những người ở Xê-ia, và người Mô-áp là những người ở A, đã cho phép tôi đi qua đất họ - cho đến khi tôi qua sông Gio-đan, vào đất Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, ban cho chúng tôi."

30 Nhưng Xi-khôn, vua Khét-bôn, đã không muốn cho chúng ta đi qua đất nó, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã làm cho thần trí nó ra cứng cỏi và lòng dạ nó ra chai đá, để trao nó vào tay anh (em), như anh (em) thấy hôm nay. 31 Ðức Chúa phán với tôi: "Hãy coi: Ta bắt đầu trao Xi-khôn và đất nó cho ngươi. Hãy bắt đầu đánh chiếm và chiếm cứ đất nó.” 32 Xi-khôn, nó và toàn dân nó đã ra nghênh chiến với chúng ta tại Gia-hát. 33 Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, đã trao nó cho chúng ta, và chúng ta đã đánh bại nó, con cái nó và toàn dân nó. 34 Thời ấy, chúng ta đã chiếm tất cả các thành của nó và đã tru hiến mọi thành: đàn ông, đàn bà, con trẻ; chúng ta đã không để lại một ai sống sót. 35 Chúng ta chỉ cướp lấy cho mình gia súc và chiến lợi phẩm của các thành chúng ta đã chiếm được. 36 Từ A-rô-e trên mé thung lũng Ác-nôn, và từ thành ở trong thung lũng, cho đến miền Ga-la-át, không có thành nào chúng ta không thể đánh chiếm được: Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, đã trao tất cả cho chúng ta. 37 Chỉ có đất của con cái Am-mon là anh (em) đã không đến gần: tất cả triền thung lũng Giáp-bốc, các thành miền núi và tất cả những nơi mà Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, đã cấm.

Chương 03

Ðánh chiếm vương quốc vua Ốc (Ðn 21:31-35)

1 Chúng ta đã chuyển hướng và đi lên phía miền Ba-san. Ốc, vua miền Ba-san, nó và toàn dân nó đã ra nghênh chiến với chúng ta tại Ét-re-i. 2 Ðức Chúa phán với tôi: "Ðừng sợ nó, vì Ta đã trao nó cùng với toàn dân nó và đất nó vào tay ngươi; ngươi sẽ xử với nó như đã xử với Xi-khôn, vua người E-mô-ri, đóng đô ở Khét-bôn.” 3 Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, cũng đã trao Ốc, vua miền Ba-san, và toàn dân nó vào tay chúng ta; chúng ta đã đánh bại nó, không để lại cho nó một ai sống sót. 4 Thời ấy, chúng ta đã chiếm mọi thành của nó, không có thành nào mà chúng ta không lấy của chúng: sáu mươi thành, tức là tất cả vùng Ác-gốp ở miền Ba-san, vương quốc của Ốc. 5 Tất cả đều là những thành kiên cố, có tường cao, có cửa đóng then cài, không kể những thành bỏ ngỏ, nhiều lắm. 6 Chúng ta đã tru hiến những thành ấy, như chúng ta đã xử với Xi-khôn, vua Khét-bôn; chúng ta đã tru hiến mọi thành: đàn ông, đàn bà, con trẻ. 7 Nhưng tất cả gia súc và chiến lợi phẩm của các thành, thì chúng ta đã lấy cho mình.

8 Thời ấy, chúng ta đã lấy của hai vua người E-mô-ri vùng đất ở bên kia sông Gio-đan, từ thung lũng Ác-nôn đến núi Khéc-môn. - 9 Người Xi-đôn gọi núi Khéc-môn là Xia-giôn, còn người E-mô-ri gọi là Xơ-nia. - 10 Chúng ta đã lấy tất cả các thành vùng Cao Nguyên, tất cả miền Ga-la-át, và tất cả miền Ba-san đến tận Xan-kha và Ét-re-i, tức là các thành ở miền Ba-san, vương quốc của Ốc. - 11 Thật vậy, Ốc, vua miền Ba-san, là người cuối cùng trong số người Ra-pha còn sống sót; giường của nó, giường bằng sắt, chẳng phải là cái giường người ta còn thấy ở thành Ráp-ba của con cái Am-mon sao? Giường ấy dài bốn thước rưỡi, rộng hai thước, tính bằng thước người ta quen dùng.

Chia đất bên kia sông Gio-đan (Ðn 32:33-42)

12 Thời ấy, chúng ta đã chiếm hữu đất này. Tôi đã cho chi tộc Rưu-vên và chi tộc Gát vùng đất từ A-rô-e bên thung lũng Ác-nôn, cùng với một nửa miền núi Ga-la-át và các thành ở đó. 13 Phần còn lại của miền Ga-la-át và tất cả miền Ba-san, vương quốc của Ốc, thì tôi đã cho một nửa chi tộc Mơ-na-se -tất cả vùng Ác-gốp, tất cả miền Ba-san, người ta gọi là đất của người Ra-pha. - 14 Gia-ia, con của Mơ-na-se, đã lấy tất cả vùng Ác-gốp cho đến lãnh thổ người Gơ-sua và người Ma-a-kha, và đã lấy tên mình mà đặt cho những vùng ấy của miền Ba-san, ngày nay vẫn còn gọi là "các trại của người Gia-ia". 15 Tôi đã cho Ma-khia miền Ga-la-át.16 Còn chi tộc Rưu-vên và chi tộc Gát, thì tôi cho vùng đất từ miền Ga-la-át cho đến thung lũng Ác-nôn, lấy lòng thung lũng làm ranh giới, và cho đến thung lũng Giáp-bốc, ranh giới con cái Am-mon, 17 cùng với thung lũng A-ra-va, lấy sông Gio-đan làm ranh giới, từ Kin-ne-rét cho đến biển A-ra-va, tức là Biển Muối, phía dưới sườn núi Pít-ga, về phía đông.

Chỉ thị cuối cùng của ông Mô-sê (Ðn 32:20-32)

18 Thời ấy, tôi đã truyền cho anh em rằng: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã cho anh em đất này để anh em chiếm hữu. Tất cả các dũng sĩ, anh em hãy cầm võ khí đi qua trước anh em mình là con cái Ít-ra-en. 19 Chỉ có đàn bà con trẻ và các đàn vật của anh em - tôi biết là anh em có nhiều đàn vật - sẽ ở trong các thành tôi đã cho anh em, 20 cho đến khi Ðức Chúa ban cho anh em của anh em được an cư lạc nghiệp như anh em, và chính họ cũng chiếm hữu đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, ban cho họ ở bên kia sông Gio-đan; bấy giờ anh em mỗi người sẽ trở về phần đất sở hữu của mình, phần đất tôi đã cho anh em.” 21 Thời ấy, tôi đã truyền cho ông Giô-suê rằng: "Chính mắt anh đã thấy tất cả cách xử sự của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đối với hai vua ấy; Ðức Chúa cũng sẽ xử sự như vậy với các vương quốc anh sắp đi qua. 22 Anh em đừng sợ chúng, vì chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, chiến đấu cho anh em."

23 Thời ấy, tôi đã năn nỉ Ðức Chúa rằng: 24 "Lạy Chúa là Ðức Chúa, Ngài đã bắt đầu cho tôi tớ Ngài thấy Ngài thật vĩ đại và tay Ngài mạnh mẽ. Có thần nào trên trời dưới đất thực hiện được những công trình và những chiến công như Ngài? 25 Xin cho con được sang qua sông Gio-đan và nhìn thấy miền đất tốt tươi ở bên kia sông, miền núi tốt tươi ấy và núi Li-băng.” 26 Vì anh em, Ðức Chúa bất bình với tôi, Người không nghe tôi; Ðức Chúa phán với tôi: "Ðủ rồi! Ðừng bao giờ nói với Ta về chuyện ấy nữa! 27 Hãy lên đỉnh Pít-ga, ngước mắt nhìn về phía tây, phía bắc, phía nam, phía đông, và mở mắt ra mà xem, vì ngươi sẽ không được sang qua sông Gio-đan này. 28 Hãy truyền lệnh cho Giô-suê, hãy làm cho nó nên mạnh mẽ và can đảm, vì chính nó sẽ dẫn đầu dân này qua sông, và chính nó sẽ cho chúng hưởng đất mà ngươi sẽ thấy, làm gia nghiệp."

29 Vậy chúng ta đã ở lại thung lũng, đối diện với Bết Pơ-o.

Chương 04

Giữ luật Chúa là khôn ngoan

1 Giờ đây, hỡi Ít-ra-en, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em. 2 Anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền cho anh em. 3 Chính mắt anh em đã thấy điều Ðức Chúa làm tại Ba-an Pơ-o: mọi kẻ theo Ba-an Pơ-o thì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã tiêu diệt không cho sống giữa anh (em). 4 Còn anh em, những kẻ gắn bó với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, thì hôm nay đều còn sống cả. 5 Hãy xem: tôi đã dạy cho anh em những thánh chỉ và quyết định như Ðức Chúa, Thiên Chúa của tôi, đã truyền cho tôi, để anh em đem ra thực hành trong miền đất mà anh em sắp vào chiếm hữu. 6 Anh em phải giữ và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh. Khi được nghe tất cả những thánh chỉ đó, họ sẽ nói: "Chỉ có dân tộc vĩ đại này mới là một dân khôn ngoan và thông minh!” 7 Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người? 8 Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?

Mặc khải tại núi Khô-rếp

9 Nhưng anh (em) hãy ý tứ và cẩn thận giữ mình đừng quên những điều mắt anh (em) đã thấy, và suốt đời, đừng để cho những điều ấy ra khỏi lòng anh (em); trái lại, anh (em) hãy dạy cho con cháu anh (em) biết. 10 Ngày mà anh (em) đứng trước mặt Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), tại núi Khô-rếp, Ðức Chúa đã phán bảo tôi: "Hãy tập hợp dân lại cho Ta; Ta sẽ cho chúng nghe những lời của Ta, để chúng học cho biết kính sợ Ta mọi ngày chúng sống trên mặt đất, và để chúng dạy cho con cái chúng.” 11 Anh em đã lại gần và đứng dưới chân núi; núi bốc lửa cao đến tận trời, trong bóng tối mây đen mù mịt. 12 Ðức Chúa phán với anh em từ trong đám lửa: anh em nghe thấy tiếng nói nhưng không thấy hình bóng nào, chỉ có tiếng thôi. 13 Người đã thông báo cho anh em giao ước của Người, giao ước mà Người truyền cho anh em đem ra thực hành, đó là mười lời Người viết trên hai bia đá. 14 Phần tôi, thời đó, Ðức Chúa truyền cho tôi dạy anh em các thánh chỉ và quyết định, để anh em đem ra thực hành trong miền đất mà anh em sắp sang chiếm hữu.

15 Anh em hãy cẩn thận giữ mình: anh em đã không thấy hình bóng nào, ngày Ðức Chúa phán với anh em tại núi Khô-rếp, từ trong đám lửa; 16 vì thế đừng có ra hư hỏng mà làm cho mình một tượng mang hình ảnh bất cứ cái gì: hình người nam hay người nữ, 17 hình bất cứ loài vật nào trên mặt đất, hình bất cứ loài chim chóc nào bay trên trời, 18 hình bất cứ loài nào bò dưới đất, hình bất cứ loài cá nào ở trong nước phía dưới mặt đất. 19 Khi anh (em) ngước mắt lên trời và thấy mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao, toàn thể thiên binh, thì đừng bị lôi cuốn mà sụp xuống lạy và phụng thờ chúng. Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã phân chia chúng cho mọi dân thiên hạ. 20 Còn anh em, thì Ðức Chúa đã chọn lấy anh em và đưa ra khỏi cái lò nung sắt là Ai-cập, để anh em trở nên dân Người, nên cơ nghiệp của Người, như ngày nay.

Dân sẽ bị phạt và trở về với Chúa

21 Vì anh em, Ðức Chúa đã nổi cơn thịnh nộ với tôi, và Người đã thề là tôi sẽ không được sang sông Gio-đan và không được vào miền đất tốt tươi mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp. 22 Tôi sắp phải chết tại đất này: tôi sẽ không được sang sông Gio-đan, còn anh em thì sắp sang và sẽ chiếm hữu miền đất tốt tươi ấy. 23 Anh em hãy ý tứ đừng quên giao ước mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã lập với anh em, đừng làm tượng thờ mang hình ảnh bất cứ cái gì mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã cấm anh (em). 24 Thật vậy, Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), là một ngọn lửa thiêu, một vị thần ghen tương.

25 Khi anh em sinh con cháu và ở lâu trong xứ, nếu anh em ra hư hỏng, làm tượng thờ mang hình ảnh bất cứ cái gì và làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) mà trêu giận Người, 26 thì hôm nay tôi lấy trời đất làm chứng cáo tội anh em: chắc chắn anh em sẽ mau chóng biến khỏi miền đất mà anh em sắp sang sông Gio-đan để chiếm hữu; anh em sẽ không sống lâu ở đó, vì anh em sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn. 27 Ðức Chúa sẽ phân tán anh em vào giữa các dân, anh em sẽ chỉ còn là một dúm người giữa các dân nước mà Ðức Chúa sẽ dẫn anh em đến. 28 Tại đó anh em sẽ phụng thờ các thần do tay người phàm làm ra, là gỗ và đá, không nhìn không nghe, không ăn không ngửi.

29 Từ chỗ đó anh em sẽ tìm Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và anh (em) sẽ thấy nếu anh (em) hết lòng hết dạ kiếm tìm Người. 30 Khi anh (em) gặp cảnh ngặt nghèo, khi tất cả những điều ấy xảy ra cho anh (em) sau này, anh (em) sẽ trở lại với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) và sẽ nghe tiếng Người. 31 Thật vậy Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) là Thiên Chúa từ bi: Người sẽ không bỏ mặc anh (em), sẽ không tiêu diệt anh (em), sẽ không quên giao ước Người đã thề với cha ông anh (em).

Ðược Chúa chọn là một hồng ân

32 Anh (em) cứ hỏi những thời xa xưa, thời có trước anh (em), từ ngày Thiên Chúa dựng nên con người trên mặt đất; cứ hỏi từ chân trời này đến chân trời kia: có bao giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế, hay có ai đã nghe điều giống như vậy chăng? 33 Có dân nào đã được nghe tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám lửa như anh (em) đã nghe, mà vẫn còn sống không? 34 Hoặc có thần nào đã ra công đi chọn lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân tộc khác, đã dùng bao thử thách, dấu lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, gây kinh hồn táng đởm, như Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã làm cho anh em tại Ai-cập, trước mắt anh (em) không?

35 Chính anh (em) đã được cho thấy những điều đó, để biết rằng Ðức Chúa là Thiên Chúa và ngoài Người ra không có thần nào khác nữa. 36 Từ trời, Người đã cho anh (em) nghe tiếng Người, để dạy dỗ anh (em); dưới đất, Người đã cho anh (em) thấy ngọn lửa lớn của Người, và anh (em) đã nghe các lời Người phán ra từ trong đám lửa. 37 Bởi vì Người đã yêu thương cha ông anh (em), nên sau các ngài, Người đã chọn dòng dõi các ngài, và đã đích thân dùng sức mạnh lớn lao của Người đưa anh (em) ra khỏi Ai-cập. 38 Người đã đuổi những dân lớn và mạnh hơn anh (em) cho khuất mắt anh (em), để đưa anh (em) vào đất của chúng và ban cho anh (em) đất ấy làm gia nghiệp, như anh (em) thấy hôm nay.

39 Vậy hôm nay, anh (em) phải biết và để tâm suy niệm điều này: trên trời cao cũng như dưới đất thấp, chính Ðức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có thần nào khác nữa. 40 Anh (em) phải giữ các thánh chỉ và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi truyền cho anh (em); như vậy anh (em) và con cháu anh (em) sau này sẽ được hạnh phúc, và anh (em) sẽ được sống lâu trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), vĩnh viễn ban cho anh (em)."

Ba thành làm nơi ẩn náu

41 Bấy giờ ông Mô-sê tách ra ba thành ở bên kia sông Gio-đan, về phía đông, 42 làm nơi ẩn náu cho kẻ sát nhân đã ngộ sát người đồng loại, mà trước đó không thù ghét người ấy; nó sẽ vào ẩn náu tại một trong các thành ấy và sẽ được sống. 43 Ðó là: Be-xe, trong sa mạc, trên đất Cao Nguyên, cho chi tộc Rưu-vên; Ra-mốt, trong miền Ga-la-át, cho chi tộc Gát; và Gô-lan, trong miền Ba-san, cho chi tộc Mơ-na-se.

Diễn Từ Thứ Hai Của Ông Mô-Sê

44 Ðây là luật mà ông Mô-sê đã trình bày cho con cái Ít-ra-en. 45 Ðây là những thánh ý, thánh chỉ và quyết định mà ông Mô-sê đã công bố cho con cái Ít-ra-en khi họ ra khỏi Ai-cập, 46 lúc họ đang ở bên kia sông Gio-đan, trong thung lũng, đối diện với Bết Pơ-o, trong đất của Xi-khôn, vua người E-mô-ri, đóng đô ở Khét-bôn. Ông Mô-sê và con cái Ít-ra-en đã đánh bại vua ấy khi họ ra khỏi Ai-cập, 47 đã chiếm hữu đất vua ấy và đất của Ốc, vua miền Ba-san, là hai vua người E-mô-ri ở bên kia sông Gio-đan về phía đông, 48 từ A-rô-e trên mé thung lũng Ác-nôn đến núi Xi-ôn, tức là núi Khéc-môn, 49 với tất cả thung lũng A-ra-va, bên kia sông Gio-đan về phía đông, đến biển A-ra-va, phía dưới sườn núi Pít-ga.

Chương 05

Mười điều răn (Xh 20:1-17)

1 Ông Mô-sê triệu tập toàn thể Ít-ra-en và nói với họ: "Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định mà hôm nay tôi nói cho anh em nghe; anh em phải học cho biết những điều ấy và lo đem ra thực hành. 2 Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, đã lập một giao ước với chúng ta tại núi Khô-rếp. 3 Ðức Chúa đã lập giao ước này không phải với cha ông chúng ta, mà là với chúng ta, những người hôm nay đang ở đây, tất cả còn đang sống. 4 Ðức Chúa đã phán với anh em mặt đối mặt, trên núi, từ trong đám lửa. 5 Còn tôi, thời ấy, tôi đứng giữa Ðức Chúa và anh em để thông báo cho anh em lời của Ðức Chúa, vì anh em thấy lửa thì sợ và không lên núi. Người phán:

6 "Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ.

7 Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta.

8 Ngươi không được tạc tượng vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. 9 Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Ðối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. 10 Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời.

11 Ngươi không được dùng danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi một cách bất xứng, vì Thiên Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng.

12 Ngươi hãy giữ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh, như Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi. 13 Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. 14 Còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi, cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, bò lừa và mọi gia súc của ngươi, và ngoại kiều ở trong thành của ngươi, để tôi tớ nam nữ của ngươi được nghỉ như ngươi. 15 Ngươi hãy nhớ ngươi đã làm nô lệ tại đất Ai-cập, và Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ngươi ra khỏi đó. Bởi vậy, Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đã truyền cho ngươi cử hành ngày sa-bát.

16 Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, như Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi, để được sống lâu, và để được hạnh phúc trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa ngươi, ban cho ngươi.

17 Ngươi không được giết người.

18 Ngươi không được ngoại tình.

19 Ngươi không được trộm cắp.

20 Ngươi không được làm chứng dối hại người.

21 Ngươi không được ham muốn vợ người ta, ngươi không được thèm muốn nhà của người ta, đồng ruộng, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta.” 22 Những lời ấy, Ðức Chúa đã phán với toàn thể đại hội anh em, trên núi, từ trong đám lửa, giữa mây đen mù mịt, Người nói lớn tiếng và không thêm gì cả. Người đã viết những lời ấy trên hai bia đá và ban cho tôi.

Ông Mô-sê làm trung gian (Xh 20:18-21)

23 Khi anh em nghe tiếng từ giữa bóng tối, và núi đang bốc lửa, thì anh em, tất cả những người đứng đầu các chi tộc và những kỳ mục của anh em, đã đến gặp tôi 24 và nói: "Này Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, đã cho chúng tôi thấy Người thật vinh quang và vĩ đại, và chúng tôi đã nghe tiếng của Người từ trong đám lửa. Hôm nay chúng tôi đã thấy rằng Thiên Chúa phán với con người mà con người vẫn sống. 25 Bây giờ tại sao chúng tôi phải chết? Vì ngọn lửa lớn này có thể thiêu rụi chúng tôi. Chúng tôi mà cứ tiếp tục nghe tiếng của Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, thì chúng tôi chết mất. 26 Thật vậy, có người phàm nào đã được nghe tiếng của Thiên Chúa hằng sống phán từ trong đám lửa, như chúng tôi đã được nghe, mà vẫn còn sống? 27 Phần ông, ông hãy lại gần và nghe tất cả những gì Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, phán, rồi ông sẽ nói cho chúng tôi tất cả những gì Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, phán với ông; chúng tôi sẽ nghe và đem ra thực hành."

28 Ðức Chúa đã nghe thấy giọng nói của anh em khi anh em nói với tôi; Ðức Chúa phán với tôi: "Ta đã nghe thấy giọng nói của dân này khi chúng nói với ngươi: Tất cả những gì chúng nói là phải. 29 Phải chi chúng luôn luôn có một tấm lòng như thế để kính sợ Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta mọi ngày, như vậy chúng và con cái chúng sẽ được hạnh phúc mãi mãi! 30 Ngươi hãy đi bảo chúng: "Anh em hãy trở về lều! 31 Còn ngươi, đứng lại đây với Ta; Ta sẽ phán với ngươi tất cả mệnh lệnh, các thánh chỉ và quyết định mà ngươi sẽ dạy cho chúng, ngõ hầu chúng đem ra thực hành trong đất mà Ta ban cho chúng để chúng chiếm hữu."

Yêu mến Chúa: điểm chủ yếu của lề luật

32 Anh em hãy lo thực hành như Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em, không đi trệch bên phải bên trái. 33 Anh em hãy đi đúng con đường mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em, để anh em được sống, được hạnh phúc và được sống lâu trên mặt đất mà anh em sẽ chiếm hữu.

Chương 06

1 Ðây là mệnh lệnh, là những thánh chỉ và quyết định mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền phải dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành trong đất anh em sắp sang chiếm hữu. 2 Như vậy anh (em) cũng như con cháu anh (em) sẽ kính sợ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mọi ngày trong suốt cuộc đời, tuân giữ tất cả những chỉ thị và mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh (em), và anh (em) sẽ được sống lâu. 3 Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe và lo đem những điều ấy ra thực hành; như vậy anh (em) sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật, như Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh (em), đã phán với anh (em).

4 Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Ðức Chúa duy nhất. 5 Hãy yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em). 6 Những lời này tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh (em) phải ghi tạc vào lòng. 7 Anh (em) phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy, 8 phải buộc những lời ấy vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu, 9 phải viết lên khung cửa nhà anh (em), và lên cửa thành của anh (em).

10 Khi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đưa anh (em) vào đất Người đã thề với cha ông anh (em), là ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, rằng Người sẽ ban cho anh (em); khi anh (em) được những thành lớn và đẹp mà anh (em) đã không xây, 11 những nhà đầy mọi thứ của cải mà anh (em) đã không để vào đó, những bể nước đào sẵn mà anh (em) đã không đào, những vườn nho và vườn ô-liu mà anh (em) đã không trồng; khi anh (em) được ăn uống no nê, 12 thì phải ý tứ đừng quên Ðức Chúa, Ðấng đã đưa anh (em) ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. 13 Chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), là Ðấng anh (em) phải kính sợ; chính Người là Ðấng anh (em) phải phụng thờ; anh (em) sẽ nhân danh Người mà thề.

Kêu gọi trung thành

14 Anh em không được theo những thần khác trong số các thần của các dân chung quanh anh em, 15 vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), Ðấng ở giữa anh (em), là một vị thần ghen tương; hãy coi chừng kẻo Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), nổi cơn thịnh nộ với anh (em) và tiêu diệt anh (em), không còn cho sống trên mặt đất. 16 Anh em đừng thách thức Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, như anh em đã thách thức ở Ma-xa. 17 Phải cẩn thận giữ các mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, cũng như các thánh ý và thánh chỉ Người đã truyền cho anh (em). 18 Anh (em) phải làm điều Ðức Chúa coi là ngay thẳng và tốt lành, để anh (em) được hạnh phúc và được vào chiếm hữu miền đất tốt tươi mà Ðức Chúa đã thề hứa với cha ông anh (em): 19 Ðức Chúa sẽ đẩy lui mọi kẻ thù của anh (em) cho khuất mắt anh (em), như Người đã phán.

20 Mai ngày khi con anh (em) hỏi anh (em) rằng: "Vì sao có các thánh ý, thánh chỉ, quyết định mà Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, đã truyền cho quý vị?” 21 Anh (em) sẽ trả lời cho con anh (em): "Chúng ta xưa làm nô lệ cho Pha-ra-ô bên Ai-cập, nhưng Ðức Chúa đã ra tay uy quyền đưa chúng ta ra khỏi Ai-cập. 22 Trước mắt chúng ta, Ðức Chúa đã thực hiện những điềm thiêng dấu lạ lớn lao và khủng khiếp, phạt Ai-cập, phạt Pha-ra-ô và tất cả triều đình vua ấy. 23 Còn chúng ta, Người đã đưa ra khỏi đó, để dẫn chúng ta vào và ban cho chúng ta đất Người đã thề hứa với cha ông chúng ta. 24 Ðức Chúa đã truyền cho chúng ta đem ra thực hành tất cả những thánh chỉ này và kính sợ Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, để chúng ta được hạnh phúc mọi ngày và để Người cho chúng ta được sống, như ngày hôm nay. 25 Chúng ta sẽ là người công chính, nếu chúng ta lo đem ra thực hành tất cả mệnh lệnh này trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, như Người đã truyền cho chúng ta."

Chương 07

Ít-ra-en, một dân được tách riêng ra (Xh 34:11-16)

1 Khi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đưa anh (em) vào đất anh (em) sắp đến chiếm hữu, khi Người đuổi cho khuất mắt anh (em) nhiều dân tộc: người Khết, Ghia-ga-si, E-mô-ri, Ca-na-an, Pơ-rít-di, Khi-vi, Giơ-vút, bảy dân tộc đông và mạnh hơn anh (em); 2 khi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), trao chúng cho anh (em) và anh (em) đánh bại chúng, thì anh (em) phải tru hiến chúng, không được lập giao ước với chúng và không được thương xót chúng. 3 Anh (em) không được kết nghĩa thông gia với chúng: không được gả con gái anh (em) cho con trai chúng và cưới con gái chúng cho con trai anh (em), 4 vì điều đó sẽ khiến con trai anh (em) không còn theo Ðức Chúa nữa, nó sẽ thờ những thần khác; bấy giờ Ðức Chúa sẽ nổi cơn thịnh nộ với anh (em) và sẽ mau chóng tiêu diệt anh (em). 5 Nhưng anh (em) phải xử với chúng thế này: bàn thờ của chúng, phải phá huỷ; trụ đá của chúng, phải đập tan; cột thờ của chúng, phải chặt đi; tượng thần của chúng, phải bỏ vào lửa mà thiêu. 6 Thật vậy, anh (em) là một dân thánh hiến cho Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em). Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) đã chọn anh (em) từ giữa muôn dân trên mặt đất, làm một dân thuộc quyền sở hữu của Người.

Chúa chọn và ưu đãi Ít-ra-en (Ðnl 28:1-14)

7 Ðức Chúa đã đem lòng quyến luyến và chọn anh em, không phải vì anh em đông hơn mọi dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân. 8 Nhưng chính là vì yêu thương anh em, và để giữ lời thề hứa với cha ông anh em, mà Ðức Chúa đã ra tay uy quyền đưa anh em ra và giải thoát anh em khỏi cảnh nô lệ, khỏi tay Pha-ra-ô, vua Ai-cập. 9 Anh (em) phải biết rằng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), thật là Thiên Chúa, là Thiên Chúa trung thành: cho đến muôn ngàn thế hệ, Người vẫn giữ giao ước và tình thương đối với những ai yêu mến Người và giữ các mệnh lệnh của Người. 10 Còn ai thù ghét Người, thì Người nhằm chính bản thân nó mà trả đũa, khiến nó phải chết; với kẻ thù ghét Người, Người không trì hoãn, Người nhằm chính bản thân nó mà trả đũa. 11 Vậy anh (em) phải tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định mà hôm nay tôi truyền cho anh (em) đem ra thực hành.

12 Nếu anh em nghe, giữ và đem ra thực hành các quyết định này, thì bù lại, đối với anh (em), Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ giữ giao ước và tình thương mà Người đã thề hứa với cha ông anh (em). 13 Người sẽ yêu thương anh (em), chúc phúc cho anh (em), sẽ làm cho anh (em) nên đông đúc. Người sẽ chúc phúc làm cho lòng dạ và đất đai của anh (em) sinh hoa kết quả: lúa mì, rượu mới, dầu tươi, lứa bò, lứa chiên, ở trên đất mà Người đã thề với cha ông anh (em) là sẽ ban cho anh (em). 14 Anh (em) sẽ được phúc lành hơn mọi dân, và giữa anh (em) không đàn ông, đàn bà nào không có khả năng sinh con, gia súc của anh (em) cũng vậy. 15 Ðức Chúa sẽ đẩy xa anh (em) mọi bệnh tật, mọi dịch tễ khốc hại của Ai-cập mà anh (em) từng biết; Người sẽ không giáng những thứ đó xuống anh (em), nhưng sẽ bắt những kẻ ghét anh (em) phải chịu.

16 Anh (em) sẽ thôn tính mọi dân mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em); đừng nhìn chúng mà thương hại và đừng phụng thờ các thần của chúng: điều đó có thể trở thành cạm bẫy cho anh (em).

Quyền lực của Thiên Chúa

17 Có khi anh (em) sẽ tự bảo: "Những dân tộc ấy đông hơn ta, làm sao ta có thể trục xuất chúng được?” 18 Nhưng anh (em) đừng sợ chúng. Anh (em) chỉ cần nhớ lại cách Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã xử với Pha-ra-ô và toàn cõi Ai-cập: 19 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) đã dùng các thử thách lớn lao mắt anh (em) từng thấy, đã dùng các dấu lạ điềm thiêng, và dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền để đưa anh (em) ra. Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ xử như thế với mọi dân mà anh (em) sợ. 20 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ gởi cả ong bầu đến với chúng, cho đến khi những kẻ còn lại, những kẻ trốn tránh để khỏi giáp mặt anh (em), bị tiêu diệt.

21 Ðừng run khiếp trước mặt chúng, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ở giữa anh (em), là một Thiên Chúa vĩ đại, khả uý. 22 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ dần dần đuổi các dân tộc đó cho khuất mắt anh (em); anh (em) sẽ không thể tận diệt chúng mau chóng, kẻo dã thú sinh sôi nảy nở làm hại anh (em). 23 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ trao chúng cho anh (em) và sẽ làm cho chúng vô cùng hoảng sợ, cho đến khi chúng bị tiêu diệt. 24 Người sẽ trao các vua của chúng vào tay anh (em), anh (em) sẽ làm cho tên chúng biến mất không còn dấu vết trong thiên hạ, và không ai sẽ đứng vững được trước mặt anh (em), cho đến khi anh (em) tiêu diệt chúng.

25 Tượng các thần của chúng, anh (em) phải bỏ vào lửa mà thiêu. Anh (em) đừng ham muốn bạc vàng trên các tượng ấy mà lấy cho mình, kẻo anh (em) bị mắc bẫy, vì đó là vật ghê tởm đối với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em). 26 Anh (em) đừng đưa một vật ghê tởm vào nhà anh (em), vì anh (em) sẽ trở thành của tru hiến như nó. Anh (em) phải kỵ nó và ghê tởm nó, vì nó là của tru hiến.

Chương 08

Thử thách trong sa mạc

1 Tất cả mệnh lệnh mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh em hãy lo đem ra thực hành để anh em được sống, được trở nên đông đúc và được vào chiếm hữu đất mà Ðức Chúa đã thề hứa với cha ông anh em. 2 Anh (em) phải nhớ lại tất cả con đường mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã dẫn anh (em) đi suốt bốn mươi năm nay trong sa mạc, để bắt anh (em) phải cùng cực; như vậy Người thử thách anh (em) cho biết lòng dạ anh (em), xem anh (em) có giữ các mệnh lệnh của Người hay không. 3 Người đã bắt anh (em) phải cùng cực, phải đói, rồi đã cho anh (em) ăn man-na là của ăn anh (em) chưa từng biết và cha ông anh (em) cũng chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh (em) nhận biết rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Ðức Chúa phán ra. 4 Bốn mươi năm qua, áo anh (em) mặc đã không rách, chân anh (em) đã không sưng lên.

5 Suy nghĩ lại, anh (em) phải nhận biết rằng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), giáo dục anh (em), như một người giáo dục con mình. 6 Anh (em) phải giữ các mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mà đi theo đường lối của Người và kính sợ Người.

Ðề phòng các cám dỗ khi vào đất hứa

7 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sắp đưa anh (em) vào một miền đất tốt tươi, miền đất có những dòng nước, những suối, những mạch nước ngầm chảy ra trong đồng bằng và trên núi, 8 miền đất có lúa mì, lúa mạch, cây nho, cây vả, cây lựu, miền đất có cây ô-liu để ép dầu và có mật ong, 9 miền đất ở đó anh (em) sẽ ăn bánh mà không bị hạn chế, ở đó anh (em) sẽ không thiếu thốn gì, miền đất mà đá là sắt, và núi có đồng cho anh (em) khai thác. 10 Anh (em) sẽ được ăn, sẽ được no nê và sẽ chúc tụng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), vì miền đất tốt tươi mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em).

11 Anh (em) hãy ý tứ đừng quên Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mà không giữ các mệnh lệnh, quyết định và thánh chỉ của Người, mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay. 12 Khi anh (em) được ăn, được no nê, khi anh (em) xây nhà đẹp để ở, 13 khi anh (em) có nhiều bò và chiên dê, nhiều vàng bạc và nhiều mọi thứ của cải, 14 thì lòng anh (em) đừng kiêu ngạo mà quên Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), Ðấng đã đưa anh (em) ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. 15 Người đã dẫn anh (em) đi trong sa mạc mênh mông khủng khiếp, đầy rắn lửa và bọ cạp, trong miền đất khô cằn không giọt nước. Người đã khiến nước từ tảng đá hoa cương chảy ra cho anh (em) uống. 16 Trong sa mạc, Người đã cho anh (em) ăn man-na, thức ăn mà cha ông anh (em) chưa từng biết, để bắt anh (em) phải cùng cực và thử thách anh (em), hầu làm cho anh (em) được hạnh phúc trong tương lai.

17 Anh (em) đừng tự bảo: "Chính năng lực của tôi và sức mạnh bàn tay tôi đã tạo ra cho tôi sự giàu có này.” 18 Anh (em) hãy nhớ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), vì Người ban cho anh (em) năng lực tạo ra sự giàu có, để Người giữ vững giao ước đã thề với cha ông anh (em), như anh (em) thấy hôm nay. 19 Nhưng nếu chẳng may anh (em) quên lãng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mà theo các thần khác, phụng thờ và sụp xuống lạy chúng, thì hôm nay tôi cảnh cáo anh em: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong; 20 như các dân mà Ðức Chúa sắp tiêu diệt cho khuất mắt anh em, anh em cũng sẽ bị diệt vong như vậy, vì đã không nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em.

Chương 09

Chiến thắng là nhờ Chúa, chứ không phải vì Ít-ra-en công chính

1 Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Hôm nay anh (em) sắp qua sông Gio-đan để vào trục xuất những dân tộc lớn và mạnh hơn anh (em), có những thành lớn và tường luỹ ngất trời, 2 một dân lớn và cao, là con cái A-nác, mà anh (em) biết và anh (em) đã nghe nói: "Ai đứng vững được trước mặt con cái A-nác?” 3 Hôm nay, anh (em) phải biết rằng: chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ đi qua trước mặt anh (em) như ngọn lửa thiêu; chính Người sẽ tiêu diệt chúng, chính Người sẽ hạ chúng xuống trước mặt anh (em). Anh (em) sẽ trục xuất chúng, sẽ làm chúng bị diệt vong mau lẹ, như Người đã phán với anh (em). 4 Khi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đẩy lui chúng cho khuất mắt anh (em) thì anh (em) đừng tự bảo rằng: "Chính vì tôi công chính mà Ðức Chúa đã đưa tôi vào chiếm hữu đất này"; thật ra chính vì các dân tộc ấy có tội mà Ðức Chúa trục xuất chúng cho khuất mắt anh (em). 5 Không phải vì anh (em) công chính hay vì lòng anh (em) ngay thẳng mà anh (em) sắp được vào chiếm hữu đất của chúng, nhưng chính vì các dân tộc ấy có tội mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), trục xuất chúng cho khuất mắt anh (em). Ðức Chúa làm như vậy để giữ vững lời Người đã thề với cha ông anh (em), là ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp. 6 Anh (em) phải biết rằng không phải vì anh (em) công chính mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) miền đất tốt tươi ấy để anh (em) chiếm hữu; thật vậy, anh (em) là một dân cứng cổ.

Dân phạm tội tại núi Khô-rếp. Ông Mô-sê cầu thay cho dân.

7 Anh (em) phải nhớ, đừng quên rằng anh (em) đã chọc giận Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), trong sa mạc. Từ ngày anh (em) ra khỏi đất Ai-cập cho đến khi tới đây, anh em đã phản nghịch chống lại Ðức Chúa. 8 Tại núi Khô-rếp, anh em đã chọc giận Ðức Chúa, và Người đã nổi cơn thịnh nộ với anh em đến nỗi muốn tiêu diệt anh em. 9 Khi lên núi để nhận các bia đá, những tấm bia giao ước mà Ðức Chúa đã lập với anh em, tôi đã ở trên núi bốn mươi ngày bốn mươi đêm, không ăn bánh, không uống nước. 10 Ðức Chúa đã ban cho tôi hai bia đá do ngón tay Thiên Chúa viết, trên đó có mọi lời Ðức Chúa đã phán với anh em trên núi, từ trong đám lửa, trong ngày đại hội. 11 Sau bốn mươi ngày bốn mươi đêm, Ðức Chúa ban cho tôi hai bia đá, là những tấm bia giao ước. 12 Bấy giờ, Ðức Chúa phán với tôi: "Ðứng lên! Mau xuống khỏi đây, vì dân của ngươi đã hư hỏng rồi, dân mà ngươi đã đưa ra khỏi Ai-cập. Chúng đã vội đi ra ngoài con đường Ta đã truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một tượng để thờ.” 13 Ðức Chúa phán với tôi: "Ta thấy rằng dân này là một dân cứng cổ. 14 Cứ để mặc Ta làm, Ta sẽ tiêu diệt chúng, sẽ xoá tên chúng không còn dấu vết trong thiên hạ. Nhưng Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân tộc mạnh và đông hơn chúng."

15 Tôi đã quay xuống núi, bấy giờ núi đang bốc lửa, hai tay tôi cầm hai tấm bia giao ước. 16 Tôi đã thấy anh em phạm tội nghịch cùng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em: anh em đã đúc tượng một con bê để thờ, anh em đã vội đi ra ngoài con đường Ðức Chúa đã truyền cho anh em đi. 17 Tôi bèn nắm lấy hai bia đá, dùng hai tay mà ném, và đập vỡ hai tấm bia đó trước mắt anh em. 18 Tôi đã phục xuống trước mặt Ðức Chúa; như lần trước, suốt bốn mươi ngày bốn mươi đêm, tôi không ăn bánh, không uống nước, vì mọi tội anh em đã phạm, khi làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa mà trêu giận Người. 19 Ấy vì tôi kinh hãi cơn thịnh nộ và trận lôi đình của Ðức Chúa đang bùng lên chống lại anh em, đến nỗi Người muốn tiêu diệt anh em; nhưng cả lần này nữa Ðức Chúa cũng nhận lời tôi. 20 Với ông A-ha-ron, Ðức Chúa cũng nổi cơn thịnh nộ dữ dội, đến nỗi muốn tiêu diệt ông ấy; lúc đó, tôi cũng cầu xin cho ông A-ha-ron nữa. 21 Còn sản phẩm tội lỗi anh em đã làm ra, là con bê, tôi đã lấy, bỏ vào lửa mà thiêu, nghiền nát, tán kỹ, đến nhuyễn thành bụi, rồi ném bụi đó xuống khe nước từ núi chảy ra.

Những tội khác của dân. Ông Mô-sê cầu nguyện.

22 Tại Táp-ê-ra, Ma-xa và Kíp-rốt Ha Ta-a-va, anh em đã chọc giận Ðức Chúa. 23 Khi Ðức Chúa sai anh em đi từ Ca-đê Bác-nê-a và phán: "Hãy lên và chiếm hữu đất Ta ban cho các ngươi", anh em đã cưỡng lệnh Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã không tin vào Người và không nghe tiếng Người. 24 Anh em đã phản nghịch chống lại Ðức Chúa từ ngày tôi biết anh em.

25 Tôi đã phục xuống trước mặt Ðức Chúa, suốt bốn mươi ngày bốn mươi đêm tôi đã phục xuống, vì Ðức Chúa đã nói đến chuyện tiêu diệt anh em. 26 Tôi cầu xin Ðức Chúa và thưa rằng: "Lạy Chúa là Ðức Chúa, xin đừng huỷ diệt dân ngài, cơ nghiệp Ngài đã dùng sức mạnh lớn lao của Ngài để giải thoát, và đã ra tay uy quyền đưa ra khỏi Ai-cập. 27 Xin nhớ đến các tôi tớ Ngài là ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, xin đừng để ý đến sự ngoan cố, sự gian ác và tội của dân này, 28 kẻo tại miền đất từ đó Ngài đã đưa chúng con ra, người ta lại nói: "Chính vì Ðức Chúa đã không thể đưa chúng vào đất Người đã thề hứa với chúng, và chính vì ghét chúng mà Người đã đưa chúng ra để giết chúng trong sa mạc! 29 Thế nhưng đó là dân Ngài, cơ nghiệp Ngài đã dùng sức mạnh lớn lao và cánh tay uy quyền đưa ra khỏi đất Ai-cập."

Chương 10

Chúa truyền làm Hòm Bia. Chi tộc Lê-vi được chọn. (Xh 34:1-10)

1 Thời ấy, Ðức Chúa phán bảo tôi: "Hãy đẽo hai bia đá như những bia trước, và lên núi với Ta. Ngươi cũng hãy làm một hòm gỗ. 2 Ta sẽ viết trên các bia những lời đã có trên các bia trước mà ngươi đã đập vỡ, và ngươi hãy đặt các bia ấy trong hòm.” 3 Tôi đã làm một hòm bằng gỗ keo, và đẽo hai bia đá như những bia trước, và đã lên núi, trong tay cầm hai bia đá. 4 Người đã viết trên các bia điều đã viết lần trước, là mười lời Ðức Chúa đã phán với anh em trên núi, từ trong đám lửa, trong ngày đại hội. Rồi Ðức Chúa ban những bia đó cho tôi. 5 Tôi quay xuống núi, đặt các bia vào hòm tôi đã làm, và các bia vẫn còn đó, như Ðức Chúa đã truyền cho tôi.

6 Từ những giếng Bơ-nê Gia-a-can, con cái Ít-ra-en lên đường đi Mô-xê-ra. Ông A-ha-ron qua đời và được chôn cất tại đó. Ông E-la-da, con ông, thi hành chức vụ tư tế thay ông. 7 Từ chỗ đó, họ lên đường đi Gút-gô-đa, rồi từ Gút-gô-đa đi Giót-va-tha, một đất có nhiều khe nước. 8 Thời ấy, Ðức Chúa tách chi tộc Lê-vi ra, để họ mang Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa, chầu chực trước nhan Ðức Chúa, phụng sự Người và chúc phúc nhân danh Người, cho đến ngày nay. 9 Vì thế, chi tộc Lê-vi không được chung phần và hưởng gia nghiệp với anh em mình; chính Ðức Chúa là gia nghiệp của họ, như Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã phán với họ.

10 Phần tôi, tôi ở trên núi, như những ngày trước, suốt bốn mươi ngày bốn mươi đêm, và cả lần này nữa Ðức Chúa cũng nhận lời tôi: Người đã không muốn huỷ diệt anh (em). 11 Ðức Chúa phán với tôi: "Ðứng dậy! hãy lên đường và đi phía trước dân, để chúng vào chiếm hữu đất mà Ta đã thề với cha ông chúng rằng Ta sẽ ban cho chúng."

Cắt bì trong tâm hồn

12 Giờ đây, hỡi Ít-ra-en, nào Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), có đòi hỏi anh (em) điều gì khác đâu, ngoài việc phải kính sợ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đi theo mọi đường lối của Người, yêu mến phụng thờ Người hết lòng, hết dạ, 13 giữ các mệnh lệnh của Ðức Chúa và các thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay, để anh (em) được hạnh phúc?

14 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), làm chủ cõi trời và các tầng trời cao nhất, cõi đất và muôn loài trong đó. 15 Nhưng chỉ có cha ông của anh (em) là được Ðức Chúa đem lòng quyến luyến yêu thương; sau các ngài, giữa muôn dân, Người đã chọn dòng dõi các ngài tức là anh em, như anh em thấy ngày hôm nay. 16 Vậy anh em hãy cắt bì tâm hồn anh em và đừng cứng cổ nữa, 17 vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Thần các thần, là Chúa các chúa, là Thiên Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả uý, là Ðấng không thiên vị ai và không nhận quà hối lộ, 18 là Ðấng xử công minh cho cô nhi quả phụ, và yêu thương ngoại kiều, cho họ bánh ăn áo mặc. 19 Anh em phải yêu thương ngoại kiều, vì anh em đã từng là ngoại kiều ở đất Ai-cập. 20 Chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), là Ðấng anh (em) phải kính sợ; chính Người là Ðấng anh (em) phải phụng thờ; anh (em) phải gắn bó với Người; anh (em) sẽ nhân danh Người mà thề; 21 chính Người là Ðấng anh (em) phải ca tụng; chính Người là Thiên Chúa của anh (em), Ðấng đã làm cho anh (em) những điều lớn lao và khủng khiếp mà chính mắt anh (em) đã thấy đó. 22 Cha ông của anh (em) chỉ có bảy mươi người khi xuống Ai-cập, mà bây giờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã làm cho anh (em) nên nhiều như sao trên trời.

Chương 11

Kinh nghiệm của Ít-ra-en

1 Anh (em) phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và mọi ngày phải giữ điều Người truyền giữ, là các thánh chỉ, quyết định và mệnh lệnh của Người. 2 Hôm nay, anh em - chứ không phải con cái anh em, những kẻ không biết và không thấy - anh em biết bài học Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã dạy, biết sức mạnh lớn lao và cánh tay mạnh mẽ uy quyền của Người; 3 anh em biết những dấu lạ và hành động Người đã làm ngay tại Ai-cập chống lại Pha-ra-ô, vua Ai-cập, và cả nước vua ấy; 4 anh em biết việc Người đã làm chống quân đội Ai-cập cùng với chiến mã và chiến xa của chúng, khi Người cho nước Biển Sậy tràn ngập lên chúng, đang lúc chúng đuổi theo anh em, và Ðức Chúa đã huỷ diệt chúng cho đến ngày nay; 5 anh em biết việc Người đã làm cho anh em trong sa mạc cho đến khi anh em tới đất này; 6 anh em biết việc Người đã làm để phạt Ða-than và A-vi-ram, là con của Ê-li-áp thuộc chi tộc Rưu-vên, khi đất há miệng nuốt chúng ngay giữa toàn thể Ít-ra-en, cùng với gia đình chúng, lều chúng và mọi kẻ theo bước chân chúng. 7 Chính mắt anh em đã thấy tất cả hành động lớn lao Ðức Chúa đã làm.

Hứa hẹn và cảnh cáo

8 Vậy anh em phải giữ tất cả mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay, để anh em được mạnh sức và vào chiếm hữu đất anh em sắp sang chiếm hữu, 9 và để anh em được sống lâu trên đất, mà Ðức Chúa đã thề với cha ông anh em là sẽ ban cho các ngài và dòng dõi các ngài, một đất tràn trề sữa và mật.

10 Thật vậy, đất anh (em) sắp vào chiếm hữu không như đất Ai-cập mà anh em đã bỏ ra đi: ở đó anh em gieo giống rồi phải dùng chân mà tưới như tưới vườn rau. 11 Còn đất mà anh em sắp sang chiếm hữu là một miền đất có núi non và thung lũng, thấm nước mưa trời, 12 miền đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chăm sóc: Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), luôn luôn để mắt tới đất ấy, từ đầu năm đến cuối năm.

13 Nếu các ngươi thực sự vâng nghe những mệnh lệnh Ta truyền cho các ngươi hôm nay, mà yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, và phụng thờ Người hết lòng hết dạ, 14 thì Ta sẽ ban mưa cho đất các ngươi đúng mùa, mưa đầu mùa và mưa cuối mùa, và (các) ngươi sẽ thu hoạch lúa mì, rượu mới và dầu tươi của (các) ngươi. 15 Ta sẽ cho cỏ mọc trong cánh đồng của (các) ngươi, cho súc vật của (các) ngươi ăn. (Các) ngươi sẽ được ăn và được no nê.

16 Anh em hãy ý tứ kẻo lòng anh em bị quyến rũ mà bỏ đi phụng thờ những thần khác và sụp xuống lạy chúng, 17 vì Ðức Chúa sẽ nổi cơn thịnh nộ với anh em, Người sẽ đóng cửa trời: sẽ chẳng còn mưa, đất sẽ không còn trổ sinh hoa trái, và anh em sẽ mau chóng biến khỏi miền đất tốt tươi mà Ðức Chúa ban cho anh em.

Kết luận

18 Những lời tôi nói đây, anh em phải ghi lòng tạc dạ, phải buộc vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu. 19 Anh em phải dạy những lời ấy cho con cái, mà nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy. 20 Anh em phải viết lên khung cửa nhà anh (em) và lên cửa thành của anh (em). 21 Như vậy, bao lâu trời còn che đất, anh em và con cái anh em còn được sống trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã thề với cha ông anh em rằng Người sẽ ban cho các ngài.

22 Nếu anh em cẩn thận giữ tất cả mệnh lệnh tôi truyền cho anh em đem ra thực hành, mà yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người và gắn bó với Người, 23 thì Ðức Chúa sẽ trục xuất mọi dân tộc ấy cho khuất mắt anh em, và anh em sẽ trục xuất những dân tộc lớn và mạnh hơn anh em. 24 Mọi nơi bàn chân anh em giẫm lên sẽ là của anh em: từ sa mạc và núi Li-băng, từ Sông Cả, là sông Êu-phơ-rát, cho đến Biển Tây, sẽ là lãnh thổ của anh em. 25 Không ai sẽ đứng vững được trước mặt anh em; Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ làm cho tất cả miền đất anh em giẫm lên phải kinh khiếp sợ hãi anh em, như Người đã phán với anh em.

26 Hãy xem, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc được chúc phúc hoặc bị nguyền rủa. 27 Anh em sẽ được chúc phúc nếu vâng nghe những mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà tôi truyền cho anh em hôm nay. 28 Anh em sẽ bị nguyền rủa, nếu không vâng nghe những mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, nếu anh em bỏ con đường hôm nay tôi truyền cho anh em phải đi, mà theo những thần khác anh em không biết. 29 Khi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã đưa anh (em) tới đất mà anh (em) đang vào chiếm hữu, anh (em) sẽ đặt lời chúc phúc trên núi Ga-ri-dim và lời nguyền rủa trên núi Ê-van. - 30 Những núi ấy ở bên kia sông Gio-đan, trên con đường phía tây, trong đất người Ca-na-an là người ở miền A-ra-va, đối diện với Ghin-gan, bên cạnh cụm sồi Mô-re. - 31 Thật vậy, anh em sắp sang sông Gio-đan để vào chiếm hữu đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, ban cho anh em. Anh em sẽ chiếm hữu và ở trong đất ấy. 32 Vậy anh em phải lo đem ra thực hành mọi thánh chỉ và quyết định mà hôm nay tôi trình bày cho anh em.

Chương 12

II. Bộ Ðệ Nhị Luật

1 Ðây là những thánh chỉ và quyết định mà anh em phải lo đem ra thực hành, trong đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh (em), đã ban cho anh (em) để anh (em) chiếm hữu, mọi ngày anh em sống trên mặt đất.

Nơi thờ phượng

2 Anh em phải dẹp bỏ hết mọi nơi mà các dân tộc anh em sắp trục xuất đã phụng thờ các thần của chúng, trên các núi cao, các ngọn đồi và dưới mọi cây xanh. 3 Anh em phải phá huỷ bàn thờ của chúng, đập tan trụ đá của chúng; cột thờ của chúng, anh em phải bỏ vào lửa mà thiêu; tượng các thần của chúng, anh em phải vằm nát; anh em phải xoá bỏ tên chúng khỏi nơi ấy.

4 Anh em không được làm như vậy đối với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em. 5 Anh em sẽ chỉ được tìm Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, ở nơi Người chọn trong mọi chi tộc của anh em làm chỗ đặt Danh Người, làm nơi Người ngự; anh (em) sẽ đến đó. 6 Anh em sẽ đưa tới đó lễ toàn thiêu và hy lễ của anh em, thuế thập phân và phần dâng cúng của anh em, lễ vật anh em đã khấn hứa, lễ vật tự nguyện, những con đầu lòng trong đàn bò và đàn chiên dê của anh em. 7 Ở đó, anh em sẽ ăn uống trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ liên hoan với cả nhà anh em, để mừng mọi công việc tay anh em đã làm, nhờ được Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chúc phúc.

8 Anh em sẽ không làm như chúng ta đang làm ở đây hôm nay: mỗi người làm điều mình cho là phải. 9 Thật vậy, cho đến bây giờ anh em chưa đạt tới chốn nghỉ ngơi và phần gia nghiệp mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em). 10 Anh em sắp sang qua sông Gio-đan và ở trong đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, cho anh em hưởng làm gia nghiệp. Người sẽ cho anh em được thảnh thơi mọi bề không còn thù địch nào nữa, và anh em sẽ được sống yên hàn. 11 Nơi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, chọn cho Danh Người ngự, anh em hãy đưa tới đó mọi thứ tôi truyền cho anh em: lễ toàn thiêu và hy lễ của anh em, thuế thập phân và phần đóng góp của anh em, và tất cả những gì anh em chọn lựa để làm vật khấn dâng Ðức Chúa. 12 Anh em sẽ liên hoan trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, cùng với con trai con gái anh em, tôi tớ nam nữ của anh em, với thầy Lê-vi ở trong các thành của anh em, vì thầy ấy không được chung phần và hưởng gia nghiệp với anh em.

Chỉ dẫn về việc dâng lễ tế

13 Hãy ý tứ đừng dâng lễ toàn thiêu của anh (em) tại bất cứ nơi nào anh (em) thấy; 14 nhưng anh (em) sẽ chỉ dâng lễ toàn thiêu của anh (em) ở nơi Ðức Chúa chọn tại một trong các chi tộc của anh (em), và ở đó anh (em) sẽ làm mọi điều tôi truyền cho anh (em).

15 Tuy nhiên, mỗi khi anh (em) thèm, anh (em) có thể giết súc vật và ăn thịt trong mọi thành của anh (em), tuỳ theo phúc lành mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) ban cho anh em. Người ô uế và người thanh sạch đều có thể ăn thịt đó như ăn thịt sơn dương hay thịt nai. 16 Nhưng tiết thì anh em không được ăn; anh (em) sẽ đổ xuống đất như đổ nước.

17 Thuế thập phân lúa mì, rượu mới, dầu tươi của anh (em), những con đầu lòng trong đàn bò và đàn chiên dê của anh (em), mọi lễ vật anh (em) đã khấn hứa, lễ vật tự nguyện và phần dâng cúng của anh (em), anh (em) sẽ không được ăn những thứ đó trong các thành của anh (em); 18 nhưng chỉ được ăn trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ở nơi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) chọn, và ăn cùng với con trai con gái anh em, tôi tớ nam nữ của anh em, và thầy Lê-vi ở trong các thành của anh (em); anh (em) sẽ liên hoan trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), để mừng mọi công việc tay anh (em) đã làm. 19 Ngày nào anh (em) còn trên đất của anh (em), hãy ý tứ đừng bỏ rơi thầy Lê-vi.

20 Khi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mở rộng lãnh thổ của anh (em), như Người đã phán với anh (em), và anh (em) nói: "Tôi muốn ăn thịt", vì anh (em) thèm ăn thịt, thì anh (em) có thể ăn thịt mỗi khi anh (em) thèm. 21 Nếu nơi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chọn làm chỗ đặt Danh Người mà ở xa anh (em), thì anh (em) có thể giết bò và chiên dê Ðức Chúa ban cho anh (em), như tôi đã truyền cho anh (em), và ăn trong các thành của anh (em), mỗi khi anh (em) thèm. 22 Anh (em) sẽ ăn y như người ta ăn thịt sơn dương và thịt nai; người ô uế và người thanh sạch sẽ cùng ăn với nhau. 23 Tuy nhiên, anh (em) phải nhất quyết không ăn tiết, vì máu là mạng sống, và anh (em) không được ăn mạng sống cùng với thịt. 24 Anh (em) không được ăn tiết, anh (em) sẽ đổ xuống đất như đổ nước. 25 Anh (em) không được ăn tiết; như vậy anh (em) và con cháu anh (em) sau này được hạnh phúc, vì anh (em) làm điều Ðức Chúa coi là ngay thẳng. 26 Chỉ những gì anh (em) phải thánh hiến và những lễ vật anh (em) khấn hứa, anh (em) mới mang đi và đưa tới nơi Ðức Chúa chọn. 27 Anh (em) hãy dâng lễ toàn thiêu của anh (em), cả thịt lẫn máu, trên bàn thờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em); còn hy lễ của anh (em), thì máu sẽ đổ trên bàn thờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), thịt thì anh (em) sẽ ăn. 28 Anh (em) phải giữ và nghe những điều tôi truyền cho anh (em) đây, để anh (em) và con cái anh (em) sau này được hạnh phúc mãi mãi, bởi vì anh (em) đã làm điều Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), coi là tốt lành và ngay thẳng.

Ðừng bắt chước các việc tế tự của người Ca-na-an

29 Khi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã quét sạch các dân tộc khỏi miền đất anh (em) sắp vào để trục xuất chúng cho khuất mắt anh (em), khi anh (em) đã định cư trên đất của chúng rồi, 30 thì hãy ý tứ đừng mắc bẫy mà theo chúng, sau khi chúng đã bị tiêu diệt cho khuất mắt anh (em); hãy ý tứ đừng tìm các thần của chúng và nói: "Các dân tộc ấy phụng thờ các thần của họ thế nào? Cả tôi nữa, tôi cũng muốn làm như thế.” 31 Anh (em) đừng thờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), như thế, vì tất cả đều ghê tởm đối với Ðức Chúa; điều Người ghét, thì chúng đã làm cho các thần của chúng; ngay cả các con trai con gái của chúng, chúng cũng đã bỏ vào lửa mà thiêu để tế các thần của chúng.

Chương 13

1 Tất cả điều tôi truyền cho anh em, anh em hãy lo đem ra thực hành; anh (em) đừng thêm gì vào đó cũng đừng bớt gì.

Ðề phòng kẻo bị lôi cuốn thờ thần ngoại

2 Nếu ở giữa anh (em) xuất hiện một ngôn sứ hay một kẻ chuyên nghề chiêm bao và nó báo trước cho anh (em) một dấu lạ hay một điềm thiêng, 3 nếu dấu lạ hay điềm thiêng nó đã nói xảy ra, và nó bảo: "Chúng ta hãy theo và phụng thờ các thần khác", những thần mà anh (em) không biết, 4 thì anh (em) đừng nghe những lời của ngôn sứ hay kẻ chuyên nghề chiêm bao ấy, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), thử thách anh em cho biết anh em có yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ không. 5 Chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Ðấng anh em phải theo; chính Người là Ðấng anh em phải kính sợ; anh em phải giữ các mệnh lệnh của Người, phải nghe tiếng Người; chính Người là Ðấng anh em phải phụng thờ; anh em phải gắn bó với Người. 6 Ngôn sứ hay kẻ chuyên nghề chiêm bao ấy sẽ bị xử tử, vì nó đã hô hào nổi loạn chống Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, Ðấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập và đã chuộc anh (em) khỏi cảnh nô lệ, và vì nó đã muốn lôi cuốn anh (em) ra khỏi con đường Ðức Chúa đã truyền cho anh (em) phải đi. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác không cho tồn tại giữa anh (em).

7 Nếu người anh em của anh (em), con của mẹ anh (em), hoặc con trai con gái anh (em), hoặc người vợ anh (em) âu yếm, hoặc người bạn anh (em) coi như chính mình, lén lút rủ rê anh (em): "Chúng ta hãy đi phụng thờ các thần khác" những thần mà anh (em) và cha ông anh (em) không biết, 8 trong số các thần của những dân ở chung quanh, gần hay xa anh (em), từ đầu đến cuối xứ, 9 thì anh (em) đừng ưng thuận, đừng nghe nó, đừng nhìn nó mà thương hại, đừng xót thương, đừng bao che nó; 10 trái lại, nhất định anh (em) phải giết nó. Anh (em) phải là người đầu tiên tra tay giết nó, rồi toàn dân tiếp tay sau. 11 Anh (em) phải ném đá cho nó chết, và nó phải chết vì đã tìm cách lôi cuốn anh (em) xa Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), Ðấng đã đưa anh (em) ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. 12 Nghe nói thế, toàn thể Ít-ra-en sẽ sợ và không còn làm điều xấu như vậy giữa anh (em).

13 Nếu tại một trong những thành mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) để ở, anh (em) nghe nói rằng 14 có những tên vô lại phát xuất từ giữa anh (em) và lôi cuốn dân thành chúng mà rằng: "Chúng ta hãy đi phụng thờ các thần khác", những thần mà anh (em) không biết, 15 thì anh (em) sẽ điều tra, dò xét, sẽ hỏi han kỹ lưỡng, và nếu thật sự và chắc chắn là người ta đã làm điều ghê tởm đó giữa anh (em), 16 thì anh (em) phải dùng lưỡi gươm giết dân thành ấy, phải tru hiến thành ấy với tất cả những gì trong đó; cả súc vật ở đó cũng phải dùng lưỡi gươm mà giết. 17 Tất cả những gì chiếm được trong thành, anh (em) phải gom vào giữa quảng trường, rồi phóng hoả thành ấy với mọi thứ chiếm được, tất cả để dâng kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em). Thành ấy sẽ mãi mãi là một phế tích và sẽ không được xây dựng lại nữa. 18 Ðừng để bất cứ vật tru hiến nào còn dính lại trong tay anh (em). Như vậy Ðức Chúa sẽ nguôi cơn thịnh nộ, Người sẽ tỏ lòng từ bi và thương xót anh (em), sẽ làm cho anh (em) nên đông đúc, như đã thề với cha ông anh (em), 19 miễn là anh (em) nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mà giữ mọi mệnh lệnh tôi truyền cho anh (em) hôm nay, và làm điều Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) coi là ngay thẳng.

Chương 14

Cấm một vài tập tục tang chế

1 Anh em là những người con của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em. Anh em không được rạch mình và không được cạo tóc phía trên trán mà để tang một người chết, 2 vì anh (em) là một dân thánh hiến cho Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em). Ðức Chúa đã chọn anh (em) từ giữa muôn dân trên mặt đất, làm một dân thuộc quyền sở hữu của Người.

Loài vật thanh sạch và loài vật ô uế (Lv 11:2-47)

3 Anh (em) không được ăn cái gì ghê tởm. 4 Ðây là những loài vật anh (em) được ăn: bò, cừu, dê, 5 nai, sơn dương, hoẵng, dê rừng, linh dương, dê sừng dài, cừu rừng. 6 Mọi con vật có chân chẻ làm hai móng và thuộc loài nhai lại, thì anh (em) được ăn. 7 Tuy nhiên, trong các loài nhai lại và các loài có móng chẻ hai, anh em không được ăn các con này: con lạc đà, con thỏ rừng, con ngân thử - vì chúng nhai lại, nhưng không có móng chẻ hai: anh em phải coi chúng là loài ô uế; - 8 con heo, vì nó có móng chẻ hai, nhưng không nhai lại: anh em phải coi nó là loài ô uế. Thịt của chúng, anh em không được ăn, xác chết của chúng, anh em không được đụng đến.

9 Trong tất cả các loài sống dưới nước, đây là những loài anh em được ăn: những loài có vây và có vảy, thì anh em được ăn. 10 Còn tất cả những loài không có vây không có vảy, thì anh em không được ăn: anh em phải coi chúng là loài ô uế.

11 Mọi loài chim thanh sạch, anh em được ăn. 12 Ðây là những loài chim anh em không được ăn: đại bàng, diều hâu, ó biển, 13 diều mướp, kền kền, mọi thứ diều hâu, 14 mọi thứ quạ, 15 đà điểu, cú, mòng biển, mọi thứ bồ cắt, 16 cú vọ, cú mèo, chim lợn, 17 bồ nông, ó, cốc, 18 cò, mọi thứ diệc, chim đầu rìu và dơi. 19 Mọi côn trùng có cánh, anh em phải coi là loài ô uế, anh em không được ăn. 20 Mọi loài có cánh mà thanh sạch, anh em được ăn.

21 Anh em không được ăn mọi con vật chết, mà hãy cho ngoại kiều ở trong các thành của anh (em) để họ ăn, hoặc hãy bán cho người nước ngoài, vì anh (em) là một dân thánh hiến cho Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).

Anh (em) không được lấy sữa dê mẹ mà nấu thịt dê con.

Thuế thập phân hàng năm

22 Mỗi năm anh (em) phải trích một phần mười tất cả hoa lợi lấy từ những gì anh (em) gieo, những gì mọc lên ngoài đồng. 23 Anh (em) sẽ dùng trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ở nơi Người chọn cho Danh Người ngự, thuế thập phân lúa mì, rượu mới, dầu tươi của anh (em), và những con đầu lòng trong đàn bò và đàn chiên dê của anh (em), để mọi ngày anh (em) học cho biết kính sợ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).

24 Nếu đường quá dài khiến anh (em) không thể đem thuế thập phân đến được, vì nơi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chọn để đặt Danh Người, quá xa chỗ anh (em) ở, thì khi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã chúc phúc cho anh (em), 25 anh (em) hãy đổi lấy bạc, cầm trong tay và đi tới nơi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chọn. 26 Anh (em) hãy đem bạc đổi lấy tất cả những gì anh (em) thèm: bò, chiên dê, rượu, đồ uống có men và tất cả những gì anh (em) ao ước; ở đó anh (em) sẽ ăn uống trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và sẽ liên hoan với cả nhà. 27 Còn thầy Lê-vi ở trong các thành của anh (em), anh (em) đừng bỏ rơi, vì thầy ấy không được chung phần và hưởng gia nghiệp với anh (em).

Thuế thập phân ba năm một lần

28 Ba năm một lần, anh (em) hãy đưa ra tất cả thuế thập phân trích từ hoa lợi năm thứ ba, và đặt ở cửa thành của anh (em). 29 Bấy giờ thầy Lê-vi -là người không được chung phần và hưởng gia nghiệp với anh (em) - người ngoại kiều và cô nhi quả phụ ở trong các thành của anh (em), sẽ đến, họ sẽ ăn và được no nê, để Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chúc phúc cho mọi công việc tay anh (em) làm.

Chương 15

Năm sa-bát (Lv 25:1-7)

1 Bảy năm một lần, anh (em) hãy tha nợ. 2 Ðây là cách thức tha nợ: mỗi chủ nợ sẽ tha món nợ đã cho người đồng loại vay mượn, không thúc người đồng loại và người anh em trả nợ, vì người ta đã công bố việc tha nợ để kính Ðức Chúa. 3 Người nước ngoài, anh (em) có thể thúc nợ; nhưng cái gì của anh (em) mà ở trong nhà người anh em của anh (em), thì phải tha không đòi. 4 Tuyệt nhiên giữa anh (em) sẽ không có người nghèo, vì Ðức Chúa sẽ chúc phúc dồi dào cho anh (em) trong miền đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp để anh (em) chiếm hữu, 5 miễn là anh (em) thực sự nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mà lo đem ra thực hành tất cả mệnh lệnh hôm nay tôi truyền cho anh (em) đây. 6 Thật vậy, Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ chúc phúc cho anh (em) như Người đã phán với anh (em); anh (em) sẽ cho nhiều dân tộc vay mượn, còn chính anh (em) sẽ không phải vay mượn; anh (em) sẽ thống trị nhiều dân tộc, nhưng chúng sẽ không thống trị anh (em).

7 Nếu giữa anh (em), trong một thành nào của anh (em), trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), có một người anh em nghèo, thì anh (em) đừng có lòng chai dạ đá, cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng; 8 nhưng phải mở rộng tay, và cho họ vay mượn tất cả những gì họ thiếu. 9 Hãy ý tứ đừng có trong lòng tư tưởng xấu này: "Sắp đến năm thứ bảy, năm tha nợ", mà nhìn người anh em nghèo của anh (em) với cặp mắt dữ dằn và không cho gì. Họ sẽ kêu lên Ðức Chúa tố cáo anh (em) và anh (em) sẽ mang tội. 10 Anh (em) phải cho họ cách rộng rãi, và khi cho thì đừng miễn cưỡng; thật vậy, vì việc đó, Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) sẽ chúc phúc cho anh (em) trong mọi việc anh (em) làm và mọi công trình tay anh (em) thực hiện. 11 Vì trong đất của anh (em) sẽ không thiếu người nghèo, nên tôi truyền cho anh (em): hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh (em), trong miền đất của anh (em).

Người nô lệ (Xh 21:1-11)

12 Nếu người anh em hay chị em Híp-ri của anh (em), bán mình cho anh (em), thì họ sẽ hầu hạ anh (em) sáu năm; đến năm thứ bảy, anh (em) phải phóng thích họ về. 13 Khi anh (em) phóng thích họ về, thì đừng để họ về tay không; 14 anh (em) phải tặng họ nào là chiên dê, nào là lúa mì, rượu nho của anh (em): anh (em) hãy cho họ tuỳ theo phúc lành mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) đã ban cho anh (em). 15 Anh (em) hãy nhớ rằng mình đã làm nô lệ tại đất Ai-cập, và Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã giải thoát anh (em). Vì vậy, hôm nay tôi truyền cho anh (em) điều đó.

16 Nhưng nếu người nô lệ nói: "Tôi không muốn ra khỏi nhà ông", vì họ mến anh (em) và gia đình anh (em), và vì họ được hạnh phúc khi ở với anh (em), 17 thì anh (em) sẽ kê tai người ấy vào cánh cửa, và lấy dùi mà xỏ, và họ sẽ làm nô lệ anh (em) suốt đời. Ðối với nữ tỳ của anh (em), anh (em) cũng sẽ làm như vậy.

18 Anh (em) đừng cho là quá nặng khi phải phóng thích họ về, vì họ phục vụ anh (em) sáu năm thì cũng bằng anh (em) thuê hai người làm mướn. Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ chúc phúc cho anh (em) trong mọi việc anh (em) làm.

Các con đầu lòng

19 Mọi con đầu lòng giống đực sinh ra trong đàn bò và đàn chiên dê của anh (em), anh (em) phải thánh hiến cho Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em). Anh (em) không được bắt con bò đầu lòng của anh (em) làm việc, không được xén lông chiên dê đầu lòng của anh (em). 20 Hằng năm, trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), anh (em) và cả nhà anh (em) sẽ ăn những con đầu lòng đó ở nơi Ðức Chúa chọn. 21 Nhưng nếu con vật có tật, què, mù hay bất cứ tật nào khác, thì anh (em) không được tế nó cho Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em); 22 anh (em) sẽ ăn thịt nó trong các thành của anh (em). Người ô uế và người thanh sạch đều có thể ăn, như ăn thịt sơn dương hay thịt nai. 23 Nhưng tiết của nó thì anh (em) không được ăn, anh (em) sẽ đổ xuống đất như đổ nước.

Chương 16

Các đại lễ: lễ Vượt Qua, lễ Bánh Không Men (Xh 12:1-20)

1 Anh (em) hãy giữ tháng A-víp và mừng lễ Vượt Qua kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), vì trong tháng A-víp, Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã đưa anh (em) ra khỏi Ai-cập ban đêm. 2 Anh (em) hãy giết chiên dê và bò làm lễ vật Vượt Qua dâng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ở nơi Ðức Chúa chọn cho Danh Người ngự. 3 Anh (em) không được ăn bánh có men với lễ vật đó; trong vòng bảy ngày, anh (em) sẽ ăn bánh không men -thứ bánh khổ cực, vì anh (em) đã phải vội vã ra khỏi đất Ai-cập, - để mọi ngày trong đời anh (em), anh (em) nhớ ngày ra khỏi đất Ai-cập. 4 Trong vòng bảy ngày, không ai được thấy anh (em) có men trên toàn lãnh thổ anh (em); và thịt con vật anh (em) đã tế chiều ngày thứ nhất, thì không được giữ lại gì qua đêm cho đến sáng. 5 Anh (em) không được giết lễ vật Vượt Qua ở bất cứ thành nào khác trong những thành mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em); 6 nhưng chỉ ở nơi Ðức Chúa chọn cho danh Người ngự, anh (em) mới được giết lễ vật Vượt Qua, vào buổi chiều, khi mặt trời lặn, là thời điểm anh (em) ra khỏi Ai-cập. 7 Anh (em) sẽ nấu mà ăn, ở nơi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chọn, rồi sáng ngày anh (em) sẽ quay về lều trại mình. 8 Trong vòng sáu ngày, anh (em) sẽ ăn bánh không men, đến ngày thứ bảy, sẽ có buổi họp long trọng kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), anh (em) không được làm công việc gì.

Các đại lễ khác (Xh 34:22; Lv 23:15-21, 33-43)

9 Anh (em) sẽ tính bảy tuần: từ khi bắt đầu mang liềm đi gặt lúa, anh (em) bắt đầu tính bảy tuần. 10 Rồi anh (em) sẽ mừng lễ Ngũ Tuần kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), dâng lễ vật tự nguyện, tuỳ theo phúc lành Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em). 11 Ở nơi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã chọn cho Danh Người ngự, anh (em) sẽ liên hoan trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), cùng với con trai con gái, tôi tớ nam nữ, với thầy Lê-vi ở trong các thành của anh (em), với ngoại kiều và cô nhi quả phụ sống giữa anh (em). 12 Anh (em) hãy nhớ mình đã làm nô lệ bên Ai-cập, anh (em) phải giữ và đem ra thực hành các thánh chỉ này.

13 Còn lễ Lều, anh (em) sẽ mừng trong vòng bảy ngày, khi đã thu hoạch lúa trong sân và rượu trong bồn đạp nho. 14 Anh (em) sẽ liên hoan mừng lễ, cùng với con trai con gái, tôi tớ nam nữ, với thầy Lê-vi, ngoại kiều và cô nhi quả phụ ở trong các thành của anh (em). 15 Trong vòng bảy ngày, anh (em) sẽ mở lễ kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), tại nơi Ðức Chúa chọn, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) chúc phúc cho anh (em) là ban cho anh (em) mọi hoa lợi và cho mọi công việc tay anh (em) làm được kết quả; anh (em) chỉ có việc hân hoan.

16 Mỗi năm ba lần, tất cả đàn ông con trai của anh (em) phải đến trình diện Ðức Chúa, ở nơi Người chọn: vào dịp lễ Bánh Không Men, lễ Ngũ Tuần và lễ Lều. Người ta sẽ không đến trình diện Ðức Chúa tay không. 17 Nhưng mỗi người sẽ đem lễ vật theo khả năng, tuỳ theo phúc lành Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em).

Các thẩm phán

18 Anh (em) phải đặt cho các chi tộc của anh (em) những thẩm phán và ký lục trong mọi thành mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em); họ sẽ xét xử dân cách công minh. 19 Anh (em) không được làm sai lệch công lý, không được thiên vị ai và không được nhận quà hối lộ, vì quà hối lộ làm cho những kẻ khôn ngoan hoá ra đui mù và làm hỏng việc của những người công chính. 20 Anh (em) hãy theo đuổi sự công chính, chỉ sự công chính mà thôi, để anh (em) được sống và được chiếm hữu đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em).

Những cách thờ phượng sai lạc

21 Anh (em) không được cắm cột thờ để mà thờ, dù bằng thứ gỗ nào, bên cạnh bàn thờ anh (em) sẽ làm để kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em). 22 Anh (em) không được dựng trụ đá để mà thờ: đó là cái mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) ghét.

Chương 17

1 Anh (em) không được tế Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), bò hay chiên dê có tật hoặc tỳ vết nào, vì đó là điều ghê tởm đối với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).

2 Nếu ở giữa anh (em), tại một trong các thành mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), thấy có một người đàn ông hay đàn bà làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), vi phạm giao ước của Người, 3 đi phụng thờ các thần khác, sụp xuống lạy chúng, lạy mặt trời, mặt trăng và toàn thể thiên binh, điều mà tôi đã không truyền, 4 nếu anh (em) được thông báo và được nghe điều ấy, thì anh (em) phải điều tra kỹ lưỡng; nếu thật sự và chắc chắn là người ta đã làm điều ghê tởm đó tại Ít-ra-en, 5 thì anh (em) phải lôi người đàn ông hay đàn bà đã làm điều xấu đó ra cửa thành của anh (em); người đàn ông hay đàn bà đó, anh (em) sẽ ném đá chúng cho chết và chúng phải chết. 6 Căn cứ vào lời của hai nhân chứng hay ba nhân chứng, mà người đáng chết sẽ bị xử tử; người ấy sẽ không bị xử tử nếu chỉ căn cứ vào lời của một nhân chứng. 7 Các nhân chứng phải là người đầu tiên tra tay giết nó, rồi toàn dân tiếp tay sau. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh (em).

Các thẩm phán Lê-vi

8 Nếu có vụ nào khó quá, anh (em) không xử được: án mạng, tranh chấp hay đả thương, là những vụ kiện tụng tại toà án thành của anh (em), thì anh (em) hãy đứng dậy và lên nơi mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ chọn. 9 Anh (em) sẽ đến với các tư tế Lê-vi và vị thẩm phán tại chức trong những ngày đó; anh (em) sẽ thỉnh ý và họ sẽ thông báo bản án cho anh (em). 10 Anh (em) sẽ hành động căn cứ vào lời họ thông báo cho anh (em), từ nơi Ðức Chúa chọn, và anh (em) sẽ lo đem ra thực hành đúng như họ chỉ giáo cho anh (em). 11 Căn cứ vào lời họ chỉ giáo cho anh (em), và vào bản án họ công bố cho anh (em), anh (em) sẽ hành động, đúng như lời họ thông báo cho anh (em), không đi trệch bên phải bên trái. 12 Người nào cả gan không nghe vị tư tế chầu chực ở đó để phụng sự Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hay không nghe vị thẩm phán, thì sẽ phải chết. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại trong Ít-ra-en. 13 Nghe thấy thế, toàn dân sẽ sợ và không dám cả gan nữa.

Các vua

14 Khi anh (em) vào đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), khi anh (em) chiếm hữu và ở đất đó, nếu anh (em) nói: "(Chúng) tôi muốn tôn một vua lên cai trị (chúng) tôi, như các dân tộc chung quanh", 15 thì anh (em) có thể tôn một vua mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ chọn, lên cai trị anh (em); anh (em) phải tôn một người trong anh (em) lên làm vua cai trị anh (em); anh (em) không được đặt một người ngoại quốc, không phải là anh em của anh (em), lên cai trị anh (em).

16 Chỉ có điều là vua ấy không được có nhiều ngựa, và không được đưa dân trở về Ai-cập để có nhiều ngựa, vì Ðức Chúa đã phán với anh em: "Các ngươi không được trở lại con đường ấy nữa!” 17 Vua ấy cũng không được có nhiều vợ, kẻo tâm hồn bị lầm lạc. Vua cũng không được có quá nhiều vàng bạc. 18 Khi lên ngôi trị vì, vua phải sao lại cho mình một bản thứ hai của luật này vào một cuốn sách, sao y bản các tư tế Lê-vi truyền lại. 19 Luật này sẽ ở bên vua, vua phải đọc mọi ngày trong đời mình, để học cho biết kính sợ Ðức Chúa, Thiên Chúa của vua, biết giữ mọi lời trong Luật này và mọi thánh chỉ ấy, và đem ra thực hành. 20 Như vậy lòng vua không kiêu ngạo với anh em mình, và vua không trệch khỏi mệnh lệnh mà qua bên phải bên trái, để vua và con cháu được trị vì lâu ngày ở giữa Ít-ra-en.

Chương 18

Hàng tư tế Lê-vi

1 Các tư tế Lê-vi, toàn thể chi tộc Lê-vi, sẽ không được chung phần và hưởng gia nghiệp với Ít-ra-en: họ sẽ sống nhờ các lễ hoả tế dâng Ðức Chúa và nhờ gia nghiệp của Người. 2 Họ không có gia nghiệp giữa các chi tộc anh em: chính Ðức Chúa là gia nghiệp của họ, như Người đã phán với họ.

3 Ðây là quyền lợi các tư tế được hưởng trên dân, trên những người dâng bò hay chiên dê làm lễ hy sinh: người ta sẽ biếu tư tế một cái vai, hai cái hàm và cái dạ dày. 4 Anh (em) phải biếu tư tế sản phẩm đầu mùa lấy từ lúa mì, rượu mới, dầu tươi của anh (em), và từ lông chiên dê mới xén. 5 Thật vậy, Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã chọn họ trong mọi chi tộc, để họ và con cái họ ứng trực và phụng sự mọi ngày nhân danh Ðức Chúa.

6 Nếu một thầy Lê-vi từ bất cứ một thành nào của anh (em) trong toàn cõi Ít-ra-en, nơi họ đang cư ngụ, đến nơi Ðức Chúa chọn, mỗi khi họ muốn, 7 thì họ sẽ được phụng sự nhân danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ, như mọi anh em của họ là các thầy Lê-vi khác đang ứng trực tại đó trước nhan Ðức Chúa; 8 họ sẽ được ăn một phần bằng phần của những người kia, không kể tiền bán của cải cha ông để lại.

Các ngôn sứ

9 Khi vào đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), thì anh (em) đừng học đòi những thói ghê tởm của các dân tộc ấy: 10 giữa anh (em), không được thấy ai làm lễ thiêu con trai hoặc con gái mình, không được thấy ai làm nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thuỷ, 11 bỏ bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn. 12 Thật vậy, hễ ai làm điều ấy thì là điều ghê tởm đối với Ðức Chúa, và chính vì những điều ghê tởm ấy mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã trục xuất các dân tộc ấy cho khuất mắt anh (em). 13 Anh (em) phải sống trọn hảo với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em). 14 Các dân tộc anh (em) sắp trục xuất ấy thì nghe những thầy chiêm tinh, thầy bói, còn anh (em) thì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), không cho làm như vậy. 15 Từ giữa anh (em), trong số các anh em của anh (em), Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh (em); anh (em) hãy nghe vị ấy. 16 Ðó chính là điều mà anh (em) đã xin với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), tại núi Khô-rếp, trong ngày đại hội; anh (em) đã nói: "Chúng tôi không dám nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi nữa, chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này nữa, kẻo phải chết.” 17 Bấy giờ Ðức Chúa phán với tôi: "Chúng nói phải. 18 Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy. 19 Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính Ta sẽ hạch tội nó. 20 Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết."

21 Có khi anh (em) sẽ tự hỏi: "Làm sao chúng tôi biết được lời nào là lời Ðức Chúa đã không phán?” 22 Nếu điều ngôn sứ nói nhân danh Ðức Chúa không ứng nghiệm, không xảy ra, thì không phải là lời Ðức Chúa đã phán; ngôn sứ đã nói càn, anh (em) không phải sợ ngôn sứ ấy.

Chương 19

Kẻ sát nhân và các thành làm nơi ẩn náu (Ðn 35:9-28; Gs 20:1-9)

1 Khi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã quét sạch các dân tộc ở trong đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), khi anh (em) đã trục xuất chúng và ở trong các thành, các nhà của chúng, 2 thì anh (em) hãy tách ra ba thành ở giữa đất của anh (em), mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) để anh (em) chiếm hữu. 3 Anh (em) hãy sửa sang đường sá; và lãnh thổ mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), cho anh (em) hưởng làm gia nghiệp, anh (em) hãy chia làm ba, để mọi kẻ sát nhân có thể ẩn náu ở đó.

4 Ðây là những trường hợp mà kẻ sát nhân có thể đến đó ẩn náu và được sống: nếu nó vô ý giết người đồng loại mà trước đó nó không thù ghét. 5 Như một người vào rừng đốn cây với đồng loại, tay người ấy vung rìu lên để chặt cây và lưỡi rìu tuột khỏi cán, trúng người đồng loại và người này chết; người kia có thể vào ẩn náu tại một trong các thành ấy và sẽ được sống. 6 Nếu không, người đòi nợ máu, trong lúc tâm can sôi sục, sẽ rượt theo kẻ sát nhân, và vì đường dài nên đuổi kịp mà giết chết người ấy, trong khi người ấy không đáng phải án chết, vì trước đó không thù ghét nạn nhân. 7 Vì vậy tôi truyền cho anh (em): "Anh (em) hãy tách ra ba thành."

8 Nếu Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mở rộng lãnh thổ của anh (em), như đã thề với cha ông anh (em), và nếu Người ban cho anh (em) tất cả miền đất mà Người đã phán hứa sẽ ban cho cha ông anh (em) - 9 với điều kiện là anh (em) giữ và đem ra thực hành tất cả mệnh lệnh mà hôm nay tôi truyền cho anh (em) đây, mà yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và đi theo đường lối của Người mọi ngày, - thì anh (em) sẽ thêm ba thành nữa vào ba thành nói trên. 10 Như thế, máu vô tội sẽ không đổ ra giữa đất của anh (em), đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp, và máu sẽ không đổ xuống đầu anh (em).

11 Nhưng nếu có ai giết người đồng loại của mình, rình rập, xông vào giết chết người ấy, và người ấy chết, rồi nó vào ẩn náu tại một trong các thành ấy, 12 thì các kỳ mục của thành nó sẽ sai người đến bắt nó đưa về, sẽ trao nó vào tay người đòi nợ máu, và nó phải chết. 13 Mắt anh (em) đừng nhìn nó mà thương hại. Anh (em) phải khử trừ máu người vô tội, không cho tồn tại ở Ít-ra-en, và anh (em) sẽ được hạnh phúc.

Các ranh giới

14 Anh (em) không được xê dịch ranh giới của người đồng loại anh (em), ranh giới các tiền nhân đã ấn định, trong gia nghiệp anh (em) được thừa hưởng trong miền đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) để anh (em) chiếm hữu.

Các nhân chứng

15 Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ một tội một lỗi nào; về bất cứ lỗi nào người ấy phạm, phải căn cứ vào lời của hai nhân chứng hay căn cứ vào lời của ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét.

16 Nếu một người chứng gian đứng lên buộc tội một người để tố cáo người ấy về tội vi phạm luật, 17 thì hai người đang có việc tranh tụng sẽ đứng trước nhan Ðức Chúa, trước mặt các tư tế và các thẩm phán tại chức trong những ngày đó. 18 Các thẩm phán sẽ điều tra kỹ lưỡng, và nếu thấy rằng nhân chứng ấy là một người chứng gian: nó đã cáo gian người anh em mình, 19 thì anh em sẽ xử với nó, như nó đã định xử với anh em mình. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh (em). 20 Nghe nói thế, những người khác sẽ sợ và không còn làm điều xấu như thế nữa giữa anh (em). 21 Mắt anh (em) đừng nhìn mà thương hại.

Luật báo phục tương xứng

Mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân.

Chương 20

Chiến tranh và các chiến binh

1 Khi ra giao chiến với quân thù, nếu anh (em) thấy chiến mã chiến xa, và quân binh đông hơn anh (em), thì anh (em) đừng sợ chúng, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), Ðấng đã đưa anh (em) lên từ đất Ai-cập, ở với anh (em). 2 Khi anh em sắp sửa giao chiến thì vị tư tế sẽ tiến ra và nói với dân. 3 Ông sẽ nói với họ: "Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Hôm nay anh em sắp sửa giao chiến với quân thù; đừng sờn lòng, đừng sợ hãi, đừng hoảng hốt, đừng run khiếp trước mặt chúng, 4 vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Ðấng đi với anh em, để chiến đấu giúp anh em chống lại quân thù của anh em, để cứu thoát anh em."

5 Các ký lục sẽ nói với dân rằng:

"Ai là người đã xây nhà mới mà chưa khánh thành? Người ấy hãy đi về nhà, kẻo bị chết trận và người khác sẽ khánh thành.

6 Ai là người đã trồng vườn nho mà chưa được hưởng những trái đầu tiên? Người ấy hãy đi về nhà, kẻo bị chết trận và người khác sẽ hưởng những trái đầu tiên.

7 Ai là người đã đính hôn với một phụ nữ mà chưa cưới? Người ấy hãy đi về nhà, kẻo bị chết trận và người khác sẽ cưới nàng."

8 Các ký lục sẽ còn nói thêm với dân rằng: "Ai là người sợ hãi và sờn lòng? Người ấy hãy đi về nhà, và đừng làm cho các anh em mình nản lòng như mình."

9 Khi các ký lục nói với dân xong, thì người ta sẽ đặt những người chỉ huy quân đội đứng đầu dân.

Ðánh chiếm các thành

10 Khi tiến đánh một thành, anh (em) phải kêu gọi họ giảng hoà. 11 Nếu thành ấy đồng ý giảng hoà với anh (em) và mở cửa cho anh (em), thì toàn dân ở đó sẽ phải làm việc lao dịch cho anh (em) và làm tôi anh (em). 12 Nhưng nếu thành ấy không chịu cầu hoà với anh (em) và khai chiến với anh (em), thì anh (em) sẽ vây hãm thành đó. 13 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ trao thành ấy vào tay anh (em), và anh (em) sẽ dùng lưỡi gươm giết tất cả đàn ông con trai trong thành. 14 Chỉ có đàn bà con trẻ, gia súc và tất cả những gì ở trong thành, tất cả những gì chiếm được trong thành, thì anh (em) mới được giữ lấy làm chiến lợi phẩm; anh (em) sẽ được ăn những gì đã chiếm của quân thù, những thứ mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em).

15 Anh (em) hãy xử như thế với tất cả những thành ở rất xa anh (em), những thành không thuộc số những thành của các dân tộc ở đây. 16 Chỉ có những thành của các dân tộc này, mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp, thì anh (em) sẽ không để cho một sinh vật nào được sống. 17 Thật vậy, anh (em) sẽ phải loại trừ chúng hoàn toàn: người Khết và người E-mô-ri, người Ca-na-an và người Pơ-rít-di, người Khi-vi và người Giơ-vút, như Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã truyền cho anh (em); 18 như thế, chúng sẽ không dạy anh em học đòi mọi điều ghê tởm chúng làm để kính các thần của chúng, khiến anh em phạm tội nghịch cùng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em.

19 Khi vây hãm một thành lâu ngày để đánh, để chiếm thành, anh (em) không được vung rìu phá cây cối của thành, vì anh (em) sẽ được ăn hoa trái những cây ấy; anh (em) không được chặt những cây ấy. Cây ngoài đồng đâu phải là con người để anh (em) vây hãm? 20 Chỉ có cây mà anh (em) biết không phải là cây ăn trái, thì anh (em) mới được phá, được chặt để dựng những công sự vây hãm thành đang đánh nhau với anh (em), cho đến khi thành thất thủ.

Chương 21

Trường hợp không tìm ra kẻ sát nhân

1 Nếu trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) để anh (em) chiếm hữu, phát hiện một xác chết nằm ngoài đồng, mà không biết ai đã giết, 2 thì các kỳ mục và thẩm phán của anh (em) sẽ đi ra và đo khoảng cách của các thành ở chung quanh xác chết, 3 xem thành nào gần xác chết nhất. Các kỳ mục thành ấy sẽ lấy một bò tơ cái chưa bị bắt làm việc và chưa phải mang ách. 4 Các kỳ mục thành ấy sẽ đưa con bò cái tơ xuống một khe suối luôn có nước chảy, một nơi không cày cấy gieo trồng, và họ sẽ đánh gãy ót con bò cái tơ tại đó, trong khe suối. 5 Bấy giờ các tư tế, con cái Lê-vi, sẽ tiến lại, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã chọn họ để họ phụng sự Người và chúc phúc nhân danh Ðức Chúa, và căn cứ vào lời họ mà mọi vụ tranh tụng và đả thương được giải quyết. 6 Tất cả các kỳ mục thành ấy, là những người ở gần xác chết nhất, sẽ rửa tay trên con bò cái tơ đã bị đánh gãy ót trong khe suối. 7 Họ sẽ lên tiếng nói: "Tay chúng tôi đã không đổ máu này, và mắt chúng tôi đã không nhìn thấy. 8 Lạy Ðức Chúa, xin xá tội cho dân Ngài là Ít-ra-en, mà Ngài đã giải thoát, và đừng để máu vô tội ở lại giữa dân Ngài là Ít-ra-en." Và họ sẽ được xá tội về vụ đổ máu đó. 9 Còn anh (em), anh (em) sẽ khử trừ máu vô tội, không cho tồn tại giữa anh (em), vì anh (em) làm điều Ðức Chúa coi là ngay thẳng.

Cưới phụ nữ bị bắt trong chiến tranh

10 Khi anh (em) ra giao chiến với quân thù, và Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), trao chúng vào tay anh (em), nếu anh (em) bắt được tù, 11 và thấy trong đám tù một người đàn bà duyên dáng mà đem lòng quyến luyến người ấy và lấy làm vợ, 12 thì anh (em) sẽ đưa nàng vào trong nhà mình. Nàng sẽ cạo đầu, cắt móng tay, 13 cởi áo mặc khi bị bắt; nàng sẽ ở trong nhà anh (em) và khóc cha mẹ nàng một tháng tròn. Sau đó anh (em) sẽ ăn nằm với nàng, cưới nàng và nàng sẽ là vợ anh (em). 14 Trong trường hợp anh (em) không thích nàng nữa, thì anh (em) sẽ để cho nàng đi đâu tuỳ ý nàng; anh (em) không được phép bán nàng đổi lấy bạc, cũng không được hành hạ nàng, vì anh (em) đã cưỡng bức nàng.

Quyền trưởng nam

15 Khi một người đàn ông có hai vợ, một vợ được yêu, một vợ không được yêu, và cả người được yêu lẫn người không được yêu đều sinh con cho người ấy, mà con trai trưởng lại là con của người không được yêu, 16 thì khi chia gia tài cho các con, người đàn ông ấy không được dành quyền trưởng nam cho đứa con của người vợ mình yêu, khiến đứa con của người vợ không được yêu, là con trai trưởng, bị thiệt. 17 Trái lại người đàn ông ấy phải nhìn nhận đứa con của người vợ không được yêu là trưởng nam, mà chia cho nó hai phần sản nghiệp: nó là hoa quả đầu đời trai tráng của người ấy, nên nó được quyền trưởng nam.

Ðứa con bất trị

18 Khi có đứa con ngỗ nghịch và bất trị, không nghe lời cha mẹ, cha mẹ có sửa dạy, nó cũng chẳng chịu nghe, 19 thì cha mẹ nó sẽ bắt lấy nó, đưa ra cửa thành cho các kỳ mục địa phương 20 và sẽ nói với các kỳ mục trong thành: "Con chúng tôi đây ngỗ nghịch và bất trị, không nghe lời chúng tôi, nó rượu chè phóng đãng.” 21 Mọi người trong thành sẽ ném đá cho nó chết và nó phải chết. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh (em). Nghe chuyện ấy, toàn thể Ít-ra-en sẽ sợ.

Những chỉ thị khác

22 Khi một người có tội đáng phải án chết đã bị xử tử, và anh (em) đã treo nó lên cây, 23 thì xác nó không được để qua đêm trên cây, nhưng anh (em) phải chôn ngay hôm ấy, vì người bị treo là đồ bị Thiên Chúa nguyền rủa. Anh (em) không được làm cho đất của anh (em) ra ô uế, đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp.

Chương 22

1 Khi anh (em) thấy bò hay chiên dê của người anh em mình đi lạc, thì đừng bỏ mặc làm ngơ, nhưng phải dẫn chúng về cho người anh em. 2 Nếu người anh em của anh (em) không ở gần anh (em), hoặc anh (em) không quen biết người ấy, thì anh (em) hãy đem con vật vào trong nhà, nó sẽ ở với anh (em) cho đến khi người anh em của anh (em) đến xin nó; bấy giờ anh (em) sẽ hoàn nó lại cho người ấy.

3 Anh (em) phải làm như thế đối với con lừa của họ, phải làm như thế đối với áo choàng của họ, phải làm như thế đối với tất cả những gì người anh em của anh (em) đánh mất mà anh (em) bắt được; anh (em) không được bỏ mặc làm ngơ.

4 Khi anh (em) thấy lừa hay bò của người anh em mình ngã trên đường, thì đừng bỏ mặc làm ngơ, nhưng phải giúp người anh em đỡ chúng dậy.

5 Ðàn bà không được mặc quần áo đàn ông; đàn ông không được mang y phục đàn bà, vì hễ ai làm những việc ấy thì là điều ghê tởm đối với Ðức Chúa.

6 Nếu trên đường đi, anh (em) gặp một tổ chim, ở trên bất cứ cây nào hay ở dưới đất, trong đó có chim con hoặc trứng, và chim mẹ đang ủ chim con hay ấp trứng, thì anh (em) không được bắt cả mẹ lẫn con. 7 Anh (em) phải thả chim mẹ, còn chim con thì được bắt. Như vậy anh (em) sẽ được hạnh phúc và được sống lâu.

8 Khi xây nhà mới, anh (em) phải làm lan can chung quanh mái. Như vậy anh (em) không để cho máu đổ ra trong nhà anh (em), trong trường hợp có ai ngã từ mái xuống.

9 Anh (em) không được gieo trong vườn nho của anh (em) một loại cây thứ hai nào, kẻo tất cả trở thành của thánh: cả cái anh (em) gieo lẫn hoa lợi vườn nho.

10 Anh (em) không được bắt bò và lừa cày chung với nhau.

11 Anh (em) không được mặc thứ vải bằng sợi len và sợi gai dệt chung với nhau.

12 Anh (em) hãy làm những tua ở bốn mép áo anh (em) dùng để đắp.

Xúc phạm đến danh dự một thiếu nữ

13 Khi một người đàn ông lấy vợ và ăn nằm với nàng, rồi ghét bỏ nàng, 14 vu khống và bôi xấu danh dự nàng mà nói: "Tôi đã lấy người đàn bà này, đã gần gũi với cô ấy và không thấy dấu nào chứng tỏ cô ấy còn trinh", 15 thì cha mẹ cô gái sẽ lấy những dấu chứng tỏ cô gái còn trinh và đưa ra cửa thành cho các kỳ mục thành ấy. 16 Người cha cô gái sẽ nói với các kỳ mục: "Tôi đã gả con gái cho người đàn ông này, nhưng anh ta ghét bỏ nó; 17 bây giờ anh ta vu khống nó và nói: "Tôi không thấy những dấu chứng tỏ con gái ông còn trinh. Vậy đây là những dấu chứng tỏ con gái tôi còn trinh." Họ sẽ mở chiếc áo choàng ra trước mặt các kỳ mục trong thành. 18 Các kỳ mục trong thành sẽ bắt người chồng và sửa phạt: 19 họ sẽ bắt người ấy nộp phạt một trăm thỏi bạc, và sẽ trao số bạc đó cho người cha cô gái, vì người ấy đã bôi xấu danh dự của một trinh nữ Ít-ra-en. Nàng sẽ là vợ người ấy và suốt đời người ấy không thể rẫy nàng. 20 Nhưng nếu điều đó có thật, nếu người ta không tìm thấy nơi cô gái những dấu chứng tỏ cô còn trinh, 21 thì họ sẽ lôi cô gái ra cửa nhà cha nàng; người trong thành của nàng sẽ ném đá nàng cho chết và nàng sẽ phải chết, vì nàng đã làm điều đồi bại trong Ít-ra-en, khi làm điếm trong nhà cha mình. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh (em).

Ngoại tình và thông dâm

22 Nếu một người đàn ông bị bắt gặp đang nằm với một người đàn bà có chồng, thì cả; hai sẽ phải chết: người đàn ông đã nằm với người đàn bà, và cả người đàn bà. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại ở Ít-ra-en.

23 Khi một cô gái còn trinh đã đính hôn với một người đàn ông, mà một người đàn ông khác gặp cô trong thành và nằm với cô, 24 thì anh (em) sẽ lôi cả hai ra cửa thành ấy và ném đá, và chúng sẽ phải chết: cô gái, vì lý do ở trong thành mà đã không kêu cứu, và người đàn ông, vì lý do đã cưỡng bức vợ người đồng loại. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh (em). 25 Nhưng nếu người đàn ông gặp ở ngoài đồng cô gái đã đính hôn, bắt lấy nàng và nằm với nàng, thì chỉ một mình người đàn ông đã nằm với nàng sẽ phải chết; 26 còn cô gái, thì anh (em) đừng làm gì nàng, nàng không có tội đáng chết. Trường hợp cũng như một người xông vào người đồng loại để giết người ấy: 27 vì người đàn ông kia đã gặp cô ngoài đồng; cô gái đính hôn đã kêu mà không ai cứu.

28 Khi một người đàn ông gặp một cô gái chưa đính hôn, nắm lấy nàng và nằm với nàng, và họ bị bắt gặp, 29 thì người đàn ông đã nằm với nàng phải nộp cho cha cô gái năm mươi thỏi bạc; nàng sẽ là vợ người ấy, bởi lẽ người ấy đã cưỡng hiếp nàng, và suốt đời người ấy không thể rẫy nàng.

Chương 23

1 Một người đàn ông không được lấy vợ của cha mình, không được xâm phạm đến quyền làm chồng của cha mình.

Những người không được tham dự đại hội

2 Ai bị giập tinh hoàn hay bị cắt dương vật sẽ không được vào đại hội của Ðức Chúa. 3 Người con lai không được vào đại hội của Ðức Chúa; cả đến đời thứ mười, nó cũng không được vào đại hội của Ðức Chúa. 4 Người Am-mon và người Mô-áp không được vào đại hội của Ðức Chúa; cả đến đời thứ mười, chúng cũng không được vào đại hội của Ðức Chúa, và mãi mãi như vậy. 5 Lý do là vì chúng đã không mang bánh và nước ra đón anh em trên đường, khi anh em ra khỏi Ai-cập, và vì, để hại anh (em), Mô-áp đã thuê Bi-lơ-am, con của Bơ-o, từ Pơ-tho tại miền A-ram Na-ha-ra-gim, đến nguyền rủa anh (em). 6 Nhưng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã không muốn nghe Bi-lơ-am, và Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã đổi lời nguyền rủa thành lời chúc phúc cho anh (em) được nhờ, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), yêu thương anh (em). 7 Suốt đời anh (em) và mãi mãi, anh (em) không được theo đòi chúng để được bình an và thịnh vượng.

8 Anh (em) không được ghê tởm người Ê-đôm, vì họ là anh em của anh (em). Anh (em) không được ghê tởm người Ai-cập, vì anh (em) đã là ngoại kiều trong đất họ. 9 Con cháu họ sẽ sinh ra, đến đời thứ ba sẽ được vào đại hội của Ðức Chúa.

Giữ trại cho thanh sạch

10 Khi ra đóng quân đối diện với quân thù, anh (em) phải giữ mình khỏi mọi điều xấu. 11 Khi ở giữa anh (em) có một người đàn ông không thanh sạch, vì xuất tinh ban đêm, thì người ấy phải ra ngoài trại, và không được trở vào trong trại; 12 lúc chiều tà, người ấy sẽ tắm rửa bằng nước, và khi mặt trời lặn, sẽ trở vào trong trại.

13 Anh (em) phải có một chỗ ở bên ngoài trại, và anh (em) sẽ ra đó mà đi ngoài. 14 Trong đồ đạc của anh (em), phải có một cái xẻng nhỏ, và khi ra ngồi ngoài đó, anh (em) sẽ dùng xẻng đó mà đào lỗ phóng uế, rồi lấp đi. 15 Vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đi đi lại lại giữa trại anh (em) để giải thoát anh (em) và trao thù địch của anh (em) cho anh (em). Vậy trại anh (em) phải là trại thánh, kẻo Người thấy có gì chướng nơi anh (em) mà không đi theo anh (em) nữa.

Luật xã hội và luật phượng tự

16 Một người nô lệ đã trốn nhà chủ mà đến với anh (em), anh (em) đừng nộp nó lại cho chủ. 17 Nó sẽ ở với anh (em), giữa anh (em), tại nơi nó chọn, trong một thành nào của anh (em) mà nó thích; anh (em) không được ngược đãi nó.

18 Con gái Ít-ra-en không được làm điếm thần, con trai Ít-ra-en không được làm điếm thần. 19 Anh (em) không được đưa vào nhà Ðức Chúa tiền công của một con điếm hay tiền lương của một thằng điếm để làm lễ vật khấn hứa, vì cả hai đều ghê tởm đối với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).

20 Anh (em) không được cho người anh (em) mình vay lấy lãi: vay bạc, vay lương thực, vay bất cứ thứ gì sinh lãi. 21 Người nước ngoài, anh (em) được cho vay lấy lãi, còn người anh em của anh (em) thì không được cho vay lấy lãi; như vậy, Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) sẽ chúc phúc cho anh (em), trong mọi công việc tay anh (em) làm, trên đất anh (em) sắp vào chiếm hữu.

22 Khi anh (em) khấn hứa với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), điều gì, thì đừng trì hoãn thi hành, vì chắc chắn Thiên Chúa sẽ đòi anh (em) điều đó, và anh (em) sẽ mang tội. 23 Nhưng nếu anh (em) tránh không khấn hứa, thì anh (em) không mang tội. 24 Ðiều môi miệng anh (em) nói ra, anh (em) phải giữ và thi hành như anh (em) đã tự nguyện khấn hứa với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và như miệng anh (em) đã nói ra.

25 Khi vào vườn nho của người đồng loại của anh (em), thì anh (em) có thể ăn nho tuỳ thích, ăn cho đến no, nhưng không được bỏ vào giỏ của mình. 26 Khi vào đồng lúa của người đồng loại anh (em), thì anh (em) có thể lấy tay bứt những bông lúa, nhưng không được tra liềm cắt lúa của người đồng loại anh (em).

Chương 24

Ly dị

1 Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà. 2 Ra khỏi nhà người ấy, nếu nàng đi lấy chồng khác, 3 mà người chồng sau lại ghét bỏ nàng, viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà, hoặc nếu người chồng sau đã lấy nàng làm vợ mà chết, 4 thì người chồng đầu tiên đã đuổi nàng đi không thể lấy nàng làm vợ một lần nữa, sau khi nàng đã ra ô uế. Ðó là điều ghê tởm trước nhan Ðức Chúa; anh (em) không được làm cho miền đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp, phải mang tội.

Biện pháp bảo vệ

5 Khi một người đàn ông mới cưới vợ, thì người ấy không phải đi lính, và người ta sẽ không bắt làm công tác nào; người ấy sẽ được miễn, được ở nhà một năm, và sẽ là niềm vui cho người vợ đã cưới.

6 Không được giữ cối xay bột làm đồ cầm, dù chỉ một nửa trên, vì như thế là giữ chính mạng người làm đồ cầm.

7 Nếu thấy ai bắt cóc một người anh em mình trong hàng con cái Ít-ra-en, hành hạ và bán người đó đi, thì kẻ bắt cóc phải chết. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh (em).

8 Về bệnh phung cùi, anh (em) hãy ý tứ giữ cẩn thận và thi hành tất cả những gì các tư tế Lê-vi chỉ dẫn cho anh em; anh em hãy lo thực hành như tôi đã truyền cho họ. 9 Hãy nhớ cách Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã xử với bà Mi-ri-am trên đường, khi anh em ra khỏi Ai-cập.

10 Khi anh (em) cho người đồng loại vay cái gì, thì không được vào nhà người ấy mà bắt đồ cầm. 11 Anh (em) sẽ đứng ngoài, và người mà anh (em) cho vay sẽ mang đồ cầm ra ngoài cho anh (em). 12 Nếu người ấy nghèo, anh (em) sẽ không đi ngủ mà còn giữ đồ cầm của người ấy. 13 Anh (em) phải đem trả lại đồ cầm cho người ấy khi mặt trời lặn; người ấy sẽ đắp áo choàng của mình mà ngủ, sẽ chúc phúc cho anh (em); anh (em) sẽ là người công chính trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).

14 Anh (em) không được bóc lột người làm thuê nghèo khó bần cùng, dù người ấy là một người anh em của anh (em) hay là một ngoại kiều ở trong đất nước của anh (em), trong các thành của anh (em). 15 Chính ngày hôm ấy, anh (em) phải trả công cho họ, đừng để mặt trời lặn mà không trả công, vì họ nghèo khổ và nóng lòng mong đợi được trả công; như vậy họ sẽ không kêu lên Ðức Chúa tố cáo anh (em), và anh (em) sẽ không mang tội.

16 Cha sẽ không bị xử tử vì con, và con sẽ không bị xử tử vì cha: mỗi người sẽ bị xử tử về tội của mình.

17 Anh (em) không được làm thiệt hại đến quyền lợi của ngoại kiều và cô nhi, không được giữ áo của người goá bụa làm đồ cầm. 18 Anh (em) hãy nhớ mình đã làm nô lệ bên Ai-cập, và Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã giải thoát anh (em) ra khỏi đó. Vì vậy tôi truyền cho anh (em) thực hành điều đó.

19 Khi anh (em) gặt lúa trong ruộng mình, mà bỏ sót một bó lúa trong ruộng, thì không được quay lại mà lấy; bó lúa ấy dành cho ngoại kiều và cô nhi quả phụ; như vậy, Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ chúc phúc cho anh (em) trong mọi việc tay anh (em) làm.

20 Khi hái ô-liu, thì anh (em) không được trở lại tìm trái sót; những trái đó dành cho ngoại kiều và cô nhi quả phụ.

21 Khi hái nho, thì anh (em) không được mót lại; những trái còn sót dành cho ngoại kiều và cô nhi quả phụ.

22 Anh em hãy nhớ mình đã làm nô lệ bên đất Ai-cập. Vì vậy, tôi truyền cho anh (em) thực hành điều đó.

Chương 25

1 Khi người ta có chuyện tranh chấp với nhau, thì họ sẽ đi hầu toà, và toà sẽ phân xử cho họ: toà sẽ công bố người công chính là công chính, kẻ có tội là có tội. 2 Nếu người có tội đáng phải đòn, thẩm phán sẽ cho nọc ra mà đánh trước mặt mình, tội đáng bao nhiêu thì đánh bấy nhiêu đòn. 3 Quan toà được cho đánh bốn mươi đòn, nhưng không được cho đánh thêm, sợ rằng đánh thêm sẽ bị trọng thương, và người anh em của anh (em) sẽ bị nhục trước mặt anh (em).

4 Anh (em) không được bịt mõm con bò đang đạp lúa.

Luật về anh em chồng

5 Khi có những anh em ở chung với nhau, và một trong những người đó chết mà không có con trai, thì vợ của người chết không được lấy một người xa lạ, ngoài gia đình; một người anh em chồng sẽ đến với nàng, lấy nàng làm vợ và chu toàn bổn phận của một người anh em chồng đối với nàng. 6 Ðứa con đầu lòng nàng sinh ra sẽ duy trì tên của người anh em đã chết; như vậy tên của người chết sẽ không bị xoá khỏi Ít-ra-en. 7 Nhưng nếu người đàn ông ấy không thích lấy chị dâu hay em dâu mình, thì nàng sẽ lên cửa thành, gặp các kỳ mục và thưa: "Người anh em chồng tôi từ chối không chịu lưu truyền tên tuổi của anh em mình ở Ít-ra-en, người ấy không muốn chu toàn bổn phận của một người anh em chồng đối với tôi.” 8 Các kỳ mục trong thành sẽ gọi người đàn ông đến và nói với người ấy. Người ấy sẽ đứng đấy và nói: "Tôi không thích lấy cô ấy.” 9 Người chị dâu hay em dâu sẽ đến gần người ấy trước mặt các kỳ mục, rút một chiếc dép người ấy ra khỏi chân, nhổ vào mặt người ấy và lên tiếng nói: "Kẻ không xây nhà cho người anh em mình thì phải xử như thế đó!” 10 Trong Ít-ra-en, người ta sẽ gọi tên người ấy là "nhà kẻ bị lột dép."

Không được khiếm nhã trong khi ẩu đả

11 Khi hai người đàn ông đánh nhau, mà vợ của một trong hai người lại gần để cứu chồng khỏi tay địch thủ và đưa tay nắm lấy chỗ kín của người này, 12 thì anh (em) phải chặt tay người đàn bà ấy. Mắt anh (em) đừng nhìn nó mà thương hại.

Phụ lục

13 Anh (em) không được có trong bao bị của anh (em) hai quả cân khác nhau, một nặng một nhẹ; 14 anh (em) không được có trong nhà của anh (em) hai thùng khác nhau, một lớn một nhỏ. 15 Anh (em) phải có một quả cân nguyên vẹn và chính xác, một thùng nguyên vẹn và chính xác, để anh (em) được sống lâu trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em). 16 Thật vậy, hễ ai làm những điều ấy, hễ ai làm điều bất công, thì là điều ghê tởm đối với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).

17 Anh (em) hãy nhớ A-ma-lếch đã xử thế nào với anh (em) trên đường, khi anh em ra khỏi Ai-cập: 18 nó đã đón đường anh (em) và đánh tập hậu mọi kẻ lết theo sau, trong khi anh (em) mệt lả và kiệt sức; nó đã không kính sợ Thiên Chúa. 19 Vậy khi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), cho anh (em) được thảnh thơi mọi bề, không còn thù địch nào nữa, trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp để anh (em) chiếm hữu, thì anh (em) sẽ xoá hẳn tên tuổi A-ma-lếch, khiến cho dưới gầm trời, không còn ai nhớ đến nó nữa: anh (em) đừng quên!

Chương 26

Sản phẩm đầu mùa

1 Khi anh (em) vào đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp, khi anh (em) chiếm hữu và ở đất đó, 2 thì hãy lấy một phần mọi nông sản đầu mùa anh (em) thu hoạch được từ miền đất của anh (em), mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em). Anh (em) hãy để những thứ ấy vào giỏ, rồi đi đến nơi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chọn cho Danh Người ngự. 3 Anh (em) sẽ đến với tư tế tại chức trong những ngày đó và sẽ thưa với ông:

"Hôm nay tôi xin trình với Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, rằng tôi đã vào miền đất mà Ðức Chúa đã thề với cha ông chúng tôi là Người sẽ ban cho chúng tôi."

4 Tư tế sẽ nhận lấy giỏ từ tay anh (em) và đem đặt trước bàn thờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em). 5 Bấy giờ, anh (em) sẽ lên tiếng thưa trước tôn nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) rằng:

6 Người Ai-cập đã ngược đãi, hành hạ chúng tôi và đặt ách nô lệ trên vai chúng tôi. 7 Bấy giờ chúng tôi đã kêu lên cùng Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông chúng tôi; Người đã nghe tiếng chúng tôi, đã thấy cảnh khổ cực, lầm than, áp bức chúng tôi phải chịu. 8 Ðức Chúa đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, để đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập. 9 Người đã đưa chúng tôi vào đây, ban cho chúng tôi đất này, đất tràn trề sữa và mật. 10 Và bây giờ, lạy Ðức Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con."

11 Anh (em) sẽ liên hoan cùng với các thầy Lê-vi và người ngoại kiều sống giữa anh (em), vì mọi điều tốt mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã ban cho anh (em) và gia đình anh (em).

Thuế thập phân ba năm một lần

12 Năm thứ ba, tức là năm nộp thuế thập phân, sau khi anh (em) đã trích ra một phần mười hoa lợi mà đem cho thầy Lê-vi, người ngoại kiều và cô nhi quả phụ, và họ đã được ăn uống no nê trong các thành của anh (em), 13 thì anh (em) sẽ đến thưa trước tôn nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em):

14 Con đã không ăn của đó khi có tang, đã không lấy một phần của đó khi con bị ô uế, đã không dùng mà cúng người chết. Con đã nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của con, đã làm theo mọi điều Ngài truyền cho con. 15 Từ thánh điện của Ngài, từ trời cao, xin Ngài nhìn xuống, xin chúc phúc cho dân Ngài là Ít-ra-en, cho đất đai mà Ngài đã ban cho chúng con, như Ngài đã thề với cha ông chúng con, đất tràn trề sữa và mật."

III. Những Diễn Từ Kết Thúc

Ít-ra-en là dân của Ðức Chúa

16 Hôm nay, Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), truyền cho anh (em) đem ra thực hành các thánh chỉ và quyết định này. Anh (em) phải hết lòng hết dạ tuân giữ và đem ra thực hành các điều ấy.

17 Hôm nay, anh (em) đã làm cho Ðức Chúa tuyên bố rằng Người sẽ là Thiên Chúa của anh (em), rằng anh (em) phải đi theo đường lối của Người, giữ các thánh chỉ, mệnh lệnh, quyết định của Người, và nghe tiếng Người. 18 Hôm nay, Ðức Chúa đã khiến anh (em) tuyên bố rằng anh (em) sẽ là dân thuộc quyền sở hữu của Người như Người đã phán với anh (em), và rằng anh (em) sẽ giữ mọi mệnh lệnh của Người, 19 rằng Người sẽ cho anh (em) vượt mọi dân tộc Người đã tạo dựng, xét về vinh dự, danh tiếng và vinh quang, rằng anh (em) sẽ là một dân thánh hiến cho Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), như Người đã phán.

Chương 27

Ghi khắc Luật vào đá. Các nghi lễ.

1 Ông Mô-sê cùng với các kỳ mục của Ít-ra-en đã truyền cho dân rằng: "Hãy giữ tất cả mệnh lệnh mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay. 2 Ngày anh (em) sang qua sông Gio-đan vào đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), anh (em) sẽ dựng những tảng đá lớn và lấy vôi mà quét. 3 Khi sang qua sông, anh (em) sẽ viết trên tảng đá ấy mọi lời của Luật này; như vậy anh (em) sẽ được vào đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), đất tràn trề sữa và mật, như Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã phán với anh (em).

4 Khi đã sang qua sông Gio-đan, anh (em) hãy dựng những tảng đá ấy trên núi Ê-van, như tôi truyền cho anh (em) hôm nay, và hãy lấy vôi mà quét. 5 Ở đó anh (em) hãy xây một bàn thờ để kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), một bàn thờ bằng những viên đá anh (em) đã không dùng sắt mà đẽo. 6 Anh (em) hãy dùng những viên đá nguyên vẹn mà xây bàn thờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và trên đó, hãy dâng lên Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), những lễ toàn thiêu. 7 Anh (em) hãy dâng những hy lễ kỳ an, hãy ăn tại đó và liên hoan trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em); 8 anh (em) hãy viết trên các tảng đá mọi lời của Luật này: hãy khắc rõ ràng."

9 Ông Mô-sê cùng với các tư tế Lê-vi nói với toàn thể Ít-ra-en rằng:

10 Anh (em) hãy nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và đem ra thực hành những mệnh lệnh và thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay."

11 Hôm ấy, ông Mô-sê đã truyền cho dân rằng: 12 "Khi anh (em) đã sang qua sông Gio-đan thì đây: Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Ít-xa-kha, Giu-se và Ben-gia-min sẽ đứng trên núi Ga-ri-dim để chúc phúc cho dân; 13 và đây: Rưu-vên, Gát, A-se, Dơ-vu-lun, Ðan và Náp-ta-li sẽ đứng trên núi Ê-van để nguyền rủa.

14 Các thầy Lê-vi sẽ cất giọng và lớn tiếng nói với mọi người Ít-ra-en:

15 Ðáng nguyền rủa thay người tạc tượng đúc tượng - điều ghê tởm đối với Ðức Chúa, đồ vật do tay thợ làm ra - và đặt ở nơi bí mật mà thờ! Toàn dân sẽ thưa: A-men!

16 Ðáng nguyền rủa thay kẻ khinh dể cha mẹ! Toàn dân sẽ thưa: A-men!

17 Ðáng nguyền rủa thay kẻ xê dịch ranh giới người đồng loại! Toàn dân sẽ thưa: A-men!

18 Ðáng nguyền rủa thay kẻ làm cho người mù đi lạc đường! Toàn dân sẽ thưa: A-men!

19 Ðáng nguyền rủa thay kẻ làm thiệt hại đến quyền lợi của ngoại kiều, cô nhi quả phụ! Toàn dân sẽ thưa: A-men!

20 Ðáng nguyền rủa thay kẻ nằm với vợ của cha mình, vì nó xâm phạm đến quyền làm chồng của cha mình! Toàn dân sẽ thưa: A-men!

21 Ðáng nguyền rủa thay kẻ nằm với con vật nào! Toàn dân sẽ thưa: A-men!

22 Ðáng nguyền rủa thay kẻ nằm với chị em mình, con gái của cha hay mẹ mình! Toàn dân sẽ thưa: A-men!

23 Ðáng nguyền rủa thay kẻ nằm với mẹ vợ mình! Toàn dân sẽ thưa: A-men!

24 Ðáng nguyền rủa thay kẻ giết trộm người đồng loại! Toàn dân sẽ thưa: A-men!

25 Ðáng nguyền rủa thay kẻ nhận quà hối lộ để giết người vô tội! Toàn dân sẽ thưa: A-men!

26 Ðáng nguyền rủa thay kẻ không giữ trọn những lời của Luật này mà đem ra thực hành! Toàn dân sẽ thưa: A-men!"

Chương 28

Các lời chúc phúc (Lv 26:3-13; Ðnl 7:12 -24)

1 Nếu anh (em) thật sự nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mà lo đem ra thực hành tất cả những mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay, thì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho anh (em) vượt mọi dân tộc trên mặt đất, 2 và mọi phúc lành sau đây sẽ đến với anh (em) và bao trùm anh (em), bởi vì anh (em) đã nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em):

3 Anh (em) sẽ được chúc phúc trong thành, anh (em) sẽ được chúc phúc ngoài đồng. 4 Con cái của lòng dạ anh (em), hoa màu của đất đai anh (em), đàn con của gia súc anh (em), bò con, chiên con của anh (em) đều được chúc phúc. 5 Giỏ của anh (em) và cối nhồi bột của anh (em) sẽ được chúc phúc. 6 Anh (em) sẽ được chúc phúc khi vào, anh (em) sẽ được chúc phúc khi ra.

7 Các kẻ thù anh (em) đứng lên chống lại anh (em), Ðức Chúa sẽ làm cho chúng bị đánh bại trước mặt anh (em): khi ra đánh anh (em), chúng cùng đi một lối, lúc phải trốn anh (em), chúng tháo chạy bảy đường. 8 Ðức Chúa sẽ truyền cho phúc lành ở với anh (em) trong kho lúa và trong mọi công việc tay anh (em) làm, và Người sẽ chúc phúc cho anh (em) trong đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em).

9 Ðức Chúa sẽ đặt anh (em) lên làm dân thánh hiến cho Người, như Người đã thề với anh (em), nếu anh (em) giữ các mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và nếu anh (em) đi theo đường lối của Người. 10 Mọi dân trên mặt đất sẽ thấy rằng anh (em) được mang danh Ðức Chúa, và chúng sẽ sợ anh (em). 11 Ðể anh (em) được hạnh phúc, Ðức Chúa sẽ cho anh (em) thành công, mà cho anh (em) sinh nhiều con cái, gia súc anh (em) sinh sôi nảy nở, đất đai anh (em) sinh nhiều hoa trái, trên đất đai mà Ðức Chúa đã thề với cha ông anh (em) là Người sẽ ban cho anh (em). 12 Ðức Chúa sẽ mở trời, là kho tàng quý báu của Người, cho anh (em), để ban mưa đúng mùa cho đất anh (em), và chúc phúc cho mọi việc tay anh (em) làm. Anh (em) sẽ cho nhiều dân tộc vay mượn, còn chính anh (em) sẽ không phải vay mượn. 13 Ðức Chúa sẽ đặt anh (em) đứng đầu chứ không đứng cuối, anh (em) sẽ chỉ đi lên chứ không đi xuống, nếu anh (em) nghe các mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mà hôm nay tôi truyền cho anh (em) giữ và đem ra thực hành, 14 và nếu anh (em) tuân cứ mọi điều tôi truyền cho anh (em) hôm nay, không đi trệch bên phải bên trái, mà theo các thần khác và phụng thờ chúng.

Các lời nguyền rủa (Lv 26:14-46)

15 Nhưng nếu anh (em) không nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), không lo đem ra thực hành tất cả những mệnh lệnh và thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay, thì những lời nguyền rủa sau đây sẽ đến với anh (em) và bao trùm anh (em):

16 Anh (em) sẽ bị nguyền rủa trong thành, anh (em) sẽ bị nguyền rủa ngoài đồng. 17 Giỏ của anh (em) và cối nhồi bột của anh (em) sẽ bị nguyền rủa. 18 Con cái của lòng dạ anh (em), hoa màu của đất đai anh (em), bò con, chiên con của anh (em) sẽ bị nguyền rủa. 19 Anh (em) sẽ bị nguyền rủa khi vào, anh (em) sẽ bị nguyền rủa khi ra.

20 Ðức Chúa sẽ khiến anh (em) mắc tai hoạ, phải hoảng sợ, bị đe doạ, trong mọi công việc tay anh (em) làm, cho đến khi anh (em) bị tiêu diệt và mau lẹ biến mất, vì sự gian ác anh (em) làm khi lìa bỏ Ðức Chúa. 21 Ðức Chúa sẽ cho ôn dịch bám vào anh (em), cho đến khi nó tận diệt anh (em), khiến anh (em) không còn trên đất anh (em) sắp vào chiếm hữu. 22 Ðức Chúa sẽ làm cho anh (em) bị suy mòn, nóng sốt, viêm, phỏng, bị hạn hán, và làm cho lúa mì bị úa vàng, bị sâu đục: các thứ đó sẽ theo sát anh (em) cho đến khi anh (em) biến mất. 23 Trời của anh (em), trên đầu anh (em), sẽ là đồng, đất dưới chân anh (em) sẽ là sắt. 24 Thay vì làm mưa trên đất anh (em), Ðức Chúa sẽ cho cát và bụi từ trời rơi xuống, cho đến khi anh (em) bị tiêu diệt.

25 Ðức Chúa sẽ làm cho anh (em) bị đánh bại trước mặt quân thù: khi ra đánh chúng, anh (em) cùng đi một lối, lúc phải trốn chúng, anh (em) tháo chạy bảy đường. Anh (em) sẽ làm cho mọi dân tộc trên mặt đất phải gớm ghiếc. 26 Xác chết của anh (em) sẽ làm mồi cho mọi chim trời, và cho các thú vật trên mặt đất, mà không ai xua đuổi chúng.

27 Ðức Chúa sẽ làm cho anh (em) bị ung nhọt Ai-cập, bị u bướu, ghẻ lở, ngứa ngáy, mà không thể chữa khỏi. 28 Ðức Chúa sẽ làm cho anh (em) bị điên khùng, mù loà, loạn trí. 29 Anh (em) sẽ mò mẫm giữa trưa, như người mù mò mẫm trong bóng tối, và sẽ không thấy đường mà đi.

30 Anh (em) sẽ đính hôn với một phụ nữ, nhưng người khác sẽ cưỡng hiếp nàng; anh (em) sẽ xây nhà, nhưng không được ở, sẽ trồng vườn nho, nhưng không được hưởng trái đầu tiên. 31 Bò của anh (em) sẽ bị hạ trước mắt anh (em), mà anh (em) không được ăn thịt; lừa của anh (em) sẽ bị cướp trước mặt anh (em) và sẽ không trở về với anh (em); chiên dê của anh (em) sẽ bị nộp cho quân thù, mà không ai cứu giúp anh (em). 32 Con trai con gái của anh (em) sẽ bị nộp cho một dân khác; mắt anh (em) sẽ chứng kiến và suốt ngày mòn mỏi trông chờ chúng, nhưng anh (em) đành chịu bó tay. 33 Hoa màu của đất đai anh (em) và tất cả công lao vất vả của anh (em), thì một dân anh (em) không biết sẽ được hưởng; mãi mãi, anh (em) sẽ chỉ là người bị áp bức, bị hành hạ. 34 Anh (em) sẽ ra điên khùng vì cảnh tượng mắt anh (em) chứng kiến. 35 Ðức Chúa sẽ làm cho anh (em) bị ung độc không thể chữa lành ở đầu gối và ở đùi, từ bàn chân cho tới đỉnh đầu.

36 Ðức Chúa sẽ bắt anh (em) và vua mà anh (em) tôn lên cai trị anh (em), đi đến với một dân tộc anh (em) và cha ông anh (em) không biết, tại đó anh (em) sẽ phụng thờ các thần khác, là gỗ, là đá. 37 Anh (em) sẽ trở nên nỗi kinh hoàng, nên trò cười, nên đầu đề châm chọc cho mọi dân ở những nơi Ðức Chúa sẽ dẫn anh (em) đến.

38 Hạt giống anh (em) mang ra đồng thì nhiều, nhưng chỉ thu hoạch được ít, vì châu chấu sẽ phá hết. 39 Anh (em) sẽ trồng và chăm sóc vườn nho, nhưng rượu anh (em) sẽ không được uống và cả trái nho cũng chẳng được hái, vì sâu bọ sẽ ăn mất. 40 Anh (em) sẽ có những cây ô-liu trên toàn lãnh thổ anh (em), nhưng không có dầu mà xức, vì trái ô-liu của anh (em) sẽ rụng. 41 Anh (em) sẽ sinh con trai con gái, nhưng chúng sẽ không thuộc về anh (em), vì chúng sẽ bị đi đày. 42 Mọi cây cối và hoa màu của đất đai anh (em) sẽ bị bọ dừa phá hoại.

43 Người ngoại kiều giữa anh (em) sẽ đi lên, lên mãi, vượt hẳn anh (em); còn anh (em) sẽ đi xuống, xuống mãi. 44 Họ sẽ cho anh (em) vay mượn, còn anh (em) sẽ không có gì cho họ vay mượn. Họ sẽ đứng đầu, còn anh (em) sẽ đứng cuối.

45 Những lời nguyền rủa này sẽ đến với anh (em), theo sát và bao trùm anh (em), cho đến khi anh (em) bị tiêu diệt, vì anh (em) không nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), không giữ các mệnh lệnh và thánh chỉ của Người mà Người truyền cho anh (em). 46 Những điều ấy sẽ nên dấu lạ điềm thiêng cho anh (em) và dòng dõi anh (em) đến muôn đời.

Viễn tượng chiến tranh và tù đày

47 Vì anh (em) đã không phụng thờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), với tâm hồn vui sướng bởi có đầy đủ tất cả, 48 nên trong cảnh đói khát, trần truồng và thiếu thốn tất cả, anh (em) sẽ phải phục vụ quân thù của anh (em), những kẻ Ðức Chúa sẽ sai đến đánh anh (em). Người sẽ đặt ách sắt trên cổ anh (em), cho đến khi chúng tiêu diệt anh (em).

49 Ðể chống lại anh (em), Ðức Chúa sẽ đưa một dân tộc từ xa, từ cùng cõi đất, phóng đến như đại bàng, một dân tộc mà anh (em) không biết tiếng, 50 mặt mày cứng cỏi, già không nể, trẻ không thương. 51 Nó sẽ ăn đàn con của gia súc anh (em), hoa màu của đất đai anh (em), cho đến khi anh (em) bị tiêu diệt; nó sẽ không để lại cho anh (em) lúa mì, rượu mới, dầu tươi, bò con, chiên con, cho đến khi nó làm cho anh (em) biến mất. 52 Nó sẽ vây hãm anh (em) trong mọi thành của anh (em), cho đến khi các tường thành cao và kiên cố mà anh (em) tin tưởng, phải sụp đổ, trong khắp đất của anh (em); nó sẽ vây hãm anh (em) trong mọi thành của anh (em), trong khắp đất của anh (em) mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em). 53 Khi bị vây hãm, bị quân thù siết chặt trong cảnh ngặt nghèo, anh (em) sẽ ăn con cái của lòng dạ anh (em), ăn thịt con trai con gái anh (em) mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em). 54 Người đàn ông hào hoa phong nhã nhất trong anh (em) sẽ nhìn người anh em mình, người vợ mình đã từng âu yếm, và những đứa con còn giữ lại được, với cặp mắt dữ dằn, 55 vì không muốn chia cho ai trong những người này chút thịt những đứa con mà người ấy đang ăn, bởi lẽ người ấy không còn gì nữa, khi anh (em) bị vây hãm, bị kẻ thù siết chặt trong cảnh ngặt nghèo, trong mọi thành của anh (em). 56 Người đàn bà liễu yếu đào tơ vào bậc nhất trong anh (em), mềm yếu và nhã nhặn đến đỗi chưa hề thử đặt bàn chân xuống đất, sẽ nhìn người chồng mình đã từng âu yếm và con trai con gái mình với cặp mắt dữ dằn; 57 ngay cả cái nhau từ trong lòng mình xổ ra và đứa con mình sinh ra, nàng sẽ lén ăn cả hai, bởi lẽ nàng thiếu tất cả, khi anh (em) bị vây hãm và bị kẻ thù siết chặt trong cảnh ngặt nghèo, trong các thành của anh (em).

58 Nếu anh (em) không lo đem ra thực hành tất cả những lời của Luật này, chép trong sách này, và kính sợ danh hiển hách và khả uý này: Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), 59 thì Ðức Chúa sẽ làm cho anh (em) và làm cho dòng dõi anh (em) phải mang những vết thương lạ, những vết thương nặng và dai dẳng, những bệnh ác độc và dai dẳng. 60 Ðức Chúa sẽ cho trở lại với anh (em) mọi dịch tễ của Ai-cập, mà anh (em) kinh hãi, những dịch tễ ấy sẽ bám vào anh (em). 61 Cả mọi bệnh hoạn và mọi vết thương không được chép trong sách Luật này, Ðức Chúa cũng giáng xuống trên anh (em), cho đến khi anh (em) bị tiêu diệt. 62 Sau khi đã trở nên nhiều như sao trên trời, anh (em) sẽ chỉ còn lại một số người ít ỏi, vì anh (em) không nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).

63 Cũng như Ðức Chúa đã lấy làm vui khi cho anh em được hạnh phúc và nên đông đúc, thì Người cũng sẽ lấy làm vui khi để cho anh em bị giết chết, bị tiêu diệt, và bị bứng khỏi miền đất mà anh (em) sẽ vào chiếm hữu. 64 Ðức Chúa sẽ phân tán anh (em) vào giữa mọi dân, từ đầu đến cuối mặt đất, tại đó, anh (em) sẽ phụng thờ các thần khác, là gỗ, là đá, những thần mà anh (em) và cha ông anh (em) không biết. 65 Ở giữa các dân tộc ấy, anh (em) sẽ không được yên hàn và không có chỗ đặt bàn chân; tại đó, Ðức Chúa sẽ làm cho lòng anh (em) xao xuyến, đôi mắt mỏi mòn, tâm hồn kiệt quệ. 66 Mạng sống anh (em) sẽ treo lơ lửng trước mặt anh (em); đêm ngày anh (em) sẽ khiếp sợ, anh (em) sẽ không tin mình còn được sống. 67 Ban sáng anh (em) sẽ nói: "Bao giờ mới đến chiều?"; ban chiều anh (em) sẽ nói: "Bao giờ mới đến sáng?", vì nỗi khiếp sợ tràn ngập tâm hồn anh (em) và vì cảnh tượng mắt anh (em) chứng kiến. 68 Ðức Chúa sẽ bắt anh (em) đi thuyền, đi bộ trở lại đất Ai-cập mà tôi đã nói với anh (em): "Anh (em) sẽ không còn thấy lại đất này nữa!" Tại đó, anh (em) sẽ bán mình làm tôi trai tớ gái cho quân thù của anh (em), mà chẳng có ai mua!"

Diễn Từ Thứ Ba Của Ông Mô-Sê

69 Ðây là những lời của giao ước mà Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê lập với con cái Ít-ra-en tại đất Mô-áp, không kể giao ước Người đã lập với họ tại núi Khô-rếp.

Chương 29

Ôn lại lịch sử

1 Ông Mô-sê triệu tập toàn thể Ít-ra-en và nói với họ:

2 đó là các thử thách lớn lao mắt anh (em) từng thấy, là các dấu lạ điềm thiêng lớn lao ấy. 3 Nhưng cho đến ngày hôm nay, Ðức Chúa đã không cho anh em lòng để biết, mắt để thấy, tai để nghe.

4 Ta đã dẫn các ngươi bốn mươi năm trong sa mạc, mà áo các ngươi mặc đã không rách, dép chân các ngươi đi đã không mòn. 5 Của ăn của các ngươi không phải là bánh, thức uống của các ngươi không phải là rượu và đồ uống có men, để các ngươi biết rằng Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi. 6 Rồi anh em đã đến nơi này; Xi-khôn, vua Khét-bôn, và Ốc, vua miền Ba-san, đã ra nghênh chiến với chúng ta, và chúng ta đã đánh bại chúng. 7 Chúng ta đã chiếm đất của chúng, và chia cho chi tộc Rưu-vên, chi tộc Gát và một nửa chi tộc Mơ-na-se làm gia nghiệp.

8 Anh em phải giữ những lời của giao ước này và đem ra thực hành để được thành công trong tất cả những gì anh em làm.

Giao ước tại Mô-áp

9 Hôm nay, tất cả anh em đứng trước tôn nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em: nào là những người đứng đầu các chi tộc của anh em, nào là các kỳ mục, ký lục của anh em, mọi người phái nam trong Ít-ra-en, 10 nào là đàn bà con trẻ của anh em, nào là người ngoại kiều ở trong trại của anh (em), từ người chặt củi cho đến người múc nước cho anh (em). 11 Anh (em) sắp gia nhập giao ước của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), giao ước có kèm theo lời thề nguyền, là giao ước mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), lập với anh (em) hôm nay, 12 để đặt anh (em) lên làm dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên Chúa của anh (em), như Người đã phán với anh (em) và như Người đã thề với cha ông anh (em), là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. 13 Không phải chỉ riêng với anh em mà tôi lập giao ước này, có kèm theo lời thề nguyền này, 14 nhưng còn với kẻ có mặt ở đây với chúng ta, và hôm nay đang đứng trước tôn nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, cũng như với kẻ không có ở đây với chúng ta hôm nay.

15 Chính anh em biết chúng ta đã sống bên đất Ai-cập làm sao và đã băng qua lãnh thổ các dân tộc mà anh em đã đi qua như thế nào. 16 Anh em đã thấy ở giữa chúng các đồ gớm ghiếc và các ngẫu tượng của chúng, là gỗ, đá, bạc, vàng.

17 Giữa anh em, đừng có người nào, nam hay nữ, đừng có dòng họ hay chi tộc nào hôm nay trở lòng với Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, mà đi phụng thờ các thần của những dân tộc ấy. Giữa anh em, đừng có thứ rễ sinh trái độc và quả đắng. 18 Nếu kẻ nào, khi nghe các lời thề nguyền này, lại tự chúc phúc cho mình trong lòng mà nói: "Tôi sẽ được bình an, cho dù tôi cứ sống theo lòng chai dạ đá của tôi"; như thể đất được tưới không khác gì đất khô cằn; 19 nếu kẻ nào làm thế thì Ðức Chúa sẽ không muốn tha cho nó; bấy giờ cơn giận và lòng ghen tương của Ðức Chúa sẽ bốc lên phạt người ấy, tất cả lời thề nguyền chép trong sách này sẽ đổ xuống trên nó, và Ðức Chúa sẽ xoá tên nó không còn dấu vết trong thiên hạ. 20 Ðức Chúa sẽ tách nó ra khỏi mọi chi tộc Ít-ra-en, cho nó phải mang hoạ, chiếu theo mọi lời thề nguyền của giao ước chép trong sách Luật này.

Viễn tượng lưu đày

21 Khi thấy các vết thương của miền đất này và những bệnh tật Ðức Chúa giáng xuống trên đó, thì thế hệ tương lai, tức là con cái anh em đứng lên sau anh em, và người nước ngoài đến từ một miền đất xa xôi, sẽ nói: 22 "Cả miền đất chỉ là diêm sinh, muối và lửa, không ai gieo vãi, không chi nảy chồi, không cọng cỏ nào mọc lên, giống như cảnh tàn phá ở Xơ-đôm, Gô-mô-ra, Át-ma và Xơ-vô-gim, những thành mà Ðức Chúa đã phá đổ trong cơn thịnh nộ và lôi đình của Người. 23 Và mọi dân tộc sẽ nói: "Vì sao Ðức Chúa đã xử như thế với miền đất này? Vì sao cơn thịnh nộ lớn lao này đã bừng cháy? 24 Người ta sẽ trả lời: "Ấy là vì họ bỏ giao ước của Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông họ, giao ước Người đã lập với họ, khi Người đưa họ ra khỏi đất Ai-cập. 25 Họ đã đi phụng thờ các thần khác và sụp xuống lạy các thần ấy, những thần mà họ không biết và Người đã chẳng phân chia cho họ. 26 Ðức Chúa đã nổi cơn thịnh nộ với miền đất này, và giáng xuống tất cả lời nguyền rủa chép trong sách này. 27 Trong cơn thịnh nộ, lôi đình và giận dữ lớn lao, Ðức Chúa đã bứng họ đi khỏi đất đai của họ và ném họ vào một miền đất khác, như ngày hôm nay. 28 Có những điều Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, giữ kín cho mình; nhưng những điều này được mặc khải cho chúng ta và con cháu chúng ta đến muôn đời, để chúng ta đem ra thực hành những lời của Luật này.

Chương 30

Trở về từ chốn lưu đày. Trở lại với Chúa.

1 Vậy khi tất cả những điều ấy xảy đến cho anh (em), tức là lời chúc phúc và lời nguyền rủa tôi đã đưa ra cho anh (em) chọn, anh (em) sẽ để tâm suy niệm những điều ấy, giữa các dân tộc, nơi mà Ðức Chúa đã đuổi anh (em) đến; 2 anh (em) sẽ trở về cùng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), anh (em) và con cái anh (em) sẽ nghe tiếng Người, hết lòng hết dạ, theo mọi điều tôi truyền cho anh (em) hôm nay. 3 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ đổi vận mạng anh (em), sẽ chạnh lòng thương và sẽ lại tập trung anh (em) về từ mọi dân, từ nơi mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã phân tán anh (em). 4 Dù anh (em) có bị đuổi xa đến tận chân trời, thì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), cũng sẽ tập trung anh (em) từ đó về, và từ đó Người sẽ đón anh (em). 5 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ đưa anh (em) về đất mà cha ông anh (em) đã chiếm hữu, để anh (em) chiếm hữu đất ấy; Người sẽ làm cho anh (em) được hạnh phúc và đông đúc hơn cha ông anh (em).

6 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cắt bì tâm hồn anh (em) và tâm hồn dòng dõi anh (em), để anh (em) yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, ngõ hầu anh (em) được sống. 7 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ giáng mọi lời nguyền rủa này trên quân thù anh (em), những kẻ ghét và bắt bớ anh (em). 8 Phần anh (em), anh (em) sẽ trở lại và nghe tiếng Ðức Chúa, sẽ đem ra thực hành mọi mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay. 9 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho anh (em) thành công trong mọi công việc tay anh (em) làm, cho anh (em) sinh nhiều con cái, gia súc anh (em) sinh sôi nảy nở, đất đai anh (em) sinh nhiều hoa trái, để anh (em) được hạnh phúc. Thật vậy, Ðức Chúa sẽ lấy làm vui vì hạnh phúc của anh (em), cũng như Người đã lấy làm vui vì hạnh phúc của cha ông anh (em), 10 miễn là anh (em) nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mà giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ Người, ghi trong sách Luật này, miễn là anh (em) trở về với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ.

11 Quả thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh (em) hôm nay đây, không vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay anh (em). 12 Mệnh lệnh đó không ở trên trời, khiến anh (em) phải nói: "Ai sẽ lên trời lấy xuống cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành? 13 Mệnh lệnh đó cũng không ở bên kia biển, khiến anh (em) phải nói: "Ai sẽ sang bên kia biển lấy về cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành? 14 Thật vậy, lời đó ở rất gần anh (em), ngay trong miệng, trong lòng anh (em), để anh (em) đem ra thực hành.

Hai con đường

15 Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh (em) chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải chết, bị tai hoạ. 16 Hôm nay tôi truyền cho anh (em) phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đi theo đường lối của Người, và tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Người, để anh (em) được sống, được thêm đông đúc, và Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chúc phúc cho anh (em) trong miền đất anh (em) sắp vào chiếm hữu. 17 Nhưng nếu anh (em) trở lòng và không vâng nghe, lại bị lôi cuốn và sụp xuống lạy các thần khác và phụng thờ chúng, 18 thì hôm nay tôi báo cho anh (em) biết: chắc chắn anh (em) sẽ bị diệt vong, sẽ không được sống lâu trên đất mà anh (em) sắp sang qua sông Gio-đan để vào chiếm hữu. 19 Hôm nay, tôi lấy trời đất làm chứng cáo tội anh (em): tôi đã đưa ra cho anh (em) chọn được sống hay phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa. Anh (em) hãy chọn sống để anh (em) và dòng dõi anh (em) được sống, 20 nghĩa là hãy yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), nghe tiếng Người và gắn bó với Người, vì như thế anh (em) sẽ được sống, sống lâu mà ở lại trên đất Ðức Chúa đã thề với cha ông anh (em), là ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, rằng Người sẽ ban cho các ngài."

Chương 31

IV. Những Việc Làm Cuối Cùng Của Ông Mô-Sê.

Ông Mô-Sê Qua Ðời.

Sứ mạng của ông Giô-suê

1 Ông Mô-sê đến nói những lời này với toàn thể Ít-ra-en. 2 Ông bảo họ: "Hôm nay tôi đã được một trăm hai mươi tuổi, tôi không thể đi ra đi vào được nữa, và Ðức Chúa đã bảo tôi: "Ngươi sẽ không được sang qua sông Gio-đan kia. 3 Chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ dẫn đầu anh (em) sang qua sông, Người sẽ tiêu diệt các dân tộc ấy cho khuất mắt anh (em), để anh (em) chiếm đất của chúng. Chính ông Giô-suê sẽ dẫn đầu anh (em) sang qua sông, như Ðức Chúa đã phán. 4 Ðức Chúa sẽ xử với chúng như đã xử với các vua người E-mô-ri là Xi-khôn và Ốc, và với đất nước của chúng: Người đã tiêu diệt chúng. 5 Ðức Chúa sẽ trao các dân tộc ấy cho anh (em), và anh (em) sẽ xử với chúng theo như tất cả mệnh lệnh tôi đã truyền cho anh (em). 6 Mạnh bạo lên, can đảm lên! Ðừng sợ, đừng run khiếp trước mặt chúng, vì chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đi với anh (em); Người sẽ không để mặc, không bỏ rơi anh (em)."

7 Rồi ông Mô-sê gọi ông Giô-suê lại, và nói với ông trước mặt toàn thể Ít-ra-en: "Mạnh bạo lên, can đảm lên! Chính anh sẽ cùng với dân này vào đất Ðức Chúa đã thề với cha ông họ rằng Người sẽ ban cho họ; chính anh sẽ cho họ hưởng đất ấy làm gia nghiệp. 8 Chính Ðức Chúa đi phía trước anh, chính Người sẽ ở với anh; Người sẽ không để mặc, không bỏ rơi anh. Ðừng sợ, đừng hãi!"

Nghi thức công bố luật

9 Ông Mô-sê viết luật này và trao cho các tư tế, con cái Lê-vi, là những người sẽ kiệu Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa, và cho tất cả các kỳ mục Ít-ra-en. 10 Ông Mô-sê truyền cho họ rằng: "Sau bảy năm, vào thời kỳ có năm tha nợ, trong dịp lễ Lều, 11 khi toàn thể Ít-ra-en đến để ra trình diện Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ở nơi Người chọn, anh (em) phải đọc luật này trước toàn thể Ít-ra-en, cho họ nghe. 12 Anh (em) hãy tập hợp dân, đàn ông, đàn bà, trẻ con và người ngoại kiều ở trong các thành của anh (em), để họ nghe và để họ học cho biết kính sợ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và lo đem ra thực hành mọi lời của luật này. 13 Con cái họ, là những kẻ không biết, sẽ nghe và học cho biết kính sợ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mọi ngày anh em sống trên đất mà anh em sắp qua sông Gio-đan để chiếm hữu."

Huấn thị của Ðức Chúa

14 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ðây sắp đến ngày ngươi phải lìa đời. Hãy gọi Giô-suê đến, và các người hãy đứng ở Lều Hội Ngộ để Ta truyền lệnh cho nó." Ông Mô-sê và ông Giô-suê ra đứng ở Lều Hội Ngộ. 15 Ðức Chúa xuất hiện trong Lều, trong cột mây và cột mây đứng ở cửa Lều.

16 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ðây ngươi sắp nằm xuống với cha ông ngươi, và dân này sẽ chạy theo các thần mà làm điếm, các thần của người ngoại bang ở trong đất nó sắp vào; nó sẽ bỏ Ta và sẽ phá vỡ giao ước của Ta, giao ước Ta đã lập với nó. 17 Ngày ấy, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ với nó. Ta sẽ bỏ chúng và sẽ ẩn mặt đi không nhìn chúng. Bấy giờ nó sẽ bị thôn tính, và nhiều tai hoạ, nhiều cơn ngặt nghèo sẽ xảy ra cho nó. Ngày đó, nó sẽ nói: "Những tai hoạ này xảy ra cho tôi, phải chăng là vì Thiên Chúa không còn ở giữa tôi? 18 Phần Ta, ngày đó Ta sẽ cứ ẩn mặt đi, vì tất cả điều ác nó làm khi hướng về các thần khác.

Bài ca làm chứng

19 Bây giờ các ngươi hãy viết cho mình bài ca này, (các) ngươi hãy dạy cho con cái Ít-ra-en, hãy đặt vào miệng chúng, để Ta lấy bài ca ấy làm chứng cáo tội con cái Ít-ra-en. 20 Thật vậy, Ta sẽ đưa nó vào đất Ta đã thề hứa với cha ông nó, đất tràn trề sữa và mật, nó sẽ được ăn, được no nê, sẽ béo mập, rồi sẽ hướng về các thần khác và phụng thờ chúng, nó sẽ khinh thị Ta và phá vỡ giao ước của Ta. 21 Khi nhiều tai hoạ, nhiều cơn ngặt nghèo xảy ra cho chúng, thì bài ca này sẽ làm chứng cáo tội nó, vì dòng dõi chúng sẽ không quên lặp lại bài ca này. Thật vậy, Ta biết ý định nó đang mưu tính hôm nay, ngay cả trước khi Ta đưa nó vào đất mà Ta đã thề hứa.” 22 Hôm ấy, ông Mô-sê đã viết bài ca này và dạy con cái Ít-ra-en.

23 Ðức Chúa truyền lệnh cho ông Giô-suê, con ông Nun, Người phán: "Mạnh bạo lên, can đảm lên! Chính ngươi sẽ đưa con cái Ít-ra-en vào đất mà Ta đã thề hứa với chúng; và Ta sẽ ở với ngươi."

Ðặt Luật bên Hòm Bia

24 Khi ông Mô-sê đã viết xong các lời của luật này vào một cuốn sách, từ đầu chí cuối, 25 thì ông truyền cho các thầy Lê-vi, những người kiệu Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa, rằng: 26 "Hãy đem sách luật này đặt bên Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em; ở đó sách ấy sẽ làm chứng cáo tội anh (em). 27 Vì tôi biết anh (em) hay phản nghịch và cứng cổ: hôm nay tôi còn sống với anh em, mà anh em đã phản nghịch chống lại Ðức Chúa, huống chi là sau khi tôi chết!

Tập hợp dân để nghe bài ca

28 Hãy tập hợp lại chung quanh tôi hết mọi kỳ mục của các chi tộc anh em và các ký lục của anh em; tôi sẽ nói cho họ nghe những lời này, và lấy trời đất làm chứng cáo tội họ. 29 Vì tôi biết rằng, sau khi tôi chết, chắc chắn anh em sẽ ra hư hỏng, và sẽ đi ra ngoài con đường tôi đã truyền cho anh em; và tai hoạ sẽ xảy đến cho anh em sau này, vì anh em sẽ làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, để trêu giận Người bằng những việc tay anh em làm."

30 Rồi ông Mô-sê nói cho toàn thể đại hội Ít-ra-en nghe những lời của bài ca này, từ đầu chí cuối:

Chương 32

Bài Ca Của Ông Mô-Sê

1 Trời hãy lắng tai, này tôi sắp kể,

đất nghe cho tường lời lẽ miệng tôi:

2 Giáo huấn của tôi như giọt mưa thánh thót,

lời tôi dạy bảo tựa sương móc nhỏ sa,

khác nào mưa rơi trên nội cỏ,

giống như nước đổ xuống đồng xanh.

3 Này tôi xưng tụng thánh danh Ðức Chúa,

trời đất hãy suy tôn Thiên Chúa ta thờ!

4 Người là Núi Ðá: sự nghiệp Người hoàn hảo,

vì mọi đường lối Người đều thẳng ngay.

Chúa tín thành, không mảy may gian dối,

Người quả là chính trực công minh.

5 Những đứa con mà Chúa đã sinh ra không tì ố

lại lỗi đạo với Người, ôi nòi giống lưu manh tà vạy!

6 Hỡi dân tộc ngu si khờ dại,

ngươi đáp đền ơn Ðức Chúa vậy sao?

Há chính Người chẳng phải cha ngươi,

Ðấng dựng nên ngươi, Ðấng tạo thành, củng cố?

7 Hãy nhớ lại những ngày xưa tháng cũ,

và ngẫm xem từng thế hệ qua rồi.

Cứ hỏi cha ngươi là người sẽ dạy,

thỉnh bậc lão thành, họ sẽ nói cho nghe.

8 Khi Ðấng Tối Cao định phần riêng cho muôn nước,

và khiến loài người khắp ngả chia tay,

thì Người vạch biên cương cho từng dân tộc

theo số các thần minh.

9 Nhưng sở hữu của Ðức Chúa chính là dân Chúa,

nhà Gia-cóp là cơ nghiệp của Người.

10 Gặp thấy nó giữa miền hoang địa,

giữa cảnh hỗn mang đầy tiếng hú rợn rùng,

Chúa ấp ủ, Chúa lo dưỡng dục,

luôn giữ gìn, chẳng khác nào con ngươi mắt Chúa.

11 Tựa chim bằng trên tổ lượn quanh, giục bầy con bay nhảy,

xoè cánh ra đỡ lấy rồi cõng con trên mình.

12 Duy một mình Ðức Chúa lãnh đạo dân;

chẳng có thần ngoại bang nào bên cạnh Chúa.

13 Người cho nó phóng ngựa trên các vùng đất cao trong xứ,

nó được ăn hoa màu đồng ruộng;

Người cho nó nếm mật ong chảy ra từ hốc đá,

nếm dầu từ tảng đá hoa cương;

14 nếm sữa bò chua và sữa chiên dê,

với mỡ chiên con, chiên đực miền Ba-san,

mỡ dê đực, với lúa mì tinh hảo;

ngươi uống máu trái nho đã hoá rượu nồng.

15 Giơ-su-run mập ra, nó hất chân đá hậu

- ngươi mập, béo, phát phì

nó đã bỏ Thiên Chúa, Ðấng đã làm ra nó,

Núi Ðá độ trì nó, nó đã khinh thường.

16 Chúng thờ các thần xa lạ khiến Người phải ghen tương,

làm những điều ghê tởm mà trêu giận Người;

17 chúng tế những quỷ không phải là Thiên Chúa,

tế những thần chúng không biết,

những thần mới, vừa mới đến,

mà cha ông các ngươi đã không khiếp sợ.

18 Núi Ðá sinh ra ngươi, ngươi lại coi thường,

ngươi quên Thiên Chúa, Ðấng đã sinh ra ngươi.

19 Ðức Chúa thấy vậy thì khinh miệt,

vì con trai con gái Người đã trêu giận Người.

20 Người phán: "Ta sẽ ẩn mặt đi không nhìn chúng,

để xem hậu vận chúng ra sao;

vì chúng là giống nòi tráo trở,

những đứa con chẳng chút tín trung.

21 Chúng đã thờ các thần không phải là Thiên Chúa

khiến Ta phải ghen tương,

thờ những thần hư ảo mà trêu giận Ta;

Ta sẽ dùng một dân không phải là dân

khiến chúng phải ghen tương,

dùng một dân tộc ngu si mà trêu giận chúng.

22 Phải, lửa thịnh nộ đã bùng lên trong Ta,

nó đốt đến tận đáy sâu âm phủ,

thiêu huỷ đất đai với cả hoa màu,

làm chân núi đồi bốc cháy.

23 Trên chúng, Ta sẽ chồng chất tai ương,

sẽ phóng hết mũi tên của Ta vào chúng.

24 Khi vì đói, chúng phải hao mòn,

vì sốt, vì ôn dịch tàn khốc mà phải tiêu tan,

Ta sẽ gửi đến chúng nanh thú dữ,

với nọc của loài bò sát trên bụi đất.

25 Ngoài thì lưỡi gươm sẽ làm chúng mất con,

trong thì là nỗi kinh hoàng.

Cả trai tráng lẫn người trinh nữ,

trẻ đang bú cũng như người bạc đầu sẽ chung số phận.

26 Ta đã phán: Ta sẽ đập chúng tan tành,

làm cho loài người chẳng còn ai nhớ tới,

27 nếu như Ta không sợ kẻ thù xúc phạm.

Ðối thủ chúng chớ có hiểu lầm

mà nói rằng: "Chúng ta cao tay hơn,

tất cả điều đó, đâu phải là Ðức Chúa đã làm.

28 Quả thế, chúng là một dân tộc phán đoán sai lạc,

thiếu hẳn trí thông minh.

29 Nếu là người khôn ngoan, chúng sẽ hiểu điều đó,

sẽ thông suốt hậu vận của mình.

30 Làm sao một người đuổi được một ngàn người,

và hai người khiến mười ngàn người trốn chạy,

nếu không phải vì Núi Ðá của chúng đã bán chúng đi,

và Ðức Chúa đã nộp chúng rồi?

31 Vì núi đá của chúng không phải như Núi Ðá của chúng ta.

Chính kẻ thù chúng ta đều công nhận.

32 Nho của chúng lấy giống từ nho của Xơ-đôm,

từ những cánh đồng của Gô-mô-ra;

trái nho của chúng là trái nho độc,

chùm nho của chúng mới đắng làm sao!

33 Rượu của chúng là nọc mãng xà,

là chất độc giết người của rắn hổ mang.

34 Ðiều này chẳng được giữ kỹ bên Ta,

được niêm phong trong các kho tàng của Ta sao?

35 Chính Ta sẽ báo oán và đáp trả,

vào lúc mà chân chúng lảo đảo té xiêu,

vì ngày chúng lâm nạn đã gần,

và vận hạn chúng đang sầm sập tới."

36 Thật vậy, Ðức Chúa sẽ xét xử cho thần dân,

sẽ dủ lòng thương hàng tôi tớ,

khi Người thấy rằng bàn tay chúng yếu đi,

và người nô lệ, kẻ tự do cũng chẳng còn.

37 Bấy giờ Người phán: "Ðâu rồi các thần của chúng,

đâu rồi núi đá chúng ẩn thân?

38 Ðâu rồi những kẻ ăn mỡ lễ tế của chúng,

uống rượu tế chúng dâng?

Các thần đó hãy đứng lên và phù trợ các ngươi,

cho các ngươi có một nơi ẩn náu!

39 Bây giờ hãy coi đây: Ta chính là Ta,

bên cạnh Ta, chẳng có thần nào khác,

Ta cầm quyền sinh tử, Ta đánh phạt, rồi Ta lại chữa lành,

không ai cứu khỏi tay Ta được.

40 Phải, Ta giơ tay lên trời, Ta nói: Ta sống đến muôn đời!

41 Khi Ta mài lưỡi gươm sáng loé của Ta, khi Ta ra tay xét xử,

thì Ta sẽ báo oán các đối thủ của Ta, sẽ đáp trả những kẻ ghét Ta,

42 Ta sẽ làm cho các mũi tên của Ta say máu,

gươm của Ta sẽ ăn thịt:

máu những người bị giết và những tù nhân,

thịt đầu các thủ lãnh quân thù."

43 Hỡi các dân tộc, hãy reo hò mừng dân Chúa,

vì Người bắt đền nợ máu các tôi tớ của Người,

báo oán các đối thủ của Người,

và xá tội cho đất, cho dân của Người.

44 Ông Mô-sê cùng đến với ông Hô-sê-a, con ông Nun, và nói cho dân nghe tất cả những lời của bài ca này.

Luật là nguồn sống

45 Khi ông Mô-sê đã nói xong tất cả những lời ấy với toàn thể Ít-ra-en, 46 thì ông bảo họ: "Hãy để tâm vào tất cả những lời mà hôm nay tôi cảnh cáo anh em, hãy truyền những lời đó cho con cái anh em, để chúng lo đem ra thực hành tất cả những lời của Luật này. 47 Thật vậy, đó không phải là một lời trống rỗng đối với anh em, mà đó là sự sống của anh em, và nhờ lời ấy, anh em sẽ được sống trên đất mà anh em sắp qua sông Gio-đan để chiếm hữu."

Báo trước cái chết của ông Mô-sê

48 Chính ngày đó, Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 49 "Ngươi hãy lên ngọn núi kia của dãy A-va-rim, lên ngọn núi Nơ-vô, ở đất Mô-áp, đối diện với Giê-ri-khô, và hãy nhìn xem đất Ca-na-an mà ta ban cho con cái Ít-ra-en làm sở hữu. 50 Rồi ngươi hãy chết trên ngọn núi ngươi sắp lên, và hãy về sum họp với gia tộc ngươi, cũng như A-ha-ron, anh ngươi, đã chết tại núi Ho và đã về sum họp với gia tộc. 51 Bởi vì giữa con cái Ít-ra-en, các ngươi đã không trung thành với Ta tại mạch nước Mơ-ri-va ở Ca-đê, trong sa mạc Xin, và bởi vì các ngươi đã không biểu lộ sự thánh thiện của Ta giữa con cái Ít-ra-en, 52 nên ngươi chỉ được thấy đất ấy từ xa, chứ không được vào đó, vào đất Ta ban cho con cái Ít-ra-en."

Chương 33

Những lời chúc phúc của ông Mô-sê

1 Ðây là lời chúc phúc mà ông Mô-sê, người của Thiên Chúa, đã chúc phúc cho con cái Ít-ra-en trước khi qua đời. 2 Ông nói:

"Ðức Chúa từ Xi-nai ngự đến, từ Xê-ia, Người chiếu soi trên họ,

Người giãi sáng từ núi Pa-ran, Người đã đến Mơ-ri-va ở Ca-đê,

vì họ, từ phía nam Người đến Sườn Núi.

3 Hẳn Chúa yêu thương các dân, toàn dân thánh ở trong tay Chúa,

và họ phục dưới chân Ngài, mỗi người nhận lấy lời Ngài phán.

4 Ông Mô-sê đã truyền cho chúng ta một Luật,

là sở hữu của cộng đồng Gia-cóp.

5 Ở Giơ-su-run đã có một vua,

khi các người đứng đầu dân tụ họp, cùng với các chi tộc Ít-ra-en.

6 Ước gì Rưu-vên sống và không chết,

và số người ít ỏi của nó tồn tại.

7 Về Giu-đa, đây là điều ông nói:

Lạy Ðức Chúa, xin nghe tiếng của Giu-đa,

xin đưa nó trở về với dân nó,

và để nó tự tay bảo vệ chính mình,

xin Ngài phù trợ nó chống lại đối phương.

8 Về Lê-vi, ông nói:

Thẻ xăm tum-mim và u-rim của Ngài

thuộc về kẻ hiếu trung với Ngài,

mà Ngài đã thử thách tại Ma-xa

và đã cùng tranh tụng bên dòng nước Mơ-ri-va;

9 nó là người đã nói về cha mẹ nó: "Tôi không nhìn thấy họ",

anh em nó, nó không nhìn nhận, con cái nó, nó không biết.

Chi tộc Lê-vi đã tuân thủ lời Ngài và đã giữ giao ước của Ngài.

10 Họ dạy những quyết định của Ngài cho nhà Gia-cóp,

luật của Ngài cho Ít-ra-en.

Họ dâng hương thơm để Ngài thưởng thức,

và lễ toàn thiêu trên bàn thờ Ngài.

11 Lạy Ðức Chúa, xin chúc phúc cho lòng dũng cảm của nó,

xin Ngài khứng nhận việc tay nó làm;

xin đập gãy lưng thù địch nó,

và ước gì những kẻ ghét nó không còn chỗi dậy được! "

12 Về Ben-gia-min, ông nói:

Là kẻ được Ðức Chúa yêu thương, nó sống yên hàn ở bên Người,

Ðấng suốt ngày che chở nó và ngự giữa núi đồi của nó.

13 Về Giu-se, ông nói:

Ðất của nó được phúc lành của Ðức Chúa:

ơn lộc từ trời, là sương móc nhỏ sa,

và từ vực sâu nằm ở phía dưới;

14 ơn lộc là những gì trổ sinh dưới ánh mặt trời,

là những gì mọc lên mỗi tuần trăng;

15 là sản phẩm hàng đầu của núi non thái cổ,

của gò nổng thiên thu;

16 là đất đai và thổ sản của nó,

hồng ân của Ðấng ngự giữa bụi gai.

Ước chi những phúc lành ấy xuống trên đầu Giu-se,

trên đỉnh đầu người được thánh hiến giữa anh em mình!

17 Nó là con bò mộng đầu lòng của Chúa, chúc nó được vinh hiển!

Sừng nó là sừng trâu, nó dùng để quật ngã các dân,

một trật trên khắp cùng cõi đất.

Ðó là vạn vạn người Ép-ra-im, đó là ngàn ngàn quân Mơ-na-se.

18 Về Dơ-vu-lun, ông nói:

Hãy vui mừng, hỡi Dơ-vu-lun, trong các chuyến đi của ngươi,

và hỡi Ít-xa-kha, trong lều trại của mình.

19 Họ gọi các dân lên núi, ở đó họ dâng những lễ tế luật truyền;

họ hút về tài nguyên của biển và các kho tàng ẩn giấu dưới cát.

20 Về Gát, ông nói: Chúc tụng Ðấng cho Gát được thênh thang!

Như sư tử cái, nó phục sẵn, nó xé mồi, cả vai lẫn đầu.

21 Nó coi sản phẩm đầu mùa là của nó,

vì trong đó có phần dành cho người lãnh đạo;

nó đến với các người đứng đầu dân,

nó thực hành sự công chính của Ðức Chúa

và các quyết định của Người về Ít-ra-en.

22 Về Ðan, ông nói:

Ðan là sư tử con chồm lên từ miền Ba-san.

23 Về Náp-ta-li, ông nói: Náp-ta-li được no đầy hồng ân

và chứa chan phúc lành của Ðức Chúa;

nó hãy chiếm phía tây và phía nam.

24 Về A-se, ông nói:

Ước gì nó được chúc phúc hơn các người con khác!

Ước gì nó được anh em mình ưu ái, và được dầm chân trong dầu!

25 Ước gì then cửa của ngươi bằng sắt bằng đồng,

và sức mạnh của ngươi bền bỉ như ngày đời ngươi!

26 Hỡi Giơ-su-run, chẳng có ai như Thiên Chúa,

Người ngự đến giúp ngươi, lẫm liệt uy hùng,

xa giá Người là trời cao mây thẳm.

27 Thiên Chúa của thời thái cổ là một nơi ẩn náu;

dưới đất này, cánh tay Người đã hành động từ xưa;

Người xua đuổi kẻ thù cho khuất mắt ngươi,

và Người phán: "Hãy tiêu diệt.

28 Ít-ra-en sống yên hàn; suối Gia-cóp là dòng suối biệt lập,

trong miền đất có lúa mì và rượu mới,

ở đó, cả trời cũng nhỏ sương.

29 Hỡi Ít-ra-en, ngươi thật có phúc!

Ai được như ngươi, hỡi dân được Ðức Chúa cứu?

Người là thuẫn đỡ cứu giúp ngươi,

là lưỡi gươm đem lại cho ngươi chiến thắng.

Các kẻ thù ngươi sẽ nịnh bợ cầu thân,

còn ngươi sẽ chà đạp các đỉnh cao của chúng."

Chương 34

Ông Mô-sê qua đời

1 Từ đồng bằng Mô-áp, ông Mô-sê lên núi Nơ-vô, tới Pít-ga, đối diện với Giê-ri-khô, và Ðức Chúa cho ông xem thấy tất cả miền đất: miền Ga-la-át cho đến Ðan, 2 tất cả Náp-ta-li, miền đất Ép-ra-im và Mơ-na-se, tất cả miền đất Giu-đa cho đến Biển Tây, 3 miền Ne-ghép, vùng sông Gio-đan, thung lũng Giê-ri-khô là thành Chà Là, cho đến Xô-a. 4 Ðức Chúa phán với ông: "Ðây là miền đất Ta đã thề hứa với Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, khi nói: "Ta sẽ ban đất ấy cho dòng dõi ngươi. Ta đã cho ngươi thấy tận mắt, nhưng ngươi sẽ không được qua đó."

5 Ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, qua đời tại đó, trong đất Mô-áp, theo lệnh Ðức Chúa. 6 Ông được mai táng trong thung lũng, ở miền đất Mô-áp, đối diện với Bết Pơ-o. Cho đến ngày hôm nay, không ai biết mộ ông ở đâu. 7 Khi chết, ông Mô-sê thọ một trăm hai mươi tuổi, mắt không mờ, khí lực không giảm. 8 Con cái Ít-ra-en khóc ông Mô-sê trong đồng bằng Mô-áp ba mươi ngày; rồi những ngày than khóc thọ tang ông Mô-sê chấm dứt. 9 Ông Giô-suê, con ông Nun, đã được đầy thần khí khôn ngoan, vì ông Mô-sê đã đặt tay trên ông. Con cái Ít-ra-en nghe ông và làm như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.

10 Trong Ít-ra-en, không còn xuất hiện một ngôn sứ nào như ông Mô-sê, người mà Ðức Chúa biết rõ, mặt giáp mặt. 11 Ðức Chúa đã sai ông thực hiện mọi điềm thiêng dấu lạ tại nước Ai-cập, phạt Pha-ra-ô cùng tất cả bề tôi và cả nước. 12 Ông Mô-sê đã biểu dương tất cả sức mạnh bàn tay ông và gây tất cả nỗi kinh hoàng lớn lao trước mắt toàn thể Ít-ra-en.

Lịch Sử - Đệ Nhị Luật

Giô-suê

Chương 01

I. Chiếm Ðất Hứa

1. Chuẩn Bị

Mời gọi qua Ðất Hứa

1 Sau khi tôi trung Ðức Chúa là ông Mô-sê qua đời, Ðức Chúa phán với con ông Nun là ông Giô-suê, phụ tá của ông Mô-sê: 2 "Mô-sê, tôi trung của Ta, đã chết. Vậy bây giờ, ngươi hãy trỗi dậy! Và cùng với tất cả dân này, qua sông Gio-đan, mà vào đất Ta ban cho chúng, tức là con cái Ít-ra-en. 3 Mọi nơi bàn chân các ngươi dẫm lên thì Ta đã ban cho các ngươi rồi, như Ta đã phán với Mô-sê. 4 Từ sa mạc và dãy Li-băng kia cho đến Sông Cả, nghĩa là sông Êu-phơ-rát, -tất cả xứ người Khết-, và cho đến Biển Lớn, phía mặt trời lặn: đó sẽ là lãnh thổ của các ngươi. 5 Mọi ngày đời ngươi, không ai sẽ đứng vững được trước mặt ngươi. Ta sẽ ở với ngươi như Ta đã ở với Mô-sê; Ta sẽ không bỏ rơi ngươi, Ta sẽ không ruồng bỏ ngươi.

Trung tín với Lề Luật: điều kiện để được Thiên Chúa phù trợ

6 "Mạnh bạo lên, can đảm lên! Vì chính ngươi sẽ cho dân này chiếm đất ấy làm gia nghiệp, đất mà Ta đã thề với cha ông chúng là Ta sẽ ban cho chúng. 7 Tuy nhiên, ngươi phải mạnh bạo và rất can đảm, để lo thi hành tất cả Lề Luật, mà Mô-sê tôi trung của Ta đã truyền dạy ngươi. Ðừng đi trệch bên phải bên trái, ngoài Lề Luật, để được thành công ở bất cứ nơi nào ngươi đi tới. 8 Chớ gì sách Luật này đừng rời khỏi miệng ngươi; và ngươi sẽ suy gẫm sách Luật đó ngày đêm, để lo thi hành tất cả những gì viết trong đó; vì như thế ngươi sẽ được thịnh đạt trên đường đời, vì như thế ngươi sẽ thành công. 9 Mạnh bạo lên, can đảm lên! Ðó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Ðừng run khiếp, đừng sợ hãi, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi tới."

Các chi tộc bên kia sông Gio-đan tiếp tay

10 Ông Giô-suê truyền lệnh sau đây cho các ký lục trong dân: 11 "Các anh hãy rảo khắp trại và truyền cho dân: Hãy chuẩn bị lương thực, vì còn ba ngày nữa anh em sẽ qua sông Gio-đan kia để vào chiếm đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, cho anh em chiếm hữu."

12 Rồi ông Giô-suê nói với những người trong chi tộc Rưu-vên, chi tộc Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se: 13 "Anh em hãy nhớ điều ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, đã truyền cho anh em: Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, cho anh em được an cư lạc nghiệp khi ban cho anh em đất này. 14 Ðàn bà, con trẻ và các đàn vật của anh em sẽ ở lại trong phần đất ông Mô-sê đã ban cho anh em bên kia sông Gio-đan; còn anh em, tất cả các dũng sĩ, hãy võ trang đầy đủ mà qua trước anh em mình và trợ lực cho họ, 15 cho đến khi Ðức Chúa ban cho anh em cũng như anh em của anh em được an cư lạc nghiệp, cho đến khi chính họ cũng chiếm hữu phần đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, ban cho họ. Bấy giờ anh em sẽ trở về phần đất mà anh em đã chiếm hữu. Anh em sẽ chiếm hữu phần đất mà ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, đã ban cho anh em bên kia sông Gio-đan, phía mặt trời mọc.” 16 Họ trả lời ông Giô-suê: "Mọi điều ngài truyền chúng tôi làm, chúng tôi sẽ làm; mọi nơi ngài sai chúng tôi đi, chúng tôi sẽ đi. 17 Chúng tôi đã nghe lời ông Mô-sê thế nào, thì chúng tôi cũng sẽ nghe lời ngài như vậy. Chỉ cầu mong Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngài, ở với ngài, như đã ở với ông Mô-sê! 18 Kẻ nào chống lại mệnh lệnh của ngài, không nghe bất cứ lời nào ngài truyền dạy, thì sẽ phải bị xử tử. Chỉ có điều là ngài phải mạnh bạo và can đảm!"

Chương 02

Ông Giô-suê sai người đi do thám Giê-ri-khô

1 Từ Sít-tim, ông Giô-suê, con ông Nun, bí mật sai hai người do thám và nói: "Hãy đi xem vùng đất và thành Giê-ri-khô." Họ đã đi và vào một nhà một kỹ nữ tên là Ra-kháp; họ nằm lại đó. 2 Người ta nói với vua Giê-ri-khô: "Ðêm vừa rồi, có vài người trong số con cái Ít-ra-en đã vào đây để thăm dò vùng đất này.” 3 Vua Giê-ri-khô sai người đến nói với cô Ra-kháp: "Hãy dẫn ra đây những người đã đến với ngươi, đã vào nhà ngươi, vì họ đã đến thăm dò toàn vùng đất này.” 4 Nhưng người đàn bà đem hai người kia đi giấu, rồi nói: "Phải, những người ấy có đến với tôi, nhưng tôi không biết họ từ đâu đến. 5 Lúc chập tối, khi cửa thành sắp đóng, thì những người ấy đi ra. Tôi không biết họ đi đâu. Các ông hãy mau mau đuổi theo họ thì sẽ bắt kịp."

6 Rồi cô ta đem họ lên sân thượng và giấu họ dưới đống cây gai cô đã xếp ở đó. 7 Các người kia cứ đuổi theo họ trên con đường dẫn tới sông Gio-đan cho đến chỗ lội qua sông. Và người ta đóng cửa thành lại, sau khi những kẻ đuổi theo đã ra khỏi đó.

Giao kèo giữa các người do thám và cô Ra-kháp

8 Họ chưa kịp nằm xuống, thì cô Ra-kháp lên gặp họ trên sân thượng. 9 Cô nói với họ: "Tôi biết Ðức Chúa đã ban cho các ông đất này, tôi biết vì các ông mà nỗi kinh hoàng ập xuống trên chúng tôi, và mọi dân cư trong xứ đều rụng rời hốt hoảng trước mặt các ông. 10 Vì chúng tôi nghe đồn là Ðức Chúa đã làm cạn Biển Sậy trước mặt các ông khi các ông ra khỏi Ai-cập; chúng tôi cũng nghe đồn về những gì các ông đã làm cho hai vua E-mô-ri là Xi-khôn và Ốc, mà các ông đã tru hiến ở bên kia sông Gio-đan. 11 Khi chúng tôi nghe đồn, thì tâm thần chúng tôi sợ hãi như muốn chảy tan ra, không ai còn nhuệ khí trước mặt các ông, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ông, là Thiên Chúa ngự chốn trời cao cũng như nơi đất thấp. 12 Vậy bây giờ, xin các ông hãy nhân danh Ðức Chúa mà thề với tôi là: bởi tôi đã lấy tình mà đối xử với các ông, thì các ông, các ông cũng sẽ lấy tình mà đối xử với gia đình tôi. Các ông sẽ cho tôi một dấu chắc chắn, 13 đó là các ông sẽ để cho cha mẹ tôi, các anh chị em tôi và mọi người thân thuộc của họ được sống, các ông sẽ cứu chúng tôi khỏi chết."

14 Những người ấy nói với cô Ra-kháp: "Chúng tôi xin thề lấy mạng đền mạng, trừ phi các người tiết lộ chuyện này! Vậy khi nào Ðức Chúa ban đất này cho chúng tôi, chúng tôi sẽ lấy chữ tình chữ tín mà đối xử với cô.” 15 Bấy giờ, từ cửa sổ cô thòng dây cho họ xuống, vì nhà cô sát vách tường thành và cô ở ngay trong tường thành. 16 Cô nói với họ: "Các ông hãy đi về phía núi, kẻo những người đuổi theo bắt được các ông. Các ông cứ ẩn núp ở đấy ba ngày cho đến khi chúng trở về. Sau đó, các ông cứ đường mình mà đi.” 17 Họ nói với cô: "Ðây là cách chúng tôi sẽ giữ lời mà cô đã yêu cầu chúng tôi thề: 18 Khi nào chúng tôi vào xứ này, cô sẽ buộc dây chỉ điều này ở cửa sổ, nơi cô đã thả chúng tôi xuống, rồi cô sẽ tập họp trong nhà, bên cạnh cô: cha mẹ, các anh chị em và cả nhà cha cô. 19 Bấy giờ, ai bước qua cửa nhà cô mà ra ngoài, thì máu người ấy sẽ đổ xuống đầu người ấy, chúng tôi vô can. Nhưng người nào ở trong nhà với cô, thì máu người ấy sẽ đổ xuống đầu chúng tôi, nếu có ai tra tay hại người ấy. 20 Cô mà tiết lộ chuyện của chúng tôi, chúng tôi sẽ khỏi phải giữ lời mà cô đã yêu cầu chúng tôi thề.” 21 Cô ấy nói: "Mong được như lời các ông đã nói! " Rồi cô để họ đi, và họ ra đi. Cô buộc dây chỉ điều ở cửa sổ.

Các người do thám trở về

22 Họ lên đường và tiến về phía núi. Họ ở lại đó ba ngày cho đến khi những kẻ đuổi theo trở về. Những người này đã đi lùng họ trên cả con đường ấy mà không tìm được. 23 Hai người kia trở về: họ xuống núi, qua sông Gio-đan, rồi tới gặp ông Giô-suê, con ông Nun, và thuật lại cho ông mọi việc đã xảy ra cho họ. 24 Họ nói với ông Giô-suê: "Ðức Chúa đã nộp tất cả miền đất ấy vào tay chúng ta, và mọi dân cư ở đó đều rụng rời hốt hoảng trước mặt chúng ta."

Chương 03

2. Qua Sông Gio-Ðan

Chuẩn bị qua sông

1 Sáng hôm sau, ông Giô-suê dậy sớm và họ nhổ trại rời Sít-tim. Ông và toàn thể con cái Ít-ra-en tới tận sông Gio-đan. Họ đã nghỉ đêm ở đó trước khi qua sông. 2 Sau ba ngày, các ký lục đi khắp trại 3 và truyền lệnh này cho dân: "Khi thấy Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, và thấy các tư tế thuộc dòng dõi Lê-vi khiêng Hòm Bia, anh em phải rời chỗ và đi theo sau Hòm Bia, 4b để biết phải đi đường nào, vì anh em chưa đi qua đường ấy bao giờ. 4a Tuy nhiên, phải giữ một khoảng cách ước chừng một ngàn thước ở giữa anh em và Hòm Bia: đừng lại gần.” 5 Ông Giô-suê nói với dân: "Anh em hãy nên thánh, vì ngày mai Ðức Chúa sẽ thực hiện những kỳ công giữa anh em.” 6 Ông Giô-suê nói với các tư tế: "Hãy khiêng Hòm Bia Giao Ước dẫn đầu dân mà qua sông." Họ khiêng Hòm Bia Giao Ước và đi trước dân.

Những chỉ thị cuối cùng

7 Ðức Chúa phán với ông Giô-suê: "Hôm nay, Ta bắt đầu cho ngươi được nên cao trọng trước mắt toàn thể con cái Ít-ra-en, để chúng biết là Ta sẽ ở với ngươi như Ta đã ở với Mô-sê. 8 Còn ngươi, ngươi sẽ ra lệnh này cho các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước: khi đến bờ sông Gio-đan, các ngươi hãy đứng lại trong sông Gio-đan.” 9 Ông Giô-suê nói với con cái Ít-ra-en: "Anh em hãy tiến lại đây và nghe lời của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em.” 10 Rồi ông nói: "Dựa vào điều này, anh em sẽ biết là Thiên Chúa hằng sống ngự giữa anh em và Người sẽ hoàn toàn đuổi người Ca-na-an, người Khết, người Khi-vi, người Pơ-rít-di, người Ghia-ga-si, người E-mô-ri, người Giơ-vút, cho khuất mắt anh em. 11 Này đây, Hòm Bia Giao Ước của Vị Chúa Tể toàn cõi đất sắp dẫn đầu anh em mà qua sông Gio-đan. 12 Vậy bây giờ anh em hãy chọn mười hai người trong các chi tộc Ít-ra-en, mỗi chi tộc một người. 13 Và khi bàn chân các tư tế khiêng Hòm Bia của Ðức Chúa, Vị Chúa Tể toàn cõi đất, vừa đặt xuống nước sông Gio-đan, thì nước sông Gio-đan, nước mạn ngược chảy xuống, sẽ bị chặn lại và dừng lại thành một khối duy nhất."

Qua sông

14 Khi dân rời lều để qua sông Gio-đan, thì các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước dẫn đầu dân. 15 Bấy giờ là mùa gặt; sông Gio-đan tràn ra hai bên bờ suốt mọi ngày. Lúc những người khiêng Hòm Bia vừa đến sông Gio-đan, và chân các tư tế khiêng Hòm Bia vừa nhúng vào nước ở ven bờ, 16 thì nước mạn ngược chảy xuống dừng lại, dựng đứng thành một khối duy nhất trong một khoảng rất dài, ở A-đam là thành ở cạnh Xác-than; còn nước chảy xuống biển A-ra-va, tức là Biển Muối, thì bị chặn hẳn lại, và dân đã qua sông, đối diện với Giê-ri-khô. 17 Các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa đứng yên tại chỗ, nơi đất khô cạn giữa lòng sông Gio-đan, trong khi toàn thể Ít-ra-en qua sông trên đất khô cạn, cho đến khi toàn dân đã qua hết.

Chương 04

Mười hai bia kỷ niệm

1 Khi toàn dân đã qua sông Gio-đan hết, Ðức Chúa phán với ông Giô-suê: 2 "Hãy chọn mười hai người trong dân, mỗi chi tộc một người, 3 và truyền lệnh này cho họ: từ nơi này, từ giữa lòng sông Gio-đan, nơi các tư tế đã đặt chân lên, anh em hãy lấy đi mười hai tảng đá, đem qua sông với anh em và đặt ở nơi anh em dừng lại nghỉ ngơi đêm nay.” 4 Ông Giô-suê gọi mười hai người ông đã chỉ định trong hàng con cái Ít-ra-en, mỗi chi tộc một người. 5 Ông bảo họ: "Hãy đến trước Hòm Bia Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, tận giữa lòng sông Gio-đan, và mỗi người vác một tảng đá trên vai, đúng theo số các chi tộc con cái Ít-ra-en,6 để làm dấu hiệu giữa anh em. Mai ngày khi con cái anh em hỏi: "Những tảng đá này có nghĩa gì đối với quý vị?, 7 anh em sẽ trả lời: "Là vì nước sông Gio-đan đã bị chặn lại trước Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa; khi Hòm Bia qua sông Gio-đan, nước sông Gio-đan đã bị chặn lại; và các tảng đá này là bia kỷ niệm đối với con cái Ít-ra-en cho đến muôn đời.” 8 Con cái Ít-ra-en làm đúng như ông Giô-suê đã truyền: Họ lấy đi mười hai tảng đá, từ giữa lòng sông Gio-đan, như Ðức Chúa đã phán với ông Giô-suê, đúng theo số các chi tộc con cái Ít-ra-en; họ đem theo qua sông đến nơi họ dừng lại, và đặt ở đó. 9 Rồi ông Giô-suê dựng mười hai tảng đá ở giữa lòng sông Gio-đan, nơi các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước đã đặt chân lên; các tảng đá ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay.

Sau khi qua sông

10 Các tư tế khiêng Hòm Bia đứng giữa lòng sông Gio-đan, cho đến khi tất cả những điều Ðức Chúa đã truyền cho ông Giô-suê phải nói cho dân được thực hiện, theo đúng như tất cả những gì ông Mô-sê đã truyền lại cho ông Giô-suê; và dân đã vội vã qua sông. 11 Vậy khi toàn dân đã qua hết, Hòm Bia của Ðức Chúa cũng như các tư tế lại dẫn đầu dân. 12 Con cái ông Rưu-vên, con cái ông Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se, võ trang đầy đủ, dẫn đầu con cái Ít-ra-en, theo như ông Mô-sê đã nói với họ. 13 Khoảng bốn mươi ngàn người được võ trang để ra trận, đi qua trước nhan Ðức Chúa, để tiến đánh vùng thảo nguyên Giê-ri-khô. 14 Ngày ấy, Ðức Chúa đã cho ông Giô-suê nên cao trọng trước mắt toàn thể Ít-ra-en, và họ kính sợ ông như đã kính sợ ông Mô-sê, mọi ngày đời ông.

15 Ðức Chúa phán với ông Giô-suê: 16 "Hãy truyền cho các tư tế khiêng Hòm Bia Chứng Ước lên khỏi sông Gio-đan.” 17 Và ông Giô-suê đã truyền cho các tư tế: "Hãy lên khỏi sông Gio-đan.” 18 Vậy, khi các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa lên khỏi lòng sông Gio-đan, khi họ vừa nhấc chân đặt lên đất cạn, thì nước sông Gio-đan trở về chỗ cũ và lại chảy như trước, tràn ra cả hai bên bờ.

Tới Ghin-gan

19 Dân chúng lên khỏi sông Gio-đan ngày mồng mười tháng giêng và đóng trại ở Ghin-gan, phía đông Giê-ri-khô. 20 Ông Giô-suê dựng ở Ghin-gan mười hai tảng đá mà họ đã lấy từ sông Gio-đan, 21 rồi nói với con cái Ít-ra-en: "Mai ngày khi con cái anh em hỏi cha ông chúng: "Những tảng đá này có nghĩa gì?, 22 anh em sẽ bảo cho con cái anh em biết: "Ít-ra-en đã qua sông Gio-đan này ráo chân. 23 Vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã làm cạn sông Gio-đan trước mặt anh em cho đến khi anh em đã qua sông, như Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã làm tại Biển Sậy, khi Người làm cạn biển trước mặt chúng ta, cho đến khi chúng ta đã qua biển. 24 Như thế, mọi dân trên mặt đất sẽ biết rằng tay Ðức Chúa mạnh mẽ dường bao, và anh em sẽ kính sợ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết mọi ngày."

Chương 05

Các dân miền tây sông Gio-đan kinh hãi

1 Vậy, khi tất cả các vua E-mô-ri ở bên kia sông Gio-đan, về phía tây, cũng như mọi vua Ca-na-an ở vùng duyên hải, nghe tin Ðức Chúa làm cạn sông Gio-đan trước mặt con cái Ít-ra-en cho đến khi họ qua sông, thì tâm thần họ sợ hãi như muốn chảy tan ra, họ không còn nhuệ khí nữa trước mặt con cái Ít-ra-en.

Người Híp-ri chịu cắt bì ở Ghin-gan

2 Khi ấy, Ðức Chúa phán với ông Giô-suê: "Ngươi hãy làm những con dao bằng đá sắc để lại cắt bì một lần nữa cho con cái Ít-ra-en.” 3 Ông Giô-suê đã làm những con dao bằng đá và cắt bì cho con cái Ít-ra-en ở Gò Da Quy Ðầu.

4 Ðây là lý do khiến ông Giô-suê làm việc cắt bì này: Toàn thể đám dân đàn ông con trai ra khỏi Ai-cập, những người tham chiến, đều đã chết dọc đường, trong sa mạc, sau khi ra khỏi Ai-cập; 5 tất cả đám dân đó, khi ra khỏi Ai-cập, đều đã chịu cắt bì; còn toàn thể đám dân sinh ở dọc đường, trong sa mạc, thì không. 6 Vì con cái Ít-ra-en đã đi trong sa mạc bốn mươi năm, cho đến khi tất cả đám dân đó, tức là những người ra khỏi Ai-cập mà đã tham chiến, đều bị tiêu diệt; họ đã không nghe lời Ðức Chúa, nên Ðức Chúa thề với họ là sẽ không cho họ thấy đất Người đã thề với cha ông họ là sẽ ban cho chúng ta, đất tràn trề sữa và mật. 7 Nhưng Người đã cho con cái họ sinh ra thay thế họ, và ông Giô-suê đã cắt bì cho chúng. Quả thế, chúng chưa được cắt bì, vì dọc đường người ta đã không cắt bì cho chúng. 8 Vậy, khi người ta đã cắt bì cho toàn thể dân chúng rồi, thì chúng ở yên tại chỗ trong trại cho đến khi lành. 9 Ðức Chúa phán với ông Giô-suê: "Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai-cập." Vì thế, người ta đã gọi tên nơi ấy là Ghin-gan cho đến ngày nay.

Cử hành lễ Vượt Qua

10 Con cái Ít-ra-en đóng trại ở Ghin-gan và cử hành lễ Vượt Qua ngày mười bốn trong tháng, vào buổi chiều, trong vùng thảo nguyên Giê-ri-khô. 11 Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa rang, vào đúng ngày đó. 12 Hôm sau, không còn man-na nữa, khi họ dùng thổ sản trong xứ; thế là con cái Ít-ra-en không còn có man-na nữa. Năm ấy, họ đã dùng hoa màu của đất Ca-na-an.

3. Ðánh Chiếm Giê-Ri-Khô

Thần hiện

13 Vậy, khi ở gần Giê-ri-khô, ông Giô-suê ngước mắt nhìn, thì này có người đứng đối diện với ông, tay cầm gươm trần. Ông Giô-suê đến gần người ấy và nói: "Ông về phe chúng tôi hay về phe địch?” 14 Người ấy nói: "Không, ta là tướng chỉ huy đạo binh của Ðức Chúa, bây giờ ta đến. .." Ông Giô-suê sấp mặt xuống đất, sụp lạy và nói: "Ngài muốn dạy tôi tớ ngài điều gì?” 15 Vị tướng chỉ huy đạo binh của Ðức Chúa nói với ông Giô-suê: "Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là nơi thánh!" Và ông Giô-suê đã làm như vậy.

Chương 06

Chiếm Giê-ri-khô

1 Giê-ri-khô đóng kín cổng thành, phòng thủ chống lại con cái Ít-ra-en: nội bất xuất, ngoại bất nhập. 2 Ðức Chúa phán với ông Giô-suê: "Xem đây! Ta nộp vào tay ngươi thành Giê-ri-khô, vua và các dũng sĩ của thành ấy. 3 Các ngươi, tất cả những người tham chiến, các ngươi sẽ đi vòng quanh thành, đi chung quanh thành một lần; (các) ngươi sẽ làm như vậy sáu ngày. 4 Bảy tư tế sẽ cầm bảy cái tù và bằng sừng cừu đi trước Hòm Bia. Ngày thứ bảy, các ngươi sẽ đi vòng quanh thành bảy lần, và các tư tế sẽ thổi tù và. 5 Khi tù và bằng sừng cừu rú lên, khi các ngươi nghe tiếng tù và, thì toàn dân lớn tiếng hò reo xung trận. Bấy giờ tường thành sẽ sụp đổ tại chỗ; dân chúng ai nấy cứ thẳng trước mặt mình mà tiến lên."

6 Ông Giô-suê, con ông Nun, triệu tập các tư tế và nói với họ: "Các ông hãy khiêng Hòm Bia Giao Ước, và bảy tư tế phải cầm bảy tù và bằng sừng cừu đi trước Hòm Bia của Ðức Chúa.” 7 Ông nói với dân: "Hãy tiến tới và đi vòng quanh thành; những người được võ trang hãy qua phía trước Hòm Bia của Ðức Chúa.” 8 Ðiều đó đã xảy ra như ông Giô-suê đã nói với dân. Bảy tư tế cầm bảy tù và bằng sừng cừu qua phía trước nhan Ðức Chúa, vừa đi vừa thổi; còn Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa thì đi sau họ. 9 Quân tiên phong đi trước các tư tế đang thổi tù và. Quân hậu vệ đi theo sau Hòm Bia. Ai nấy bước đi theo tiếng tù và.

10 Trước đó ông Giô-suê đã ra lệnh này cho dân: "Anh em đừng hò reo xung trận, đừng để ai nghe thấy tiếng anh em, đừng hé môi nói ra lời nào, cho đến ngày tôi bảo anh em: Hãy hò reo xung trận! Bấy giờ, anh em mới hò reo xung trận."

11 Hòm Bia Ðức Chúa đi vòng quanh thành, đi một vòng chung quanh, rồi ai nấy trở về trại và qua đêm tại đó. 12 Sáng hôm sau, ông Giô-suê dậy sớm, và các tư tế khiêng Hòm Bia Ðức Chúa. 13 Bảy tư tế cầm bảy tù và bằng sừng cừu đi trước Hòm Bia Ðức Chúa, vừa đi vừa thổi; quân tiên phong đi trước họ, và quân hậu vệ theo sau Hòm Bia Ðức Chúa; ai nấy bước đi theo tiếng tù và.

14 Ngày thứ hai, họ đi vòng quanh thành một lần, rồi trở về trại. Họ làm như vậy sáu ngày. 15 Ngày thứ bảy, họ dậy sớm khi hừng đông ló rạng, và đi vòng quanh thành bảy lần cùng theo một cách thức. Chỉ có ngày đó họ mới đi vòng quanh thành bảy lần. 16 Ðến lần thứ bảy, khi các tư tế thổi tù và, ông Giô-suê nói với dân: "Hãy hò reo xung trận, vì Ðức Chúa đã nộp thành cho anh em."

Giê-ri-khô bị án tru hiến

17 "Thành và mọi sự trong thành sẽ bị án tru hiến để kính Ðức Chúa, chỉ có cô kỹ nữ Ra-kháp và mọi người ở với cô trong nhà là sẽ được sống, vì cô đã giấu các sứ giả chúng ta sai đi. 18 Tuy nhiên, anh em phải đề phòng án tru hiến, kẻo anh em bị án tru hiến vì lấy đồ vật nào trong số những gì bị án biệt hiến. Bằng không, anh em sẽ làm cho trại Ít-ra-en phải bị án tru hiến, và như thế anh em gây tai hoạ cho trại. 19 Tất cả vàng bạc, mọi đồ đồng, đồ sắt sẽ được thánh hiến cho Ðức Chúa, và được xung vào kho tàng của Ðức Chúa."

20 Bấy giờ, dân hò reo xung trận, và người ta rúc tù và. Vừa nghe tiếng tù và, dân lớn tiếng hò reo xung trận, và tường thành sụp đổ tại chỗ. Dân chúng ai nấy cứ thẳng trước mặt mình mà tiến lên đánh thành, và đã chiếm được. 21 Họ dùng lưỡi gươm mà thi hành án tru hiến mọi sự trong thành, từ đàn ông cho đến đàn bà, từ người trẻ cho đến người già, đến cả bò lừa và chiên cừu.

Nhà cô Ra-kháp thoát nạn

22 Ông Giô-suê nói với hai người đã đi do thám trong xứ: "Hãy vào nhà người kỹ nữ, và đem người đàn bà ấy cũng như mọi người thân thuộc của cô ra khỏi đó, theo như anh em đã thề hứa với cô.” 23 Vậy các người thanh niên do thám vào nhà cô Ra-kháp, và đem cô ra khỏi đó cùng với cha mẹ, anh em cô và mọi người thân thuộc của cô; họ đem tất cả thị tộc của cô ra khỏi đó, và cho họ ở bên ngoài trại Ít-ra-en.

24 Rồi họ phóng hoả đốt thành cũng như tất cả những gì trong đó; ngoại trừ vàng bạc và những đồ đồng, đồ sắt, thì người ta nộp vào kho tàng nhà Ðức Chúa. 25 Nhưng cô kỹ nữ Ra-kháp cùng với gia đình cha cô và mọi người thân thuộc của cô, thì ông Giô-suê để cho sống. Cô ở giữa dân Ít-ra-en cho đến ngày nay, vì cô đã giấu sứ giả ông Giô-suê sai đi do thám Giê-ri-khô.

Nguyền rủa những ai tái thiết Giê-ri-khô

26 Thuở ấy, ông Giô-suê bắt phải thề rằng:

"Trước nhan Ðức Chúa, khốn cho kẻ đứng lên

tái thiết thành Giê-ri-khô này!

Kẻ nào đào móng dựng nền,

thì con đầu lòng của nó phải chết;

kẻ nào dựng cổng xây tường,

thì con út của nó phải mạng vong!"

27 Ðức Chúa ở với ông Giô-suê, và danh tiếng đồn ra khắp xứ.

Chương 07

Tội không thi hành án biệt hiến

1 Nhưng con cái Ít-ra-en đã can tội không thi hành án biệt hiến: ông A-khan, con ông Các-mi, cháu ông Dáp-đi, chắt ông De-rác, thuộc chi tộc Giu-đa, đã lấy đồ vật trong số những thứ bị án biệt hiến. Nên Ðức Chúa nổi cơn thịnh nộ với con cái Ít-ra-en.

Thất bại ở thành Ai

2 Từ Giê-ri-khô, ông Giô-suê sai người đến thành Ai ở gần Bết A-ven, về phía đông Bết Ên. Ông nói với họ: "Hãy lên do thám xứ ấy!" Họ lên do thám thành Ai. 3 Họ trở về với ông Giô-suê và nói: "Ðừng đưa cả dân lên! Chỉ cần khoảng hai hoặc ba ngàn người lên mà đánh thành Ai. Ðừng làm khổ toàn dân trong vụ này, vì bọn kia không đông mấy!"

4 Vậy có chừng ba ngàn người trong dân đã lên đó, nhưng họ đã chạy trốn trước mặt người thành Ai. 5 Người thành Ai đã giết khoảng ba mươi sáu người của họ. Người thành Ai đuổi theo họ từ đàng trước cổng thành đến Sơ-va-rim, và đánh bại họ ở chỗ dốc. Tâm thần của dân sợ hãi như muốn chảy tan ra như nước.

Ông Giô-suê cầu nguyện

6 Ông Giô-suê xé áo mình ra, và cùng với các kỳ mục Ít-ra-en sấp mặt xuống đất trước Hòm Bia Ðức Chúa, cho đến chiều. Họ rắc bụi lên đầu. 7 Ông Giô-suê nói: "Ôi! Lạy Chúa là Ðức Chúa, sao Ngài lại đem dân này qua sông Gio-đan mà nộp chúng con vào tay người E-mô-ri để huỷ diệt chúng con? Giá chúng con được định cư bên kia sông Gio-đan, thì có hơn không? 8 Xin đoái thương, lạy Chúa, con biết nói gì đây, sau khi Ít-ra-en phải quay lưng chạy trốn các địch thù? 9 Người Ca-na-an và mọi dân cư trong xứ sẽ nghe biết tin này. Họ sẽ quay lại chống chúng con và xoá tên chúng con khỏi mặt đất. Khi đó, Ngài sẽ làm gì để chứng tỏ danh Ngài vĩ đại?"

Ðức Chúa trả lời

10 Ðức Chúa phán với ông Giô-suê: "Ðứng dậy đi! Sao ngươi cứ sấp mặt xuống đất như vậy? 11 Ít-ra-en đã phạm tội, hơn nữa, chúng đã vi phạm giao ước mà Ta đã truyền cho chúng phải giữ; chúng đã dám lấy cả đồ vật bị án biệt hiến, chúng đã dám lấy trộm, giấu đi và bỏ vào đồ đoàn của chúng! 12 Vì thế, con cái Ít-ra-en sẽ không thể đương đầu với địch thù của chúng. Chúng sẽ quay lưng chạy trốn các địch thù, vì chúng đã trở nên những kẻ mang án tru hiến. Ta sẽ không ở với các ngươi nữa, nếu các ngươi không loại khỏi các ngươi những đồ vật bị án biệt hiến. 13 Ðứng dậy đi! Hãy làm cho dân được nên thánh. Ngươi sẽ nói: Anh em hãy lo cho mình được nên thánh để chuẩn bị cho ngày mai, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: Hỡi Ít-ra-en, giữa các ngươi có một đồ vật bị án biệt hiến. (Các) ngươi sẽ không thể đương đầu với địch thù của (các) ngươi, bao lâu các ngươi không cất khỏi các ngươi đồ vật ấy. 14 Sáng mai, các ngươi sẽ tiến đến theo từng chi tộc. Chi tộc nào Ðức Chúa đã dùng thăm mà chỉ định, sẽ tiến đến theo từng thị tộc. Thị tộc nào Ðức Chúa đã dùng thăm mà chỉ định, sẽ tiến đến theo từng gia đình. Gia đình nào Ðức Chúa đã dùng thăm mà chỉ định, sẽ tiến đến từng người một. 15 Kẻ nào bị chỉ định bởi việc bắt thăm vì có liên quan đến án biệt hiến, thì sẽ bị thiêu cùng với tất cả đồ vật của nó; vì nó đã vi phạm giao ước của Ðức Chúa, và vì nó đã làm một điều ô nhục trong Ít-ra-en."

Tìm được thủ phạm và ra hình phạt

16 Sáng hôm sau, ông Giô-suê dậy sớm và cho dân Ít-ra-en tiến đến theo chi tộc: chi tộc Giu-đa bắt trúng thăm. 17 Ông cho các thị tộc Giu-đa tiến đến, và thị tộc De-rác bắt trúng thăm; ông cho thị tộc De-rác tiến đến theo từng gia đình; và gia đình Dáp-đi bắt trúng thăm. 18 Ông cho gia đình Dáp-đi tiến đến từng người một, và A-khan, con ông Các-mi, cháu ông Dáp-đi, chắt ông De-rác, thuộc chi tộc Giu-đa, bắt trúng thăm.

19 Ông Giô-suê bảo A-khan: "Này ngươi, hãy tôn vinh Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, và hãy suy tôn Người! Hãy thú thật với ta những gì ngươi đã làm, đừng giấu giếm gì cả.” 20 A-khan trả lời ông Giô-suê: "Quả thật, con đã đắc tội với Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, đây là điều con đã làm: 21 Trong số chiến lợi phẩm, con trông thấy một chiếc áo khoác đẹp miền Sin-a, hai ký bạc và một thỏi vàng cân nặng hơn nửa ký, vì lòng tham, con đã lấy; các vật ấy được chôn dưới đất, ở giữa lều của con, và bạc thì ở bên dưới."

22 Ông Giô-suê sai người chạy tới lều A-khan; quả thật chiếc áo khoác được chôn trong lều, còn bạc thì ở dưới. 23 Họ lấy tất cả ra khỏi lều, mang về cho ông Giô-suê và toàn thể con cái Ít-ra-en, rồi đổ ra trước nhan Ðức Chúa.

24 Khi ấy, ông Giô-suê đem A-khan, con ông De-rác đi, cùng với bạc, áo khoác, nén vàng, cũng như con trai, con gái, bò lừa, chiên dê, lều trại và tất cả những gì của nó. Toàn thể Ít-ra-en cùng đi với nó. Người ta đem chúng lên cánh đồng A-kho.

25 Ông Giô-suê bảo: "Sao ngươi lại gây hoạ cho chúng ta? Xin Ðức Chúa giáng hoạ cho ngươi hôm nay!" Toàn thể Ít-ra-en ném đá A-khan. Họ ném đá và thiêu những gì còn lại.

26 Rồi người ta chất một đống đá lớn trên A-khan. Ðống đá ấy vẫn còn cho đến ngày nay. Bấy giờ, Ðức Chúa nguôi cơn thịnh nộ. Vì thế, người ta gọi nơi này là "cánh đồng A-kho" cho đến ngày nay.

Chương 08

4. Ðánh Chiếm Thành Ai

Thiên Chúa truyền lệnh cho ông Giô-suê

1 Ðức Chúa phán với ông Giô-suê: "Ðừng hãi, đừng sợ! Hãy đem theo ngươi mọi chiến sĩ. Ðứng dậy đi, tiến lên đánh thành Ai. Xem đây, Ta nộp vào tay ngươi vua thành Ai, dân, thành và xứ của vua ấy. 2 Ngươi sẽ đối xử với thành Ai và vua thành ấy như đã đối xử với Giê-ri-khô và vua thành ấy. Các ngươi chỉ được chiếm cho mình chiến lợi phẩm và thú vật. Ngươi hãy đặt quân mai phục phía sau thành để tấn công."

Mưu kế của ông Giô-suê

3 Ông Giô-suê trỗi dậy, cùng với mọi chiến sĩ lên đánh thành Ai. Ông chọn ba mươi ngàn dũng sĩ, và đang đêm sai họ đi. 4 Ông ra lệnh này cho họ: "Xem đây! Anh em sẽ mai phục phía sau thành để tấn công, nhưng đừng ở quá xa, và tất cả anh em hãy sẵn sàng. 5 Còn tôi và toàn dân ở với tôi, chúng tôi sẽ tiến lại gần thành. Khi chúng ra nghênh chiến với chúng ta như lần đầu, chúng tôi sẽ chạy trốn trước mặt chúng. 6 Chúng sẽ chạy ra đuổi theo chúng tôi, cho đến khi chúng tôi nhử chúng ra xa thành, vì chúng sẽ nói: "Họ chạy trốn trước mặt chúng ta như lần đầu! Chúng tôi sẽ chạy trốn trước mặt họ; 7 còn anh em, anh em sẽ đứng lên, rời chỗ mai phục và chiếm thành. Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ nộp thành vào tay anh em. 8 Vậy sau khi đoạt được thành, anh em sẽ phóng hoả đốt thành. Anh em phải làm theo lời Ðức Chúa. Hãy coi! Ðó là mệnh lệnh tôi truyền cho anh em."

9 Ông Giô-suê sai họ đi; họ đi đến chỗ mai phục và núp ở giữa Bết Ên và Ai, về phía tây của thành, còn ông Giô-suê thì qua đêm ở giữa dân. 10 Sáng hôm sau, ông Giô-suê dậy sớm, duyệt lại hàng ngũ của dân. Ông và các kỳ mục Ít-ra-en tiến lên, đi trước dân để tấn công thành Ai. 11 Mọi chiến sĩ ở với ông thì đi lên, tiến tới. Ðến trước mặt thành Ai, họ đóng trại ở phía bắc thành, giữa họ và thành có một thung lũng. 12 Ông lấy chừng năm ngàn người, cho họ mai phục giữa Bết Ên và Ai, phía tây thành. 13 Khi dân đã dàn trận ở phía bắc thành, và đặt hậu quân ở phía tây, thì đêm ấy ông Giô-suê đi ra giữa cánh đồng.

Cuộc đánh chiếm thành Ai

14 Vua thành Ai thấy thế, thì sáng hôm sau, vua và toàn dân trong thành vội vàng dậy sớm, ra nghênh chiến với Ít-ra-en ở chỗ đã định, đối diện với A-ra-va. Nhưng ông không biết là có quân mai phục đang chờ ông đằng sau thành. 15 Ông Giô-suê và toàn dân Ít-ra-en để cho quân địch đánh, và họ tháo chạy về phía sa mạc. 16 Toàn dân trong thành tập họp lại, đuổi theo. Chúng đuổi theo ông Giô-suê và bị nhử ra xa thành. 17 Không một người nào trong thành Ai và Bết Ên mà không chạy ra rượt theo Ít-ra-en, chúng để thành bỏ ngỏ mà đuổi theo Ít-ra-en. 18 Ðức Chúa phán với ông Giô-suê: "Hãy giơ ngọn lao ngươi đang cầm trong tay hướng về thành Ai, vì Ta sẽ nộp thành ấy vào tay ngươi." Ông Giô-suê giơ ngọn lao đang cầm trong tay về phía thành. 19 Ông vừa giơ tay lên thì quân mai phục vội vàng trỗi dậy, rời khỏi chỗ núp. Họ chạy vào và chiếm thành rồi vội vàng phóng hoả đốt thành.

20 Người thành Ai quay lại, nhìn thấy khói từ thành bốc lên trời. Chúng không còn sức chạy trốn đàng nào nữa, vì những người Ít-ra-en đang chạy trốn vào sa mạc quay lại đánh những kẻ đuổi theo họ. 21 Thấy quân mai phục chiếm được thành và thấy khói từ thành bốc lên, ông Giô-suê và toàn thể Ít-ra-en trở lại đánh người thành Ai. 22 Những người khác ra khỏi thành đón đường chúng, khiến chúng lọt vào giữa Ít-ra-en, bị chận cả hai đầu. Ít-ra-en giết chúng, không để sót một tên, không để thoát một mống. 23 Vua thành Ai bị bắt sống và bị điệu tới ông Giô-suê. 24 Khi Ít-ra-en đã giết sạch dân thành Ai, kẻ ở ngoài đồng, cũng như kẻ ở trong sa mạc là nơi chúng đuổi theo họ, khi tất cả, cho đến tên cuối cùng, đã ngã gục dưới lưỡi gươm, thì toàn thể Ít-ra-en trở về thành Ai và dùng lưỡi gươm giết chúng. 25 Số những kẻ ngã gục trong ngày đó, đàn ông cũng như đàn bà, tất cả lên tới mười hai ngàn, mọi người đều là dân thành Ai.

Án tru diệt và cuộc tàn phá thành Ai

26 Ông Giô-suê cứ giơ tay cầm lao, không hạ xuống cho đến khi ông thi hành án tru diệt tất cả thành Ai. 27 Người Ít-ra-en chỉ chiếm cho mình thú vật và chiến lợi phẩm của thành ấy, theo lệnh Ðức Chúa đã truyền cho ông Giô-suê.

28 Ông Giô-suê đã đốt thành Ai, khiến nó mãi mãi là một nơi điêu tàn, một chốn hoang vu vẫn còn đến ngày nay. 29 Ông cho treo cổ vua thành Ai trên cây cho đến chiều. Nhưng khi mặt trời lặn, ông ra lệnh hạ xác xuống khỏi cây và quăng ở cửa thành. Người ta chất trên y một đống đá lớn vẫn còn cho đến ngày nay.

5. Dâng Hy Lễ Và Ðọc Sách Luật Trên Núi Ê-Van

Bàn thờ bằng đá nguyên vẹn

30 Bấy giờ, ông Giô-suê dựng bàn thờ kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, trên núi Ê-van, 31 theo lệnh ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, đã truyền cho con cái Ít-ra-en, như đã chép trong Sách Luật Mô-sê: đó là một bàn thờ bằng đá nguyên vẹn, chưa có đồ sắt chạm tới. Trên đó, người ta dâng lễ toàn thiêu kính Ðức Chúa và dâng lễ kỳ an.

Ðọc Sách Luật

32 Ông Giô-suê cho khắc bản sao Luật Mô-sê trên những tảng đá; ông Mô-sê đã viết Luật đó trước mặt con cái Ít-ra-en. 33 Toàn thể Ít-ra-en, các bậc kỳ mục, kinh sư và thẩm phán đều đứng hai bên Hòm Bia, đối diện với các tư tế Lê-vi khiêng Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa, người ngoại kiều cũng như người bản xứ, một nửa đứng trước núi Gơ-ri-dim, một nửa đứng trước núi Ê-van, để theo lệnh ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, dân Ít-ra-en được chúc phúc trước. 34 Sau đó, ông Giô-suê đọc mọi lời của Lề Luật, - những lời chúc phúc và những lời nguyền rủa -, theo như mọi điều đã ghi trong Sách Luật. 35 Không có lời nào ông Mô-sê đã truyền viết ra, mà ông Giô-suê lại không đọc trước mặt toàn thể cộng đồng Ít-ra-en, gồm cả đàn bà, trẻ con và ngoại kiều cùng đi chung với họ.

Chương 09

6. Hiệp Ước Giữa Ít-Ra-En Và Người Ghíp-Ôn

Liên minh chống Ít-ra-en

1 Nghe tin ấy, tất cả các vua ở bên kia sông Gio-đan, trên miền núi, trong miền Sơ-phê-la và ở vùng ven Biển Lớn cho đến tận Li-băng: các vua Khết, E-mô-ri, Ca-na-an, Pơ-rít-di, Khi-vi và Giơ-vút, 2 hợp nhau để cùng chiến đấu chống lại ông Giô-suê và Ít-ra-en.

Mưu của người Ghíp-ôn

3 Người Ghíp-ôn nghe biết những gì ông Giô-suê đã làm cho Giê-ri-khô và Ai, 4 thì cũng dùng mưu. Chúng lên đường, mang theo lương thực, và cho lừa chở những chiếc bị cũ, những bầu rượu bằng da cũ, thủng và được vá lại, 5 chân mang dép cũ được khâu lại, mình mặc quần áo cũ; tất cả bánh dự trữ đều khô cứng, nát vụn.

6 Chúng đi gặp ông Giô-suê ở trại Ghin-gan; chúng nói với ông và người Ít-ra-en: "Chúng tôi từ nơi xa đến, vậy bây giờ xin các ông ký hiệp ước với chúng tôi.” 7 Người Ít-ra-en mới nói với người Khi-vi: "Biết đâu (các) ông lại chẳng sống ngay giữa chúng tôi, thì (chúng) tôi ký hiệp ước với các ông làm gì?” 8 Chúng nói với ông Giô-suê: "Chúng tôi là tôi tớ của ông." Ông Giô-suê nói: "Các ông là ai, và từ đâu đến?” 9 Chúng đáp: "Nghe biết danh tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, các tôi tớ của ông đã từ một nước rất xa đến đây. Vì chúng tôi đã nghe nói về Người, về tất cả những gì Người đã làm bên Ai-cập, 10 và về tất cả những gì Người đã giáng cho hai vua người E-mô-ri ở bên kia sông Gio-đan, nghĩa là cho Xi-khôn, vua Khét-bôn, và Ốc, vua Ba-san, ở Át-ta-rốt. 11 Các bậc kỳ mục của chúng tôi và mọi người dân trong nước đã nói với chúng tôi: "Các anh hãy mang theo lương thực đi đường mà đi đón họ; hãy nói với họ: Chúng tôi là tôi tớ của các ông; vậy bây giờ xin các ông ký hiệp ước với chúng tôi. 12 Bánh của chúng tôi đây này: khi chúng tôi đem ra khỏi nhà làm lương thực, ngày chúng tôi ra đi để đến với các ông, nó còn nóng hổi, mà bây giờ nó đã khô cứng, nát vụn! 13 Những bầu rượu kia, khi chúng tôi đổ đầy rượu vào, thì hãy còn mới, mà nay đã thủng; quần áo và giày dép của chúng tôi đây đã cũ vì đường sá xa xôi.” 14 Người Ít-ra-en nhận một phần lương thực dự trữ ấy mà không thỉnh ý Ðức Chúa qua lời sấm. 15 Ông Giô-suê để chúng được bình an, và ký hiệp ước bảo đảm tính mạng của chúng. Và những người lãnh đạo cộng đồng thề ước với chúng.

16 Ba ngày sau khi ký hiệp ước với chúng, người Ít-ra-en nghe biết chúng là người láng giềng và sống giữa họ. 17 Con cái Ít-ra-en rời nơi đó mà vào thành của chúng ngày thứ ba; thành của chúng là Ghíp-ôn, Cơ-phi-ra, Bơ-ê-rốt, Kia-giát Giơ-a-rim. 18 Con cái Ít-ra-en không giết chúng, vì các người lãnh đạo cộng đồng đã thề ước với chúng nhân danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en; nhưng toàn thể cộng đồng đã kêu trách những người lãnh đạo.

Quy chế cho người Ghíp-ôn

19 Mọi người lãnh đạo nói với toàn thể cộng đồng: "Chúng tôi đã nhân danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, mà thề; nên bây giờ chúng ta không được đụng tới chúng. 20 Chúng ta sẽ đối xử với chúng như thế này: Chúng ta sẽ để cho chúng sống, và cơn thịnh nộ sẽ không giáng xuống chúng ta, vì chúng ta đã thề ước với chúng như vậy.” 21 Những người lãnh đạo nói tiếp: "Cứ để chúng sống, nhưng chúng phải chặt củi, múc nước cho toàn thể cộng đồng." Những người lãnh đạo đã nói với chúng như thế. 22 Ông Giô-suê triệu tập chúng lại và nói: "Tại sao các người đã lừa dối chúng tôi mà nói: "Chúng tôi ở rất xa các ông", trong khi các người sống giữa chúng tôi? 23 Bây giờ, các người là những kẻ bị nguyền rủa, tất cả các người sẽ mãi mãi làm nô lệ, làm người chặt củi, múc nước cho Nhà của Thiên Chúa tôi.” 24 Chúng trả lời ông Giô-suê: "Người ta đã kể đi kể lại cho các tôi tớ ngài đây lệnh mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, đã truyền cho ông Mô-sê, tôi trung của Người, là trao cho các ông tất cả xứ sở, và tiêu diệt trước mặt các ông toàn thể dân cư trong xứ. Chúng tôi đã sợ cho tính mạng của chúng tôi, chúng tôi rất sợ các ông, nên chúng tôi đã làm điều ấy. 25 Vậy bây giờ chúng tôi đang ở trong tay ông, ông cứ đối xử với chúng tôi như ông nghĩ thế nào là hay là phải!” 26 Ông đã đối xử với chúng như thế này: ông đã cứu chúng khỏi tay con cái Ít-ra-en, và họ đã không giết chúng. 27 Nhưng ngày ấy ông Giô-suê bắt chúng chặt củi, múc nước để phục vụ cộng đồng và bàn thờ của Ðức Chúa cho đến ngày nay, ở nơi Người sẽ chọn.

Chương 10

7. Liên Minh Năm Vua E-Mô-Ri.

Ðánh Chiếm Miền Nam Pa-Lét-Tin.

Năm vua đánh Ghíp-ôn

1 A-đô-ni Xe-đéc, vua Giê-ru-sa-lem, nghe tin ông Giô-suê đã chiếm thành Ai, đã tru hiến thành này, đã đối xử với thành Ai và vua thành này như với Giê-ri-khô và vua thành ấy. Vua cũng nghe tin dân thành Ghíp-ôn đã cầu hoà với Ít-ra-en và đang sống giữa Ít-ra-en. 2 Khi đó người ta hết sức sợ hãi, bởi vì Ghíp-ôn là một thành lớn như một kinh thành. Quả thế, thành đó lớn hơn thành Ai, và mọi người trong thành đều là những tay anh hùng. 3 A-đô-ni Xe-đéc, vua Giê-ru-sa-lem, sai người đến nói với Hô-ham, vua Khép-rôn, với Pia-am, vua Giác-mút, với Gia-phia, vua La-khít, và với Ðơ-via, vua Éc-lon: 4 "Xin quý vị lên với tôi và cứu viện cho tôi, để chúng ta cùng đánh Ghíp-ôn, vì Ghíp-ôn đã cầu hoà với Giô-suê và con cái Ít-ra-en.” 5 Năm vua E-mô-ri là vua Giê-ru-sa-lem, vua Khép-rôn, vua Giác-mút, vua La-khít, vua Éc-lon, đem quân liên minh với nhau và cùng đi lên. Họ bao vây Ghíp-ôn và tấn công thành ấy.

Ông Giô-suê đến cứu viện Ghíp-ôn

6 Dân thành Ghíp-ôn đến trại Ghin-gan nói với ông Giô-suê: "Xin ngài đừng từ chối tiếp tay cho các tôi tớ ngài. Xin ngài sớm lên với chúng tôi, giải thoát chúng tôi, cứu viện chúng tôi, vì tất cả các vua E-mô-ri ở miền núi đều hợp nhau chống lại chúng tôi.” 7 Ông Giô-suê rời Ghin-gan mà đi lên, cùng với tất cả chiến sĩ và dũng sĩ. 8 Ðức Chúa phán với ông Giô-suê: "Ðừng sợ chúng, vì Ta đã nộp chúng vào tay ngươi, không ai trong bọn chúng sẽ đứng vững trước mặt ngươi.” 9 Sau khi từ Ghin-gan đi lên suốt cả một đêm, ông Giô-suê bất thình lình đến nơi chúng đóng quân.

Ơn trên phù hộ

10 Ðức Chúa làm cho chúng tán loạn trước mặt Ít-ra-en. Và Ít-ra-en đã làm cho chúng đại bại ở Ghíp-ôn. Họ đuổi theo chúng lên phía đèo Bết Khô-rôn, và đánh giết chúng mãi cho đến A-dê-ca, cho đến Mác-kê-đa. 11 Khi chúng chạy trốn trước mặt Ít-ra-en đến chân đèo Bết Khô-rôn, thì từ trời, Ðức Chúa cho rơi những hòn đá lớn xuống trên chúng mãi cho đến A-dê-ca, khiến chúng phải chết. Chúng chết vì cơn mưa đá nhiều hơn là vì gươm con cái Ít-ra-en giết. 12 Bấy giờ, trong ngày Ðức Chúa nộp người E-mô-ri cho con cái Ít-ra-en, ông Giô-suê thưa chuyện với Ðức Chúa. Trước mặt con cái Ít-ra-en, ông nói:

"Hỡi mặt trời, hãy dừng lại trên thành Ghíp-ôn;

hỡi mặt trăng, hãy dừng lại trên thung lũng Ai-gia-lôn!"

13 Mặt trời liền dừng lại, mặt trăng lập tức đứng lại, cho đến khi dân đã trị tội các địch thù.

14 Trước đó và từ đó về sau, không có hôm nào như hôm ấy, ÐỨC CHÚA nghe lời một người phàm, vì Ðức Chúa chiến đấu cho Ít-ra-en. 15 Ông Giô-suê và toàn dân Ít-ra-en trở về trại ở Ghin-gan.

Năm vua trốn trong hang Mác-kê-đa

16 Năm vua đó tẩu thoát và trốn vào hang Mác-kê-đa. 17 Người ta báo tin cho ông Giô-suê rằng: "Ðã tìm thấy năm vua trốn trong hang Mác-kê-đa.” 18 Ông Giô-suê nói: "Hãy lăn những tảng đá lớn để lấp cửa hang, và đặt người ở đó canh giữ chúng. 19 Còn anh em, đừng đứng lại, hãy đuổi theo kẻ thù, chặn đường triệt thoái, đừng cho chúng vào lại các thành của chúng, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã nộp chúng vào tay anh em."

20 Sau khi ông Giô-suê và con cái Ít-ra-en làm cho chúng hoàn toàn đại bại đến mức tận tuyệt - trừ ít người trốn thoát vào được thành kiên cố của chúng -, 21 thì toàn dân mới an toàn trở về trại với ông Giô-suê ở Mác-kê-đa; không một ai dám hé môi nói phạm đến con cái Ít-ra-en.

22 Ông Giô-suê nói: "Mở cửa hang, đem năm vua ấy ra đây cho tôi.” 23 Họ đã làm như thế: họ đem năm vua ấy ra khỏi hang cho ông. Ðó là vua Giê-ru-sa-lem, vua Khép-rôn, vua Giác-mút, vua La-khít, vua Éc-lon. 24 Khi họ đã đem các vua ấy ra cho ông Giô-suê, thì ông triệu tập tất cả những người Ít-ra-en lại, và nói với những tướng lãnh các chiến sĩ tháp tùng ông: "Tiến lại gần đây, đặt chân lên cổ các vua này." Họ tiến lại gần và đặt chân họ lên cổ chúng. 25 Ông Giô-suê nói: "Ðừng hãi, đừng sợ; mạnh bạo lên, can đảm lên! Vì Ðức Chúa sẽ xử như thế này với mọi địch thù mà anh em sẽ phải nghênh chiến.” 26 Sau đó, ông Giô-suê cho đánh và giết chết chúng, rồi treo lên năm ngọn cây. Chúng bị treo trên cây cho đến chiều.

27 Khi mặt trời lặn, ông Giô-suê truyền hạ chúng xuống khỏi cây. Người ta quăng chúng vào hang, nơi chúng đã trốn, và người ta đặt những tảng đá lớn nơi cửa hang. Những tảng đá ấy còn mãi cho đến ngày nay.

Chiếm các thành miền nam Ca-na-an

28 Ngày hôm ấy, ông Giô-suê chiếm được Mác-kê-đa và dùng lưỡi gươm chém giết dân trong thành cũng như vua của chúng. Ông tru hiến chúng cũng như mọi sinh vật trong đó, không để một mạng nào sống sót. Ông đã xử với vua Mác-kê-đa như đã xử với vua Giê-ri-khô.

29 Rồi ông Giô-suê cùng với toàn thể Ít-ra-en rời Mác-kê-đa mà qua Líp-na. Ông giao chiến với Líp-na. 30 Ðức Chúa cũng đã nộp Líp-na và cả vua thành ấy vào tay Ít-ra-en. Ít-ra-en đã dùng lưỡi gươm chém giết dân trong thành cũng như mọi sinh vật trong đó, không để một mạng nào sống sót. Ông đã xử với vua thành đó như đã xử với vua thành Giê-ri-khô.

31 Ông Giô-suê cùng với toàn thể Ít-ra-en rời Líp-na mà qua La-khít. Ông vây hãm và tấn công thành. 32 Ðức Chúa nộp La-khít vào tay Ít-ra-en. Ít-ra-en chiếm thành đó vào ngày thứ hai, và dùng lưỡi gươm chém giết dân trong thành cũng như mọi sinh vật trong đó, y như đã xử với Líp-na. 33 Bấy giờ, Hô-ram, vua Ghe-dê, lên cứu viện cho La-khít, nhưng ông Giô-suê đánh bại nó cũng như dân của nó, đến nỗi không để một mạng nào sống sót. 34 Ông Giô-suê cùng với toàn thể Ít-ra-en rời La-khít mà qua Éc-lon. Họ vây hãm và tấn công thành. 35 Ngày ấy, họ chiếm thành và dùng lưỡi gươm chém giết dân trong thành. Ngày ấy, ông tru hiến mọi sinh vật trong đó, y như đã xử với La-khít.

36 Ông Giô-suê cùng với toàn thể Ít-ra-en rời Éc-lon mà lên Khép-rôn. Họ tấn công Khép-rôn. 37 Họ chiếm thành và dùng lưỡi gươm chém giết dân trong thành, cũng như vua của thành đó, mọi thị trấn phụ thuộc và mọi sinh vật trong đó. Ông không để một mạng nào sống sót, y như đã xử với Éc-lon. Ông tru hiến thành ấy cũng như mọi sinh vật trong đó.

38 Ông Giô-suê cùng với toàn thể Ít-ra-en quay sang Ðơ-via và tấn công thành đó. 39 Ông chiếm được thành Ðơ-via, bắt được vua, và chiếm mọi thị trấn phụ thuộc của thành ấy. Họ đã dùng lưỡi gươm chém giết chúng và tru hiến mọi sinh vật trong đó. Ông không để một mạng nào sống sót. Ông Giô-suê đã xử với thành Khép-rôn, với Líp-na và vua của các thành ấy thế nào, thì cũng xử với Ðơ-via và vua của thành ấy như vậy.

Tổng kết về các cuộc chinh phục miền nam

40 Ông Giô-suê đánh chiếm toàn xứ: miền núi, miền Ne-ghép, miền Sơ-phê-la, các Sườn Núi, và giết tất cả các vua. Ông không để một mạng nào sống sót. Ông tru hiến tất cả những gì có sinh khí, theo mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en. 41 Ông Giô-suê đánh chúng từ Ca-đê Bác-nê-a cho đến Ga-da, cũng như toàn xứ Gô-sen cho đến Ghíp-ôn. 42 Ông Giô-suê đã giết tất cả các vua đó, và chiếm đất của chúng, chỉ trong một trận đánh, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, đã chiến đấu cho Ít-ra-en. 43 Ông Giô-suê và toàn thể Ít-ra-en trở về trại, ở Ghin-gan.

Chương 11

8. Chinh Phục Miền Bắc Pa-Lét-Tin

Các vua miền bắc liên minh với nhau

1 Khi nghe tin đó, Gia-vin, vua Kha-xo, sai người đến với Giô-váp, vua Ma-đôn, với Sim-rôn, vua Ác-sáp, 2 với các vua ở phía bắc trong miền núi và miền A-ra-va phía nam Kin-na-rốt, trong miền Sơ-phê-la và trên mạn ngược Ðo, ở phía tây, 3 với người Ca-na-an ở phía đông và phía tây, với người E-mô-ri, Khết, Pơ-rít-di, Giơ-vút trên miền núi và Khi-vi ở dưới chân Khéc-môn, trong xứ Mít-pa. 4 Chúng ra đi, chúng và tất cả các binh sĩ của chúng, một đám dân đông đảo, nhiều như cát ngoài bãi biển, cùng với vô số ngựa xe.

Chiến thắng ở Mê-rôm

5 Tất cả các vua đó liên minh với nhau thành một khối, kéo nhau đến đóng trại gần bờ suối ở Mê-rôm, để giao chiến với Ít-ra-en. 6 Ðức Chúa phán với ông Giô-suê: "Ðừng sợ chúng, vì ngày mai cũng vào giờ này, Ta sẽ nộp thây của tất cả bọn chúng cho Ít-ra-en; ngươi sẽ chặt nhượng chân ngựa và phóng hoả đốt chiến xa của chúng.” 7 Ông Giô-suê và mọi chiến sĩ bất thình lình ập tới gần chúng ở bờ suối Mê-rôm và xông vào đánh. 8 Ðức Chúa nộp chúng vào tay Ít-ra-en. Dân Ít-ra-en đánh chúng và đuổi theo chúng cho đến Xi-đôn Ðại đô, cho đến Mít-rơ-phốt Ma-gim, và cho đến thung lũng Mít-pê, ở phía đông, họ đánh chúng tới mức không để một mạng nào sống sót. 9 Ông Giô-suê xử với chúng như Ðức Chúa đã phán với ông: Ông đã chặt nhượng chân ngựa và phóng hoả đốt chiến xa.

Chiếm Kha-xo và các thành khác ở phía bắc

10 Thuở ấy, ông Giô-suê trở về, chiếm Kha-xo và dùng gươm giết vua thành đó, vì trước kia Kha-xo là thủ đô của các vương quốc đó. 11 Họ dùng lưỡi gươm chém giết mọi sinh vật trong thành, tru hiến chúng; không còn một sinh vật nào sót lại; và ông đã phóng hoả đốt Kha-xo.

12 Ông Giô-suê chiếm mọi thành của các vua đó và dùng lưỡi gươm chém giết tất cả các vua của những thành đó. Ông tru hiến chúng, như ông Mô-sê tôi trung của Ðức Chúa đã truyền.

13 Nhưng Ít-ra-en không đốt thành nào xây dựng trên gò phế tích; chỉ có ông Giô-suê đốt Kha-xo mà thôi. 14 Con cái Ít-ra-en chiếm cho mình mọi chiến lợi phẩm của các thành ấy và thú vật; nhưng họ dùng lưỡi gươm chém giết mọi người, đến mức tiêu diệt hết, không để một sinh vật nào sống sót.

Ông Giô-suê thi hành mệnh lệnh của ông Mô-sê

15 Những gì Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê, tôi trung của Người, thì ông Mô-sê truyền lại cho ông Giô-suê, và ông Giô-suê đã làm như vậy. Ông không bỏ sót một điều gì Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.

Tổng kết về các cuộc chinh phục miền bắc

16 Thế là ông Giô-suê đã chiếm toàn xứ đó: miền núi, tất cả miền Ne-ghép, tất cả đất Gô-sen, miền Sơ-phê-la, miền A-ra-va, miền núi Ít-ra-en và đồng bằng của miền đó.

17 Từ núi Trọc đi lên Xê-ia cho đến Ba-an Gát trong thung lũng Li-băng dưới chân núi Khéc-môn, ông bắt được các vua của chúng, cho đánh và giết chết. 18 Trong nhiều ngày, ông Giô-suê giao chiến với tất cả các vua đó. 19 Không một thành nào làm hoà với con cái Ít-ra-en, ngoại trừ người Khi-vi cư ngụ ở Ghíp-ôn. Nhờ chiến đấu, con cái Ít-ra-en đã lấy được mọi thành. 20 Quả thế, Ðức Chúa đã quyết định làm cho dân ấy cứng lòng mà nghênh chiến với Ít-ra-en, để Ít-ra-en tru hiến chúng, không ân xá cho chúng, và làm cho chúng phải bị tiêu diệt, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.

Ðánh đuổi người A-nác

21 Thuở ấy, ông Giô-suê đến đánh đuổi người A-nác khỏi miền núi: Khép-rôn, Ðơ-via, A-náp, khỏi tất cả miền núi Giu-đa và Ít-ra-en. Ông Giô-suê tru hiến chúng và các thành của chúng. 22 Không còn sót lại một người A-nác nào nữa trong đất con cái Ít-ra-en, ngoại trừ ở Ga-da, Gát và Át-đốt. 23 Ông Giô-suê chiếm trọn đất ấy y như Ðức Chúa đã phán với ông Mô-sê. Ông Giô-suê đã ban đất ấy làm gia nghiệp cho Ít-ra-en, để các chi tộc chia nhau.

Và xứ sở được sống yên hàn, hết nạn chiến tranh.

Chương 12

9. Tổng Kết Về Cuộc Chiến Thắng

Các Vua Ở Hai Bên Sông Gio-Ðan

Các vua bại trận ở phía đông sông Gio-đan

1 Ðây là các vua trong xứ đã bị con cái Ít-ra-en đánh bại và chiếm đất, bên kia sông Gio-đan, phía mặt trời mọc, từ suối Ác-nôn đến núi Khéc-môn, và tất cả miền A-ra-va ở phía đông: 2 Xi-khôn, vua E-mô-ri, đóng đô tại Khét-bôn. Vua này cai trị vùng đất từ A-rô-e trên bờ suối Ác-nôn, kể cả lòng suối, một nửa Ga-la-át, cho đến suối Giáp-bốc, ranh giới của con cái Am-mon; 3 miền A-ra-va cho đến phía đông biển Kin-ne-rét, và cho đến phía đông biển A-ra-va, -tức là Biển Muối, theo hướng Bết Ha Giơ-si-mốt, nằm ở phía nam chân núi Pít-ga.

4 Rồi Ốc, vua Ba-san, một người còn sống sót của dân Ra-pha, đóng đô tại Át-ta-rốt và Ét-re-i. 5 Vua này cai trị miền núi Khéc-môn, Xan-kha và toàn miền Ba-san cho đến ranh giới của người Gơ-sua và Ma-a-kha, và một nửa Ga-la-át cho đến ranh giới của Xi-khôn, vua Khét-bôn. 6 Ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, và con cái Ít-ra-en đánh bại chúng. Ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, đã cho những người thuộc các chi tộc Rưu-vên, Gát và một nửa chi tộc Mơ-na-se được chiếm đất của chúng làm sở hữu.

Các vua bại trận ở phía tây sông Gio-đan

7 Và sau đây là các vua trong xứ đã bị ông Giô-suê và con cái Ít-ra-en đánh bại bên kia sông Gio-đan, ở phía tây, từ Ba-an Gát trong thung lũng Li-băng cho đến núi Trọc đứng trên đường đi Xê-ia, và ông Giô-suê đã cho các chi tộc Ít-ra-en được chiếm làm sở hữu để chia nhau: 8 trên miền núi, trong miền Sơ-phê-la, tại A-ra-va, ở các Sườn Núi, trong sa mạc vùng Ne-ghép, nơi các người Khết, E-mô-ri, Ca-na-an, Pơ-rít-di, Khi-vi và Giơ-vút:

9 Vua Giê-ri-khô, một; vua Ai, bên cạnh Bết Ên, một,

10 vua Giê-ru-sa-lem, một; vua Khép-rôn, một,

11 vua Giác-mút, một; vua La-khít, một,

12 vua Éc-lon, một; vua Ghe-de, một,

13 vua Ðơ-via, một; vua Ghe-đe, một,

14 vua Khoóc-ma, một; vua A-rát, một,

15 vua Líp-na, một; vua A-đu-lam, một,

16 vua Mác-kê-đa, một; vua Bết Ên, một,

17 vua Táp-pu-ác, một; vua Khê-phe, một,

18 vua A-phếch, một; vua La-sa-rôn, một,

19 vua Ma-đôn, một; vua Kha-xo, một,

20 vua Sim-rôn Mơ-rôn, một; vua Ác-sáp, một,

21 vua Ta-nác, một; vua Mơ-ghít-đô, một,

22 vua Ke-đét, một; vua Gióc-nơ-am núi Các-men, một,

23 vua Ðo ở mạn ngược Ðo, một; vua Gô-gim ở Ghin-gan, một,

24 vua Tia-xa, một; số tất cả các vua là ba mươi mốt.

Chương 13

II. Phân Chia Ðất Ðai Cho Các Chi Tộc

1. Mệnh Lệnh Của Thiên Chúa

Những vùng đất còn phải chiếm

1 Khi ông Giô-suê về già, tuổi đã cao, Ðức Chúa phán với ông: "Ngươi đã già nua tuổi tác, mà đất đai còn phải chiếm thì lại quá nhiều. 2 Ðây là đất còn lại:

"Mọi địa hạt người Phi-li-tinh, tất cả vùng dân Gơ-sua, 3 từ Si-kho đối diện với Ai-cập, cho đến ranh giới Éc-rôn ở phía bắc, cũng được coi là thuộc về Ca-na-an; vùng đất của năm thủ lãnh Phi-li-tinh: Ga-da, Át-đốt, Át-cơ-lôn, Gát và Éc-rôn; rồi vùng đất của người A-vim, 4 ở phía nam; trọn vùng đất người Ca-na-an và Mơ-a-ra của người Xi-đôn cho đến A-phếch, đến ranh giới của người E-mô-ri; 5 vùng đất của người Gơ-van và tất cả Li-băng phía mặt trời mọc, từ Ba-an Gát ở chân núi Khéc-môn cho đến lối vào Cửa Ải Kha-mát."

6 Tất cả dân miền núi từ Li-băng đến Mít-rơ-phốt Ma-gim, mọi người Xi-đôn, chính Ta sẽ xua đuổi chúng cho khuất mắt con cái Ít-ra-en. Ngươi chỉ có việc cho Ít-ra-en bắt thăm để được đất làm gia nghiệp như Ta đã truyền cho ngươi. 7 Và bây giờ, ngươi hãy chia đất này làm gia nghiệp cho chín chi tộc và nửa chi tộc Mơ-na-se.

2. Các Chi Tộc Bên Kia Sông Gio-Ðan

Nhìn tổng quát

8 Cùng với nửa chi tộc Mơ-na-se còn lại, chi tộc Rưu-vên và chi tộc Gát đã nhận phần gia nghiệp mà ông Mô-sê đã ban cho họ bên kia sông Gio-đan, phía đông, như ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, đã ban cho họ: 9 từ A-rô-e trên bờ suối Ác-nôn và thành nằm giữa thung lũng, toàn vùng cao nguyên Mê-đơ-va cho đến Ði-vôn; 10 mọi thành của Xi-khôn, vua dân E-mô-ri, trị vì ở Khét-bôn, cho đến ranh giới của con cái Am-mon, 11 Ga-la-át và lãnh thổ của người Gơ-sua và người Ma-a-kha, tất cả núi Khéc-môn và toàn miền Ba-san cho đến Xan-kha; 12 ở Ba-san, tất cả vương quốc của Ốc, là vua trị vì ở Át-ta-rốt và Ét-re-i, và là người còn sống sót của dân Ra-pha. Ông Mô-sê đã đánh bại và xua đuổi chúng đi. 13 Nhưng con cái Ít-ra-en không xua đuổi được người Gơ-sua và người Ma-a-kha, khiến chúng còn sinh sống giữa Ít-ra-en cho đến ngày nay. 14 Chỉ có chi tộc Lê-vi là không được nhận phần gia nghiệp: các hoả tế dâng Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, là gia nghiệp của chi tộc đó, như lời Người đã phán với họ.

Chi tộc Rưu-vên

15 Ông Mô-sê đã ban một phần đất cho chi tộc con cái ông Rưu-vên, theo các thị tộc của họ. 16 Lãnh thổ của họ trải rộng từ A-rô-e, trên bờ suối Ác-nôn, với thành nằm giữa thung lũng, cũng như toàn vùng cao nguyên, cho đến Mê-đơ-va, 17 Khét-bôn và mọi thành vùng cao nguyên: Ði-vôn, Ba-mốt Ba-an, Bết Ba-an Mơ-ôn, 18 Gia-hát, Cơ-đê-mốt, Mê-pha-át, 19 Kia-gia-tha-gim, Xíp-ma, Xe-rét Ha-sa-kha trên ngọn đồi nằm giữa đồng bằng, 20 Bết Pơ-o, các sườn núi Pít-ga, Bết Ha Giơ-si-mốt, 21 mọi thành vùng cao nguyên và toàn vương quốc của Xi-khôn, vua E-mô-ri, đang trị vì ở Khét-bôn. Ông Mô-sê đã đánh bại vua này, cũng như các thủ lãnh Ma-đi-an, E-vi, Re-kem, Xua, Khua và Re-va, là các chư hầu của Xi-khôn ở trong vùng đất đó. 22 Còn thầy bói Bi-lơ-am, con ông Bơ-o, thì con cái Ít-ra-en đã lấy gươm giết chết, cùng một lượt với những người bại trận. 23 Vậy lãnh thổ con cái ông Rưu-vên là sông Gio-đan và vùng phụ cận. Các thành và làng mạc của những thành ấy là gia nghiệp con cái ông Rưu-vên theo các thị tộc của họ.

Chi tộc Gát

24 Ông Mô-sê đã ban một phần đất cho chi tộc Gát, cho con cái ông Gát, theo các thị tộc của họ. 25 Lãnh thổ của họ gồm có: Gia-de và tất cả các thành miền Ga-la-át, nửa phần đất của con cái Am-mon cho đến A-rô-e, đối diện với Ráp-ba, 26 từ Khét-bôn cho đến Ra-mát Ha Mít-pê và Bơ-tô-nim, từ Ma-kha-na-gim cho đến lãnh thổ Lít-via, 27 và các thành trong thung lũng: Bết Ha-ram, Bết Nim-ra, Xúc-cốt, Xa-phôn, phần còn lại thuộc vương quốc của Xi-khôn, vua Khét-bôn, lấy sông Gio-đan làm ranh giới cho đến hết biển hồ Kin-ne-rét, bên kia sông Gio-đan, về phía đông. 28 Các thành và làng mạc của những thành ấy là gia nghiệp con cái ông Gát, theo các thị tộc của họ.

Nửa chi tộc Mơ-na-se

29 Ông Mô-sê đã ban một phần đất cho nửa chi tộc Mơ-na-se; đó là phần dành cho nửa chi tộc Mơ-na-se, theo các thị tộc của họ. 30 Lãnh thổ của họ gồm có: từ Ma-kha-na-gim, toàn miền Ba-san, toàn vương quốc của Ốc, vua Ba-san, mọi trại của Gia-ia ở miền Ba-san, tức là sáu mươi thành. 31 Nửa miền Ga-la-át, Át-ta-rốt và Ét-re-i, những thành trong vương quốc của vua Ốc ở Ba-san; các thành ấy là phần của con cái ông Ma-khia, con ông Mơ-na-se, thực ra là một nửa số con cái ông Ma-khia, theo các thị tộc của họ.

32 Ðó là phần ông Mô-sê ban làm gia nghiệp, trong vùng thảo nguyên Mô-áp, bên kia sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô, về phía đông. 33 Nhưng ông Mô-sê không cho chi tộc Lê-vi được hưởng gia nghiệp. Chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, là gia nghiệp của họ, như lời Người đã phán với họ.

Chương 14

3. Ba Chi Tộc Lớn Ở Phía Tây Sông Gio-Ðan

Nhập đề

1 Ðây là phần gia nghiệp con cái Ít-ra-en đã lãnh nhận ở xứ Ca-na-an, phần gia nghiệp mà tư tế E-la-da, ông Giô-suê con ông Nun, và những người đứng đầu gia tộc của các chi tộc con cái Ít-ra-en, đã chia cho họ. 2 Chín chi tộc và một nửa chi tộc đã bắt thăm và lãnh được gia nghiệp, theo mệnh lệnh của Ðức Chúa, qua trung gian của ông Mô-sê. 3 Thật vậy, ông Mô-sê đã ban gia nghiệp cho hai chi tộc và một nửa chi tộc ở bên kia sông Gio-đan; nhưng ông đã không ban cho các người Lê-vi phần gia nghiệp giữa các chi tộc. 4 Ðó là vì con cái ông Giu-se chia làm hai chi tộc: Mơ-na-se và Ép-ra-im; còn các người Lê-vi thì không nhận được vùng đất trong xứ, ngoại trừ các thành để ở, cùng với đồng cỏ cho súc vật và của cải thuộc về họ. 5 Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê thế nào, thì con cái Ít-ra-en làm như vậy: họ đã phân chia đất đai.

Phần đất của ông Ca-lếp

6 Con cái ông Giu-đa đến gần ông Giô-suê ở Ghin-gan. Ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, người Cơ-nát, nói với ông: "Ông biết lời Ðức Chúa đã phán với ông Mô-sê, người của Thiên Chúa, về tôi và về ông ở Ca-đê Bác-nê-a. 7 Tôi được bốn mươi tuổi khi ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, từ Ca-đê Bác-nê-a, sai tôi đi do thám xứ này, và tôi đã thật lòng báo cáo cho ông ấy. 8 Những người anh em cùng lên với tôi đã làm cho tâm thần của dân sợ hãi như muốn chảy tan ra. Nhưng tôi đã trọn tình trọn nghĩa với Ðức Chúa, Thiên Chúa của tôi. 9 Ngày ấy, ông Mô-sê đã thề rằng: "Ðất mà chân anh dẫm lên chắc chắn sẽ trở thành gia nghiệp của anh, của con cái anh cho đến muôn đời, vì anh đã trọn tình trọn nghĩa với Ðức Chúa, Thiên Chúa của tôi. 10 Và bây giờ, này Ðức Chúa đã để tôi sống như lời Người đã phán cách đây bốn mươi lăm năm, kể từ khi Ðức Chúa nói lời đó với ông Mô-sê, thuở Ít-ra-en còn đi trong sa mạc. Bây giờ, hôm nay đây tôi đã được tám mươi lăm tuổi. 11 Ngày hôm nay, tôi vẫn còn khoẻ như ngày ông Mô-sê sai tôi đi. Sức lực tôi xưa thế nào, bây giờ cũng vậy, để chiến đấu hay đi lại hoạt động. 12 Vậy giờ đây, xin cho tôi núi này, núi Ðức Chúa đã nói đến trong ngày ấy, vì ông đã nghe nói trong ngày ấy, là ở đấy có người A-nác và những thành trì kiên cố lớn lao. Nếu Ðức Chúa ở với tôi, tôi sẽ xua đuổi chúng, như Ðức Chúa đã phán."

13 Ông Giô-suê chúc phúc cho ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, và tặng Khép-rôn cho ông làm gia nghiệp cho đến ngày nay. 14 Vì thế, Khép-rôn đã thành gia nghiệp của ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, người Cơ-nát, vì ông đã trọn tình trọn nghĩa với Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en.

15 Ngày trước, tên của Khép-rôn là Kia-giát Ác-ba. Ác-ba là người cao lớn nhất trong dân A-nác.

Và xứ sở được sống yên hàn, hết nạn chiến tranh.

Chương 15

Chi tộc Giu-đa

1 Phần chi tộc con cái Giu-đa bắt thăm được, để chia cho các thị tộc của họ, nằm ở vùng giáp giới Ê-đôm trong sa mạc Xin, về phía nam, mãi tận cùng phía nam. 2 Ranh giới phía nam khởi sự từ cuối Biển Muối, chỗ biển ăn sâu vào phía nam, 3 đi về phía nam dốc Ác-ráp-bim, băng qua Xin, trở lên phía nam Ca-đê Bác-nê-a, rồi đi qua Khét-rôn, lên Át-đa và quay sang Các-ca, 4 sau đó băng qua Át-môn, tới Suối Ai-cập, và dừng lại ở biển. "Ðó sẽ là ranh giới phía nam của các ngươi.” 5 Ranh giới phía đông là Biển Muối cho đến cửa sông Gio-đan. Ranh giới phía bắc bắt đầu từ chỗ Biển Muối tiếp giáp với cửa sông Gio-đan, 6 đi lên Bết Khoóc-la, băng qua phía bắc Bết Ha A-ra-va, rồi lại đi lên tảng đá Bô-han, Bô-han là con ông Rưu-vên, 7 rồi đi lên Ðơ-via, từ cánh đồng A-kho, và ở phía bắc quay về Ghin-gan đối diện với dốc A-đum-mim nằm ở phía nam Suối, sau đó qua vùng nước Ên Se-mét, và đi tới Ên Rô-ghên, 8 kế đó lại đi lên thung lũng Ben Hin-nôm cho tới sườn đồi phía nam Giơ-vút, tức là Giê-ru-sa-lem. Ranh giới đó lên tận đỉnh núi đối diện với thung lũng Hin-nôm về phía tây, ở cực bắc cánh đồng Ra-pha, 9 sau đó, từ đỉnh núi, lượn về phía mạch nước Nép-tô-ác và đi về các thành vùng núi Ép-rôn, rồi lượn về phía Ba-a-la, tức là Kia-giát Giơ-a-rim. 10 Từ Ba-a-la, ranh giới đó quay sang phía tây đến núi Xê-ia, đi dọc theo sườn núi Giơ-a-rim phía bắc, tức là Cơ-xa-lôn, xuống tới Bết Se-mét và băng qua Tim-na, 11 rồi đi về sườn núi Éc-rôn phía bắc, sau đó lượn về phía Sích-ca-rôn, băng qua núi Ba-a-la, đến tận Giáp-nơ-ên và dừng lại ở biển.

12 Ranh giới phía tây là Biển Lớn và miền duyên hải. Ðó là ranh giới chung quanh phần đất con cái Giu-đa, chia theo các thị tộc của họ.

Con cái ông Ca-lếp chiếm đất Khép-rôn (Tl 1 :10 -15)

13 Người ta chia cho ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne một phần đất ở giữa con cái ông Giu-đa, theo mệnh lệnh Ðức Chúa ban cho ông Giô-suê: Kia-giát Ác-ba, tức là Khép-rôn, - Ác-ba là cha ông A-nác. 14 Ông Ca-lếp đã đuổi ra khỏi đó ba người con của ông A-nác: Sê-sai, A-khi-man và Tan-mai là con cháu ông A-nác. 15 Từ đó, ông lên đánh dân cư thành Ðơ-via. Tên của Ðơ-via trước kia là Kia-giát Xê-phe. 16 Ông Ca-lếp nói: "Ai đánh và chiếm được Kia-giát Xê-phe, thì tôi sẽ gả Ác-xa con gái tôi cho người ấy.” 17 Ót-ni-ên con ông Cơ-nát em ông Ca-lếp, đã chiếm được thành, và ông Ca-lếp đã gả Ác-xa con gái mình cho Ót-ni-ên. 18 Khi cô ta đến, Ót-ni-ên liền xúi cô xin cha một thửa ruộng. Cô xuống lừa, và ông Ca-lếp hỏi cô: "Chuyện gì thế con?” 19 Cô thưa: "Xin cha cho con một món quà. Vì cha đã cho con đất Ne-ghép, thì xin cũng cho con cả suối nước nữa." Và ông đã cho cô suối trên suối dưới.

20 Ðó là gia nghiệp của chi tộc con cái ông Giu-đa, theo các thị tộc của họ.

Danh sách các thành của chi tộc Giu-đa

21 Các thành ở cuối phần đất của chi tộc con cái Giu-đa, ở vùng giáp giới Ê-đôm trong miền Ne-ghép, là:

22 Ki-na, Ði-mô-na, Át-a-đa, 23 Ke-đét, Kha-xo, Gít-nan, 24 Díp, Te-lem, Bơ-a-lốt, 25 Kha-xo Kha-đát-ta, Cơ-ri-giốt, Khét-rôn tức là Kha-xo, 26 A-mam, Sơ-ma, Mô-la-đa, 27 Khát-xa Gát-đa, Khét-môn, Bết Pe-lét, 28 Khát-xa Su-an, Bơ-e Se-va, Bít-giốt-gia, 29 Ba-a-la, I-gim, E-xem, 30 En-tô-lát, Cơ-xin, Khoóc-ma, 31 Xích-lắc, Mát-man-na, Xan-xan-na, 32 Lơ-va-ốt, Sin-khim, A-gin, và Rim-môn: đó là hai mươi chín thành và làng mạc của các thành ấy.

33 Trong vùng Sơ-phê-la, thì có:

34 Da-nô-ác, Ên Gan-nim, Táp-pu-ác, Ha Ê-nam, 35 Giác-mút, A-đu-lam, Xô-khô, A-dê-ca, 36 Sa-a-ra-gim, A-đi-tha-gim, Ha Gơ-đê-ra và Gơ-đê-rô-tha-gim: đó là mười bốn thành và làng mạc của các thành ấy.

37 Xơ-nan, Kha-đa-xa, Mích-đan Gát, 38 Ði-lơ-an, Ha Mít-pê, Gióc-thơ-ên, 39 La-khít, Bót-cát, Éc-lon, 40 Cáp-bôn, Lác-mát, Kít-lít, 41 Gơ-đê-rốt, Bết Ða-gôn, Na-a-ma, Mác-kê-đa: đó là mười sáu thành và làng mạc của các thành ấy.

42 Líp-na, E-the, A-san, 43 Gíp-tác, Át-na, Nơ-xíp, 44 Cơ-i-la, Ác-díp, Ma-rê-sa: đó là chín thành và làng mạc của các thành ấy.

45 Éc-rôn với các thành phụ thuộc và làng mạc của các thành ấy, 46 từ Éc-rôn cho đến biển, tất cả những vùng bên cạnh Át-đốt và các làng mạc; 47 Át-đốt, các thành phụ thuộc và làng mạc của thành đó; Ga-da, các thành phụ thuộc và làng mạc của thành đó, cho đến Suối Ai-cập, Biển Lớn làm ranh giới.

48 Trong vùng núi thì có:

49 Ðan-na, Kia-giát Xan-na, tức là Ðơ-via, 50 A-náp, Ét-tơ-mô-a, A-nim, 51 Gô-sen, Khô-lôn và Ghi-lô: đó là mười một thành và làng mạc của các thành ấy.

52 A-ráp, Ðu-ma, Ét-an, 53 Gia-num, Bết Táp-pu-ác, A-phê-ca, 54 Khum-ta, Kia-giát Ác-ba, tức là Khép-rôn, Xi-o: đó là chín thành và làng mạc của các thành ấy.

55 Ma-ôn, Các-men, Díp, Giút-ta, 56 Gít-rơ-en, Gióc-đơ-am, Da-nô-ác, 57 Ha-ca-gin, Ghíp-a và Tim-na: đó là mười thành và làng mạc của các thành ấy.

58 Khan-khun, Bết Xua, Gơ-đo, 59 Ma-a-rát, Bết A-nốt và En-tơ-côn: đó là sáu thành và làng mạc của các thành ấy.

(Tơ-cô-a, Ép-ra-tha tức là Bê-lem, Pơ-o, Ê-tham, Cu-lon, Ta-tam, Xo-rét, Ke-rem, Ga-lim, Be-the và Ma-na: đó là mười một thành và làng mạc của các thành ấy.)

60 Kia-giát Ba-an tức là Kia-giát Giơ-a-rim, Ha Ráp-ba: đó là hai thành và làng mạc của các thành ấy.

61 Trong sa mạc thì có:

Bết Ha A-ra-va, Mít-đin, Xơ-kha-kha, 62 Níp-san, Thành Muối và Ên Ghe-đi: đó là sáu thành và làng mạc của các thành ấy.

63 Nhưng con cái ông Giu-đa đã không thể xua đuổi được người Giơ-vút ở tại Giê-ru-sa-lem. Người Giơ-vút ở với con cái ông Giu-đa, tại Giê-ru-sa-lem cho đến ngày nay.

Chương 16

Con cái ông Giu-se

1 Phần con cái ông Giu-se bắt thăm được khởi đầu từ sông Gio-đan đối diện với Giê-ri-khô, đến vùng nước Giê-ri-khô, về phía đông, băng qua sa mạc từ Giê-ri-khô lên đến núi Bết Ên, 2 rồi từ Bết Ên, tới Lút và đi về phía ranh giới của người Ác-ki ở A-ta-rốt, 3 sau đó xuống phía tây, hướng tới ranh giới của người Giáp-lết, cho đến ranh giới Bết Khô-rôn Hạ và đến Ghe-de, rồi dừng lại ở biển. 4 Ðó là gia nghiệp của hai con ông Giu-se là Mơ-na-se và Ép-ra-im.

Chi tộc Ép-ra-im

5 Ranh giới con cái Ép-ra-im theo các thị tộc của họ, ranh giới phần gia nghiệp của họ phía đông là từ Át-rốt Át-đa cho đến Bết Khô-rôn Thượng. 6 Ranh giới đó đi tới biển, phía bắc có Mích-mơ-thát, phía đông hướng về Ta-a-nát Si-lô, rồi băng qua đó, đi về phía đông Gia-nô-ác. 7 Từ Gia-nô-ác, ranh giới đó đi xuống A-ta-rốt và Na-a-ra, gặp Giê-ri-khô, và đi tới sông Gio-đan. 8 Từ Táp-pu-ác, ranh giới đó tiến về suối Ca-na ở mạn tây, rồi dừng lại ở biển. Ðó là gia nghiệp của chi tộc con cái Ép-ra-im, theo các thị tộc của họ, 9 ngoài ra còn có những thành dành cho con cái Ép-ra-im nằm giữa gia nghiệp con cái Mơ-na-se: tất cả những thành và làng mạc của các thành ấy. 10 Nhưng họ đã không xua đuổi được người Ca-na-an ở tại Ghe-de. Người Ca-na-an ở lại giữa Ép-ra-im cho đến ngày nay, nhưng phải lo làm việc khổ sai.

Chương 17

Chi tộc Mơ-na-se

1 Vì ông Mơ-na-se là con đầu lòng ông Giu-se nên phần chi tộc Mơ-na-se bắt thăm được thì thuộc về ông Ma-khia, con đầu lòng ông Mơ-na-se, và là cha ông Ga-la-át; vì là một chiến sĩ, ông đã nhận được miền Ga-la-át và Ba-san. 2 Rồi đến phần các con khác của ông Mơ-na-se, chia theo các thị tộc của họ: con cái ông A-vi-e-de, con cái ông Khê-léc, con cái ông Át-ri-ên, con cái ông Se-khem, con cái ông Khê-phe, con cái ông Sơ-mi-đa. Ðó là các con trai, con cái ông Mơ-na-se, cháu ông Giu-se, theo các thị tộc của họ. 3 Ông Xơ-lóp-khát, con ông Khê-phe, cháu ông Ga-la-át, chắt ông Ma-khia, chít ông Mơ-na-se, không có con trai mà chỉ có con gái, đây là tên các cô: Mác-la, Nô-a, Khoóc-la, Min-ca và Tia-xa. 4 Các cô đến gặp tư tế E-la-da, ông Giô-suê, con ông Nun, và đến gặp các thủ lãnh, rồi thưa: "Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê phải cho chúng tôi một phần gia nghiệp ở giữa anh em chúng tôi." Theo mệnh lệnh của Ðức Chúa, người ta trao cho các cô một phần gia nghiệp ở giữa các anh em của cha các cô. 5 Vậy ông Mơ-na-se bắt trúng thăm, nhận được mười phần đất, không kể miền Ga-la-át và Ba-san ở bên kia sông Gio-đan. 6 Thật thế, các con gái thuộc chi tộc Mơ-na-se nhận được một phần gia nghiệp ở giữa các con trai trong chi tộc. Còn miền Ga-la-át thì thuộc về những con trai khác trong chi tộc Mơ-na-se.

7 Ranh giới của chi tộc Mơ-na-se, giáp giới phần đất A-se, bắt đầu từ Mích-mơ-thát đối diện với Si-khem, rồi đi về phía nam tới chỗ dân Ên Táp-pu-ác ở. 8 Xứ Táp-pu-ác thuộc về Mơ-na-se, nhưng thành Táp-pu-ác nằm ở ranh giới Mơ-na-se thì thuộc về con cái Ép-ra-im. 9 Sau đó, ranh giới ấy đi xuống phía suối Ca-na; phía nam suối có những thành thuộc về Ép-ra-im, các thành này nằm giữa các thành của Mơ-na-se. Ranh giới của Mơ-na-se thì ở phía bắc suối và dừng lại ở biển. 10 Phía nam thuộc về Ép-ra-im; còn phía bắc thuộc về Mơ-na-se có biển làm ranh giới, bắc giáp A-se và đông giáp Ít-xa-kha. 11 Trong phần đất của Ít-xa-kha và A-se, chi tộc Mơ-na-se còn có Bết San và các thành phụ thuộc, Gíp-lơ-am và các thành phụ thuộc; chi tộc đó cũng có các dân cư thành Ðo và các thành phụ thuộc, các dân cư thành Ên Ðo và các thành phụ thuộc, các dân cư thành Ta-nác và các thành phụ thuộc, các dân cư thành Mơ-ghít-đô và các thành phụ thuộc, và một phần ba thành Ne-phét. 12 Nhưng con cái ông Mơ-na-se đã không thể chiếm được các thành đó, và người Ca-na-an quyết ở lại trong xứ. 13 Tuy nhiên, khi trở nên hùng mạnh, con cái Ít-ra-en bắt người Ca-na-an phải lo làm việc khổ sai, nhưng không thể đuổi chúng đi được.

Con cái ông Giu-se khiếu nại

14 Con cái ông Giu-se nói với ông Giô-suê: "Tại sao ông cho (chúng) tôi chỉ được bắt thăm có một lần, chỉ được một phần đất làm gia nghiệp, trong khi (chúng) tôi là một dân đông đảo? Cho đến bây giờ, Ðức Chúa vẫn ban phúc lành cho (chúng) tôi."15 Ông Giô-suê nói: "Nếu anh (em) là một dân đông đảo, thì hãy lên rừng, và tại đó, đốn cây mà ở trong xứ người Pơ-rít-di và Ra-pha, vì núi Ép-ra-im quá nhỏ đối với anh (em).” 16 Con cái ông Giu-se nói: "Ở núi không có đủ chỗ cho chúng tôi; vả lại, mọi người Ca-na-an ở đồng bằng, cũng như người Ca-na-an ở Bết San và ở các thành phụ thuộc, và người Ca-na-an ở cánh đồng Gít-rơ-en đều có xe sắt.” 17 Ông Giô-suê nói với nhà Giu-se, với Ép-ra-im và Mơ-na-se: "Anh em là một dân đông đảo và hùng mạnh. Anh (em) không chỉ bắt thăm được một phần đất mà thôi. 18 Anh (em) sẽ nhận được một ngọn núi, đó là một khu rừng và anh (em) sẽ đốn cây đi; anh (em) sẽ kiểm soát được các lối ra vào, bởi vì anh (em) sẽ đuổi người Ca-na-an đi, mặc dầu chúng có xe (sắt) và mạnh mẽ.

Chương 18

4. Bảy Chi Tộc Khác

Chia đất cho bảy chi tộc khác

1 Toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en tụ họp ở Si-lô, nơi họ đặt Lều Hội Ngộ. Xứ sở phải khuất phục họ. 2 Trong số con cái Ít-ra-en, chỉ còn bảy chi tộc chưa nhận phần gia nghiệp của họ. 3 Ông Giô-suê nói với con cái Ít-ra-en: "Cho đến bao giờ anh em còn lơ là không đi chiếm xứ mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, đã ban cho anh em? 4 Anh em hãy chỉ định ba người trong mỗi chi tộc. Tôi sẽ sai họ đi, họ sẽ lên đường rảo khắp xứ và phác hoạ địa hình để chia phần gia nghiệp, rồi trở lại với tôi. 5 Họ sẽ phân chia xứ sở làm bảy vùng đất. Giu-đa sẽ ở lại trong lãnh thổ của mình ở phía nam, còn nhà Giu-se sẽ ở lại trong lãnh thổ của mình ở phía bắc. 6 Anh em sẽ phác hoạ địa hình xứ sở đã chia làm bảy vùng đất, rồi đem lại đây cho tôi. Chính tại đây, tôi sẽ cho anh em bắt thăm trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta. 7 Các người thuộc chi tộc Lê-vi sẽ không có phần ở giữa anh em, vì chức tư tế Ðức Chúa ban cho họ làm phần gia nghiệp của họ. Còn Gát và Rưu-vên và nửa chi tộc Mơ-na-se thì đã nhận phần gia nghiệp của họ ở bên kia sông Gio-đan, bên phía đông, phần gia nghiệp mà ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, đã cho họ."

8 Những người đó trỗi dậy và đi. Ông Giô-suê đã truyền cho những người đi phác hoạ địa hình của xứ và nói: "Anh em hãy đi rảo khắp xứ và phác hoạ địa hình, rồi trở lại với tôi. Chính tại đây tôi sẽ cho anh em bắt thăm trước nhan Ðức Chúa, tại Si-lô.” 9 Những người ấy đi khắp nơi trong xứ, phác hoạ địa hình, phân chia các thành trong xứ làm bảy vùng đất và ghi vào sổ, rồi trở về với ông Giô-suê ở trại Si-lô. 10 Ông Giô-suê cho họ bắt thăm tại Si-lô, trước nhan Ðức Chúa, và ở đó ông Giô-suê chia đất đai cho con cái Ít-ra-en, theo các phần đã phân phối.

Chi tộc Ben-gia-min

11 Trước hết, chi tộc con cái Ben-gia-min, theo các thị tộc của họ, bắt thăm được một phần đất. Phần đất họ bắt thăm được nằm giữa phần đất con cái Giu-đa và con cái Giu-se. 12 Ranh giới phía bắc khởi đầu từ sông Gio-đan, đi lên sườn phía bắc Giê-ri-khô, rồi lên núi về phía tây và dừng lại ở sa mạc Bết A-ven. 13 Từ đó, ranh giới ấy đi về phía Lút, ở sườn phía nam, tức là Bết Ên, rồi xuống Át-rốt Át-đa, trên ngọn núi ở phía nam Bết Khô-rôn Hạ. 14 Sau đó, ranh giới lượn vòng và quay sang phía tây, hướng về phía nam từ núi đối diện với Bết Khô-rôn ở phía nam, rồi dừng lại ở Kia-giát Ba-an, tức là Kia-giát Giơ-a-rim, thành của con cái Giu-đa. Ðó là phía tây. 15 Về phía nam, từ tận cùng Kia-giát Giơ-a-rim, ranh giới tiến về phía tây, tới mạch nước Nép-tô-ác. 16 Ranh giới đi xuống cho đến hết ngọn núi đối diện với thung lũng Ben Hin-nôm nằm trong cánh đồng Ra-pha ở phía bắc, rồi đi xuống thung lũng Hin-nôm, bên sườn Giơ-vút ở phía nam, và đi xuống Ên Rô-ghên. 17 Sau đó, ranh giới lượn về phía bắc và tới Ên Se-mét, rồi tiến về Gơ-li-lót đối điện với dốc A-đum-mim, đi xuống tảng đá Bô-han, Bô-han là con ông Rưu-vên. 18 Ranh giới lại đi qua sườn phía bắc đối diện với A-ra-va và đi xuống A-ra-va. 19 Rồi ranh giới đi qua sườn bắc Bết Khoóc-la, dừng lại ở chỗ Biển Muối về phía bắc tiếp giáp với cửa sông Gio-đan về phía nam. Ðó là ranh giới phía nam. 20 Sông Gio-đan làm thành ranh giới phía đông. Ðó là phần gia nghiệp của con cái Ben-gia-min với ranh giới chung quanh, chia theo các thị tộc của họ.

Các thành của chi tộc Ben-gia-min

21 Các thành của chi tộc con cái Ben-gia-min, theo các thị tộc của họ, là như sau: Giê-ri-khô, Bết Khoóc-la, Ê-méc Cơ-xít, 22 Bết Ha A-ra-va, Xơ-ma-ra-gim, 23 Bết Ên A-vim, Pa-ra, Óp-ra, 24 Cơ-pha Ha Am-mô-ni, Óp-ni, Ghe-va, - đó là mười hai thành và làng mạc của các thành ấy - 25 Ghíp-ôn, Ra-ma, Bơ-ê-rốt, 26 Ha Mít-pê, Cơ-phi-ra, Mốt-xa, 27 Re-kem, Giếc-pơ-ên, Ta-ra-la, 28 Xê-la Ha-e-lép, Giơ-vút, tức là Giê-ru-sa-lem, Ghíp-át, Kia-giát - đó là mười bốn thành và làng mạc của các thành ấy -. Ðó là phần gia nghiệp của con cái Ben-gia-min, chia theo các thị tộc của họ.

Chương 19

Chi tộc Si-mê-ôn

1 Ông Si-mê-ôn và chi tộc con cái Si-mê-ôn, tính theo các thị tộc của họ, bắt thăm được phần thứ hai; phần gia nghiệp của họ nằm giữa phần gia nghiệp con cái Giu-đa. 2 Phần gia nghiệp của họ gồm có: Bơ-e Se-va, Se-va, Mô-la-đa, 3 Khát-xa Su-an, Ba-la, E-xem, 4 En-tô-lát, Bơ-thun, Khoóc-ma, 5 Xích-lắc, Bết Ha Mác-ca-vốt, Kha-xa Xu-xa, 6 Bết Lơ-va-ốt, Sa-ru-khen, - đó là mười ba thành và làng mạc của các thành ấy -, 7 A-gin, Rim-môn, E-the, A-san, - đó là bốn thành và làng mạc của các thành ấy -, 8 Cũng như mọi làng mạc chung quanh các thành đó cho đến Ba-a-lát Bơ-e và Ra-mát Ne-ghép. Ðó là phần gia nghiệp của chi tộc con cái Si-mê-ôn, chia theo các thị tộc của họ. 9 Phần gia nghiệp của con cái Si-mê-ôn lấy từ phần đất của con cái Giu-đa, vì vùng đất này quá lớn đối với con cái Giu-đa, nên con cái Si-mê-ôn nhận phần gia nghiệp ngay giữa gia nghiệp của con cái Giu-đa.

Chi tộc Dơ-vu-lun

10 Con cái Dơ-vu-lun, theo các thị tộc của họ, bắt thăm được phần đất thứ ba. Ranh giới phần gia nghiệp của họ đi đến tận Xa-rít, 11 đi lên về phía tây, theo hướng Mác-a-la, gặp Ðáp-be-sét, rồi gặp suối đối diện với Gióc-nơ-am. 12 Từ Xa-rít, ranh giới đó trở về hướng đông, phía mặt trời mọc, cho đến ranh giới Kít-lốt Ta-bo, tiến về Ða-vơ-rát và lên Gia-phia. 13 Từ đó, ranh giới qua hướng đông, phía mặt trời mọc, ở Gát Khê-phe, ở Ít-ta Ca-xin, đi tới Rim-môn và lượn về Nê-a. 14 Rồi ranh giới quay sang phía bắc Khan-na-thôn và dừng lại ở thung lũng Gíp-tác Ên. 15 Ngoài ra, còn có Cát-tát, Na-ha-lan, Sim-rôn, Gít-a-la và Bê-lem: đó là mười hai thành và làng mạc của các thành ấy. 16 Các thành ấy và làng mạc của các thành ấy là phần gia nghiệp của con cái Dơ-vu-lun, chia theo các thị tộc của họ.

Chi tộc Ít-xa-kha

17 Ông Ít-xa-kha và con cái ông, theo các thị tộc của họ bắt thăm được phần đất thứ tư. 18 Lãnh thổ của họ gồm có: Gít-rơ-en, Cơ-xu-lốt, Su-nêm, 19 Kha-pha-ra-gim, Si-ôn, A-na-kha-rát, 20 Ha Ráp-bít, Kít-giôn, E-vét, 21 Re-mét, Ên Gan-nim, Ên Khát-đa, Bết Pát-xết. 22 Ranh giới gặp Ta-bo, Sa-kha-xi-ma và Bết Se-mét, rồi dừng lại ở sông Gio-đan: đó là mười sáu thành và làng mạc của các thành ấy. 23 Các thành ấy và làng mạc của các thành ấy là phần gia nghiệp của chi tộc con cái Ít-xa-kha, chia theo các thị tộc của họ.

Chi tộc A-se

24 Chi tộc con cái A-se, theo các thị tộc của họ, bắt thăm được phần đất thứ năm. 25 Lãnh thổ của họ gồm có: Khen-cát, Kha-li, Be-ten, Ác-sáp, 26 A-lam-me-léc, Am-át, Mi-sơ-an. Ranh giới đó gặp Các-men về phía tây và gặp Si-kho Líp-nát, 27 rồi lui về phía mặt trời mọc đến Bết Ða-gôn, gặp phần đất của Dơ-vu-lun và thung lũng Gíp-tác Ên ở phía bắc, Bết Ha Ê-méc và Nơ-i-ên; ranh giới đó tiến về Ca-vun ở phía trái, 28 tới Ép-rôn, Rơ-khốp, Kham-môn, Ca-na, cho đến Xi-đôn Ðại Ðô. 29 Rồi ranh giới đó quay về Ra-ma, cho đến Tia, một thành luỹ kiên cố, sau đó lại quay về Khô-xa và dừng lại ở Biển, ở Mê-khe-ven, Ác-díp, 30 Um-ma, A-phếch và Rơ-khốp: đó là hai mươi thành và các làng mạc của các thành ấy. 31 Các thành ấy và làng mạc của các thành ấy là phần gia nghiệp của chi tộc con cái A-se, chia theo các thị tộc của họ.

Chi tộc Náp-ta-li

32 Con cái Náp-ta-li, theo các thị tộc của họ, bắt thăm được phần đất thứ sáu. 33 Ranh giới của họ khởi đầu từ Khê-lép, từ cây Sồi ở Xa-a-nan-nim, đi qua A-đa-mi Ha Ne-kép và Giáp-nơ-ên cho đến Lắc-cum, và dừng lại ở sông Gio-đan. 34 Rồi ranh giới đó quay về phía tây, đi qua Át-nốt Ta-vô, và từ đó đi tới Khu-cốc, gặp phần đất của Dơ-vu-lun ở phía nam, gặp phần đất của A-se ở phía tây và sông Gio-đan ở phía mặt trời mọc. 35 Các thành luỹ kiên cố là: Hát-xít-đim, Xe, Kham-mát, Rắc-cát, Kin-ne-rét, 36 A-đa-ma, Ra-ma, Kha-xo, 37 Ke-đét, Ét-re-i, Ên Kha-xo, 38 Giếc-ôn, Mích-đan Ên, Kho-rem, Bết A-nát, Bết Se-mét: đó là mười chín thành và làng mạc của các thành ấy. 39 Các thành ấy và các làng mạc của các thành ấy là phần gia nghiệp của chi tộc con cái Náp-ta-li, chia theo các thị tộc của họ.

Chi tộc Ðan

40 Chi tộc con cái Ðan, theo các thị tộc của họ, bắt thăm được phần đất thứ bảy. 41 Lãnh thổ của phần gia nghiệp họ gồm có: Xo-rơ-a, Ét-ta-ôn, Ia Se-mét, 42 Sa-a-láp-bin, Ai-gia-lôn, Gít-la, 43 Ê-lôn, Tim-na, Éc-rôn, 44 En-tơ-kê, Ghíp-bơ-thôn, Ba-a-lát, 45 Giơ-hút, Bơ-nê Bơ-rắc, Gát Rim-môn, 46 vùng nước Giác-côn, Rắc-côn, cùng với lãnh thổ đối diện với Gia-phô. 47 Nhưng con cái Ðan vượt quá lãnh thổ của họ. Quả thế, con cái Ðan tiến lên đánh Le-sem, chiếm thành này và dùng lưỡi gươm giết chết cả thành. Họ chiếm thành và ở tại đó. Họ gọi Le-sem là Ðan, lấy tên Ðan, cha của họ, mà đặt cho thành đó.

48 Các thành ấy và làng mạc của các thành ấy là phần gia nghiệp của chi tộc con cái Ðan, chia theo các thị tộc của họ.

49 Khi đã chia xong đất đai theo ranh giới thành những phần gia nghiệp, con cái Ít-ra-en tặng ông Giô-suê, con ông Nun, một phần gia nghiệp giữa họ. 50 Theo mệnh lệnh của Ðức Chúa, họ tặng ông thành mà ông đã xin, là Tim-nát Xe-rác, trong vùng núi Ép-ra-im: ông xây lại thành và ở tại đó.

5. Kết Luận Về Việc Phân Chia Ðất Ðai

51 Ðó là các phần gia nghiệp mà tư tế E-la-da, ông Giô-suê, con ông Nun, và các thủ lãnh gia tộc của các chi tộc con cái Ít-ra-en đã dùng cách bắt thăm mà chia cho họ ở Si-lô, trước nhan Ðức Chúa, tại cửa Lều Hội Ngộ. Như thế, họ đã làm xong việc phân chia đất đai.

Chương 20

6. Các Thành Ðặc Biệt

Các thành trú ẩn

1 Ðức Chúa phán với ông Giô-suê: 2 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en: Các ngươi hãy chỉ định cho mình những thành trú ẩn, như Ta đã dùng Mô-sê làm trung gian mà phán với các ngươi. 3 Một kẻ sát nhân đã làm thiệt mạng một người vì vô ý, vì lầm lẫn, sẽ có thể đến đó nương náu; những thành ấy sẽ là nơi các ngươi trú ẩn để thoát khỏi tay người đòi nợ máu. 4 Kẻ sát nhân sẽ tới một trong các thành ấy mà nương náu, đứng ở lối vào cổng thành và trình cho các kỳ mục trong thành nghe sự việc của mình; những người này sẽ nhận nó vào thành ở với họ, và chỉ cho nó một nơi cư ngụ giữa họ. 5 Nếu người đòi nợ máu lùng bắt kẻ sát nhân, thì họ sẽ không nộp nó vào tay người ấy, vì kẻ sát nhân đã làm thiệt mạng người thân cận do lầm lẫn, chứ không phải vì trước kia đã có hận thù với người này. 6 Kẻ sát nhân sẽ ở trong thành này cho đến khi ra trước cộng đồng để chịu xét xử, hay cho đến khi thượng tế đương chức qua đời. Khi đó kẻ sát nhân có thể trở về thành, về nhà của nó, về thành nó đã bỏ trốn."

7 Người ta đã thánh hiến Ke-đét ở Ga-li-lê trong miền núi Náp-ta-li, Si-khem trong miền núi Ép-ra-im, và Kia-giát Ác-ba, tức là Khép-rôn trong miền núi Giu-đa. 8 Và bên kia sông Gio-đan đối diện với Giê-ri-khô, về phía đông, người ta chọn Be-xe thuộc chi tộc Rưu-vên trong sa mạc, trên vùng cao nguyên, chọn Ra-mốt thuộc chi tộc Gát, trong vùng Ga-la-át, và Gô-lan thuộc chi tộc Mơ-na-se trong vùng Ba-san. 9 Ðó là những thành chỉ định cho mọi con cái Ít-ra-en và người ngoại kiều ở giữa họ, để phàm ai đã vô ý làm thiệt mạng người nào, thì có thể tới đó nương náu và khỏi phải chết do tay người đòi nợ máu, cho đến khi ra trước mặt cộng đồng.

Chương 21

Các thành của người Lê-vi

1 Những người đứng đầu các gia tộc Lê-vi tới gặp tư tế E-la-da, ông Giô-suê con ông Nun, và những người đứng đầu gia tộc của các chi tộc con cái Ít-ra-en, 2 Si-lô trong đất Ca-na-an, và thưa rằng: "Ðức Chúa đã dùng ông Mô-sê làm trung gian mà truyền phải cấp cho chúng tôi những thành để ở, những đồng cỏ cho thú vật của chúng tôi.” 3 heo lệnh của Ðức Chúa, con cái Ít-ra-en đã lấy một phần gia nghiệp của họ mà cho những người Lê-vi các thành sau đây và đồng cỏ phụ thuộc. 4 ác thị tộc người Cơ-hát bắt thăm được phần của mình: con cái tư tế A-ha-ron, trong số những người Lê-vi, được mười ba thành thuộc các chi tộc Giu-đa, Si-mê-ôn và Ben-gia-min. 5 Còn những người con khác của ông Cơ-hát thì bắt thăm được mười thành thuộc những thị tộc của các chi tộc Ép-ra-im, Ðan và một nửa chi tộc Mơ-na-se. 6 Các con ông Ghéc-sôn bắt thăm được mười ba thành thuộc những thị tộc của các chi tộc Ít-xa-kha, A-se, Náp-ta-li và một nửa chi tộc Mơ-na-se ở Ba-san. 7 Các con ông Mơ-ra-ri, theo các thị tộc của họ, được mười hai thành thuộc chi tộc Rưu-vên, chi tộc Gát và chi tộc Dơ-vu-lun.

8 Con cái Ít-ra-en đã dùng cách bắt thăm mà cấp cho các người Lê-vi những thành này cùng với các đồng cỏ, như Ðức Chúa đã truyền qua trung gian ông Mô-sê.

Phần dành cho người Cơ-hát

9 Con cái Ít-ra-en đã lấy của chi tộc con cái Giu-đa và chi tộc con cái Si-mê-ôn mà cấp cho các người Lê-vi những thành được chỉ đích danh sau đây. 10 Ðó là phần của con cái A-ha-ron thuộc các thị tộc Cơ-hát, trong hàng con cái Lê-vi, vì họ đã bắt thăm được phần đầu tiên. 11 Người ta cấp cho họ Kia-giát Ác-ba, tức là Khép-rôn, -Ác-ba là cha ông A-nác-, trong miền núi Giu-đa và các đồng cỏ chung quanh. 12 Còn đồng ruộng và làng mạc phụ thuộc, thì người ta cấp cho ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, làm sở hữu. 13 Người ta cấp cho con cái tư tế A-ha-ron thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Khép-rôn với các đồng cỏ, cũng như Líp-na với các đồng cỏ, 14 Giát-tia với các đồng cỏ, Ét-tơ-mô-a với các đồng cỏ, 15 Khô-lôn với các đồng cỏ, Ðơ-via với các đồng cỏ, 16 A-gin với các đồng cỏ, Giút-ta với các đồng cỏ, Bết Se-mét với các đồng cỏ: đó là chín thành thuộc hai chi tộc ấy. 17 Người ta lấy của chi tộc Ben-gia-min mà cấp cho họ bốn thành: Ghíp-ôn với các đồng cỏ, Ghe-va với các đồng cỏ, 18 A-na-thốt với các đồng cỏ, An-môn với các đồng cỏ. 19 Tổng số các thành của các tư tế con cái ông A-ha-ron là mười ba thành với các đồng cỏ.

20 Còn các thị tộc con cái Cơ-hát, những người Lê-vi còn lại trong số con cái Cơ-hát, thì bắt thăm được các thành thuộc chi tộc Ép-ra-im. 21 Người ta cấp cho họ thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Si-khem với các đồng cỏ, trong vùng núi Ép-ra-im, Ghe-de với các đồng cỏ, 22 Kíp-xa-gim với các đồng cỏ, Bết Khô-rôn với các đồng cỏ: bốn thành. 23 Người ta lấy của chi tộc Ðan mà cấp cho họ bốn thành: En-tơ-kê với các đồng cỏ, Ghíp-bơ-thôn với các đồng cỏ, 24 Ai-gia-lôn với các đồng cỏ, Gát Rim-môn với các đồng cỏ. 25 Người ta lấy của một nửa chi tộc Mơ-na-se mà cấp cho họ hai thành: Ta-nác với các đồng cỏ, Gíp-lơ-am với các đồng cỏ. 26 Tổng số là mười thành với các đồng cỏ cho các thị tộc còn lại của con cái Cơ-hát.

Phần dành cho các con ông Ghéc-sôn

27 Phần dành cho các con ông Ghéc-sôn, thuộc các thị tộc Lê-vi, lấy của một nửa chi tộc Mơ-na-se thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Gô-lan ở Ba-san với các đồng cỏ, cũng như Bơ-ét-tơ-ra với các đồng cỏ: hai thành. 28 Người ta lấy của chi tộc Ít-xa-kha mà cấp cho họ bốn thành: Kít-giôn với các đồng cỏ, Ða-vơ-rát với các đồng cỏ, 29 Giác-mút với các đồng cỏ, Ên Gan-nim với các đồng cỏ. 30 Người ta lấy của chi tộc A-se mà cấp cho họ bốn thành: Mi-sơ-an với các đồng cỏ, Áp-đôn với các đồng cỏ, 31 Khen-cát với các đồng cỏ, Rơ-khốp với các đồng cỏ. 32 Người ta lấy của chi tộc Náp-ta-li mà cấp cho họ ba thành: thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Ke-đét ở Ga-li-lê với các đồng cỏ, Kham-mốt Ðo với các đồng cỏ, Các-tan với các đồng cỏ. 33 Tổng số các thành của người Ghéc-sôn theo các thị tộc của họ là mười ba thành với các đồng cỏ.

Phần dành cho các con ông Mơ-ra-ri

34 Phần dành cho các thị tộc con cái Mơ-ra-ri, các người Lê-vi còn lại, thì người ta lấy của chi tộc Dơ-vu-lun bốn thành: Gióc-nơ-am với các đồng cỏ, Các-ta với các đồng cỏ, 35 Ðim-na với các đồng cỏ, Na-ha-lan với các đồng cỏ. 36 Ở bên kia sông Gio-đan, người ta lấy của chi tộc Rưu-vên mà cấp cho họ bốn thành: thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Be-xe trong sa-mạc, trên vùng cao nguyên, với các đồng cỏ, Gia-hát với các đồng cỏ, 37 Cơ-đê-mốt với các đồng cỏ, Mê-pha-át với các đồng cỏ. 38 Người ta lấy của chi tộc Gát mà cấp cho họ tất cả là bốn thành: thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Ra-mốt tại Ga-la-át với các đồng cỏ, Ma-kha-na-gim với các đồng cỏ, 39 Khét-bôn với các đồng cỏ, Gia-de với các đồng cỏ. 40 Tổng số các thành dành cho con cái Mơ-ra-ri theo các thị tộc của họ, cho các thị tộc Lê-vi còn lại, các thành họ bắt thăm được, là mười hai thành.

41 Tổng số các thành của người Lê-vi ở giữa các sở hữu của con cái Ít-ra-en là bốn mươi tám thành và đồng cỏ phụ thuộc. 42 Mỗi thành trong số các thành đó gồm có nội thành và đồng cỏ chung quanh. Tất cả mọi thành đó đều như thế.

7. Tổng Kết Về Việc Phân Chia Ðất Ðai

Kết luận về việc phân chia đất đai

43 Ðức Chúa đã ban cho Ít-ra-en toàn miền đất mà Người đã thề là sẽ ban cho cha ông họ. Họ đã chiếm được đất ấy và ở tại đó. 44 Ðức Chúa cho họ được thảnh thơi mọi bề, đúng như Người đã thề với cha ông họ. Trong số mọi địch thù, không ai chống nổi họ. Ðức Chúa đã nộp mọi địch thù vào tay họ. 45 Trong mọi lời tốt lành Ðức Chúa đã phán với nhà Ít-ra-en, không một lời nào ra vô hiệu: mọi lời đều ứng nghiệm.

Chương 22

III. Cuối Ðời Ông Giô-Suê

1. Các Chi Tộc Bên Kia Sông Gio-Ðan Trở Về.

Vấn Ðề Bàn Thờ Của Họ.

Ðưa quân của các chi tộc bên kia sông Gio-đan trở về

1 Bấy giờ, ông Giô-suê triệu tập những người thuộc các chi tộc Rưu-vên, Gát và một nửa chi tộc Mơ-na-se lại 2 và nói: "Anh em đã tuân giữ tất cả những gì ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, đã truyền cho anh em, và anh em đã nghe lời tôi mỗi khi tôi ra lệnh truyền cho anh em. 3 Cho đến nay, đã nhiều ngày rồi, anh em đã không bỏ rơi anh em mình, và anh em đã cẩn thận giữ mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em. 4 Giờ đây, Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã ban cho anh em của anh em được an cư lạc nghiệp, như Người đã phán với họ. Vậy bây giờ anh em hãy quay lại và đi về lều trại của anh em, trong phần đất thuộc quyền sở hữu của anh em, mà ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, đã ban cho anh em bên kia sông Gio-đan. 5 Tuy nhiên, anh em hãy hết sức cẩn thận thi hành mệnh lệnh và Lề Luật mà ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, đã truyền cho anh em: đó là yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người, giữ các mệnh lệnh của Người, gắn bó với Người và phụng sự Người hết lòng, hết linh hồn anh em.” 6 Ông Giô-suê chúc phúc cho họ và tiễn họ về lều trại của họ.

7 Ông Mô-sê đã cấp cho nửa chi tộc Mơ-na-se một phần đất ở Ba-san; ông Giô-suê cấp cho nửa chi tộc kia một phần đất khác ở giữa anh em của họ bên kia sông Gio-đan, về phía tây. Khi tiễn chân họ trở về lều trại của họ, ông Giô-suê cũng chúc phúc cho họ 8 và nói: "Anh em hãy trở về lều trại mình với những tài sản lớn, với đoàn súc vật hết sức đông đúc, với bạc, vàng, đồng và sắt, với quần áo nhiều vô kể. Anh em hãy chia cho anh em mình chiến lợi phẩm lấy được của địch thù."

Xây bàn thờ trên bờ sông Gio-đan

9 Con cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se, từ giã con cái Ít-ra-en ở Si-lô, trong đất Ca-na-an, mà lên đường trở về xứ Ga-la-át trong phần đất thuộc quyền sở hữu của họ, đất họ đã chiếm làm của riêng, theo lệnh của Ðức Chúa mà ông Mô-sê đã truyền lại. 10 Khi đến vùng sông Gio-đan thuộc đất Ca-na-an, con cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se xây ở đó một bàn thờ bên bờ sông Gio-đan, một bàn thờ trông đồ sộ.

11 Nghe tin đó, con cái Ít-ra-en nói: "Này con cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se đã xây bàn thờ đối diện với đất Ca-na-an, trong vùng sông Gio-đan, quay về phía con cái Ít-ra-en.” 12 Nghe tin đó, toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en tụ họp ở Si-lô để tiến lên đánh họ.

Con cái Ít-ra-en trách móc các chi tộc ở phía tây

13 Con cái Ít-ra-en cử người đến gặp con cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se ở xứ Ga-la-át. Ðó là ông Pin-khát, con của tư tế E-la-da 14 và mười thủ lãnh cùng đi với ông, mỗi gia tộc trong mọi chi tộc Ít-ra-en một thủ lãnh. Mỗi người đều đứng đầu gia tộc trong hàng ngũ Ít-ra-en. 15 Khi đến với con cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se ở miền Ga-la-át, họ nói rằng: 16 "Toàn thể cộng đồng của Ðức Chúa đã nói thế này: Hôm nay anh em đã đắc tội với Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, và phản bội Người, khi xây cho mình một bàn thờ. Hôm nay anh em đã nổi lên chống lại Người. Sao lại có chuyện bất trung như vậy?

17 Chúng ta đã phạm tội ở Pơ-o, như vậy chưa đủ sao? Cho đến ngày nay, chúng ta chưa gột rửa được hết tội đó, mặc dầu tai ương đã giáng xuống cộng đồng của Ðức Chúa, 18 mà hôm nay anh em lại phản bội Ðức Chúa! Nếu hôm nay anh em nổi loạn chống Ðức Chúa, thì ngày mai Người sẽ nổi cơn thịnh nộ với toàn thể cộng đồng Ít-ra-en.

19 Nếu phần đất thuộc quyền sở hữu của anh em là đất ô uế, anh em hãy qua bên vùng đất thuộc quyền sở hữu của Ðức Chúa, nơi đặt Nhà Tạm của Ðức Chúa. Anh em hãy kiếm đất làm sở hữu ở giữa chúng tôi. Nhưng chớ nổi lên chống Ðức Chúa, cũng đừng nổi lên chống chúng tôi, mà xây một bàn thờ nào khác ngoài bàn thờ của Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta. 20 Khi A-khan, con cháu ông De-rác, phạm tội bất trung lúc thi hành lệnh án biệt hiến, thì cơn thịnh nộ đã chẳng giáng xuống toàn thể cộng đồng Ít-ra-en, chứ không phải chỉ một mình hắn đã mất mạng vì tội mình đó sao?"

Các chi tộc bên kia sông Gio-đan tự biện hộ

21 Con cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se trả lời cho những người đứng đầu hàng ngũ Ít-ra-en rằng: 22 "Ðức Chúa, Thần các thần, Ðức Chúa, Thần các thần, chính Người biết, và Ít-ra-en cũng phải biết: Nếu đó là một cuộc nổi loạn hay là một tội bất trung đối với Ðức Chúa, thì xin Người đừng cứu chúng tôi hôm nay. 23 Nếu chúng tôi xây một bàn thờ để phản bội Ðức Chúa, mà dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm, hay là dâng hy lễ kỳ an, thì xin chính Ðức Chúa hỏi tội! 24 Nhưng không phải thế! Chúng tôi đã hành động như vậy, vì lo âu trước một sự việc có thể xảy ra. Chúng tôi đã tự nhủ: Mai ngày, con cái anh em có thể nói với con cái chúng tôi: Các anh có liên quan gì với Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en? 25 Ðức Chúa đã đặt một ranh giới giữa chúng tôi và các anh là con cái Rưu-vên và con cái Gát: đó là sông Gio-đan. Các anh chẳng được chung phần với Ðức Chúa! Như thế, con cái anh em sẽ làm cho con cái chúng tôi không còn kính sợ Ðức Chúa nữa!

26 Vì vậy, chúng tôi tự nhủ: Ta hãy lo xây cho mình một bàn thờ, không phải để dâng lễ toàn thiêu hoặc hy lễ, 27 nhưng để làm bằng chứng giữa chúng tôi và anh em, giữa dòng dõi đôi bên, rằng chúng tôi chỉ lo việc phụng thờ Ðức Chúa, với các lễ toàn thiêu, hy lễ và lễ kỳ an của chúng tôi, khi ở trước nhan Người. Như thế, mai ngày con cái anh em sẽ không thể nói với con cái chúng tôi: Các anh chẳng được chung phần với Ðức Chúa. 28 Chúng tôi tự nhủ: Giả sử mai ngày họ nói như thế với chúng tôi, với chúng tôi hay dòng dõi chúng tôi, thì chúng tôi sẽ nói: Hãy coi bàn thờ này, cha ông chúng tôi đã xây rập theo mẫu bàn thờ kính Ðức Chúa, không phải để dâng lễ toàn thiêu hoặc hy lễ, mà là để làm bằng chứng giữa chúng tôi và các anh. 29 Chúng tôi không hề có ý muốn nổi lên chống Ðức Chúa và phản bội Người hôm nay, khi xây một bàn thờ khác để dâng lễ toàn thiêu, lễ phẩm và hy lễ, ngoài bàn thờ kính Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở trước Nhà Tạm của Người."

Hai bên thoả hiệp với nhau

30 Sau khi nghe con cái Rưu-vên, con cái Gát và con cái Mơ-na-se nói những lời ấy, tư tế Pin-khát, các thủ lãnh của cộng đồng và những người đứng đầu hàng ngũ Ít-ra-en cùng đi với ông, lấy làm vừa ý. 31 Ông Pin-khát, con của tư tế E-la-da, nói với con cái Rưu-vên, con cái Gát và con cái Mơ-na-se: "Hôm nay, chúng tôi biết là Ðức Chúa ngự giữa chúng ta, vì anh em đã không phạm tội bất trung đó đối với Ðức Chúa; vì thế, anh em đã cứu con cái Ít-ra-en khỏi tay Ðức Chúa."

32 Ông Pin-khát, con của tư tế E-la-da, và các thủ lãnh từ giã con cái Rưu-vên, và con cái Gát ở xứ Ga-la-át, mà trở về với con cái Ít-ra-en ở đất Ca-na-an, và kể lại cho họ nghe sự việc. 33 Con cái Ít-ra-en lấy làm vừa ý về sự việc đó. Con cái Ít-ra-en chúc tụng Thiên Chúa và không còn nói đến chuyện tiến lên đánh con cái Rưu-vên và con cái Gát, để tàn phá vùng đất họ ở. 34 Con cái Rưu-vên và con cái Gát gọi bàn thờ là "Bằng chứng", vì, theo họ nói, "bàn thờ làm chứng giữa chúng ta rằng Ðức Chúa là Thiên Chúa."

Chương 23

2. Diễn Từ Cuối Cùng Của Ông Giô-Suê

Ông Giô-suê tóm kết công trình của mình

1 Lâu ngày sau khi Ðức Chúa ban cho Ít-ra-en được thảnh thơi mọi bề, không còn thù địch nào nữa, và khi ông Giô-suê đã già, tuổi đã cao, 2 thì ông triệu tập toàn thể Ít-ra-en, các kỳ mục, những người đứng đầu, các thủ lãnh và ký lục, rồi nói: "Tôi đã già nua tuổi tác. 3 Phần anh em, anh em đã chứng kiến mọi sự mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, giáng xuống trên mọi dân đó vì anh em, bởi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã chiến đấu cho anh em. 4 Anh em xem! Tôi đã cho các chi tộc của anh em bắt thăm được đất của các dân còn sót lại đó làm gia nghiệp, cũng như của mọi dân tôi đã quét sạch, từ sông Gio-đan cho đến Biển Lớn, phía mặt trời lặn. 5 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ đẩy lui chúng cho khuất mắt anh em, sẽ trục xuất chúng đi cho khuất mắt anh em. Anh em sẽ chiếm lấy đất đai của chúng, theo như lời Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em đã phán.

Phải sống thế nào giữa các dân ngoại

6 Vậy anh em phải thật cương quyết tuân giữ và thực hành tất cả những gì ghi trong Sách Luật Mô-sê, không đi trệch bên phải bên trái, 7 không lui tới với những dân ấy, những dân còn sót lại giữa anh em. Anh em đừng kêu tên các thần của chúng, đừng lấy tên các thần ấy mà thề. Ðừng phụng thờ chúng, đừng sụp xuống lạy chúng. 8 Trái lại, anh em sẽ chỉ gắn bó với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, như anh em đã làm cho đến ngày nay. 9 Ðức Chúa đã trục xuất những dân lớn mạnh cho khuất mắt anh em, và không ai đã đứng vững trước mặt anh em cho đến ngày nay. 10 Chỉ một người trong anh em mà đuổi được cả ngàn người, vì chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, chiến đấu cho anh em, theo lời Người đã phán với anh em. 11 Anh em phải hết sức chú tâm yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em.

12 Nhưng nếu anh em phản bội Ðức Chúa và gắn bó với những dân còn sót lại đang ở với anh em đó, nếu anh em kết duyên kết nghĩa với chúng, nếu anh em lui tới với chúng và chúng lui tới với anh em, 13 thì hãy biết chắc rằng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ không còn tiếp tục trục xuất các dân đó cho khuất mắt anh em: chúng sẽ thành dò lưới và cạm bẫy hại anh em, thành roi quất vào sườn và gai đâm vào mắt, cho đến khi anh em biến khỏi mảnh đất tốt này mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã ban cho anh em.

14 Hôm nay đây tôi bước vào đoạn đường mà mọi người trên đời này phải đi qua. Anh em hãy nhìn nhận với tất cả tấm lòng và tâm hồn, là trong mọi lời tốt lành mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã phán với anh em, không một lời nào đã ra vô hiệu: mọi sự đã ứng nghiệm cho anh em; không một lời nào đã ra vô hiệu.

15 Như mọi lời tốt lành mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã phán hứa cho anh em đều ứng nghiệm, thì Ðức Chúa cũng sẽ làm cho mọi lời nguyền rủa anh em được ứng nghiệm, cho đến khi anh em bị tiêu diệt khiến anh em không còn trên mảnh đất tốt này mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã ban cho anh em.

16 Nếu anh em vi phạm giao ước mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em phải giữ, để đi phụng thờ các thần khác và sụp xuống lạy chúng, thì Ðức Chúa sẽ bừng bừng nổi cơn thịnh nộ chống lại anh em, và anh em sẽ mau chóng biến khỏi đất tốt lành Người đã ban cho anh em."

Chương 24

3. Ðại Hội Si-Khem

1 Ông Giô-suê quy tụ ở Si-khem mọi chi tộc Ít-ra-en và triệu tập các kỳ mục Ít-ra-en, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ đứng trước nhan Thiên Chúa. 2 Ông Giô-suê nói với toàn dân: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: "Thuở xưa, khi còn ở bên kia Sông Cả, cha ông các ngươi, cho đến Te-rác là cha của Áp-ra-ham và của Na-kho, đã phụng thờ các thần khác. 3 Ta đã đem cha các ngươi là Áp-ra-ham từ bên kia Sông Cả mà dẫn đi khắp đất Ca-na-an. Ta đã cho dòng dõi nó nên đông đúc và ban I-xa-ác cho nó. 4 Ta đã ban Gia-cóp và Ê-xau cho I-xa-ác. Ta cho Ê-xau chiếm hữu núi Xê-ia. Còn Gia-cóp và các con thì xuống Ai-cập. 5 Ta đã sai Mô-sê và A-ha-ron đi; Ta đã dùng những việc Ta làm ở Ai-cập mà đánh phạt nước ấy, rồi Ta đã đưa các ngươi ra khỏi đó. 6 Ta đã đưa cha ông các ngươi ra khỏi Ai-cập và các ngươi đã tới biển. Người Ai-cập, với chiến xa và kỵ binh, đuổi theo cha ông các ngươi cho đến Biển Sậy. 7 Họ kêu lên Ðức Chúa; Người cho sương mù sa xuống giữa các ngươi và người Ai-cập, Người cho biển ập xuống vùi lấp chúng đi. Mắt các ngươi đã chứng kiến những việc Ta đã làm ở Ai-cập. Các ngươi đã ở lại lâu ngày trong sa mạc. 8 Ta đã đem các ngươi vào đất người E-mô-ri. Chúng ở bên kia sông Gio-đan. Chúng đã giao chiến với các ngươi, nhưng Ta đã nộp chúng vào tay các ngươi. Các ngươi đã chiếm đất của chúng, và Ta đã tiêu diệt chúng trước mắt các ngươi. 9 Rồi Ba-lác, con của Xíp-po, vua Mô-áp, đã đứng lên giao chiến với Ít-ra-en. Ba-lác đã cho mời Bi-lơ-am, con của Bơ-o, đến nguyền rủa các ngươi. 10 Nhưng Ta đã không muốn nghe Bi-lơ-am. Nó đã phải chúc phúc cho các ngươi, và Ta đã giải thoát các ngươi khỏi tay Ba-lác.

11 Các ngươi đã qua sông Gio-đan và tới Giê-ri-khô. Những người làm chủ Giê-ri-khô giao chiến với các ngươi: đó là người E-mô-ri, Pơ-rít-di, Ca-na-an, Khết, Ghia-ga-si, Khi-vi và Giơ-vút. Nhưng Ta đã nộp chúng vào tay các ngươi. 12 Ta đã thả ong bầu bay đi trước các ngươi; chúng đuổi hai vua E-mô-ri đi cho khuất mắt các ngươi; chính ong bầu chứ không phải cung kiếm của (các) ngươi đã đuổi chúng. 13 Ta ban cho các ngươi đất (các) ngươi đã không vất vả khai phá, những thành các ngươi đã không xây mà được ở, những vườn nho và vườn ô-liu các ngươi đã không trồng mà được ăn."

Ít-ra-en chọn Ðức Chúa

14 "Bây giờ anh em hãy kính sợ Ðức Chúa, hãy chân thành và trung tín phụng thờ Người. Anh em hãy vất bỏ các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả và ở Ai-cập, và hãy phụng thờ Ðức Chúa. 15 Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Ðức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Ðức Chúa."

16 Dân đáp lại: "Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Ðức Chúa để phụng thờ các thần khác! 17 Vì chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. 18 Ðức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người E-mô-ri ở trong xứ. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Ðức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi."

19 Ông Giô-suê nói với dân: "Anh em sẽ không thể phụng thờ Ðức Chúa, vì Người là Thiên Chúa thánh thiện, Thiên Chúa ghen tương; Người sẽ không dung thứ tội phản nghịch cũng như tội lỗi của anh em đâu. 20 Nếu anh em lìa bỏ Ðức Chúa để phụng thờ các thần ngoại, Người sẽ quay lại chống anh em, giáng hoạ xuống anh em và tiêu diệt anh em, dù trước đây Người đã giáng phúc cho anh em."

21 Dân nói với ông Giô-suê: "Không đâu, chúng tôi quyết phụng thờ Ðức Chúa!” 22 Ông Giô-suê nói với dân: "Anh em hãy cam đoan với chính mình là anh em đã chọn Ðức Chúa để phụng thờ." Họ nói: "Xin cam đoan!” 23 Ông Giô-suê nói: "Bây giờ, anh em hãy vứt bỏ các thần ngoại đang ở với anh em, và hướng lòng về Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en.” 24 Dân nói với ông Giô-suê: "Chúng tôi sẽ phụng thờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, và chúng tôi sẽ nghe lời Người."

Giao ước Si-khem

25 Trong ngày ấy, ông Giô-suê thay mặt dân kết giao ước, ông đưa ra quy luật và điều luật ở Si-khem. 26 Ông Giô-suê viết những lời đó trong Sách Luật của Thiên Chúa. Ông lấy một tảng đá lớn và dựng ở đó, dưới cây sồi trong nơi thánh của Ðức Chúa. 27 Ông Giô-suê nói với toàn dân: "Ðây, tảng đá này sẽ làm chứng về những điều chúng ta đã cam đoan, vì nó đã nghe mọi lời Ðức Chúa phán với chúng ta. Nó sẽ làm chứng về những điều anh em đã cam đoan, kẻo anh em chối bỏ Thiên Chúa của anh em.” 28 Ông Giô-suê giải tán dân chúng, ai nấy trở về phần đất họ đã nhận làm gia nghiệp.

4. Phụ Lục

Ông Giô-suê qua đời

29 Sau những biến cố đó, tôi trung của Ðức Chúa là ông Giô-suê, con ông Nun, từ trần, thọ một trăm mười tuổi. 30 Người ta chôn cất ông tại thửa đất ông đã nhận được làm gia nghiệp ở Tim-nát Xe-rác, trong vùng núi Ép-ra-im; phía bắc núi Ga-át. 31 Ít-ra-en đã phụng thờ Ðức Chúa suốt thời gian ông Giô-suê và các kỳ mục đến sau ông còn sống; những người này biết tất cả công trình Ðức Chúa đã thực hiện cho Ít-ra-en.

Hài cốt ông Giu-se. Tư tế E-la-da qua đời.

32 Hài cốt ông Giu-se mà con cái Ít-ra-en đã đem lên từ Ai-cập, thì được chôn cất ở Si-khem, trong thửa ruộng ông Gia-cóp đã mua của con ông Kha-mo, cha ông Si-khem, với giá một trăm đồng bạc; đó là phần gia nghiệp của con cái ông Giu-se. 33 Còn ông E-la-da, con ông A-ha-ron, sau khi chết thì được chôn cất trên ngọn đồi của con ông là ông Pin-khát; đồi này đã được cấp cho ông Pin-khát trong miền núi Ép-ra-im.

Thủ Lãnh

Chương 01

Lời Dẫn Thứ Nhất

Kể Sơ Lược Về Cuộc Ðịnh Cư Tại Ca-Na-An

Cuộc định cư của Giu-đa, Si-mê-ôn, Ca-lếp và Kê-ni (Gs 15:13 -19)

1 Sau khi ông Giô-suê từ trần, con cái Ít-ra-en đã thỉnh ý Ðức Chúa rằng: "Ai trong chúng con sẽ lên đương đầu với quân Ca-na-an trước tiên để giao tranh với chúng?” 2 Ðức Chúa phán: "Giu-đa sẽ lên: Này Ta đã trao đất ấy vào tay nó.” 3 Giu-đa liền nói với Si-mê-ôn, anh mình, rằng: "Mời anh cùng tôi lên phần đất tôi đã trúng thăm; chúng ta cùng chiến đấu chống quân Ca-na-an; tới lượt tôi, tôi sẽ cùng anh đi đến phần đất anh đã trúng thăm." Và Si-mê-ôn đã cùng đi với ông ta. 4 Vậy Giu-đa đi lên; Ðức Chúa đã trao quân Ca-na-an và quân Pơ-rít-di vào tay họ; và tại Be-déc, họ đã đánh bại mười ngàn người của chúng. 5 Họ đã gặp A-đô-ni Be-déc tại Be-déc; họ liền tấn công y, đánh tan quân Ca-na-an và quân Pơ-rít-di. 6 A-đô-ni Be-déc tháo chạy, nhưng họ đã đuổi theo bắt được y, và chặt ngón tay cái và ngón chân cái của y. 7 A-đô-ni Be-déc nói: "Bảy mươi vua bị chặt ngón tay cái và ngón chân cái, đã ăn mót dưới gầm bàn của tôi. Tôi đã xử sự thế nào, thì Thiên Chúa cũng xử lại với tôi như vậy." Họ đưa y vào Giê-ru-sa-lem và y đã chết tại đó. 8 Con cái Giu-đa đã tấn công Giê-ru-sa-lem, chiếm lấy thành, dùng gươm giết và nổi lửa đốt thành.

9 Sau đó con cái Giu-đa đã xuống tấn công người Ca-na-an bấy giờ đang ở trên núi, ở vùng Ne-ghép và vùng Sơ-phê-la. 10 Giu-đa cũng tiến đánh quân Ca-na-an bấy giờ đang ở Khép-rôn, -tên của Khép-rôn trước kia là Kia-giát Ác-ba- và họ đã đánh bại Sê-sai, A-khi-man và Tan-mai. 11 Từ đấy họ tiến đánh dân cư thành Ðơ-via -tên của Ðơ-via trước kia là Kia-giát Xê-phe. 12 Ông Ca-lếp nói: "Ai đánh và chiếm được Kia-giát Xê-phe, tôi sẽ gả Ác-xa con gái tôi cho người ấy.” 13 Ót-ni-ên con ông Cơ-nát, em ông Ca-lếp, đã chiếm được thành; và ông Ca-lếp đã gả Ác-xa con gái mình cho Ót-ni-ên. 14 Khi cô ta đến, Ót-ni-ên liền xúi cô xin cha một thửa ruộng. Cô xuống lừa, và ông Ca-lếp hỏi cô: "Chuyện gì thế con?” 15 Cô thưa: "Xin cha cho con một món quà: vì cha đã cho con đất Ne-ghép, thì xin cũng cho con cả suối nước nữa." Ông Ca-lếp đã cho cô suối trên suối dưới. 16 Con cái ông Kê-ni, nhạc phụ ông Mô-sê, đã từ Thành Chà Là cùng với con cái Giu-đa đi lên sa mạc Giu-đa, trong vùng Ne-ghép A-rát. Họ đã đi và đến ở với dân ấy. 17 Giu-đa đã đi với Si-mê-ôn anh mình. Họ tấn công quân Ca-na-an bấy giờ đang ở Xơ-phát và đã tru diệt chúng. Người ta đã gọi tên thành ấy là Khoóc-ma. 18 Rồi Giu-đa chiếm Ga-da và vùng lân cận, chiếm Át-cơ-lôn và vùng lân cận, chiếm Éc-rôn và vùng lân cận. 19 Ðức Chúa phù trợ Giu-đa và ông đã chiếm giữ vùng núi; nhưng ông không trục xuất được dân cư vùng đồng bằng, vì chúng có xe sắt. 20 Các ông đã cứ lời ông Mô-sê mà giao Khép-rôn cho ông Ca-lếp, và ông này đã đuổi ba người con của A-nác ra khỏi đó. 21 Còn những người Giơ-vút cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, thì con cái Ben-gia-min đã không đánh đuổi họ; vì thế những người Giơ-vút vẫn ở với con cái Ben-gia-min tại Giê-ru-sa-lem cho tới ngày nay.

Chiếm Bết Ên

22 Nhà Giu-se cũng tiến lên Bết Ên và Ðức Chúa ở với họ. 23 Nhà Giu-se đã cho người do thám Bết Ên -tên thành này trước kia là Lút. 24 Các thám tử gặp một người đàn ông từ trong thành đi ra, liền nói với người ấy: "Chỉ cho chúng tôi lối vào thành; chúng tôi sẽ xử khoan hồng với anh!” 25 Người ấy chỉ cho họ lối vào thành, và họ đã dùng gươm tàn sát cả thành; còn người ấy cùng với cả thị tộc thì họ để cho đi. 26 Người ấy ra đi đến đất người Khết, xây một thành và đặt tên là Lút. Ðó là tên của thành ấy cho tới ngày nay.

Các chi tộc phía bắc

27 Mơ-na-se không đánh thắng được Bết San và các vùng phụ thuộc, cũng như Ta-nác và các vùng phụ thuộc, cũng chẳng đánh thắng được dân cư thành Ðo và các vùng phụ thuộc, dân cư thành Gíp-lơ-am và các vùng phụ thuộc, dân cư thành Mơ-ghít-đô và các vùng phụ thuộc. Người Ca-na-an quyết ở lại trong đất đó. 28 Nhưng khi Ít-ra-en trở nên hùng cường, thì bắt người Ca-na-an làm nô dịch cho mình, chứ không trục xuất được chúng. 29 Ép-ra-im không trục xuất được người Ca-na-an cư ngụ ở Ghe-de, và người Ca-na-an vẫn sống giữa họ ở Ghe-de. 30 Dơ-vu-lun không trục xuất được dân cư thành Kít-rôn và dân cư thành Na-ha-lôn; người Ca-na-an vẫn sống giữa họ, nhưng phải làm nô dịch cho họ. 31 A-se không trục xuất được dân cư thành Ác-cô, dân cư thành Xi-đôn, Ác-láp, Ác-díp, Khen-ba, A-phích và Rơ-khốp. 32 Thế là người A-se cư ngụ giữa người Ca-na-an đang sống trên đất ấy, vì họ đã không trục xuất được chúng. 33 Náp-ta-li không trục xuất được dân cư thành Bết Se-mét và dân cư thành Bết A-nát, nên họ cư ngụ giữa người Ca-na-an đang sống trong đất ấy, nhưng dân cư thành Bết Se-mét và Bết A-nát đã phải làm nô dịch cho họ. 34 Người E-mô-ri đã dồn con cháu Ðan lên vùng núi, không để cho họ xuống đồng bằng. 35 Người E-mô-ri quyết giữ vững Ha Khe-rét, Ai-gia-lôn và Sa-an-vim; nhưng khi bàn tay nhà Giu-se đè nặng trên chúng, thì chúng đã phải làm nô dịch cho họ. 36 Ranh giới của người E-mô-ri chạy dài từ dốc Ác-ráp-bim, từ Núi Ðá trở lên.

Chương 02

Thần sứ của Ðức Chúa cho Ít-ra-en biết trước những điều bất hạnh

1 Thần sứ của Ðức Chúa từ Ghin-gan lên Bô-khim và nói: "Ta đã đưa các ngươi lên từ Ai-cập và dẫn vào đất Ta đã thề ban cho tổ tiên các ngươi. Ta đã phán: Chẳng bao giờ Ta phá huỷ Giao Ước của Ta với các ngươi. 2 Còn các ngươi thì không được kết ước với dân cư trong xứ này; phải triệt hạ các bàn thờ của chúng. Nhưng các ngươi đã không nghe lời Ta. Các ngươi đã làm gì thế? 3 Vậy Ta bảo: Ta sẽ không đuổi chúng cho khuất mắt các ngươi, và chúng sẽ sống kè kè bên các ngươi; các thần của chúng sẽ là cạm bẫy cho các ngươi.” 4 Khi thần sứ của Ðức Chúa nói những lời ấy cho toàn thể con cái Ít-ra-en, thì dân oà lên khóc. 5 Thế là người ta đặt tên cho nơi ấy là Bô-khim và họ đã tế lễ kính Ðức Chúa tại đó.

Lời Dẫn Thứ Hai

Nhận Ðịnh Tổng Quát Về Thời Các Thủ Lãnh

Cuối đời ông Giô-suê

6 Bấy giờ ông Giô-suê giải tán dân chúng, và con cái Ít-ra-en ai nấy về nơi mình đã trúng thăm làm gia nghiệp, để chiếm hữu đất đai. 7 Dân đã phục vụ Ðức Chúa suốt thời ông Giô-suê và suốt thời các kỳ mục là những người sống lâu sau ông Giô-suê, và đã chứng kiến tất cả những công cuộc vĩ đại Ðức Chúa đã thực hiện cho Ít-ra-en. 8 Ông Giô-suê, con ông Nun, tôi trung của Ðức Chúa, từ trần, thọ một trăm mười tuổi. 9 Người ta chôn cất ông tại thửa đất ông đã nhận được làm gia nghiệp ở Tim-nát Khe-rét trong vùng núi Ép-ra-im, phía bắc núi Ga-át. 10 Khi đến lượt cả thế hệ ấy về sum họp với tổ tiên mình, thì xuất hiện một thế hệ kế tiếp không hề biết Ðức Chúa và những công cuộc Người đã thực hiện cho Ít-ra-en.

Ý nghĩa tôn giáo thời các thủ lãnh

11 Con cái Ít-ra-en đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, và đã làm tôi các thần Ba-an. 12 Họ đã lìa bỏ Ðức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên, Ðấng đã đưa họ ra khỏi đất Ai-cập, và họ đã đi theo các thần ngoại lai trong số các thần của các dân chung quanh. Họ sụp lạy các thần ấy và chọc giận Ðức Chúa. 13 Họ đã lìa bỏ Ðức Chúa để làm tôi thần Ba-an và các nữ thần Át-tô-rét. 14 Ðức Chúa nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và đã trao họ vào tay quân cướp cho chúng tha hồ bóc lột; Người đã trao họ vào tay kẻ thù chung quanh, nên họ không thể đương đầu nổi với kẻ thù. 15 Cứ mỗi lần họ xuất trận là tay Ðức Chúa giáng hoạ trên họ, như Ðức Chúa đã phán và thề với họ. Họ lâm cảnh khốn cùng.

16 Bấy giờ Ðức Chúa cho xuất hiện các thủ lãnh để giải thoát họ khỏi tay những kẻ cướp phá họ. 17 Nhưng rồi các thủ lãnh của họ, họ cũng chẳng nghe mà cứ đàng điếm với các thần ngoại lai và sụp lạy các thần đó. Họ vội từ bỏ con đường cha ông họ đã đi, là tuân giữ mệnh lệnh của Ðức Chúa; họ đã không noi gương các ngài. 18 Khi Ðức Chúa cho xuất hiện các thủ lãnh để giúp họ, thì Ðức Chúa ở với vị thủ lãnh và Người cứu họ khỏi tay quân thù bao lâu vị thủ lãnh còn sống, vì Ðức Chúa động lòng trắc ẩn trước những tiếng than khóc của họ, khi họ bị đàn áp và ức hiếp. 19 Nhưng sau khi vị thủ lãnh qua đời thì họ lại ra hư đốn hơn cả cha ông họ. Họ chạy theo các thần ngoại lai để làm tôi và sụp lạy chúng, chứ không từ bỏ những hành vi và đường lối ngoan cố của họ.

Lý do tồn tại của chư dân

20 Ðức Chúa nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en; Người phán: "Vì lũ dân này đã vi phạm giao ước Ta đã truyền cho cha ông chúng phải giữ, và chúng đã không nghe tiếng Ta, 21 nên trong số các dân mà Giô-suê còn để lại khi từ trần, Ta cũng sẽ không đuổi một dân nào cho khuất mắt chúng. 22 Ta sẽ dùng các dân ấy để thử thách Ít-ra-en, xem chúng có tuân giữ đường lối Ðức Chúa như cha ông chúng đã tuân giữ hay không. 23 Vậy Ðức Chúa đã để cho các dân ấy tiếp tục tồn tại mà không vội trục xuất chúng, cũng chẳng trao chúng vào tay ông Giô-suê.

Chương 03

1 Ðây là các dân Ðức Chúa cho tồn tại, để dùng chúng mà thử thách tất cả những người Ít-ra-en đã không biết các cuộc chiến tại Ca-na-an là gì, 2 chỉ cốt cho các thế hệ con cái Ít-ra-en biết học việc binh đao, ít là cho những kẻ trước đây chưa biết. 3 Năm vương hầu Phi-li-tinh và tất cả các người Ca-na-an, người Xi-đôn, người Khi-vi ở trên vùng núi Li-băng, từ núi Ba-an Khéc-môn đến Cửa Ải Kha-mát. 4 Chúng còn đó để thử thách Ít-ra-en, xem họ có tuân giữ mệnh lệnh Ðức Chúa đã dùng ông Mô-sê mà truyền cho cha ông họ hay không. 5 Vậy con cái Ít-ra-en đã sống giữa người Ca-na-an, người Khết, người E-mô-ri, người Pơ-rít-di, người Khi-vi và người Giơ-vút. 6 Và họ đã cưới con gái của chúng, cũng như gả con gái mình cho chúng, và họ đã làm tôi các thần của chúng.

Sự Tích Các Thủ Lãnh

1. Ông Ót-Ni-Ên

7 Con cái Ít-ra-en đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa. Họ đã lìa bỏ Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ, và làm tôi các thần Ba-an và nữ thần A-sê-ra. 8 Ðức Chúa nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và đã trao họ vào tay Cu-san Rít-a-tha-gim, vua A-ram Na-ha-ra-gim; con cái Ít-ra-en đã làm tôi Cu-san Rít-a-tha-gim tám năm.

9 Con cái Ít-ra-en kêu lên Ðức Chúa và Ðức Chúa cho xuất hiện một vị cứu tinh là ông Ót-ni-ên, con ông Cơ-nát, em ông Ca-lếp, để cứu con cái Ít-ra-en; ông Ót-ni-ên đã giải thoát họ. 10 Thần khí của Ðức Chúa ở trên ông, và ông đã lãnh đạo Ít-ra-en. Ông xuất trận và Ðức Chúa đã trao Cu-san Rít-a-tha-gim, vua A-ram, vào tay ông, và tay ông đè nặng lên Cu-san Rít-a-tha-gim. 11 Bấy giờ lãnh thổ được bình an bốn mươi năm. Sau đó ông Ót-ni-ên, con ông Cơ-nát, từ trần.

2. Ông Ê-Hút

12 Con cái Ít-ra-en lại làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, và Ðức Chúa đã tăng cường sức mạnh cho Éc-lon, vua Mô-áp, chống Ít-ra-en, vì họ đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa. 13 Ông đã phối hợp với con cái Am-mon và A-ma-lếch, rồi tiến quân, đánh bại Ít-ra-en và chiếm lấy Thành Chà Là của họ. 14 Con cái Ít-ra-en phải làm tôi Éc-lon, vua Mô-áp, mười tám năm.

15 Bấy giờ con cái Ít-ra-en kêu lên Ðức Chúa, Ðức Chúa liền cho xuất hiện một vị cứu tinh là ông Ê-hút, con ông Ghê-ra, người Ben-gia-min, một người thuận tay trái. Vậy con cái Ít-ra-en nhờ ông mang cống lễ nộp cho Éc-lon, vua Mô-áp. 16 Ông Ê-hút làm cho mình một chiếc gươm hai lưỡi, dài một gô-mét, và cột dưới áo bên hông phải. 17 Ông mang cống lễ nộp cho Éc-lon, vua Mô-áp; Éc-lon là một người béo phị. 18 Sau khi đã trao cống lễ, ông cho đám người mang cống lễ đi ra. 19 Còn chính ông, người đã viếng các tượng đá ở Ghin-gan trở về, thì nói: "Thưa ngài, tôi có một điều bí mật muốn thưa với ngài." Vua nói: "Im lặng!" Tất cả mọi người túc trực bên vua đều ra ngoài. 20 Bấy giờ ông Ê-hút tới gần vua, lúc ấy đang ngồi ở phòng mát phía trên dành riêng cho vua, và ông Ê-hút nói: "Tôi có một lời của Thiên Chúa phải nói cho ngài." Vua liền bỏ ghế đứng lên. 21 Ông Ê-hút thò tay trái, rút chiếc gươm từ hông phải, thọc vào bụng vua 22 lút cán, mỡ bám chặt lưỡi gươm - vì ông Ê-hút không rút gươm khỏi bụng vua - và lưỡi gươm lòi ra đằng mông. 23 Ông Ê-hút qua hành lang mà đi ra, sau khi đã đóng các cửa phòng trên và khoá lại.

24 Ông vừa đi ra thì các đầy tớ vua đi vào. Họ thấy các cửa phòng trên vẫn khoá thì nói: "Hẳn là vua đang mắc việc cần trong phòng sau.” 25 Họ đợi hoài mà không thấy mở cửa phòng trên; nên sau cùng họ lấy chìa khoá mở phòng ra, thì kìa tôn chủ của họ nằm chết sóng sượt dưới đất.

26 Phần ông Ê-hút đã tẩu thoát, lúc họ còn đang chờ. Ông đi qua các tượng đá mà trốn chạy về hướng Ha Xơ-i-ra. 27 Vừa tới nơi, ông liền rúc tù và vang khắp núi Ép-ra-im. Con cái Ít-ra-en cùng với ông từ núi tràn xuống; chính ông đi tiên phong. 28 Ông bảo họ: "Hãy theo tôi, vì Ðức Chúa đã trao vào tay anh em kẻ thù của anh em là người Mô-áp." Họ đi theo ông, chiếm giữ các lối qua sông Gio-đan, không để lọt một người Mô-áp nào. 29 Thời kỳ ấy họ hạ được khoảng mười ngàn người Mô-áp, tất cả những kẻ cường tráng và dũng cảm, không sót một tên. 30 Ngày hôm ấy, Mô-áp đã bị bàn tay Ít-ra-en hạ nhục, và lãnh thổ được bình an tám mươi năm.

3. Ông Sam-Ga

31 Sau ông là ông Sam-ga, con ông A-nát, ông đã dùng gậy thúc bò đánh giết sáu trăm người Phi-li-tinh. Ông cũng là một vị cứu tinh của Ít-ra-en.

Chương 04

4. Bà Ðơ-Vô-Ra Và Ông Ba-Rắc

1 Con cái Ít-ra-en lại làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa sau khi ông Ê-hút từ trần, 2 nên Ðức Chúa trao họ vào tay Gia-vin, vua Ca-na-an, trị vì tại Kha-xo. Tướng chỉ huy quân đội của ông là Xi-xơ-ra, cư ngụ ở Kha-rô-sét Ha Gô-gim.

3 Con cái Ít-ra-en kêu lên Ðức Chúa, vì ông Gia-vin có đến chín trăm xe sắt, và ông đã đàn áp con cái Ít-ra-en một cách tàn bạo suốt hai mươi năm trường.

Bà Ðơ-vô-ra

4 Bà Ðơ-vô-ra, một nữ ngôn sứ, vợ ông Láp-pi-đốt, thời ấy làm thủ lãnh xét xử Ít-ra-en. 5 Bà ngồi xử dưới Cây Chà Là Ðơ-vô-ra, giữa Ra-ma và Bết Ên, trên núi Ép-ra-im, và con cái Ít-ra-en đến với bà để bà xét xử cho. 6 Bà sai người mời ông Ba-rắc, con ông A-vi-nô-am, từ Ke-đét thuộc Náp-ta-li tới, và nói với ông: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, lại không nói với ông thế này sao? Hãy đi chiêu mộ trong vùng núi Ta-bo lấy mười ngàn người trong số con cái Náp-ta-li và trong số con cái Dơ-vu-lun để đi với ngươi. 7 Ta sẽ dụ tướng Xi-xơ-ra, chỉ huy quân đội vua Gia-vin tiến về phía ngươi, bên suối Ki-sôn, cùng với chiến xa và quân binh của nó, và Ta sẽ trao nó vào tay ngươi.” 8 Ông Ba-rắc nói với bà: "Nếu bà đi với tôi thì tôi đi, nếu bà không đi với tôi thì tôi không đi.” 9 Bà trả lời: "Chắc chắn tôi sẽ đi với ông. Có điều là trong chuyến đi này, vinh dự không thuộc về ông, vì Ðức Chúa sẽ trao Xi-xơ-ra vào tay một người đàn bà." Bà Ðơ-vô-ra chỗi dậy đi với ông Ba-rắc đến Ke-đét. 10 Ông Ba-rắc triệu tập Dơ-vu-lun và Náp-ta-li tiến về Ke-đét. Mười ngàn người theo chân ông, cả bà Ðơ-vô-ra cũng đi với ông.

Ông Khe-ve, người Kê-ni

11 Ông Khe-ve, người Kê-ni, đã tách khỏi Ca-in, khỏi con cái ông Khô-váp, nhạc phụ ông Mô-sê, và đã dựng lều bên cây sồi tại Xa-an-na-gim, gần Ke-đét.

Xi-xơ-ra bị đánh bại

12 Người ta báo tin cho Xi-xơ-ra rằng: "Ông Ba-rắc, con ông A-vi-nô-am, đã lên núi Ta-bo". 13 Tướng Xi-xơ-ra liền tập trung tất cả các chiến xa, chín trăm xe sắt và toàn bộ lực lượng dưới quyền ông, đưa từ Kha-rô-sét Ha Gô-gim đến suối Ki-sôn. 14 Bấy giờ bà Ðơ-vô-ra nói với ông Ba-rắc: "Ðứng lên! Vì đây là ngày Ðức Chúa trao Xi-xơ-ra vào tay ông. Ðức Chúa lại không xuất trận trước mặt ông sao?" Ông Ba-rắc từ núi Ta-bo đi xuống với mười ngàn quân theo sau. 15 Ðức Chúa dùng gươm của ông Ba-rắc đánh Xi-xơ-ra cùng với chiến xa và toàn thể doanh trại của ông này, khiến tất cả phải tán loạn trước mặt ông Ba-rắc. Xi-xơ-ra tụt khỏi xe và chạy bộ mà trốn. 16 Ông Ba-rắc truy kích đoàn xe và quân binh cho đến Kha-rô-sét Ha Gô-gim. Tất cả quân binh của Xi-xơ-ra đều ngã gục dưới lưỡi gươm của ông Ba-rắc, không sót một tên.

Xi-xơ-ra bị giết

17 Xi-xơ-ra chạy bộ trốn về phía lều bà Gia-ên, vợ ông Khe-ve, người Kê-ni, vì lúc ấy đang có hoà bình giữa Gia-vin, vua Kha-xo, với nhà Khe-ve, người Kê-ni. 18 Bà Gia-ên ra đón Xi-xơ-ra, và nói với ông: "Thưa ngài, xin dừng lại, xin dừng lại nơi đây, đừng sợ!" Ông dừng lại, đi theo bà vào lều; bà lấy tấm thảm phủ lên ông. 19 Ông nói với bà: "Cho tôi xin chút nước uống, vì tôi khát quá." Bà liền mở vò sữa, cho ông uống, rồi lại phủ kín ông. 20 Ông nói với bà: "Xin bà đứng ở cửa lều, hễ ai đến hỏi có người nào ở đây không, thì bà nói: "Không.” 21 Nhưng bà Gia-ên, vợ ông Khe-ve, lấy cái cọc lều, tay cầm búa, lặng lẽ đến bên Xi-xơ-ra, đóng cọc vào màng tang ông, xuyên xuống đất, đang lúc ông ngủ say vì mệt. Thế là ông chết. 22 Ðang lúc ấy, ông Ba-rắc truy nã Xi-xơ-ra vừa tới, thì bà Gia-ên ra đón ông và nói: "Lại đây, tôi cho ông xem người ông đang tìm." Ông đi theo bà, thì này, Xi-xơ-ra nằm chết với cái cọc xuyên màng tang.

Ít-ra-en được giải thoát

23 Hồi đó Thiên Chúa hạ nhục Gia-vin, vua Ca-na-an, trước mặt con cái Ít-ra-en. 24 Bàn tay con cái Ít-ra-en ngày càng đè nặng trên Gia-vin, vua Ca-na-an, cho đến khi họ tiễu trừ được Gia-vin, vua Ca-na-an.

Chương 05

Bài ca của bà Ðơ-vô-ra và ông Ba-rắc

1 Ngày hôm ấy bà Ðơ-vô-ra và ông Ba-rắc, con ông A-vi-nô-am, hát rằng:

2 "Trong Ít-ra-en thuở chiến binh xoã tóc xung phong,

thuở toàn dân tình nguyện lên đường,

các bạn ơi, nào chúc tụng Ðức Chúa!

3 Nghe đây, hỡi các vua! Hãy lắng tai, này các thủ lãnh!

Tôi sẽ hát lên mừng Ðức Chúa,

sẽ đàn ca kính Người là Thiên Chúa của Ít-ra-en.

4 Thân lạy Ðức Chúa, khi Ngài ra khỏi Xê-ia,

khi Ngài từ ruộng đồng Ê-đôm xuất phát,

thì trái đất chuyển rung, các tầng trời tan chảy,

mây cũng tan chảy thành mưa.

5 Núi đồi chấn động trước nhan Ðức Chúa,

Xi-nai cũng chấn động trước nhan Người

là Thiên Chúa của Ít-ra-en.

6 Thời Sam-ga, con ông A-nát,

thời Gia-ên, còn đâu những đoàn khách lữ hành!

Những kẻ xưa kia đi trên quan lộ

nay lần mò theo những lối quanh co.

7 Trong Ít-ra-en không còn thủ lãnh,

không còn nữa cho tới khi bà đứng lên, hỡi bà Ðơ-vô-ra

bà đứng lên, hỡi mẹ hiền trong Ít-ra-en!

8 Khi người ta chọn những thần mới,

bấy giờ chiến tranh đến ngay trước cửa,

khiên mộc chẳng thấy, gươm giáo cũng không

trong tay bốn mươi ngàn quân Ít-ra-en.

9 Lòng tôi ngưỡng mộ các nhà chỉ huy Ít-ra-en,

những kẻ trong dân tình nguyện lên đường.

Các bạn ơi, nào chúc tụng Ðức Chúa!

10 Hỡi những ai cỡi lừa trắng,

hỡi những kẻ ngồi thảm hoa,

hỡi khách bộ hành, hát lên đi!

11 Những người chia nhau chiến lợi phẩm bên bồn nước,

hãy cất tiếng ca ngợi hồng ân của Ðức Chúa,

những hồng ân Người ban cho thủ lãnh Ít-ra-en,

bấy giờ dân của Ðức Chúa ùa xuống các cửa.

12 Phấn khởi lên! Phấn khởi lên nào! Ðơ-vô-ra hỡi!

Phấn khởi lên! Phấn khởi lên nào! Hát một bài ca!

Ðứng lên! Hỡi Ba-rắc!

Bỏ tù kẻ bỏ tù ông! Hỡi con của A-vi-nô-am!

13 Bấy giờ Ít-ra-en xuống cửa vì chính nghĩa của mình,

dân của Ðức Chúa đã xuống như những vị anh hùng.

14 Các lãnh tụ Ép-ra-im ở trong thung lũng,

trong hàng ngũ theo ông, có Ben-gia-min.

Các vị chỉ huy xuất thân từ Ma-khia,

từ Dơ-vu-lun, những người nắm côn trượng.

15 Các lãnh tụ Ít-xa-kha theo bà Ðơ-vô-ra.

Náp-ta-li trung thành với Ba-rắc,

chạy theo vết chân ông trong thung lũng.

Trong các thị tộc của Rưu-vên,

bàn bạc thì thật là sôi nổi!

16 "Sao bạn cứ ở lì trong hốc đá, mải nghe tiếng sáo bên đàn chiên?

Trong các thị tộc của Rưu-vên,

bàn bạc thì thật là sôi nổi!

17 Ga-la-át ở lại bên kia sông Gio-đan,

còn Ðan, sao cứ sống trên tàu bè?

A-se thì định cư miền duyên hải,

trong các hải cảng, vẫn cứ nhởn nhơ!

18 Dơ-vu-lun, dân coi nhẹ cái chết,

cùng với Náp-ta-li, trên điểm cao chiến trường.

19 Các vua đã tới, đã giao tranh,

các vua Ca-na-an đã giao tranh

tại Ta-nác, bên dòng suối Mơ-ghít-đô.

Chúng đã không cướp được bạc làm chiến lợi phẩm.

20 Từ trời cao, tinh tú đã giao tranh,

từ trên quỹ đạo, tinh tú chống lại Xi-xơ-ra.

21 Dòng suối Ki-sôn đã cuốn trôi chúng,

dòng suối ngàn xưa, suối Ki-sôn.

Dũng cảm tiến lên, hồn ta hỡi!

22 Bấy giờ vó ngựa vang rền trên mặt đất,

đoàn thiên lý mã phi nhanh, phi thật nhanh.

23 "Hãy nguyền rủa Mê-rốt - thần sứ Ðức Chúa nói -,

nguyền rủa, nguyền rủa các dân cư của nó.

Vì chúng đã không đến yểm trợ Ðức Chúa,

yểm trợ Ðức Chúa với các bậc anh hùng.

24 Phúc thay bà Gia-ên, phu nhân ông Khe-ve, người Kê-ni,

hơn các phụ nữ,

hơn các phụ nữ trong lều trại, bà thật là có phúc.

25 Y xin nước, bà cho sữa.

Bà dâng sữa béo trong chén quý của hàng thượng lưu.

26 Rồi tay trái cầm lấy chiếc cọc,

còn tay phải nắm búa công nhân,

đánh Xi-xơ-ra, đập cho bể đầu,

và đâm thủng màng tang.

27 Dưới chân bà, y ngã quỵ, té nhào, nằm sóng sượt,

dưới chân bà, y ngã quỵ, té nhào;

ngã quỵ nơi nào, té nhào nơi ấy, nằm bất động.

28 Qua cửa sổ, một bà khác nghiêng mình kêu la,

đó là mẹ của Xi-xơ-ra, nói qua song cửa:

"Sao xe của con tôi mãi không về?

Sao đoàn xe trận của con tôi về chậm thế?

29 Công chúa khôn ngoan nhất của bà đã trả lời,

và bà cứ nhẩm đi nhắc lại:

30 "Chắc họ đã gặp may, và đang chia nhau chiến lợi phẩm:

một hai nàng cho mỗi chiến binh,

và nhiễu điều làm chiến lợi phẩm cho Xi-xơ-ra.

Một hai tấm nhiễu điều thêu sặc sỡ,

choàng lên cổ của người toàn thắng.

31 Lạy Ðức Chúa! Mọi kẻ thù của Ngài

đều tiêu vong như thế!

Còn những ai yêu mến Ngài,

xin cho họ rạng rỡ như mặt trời hừng đông."

Và lãnh thổ bình an bốn mươi năm.

Chương 06

5. Ông Ghít-Ôn Và Ông A-Vi-Me-Léc

A. Thiên Chúa gọi ông Ghít-ôn

Người Ma-đi-an áp bức dân Ít-ra-en

1 Con cái Ít-ra-en đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, nên Ðức Chúa đã trao họ vào tay người Ma-đi-an trong bảy năm. 2 Tay người Ma-đi-an đè nặng trên Ít-ra-en. Ðể tránh mặt người Ma-đi-an, con cái Ít-ra-en đã thiết lập những khu an toàn trong các vùng núi, những hang động hốc đá. 3 Hễ Ít-ra-en gieo giống thì người Ma-đi-an, người A-ma-lếch và người Phương Ðông cũng lên; chúng lên chống lại Ít-ra-en. 4 Chúng đóng trại bên cạnh họ và tàn phá hoa màu, đất đai cho đến sát Ga-da, không để sót lại vật gì trong Ít-ra-en, dù là gia súc hay bò lừa cũng vậy. 5 Vì chúng lên cùng với đàn vật và lều trại của chúng, tiến vào nhiều vô kể như châu chấu; chúng và lạc đà của chúng đông không đếm nổi. Chúng tràn vào tàn phá xứ sở. 6 Như vậy người Ít-ra-en hoàn toàn kiệt quệ vì người Ma-đi-an. Và con cái Ít-ra-en đã kêu lên Ðức Chúa.

Một ngôn sứ can thiệp

7 Khi con cái Ít-ra-en kêu lên Ðức Chúa về người Ma-đi-an, 8 thì Ðức Chúa đã sai một vị ngôn sứ đến với con cái Ít-ra-en. Ông nói với họ: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này: Chính Ta đã đưa các ngươi lên khỏi Ai-cập, đã kéo các ngươi ra khỏi nhà nô lệ, 9 đã giải thoát các ngươi khỏi tay Ai-cập, khỏi tay mọi kẻ áp bức các ngươi, và đã đuổi chúng cho khuất mắt các ngươi, đã ban cho các ngươi đất đai của chúng. 10 Và Ta đã phán với các ngươi: Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi. Các ngươi không được kính sợ các thần của người E-mô-ri, khi các ngươi cư ngụ trên đất của chúng. Nhưng các ngươi đã không nghe tiếng Ta."

Thần sứ của Ðức Chúa hiện ra với ông Ghít-ôn

11 Thần sứ của Ðức Chúa đến và ngồi dưới cây tùng ở Óp-ra. Cây này là của ông Giô-át, thuộc gia đình A-vi-e-de. Con ông là Ghít-ôn bấy giờ đang đập lúa trong bồn đạp nho để tránh mặt người Ma-đi-an. 12 Thần sứ Ðức Chúa hiện ra với ông và nói: "Chào chiến sĩ can trường! Ðức Chúa ở với ông.” 13 Ông Ghít-ôn đáp: "Ôi, thưa Ngài, nếu Ðức Chúa ở với chúng tôi, thì sao chúng tôi đến nông nỗi này? Ðâu cả rồi những kỳ công mà cha ông đã kể lại cho chúng tôi nghe, rằng: chẳng phải Ðức Chúa đã đưa chúng ta lên khỏi Ai-cập sao? Thế mà bây giờ Ðức Chúa đã bỏ rơi chúng tôi, trao chúng tôi vào tay người Ma-đi-an."

14 Bấy giờ Ðức Chúa quay lại nhìn ông và nói: "Hãy mạnh bạo lên đường cứu Ít-ra-en khỏi tay quân Ma-đi-an. Không phải chính Ta sai ngươi sao?” 15 Nhưng ông đáp: "Ôi, thưa Ngài, con lấy gì mà cứu Ít-ra-en? Này dòng họ con thấp kém nhất trong chi tộc Mơ-na-se, mà con lại nhỏ nhất trong nhà cha con.” 16 Ðức Chúa phán với ông: "Ta sẽ ở với ngươi, và ngươi sẽ đánh quân Ma-đi-an như đánh có một người.” 17 Ông thưa: "Nếu Ngài thương con thì xin cho con một dấu chứng tỏ Ngài đang nói với con. 18 Xin Ngài đừng rời khỏi đây cho tới khi con trở lại, mang theo của lễ đặt trước nhan Ngài." Người phán: "Ta sẽ ở lại cho tới khi ngươi trở về."

19 Ông Ghít-ôn đi bắt một con dê non làm thịt, và lấy hai thùng bột làm mấy chiếc bánh không men. Thịt thì ông để trong một cái rổ, còn nước cốt thì đựng trong một cái thố. Rồi ông mang đến cho Người ở dưới cây tùng. Khi ông đến gần, 20 thì Thần sứ Thiên Chúa nói với ông: "Hãy lấy thịt và bánh không men đặt trên tảng đá này và rưới nước cốt lên." Ông đã làm như thế.

21 Thần sứ của Ðức Chúa giơ đầu gậy đang cầm trong tay đụng vào thịt và bánh không men, lửa liền từ tảng đá bốc lên, đốt cháy hết thịt cùng bánh không men. Thần sứ Ðức Chúa biến khỏi mắt ông. 22 Ông Ghít-ôn thấy đó chính là Thần sứ Ðức Chúa. Ông Ghít-ôn nói: "Chết tôi rồi, lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng của tôi, vì tôi đã thấy Thần sứ Ðức Chúa nhãn tiền!” 23 Nhưng Ðức Chúa phán với ông: "Bình an cho ngươi! Ðừng sợ: ngươi không chết đâu.” 24 Tại đó ông Ghít-ôn xây một bàn thờ kính Ðức Chúa, và ông gọi nơi ấy là Ðức Chúa - Bình an. Cho đến ngày nay, bàn thờ ấy vẫn còn tại Óp-ra, đất của gia đình A-vi-e-de.

Ông Ghít-ôn triệt hạ Ba-an

25 Một đêm kia Ðức Chúa phán bảo ông: "Hãy lấy con bò mộng của cha ngươi, con bò bảy tuổi, rồi phá huỷ bàn thờ Ba-an của cha ngươi và chặt đứt cây cột thần bên cạnh. 26 Ngươi sẽ xây bàn thờ kính Ðức Chúa, Thiên Chúa ngươi, trên đỉnh của nơi kiên cố này, sắp xếp sao cho gọn ghẽ. Ngươi sẽ lấy con bò và dâng làm lễ toàn thiêu với gỗ cây cột thần ngươi đã chặt.” 27 Vậy ông Ghít-ôn mang theo mười người đầy tớ và làm như Ðức Chúa đã nói với ông. Tuy nhiên, vì sợ người nhà của cha mình và những người trong thành, ông không dám làm ban ngày, nên đã làm ban đêm. 28 Sáng hôm sau, khi những người trong thành thức dậy, thì kìa bàn thờ Ba-an đã bị triệt hạ, cây cột thần cạnh đó đã bị chặt, và con bò mộng thứ hai đã được dâng làm lễ toàn thiêu trên bàn thờ mới xây. 29 Họ nói với nhau: "Ai đã làm chuyện này thế?" Rồi họ điều tra và tìm hiểu, thì ra là ông Ghít-ôn, con ông Giô-át, đã làm chuyện đó. 30 Dân thành liền nói với ông Giô-át: "Ðưa con ông ra đây! Nó phải chết, vì nó đã triệt hạ bàn thờ Ba-an và đã chặt đứt cây cột thần bên cạnh.” 31 Ông Giô-át nói với tất cả mọi người đứng trước mặt ông: "Các anh bênh quyền lợi của Ba-an ư? Hay là các anh tính cứu thần đó? Kẻ nào bênh quyền lợi Ba-an sẽ phải chết trước khi trời rạng sáng. Nếu Ba-an là thần thì Ba-an cứ tự biện hộ. Ghít-ôn đã phá bàn thờ của Ba-an đó.” 32 Ngày hôm ấy, người ta gọi ông Ghít-ôn là Giơ-rúp-ba-an, mà rằng: "Xin Ba-an đối phó với hắn, vì hắn đã triệt hạ bàn thờ của người."

Kêu gọi chiến đấu

33 Tất cả các người Ma-đi-an, người A-ma-lếch và người Phương Ðông đều nhất tề tập hợp; họ băng qua sông và đóng trại tại đồng bằng Gít-rơ-en.34 Ông Ghít-ôn được đầy thần khí của Ðức Chúa; ông rúc tù và, và người A-vi-e-de quy tụ lại sau lưng ông. 35 Ông sai sứ giả kêu gọi mọi người trong chi tộc Mơ-na-se, và họ quy tụ lại sau lưng ông; ông sai sứ giả kêu gọi mọi người trong chi tộc A-se, Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, họ cũng đều tiến lên đón ông.

Lông cừu làm điềm báo

36 Ông Ghít-ôn thưa với Thiên Chúa: "Nếu đúng là Ngài sẽ dùng tay con để cứu Ít-ra-en như Ngài đã phán, 37 thì này đây con đặt một mớ lông cừu trong sân lúa: nếu chỉ có sương trên lông cừu mà thôi, còn tất cả mặt đất đều khô, thì con biết Ngài sẽ dùng tay con để cứu Ít-ra-en như Ngài đã phán.” 38 Và đã xảy ra như vậy. Sáng hôm sau ông dậy sớm, bóp mớ lông cừu, vắt cho sương chảy ra đầy một chén nước. 39 Ông Ghít-ôn lại thưa với Thiên Chúa: "Xin Ngài đừng thịnh nộ với con, để con được nói một lần nữa. Xin cho con được trắc nghiệm bằng lông cừu một lần nữa thôi: chỉ có lông cừu là khô, còn tất cả mặt đất đều đẫm sương.” 40 Ðêm ấy Thiên Chúa đã làm như vậy. Chỉ có lông cừu là khô, còn tất cả mặt đất đều đẫm sương.

Chương 07

B. Ông Ghít-ôn giao chiến bên tây ngạn sông Gio-đan

Ðức Chúa rút bớt quân số của ông Ghít-ôn

1 Ông Giơ-rúp-ba-an, tức Ghít-ôn, cũng như toàn dân đang ở với ông, thức dậy thật sớm, và ông đóng trại gần Ên Kha-rốt; còn trại quân Ma-đi-an thì nằm ở phía bắc trại ông, sát đồi Mô-re, trong đồng bằng. 2 Ðức Chúa phán bảo ông: "Ðám dân ở với ngươi quá đông; Ta không trao quân Ma-đi-an vào tay chúng được, kẻo Ít-ra-en lại tự phụ phạm đến Ta, khi cho rằng "Chính tay tôi đã cứu tôi. 3 Vậy ngươi hãy công bố cho dân nghe: "Ai sợ hãi và run khiếp thì hãy về đi!" Và ông Ghít-ôn đã thử họ: hai mươi ngàn người trong dân rút lui, còn lại mười ngàn.

4 Ðức Chúa phán với ông Ghít-ôn: "Dân này vẫn còn đông. Hãy bảo chúng xuống gần nước, ở đó Ta sẽ thử chúng. Kẻ nào Ta nói với ngươi "người này sẽ đi với ngươi" thì kẻ đó sẽ đi với ngươi. Còn tất cả những ai Ta nói với ngươi "người này không đi với ngươi", kẻ đó sẽ không được đi.” 5 Vậy ông Ghít-ôn đem đám dân ấy đến gần nước, và Ðức Chúa phán với ông Ghít-ôn: "Tất cả những ai thè lưỡi tớp nước như chó, ngươi hãy để riêng ra, tất cả những ai quỳ xuống mà uống cũng vậy.” 6 Số người dùng tay đưa nước lên miệng mà tớp là ba trăm. Tất cả số dân còn lại đều quỳ xuống mà uống nước. 7 Bấy giờ Ðức Chúa phán với ông Ghít-ôn: "Với ba trăm người đã tớp nước, Ta sẽ cứu các ngươi, và sẽ trao quân Ma-đi-an vào tay ngươi. Còn tất cả những người khác thì hãy rút lui, ai về nhà nấy.” 8 Người ta giữ lại vò lương thực của đám dân, cùng với các tù và. Sau đó, ông Ghít-ôn cho tất cả con cái Ít-ra-en trở về, ai nấy về lều mình, chỉ giữ lại ba trăm người. Doanh trại của người Ma-đi-an nằm phía dưới trại của ông, trong đồng bằng.

Ðiềm báo thắng trận

9 Ðêm ấy Ðức Chúa phán với ông: "Ðứng lên! Ði xuống doanh trại, vì Ta sẽ trao nó vào tay ngươi. 10 Nhưng nếu ngươi sợ không dám xuống, thì hãy đi xuống trại với Pu-ra, đầy tớ ngươi. 11 Ngươi sẽ nghe ngóng xem chúng nói gì; sau đó tay ngươi sẽ ra cứng rắn, và ngươi sẽ xuống đánh trại." Vậy chính ông đã cùng với Pu-ra, đầy tớ ông, xuống tới đầu tiền đồn của trại.

12 Quân Ma-đi-an, A-ma-lếch và toàn quân Phương Ðông nằm đầy đồng bằng, nhiều vô kể như châu chấu, và số lạc đà của chúng không đếm nổi, như cát trên bờ biển. 13 Ông Ghít-ôn tới nơi, thì này một tên đang kể cho đồng đội một giấc chiêm bao. Hắn nói: "Ðây là giấc chiêm bao tôi đã nằm mơ: một tấm bánh lúa mạch lăn trong trại Ma-đi-an, tới một chiếc lều, đụng vào lều thì nó ngã xuống, cuốn chỏng gọng cái lều lên, thế là cái lều đổ.” 14 Người đồng đội hoạ theo và nói: "Ðây chỉ có thể là chiếc gươm của Ghít-ôn, con Giô-át, người Ít-ra-en. Thiên Chúa đã trao người Ma-đi-an và cả doanh trại vào tay ông ta.” 15 Khi nghe kể giấc chiêm bao và lời giải thích, ông Ghít-ôn sấp mình xuống, đoạn trở về trại Ít-ra-en và nói: "Ðứng lên! Vì Ðức Chúa đã trao vào tay anh em doanh trại Ma-đi-an."

Cuộc đột kích

16 Bấy giờ ông chia ba trăm người thành ba cánh quân, trao vào tay mọi người tù và, vò rỗng có đuốc bên trong. 17 Ông bảo họ: "Hãy nhìn và làm theo tôi. Khi tới đầu trại, tôi làm gì thì các anh cứ làm theo! 18 Tôi sẽ rúc tù và cùng một lúc với tất cả những người đi với tôi; bấy giờ các anh cũng rúc tù và khắp quanh trại và cùng hô: Vì Ðức Chúa! Vì Ghít-ôn!"

19 Ông Ghít-ôn cùng với một trăm người theo ông đi tới đầu trại vào đầu canh hai, lúc vừa thay người canh; họ rúc tù và, đồng thời đập bể những chiếc vò đang cầm trong tay. 20 Bấy giờ cả ba cánh quân đều rúc tù và, đập bể vò; tay trái nắm chắc đuốc, tay phải cầm tù và rúc lên, rồi họ cùng hô: "Vì Ðức Chúa, vì Ghít-ôn, vung kiếm lên!” 21 Chung quanh trại, ai nấy đứng yên tại chỗ. Cả trại tán loạn, la ó và chạy trốn. 22 Trong lúc ba trăm người rúc tù và thì Ðức Chúa làm cho mỗi người trong khắp trại quay gươm giết bạn mình. Cả doanh trại đều trốn chạy về phía Xơ-rê-ra cho đến Bết Ha Sít-ta, bên bờ suối A-vên Mơ-khô-la, đối diện với Táp-bát.

Truy kích

23 Bấy giờ từ Náp-ta-li, A-se và toàn thể Mơ-na-se, các người Ít-ra-en họp nhau lại và rượt đuổi quân Ma-đi-an. 24 Ông Ghít-ôn sai sứ giả đi kêu gọi khắp vùng núi Ép-ra-im: "Hãy xuống đón đầu quân Ma-đi-an, chiếm cứ các nguồn nước của chúng, cho đến Bết Ba-ra và sông Gio-đan." Tất cả các người Ép-ra-im đều họp lại chiếm lấy các nguồn nước cho đến Bết Ba-ra và sông Gio-đan. 25 Họ bắt được hai tướng của Ma-đi-an là Ô-rếp và Dơ-ếp; họ giết Ô-rếp tại tảng đá Ô-rếp, còn Dơ-ếp thì giết tại bồn ép nho Dơ-ếp. Họ còn rượt theo quân Ma-đi-an và mang thủ cấp của Ô-rếp và Dơ-ếp từ bên kia sông Gio-đan về cho ông Ghít-ôn.

Chương 08

Ép-ra-im kêu trách

1 Những người Ép-ra-im nói với ông: "Ông đối xử với chúng tôi như vậy nghĩa là thế nào? Ông đã không thèm gọi chúng tôi, khi ông lên đường đánh quân Ma-đi-an." Họ đã công kích ông dữ dội. 2 Nhưng ông nói với họ: "Việc tôi đã làm sánh sao được với các anh? Thứ mà Ép-ra-im ăn mót, lại không tốt hơn cả mùa trái của A-vi-e-de sao? 3 Thiên Chúa đã trao vào tay các anh các thủ lãnh Ma-đi-an là Ô-rếp và Dơ-ếp, thì tôi có thể làm gì sánh được với các anh?" Nghe ông nói thế, họ mới nguôi giận.

C. Ông Ghít-ôn giao chiến bên kia sông Gio-đan. Ông từ trần.

Ông Ghít-ôn vượt sông Gio-đan truy lùng địch

4 Tới sông Gio-đan, ông Ghít-ôn sang sông cùng với ba trăm người theo ông, rất mệt mỏi nhưng vẫn truy lùng quân địch. 5 Ông nói với các người Xúc-cốt: "Làm ơn cho đám người theo tôi mấy tấm bánh, vì họ đã mệt mỏi rồi, mà tôi thì còn phải truy lùng De-vác và Xan-mun-na, vua Ma-đi-an.” 6 Nhưng các thủ lãnh Xúc-cốt trả lời: "Số mạng của De-vác và Xan-mun-na nay đã nằm gọn trong tay ông rồi sao, mà chúng tôi phải cấp bánh cho quân đội của ông?” 7 Ông Ghít-ôn đáp: "Ðã vậy thì một khi Ðức Chúa trao De-vác và Xan-mun-na vào tay ta rồi, ta sẽ lấy gai rừng và cây ké mà xé xác các ngươi!” 8 Từ đấy, ông đi lên Pơ-nu-ên, và lại nói với người ta như vậy, nhưng những người Pơ-nu-ên trả lời y như những người Xúc-cốt. 9 Ông cũng nói với người Pơ-nu-ên rằng: "Khi ta trở về bình an vô sự, ta sẽ triệt hạ tháp này."

De-vác và Xan-mun-na bại trận

10 De-vác và Xan-mun-na lúc ấy đang ở Các-co cùng với đạo quân của họ, chừng mười lăm ngàn người, đó là số còn lại trong toàn bộ doanh trại con cái Phương Ðông. Vì mười hai ngàn mạng biết tuốt gươm đã gục ngã. 11 Ông Ghít-ôn tiến lên theo con đường của dân du mục, ở phía đông Nô-vác và Gióc-bô-ha, và đã tấn công trại khi trại cứ tưởng là an toàn. 12 De-vác và Xan-mun-na chạy trốn, nhưng ông đã đuổi kịp và bắt được cả hai vua Ma-đi-an là De-vác và Xan-mun-na, gây khiếp đảm cho toàn bộ doanh trại.

Ông Ghít-ôn báo thù

13 Sau trận chiến, ông Ghít-ôn, con ông Giô-át trở về qua ngả đường lên Khe-rét. 14 Ông bắt một thiếu niên thuộc dân Xúc-cốt và tra hỏi nó. Nó viết cho ông tên các thủ lãnh Xúc-cốt, và các kỳ mục trong dân là bảy mươi bảy người. 15 Vậy ông đến với người Xúc-cốt và nói: "Ðây là De-vác và Xa-mun-na! Vì chúng, các ngươi đã đay nghiến ta mà rằng: "Số mạng của De-vác và Xan-mun-na nay đã nằm gọn trong tay ông rồi sao, mà chúng tôi phải cấp bánh cho những người mệt mỏi của ông?” 16 Ông bắt các kỳ mục trong thành, lấy gai rừng và cây ké mà dạy cho những người Xúc-cốt một bài học. 17 Tháp Pơ-nu-ên, ông cũng triệt hạ, và tàn sát cả những người trong thành. 18 Ông nói với De-vác và Xan-mun-na: "Những kẻ các ngươi đã tàn sát ở Ta-bo là người thế nào?" Chúng thưa: "Ông thế nào, họ cũng vậy; người nào cũng có vẻ hoàng tử.” 19 Ông nói: "Họ là anh em cùng mẹ với ta đó. Thề có Ðức Chúa hằng sống! Giả như các ngươi để họ sống, thì ta chẳng sát hại các ngươi đâu!” 20 Rồi ông bảo người con cả của ông Gie-the: "Ðứng lên! Giết chúng đi!" Nhưng chàng thiếu niên sợ không dám tuốt gươm, vì cậu còn trẻ. 21 De-vác và Xan-mun-na liền nói: "Vậy thì chính nhà ngươi đứng lên giết chúng ta đi, vì anh hùng đâu có sợ chết!" Ông Ghít-ôn đứng lên hạ sát De-vác và Xan-mun-na, rồi tháo lấy những chiếc vòng đeo cổ các con lạc đà của chúng.

Cuối đời ông Ghít-ôn

22 Người Ít-ra-en nói với ông Ghít-ôn: "Xin ông cai trị chúng tôi, cả ông cũng như con cháu ông, vì ông đã giải thoát chúng tôi khỏi tay quân Ma-đi-an.” 23 Ông Ghít-ôn trả lời: "Chính tôi sẽ không cai trị, mà con tôi cũng không cai trị anh em, nhưng Ðức Chúa sẽ cai trị anh em.” 24 Ông Ghít-ôn nói với họ: "Tôi xin anh em một điều là mỗi người cho tôi một cái nhẫn trong số chiến lợi phẩm của mình." Sở dĩ như vậy là vì những người bại trận là dân Ít-ma-ên, nên chúng mang nhẫn vàng. 25 Những người ấy đáp: "Hẳn là chúng tôi sẽ tặng ông rồi." Họ trải chiếc áo choàng ra, và mỗi người bỏ vào đấy một chiếc nhẫn đã chiếm được. 26 Trọng lượng số nhẫn vàng ông đã xin được là mười bảy ký vàng, không kể các vòng khuyên, các hoa tai và những chiếc áo điều các vua Ma-đi-an vẫn mặc, và không kể các vòng đeo cổ các con lạc đà của chúng. 27 Ông Ghít-ôn lấy số vàng đó làm một tượng ê-phốt và đặt trong thành của ông tại Óp-ra; và toàn thể Ít-ra-en đã đàng điếm với nó, nên nó hoá cái bẫy cho ông Ghít-ôn và nhà ông.

28 Ma-đi-an bị hạ nhục trước mặt con cái Ít-ra-en; chúng không còn ngẩng đầu lên được nữa. Dưới thời ông Ghít-ôn, lãnh thổ được bình an bốn mươi năm. 29 Ông Giơ-rúp-ba-an, con ông Giô-át, lui về sống cảnh điền viên. 30 Ông Ghít-ôn sinh được bảy mươi người con, vì ông có nhiều vợ. 31 Ông có người tỳ thiếp ở Si-khem, bà cũng sinh cho ông một con trai; và ông đặt tên cho nó là A-vi-me-léc. 32 Ông Ghít-ôn, con ông Giô-át, qua đời sau khi hưởng tuổi già hạnh phúc, và được chôn cất trong phần mộ của ông Giô-át, thân phụ ông, tại Óp-ra của dòng họ A-vi-e-de.

Ít-ra-en lại suy sụp

33 Sau khi ông Ghít-ôn qua đời, con cái Ít-ra-en lại đàng điếm với các Ba-an, và tôn Ba-an Bơ-rít làm thiên chúa của mình. 34 Con cái Ít-ra-en không nhớ Ðức Chúa là Thiên Chúa của mình, Ðấng đã giải thoát họ khỏi tay mọi thù địch chung quanh. 35 Họ cũng chẳng đối xử nhân nghĩa với nhà ông Giơ-rúp-ba-an, tức Ghít-ôn, mà đền đáp tất cả những điều tốt lành ông đã làm cho Ít-ra-en.

Chương 09

D. Vương triều của A-vi-me-léc

1 A-vi-me-léc, con ông Giơ-rúp-ba-an, đến Si-khem gặp bà con bên ngoại, và nói với họ, cùng cả gia tộc bên ngoại rằng: 2 "Xin bà con hỏi các thân hào Si-khem xem: điều nào tốt cho các vị? Ðể cho bảy mươi người, tức là tất cả các con ông Giơ-rúp-ba-an cai trị các vị, hay là để một người cai trị các vị mà thôi? Xin các vị nhớ cho rằng tôi là anh em ruột thịt của các vị.” 3 Bà con bên ngoại dùng chính những lời đó nói về A-vi-me-léc cho toàn thể thân hào Si-khem nghe, và lòng họ nghiêng về A-vi-me-léc, vì họ nói: "Ông ấy là bà con của chúng ta.” 4 Vậy họ trao cho ông bảy mươi se-ken bạc, lấy của đền Ba-an Bơ-rít, A-vi-me-léc dùng tiền ấy thuê những đứa vô lại cùng bọn du đãng, và chúng theo ông. 5 Thế là ông đến nhà cha mình tại Óp-ra, hạ sát các anh em, tức là bảy mươi người con của ông Giơ-rúp-ba-an, trên cùng một tảng đá; chỉ sót có Giô-tham, con út của ông Giơ-rúp-ba-an, vì anh ta lẩn trốn được. 6 Bấy giờ tất cả thân hào Si-khem cùng toàn dân Bết Mi-lô họp lại, kéo đến tôn A-vi-me-léc lên làm vua, bên cạnh cây sồi trước bia đá ở Si-khem.

Ngụ ngôn của ông Giô-tham

7 Khi người ta báo tin ấy cho ông Giô-tham, ông liền lên đứng trên đỉnh núi Gơ-ri-dim, cất tiếng gọi và nói với những người kia rằng: "Hỡi các thân hào Si-khem! Hãy nghe tôi đây, thì Thiên Chúa cũng sẽ nghe các người.

8 Cây cối đã lên đường đi xức dầu phong một vua cai trị chúng. Chúng nói với cây ô-liu: "Hãy làm vua cai trị chúng tôi!

9 Nhưng cây ô-liu nói với chúng: "Chẳng lẽ tôi lại từ bỏ dầu của tôi là thứ đã từng làm cho thần minh và người đời được tôn trọng, mà đi đu đưa trên cây cối hay sao?

10 Cây cối liền nói với cây vả: "Hãy đến làm vua cai trị chúng tôi!

11 Nhưng cây vả bảo chúng: "Chẳng lẽ tôi lại từ bỏ vị ngọt và trái ngon của tôi mà đi đu đưa trên cây cối hay sao?

12 Bấy giờ cây cối nói với cây nho: "Hãy đến làm vua cai trị chúng tôi!

13 Nhưng cây nho bảo chúng: "Chẳng lẽ tôi lại từ bỏ rượu của tôi là thứ đã từng làm cho thần minh và người đời phấn khởi, mà đi đu đưa trên cây cối hay sao?

14 Tất cả cây cối liền nói với bụi gai: "Hãy đến làm vua cai trị chúng tôi!

15 Bụi gai trả lời cây cối: "Nếu quả thật các ngươi xức dầu phong ta làm vua cai trị các ngươi, thì hãy tới nương náu dưới bóng ta; bằng không, lửa sẽ bốc ra từ bụi gai và sẽ thiêu rụi các cây bá hương Li-băng!

16 Các người có đối xử thành thật và trọn đạo khi tôn A-vi-me-léc lên làm vua không? Các người có đối xử tốt với ông Giơ-rúp-ba-an và nhà ông ấy không? Có đối xử với ông xứng với công lao của ông không? 17 Cha tôi đã chiến đấu vì các người, đã liều mạng để giải thoát các người khỏi tay quân Ma-đi-an. 18 Thế mà ngày nay các người lại phản bội nhà cha tôi, tàn sát con cái ông, tất cả bảy mươi người trên cùng một tảng đá, rồi đặt đứa con người tỳ thiếp của ông là A-vi-me-léc lên làm vua cai trị các thân hào Si-khem, vì y là bà con của các người. 19 Vậy, nếu ngày hôm nay các người đã đối xử thành thật và trọn đạo với ông Giơ-rúp-ba-an và nhà ông, thì cứ việc vui vì A-vi-me-léc, và mong sao y cũng được vui vì các người. 20 Bằng không, thì xin cho một ngọn lửa phát ra từ A-vi-me-léc để thiêu huỷ các thân hào Si-khem cùng với dân Bết Mi-lô, và xin cho một ngọn lửa phát ra từ các thân hào Si-khem và dân Bết Mi-lô để thiêu huỷ A-vi-me-léc nữa!” 21 Rồi ông Giô-tham chạy về phía Bơ-e và trú ngụ tại đây, vì sợ A-vi-me-léc, người anh em của ông.

Si-khem phản loạn chống A-vi-me-léc

22 A-vi-me-léc cầm quyền cai trị Ít-ra-en ba năm. 23 Rồi Thiên Chúa gây một thần khí bất hoà giữa A-vi-me-léc và các thân hào Si-khem, khiến các thân hào Si-khem phản lại A-vi-me-léc. 24 Như vậy là để báo phục tội giết bảy mươi người con ông Giơ-rúp-ba-an, và để làm cho máu họ đổ xuống trên A-vi-me-léc, người anh em đã giết họ, và đổ xuống trên các thân hào Si-khem, những người đã tiếp tay với y, để y giết anh em mình. 25 Các thân hào Si-khem đã đặt những ổ mai phục trên các ngọn núi, để cướp bóc tất cả những người đi ngang qua đó. Người ta báo tin ấy cho A-vi-me-léc biết.

26 Bấy giờ ông Ga-an, con ông E-vét, cùng đi với anh em ông, và họ qua Si-khem; các thân hào Si-khem tín nhiệm ông. 27 Họ ra vườn hái nho, rồi đạp ép và tổ chức vui chơi. Họ vào đền các thần minh của họ, ăn uống và nguyền rủa A-vi-me-léc. 28 Ông Ga-an, con ông E-vét nói: "A-vi-me-léc là ai, và Si-khem là ai mà chúng ta làm tôi nó? Nó chẳng phải là con Giơ-rúp-ba-an, và đại diện của nó chẳng phải là Dơ-vun sao? Các người hãy làm tôi con cái Kha-mo, cha của Si-khem; còn chúng tôi, việc gì chúng tôi phải làm tôi nó? 29 Ai sẽ trao dân này vào tay tôi, để tôi loại trừ A-vi-me-léc? Và tôi nói với nó: "Hãy tăng thêm quân của mi và ra đây!"

30 Ông Dơ-vun, tổng trấn thành, nghe những lời ông Ga-an, con ông E-vét nói, thì nổi giận. 31 Ông lập mưu sai sứ đến nói với A-vi-me-léc rằng: "Này, Ga-an, con của E-vét, và anh em y đã đến Si-khem và đang khích động thành này chống lại ông. 32 Vậy, đang đêm ông hãy trỗi dậy, và cùng với quân lính của ông mai phục ngoài đồng. 33 Rồi sáng sớm, lúc rạng đông, hãy mau lẹ tấn công thành. Khi y và đám người cùng đi với y ra đón ông, thì gặp chúng đâu ông hãy đánh đó."

34 Ðang đêm, A-vi-me-léc cùng với quân lính của ông chỗi dậy, chia thành bốn nhóm mai phục gần Si-khem. 35 Ông Ga-an, con ông E-vét, đi ra và dừng lại ở lối vào cổng thành. A-vi-me-léc cùng với quân lính của ông từ chỗ mai phục chỗi dậy. 36 Ông Ga-an thấy đám dân thì nói với ông Dơ-vun: "Ðây là đám dân từ các đỉnh núi xuống." Nhưng ông Dơ-vun nói: "Ðó là bóng núi mà ông lại trông ra như người ta.” 37 Ông Ga-an còn lên tiếng nói: "Ðây là những người từ rốn đất mà xuống, còn nhóm kia thì từ con đường Cây Sồi Các Thầy Bói mà đến.” 38 Bấy giờ ông Dơ-vun nói với ông: "Ðâu rồi cái miệng ngươi từng nói: A-vi-me-léc là ai mà chúng ta làm tôi nó? Ðây chẳng phải là đám dân ngươi đã khinh dể sao? Bây giờ ngươi hãy đi ra mà giao chiến với nó.” 39 Ông Ga-an đi ra, dẫn đầu các thân hào Si-khem, giao chiến với A-vi-me-léc. 40 Nhưng A-vi-me-léc đuổi đánh ông, và ông Ga-an phải trốn chạy. Nhiều người gục chết trước khi tới được lối vào cổng.41 Sau đó A-vi-me-léc cư ngụ ở A-ru-ma; còn ông Dơ-vun thì trục xuất ông Ga-an và anh em ông, không cho ở Si-khem nữa.

Triệt hạ thành và tháp Si-khem

42 Hôm sau đám người kia đi ra cánh đồng, và người ta báo cho A-vi-me-léc biết. 43 Ông lấy dân của mình chia thành ba nhóm và sắp xếp một cuộc mai phục ngoài đồng. Ông nhìn, và này đám người kia đi ra khỏi thành; ông chỗi dậy tiến đánh chúng tơi bời. 44 A-vi-me-léc cùng với quân lính của ông ập tới chặn lối vào cổng thành, còn hai nhóm kia thì ập tới tất cả những kẻ ở ngoài đồng và đánh chúng tơi bời. 45 Suốt ngày hôm ấy A-vi-me-léc tấn công thành. Ông đã chiếm được thành và tàn sát tất cả dân cư, rồi triệt hạ và rắc muối lên thành. 46 Nghe tin đó, các thân hào Mích-đan Si-khem liền xuống hầm đền thờ En Bơ-rít. 47 Người ta báo tin cho A-vi-me-léc biết là tất cả thân hào Mích-đan Si-khem đã họp nhau lại. 48 Bấy giờ A-vi-me-léc lên núi Xan-môn cùng với tất cả quân lính của ông. Ông cầm rìu chặt một cành cây, giơ lên, rồi đặt xuống vai mình, và nói với quân lính của ông: "Các anh thấy tôi làm gì, thì cứ làm như tôi, mau lên!” 49 Mọi người đều chặt, mỗi người một cành cây. Họ đi theo A-vi-me-léc, đặt cành cây trên hầm, rồi nổi lửa đốt hầm, làm cho mọi người ở Mích-đan Si-khem chết hết, khoảng chừng một ngàn người, cả đàn ông lẫn đàn bà.

A-vi-me-léc tấn công Tê-vết và bị tử trận

50 Sau đó A-vi-me-léc đi đến Tê-vết, đóng trại đối diện với Tê-vết và chiếm thành ấy. 51 Có một ngọn tháp kiên cố ở giữa thành và tất cả đàn ông, đàn bà cùng toàn thể các thân hào trong thành đều trốn vào tháp ấy; họ ẩn náu bên trong và leo lên lầu của ngọn tháp. 52 A-vi-me-léc đi tới và tấn công tháp; ông đến sát lối vào tháp để châm lửa đốt. 53 Bấy giờ một người đàn bà liệng một phiến đá cối xuống đầu A-vi-me-léc làm ông bể sọ. 54 Ông liền gọi chàng thanh niên cận vệ của mình và bảo: "Hãy tuốt gươm giết ta đi, kẻo người ta lại nói về ta rằng: Một người đàn bà đã giết hắn." Người cận vệ đâm ông, và ông đã chết. 55 Người Ít-ra-en thấy A-vi-me-léc đã chết thì bỏ đi, ai nấy về nhà mình.

56 Thế là Thiên Chúa đã báo oán A-vi-me-léc vì sự dữ ông đã gây cho thân phụ mình là giết bảy mươi người anh em. 57 Và Thiên Chúa đã báo oán những người Si-khem vì tất cả sự dữ họ đã gây ra. Như thế là đã ứng nghiệm nơi họ lời chúc dữ của Giô-tham, con ông Giơ-rúp-ba-an.

Chương 10

Ông Gíp-Tác Và Các thủ Lãnh Nhỏ

6. Ông Tô-La

1 Sau A-vi-me-léc, có ông Tô-la con ông Pu-a, cháu ông Ðô-đô, người Ít-xa-kha, đã xuất hiện để cứu Ít-ra-en. Ông cư ngụ tại Sa-mia, vùng núi Ép-ra-im. 2 Ông làm thủ lãnh Ít-ra-en được hai mươi ba năm, thì qua đời và được chôn cất tại Sa-mia.

7. Ông Gia-Ia

3 Sau ông Tô-la, thì có ông Gia-ia, người Ga-la-át, xuất hiện, làm thủ lãnh Ít-ra-en hai mươi hai năm. 4 Ông có ba mươi người con, cỡi ba mươi con lừa và coi ba mươi thành, mà người ta đặt tên là Kha-vốt Gia-ia; những thành đó còn cho tới ngày nay trong đất Ga-la-át.

5 Rồi ông Gia-ia qua đời và được chôn cất tại Ca-môn.

8. Ông Gíp-Tác

Ít-ra-en bị người Am-mon đàn áp

6 Con cái Ít-ra-en lại làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa và làm tôi các thần Ba-an và Át-tô-rét, các thần của người A-ram, các thần của người Xi-đôn, các thần của người Mô-áp, các thần của con cái Am-mon và các thần của người Phi-li-tinh; họ đã lìa bỏ Ðức Chúa và không làm tôi Người nữa. 7 Ðức Chúa nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và đã trao họ vào tay người Phi-li-tinh và vào tay con cái Am-mon. 8 Trong thời ấy, suốt mười tám năm, chúng hành hạ và áp bức con cái Ít-ra-en, tức là toàn thể con cái Ít-ra-en ở bên kia sông Gio-đan, trong đất người E-mô-ri tại Ga-la-át. 9 Con cái Am-mon vượt sông Gio-đan để giao chiến với cả Giu-đa, Ben-gia-min và nhà Ép-ra-im nữa, khiến Ít-ra-en phải lâm cảnh khốn cùng. 10 Bấy giờ con cái Ít-ra-en mới kêu lên Ðức Chúa rằng: "Chúng con đã xúc phạm đến Ngài, bởi vì chúng con đã lìa bỏ Thiên Chúa của chúng con mà làm tôi các Ba-an.” 11 Ðức Chúa phán với con cái Ít-ra-en: "Khi người Ai-cập, người E-mô-ri, con cái Am-mon, người Phi-li-tinh, 12 người Xi-đôn, người A-ma-lếch và người Ma-đi-an áp bức các ngươi, và các ngươi kêu lên Ta, thì Ta đã chẳng cứu các ngươi khỏi tay chúng sao? 13 Nhưng các ngươi đã lìa bỏ Ta và làm tôi các thần khác; vì thế, Ta sẽ không cứu các ngươi nữa. 14 Ði mà kêu lên các thần các ngươi đã chọn; chúng sẽ cứu các ngươi lúc các ngươi bị cơ cực!” 15 Con cái Ít-ra-en mới thưa cùng Ðức Chúa: "Chúng con đã phạm tội. Xin Ngài cứ xử với chúng con sao cho đẹp mắt Ngài; nhưng hôm nay xin cứu chúng con.” 16 Họ cất bỏ, không giữ lại những thần ngoại bang nữa, và họ làm tôi Ðức Chúa, vì thế Người không dằn lòng được trước sự đau khổ của Ít-ra-en.

17 Con cái Am-mon tập họp lại và đóng trại ở Ga-la-át. Con cái Ít-ra-en cũng hội lại và đóng trại ở Mít-pa. 18 Dân chúng và các thủ lãnh Ga-la-át nói với nhau: "Ai là người sẽ xung phong giao chiến với con cái Am-mon? Người ấy sẽ đứng đầu toàn thể dân cư Ga-la-át."

Chương 11

Ông Gíp-tác đặt điều kiện

1 Ông Gíp-tác, người Ga-la-át, bấy giờ là một dũng sĩ. Ông là con của một gái điếm. Ông Ga-la-át sinh ra Gíp-tác. 2 Nhưng vợ ông Ga-la-át cũng sinh cho ông những người con khác nữa. Các người con của bà này khi lớn lên đã đuổi Gíp-tác đi, và nói với ông: "Mày không có phần gia nghiệp trong nhà của cha chúng tao, vì mày là con của một mụ khác.” 3 Ông Gíp-tác liền bỏ trốn, không ở với các anh nữa. Ông cư ngụ tại đất Tốp; những đứa vô lại kết đảng với ông Gíp-tác và cùng với ông tung hoành.

4 Sau đó một thời gian, con cái Am-mon giao chiến với Ít-ra-en. 5 Và khi con cái Am-mon giao chiến với Ít-ra-en, thì các kỳ mục Ga-la-át đi tìm ông Gíp-tác ở đất Tốp. 6 Họ nói với ông Gíp-tác: "Xin ông đến chỉ huy chúng tôi giao chiến với con cái Am-mon.” 7 Ông Gíp-tác trả lời các kỳ mục Ga-la-át: "Nào chẳng phải chính các ông đã ghét tôi và đuổi tôi ra khỏi nhà cha tôi sao? Vì cớ gì bây giờ các ông lại đến với tôi, lúc các ông lâm cảnh khốn cùng?” 8 Các kỳ mục Ga-la-át nói với ông Gíp-tác: "Ấy vậy bây giờ chúng tôi mới phải quay về với ông; xin ông đến với chúng tôi, ông sẽ giao chiến với con cái Am-mon, sẽ thành người lãnh đạo chúng tôi, tức là toàn thể dân cư Ga-la-át.” 9 Ông Gíp-tác nói với các kỳ mục Ga-la-át: "Nếu các ông đưa tôi về để giao chiến với con cái Am-mon, và Ðức Chúa trao chúng vào tay tôi, thì tôi sẽ là người lãnh đạo các ông.” 10 Các kỳ mục Ga-la-át nói với ông Gíp-tác: "Xin Ðức Chúa chứng giám cho chúng ta, nếu chúng tôi không làm như lời ông nói.” 11 Rồi ông Gíp-tác cùng đi với các kỳ mục Ga-la-át, và dân đã đặt ông làm người lãnh đạo và chỉ huy họ; ông Gíp-tác lặp lại tất cả các lời ông đã nói, trước nhan Ðức Chúa tại Mít-pa.

Ông Gíp-tác điều đình với con cái Am-mon

12 Ông Gíp-tác sai sứ giả đến nói với vua dân Am-mon rằng: "Giữa tôi với ông có chuyện gì mà ông lại đến chống tôi, để giao chiến với xứ sở tôi?” 13 Vua dân Am-mon nói với các sứ giả của ông Gíp-tác: "Tại sao, khi lên khỏi Ai-cập, Ít-ra-en lại chiếm đất của ta, từ Ác-nôn cho tới Giáp-bốc và tới sông Gio-đan? Bây giờ muốn yên thì trả lại đi!” 14 Ông Gíp-tác lại sai sứ giả đến với vua dân Am-mon lần nữa 15 và thưa: "Ông Gíp-tác nói thế này: Ít-ra-en không chiếm đất của Mô-áp cũng như đất của con cái Am-mon, 16 vì khi đi lên khỏi Ai-cập, Ít-ra-en đã đi con đường sa mạc tới Biển Sậy và đã đến Ca-đê. 17 Bấy giờ Ít-ra-en sai sứ giả đến thưa với vua Ê-đôm rằng: Xin cho phép tôi đi qua đất của ngài. Nhưng vua Ê-đôm không nghe. Ít-ra-en cũng sai người đến với vua Mô-áp, nhưng ông này cũng chẳng nghe; Ít-ra-en đành lưu lại Ca-đê. 18 Sau đó, họ đã theo con đường sa mạc đi bọc xứ Ê-đôm và Mô-áp, tới phía đông đất Mô-áp, và đóng trại bên kia Ác-nôn, nhưng không vào biên giới Mô-áp vì Ác-nôn là biên giới Mô-áp. 19 Rồi Ít-ra-en sai sứ giả đến gặp ông Xi-khôn, vua dân E-mô-ri, trị vì tại Khét-bôn và thưa với ông: Xin cho phép tôi đi qua đất của ngài để tới nơi tôi phải đến. 20 Thế nhưng ông Xi-khôn đã không tin mà cho Ít-ra-en đi qua biên giới của ông; ông Xi-khôn lại còn triệu tập toàn dân, đóng trại tại Gia-hát và giao chiến với Ít-ra-en. 21 Và Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, đã trao ông Xi-khôn và toàn dân của ông vào tay Ít-ra-en, và Ít-ra-en đã đánh chúng tơi bời. Rồi Ít-ra-en chiếm hết đất của dân E-mô-ri cư ngụ trên đất ấy. 22 Họ cũng chiếm tất cả các biên giới của người E-mô-ri từ Ác-nôn tới Giáp-bốc, và từ sa mạc tới sông Gio-đan. 23 Bây giờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en đã trục xuất người E-mô-ri khỏi Ít-ra-en dân của Người, thì liệu ông có trục xuất được nó không? 24 Cái mà thần Cơ-mốt của ông, ban cho ông làm sở hữu, ông lại không chiếm hữu sao? Cũng thế, tất cả những gì Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi đã truất hữu của những dân sở hữu, trước mặt chúng tôi, thì chúng tôi chiếm hữu. 25 Nay liệu ông có hơn gì ông Ba-lác, con ông Xíp-po, vua Mô-áp không? Ông ta có tranh chấp nổi với Ít-ra-en, hay là đánh bại được nó không? 26 Khi Ít-ra-en định cư tại Khét-bôn và các thị trấn phụ thuộc, tại A-rô-e và các thị trấn phụ thuộc, tại tất cả các thành nằm trên các nhánh của Ác-nôn đã ba trăm năm, thì tại sao lúc bấy giờ các người không chiếm lại? 27 Tôi đã không xúc phạm đến ông, còn ông đã xử tệ với tôi là giao chiến với tôi. Xin Ðức Chúa, Ðấng phán xét, hôm nay phân xử giữa con cái Ít-ra-en và con cái Am-mon.” 28 Nhưng vua dân Am-mon không nghe những lời ông Gíp-tác sai người nói với vua.

Ông Gíp-tác khấn và thắng trận

29 Thần khí của Ðức Chúa ở trên ông Gíp-tác và ông đã sang Ga-la-át và Mơ-na-se, rồi qua Mít-pa Ga-la-át, và từ Mít-pa Ga-la-át ông qua đánh con cái Am-mon. 30 Ông Gíp-tác khấn hứa với Ðức Chúa rằng: "Nếu Ngài trao con cái Am-mon vào tay con, 31 thì - khi con đã thắng con cái Am-mon mà trở về bình an - hễ người nào ra khỏi cửa nhà con để đón con, người đó sẽ thuộc về Ðức Chúa, và con sẽ dâng nó làm lễ toàn thiêu.” 32 Ông Gíp-tác qua bên con cái Am-mon để giao chiến với chúng, và Ðức Chúa đã trao chúng vào tay ông. 33 Ông đánh chúng tơi bời từ A-rô-e cho tới gần Min-nít, tất cả là hai mươi thành, và cho tới A-vên Cơ-ra-mim. Thật là một cuộc đại bại: con cái Am-mon bị hạ nhục trước mặt con cái Ít-ra-en.

34 Khi ông Gíp-tác trở về Mít-pa, về nhà ông, thì này con gái ông ra đón ông, vừa đánh trống vừa nhảy múa. Cô là con gái độc nhất của ông: ngoài cô ra, ông không có con trai con gái nào khác. 35 Thoạt nhìn thấy cô, ông liền xé áo và nói: "Ôi, con gái của cha, thật con làm khổ cha rồi! Chính con lại ở trong số những kẻ gây bất hạnh cho cha! Cha đã trót mở miệng khấn hứa cùng Ðức Chúa và không thể rút lại được.” 36 Cô thưa với ông: "Thưa cha, cha đã trót mở miệng khấn hứa cùng Ðức Chúa, thì cha cứ thi hành cho con như lời cha đã khấn hứa, vì Ðức Chúa đã cho cha trả thù được con cái Am-mon, kẻ thù của cha.” 37 Cô lại nói với cha: "Xin cha cho con điều này là hoãn cho con hai tháng để con đi lang thang trên các núi đồi, mà khóc cho đời con gái của con cùng với các bạn con.” 38 Ông nói: "Con cứ đi", và ông để cho cô đi hai tháng. Cô ra đi cùng với các bạn, khóc cho đời con gái của cô trên các núi đồi. 39 Hết hai tháng, cô trở về với cha, và ông thi hành cho cô lời ông đã khấn hứa. Cô chưa biết đến việc vợ chồng. Và đã thành mọi tục lệ trong Ít-ra-en, là 40 hằng năm các cô gái Ít-ra-en đi khóc thương con gái ông Gíp-tác, người Ga-la-át, mỗi năm bốn ngày.

Chương 12

Chiến tranh giữa Ép-ra-im và Ga-la-át. Ông Gíp-tác qua đời.

1 Người Ép-ra-im tập hợp lại, vượt sông tới Xa-phôn và nói với ông Gíp-tác: "Tại sao ông vượt sông đánh con cái Am-mon, mà lại không gọi chúng tôi cùng đi? Chúng tôi sẽ nổi lửa đốt nhà ông cho ông chết luôn!” 2 Ông Gíp-tác nói với họ: "Tôi và dân tôi phải tranh chấp ác liệt với con cái Am-mon. Tôi đã cầu cứu các người, mà các người đã chẳng cứu tôi khỏi tay chúng. 3 Tôi thấy không ai cứu, nên đã liều mạng vượt sông đánh con cái Am-mon, và Ðức Chúa đã trao tay chúng vào tay tôi. Vậy tại sao hôm nay các người lại lên gây chiến với tôi?” 4 Ông Gíp-tác tập hợp tất cả các người Ga-la-át và giao chiến với Ép-ra-im. Người Ga-la-át đánh Ép-ra-im tơi bời, vì Ép-ra-im đã nói: "Này quân Ga-la-át! Tụi bay chỉ là người Ép-ra-im đào thoát, ăn bám cả Ép-ra-im lẫn Mơ-na-se.” 5 Ga-la-át chiếm giữ các khúc cạn trên sông Gio-đan, nơi Ép-ra-im có thể qua. Khi có người Ép-ra-im đào thoát nói: "Cho tôi qua", thì những người Ga-la-át hỏi: "Anh có phải là người Ép-ra-im không?" Nếu hắn đáp: "Không", 6 thì họ bảo: "Hãy nói: Síp-bô-lét." Nếu hắn nói: "Xíp-bô-lét", vì hắn không nói đúng được, thì bấy giờ họ bắt lấy hắn mà giết, gần khúc cạn trên sông Gio-đan. Thời gian đó, bốn mươi hai ngàn người Ép-ra-im đã ngã gục.

7 Ông Gíp-tác làm thủ lãnh Ít-ra-en sáu năm, rồi ông Gíp-tác, người Ga-la-át, qua đời và được chôn cất trong thành của mình, ở Ga-la-át.

9. Ông Íp-Xan

8 Sau ông Gíp-tác, thì có ông Íp-xan, người Bê-lem, làm thủ lãnh Ít-ra-en. 9 Ông có ba mươi người con trai và ba mươi người con gái. Ông gả các cô cho người ngoại bang, và hỏi ba mươi người vợ cho các con trai ông, cũng người ngoại bang. Ông làm thủ lãnh Ít-ra-en bảy năm. 10 Rồi ông Íp-xan qua đời và được chôn cất tại Bê-lem.

10. Ông Ê-Lôn

11 Sau ông Íp-xan, thì có ông Ê-lôn, người Dơ-vu-lun, làm thủ lãnh Ít-ra-en. Ông làm thủ lãnh mười năm. 12 Rồi ông Ê-lôn, người Dơ-vu-lun, qua đời và được chôn cất tại Ai-gia-lôn, trong đất Dơ-vu-lun.

11. Ông Áp-Ðôn

13 Sau ông Ê-lôn, thì có ông Áp-đôn, con ông Hi-lên, người Pia-a-thôn, làm thủ lãnh Ít-ra-en. 14 Ông có bốn mươi con trai và ba mươi cháu trai, cỡi bảy mươi con lừa. Ông làm thủ lãnh Ít-ra-en tám năm. 15 Rồi ông Áp-đôn, con ông Hi-lên, người Pia-a-thôn, qua đời và được chôn cất tại Pia-a-thôn, trong đất Ép-ra-im, trên núi của người A-ma-lếch.

Chương 13

12. Ông Sam-Sôn

Truyền tin ông Sam-sôn ra đời

1 Con cái Ít-ra-en lại làm sự dữ trái mắt Ðức Chúa, và Ðức Chúa đã trao họ vào tay người Phi-li-tinh bốn mươi năm.

2 Có một người đàn ông ở Xo-rơ-a, thuộc chi tộc Ðan, tên là Ma-nô-ác. Vợ ông son sẻ và không sinh con. 3 Sứ giả của Ðức Chúa hiện ra với người vợ và nói với bà: "Này, bà là người son sẻ và không sinh con, nhưng bà sẽ có thai và sinh một con trai. 4 Vậy bây giờ phải kiêng cữ: đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh sạch. 5 Vì này bà sẽ có thai và sinh một con trai. Dao cạo sẽ không được lướt trên đầu nó, vì con trẻ sẽ là một na-dia của Thiên Chúa từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu cứu Ít-ra-en khỏi tay người Phi-li-tinh.” 6 Bà đi vào và nói với chồng rằng: "Một người của Thiên Chúa đã đến gặp tôi; hình dáng của người như hình dáng một sứ giả của Thiên Chúa, rất đáng sợ. Tôi đã không dám hỏi người từ đâu tới; và danh tánh người, người cũng không tiết lộ cho tôi. 7 Nhưng người nói với tôi: "Này bà sẽ có thai và sẽ sinh một con trai; bây giờ bà phải kiêng cữ: đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh sạch, vì con trẻ ấy sẽ là một na-dia của Thiên Chúa, từ lòng mẹ cho đến ngày nó chết."

Thiên sứ hiện ra lần thứ hai

8 Ông Ma-nô-ác khẩn cầu Ðức Chúa, ông nói: "Thưa Ngài, xin vui lòng cho người của Thiên Chúa mà Ngài đã sai, đến với chúng con một lần nữa, và dạy chúng con phải làm gì cho đứa trẻ sẽ sinh ra.” 9 Thiên Chúa nghe tiếng ông Ma-nô-ác, và sứ giả của Ðức Chúa lại đến gặp vợ ông, lúc bà đang ở ngoài đồng, khi ông Ma-nô-ác, chồng bà, không có mặt ở đó. 10 Bà vội vã chạy đi báo cho chồng, và nói với ông: "Này người đã gặp tôi hôm trước, lại hiện ra với tôi nữa.” 11 Ông Ma-nô-ác đứng dậy đi theo vợ, đến gặp người kia và nói: "Ngài có phải là người đã nói với bà này không?" Người ấy đáp: "Chính tôi.” 12 Ông Ma-nô-ác nói: "Khi xảy ra như ngài nói, thì đứa bé phải giữ luật nào, và nó phải làm gì?” 13 Sứ giả của Ðức Chúa nói với ông Ma-nô-ác: "Tất cả những điều tôi đã nói với bà ấy thì bà ấy phải giữ. 14 Tất cả những gì bởi cây nho mà ra, thì bà không được ăn, cũng không được uống rượu và thức có men; tất cả những gì không thanh sạch, thì bà không được ăn. Mọi điều tôi đã truyền, thì bà phải tuân giữ.” 15 Ông Ma-nô-ác thưa với sứ giả của Ðức Chúa: "Xin cho phép chúng tôi giữ ngài lại và dọn hầu ngài một con dê tơ!” 16 Sứ giả của Ðức Chúa nói với ông Ma-nô-ác: "Ông có giữ tôi lại, tôi cũng chẳng ăn bánh của ông; nhưng nếu ông dọn lễ toàn thiêu kính Ðức Chúa, thì ông hãy dâng lên Người đi", vì ông Ma-nô-ác không biết người ấy là sứ giả của Ðức Chúa. 17 Bấy giờ ông Ma-nô-ác nói với sứ giả của Ðức Chúa: "Xin ngài cho biết quý danh, để khi xảy ra như ngài nói, chúng tôi sẽ trọng đãi ngài!” 18 Sứ giả của Ðức Chúa nói với ông: "Sao ông lại hỏi tên tôi? Ðó là một điều bí nhiệm.” 19 Bấy giờ ông Ma-nô-ác bắt một con dê tơ và lấy tế phẩm, để dâng làm lễ toàn thiêu trên tảng đá kính Ðức Chúa, Ðấng đã thực hiện những kỳ công, rồi ông Ma-nô-ác và bà vợ đứng nhìn. 20 Khi ngọn lửa từ bàn thờ bốc lên trời, thì sứ giả của Ðức Chúa cũng lên theo trong ngọn lửa của bàn thờ, trước sự chứng kiến của ông Ma-nô-ác và vợ ông; họ phục lạy sát đất. 21 Sứ giả của Ðức Chúa không hiện ra với ông Ma-nô-ác và vợ ông nữa. Bấy giờ ông Ma-nô-ác mới biết vị đó chính là sứ giả của Ðức Chúa. 22 Ông Ma-nô-ác liền nói với vợ: "Chúng ta chết mất thôi, vì đã thấy Thiên Chúa.” 23 Nhưng vợ ông nói với ông: "Nếu Ðức Chúa có ý định giết chúng ta, thì Người đã chẳng nhận lễ toàn thiêu và tế phẩm từ tay chúng ta, đã chẳng cho chúng ta thấy tất cả những điều ấy, và mới đây đã chẳng cho chúng ta nghe một điều như thế.” 24 Bà sinh được một con trai và đặt tên là Sam-sôn. Ðứa bé lớn lên, và Ðức Chúa chúc lành cho nó. 25 Thần khí Ðức Chúa bắt đầu tác động trên Sam-sôn tại Trại Ðan giữa Xo-rơ-a và Ét-ta-ôn.

Chương 14

Ông Sam-sôn kết hôn

1 Ông Sam-sôn xuống Tim-na và để ý đến một phụ nữ trong số các con gái của người Phi-li-tinh tại Tim-na. 2 Ông trở lên và báo cho cha mẹ rằng: "Con đã để ý đến một phụ nữ trong số con gái của người Phi-li-tinh tại Tim-na. Vậy xin cha mẹ cưới cô ấy cho con.” 3 Cha ông cũng như mẹ ông nói: "Trong số con gái của bà con mày và trong tất cả dân tao, không có phụ nữ hay sao mà mày lại đi lấy vợ trong đám người Phi-li-tinh không cắt bì ấy?" Nhưng ông Sam-sôn trả lời cha: "Xin cha cứ cưới cô ấy cho con, vì nàng vừa mắt con.” 4 Cha mẹ ông không biết rằng việc đó là do Ðức Chúa xui khiến, bởi lẽ Người đang tìm cớ cho người Phi-li-tinh gây chuyện, vì thời ấy người Phi-li-tinh đang đô hộ Ít-ra-en.

5 Ông Sam-sôn xuống Tim-na, và khi ông tới các vườn nho ở Tim-na, thì này một con sư tử con rống lên và chồm ra phía ông. 6 Bấy giờ thần khí của Ðức Chúa ập xuống trên ông; ông dùng tay không xé nó ra như xé một con dê con; nhưng ông không cho cha mẹ hay việc ông đã làm. 7 Sau đó ông xuống chuyện trò với người phụ nữ và nàng vừa mắt Sam-sôn. 8 Ít lâu sau, ông trở lại cưới nàng. Ông rẽ qua để xem xác chết con sư tử, thì này có một đàn ong đậu trong bộ xương con sư tử và cả mật nữa. 9 Ông móc ra và cầm trong tay, vừa đi vừa ăn. Rồi khi về nhà, ông biếu cha mẹ và cha mẹ ông cũng ăn. Nhưng ông không cho cha mẹ biết là ông đã móc mật ong từ bộ xương con sư tử. 10 Sau đó cha ông đã xuống gặp người phụ nữ và tại đó ông Sam-sôn làm một bữa tiệc, vì các trai tráng vẫn làm như thế. 11 Khi thấy ông, người ta đã cử ba mươi người trong số bạn hữu để ở với ông.

Ông Sam-sôn ra câu đố

12 Ông Sam-sôn nói với họ: "Tôi ra cho các anh một câu đố. Nếu trong bảy ngày tiệc, các anh giải được câu đố ấy và tìm ra câu đáp, thì tôi sẽ tặng các anh ba mươi chiếc áo lụa quý và ba mươi chiếc khác để thay. 13 Nếu các anh không giải được, thì các anh phải cho tôi ba mươi chiếc áo lụa quý và ba mươi chiếc khác để thay." Họ nói với ông: "Anh ra câu đố đi; chúng tôi nghe đây!” 14 Ông liền nói với họ:

"Thức ăn xuất tự người dùng,

ngọt ngào xuất tự sức hùng, là chi?"

Nhưng sau ba ngày họ vẫn không giải được câu đố.

15 Ngày thứ tư họ nói với vợ ông Sam-sôn: "Hãy dụ chồng chị để anh ấy giải nghĩa câu đố cho chúng tôi, nếu không, chúng tôi sẽ nổi lửa đốt cả chị lẫn nhà cha chị. Có phải để bóc lột chúng tôi mà các người đã mời chúng tôi tới đây hay không?” 16 Vợ ông Sam-sôn khóc tỉ tê bên ông. Nàng nói: "Anh chỉ có ghét em thôi, chẳng yêu em chút nào. Anh ra câu đố cho đồng bào em, mà lại không giải cho em." Ông nói với nàng: "Này, cha mẹ anh, anh cũng còn không giải cho, huống chi là em!” 17 Nhưng nàng khóc tỉ tê bên ông suốt bảy ngày tiệc. Ngày thứ bảy ông đã giải nghĩa cho nàng, vì nàng quấy rầy ông; và nàng giải câu đố cho đồng bào mình.

18 Ngày thứ bảy, trước khi mặt trời lặn, người trong thành nói với ông:

"Cái gì ngọt quá mật ong,

khoẻ hơn sư tử thì ông chịu hàng! "

Ông bảo họ:

"Không cày với bò cái của ta,

tụi bay đã chẳng tìm ra câu này!"

19 Bấy giờ thần khí của Ðức Chúa ập xuống trên ông; ông liền xuống Át-cơ-lôn và giết ba mươi người trong bọn họ, lột áo của những người ấy, rồi trao những áo để thay cho những kẻ đã giải được câu đố. Ông bừng bừng nổi giận trở về nhà cha ông. 20 Còn vợ của ông Sam-sôn, thì được gán cho một người đã làm phù rể cho ông.

Chương 15

Ông Sam-sôn đốt mùa màng của người Phi-li-tinh

1 Ít lâu sau, vào mùa gặt lúa miến, ông Sam-sôn mang một con dê tơ đến thăm vợ. Ông nói: "Tôi muốn vào phòng ngủ của vợ tôi"; nhưng bố vợ không cho ông vào. 2 Bố vợ nói: "Thật sự tôi tưởng là anh đã chán ghét nó, nên tôi đã trao nó cho người đã làm phù rể cho anh. Con em nó lại chẳng khá hơn nó sao? Vậy để con em thay cho chị nó đi!” 3 Ông Sam-sôn nói với họ: "Lần này thì tôi vô tội đối với người Phi-li-tinh, nếu tôi làm hại chúng.” 4 Ông Sam-sôn đi bắt ba trăm con chó sói; lấy đuốc, rồi cột ngược đuôi con này với đuôi con kia và buộc một chiếc đuốc giữa hai đuôi. 5 Ông châm lửa vào đuốc và lùa sói vào đồng lúa chín của người Phi-li-tinh, thiêu rụi từ gốc rạ cho đến bông lúa, thiêu cả nho và ô-liu nữa.

6 Người Phi-li-tinh hỏi: "Ai đã làm chuyện này?" Và người ta đáp: "Ðó là Sam-sôn, con rể của ông người Tim-na, vì ông ấy đã đem vợ hắn gán cho người phù rể của hắn." Những người Phi-li-tinh đi lên, nổi lửa đốt cả nàng lẫn cha nàng. 7 Ông Sam-sôn nói với họ: "Vì chúng bay đã làm như thế, thì tao sẽ trả thù cho được mới thôi.” 8 Ông đánh cho chúng một trận tơi bời, khiến chúng bị thảm bại. Rồi ông xuống ở trong một hốc đá tại Ê-tham.

Hàm lừa

9 Người Phi-li-tinh lên đóng trại ở Giu-đa và tràn ra tới Lê-khi.

10 Người Giu-đa nói với chúng: "Tại sao các anh lại lên chống chúng tôi? " Chúng đáp; "Ðể bắt trói Sam-sôn; chúng tôi lên để xử với hắn như hắn đã xử với chúng tôi” 11 Ba ngàn người Giu-đa xuống hốc đá ở Ê-tham, nói với ông Sam-sôn: "Ông không biết là người Phi-li-tinh đang đô hộ chúng ta sao? Ông đã làm gì cho chúng tôi thế?" Ông trả lời họ: "Chúng xử với tôi làm sao, tôi cũng xử với chúng như vậy!” 12 Họ nói: "Chúng tôi xuống bắt trói và nộp ông cho người Phi-li-tinh!" Ông Sam-sôn nói với họ: "Các anh phải thề với tôi là chính các anh sẽ không đập chết tôi.” 13 Họ đáp: "Chúng tôi chỉ bắt trói và nộp ông cho chúng thôi; chứ giết ông thì chúng tôi không giết." Rồi họ dùng hai chiếc dây thừng mới mà trói ông và xốc ông lên khỏi hốc đá.

14 Ông vào đến Lê-khi, thì người Phi-li-tinh reo hò ra đón ông. Bấy giờ khi thần khí của Ðức Chúa ập xuống trên ông, thì những chiếc dây thừng trên cánh tay ông tựa như những sợi chỉ cháy xèo trong lửa và dây cột tay ông đều tuột xuống. 15 Vớ được một hàm lừa còn tươi, ông đưa tay lượm lấy và dùng nó đánh chết một ngàn người. 16 Ông Sam-sôn nói:

"Với một hàm lừa ta đã giết chúng từng đống,

với một hàm lừa ta đánh chết cả ngàn tên."

17 Nói xong ông liệng chiếc hàm khỏi tay, và gọi nơi ấy là Ra-mát Lê-khi. 18 Ông khát quá, nên kêu cầu Ðức Chúa rằng: "Ngài là Ðấng đã dùng tay tôi tớ Ngài thực hiện cuộc chiến thắng vĩ đại này, mà chẳng lẽ giờ đây con lại phải chết khát và rơi vào tay những kẻ không cắt bì?” 19 Bấy giờ Thiên Chúa xẻ khe đá ở Lê-khi, nước liền vọt ra; ông uống, thấy hồi sức và tỉnh táo lại. Bởi thế người ta gọi nơi ấy là Ên Ha-cô-rê; suối ấy vẫn còn ở Lê-khi cho tới ngày nay. 20 Ông Sam-sôn làm thủ lãnh Ít-ta-en hai mươi năm trong thời người Phi-li-tinh cai trị.

Chương 16

Chuyện xảy ra ở cổng thành Ga-da

1 Ông Sam-sôn đến Ga-da. Tại đây ông gặp một cô điếm và đi với cô. 2 Người ta báo cho những người Ga-da rằng: "Sam-sôn đã tới đây." Họ liền bao vây và rình ông suốt đêm ấy ở cổng thành. Họ ở yên suốt đêm mà rằng: "Ðợi đến tảng sáng, ta sẽ giết hắn.” 3 Nhưng ông Sam-sôn nằm ngủ tới nửa đêm, và giữa đêm ông trỗi dậy, nắm lấy cánh cổng thành cùng với hai cây cột, nhổ luôn cả then ngang, rồi vác lên vai, đi trên đỉnh núi đối diện với Khép-rôn.

Ông Sam-sôn bị Ða-li-la phản trắc

4 Sau đó ông phải lòng một phụ nữ tên là Ða-li-la, ở thung lũng Xô-rếch. 5 Các vương hầu Phi-li-tinh lên gặp cô ta. Họ nói với nàng: "Cô hãy dụ hắn xem bởi đâu hắn có sức mạnh như thế, và chúng tôi phải dùng cách nào mới trị được hắn, trói làm sao mới khống chế được hắn, rồi mỗi người chúng tôi sẽ cho cô một ngàn mốt bạc."

6 Ða-li-la nói với ông Sam-sôn: "Nào cho em biết, em xin anh: bởi đâu anh có sức mạnh như thế? Trói làm sao mới khống chế anh được?” 7 Ông Sam-sôn đáp: "Nếu trói anh bằng bảy dây cung mới, chưa phơi khô, thì anh sẽ mất sức và trở nên như bất cứ một người nào khác.” 8 Các vương hầu Phi-li-tinh đem đến cho nàng bảy dây cung mới chưa phơi khô; nàng dùng các dây ấy trói ông lại, 9 đang khi cho người rình sẵn trong phòng. Nàng nói với ông: "Này anh Sam-sôn! Quân Phi-li-tinh đấy!" Ông liền giật đứt các dây cung như sợi đay đứt khi đụng vào lửa. Thế là sức mạnh của ông không bị tiết lộ.

10 Bấy giờ Ða-li-la nói với ông Sam-sôn: "Anh chỉ xí gạt em thôi, toàn nói xạo không à! Bây giờ hãy cho em biết, em xin anh: phải dùng cái gì mới trói được anh?” 11 Ông nói với nàng: "Nếu trói chặt anh bằng những dây thừng mới, chưa dùng vào việc gì, thì anh sẽ mất sức và trở nên như bất cứ một người nào khác.” 12 Ða-li-la liền lấy những dây thừng mới, trói ông lại, rồi nói: "Này anh Sam-sôn, quân Phi-li-tinh đấy!" Ðang khi cho người rình sẵn trong phòng. Nhưng ông đã giựt bung các dây thừng đó khỏi cánh tay như giựt một sợi chỉ.

13 Ða-li-la lại nói với ông Sam-sôn: "Ðến bây giờ mà anh vẫn còn xí gạt em, toàn nói xạo không à! Hãy cho em biết phải dùng cái gì mới trói được anh!" Ông nói với nàng: "Nếu em kết tóc trên đầu anh thành bảy bím, rồi cột vào dây thừng của khung dệt, đóng cọc siết cho chặt, thì anh sẽ mất sức và trở nên như bất cứ người nào khác.” 14 Vậy nàng làm cho ông ngủ, đoạn kết tóc trên đầu ông thành bảy bím rồi cột vào dây thừng của khung dệt và đóng cọc siết cho chặt. Nàng nói với ông: "Này anh Sam-sôn, quân Phi-li-tinh đấy!" Ông tỉnh giấc và bứng cả cọc, cả khung dệt, lẫn dây thừng của khung dệt.

15 Nàng lại nói với ông: "Làm sao anh nói là anh yêu em, trong khi anh không thật lòng với em? Ðây là lần thứ ba anh xí gạt em và không tỏ cho em biết: bởi đâu anh có sức mạnh như thế?” 16 Vì ngày nào nàng cũng dùng hết lời lẽ mà nài ép và làm khổ ông, khiến ông héo hắt đến chết được, 17 ông thổ lộ hết tâm can với nàng, và nói: "Dao cạo chưa hề đụng đến đầu anh, vì anh là một na-dia của Thiên Chúa từ lúc còn trong lòng mẹ. Nếu anh bị cạo đầu thì anh sẽ mất sức ngay, trở nên yếu nhược và như mọi người khác.” 18 Ða-li-la thấy rằng ông đã thổ lộ hết tâm can với nàng, liền sai người đi gọi các vương hầu Phi-li-tinh và nói: "Lần này các ông hãy lên, vì anh ấy đã thổ lộ hết tâm can với tôi." Các vương hầu Phi-li-tinh liền lên gặp nàng, mang sẵn bạc trong tay. 19 Vậy nàng làm cho ông ngủ trên đầu gối mình, rồi kêu người cạo bảy bím tóc trên đầu ông; nàng bắt đầu khống chế ông, và ông đã mất sức. 20 Nàng nói: "Này anh Sam-sôn, quân Phi-li-tinh đấy!" Ông tỉnh giấc và nói: "Mình sẽ bung ra như mọi lần và lại thoát thôi." Nhưng ông đâu có biết: Ðức Chúa không còn ở với ông nữa. 21 Quân Phi-li-tinh bắt lấy ông, móc mắt và giải ông xuống Ga-da. Chúng chập xích đồng lại, cột ông và bắt ông kéo cối xay trong nhà tù.

Ông Sam-sôn trả thù rồi chết

22 Nhưng rồi từ cái đầu bị cạo trọc, tóc ông lại mọc ra. 23 Các vương hầu Phi-li-tinh họp lại để long trọng tế thần Ða-gôn của chúng và ăn mừng. Chúng nói:

"Thần của ta đã trao vào tay ta tên Sam-sôn, kẻ thù của ta."

24 Khi nhìn thấy ông, dân chúng reo hò tung hô thần của chúng và nói:

"Thần của ta đã trao vào tay ta tên Sam-sôn, kẻ thù của ta,

kẻ tàn phá xứ sở ta, kẻ tăng thêm số tử vong của ta."

25 Trong khi lòng hả hê, chúng nói: "Hãy gọi Sam-sôn ra làm trò tiêu khiển cho chúng ta!" Vậy chúng kêu ông Sam-sôn từ nhà tù đến; và ông làm trò tiêu khiển trước mặt chúng. Rồi chúng đặt ông đứng giữa các cột. 26 Bấy giờ ông Sam-sôn nói với cậu thiếu niên đang dắt tay ông: "Cậu dẫn tôi đi và cho tôi sờ vào các cột cái chống đỡ toà nhà, để tôi dựa lưng.” 27 Toà nhà lúc đó đầy chật đàn ông đàn bà. Tất cả các vương hầu Phi-li-tinh đều ở đó, và trên sân thượng có khoảng ba ngàn đàn ông đàn bà đang coi ông Sam-sôn làm trò tiêu khiển. 28 Ông Sam-sôn kêu cầu Ðức Chúa và thưa: "Lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng của con, xin nhớ đến con và ban sức cho con lần này nữa thôi, ôi lạy Thiên Chúa, để chỉ đánh một trận là con trả thù được quân Phi-li-tinh đã móc mắt con.” 29 Bấy giờ ông Sam-sôn rờ vào hai chiếc cột ở giữa, là những cột cái chống đỡ toà nhà, và ông tì vào các cột ấy, tay mặt bên này, tay trái bên kia. 30 Rồi ông Sam-sôn nói: "Ðành chết với bọn Phi-li-tinh vậy!" Ðoạn ông dùng sức đẩy mạnh, và toà nhà sụp đổ đè các vương hầu và tất cả dân chúng có mặt ở đó. Thành ra số người ông giết được khi ông chết lại đông hơn số người ông đã giết được khi còn sống. 31 Anh em ông và cả nhà cha ông xuống đưa ông về chôn cất giữa Xo-rơ-a và Ét-ta-ôn trong phần mộ ông Ma-nô-ác, cha ông. Ông làm thủ lãnh Ít-ra-en được hai mươi năm.

Chương 17

Phụ Lục

1. Nhà Thờ Của Ông Mi-Kha Và Nhà Thờ Của Họ Ðan

Nhà thờ tư của ông Mi-kha

1 Xưa có một người thuộc vùng núi Ép-ra-im, tên là Mi-kha-giơ-hu. 2 Ông thưa với bà mẹ: "Số bạc một ngàn một trăm thỏi mà người ta đã lấy mất của mẹ, khiến mẹ chửi rủa và mẹ cũng đã nói cho con nghe, thì này số bạc đó, con đang giữ đây; chính con đã lấy đó." Mẹ ông liền nói: "Xin Ðức Chúa chúc lành cho con tôi!” 3 Ông trả lại mẹ ông số bạc một ngàn một trăm thỏi, nhưng mẹ ông nói: "Chính tay mẹ đã dâng hiến trọn số bạc này cho Ðức Chúa, để con của mẹ dùng làm một tượng, một hình đúc bằng kim khí. Vậy bây giờ mẹ đưa lại cho con."

4 Nhưng ông trả số bạc lại cho mẹ. Mẹ ông giữ lấy hai trăm thỏi, rồi trao cho thợ đúc, người này làm một tượng, một hình đúc, đặt tại nhà ông Mi-kha-giơ-hu. 5 Ông Mi-kha này có một nhà thờ; ông đã làm một ê-phốt và các te-ra-phim, rồi phong cho một người trong các con làm tư tế cho ông. 6 Thời đó Ít-ra-en không có vua, ai muốn làm gì thì làm.

7 Có một thanh niên, người Bê-lem Giu-đa, thuộc chi tộc Giu-đa. Anh là một thầy Lê-vi ở đó như khách trú. 8 Người ấy đi khỏi thành Bê-lem Giu-đa để tìm chỗ cư trú. Trên đường đi, anh vào vùng núi Ép-ra-im đến nhà ông Mi-kha. 9 Ông Mi-kha nói với anh: "Anh từ đâu tới?" Anh nói với ông: "Tôi là một người Lê-vi thuộc Bê-lem Giu-đa; tôi đi tìm chỗ cư trú.” 10 Ông Mi-kha nói với anh: "Xin ở lại đây với tôi, để làm sư phụ và tư tế cho tôi. Phần tôi, mỗi năm tôi sẽ cung cấp cho anh mười thỏi bạc, áo mặc và lương thực cần dùng.” 11 Thầy Lê-vi đồng ý ở lại với ông; người trẻ tuổi ấy được ông coi như một trong các con ông. 12 Ông Mi-kha phong cho thầy Lê-vi làm tư tế; người trẻ tuổi ấy trở thành tư tế của ông và ở trong nhà ông Mi-kha. 13 Ông Mi-kha nói: "Bây giờ tôi biết Ðức Chúa sẽ phù hộ tôi vì tôi đã có một thầy Lê-vi làm tư tế."

Chương 18

Những người thuộc chi tộc Ðan đi kiếm đất

1 Thời ấy Ít-ra-en không có vua. Cũng thời ấy chi tộc Ðan đang tìm đất làm gia nghiệp để định cư, vì cho tới ngày đó họ không được lãnh phần gia nghiệp riêng giữa các chi tộc Ít-ra-en. 2 Vậy con cái Ðan sai năm người dũng cảm trong thị tộc của họ, ra khỏi ranh giới Xo-rơ-a và Ét-ta-ôn, rảo quanh khắp xứ để do thám. Họ nói với những người này: "Các anh hãy đi do thám đất đai." Năm người đi vào vùng núi Ép-ra-im. Ðến gần nhà ông Mi-kha và qua đêm tại đây. 3 Vì họ ở cạnh nhà ông Mi-kha, nên đã nhận ra tiếng của chàng thanh niên Lê-vi; họ đã rẽ qua đó và nói với anh: "Ai đã bảo anh tới đây? Anh làm gì ở đây? Chuyện gì đã xảy ra cho anh tại đây?” 4 Anh trả lời họ: "Ông Mi-kha đã làm cho tôi thế này thế này: ông đã thuê tôi và tôi đã trở thành tư tế của ông.” 5 Họ nói với anh: "Xin anh thỉnh vấn Thiên Chúa cho chúng tôi biết công cuộc chúng tôi đang theo đuổi có thành tựu hay không.” 6 Thầy tư tế bảo họ: "Các anh cứ đi bình an; Ðức Chúa để mắt nhìn xem công cuộc các anh đang theo đuổi."

7 Năm người ấy ra đi. Họ vào La-gít và thấy dân chúng ở đây an cư lạc nghiệp theo kiểu người Xi-đôn, yên lành và an tâm, không thiếu hụt gì trong xứ. Dân chúng thừa hưởng của cải, lại ở xa người Xi-đôn, và không có chuyện gì với ai cả. 8 Năm người ấy trở về với anh em ở Xo-rơ-a và Ét-ta-ôn. Anh em họ hỏi: "Thế nào?” 9 Họ đáp: "Ðứng lên! Chúng ta hãy lên đánh chúng! Vì chúng tôi đã thấy xứ đó: Thật là tuyệt vời! Thế mà các anh cứ điềm nhiên! Ðừng chần chừ nữa: đi đi, vào chiếm lấy xứ ấy! 10 Tới nơi các anh sẽ gặp một dân yên lành, một xứ mênh mông bốn bề bát ngát. Chắc chắn là Thiên Chúa đã trao đất ấy vào tay các anh: Ðó là một nơi không thiếu hụt gì trên mặt đất."

Cuộc di dân của họ Ðan

11 Vậy một số người thuộc chi tộc Ðan, là sáu trăm người được võ trang để chiến đấu, đã rời khỏi nơi ấy, từ Xo-rơ-a và từ Ét-ta-ôn. 12 Họ tiến lên đóng trại tại Kia-giát Giơ-a-rim miền Giu-đa. Bởi thế người ta gọi nơi ấy là Trại Ðan cho tới ngày nay. Nơi ấy ở phía tây Kia-giát Giơ-a-rim. 13 Từ đấy họ qua vùng núi Ép-ra-im và đến tận nhà ông Mi-kha.

14 Năm người đã đi thăm dò đất La-gít lên tiếng nói với anh em họ: "Các anh biết không? Trong các ngôi nhà đó có một ê-phốt, mấy te-ra-phim, một tượng, một hình đúc bằng kim khí. Vậy bây giờ các anh nghĩ xem phải làm gì.” 15 Họ rẽ qua hướng đó, vào nhà thầy Lê-vi trẻ tuổi, trong nhà ông Mi-kha, và chào hỏi thầy, 16 đang khi sáu trăm người trong số con cái họ Ðan, được võ trang để chiến đấu, chực sẵn ở ngưỡng cửa. 17 Năm người đã đi thăm dò đất và đã vào đấy, liền lấy tượng, ê-phốt, te-ra-phim và hình đúc bằng kim khí đang khi thầy tư tế chực sẵn ở ngưỡng cửa cùng với sáu trăm người được võ trang để chiến đấu. 18 Vậy những người ấy đã vào nhà ông Mi-kha lấy tượng, ê-phốt, te-ra-phim và hình đúc bằng kim khí. Nhưng thầy tư tế nói với họ: "Các anh làm gì thế?” 19 Họ bảo thầy: "Im! Lấy tay bịt miệng lại và đi theo chúng tôi, thầy sẽ là sư phụ và tư tế của chúng tôi. Thầy làm tư tế cho gia đình của một người hơn là cho cả một chi tộc và một thị tộc trong Ít-ra-en sao?” 20 Thầy Tư tế, lòng đầy phấn khởi, liền cầm lấy ê-phốt, te-ra-phim và hình đúc bằng kim khí, rồi nhập đoàn với họ.

21 Họ lui gót ra đi. Họ để đàn bà, con trẻ, súc vật và hành lý đi trước. 22 Khi những người ấy đã đi xa nhà ông Mi-kha, thì hàng xóm láng giềng của ông Mi-kha tri hô lên, và rượt theo con cái Ðan. 23 Họ gọi theo con cái Ðan; những người này quay lại, nói với ông Mi-kha: "Chuyện gì mà ông la ó thế?” 24 Ông trả lời: "Các ngươi đánh cắp tượng thần ta đã làm, lại còn rước cả tư tế đi, thì ta còn gì nữa? Vậy mà còn hỏi "Chuyện gì thế", thế là thế nào?” 25 Con cái Ðan đáp: "Ðừng bắt chúng tôi phải nghe ông nói nữa, kẻo những kẻ bực bội sẽ tấn công các người, và ông cùng gia đình ông sẽ mất mạng.” 26 Rồi con cái Ðan tiếp tục đi. Còn ông Mi-kha, thấy họ mạnh hơn mình, thì quay gót trở về nhà.

Chiếm La-gít. Thiết lập họ Ðan và nhà thờ.

27 Các người ấy lấy tượng ông Mi-kha đã làm, và đem theo thầy tư tế đã ở với ông; rồi họ đánh La-gít, chống một dân yên lành và an tâm. Họ dùng lưỡi kiếm chém giết dân ấy và nổi lửa đốt thành. 28 Không có ai tiếp cứu, vì thành ấy ở xa Xi-đôn và không có liên hệ gì với ai cả. Thành ấy nằm trong thung lũng gần Bết Rơ-khốp. Họ xây lại thành và định cư ở đấy. 29 Họ đặt tên thành là Ðan, theo tên ông tổ của họ là Ðan, con của ông Ít-ra-en. Thực ra trước kia tên thành là La-gít. 30 Con cái Ðan dựng tượng ấy lên mà thờ. Ông Giơ-hô-na-than, con ông Ghéc-sôm, cháu ông Mơ-na-se, ông và con cái ông làm tư tế cho họ Ðan mãi tới ngày dân trong nước bị lưu đày. 31 Vậy tượng ông Mi-kha đã làm, thì họ dựng lên mà thờ, trong suốt thời gian có nhà Thiên Chúa ở Si-lô.

Chương 19

2. Tội Ác Của Dân Ghíp-A.

Chiến Tranh Chống Ben-Gia-Min.

Người Lê-vi vùng Ép-ra-im và cô tỳ thiếp

1 Thời ấy -thời Ít-ra-en chưa có vua- có một người Lê-vi cư trú trong thung lũng vùng núi Ép-ra-im. Người ấy lấy một phụ nữ Bê-lem Giu-đa làm tỳ thiếp. 2 Người tỳ thiếp giận chồng, bỏ về nhà cha mình tại Bê-lem Giu-đa. Nàng lưu lại đây một thời gian là bốn tháng. 3 Chồng nàng lên đường đi tìm nàng để năn nỉ, mong đưa nàng về với mình. Cùng đi với chàng, có một người đầy tớ và hai con lừa. Nàng dẫn chàng vào nhà cha mình. Khi thấy chàng, người cha của thiếu phụ vui mừng ra đón chàng. 4 Ông bố vợ, cha của thiếu phụ, giữ chàng lại, nên chàng ở với ông ba ngày. Họ ăn uống và qua đêm tại đó. 5 Ngày thứ tư, chàng dậy sớm và chuẩn bị lên đường, thì cha của thiếu phụ nói với con rể: "Anh dùng chút bánh lót dạ đã, rồi hãy đi.” 6 Họ ngồi xuống và cả hai cùng ăn uống với nhau. Ðoạn cha của thiếu phụ lại nói với anh ta: "Mời anh ở lại qua đêm cho thoải mái.” 7 Khi người ấy đứng lên đi, thì ông bố vợ nài ép, nên chàng ở lại qua đêm nữa. 8 Ngày thứ năm chàng dậy sớm để lên đường, nhưng cha của thiếu phụ nói: "Mời anh ăn lót dạ đã." Thế là họ lại kéo dài tới xế chiều và cả hai cùng ăn với nhau. 9 Khi người ấy đứng lên đi cùng với người tỳ thiếp và tên đầy tớ, thì bố vợ, cha của thiếu phụ, nói với chàng: "Này trời đã về chiều, hãy qua đêm đã! Ðây ngày sắp tàn, hãy qua đêm tại đây cho thoải mái. Ngày mai các người sẽ dậy sớm lên đường và anh sẽ về lều của anh.” 10 Nhưng người ấy không muốn ở lại qua đêm; chàng đứng lên và đi cho tới khi nhìn thấy Giơ-vút tức là Giê-ru-sa-lem. Cùng đi với chàng có hai con lừa đã thắng yên, người tỳ thiếp và tên đầy tớ của chàng.

Tội ác của dân Ghíp-a

11 Khi họ đến gần Giơ-vút, thì lúc ấy, giờ đã quá muộn. Người đầy tớ nói với chủ: "Thưa ngài, chúng ta nên rẽ vào thành của người Giơ-vu-xi mà qua đêm tại đó.” 12 Người chủ trả lời: "Chúng ta sẽ không rẽ vào một thành nào của người xa lạ, vì những người đó không phải là con cái Ít-ra-en; chúng ta cứ đi cho tới Ghíp-a.” 13 Chàng còn nói với tên đầy tớ: "Ði! Chúng ta hãy tới một trong các nơi kia; chúng ta sẽ nghỉ đêm tại Ghíp-a hoặc Ra-ma.” 14 Vậy họ tiếp tục đi; khi họ tới sát Ghíp-a thuộc Ben-gia-min thì mặt trời lặn. 15 Họ liền ghé vào Ghíp-a để qua đêm. Chàng vào ngồi ở công trường thành phố, nhưng không ai mời họ về nhà nghỉ đêm.

16 Chiều đến bỗng có một cụ già đi làm ruộng về. Cụ là người vùng núi Ép-ra-im, nhưng cư trú ở Ghíp-a; còn người địa phương thì là con cái Ben-gia-min. 17 Cụ già ngước mắt lên và thấy người lữ khách ở công trường thành phố, liền nói với người ấy: "Anh đi đâu, và từ đâu tới?” 18 Chàng trả lời: "Chúng tôi từ Bê-lem Giu-đa đi về thung lũng vùng núi Ép-ra-im, quê tôi ở đấy. Tôi đã đến Bê-lem Giu-đa và bây giờ đang trên đường trở về nhà. Thế nhưng chẳng người nào đón tiếp tôi cả. 19 Cỏ rơm cho lừa ăn, tôi có sẵn, cả bánh và rượu để tôi, nữ tỳ của ông và thằng bé đi theo tôi tớ của ông dùng, cũng đều có, không thiếu thứ gì.” 20 Cụ già nói: "Chúc anh bình an! Anh cần gì, cứ để tôi lo; chỉ xin anh đừng nghỉ đêm ở công trường.” 21 Vậy cụ đưa chàng vào nhà mình và vất rơm cho lừa ăn. Họ rửa chân rồi ăn uống.

22 Ðang lúc họ ăn uống vui vẻ như vậy, thì này có những người dân trong thành, những kẻ vô lại, bao vây nhà ấy, vừa đập cửa dồn dập, vừa nói với cụ già là gia chủ: "Hãy đưa người đàn ông đã vào nhà ông ra đây cho chúng tôi chơi!” 23 Cụ chủ nhà ra gặp chúng và nói: "Này anh em, tôi van anh em đừng làm chuyện ác đức! Một khi người đàn ông này đã vào nhà tôi rồi, thì xin các anh đừng làm điều bỉ ổi. 24 Này tôi có đứa con gái còn trinh, và người tỳ thiếp của anh ta nữa. Tôi đưa họ ra cho các anh cưỡng hiếp và xử với họ thế nào tuỳ ý. Còn đối với người này thì đừng làm điều bỉ ổi ấy.” 25 Nhưng đám người đó không thèm nghe. Bấy giờ người kia dẫn tỳ thiếp của mình ra ngoài cho chúng chơi. Chúng cưỡng hiếp nàng suốt đêm cho tới sáng, và lúc rạng đông mới buông tha.

26 Gần sáng, khi người đàn bà trở về, thì nàng té xỉu ngay lối vào nhà cụ già, nơi chồng nàng đang trọ. Nàng nằm đấy cho tới sáng hẳn. 27 Sáng ngày ra chồng nàng dậy, mở cửa và chuẩn bị lên đường, thì này người đàn bà, tỳ thiếp của chàng nằm bên cửa nhà, hai tay vắt trên ngưỡng cửa. 28 Chàng gọi nàng: "Dậy đi! Chúng ta lên đường", nhưng không một tiếng trả lời. Bấy giờ chàng xốc nàng lên lừa, rồi khởi hành về nhà. 29 Về tới nhà, chàng lấy dao đem chặt người tỳ thiếp ra từng mảnh, thành mười hai phần, rồi gởi đi khắp lãnh thổ Ít-ra-en. 30 Mọi người, ai thấy cũng đều nói: "Chưa xảy ra và chưa hề thấy như thế bao giờ, kể từ ngày con cái Ít-ra-en từ đất Ai-cập đi lên cho tới nay. Hãy suy nghĩ xem, hãy bàn luận và lên tiếng!"

Chương 20

Người Ít-ra-en trả thù tội ác Ghíp-a

1 Tất cả cộng đồng con cái Ít-ra-en, từ Ðan tới Bơ-e Se-va và đất Ga-la-át, họp lại, muôn người như một, bên cạnh Ðức Chúa ở Mít-pa. 2 Các người đứng đầu toàn dân và các chi tộc Ít-ra-en, đều tham dự công hội của Dân Thiên Chúa, tất cả là 400.000 bộ binh biết tuốt gươm. 3 Con cái Ben-gia-min nghe tin rằng con cái Ít-ra-en đã lên Mít-pa. Con cái Ít-ra-en nói: "Hãy kể đi! Tội ác đó đã xảy ra thế nào?” 4 Bấy giờ người Lê-vi, chồng của người đàn bà đã bị giết, lên tiếng nói: "Tôi cùng với người tỳ thiếp đến Ghíp-a thuộc Ben-gia-min để nghỉ đêm. 5 Các thân hào Ghíp-a đã xông đến phá tôi, và suốt đêm bao vây nhà tôi ở, để hại tôi, vì họ định giết tôi. Còn người tỳ thiếp của tôi thì họ cưỡng hiếp cho đến chết. 6 Vậy tôi đã đem chặt người tỳ thiếp của tôi ra từng phần, rồi gởi đi khắp lãnh thổ thuộc gia nghiệp Ít-ra-en, bởi vì những người ấy đã làm một điều sỉ nhục và bỉ ổi trong Ít-ra-en. 7 Này đây, tất cả quý vị là con cái Ít-ra-en, hãy trao đổi ý kiến và quyết định tại đây.” 8 Toàn dân, muôn người như một, đứng lên nói: "Không ai được về lều, không ai được trở lại nhà! 9 Bây giờ, chúng ta sẽ làm thế này đối với Ghíp-a, là rút thăm xem ai sẽ lên tấn công nó! 10 Trong tất cả các chi tộc Ít-ra-en, cứ 100 người thì lấy 10, 1.000 thì lấy 100, 10.000 thì lấy 1.000, để tải lương cho dân quân, là những người khi đến nơi sẽ xử với Ghíp-a thuộc Ben-gia-min, tương xứng với điều bỉ ổi nó đã làm tại Ít-ra-en.” 11 Như thế tất cả mọi người Ít-ra-en đã họp nhau muôn người như một, để chống lại thành ấy.

Người Ben-gia-min ngoan cố

12 Các chi tộc Ít-ra-en sai người đi nói với toàn thể chi tộc Ben-gia-min: "Tội ác như vậy đã xảy ra nơi các người là thế nào? 13 Bây giờ hãy nộp những con người đó, những kẻ vô lại ở Ghíp-a, để chúng tôi xử tử chúng và khử trừ tội ác khỏi Ít-ra-en." Nhưng con cái Ben-gia-min không muốn nghe lời con cái Ít-ra-en là anh em mình.

Giao tranh đầu tiên

14 Bấy giờ con cái Ben-gia-min từ các thành tập họp lại ở Ghíp-a để đi giao chiến với con cái Ít-ra-en. 15 Ngày hôm ấy, con cái Ben-gia-min từ các thành được kiểm tra là 26.000 người biết tuốt gươm, không kể dân cư ở Ghíp-a. 16 Trong tất cả đám dân đó có 700 tinh binh thuận tay trái; những người này đều có thể dùng ná bắn một hòn đá trúng một sợi tóc mà không sai trệch. 17 Con cái Ít-ra-en cũng được kiểm tra, tổng số là 400.000 người biết tuốt gươm, không kể Ben-gia-min; tất cả đều là chiến binh. 18 Họ chỗi dậy tiến lên Bết Ên để thỉnh vấn Thiên Chúa. Con cái Ít-ra-en hỏi: "Ai trong chúng con sẽ lên trước để giao chiến với con cái Ben-gia-min?" Ðức Chúa phán: "Giu-đa lên trước.” 19 Sáng sớm con cái Ít-ra-en tiến lên đóng trại tấn công Ghíp-a. 20 Người Ít-ra-en ra đi giao chiến với Ben-gia-min, và người Ít-ra-en dàn trận chống Ghíp-a. 21 Con cái Ben-gia-min từ Ghíp-a xông ra, và hôm ấy họ giết được 22 000 người Ít-ra-en nằm ngổn ngang trên mặt đất. 22 Nhưng đạo quân Ít-ra-en phục hồi được khí thế và lại dàn trận để chiến đấu tại chính nơi đã dàn trận hôm trước. 23 Sở dĩ như thế là vì con cái Ít-ra-en đã lên kêu khóc trước nhan Ðức Chúa cho đến chiều và thỉnh vấn Ðức Chúa rằng: "Con còn phải giao tranh chống con cái Ben-gia-min, anh em con nữa không?" Ðức Chúa trả lời: "Tiến lên đánh nó đi!” 24 Ngày thứ hai con cái Ít-ra-en tới gần con cái Ben-gia-min. 25 Nhưng ngày thứ hai này Ben-gia-min từ Ghíp-a cũng xông ra ứng chiến, và trong số con cái Ít-ra-en họ còn giết được 18.000 người nằm ngổn ngang trên mặt đất, toàn là những người biết tuốt gươm. 26 Bấy giờ tất cả con cái Ít-ra-en và toàn dân đã lên Bết Ên; họ ngồi khóc tại đây trước nhan Ðức Chúa. Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều. Rồi họ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an lên trước nhan Ðức Chúa. 27 Con cái Ít-ra-en đã thỉnh vấn Ðức Chúa - thời bấy giờ ở đấy có Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa, 28 và có ông Pin-khát con ông E-la-da, cháu ông A-ha-ron, túc trực trước Hòm Bia - họ hỏi rằng: "Con còn phải lâm trận chống con cái Ben-gia-min, anh em con nữa hay là thôi?" Ðức Chúa trả lời: "Các ngươi cứ lên, vì sáng mai Ta sẽ trao chúng vào tay (các) ngươi."

Ben-gia-min bại trận

29 Bấy giờ Ít-ra-en đặt quân phục kích bao vây Ghíp-a. 30 Ngày thứ ba, con cái Ít-ra-en tiến lên đánh con cái Ben-gia-min, và dàn trận tấn công Ghíp-a như nhữmg lần trước. 31 Con cái Ben-gia-min xông ra ứng chiến với đạo quân ấy và bị nhử ra xa thành. Như những lần trước, chúng bắt đầu giết một số người Ít-ra-en, chừng ba mươi mạng trong đám dân quân ấy, trên những con đường, ngả thì lên Bết Ên, ngả thì đi đến Ghíp-a, giữa đồng trống. 32 Con cái Ben-gia-min bảo nhau: "Bọn chúng lại bị ta đánh cho tháo chạy như lần trước"; nhưng con cái Ít-ra-en lại tự nhủ: "Trốn chạy đi! Ta sẽ nhử chúng ra xa thành, tới các con đường ấy.” 33 Mọi người Ít-ra-en từ vị trí của mình vùng lên và dàn trận tại Ba-an Ta-ma, đồng thời những người Ít-ra-en mai phục cũng từ vị trí của mình vùng lên ở phía tây Ghe-va. 34 Vậy 10.000 tinh binh được chọn từ khắp Ít-ra-en tiến đến ngay trước Ghíp-a. Giao tranh dữ dội xảy ra, mà người Ben-gia-min không hay biết tai hoạ đang ập xuống trên mình. 35 Ðức Chúa đánh cho Ben-gia-min tháo chạy trước Ít-ra-en, và hôm đó con cái Ít-ra-en đã giết được 25.100 người Ben-gia-min, toàn là những người biết tuốt gươm.

36 Con cái Ben-gia-min thấy mình bị đánh bại, nhưng người Ít-ra-en nhường đất lại cho người Ben-gia-min, vì họ tin tưởng ở quân mai phục họ đã đặt bao vây Ghíp-a. 37 Quân mai phục tấn công chớp nhoáng Ghíp-a; họ xông ra và dùng gươm tàn sát cả thành. 38 Giữa người Ít-ra-en và quân mai phục đã có lời hẹn rằng quân mai phục sẽ đốt lửa cho khói bốc lên khỏi thành làm hiệu. 39 Người Ít-ra-en sẽ rút khỏi trận địa, khi người Ben-gia-min bắt đầu giết một số chừng ba mươi người Ít-ra-en, vì chúng nói: "Chắc chắn là nó hoàn toàn bị ta đánh bại như lần trước.” 40 Rồi một cột khói làm hiệu bắt đầu bốc lên khỏi thành. Người Ben-gia-min liền quay trở lại, thì này toàn thành như lửa bốc cháy ngút trời. 41 Bấy giờ người Ít-ra-en quay lại phản công, khiến người Ben-gia-min khiếp vía, vì thấy tai hoạ đang ập xuống trên mình.

42 Chúng quay đầu chạy về phía sa mạc để trốn người Ít-ra-en, nhưng trận chiến cũng lan tới chúng, và chúng bị những người từ các thành xông ra tiêu diệt giữa đường. 43 Họ vây chặt người Ben-gia-min, rượt bắt không ngừng và đè bẹp chúng cho đến khi trông thấy Ghíp-a, về hướng mặt trời mọc. 44 Phía Ben-gia-min có 18.000 người ngã gục, tất cả đều là dũng sĩ. 45 Còn những kẻ quay đầu chạy trốn vào sa mạc, về phía Tảng đá Rim-môn, thì người ta giết tỉa được 5.000 trên các nẻo đường; họ bám sát chúng cho tới Ghít-ôm và giết thêm được 2.000 nữa. 46 Những người Ben-gia-min đã ngã gục hôm ấy tính tất cả là 25.000 biết tuốt gươm, toàn là dũng sĩ. 47 Những kẻ quay đầu chạy trốn vào sa mạc tới được Tảng đá Rim-môn là 600 người; chúng ở tảng đá Rim-môn bốn tháng. 48 Người Ít-ra-en trở lại đánh con cái Ben-gia-min; họ dùng gươm tàn sát từ đàn ông trong thành cho đến súc vật và tất cả những gì họ gặp. Tới thành nào, họ cũng đều phóng hoả.

Chương 21

Người Ít-ra-en hối hận

1 Người Ít-ra-en đã thề tại Mít-pa rằng: "Không ai trong chúng ta sẽ gả con gái mình cho người Ben-gia-min.” 2 Dân chúng đến Bết Ên và ở lại đó trước nhan Thiên Chúa cho đến chiều; họ cất tiếng khóc nức nở. 3 Họ nói: "Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, tại sao lại xảy ra chuyện này, là ngày nay Ít-ra-en mất đi một chi tộc?” 4 Sáng hôm sau, dân dậy sớm và lập bàn thờ ở đó, rồi dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an. 5 Con cái Ít-ra-en nói: "Trong tất cả các chi tộc Ít-ra-en, ai là người đã không lên dự công hội chầu Ðức Chúa?" vì ai đã không lên chầu Ðức Chúa ở Mít-pa, thì đã có lời thề long trọng chống lại kẻ ấy rằng: "Chắc chắn nó phải chết."

6 Thấy tội nghiệp cho Ben-gia-min anh em mình, con cái Ít-ra-en nói: "Hôm nay một chi tộc đã bị cắt đứt khỏi Ít-ra-en. 7 Chúng ta sẽ làm gì để tìm vợ cho những kẻ còn sống sót, vì chúng ta đã thề nhân danh Ðức Chúa là không gả con gái mình cho chúng?"

Các trinh nữ Gia-vết được trao cho người Ben-gia-min

8 Họ lại hỏi: "Trong các chi tộc Ít-ra-en có ai đã không lên chầu Ðức Chúa ở Mít-pa?" Thì ra chẳng có ai thuộc Gia-vết thuộc Ga-la-át đã lên trại, dự công hội. 9 Quả thật khi người ta kiểm tra dân chúng, thì ở đấy không có ai là người thuộc dân cư Gia-vết thuộc Ga-la-át cả. 10 Bấy giờ cộng đồng ở đó sai 12.000 người trong số các dũng sĩ và truyền cho họ rằng: "Các anh hãy dùng gươm đi giết dân cư Gia-vết thuộc Ga-la-át, kể cả đàn bà con nít. 11 Ðây là điều các anh sẽ làm: tất cả đàn ông đàn bà đã biết chuyện vợ chồng, các anh sẽ tru hiến hết.” 12 Trong số dân cư Gia-vết thuộc Ga-la-át, họ tìm được bốn trăm thiếu nữ còn trinh, nghĩa là chưa ăn nằm với đàn ông, và đã đem các cô về trại Si-lô trong đất Ca-na-an. 13 Toàn thể cộng đồng sai người đi nói chuyện với con cái Ben-gia-min ở Tảng đá Rim-môn và đề nghị hoà hoãn với họ. 14 Bấy giờ người Ben-gia-min trở về và người ta trao cho họ những phụ nữ còn sống sót trong số các phụ nữ Gia-vết thuộc Ga-la-át, nhưng không tìm được đủ số cho họ.

Bắt cóc các cô gái Si-lô

15 Dân chúng thấy tội nghiệp cho Ben-gia-min, vì Ðức Chúa đã làm cho các chi tộc Ít-ra-en bị một vết nứt rạn. 16 Bấy giờ các kỳ mục của cộng đồng nói: "Chúng ta sẽ làm gì để tìm vợ cho những kẻ còn sống sót, vì các phụ nữ Ben-gia-min đã bị tiêu diệt?” 17 Họ nói: "Ben-gia-min sẽ chiếm phần còn sót lại, để một chi tộc không bị xoá khỏi Ít-ra-en, 18 Thế mà chúng ta lại không thể gả con gái mình cho chúng được!" Sở dĩ như vậy vì con cái Ít-ra-en đã thề rằng: "Vô phúc cho ai gả con gái cho Ben-gia-min!"

19 Nhưng họ lại nói: "Này hàng năm có lễ kính Ðức Chúa tại Si-lô, mạn bắc Bết Ên, phía đông con đường từ Bết Ên lên Si-khem và phía nam Lơ-vô-na. 20 Vậy họ truyền cho con cái Ben-gia-min: "Các anh vào các vườn nho mà ẩn nấp. 21 Khi thấy các cô gái Si-lô đi ra múa hát với nhau, thì các anh cũng đi ra khỏi vườn nho, mỗi người bắt một cô trong đám con gái Si-lô ấy, đem về làm vợ, rồi đi về đất Ben-gia-min. 22 Nếu cha các cô hoặc anh các cô có tới kỳ kèo với chúng tôi, thì chúng tôi sẽ nói với họ: "Xin thông cảm với chúng tôi mà hiểu cho họ, vì mỗi người chúng tôi đã không bắt một cô đem về làm vợ trong lúc đánh nhau, mà các anh cũng chẳng gả các cô ấy cho họ; nếu gả, thì các anh đã mắc lỗi rồi."

23 Con cái Ben-gia-min đã làm như thế. Họ đã lấy vợ trong đám các cô múa hát bị bắt cóc, tương đương với số người của họ, và trở về phần gia nghiệp của mình. Họ xây thành và cư ngụ ở đó.

24 Còn con cái Ít-ra-en lúc bấy giờ cũng rời khỏi đó, ai nấy về chi tộc và thị tộc của mình: mỗi người rời khỏi đó mà về phần gia nghiệp của mình.

25 Thời đó Ít-ra-en không có vua. Ai muốn làm gì thì làm.

Rút

Chương 01

Rút và bà Na-o-mi

1 Vào thời các thủ lãnh cai trị, một nạn đói xảy ra trong xứ. Có một người cùng với vợ và hai con trai bỏ Bê-lem miền Giu-đa mà đến ở trong cánh đồng Mô-áp. 2 Tên người đàn ông là Ê-li-me-léc, tên người vợ ấy là Na-o-mi và tên của hai con trai là Mác-lôn và Kin-giôn. Họ là người Ép-ra-tha thuộc xứ Bê-lem miền Giu-đa. Họ đến cánh đồng Mô-áp và ở lại đó. 3 Rồi ông Ê-li-me-léc, chồng bà Na-o-mi, chết đi, còn lại bà Na-o-mi và hai đứa con. 4 Hai người này lấy vợ Mô-áp, một người tên là Oóc-pa, người kia tên là Rút. Họ ở lại đó chừng mười năm. 5 Rồi Mác-lôn và Kin-giôn cả hai đều chết, còn lại bà Na-o-mi mất chồng, mất con. 6 Bà lên đường cùng với hai người con dâu, bỏ cánh đồng Mô-áp mà trở về quê hương, vì tại cánh đồng Mô-áp, bà nghe nói là Ðức Chúa đã viếng thăm dân Người và cho họ có bánh ăn. 7 Vậy bà cùng với hai con dâu ra khỏi nơi họ đã ở mà lên đường trở về xứ Giu-đa.

8 Bà Na-o-mi nói với hai con dâu: "Thôi, mỗi người chúng con hãy trở về nhà mẹ mình. Xin Ðức Chúa tỏ lòng thương chúng con, như chúng con đã tỏ lòng thương những người quá cố và mẹ! 9 Xin Ðức Chúa cho mỗi người chúng con tìm được cuộc sống an nhàn dưới mái nhà một người chồng!" Rồi bà ôm hôn hai con dâu. Họ oà lên khóc. 10 Họ thưa: "Chúng con muốn cùng mẹ trở về với dân của mẹ.” 11 Bà Na-o-mi nói: "Các con ơi, về đi, theo mẹ làm gì? Trong lòng mẹ còn con trai nào nữa đâu mà gả chồng cho các con. 12 Về đi, các con ơi! Ði đi! Mẹ quá già rồi, không còn tái giá được nữa. Cho dù mẹ có nói được: mẹ còn hy vọng, ngay đêm nay sẽ lấy chồng và sinh được con trai, 13 thì chẳng lẽ chúng con cứ đợi mãi cho đến khi chúng lớn lên? Chẳng lẽ chúng con cứ ở vậy, không chịu lấy chồng? Không, các con ơi! Tình cảnh chúng con làm mẹ cay đắng lắm, vì tay Ðức Chúa giáng phạt mẹ.” 14 Hai người con dâu lại oà lên khóc. Oóc-pa ôm hôn từ giã mẹ chồng, còn Rút thì cứ khắng khít theo bà.

15 Bà Na-o-mi nói: "Kìa chị dâu con trở về với dân tộc của nó và các thần của nó. Con cũng vậy, hãy theo chị dâu con mà về đi!” 16 Rút đáp: "Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về, không theo mẹ nữa, vì

mẹ đi đâu, con đi đó,

mẹ ở đâu, con ở đó,

dân của mẹ là dân của con,

Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con.

17 Mẹ chết ở đâu, con chết ở đó,

và nơi đó con sẽ được chôn cất.

Xin Ðức Chúa phạt con thế này

và thêm thế kia nữa,

nếu con lìa xa mẹ

mà không phải vì cái chết!"

18 Thấy Rút cứ một mực đi với mình, bà Na-o-mi không còn nói gì về chuyện đó nữa. 19 Hai mẹ con cùng đi cho đến khi tới Bê-lem. Họ tới Bê-lem, làm cả thành xôn xao. Các người phụ nữ hỏi: "Có phải bà Na-o-mi đấy không?” 20 Bà nói: "Ðừng gọi tôi là Na-o-mi nữa, hãy gọi tôi là Ma-ra, vì Ðấng Toàn Năng đã bắt tôi phải chịu quá nhiều cay đắng. 21 Tôi ra đi, của cải dư đầy, Ðức Chúa đem tôi về hai bàn tay trắng! Gọi tôi là Na-o-mi làm gì, trong khi Ðức Chúa đã làm cho tôi tủi nhục, Ðấng Toàn Năng đã để tôi đau khổ?"

22 Thế là từ cánh đồng Mô-áp, bà Na-o-mi trở về cùng với con dâu người Mô-áp là Rút. Họ đã đến Bê-lem vào đầu mùa gặt lúa mạch.

Chương 02

Cô Rút trong đồng ruộng của ông Bô-át

1 Bà Na-o-mi có một thân nhân bên họ nhà chồng, một người khá giàu, thuộc thị tộc Ê-li-me-léc. Người ấy tên là Bô-át. 2 Rút, người Mô-áp, nói với bà Na-o-mi: "Xin mẹ để con đi ra ruộng mót lúa đằng sau người nào có lòng nhân từ đoái nhìn con." Bà trả lời: "Con cứ đi đi.” 3 Nàng đi và đến ruộng mót lúa đằng sau thợ gặt. Nàng may mắn gặp được một thửa ruộng của ông Bô-át, người trong thị tộc Ê-li-me-léc. 4 Và kìa ông Bô-át từ Bê-lem đến, nói với thợ gặt: "Xin Ðức Chúa ở cùng các anh!" Họ nói: "Xin Ðức Chúa giáng phúc cho ông!” 5 Ông Bô-át nói với người tôi tớ trông coi thợ gặt: "Cô kia là người của ai thế?” 6 Người tôi tớ trông coi thợ gặt trả lời: "Ðó là một thiếu phụ Mô-áp, người đã cùng với bà Na-o-mi từ cánh đồng Mô-áp trở về. 7 Cô đã nói: "Cho phép tôi mót và nhặt những bông lúa đằng sau thợ gặt. Cô ấy đã đến và ở lại từ sáng tới giờ: Cô ấy chẳng chịu nghỉ ngơi chút nào."

8 Ông Bô-át nói với Rút: "Này con, con có nghe không? Ðừng đi mót ở ruộng nào khác, cũng đừng rời khỏi đây, nhưng cứ theo sát các tớ gái của ta. 9 Con nhìn thửa ruộng chúng gặt và cứ đi theo chúng. Nào ta đã chẳng ra lệnh cho các tôi tớ không được đụng tới con sao? Nếu khát, con cứ đến chỗ để bình mà uống nước các tôi tớ đã múc.” 10 Rút liền cúi rạp xuống đất mà lạy ông, rồi nói: "Sao con lại được ông lấy lòng nhân từ đoái nhìn và quan tâm đến, dù con là một người ngoại quốc?” 11 Ông Bô-át đáp: "Người ta đã kể lại cho ta nghe tất cả những gì con đã làm cho mẹ chồng sau khi chồng con mất, cũng như chuyện con đã bỏ cả cha mẹ và quê hương, mà đến với một dân trước kia con không hề biết tới. 12 Xin Ðức Chúa trả công cho con vì những gì con đã làm! Chớ gì Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, thưởng công bội hậu cho con, Người là Ðấng cho con ẩn náu dưới cánh Người!” 13 Nàng nói: "Thưa ông, ước gì con được ông lấy lòng nhân từ đoái nhìn, vì ông đã an ủi con và nói những lời thân ái với nữ tỳ của ông, mặc dù con không đáng làm một nữ tỳ của ông."

14 Ðến bữa ăn, ông Bô-át nói với nàng: "Con lại gần đây, lấy bánh chấm vào nước dấm mà ăn." Nàng ngồi bên cạnh thợ gặt. Ông Bô-át đưa cho nàng một mớ lúa rang. Nàng ăn no và còn để dành nữa. 15 Rồi nàng trỗi dậy mót lúa. Ông Bô-át ra lệnh này cho các tôi tớ của ông: "Cho dù cô ấy có mót ngay giữa những bó lúa đi nữa, các anh cũng đừng nhục mạ cô ấy. 16 Hơn nữa, các anh hãy để ý rút vài bông lúa ra khỏi đống lúa đã gặt và để lại cho cô ấy mót. Ðừng trách móc cô ấy làm gì.” 17 Nàng mót trong ruộng cho đến chiều, rồi đập lúa đã mót. Tất cả được gần hai thùng lúa mạch.

18 Nàng đem lúa trở về thành và mẹ chồng thấy những gì nàng đã mót được. Rồi nàng lấy ra, đưa cho bà những gì nàng để dành sau khi ăn no. 19 Mẹ chồng nói với nàng: "Hôm nay con đã mót ở đâu? Con đã làm ở đâu? Xin Thiên Chúa giáng phúc cho người đã quan tâm đến con!" Nàng cho mẹ chồng biết mình đã làm ở ruộng người nào. Nàng nói: "Người đã cho con làm ở ruộng mình hôm nay tên là Bô-át.” 20 Bà Na-o-mi nói với con dâu: "Xin Ðức Chúa giáng phúc cho ông ấy, Người là Ðấng đã không từ chối tỏ lòng nhân nghĩa đối với kẻ sống và kẻ chết!" Bà lại nói: "Ông ấy là bà con gần của chúng ta, ông ấy là một trong những người bảo tồn dòng dõi của chúng ta.” 21 Rút người Mô-áp thưa: "Ông ấy còn nói với con: "Con cứ theo sát các tôi tớ của ta cho đến khi chúng gặt hái xong tất cả.” 22 Bà Na-o-mi bảo con dâu là Rút: "Con ơi, tốt hơn là con cứ đi ra với các tớ gái của ông ấy, để khỏi bị người ta ngược đãi trong ruộng khác.” 23 Vậy nàng theo sát các tớ gái của ông Bô-át để mót, cho đến hết mùa gặt lúa mạch và lúa mì. Và nàng vẫn ở với mẹ chồng.

Chương 03

Ông Bô-át nằm ngủ

1 Bà mẹ chồng Na-o-mi nói với Rút: "Con ơi, mẹ chẳng có bổn phận tìm cho con một chốn an nhàn để con được hạnh phúc sao? 2 Mà ông Bô-át không phải là chỗ bà con gần của chúng ta đó ư? Con lại đã chẳng ở với các tớ gái của ông ấy sao? Này, đêm nay ông phải rê lúa mạch dưới sân lúa. 3 Vậy con tắm rửa đi, xức dầu thơm, khoác áo choàng vào, rồi xuống sân lúa. Con đừng cho ông nhận ra con trước khi ông ăn uống xong. 4 Khi ông đi ngủ, con hãy để ý xem ông nằm chỗ nào, rồi đến lật góc chăn phủ chân ông mà nằm xuống. Ông sẽ cho con biết con phải làm gì.” 5 Rút thưa với bà: "Mẹ dạy gì, con sẽ làm tất cả."

6 Nàng xuống sân lúa và làm đúng như mẹ chồng đã dạy. 7 Ông Bô-át ăn uống xong, lòng vui tươi hớn hở. Ông đi ngủ ở đầu đống lúa. Rút nhẹ nhàng đi tới đó, lật góc chăn phủ chân ông và nằm xuống. 8 Vào giữa đêm, ông Bô-át rùng mình; ông trở mình thì thấy một phụ nữ nằm dưới chân. 9 Ông hỏi: "Chị là ai?" Nàng đáp: "Con là Rút, tớ gái của ông. Xin ông giăng vạt áo choàng ra mà phủ lấy tớ gái của ông, vì ông là người bảo tồn dòng dõi.” 10 Ông nói: "Này con, xin Ðức Chúa ban phúc lành cho con! Việc hiếu nghĩa thứ hai con đã làm còn có giá hơn việc trước: con đã không chạy theo các người trai trẻ, dù họ nghèo hay giàu. 11 Giờ đây, hỡi con, con đừng sợ. Tất cả những điều con sẽ nói, ta sẽ làm cho con. Vì mọi người hội họp ở cửa thành này đều biết con là một phụ nữ đức hạnh. 12 Quả thật, hiện nay ta là người bảo tồn dòng dõi, nhưng còn có người bảo tồn dòng dõi họ hàng với con gần hơn ta. 13 Con cứ qua đêm ở đây. Sáng mai, nếu người ấy muốn dùng quyền bảo tồn dòng dõi đối với con thì tốt, người ấy cứ việc; nếu người ấy không muốn thì, có Ðức Chúa hằng sống, ta thề sẽ dùng quyền đó! Hãy ngủ đi cho đến sáng.” 14 Nàng đã ngủ dưới chân ông cho đến sáng. Tờ mờ sáng, lúc chưa ai nhận ra ai, nàng đã chỗi dậy. Ông tự nhủ: "Không được để cho người ta biết là người phụ nữ này đã đến sân lúa.” 15 Ông nói: "Hãy đưa vạt áo choàng của con ra, và cầm chắc lấy." Nàng cầm chắc rồi, thì ông đong cho nàng sáu đấu lúa mạch, rồi đặt lên vai nàng. Sau đó, nàng đi vào thành.

16 Nàng về đến nhà mẹ chồng, mẹ chồng hỏi: "Thế nào, con?" Nàng thuật lại cho mẹ chồng nghe tất cả những gì người đó đã làm cho nàng. 17 Nàng nói: "Ông ấy đã cho con sáu đấu lúa mạch này, vì ông nói: "Con không được trở về nhà mẹ chồng tay không.” 18 Bà nói: "Này con, con cứ ở nhà cho đến khi biết việc này ngã ngũ ra sao, vì ông ấy sẽ không chịu ở yên đâu, cho đến khi lo xong việc đó nội ngày hôm nay."

Chương 04

Ông Bô-át cưới cô Rút

1 Ông Bô-át lên cửa thành và ngồi ở đó. Và này, người bảo tồn dòng dõi mà ông Bô-át đã nói tới, đi ngang qua. Ông Bô-át nói: "Này ông ơi, mời ông đến và ngồi xuống đây." Người ấy đến và ngồi xuống. 2 Ông Bô-át chọn lấy mười người trong số các kỳ mục của thành và nói: "Mời các ông ngồi lại đây." Họ ngồi xuống. 3 Ông nói với người bảo tồn dòng dõi: "Bà Na-o-mi từ cánh đồng Mô-áp mới về, định bán thửa ruộng của người anh em chúng ta là Ê-li-me-léc. 4 Phần tôi, tôi nghĩ là cần phải báo cho ông biết rằng: trước mặt quý vị hiện diện ở đây và các kỳ mục trong dân, ông hãy tậu thửa ruộng ấy! Nếu ông muốn dùng quyền bảo tồn dòng dõi của ông, thì xin hãy dùng; bằng không thì xin tuyên bố cho tôi biết, vì ngoài ông ra, không ai có quyền bảo tồn dòng dõi; còn tôi thì chỉ đứng sau ông." Người ấy nói: "Vâng, tôi sẽ dùng quyền bảo tồn đó.” 5 Ông Bô-át nói: "Ngày nào ông tậu ruộng chính tay bà Na-o-mi bán, thì lúc đó ông cũng phải lấy cả cô Rút người Mô-áp, vợ của người quá cố, để gia nghiệp người đó mãi mãi mang tên người đó.” 6 Người bảo tồn dòng dõi nói: "Thế thì tôi không thể dùng quyền bảo tồn đó được, để khỏi làm hại gia nghiệp của tôi. Xin ông thay tôi mà dùng quyền đó, vì tôi không thể dùng được."

7 Theo phong tục thời xưa tại Ít-ra-en, khi có chuyện liên quan đến quyền bảo tồn hay việc đổi chác, để xác nhận việc đó, thì người này cởi dép trao cho người kia. Ðó là cách chứng nhận tại Ít-ra-en. 8 Người bảo tồn dòng dõi nói với ông Bô-át: "Ông hãy tậu cho ông đi", rồi người ấy cởi dép ra.

9 Ông Bô-át nói với các kỳ mục và toàn dân: "Hôm nay, xin quý vị làm chứng cho là tôi tậu từ tay bà Na-o-mi tất cả những gì thuộc về ông Ê-li-me-léc, tất cả những gì thuộc về Kin-giôn và Mác-lôn. 10 Và cả Rút người Mô-áp, vợ của Mác-lôn nữa, tôi cũng lấy làm vợ, để gia nghiệp người quá cố mãi mãi mang tên người đó, và để người đó khỏi bị xoá tên trong đám bà con họ hàng, cũng như trong số dân cư tụ họp tại cửa thành. Hôm nay, quý vị làm chứng cho điều đó.” 11 Toàn dân ở cửa thành và các kỳ mục đáp: "Chúng tôi xin làm chứng! Xin Ðức Chúa cho người phụ nữ sắp vào nhà ông được nên giống như bà Ra-khen và bà Lê-a, cả hai bà này đã xây dựng nhà Ít-ra-en!

Chúc ông được giàu có ở Ép-ra-tha!

Chúc ông được nổi tiếng ở Bê-lem!

12 Chớ gì dòng dõi mà Ðức Chúa sẽ ban cho ông, nhờ người thiếu phụ này, làm cho nhà của ông được nên giống như nhà của ông Pe-rét, là người con mà bà Ta-ma đã sinh cho ông Giu-đa!"

13 Vậy ông Bô-át lấy cô Rút, và nàng trở thành vợ ông. Ông đến với nàng. Nhờ ơn Ðức Chúa, nàng đã thụ thai và sinh một con trai. 14 Các phụ nữ nói với bà Na-o-mi: "Chúc tụng Ðức Chúa, Ðấng hôm nay đã không để cho bà phải thiếu người bảo tồn dòng dõi: tên tuổi con trẻ sẽ được tung hô tại Ít-ra-en! 15 Nó sẽ giúp bà lấy lại sức sống, và sẽ là người nâng đỡ bà trong tuổi già, vì người con dâu biết yêu quý bà đã sinh ra nó, nàng quý giá hơn bảy đứa con trai.” 16 Bà Na-o-mi bế đứa trẻ lên và ôm vào lòng. Chính bà nuôi nấng đứa trẻ đó.

17 Các bà hàng xóm láng giềng đặt tên cho đứa trẻ và nói: "Bà Na-o-mi đã sinh được một cháu trai." Họ đặt tên cho nó là Ô-vết. Ðó là cha của ông Gie-sê, là ông nội vua Ða-vít.

Gia phả vua Ða-vít

18 Ðây là dòng dõi của ông Pe-rét:

Pe-rét sinh Khét-rôn. 19 Khét-rôn sinh Ram; Ram sinh Am-mi-na-đáp. 20 Am-mi-na-đáp sinh Nác-sôn; Nác-sôn sinh Xan-môn. 21 Xan-môn sinh Bô-át; Bô-át sinh Ô-vết; 22 Ô-vết sinh Gie-sê; Gie-sê sinh Ða-vít.

Sa-mu-en 1

Chương 01

I. Ông Sa-Mu-En

1. Thời Thơ Ấu Của Ông Sa-Mu-En

Hành hương Si-lô

1 Có một người quê thành Ra-ma-tha-gim Xô-phim, thuộc miền núi Ép-ra-im, tên là En-ca-na, con ông Giơ-rô-kham; ông Giơ-rô-kham là con ông Ê-li-hu, ông Ê-li-hu là con ông Tô-khu, ông Tô-khu là con ông Xúp, người Ép-ra-tha. 2 Người ấy có hai vợ, một bà tên là An-na, một bà tên là Pơ-nin-na. Bà Pơ-nin-na có con, còn bà An-na không có con. 3 Hằng năm, người ấy từ thành mình lên thờ lạy và dâng hy lễ cho Ðức Chúa các đạo binh tại Si-lô. Ở đó có hai con trai ông Ê-li là Khóp-ni và Pin-khát làm tư tế của Ðức Chúa.

4 Ðến ngày ông En-ca-na dâng hy lễ, ông thường chia các phần cho bà Pơ-nin-na, vợ ông, và cho các con trai con gái bà ấy. 5 Còn bà An-na, thì ông chia cho một phần ngon, vì ông yêu bà, mặc dù Ðức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được. 6 Bà kia, đối thủ của bà, cứ chọc tức bà, để hạ nhục bà, vì Ðức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được. 7 Ông vẫn làm như thế năm này qua năm nọ, mỗi lần bà lên Nhà của Ðức Chúa; còn bà kia cứ chọc tức bà như thế. Bà khóc và không chịu ăn. 8 Ông En-ca-na, chồng bà, bảo bà: "An-na, sao em khóc? Sao em không chịu ăn? Sao lòng em rầu rĩ vậy? Ðối với em, anh lại không hơn mười đứa con trai sao?"

Bà An-na cầu nguyện

9 Bà An-na đứng dậy sau khi họ đã ăn uống tại Si-lô. Tư tế Ê-li đang ngồi trên ghế ở cửa đền thờ Ðức Chúa. 10 Tâm hồn cay đắng, bà cầu nguyện với Ðức Chúa và khóc nức nở. 11 Bà khấn hứa rằng: "Lạy Ðức Chúa các đạo binh, nếu Ngài đoái nhìn đến nỗi khổ cực của nữ tỳ Ngài đây, nếu Ngài nhớ đến con và không quên nữ tỳ Ngài, nếu Ngài cho nữ tỳ Ngài một mụn con trai, thì con sẽ dâng nó cho Ðức Chúa mọi ngày đời nó, và dao cạo sẽ không đụng tới đầu nó."

12 Vì bà cứ cầu nguyện lâu trước nhan Ðức Chúa, nên ông Ê-li để ý đến miệng bà. 13 Bà An-na thầm thĩ trong lòng: chỉ có môi bà mấp máy, không nghe thấy tiếng bà. Ông Ê-li nghĩ rằng bà say rượu. 14 Ông Ê-li bảo bà: "Bà còn say đến bao giờ? Hãy lo dã rượu đi!” 15 Bà An-na trả lời rằng: "Không, thưa ngài, tôi chỉ là một người đàn bà tâm thần đau khổ. Tôi đã không uống rượu và đồ uống có men, tôi chỉ thổ lộ tâm can trước nhan Ðức Chúa. 16 Xin đừng coi nữ tỳ ngài đây là đứa vô lại: chỉ vì quá lo âu phiền muộn mà tôi đã nói cho đến bây giờ.” 17 Ông Ê-li trả lời rằng: "Bà hãy đi về bình an. Xin Thiên Chúa của Ít-ra-en ban cho bà điều bà đã xin Người!” 18 Bà thưa: "Ước chi nữ tỳ của ngài đây được đẹp lòng ngài!" Rồi người đàn bà ra đi; bà dùng bữa và nét mặt bà không còn như trước nữa.

Ông Sa-mu-en sinh ra và được thánh hiến

19 Sáng hôm sau, họ dậy sớm và sụp lạy trước nhan Ðức Chúa, rồi trở về nhà ở Ra-ma. Ông En-ca-na ăn ở với bà An-na, vợ mình, và Ðức Chúa đã nhớ đến bà. 20 Ngày qua tháng lại, bà An-na thụ thai, sinh con trai và đặt tên cho nó là Sa-mu-en, vì bà nói: "Tôi đã xin Ðức Chúa được nó.” 21 Người chồng là En-ca-na lên với cả gia đình để dâng hy lễ thường niên cho Ðức Chúa và để giữ trọn lời khấn hứa của mình. 22 Bà An-na không lên, vì bà nói với chồng: "Ðợi cho đến khi đứa trẻ cai sữa đã. Khi đó em sẽ đưa nó đi, nó sẽ ra mắt Ðức Chúa và sẽ ở lại đó mãi mãi.” 23 Ông En-ca-na, chồng bà, bảo bà: "Em nghĩ thế nào là phải thì cứ làm; cứ ở lại cho đến khi cai sữa cho nó. Chỉ xin Ðức Chúa thực hiện lời Người." Người đàn bà ở lại và cho con bú cho đến khi cai sữa cho nó.

24 Sau khi cai sữa cho con, bà đưa nó lên với mình, mang theo một con bò mộng ba tuổi, hai thùng bột và một bầu da đầy rượu. Bà đưa con vào Nhà Ðức Chúa tại Si-lô; đứa trẻ còn nhỏ lắm. 25 Họ sát tế con bò và đưa đứa trẻ đến với ông Ê-li. 26 Bà nói: "Thưa ngài, xin thứ lỗi, tôi xin lấy mạng sống ngài mà thề: tôi là người đàn bà đã đứng bên ngài, tại đây, để cầu nguyện với Ðức Chúa. 27 Tôi đã cầu nguyện để được đứa trẻ này, và Ðức Chúa đã ban cho tôi điều tôi đã xin Người. 28 Ðến lượt tôi, tôi xin nhượng nó lại cho Ðức Chúa. Mọi ngày đời nó, nó sẽ được nhượng cho Ðức Chúa." Và ở đó, họ thờ lạy Ðức Chúa.

Chương 02

Bài ca của bà An-na

1 Bà An-na cầu nguyện và nói:

"Tâm hồn con hoan hỷ vì Ðức Chúa,

nhờ Ðức Chúa, con ngẩng đầu hiên ngang.

Con mở miệng nhạo báng quân thù:

Vâng, con vui sướng vì được Ngài cứu độ.

2 Chẳng có Ðấng thánh nào như Ðức Chúa,

chẳng một ai khác, ngoại trừ Ngài,

chẳng có Núi Ðá nào như Thiên Chúa chúng ta.

3 Các người chớ nhiều lời huênh hoang tự đắc,

miệng đừng thốt ra điều ngạo mạn,

vì Ðức Chúa là Thiên Chúa quán thông,

mọi hành vi, chính Người xét xử.

4 Cung nỏ người hùng bị bẻ tan,

kẻ yếu sức lại trở nên hùng dũng.

5 Người no phải làm mướn kiếm ăn,

còn kẻ đói được an nhàn thư thái.

Người hiếm hoi thì sinh năm đẻ bảy,

mẹ nhiều con lại ủ rũ héo tàn.

6 Ðức Chúa là Ðấng cầm quyền sinh tử,

đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên.

7 Ðức Chúa bắt phải nghèo và cho giàu có,

Người hạ xuống thấp, Người cũng nhắc lên cao.

8 Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi,

ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro,

đặt ngồi chung với hàng quyền quý,

tặng ngai vinh hiển làm sản nghiệp riêng.

Vì nền móng địa cầu là của Ðức Chúa,

Người đặt cả hoàn vũ lên trên.

9 Chúa gìn giữ bước chân người trung hiếu,

còn ác nhân bị tiêu diệt trong chốn mịt mù,

vì con người đâu phải mạnh mà thắng.

10 Kẻ thù Ðức Chúa sẽ bị đập tan,

từ trời cao, người cho sấm sét giáng trên đầu.

Ðức Chúa xét xử khắp cùng cõi đất,

ban quyền năng cho đức vua Người chọn,

nêu uy thế đấng Người đã xức dầu tấn phong."

11 Ông En-ca-na về nhà ở Ra-ma. Còn đứa trẻ thì phụng sự Ðức Chúa, có tư tế Ê-li trông nom.

Các con trai ông Ê-li

12 Các con trai ông Ê-li là những tên vô lại, chúng không biết gì đến Ðức Chúa 13 và đến quyền lợi các tư tế được hưởng trên dân. Mỗi khi có ai dâng hy lễ, thì đầy tớ của tư tế đến, tay cầm xiên ba răng, trong lúc người ta đang nấu thịt. 14 Nó thọc vào vạc, vào nồi, vào chảo hay vào niêu; hễ xiên đưa lên được miếng nào, thì tư tế lấy cho mình. Chúng vẫn làm như thế với tất cả những người Ít-ra-en đến đó, tại Si-lô. 15 Cả trước khi người ta đốt mỡ cho cháy nghi ngút, thì đầy tớ của tư tế đến và bảo người dâng hy lễ: "Ðưa thịt đây để quay cho tư tế! Người không lấy thịt ông đã nấu đâu, chỉ lấy thịt sống thôi!” 16 Người kia có nói: "Ðể người ta đốt mỡ cho cháy nghi ngút trước đã, rồi anh thích gì thì cứ lấy", thì nó bảo: "Không, phải đưa ngay bây giờ! Nếu không, tôi dùng sức mạnh mà lấy.” 17 Tội của những người thanh niên này rất lớn trước nhan Ðức Chúa, vì những người ấy khinh thường lễ phẩm dâng Ðức Chúa.

Ông Sa-mu-en tại Si-lô

18 Sa-mu-en phụng sự trước nhan Ðức Chúa, cậu bé mặc ê-phốt vải gai. 19 Mẹ cậu vẫn may cho cậu một áo khoác nhỏ và đưa lên cho cậu mỗi năm, khi bà cùng chồng lên dâng hy lễ thường niên. 20 Ông Ê-li chúc phúc cho ông En-ca-na và vợ ông này rằng: "Xin Ðức Chúa cho người đàn bà này sinh con cái cho ông, để thay thế đứa con đã nhượng cho Ðức Chúa." Rồi hai ông bà trở về nhà. 21 Ðức Chúa viếng thăm bà An-na; bà thụ thai và sinh được ba trai hai gái, còn cậu bé Sa-mu-en thì lớn lên bên cạnh Ðức Chúa.

Lại nói về các con ông Ê-li

22 Ông Ê-li đã già lắm. Ông nghe nói các con ông đối xử thế nào với toàn thể Ít-ra-en; ông còn nghe nói chúng nằm với những phụ nữ phục vụ ở cửa Lều Hội Ngộ. 23 Ông nói với chúng: "Sao các con lại làm những điều ấy, những điều xấu mà cha nghe toàn dân nói? 24 Không, các con ơi, tiếng kháo láo cha nghe dân Ðức Chúa đồn thổi thì không tốt đẹp gì. 25 Nếu một người có tội với một người, thì Thiên Chúa sẽ phân xử cho; nhưng nếu một người có tội với Ðức Chúa thì ai sẽ cầu nguyện cho nó?" Nhưng chúng không chịu nghe lời cha chúng, vì Ðức Chúa muốn làm cho chúng phải chết.

26 Còn cậu bé Sa-mu-en thì càng lớn lên và đẹp lòng cả Ðức Chúa lẫn người ta.

Báo trước hình phạt

27 Một người của Thiên Chúa đến gặp ông Ê-li và nói với ông: "Ðức Chúa phán thế này: Ta đã chẳng tỏ mình ra một cách rõ ràng cho nhà của cha ngươi, khi chúng ở dưới quyền triều đình Pha-ra-ô bên Ai-cập đó sao? 28 Ta đã chọn chúng trong mọi chi tộc Ít-ra-en, để chúng làm tư tế cho Ta, bước lên bàn thờ của Ta, đốt hương cho cháy nghi ngút, mang ê-phốt trước nhan Ta, và Ta đã ban cho nhà cha ngươi mọi hoả tế của con cái Ít-ra-en. 29 Tại sao ngươi lại coi thường hy lễ và lễ phẩm dành cho Ta, là những thứ Ta đã truyền dâng trong nơi Ta ngự? Tại sao ngươi lại coi trọng các con ngươi hơn Ta, mà cả cha con béo mập ra, vì ăn những thứ ngon nhất trong mọi lễ phẩm của Ít-ra-en, dân Ta?

30 "Vì vậy -sấm ngôn của Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en- quả Ta có nói là nhà của ngươi và nhà cha ngươi sẽ đi trước nhan Ta mãi mãi, nhưng giờ đây - sấm ngôn của Ðừc Chúa - không đời nào! Vì những kẻ coi trọng Ta thì Ta coi trọng, còn những kẻ khinh dể Ta thì bị khinh thường. 31 Này sắp đến những ngày Ta sẽ chặt cánh tay ngươi và cánh tay của nhà cha ngươi, khiến cho không còn người già trong nhà của ngươi. 32 Ngươi sẽ trông thấy một đối thủ nơi Ta ngự, trong khi tại Ít-ra-en mọi sự đều tốt đẹp, và trong nhà ngươi sẽ không bao giờ có người già nữa. 33 Tuy nhiên, Ta sẽ không loại mọi người của ngươi khỏi bàn thờ Ta, như vậy mắt ngươi sẽ mỏi mòn, tâm hồn ngươi sẽ kiệt sức, và tất cả con cháu trong nhà ngươi sẽ phải chết giữa tuổi thành nhân.

34 "Ðiều xảy ra cho hai con trai ngươi, Khóp-ni và Pin-khát, sẽ là dấu cho ngươi: cả hai sẽ chết trong cùng một ngày. 35 Ta sẽ cho xuất hiện một tư tế trung kiên để phục vụ Ta, nó sẽ hành động theo lòng Ta và ý muốn của Ta; Ta sẽ xây cho nó một nhà kiên cố, và ngày ngày nó sẽ đi trước người được Ta xức dầu tấn phong. 36 Bất cứ ai còn sót lại trong nhà ngươi sẽ đến sụp lạy nó để được một đồng bạc và một ổ bánh, và sẽ nói với nó: "Xin vui lòng nhận tôi vào làm một chức vụ tư tế nào đó, để tôi có miếng bánh ăn."

Chương 03

Thiên Chúa gọi ông Sa-mu-en

1 Cậu bé Sa-mu-en phụng sự Ðức Chúa, có ông Ê-li trông nom. Thời ấy, lời Ðức Chúa thì hiếm và thị kiến cũng không hay xảy ra. 2 Một ngày kia, ông Ê-li đang ngủ ở chỗ ông, mắt ông đã bắt đầu mờ, ông không còn thấy nữa. 3 Ðèn của Thiên Chúa chưa tắt và Sa-mu-en đang ngủ trong đền thờ Ðức Chúa, nơi có đặt Hòm Bia Thiên Chúa. 4 Ðức Chúa gọi Sa-mu-en. Cậu thưa: "Dạ, con đây!” 5 Rồi chạy lại với ông Ê-li và thưa: "Dạ, con đây, thầy gọi con." Ông bảo: "Thầy không gọi con đâu. Con về ngủ đi." Cậu bèn đi ngủ. 6 Ðức Chúa lại gọi Sa-mu-en lần nữa. Sa-mu-en dậy, đến với ông Ê-li và thưa: "Dạ, con đây, thầy gọi con." Ông bảo: "Thầy không gọi con đâu, con ạ. Con về ngủ đi.” 7 Bấy giờ Sa-mu-en chưa biết Ðức Chúa, và lời Ðức Chúa chưa được mặc khải cho cậu. 8 Ðức Chúa lại gọi Sa-mu-en lần thứ ba. Cậu dậy, đến với ông Ê-li và thưa: "Dạ, con đây, thầy gọi con." Bấy giờ ông Ê-li hiểu là Ðức Chúa gọi cậu bé. 9 Ông Ê-li nói với Sa-mu-en: "Con về ngủ đi, và hễ có ai gọi con thì con thưa: "Lạy Ðức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe." Sa-mu-en về ngủ ở chỗ của mình.

10 Ðức Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước: "Sa-mu-en! Sa-mu-en!" Sa-mu-en thưa: "Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” 11 Ðức Chúa phán với Sa-mu-en: "Này Ta sắp làm một điều tại Ít-ra-en mà bất cứ ai nghe nói cũng phải ù cả hai tai. 12 Ngày ấy, để phạt Ê-li, Ta sẽ thực hiện mọi điều Ta đã phán về nhà nó, từ đầu đến cuối. 13 Ta báo cho nó là Ta vĩnh viễn kết án nhà nó vì lỗi của nó: Nó biết các con nó nguyền rủa Thiên Chúa mà đã không sửa dạy chúng. 14 Vì vậy Ta thề với nhà Ê-li: nhà Ê-li sẽ không bao giờ được xá lỗi, dù là bằng hy lễ hay lễ phẩm."

15 Sa-mu-en cứ ngủ cho đến sáng, rồi mở các cửa của Nhà Ðức Chúa. Sa-mu-en sợ không dám kể lại thị kiến cho ông Ê-li. 16 Ông Ê-li gọi Sa-mu-en và nói: "Sa-mu-en, con ơi!" Cậu thưa: "Dạ, con đây!” 17 Ông nói: "Người đã phán với con điều gì? Thầy xin con đừng giấu thầy. Xin Thiên Chúa phạt con thế này và còn thêm thế kia nữa, nếu con giấu thầy một điều nào trong tất cả những lời Người đã phán với con.” 18 Sa-mu-en kể lại cho ông mọi điều, không giấu ông điều nào. Ông nói: "Người là Ðức Chúa. Xin Người cứ làm điều Người cho là tốt."

19 Sa-mu-en lớn lên. Ðức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu. 20 Toàn thể Ít-ra-en, từ Ðan tới Bơ-e Se-va, biết rằng ông Sa-mu-en được Ðức Chúa tín nhiệm cho làm ngôn sứ của Người. 21 Ðức Chúa tiếp tục hiện ra ở Si-lô, vì Ðức Chúa dùng lời của Ðức Chúa mà tự mặc khải cho ông Sa-mu-en ở Si-lô.

Chương 04

1 và lời của ông Sa-mu-en đến với toàn thể Ít-ra-en.

2. Hòm Bia Bị Người Phi-Li-Tinh Chiếm Ðoạt

Ít-ra-en bị đánh bại và Hòm Bia bị chiếm đoạt

2 Người Phi-li-tinh dàn quân đối diện với quân Ít-ra-en, cuộc chiến trở nên ác liệt và Ít-ra-en bị người Phi-li-tinh đánh bại: tại mặt trận, ở ngoài đồng, chúng đã giết chừng bốn ngàn người. 3 Khi dân trở về trại, các kỳ mục Ít-ra-en nói: "Sao hôm nay Ðức Chúa để chúng ta bị người Phi-li-tinh đánh bại? Chúng ta hãy đi Si-lô lấy Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa về: Hòm Bia sẽ đến giữa chúng ta và sẽ cứu chúng ta khỏi bàn tay quân thù.” 4 Dân sai người đi Si-lô; từ đó họ mang về Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa các đạo binh, Ðấng ngự trên các thần hộ giá; ở đó, bên cạnh Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa, có hai con ông Ê-li là Khóp-ni và Pin-khát. 5 Khi Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa xuống trại, toàn thể Ít-ra-en hò reo vang dội khiến đất rung chuyển. 6 Người Phi-li-tinh nghe thấy tiếng hò reo thì hỏi nhau: "Tiếng hò reo vang dội ấy trong trại bọn Híp-ri là gì vậy?" Chúng biết là Hòm Bia Ðức Chúa đã đến trại. 7 Người Phi-li-tinh sợ hãi, vì chúng nói: "Một vị thần đã đến trại!" Chúng bảo nhau: "Khốn thân ta, vì trước đây không có như vậy! 8 Khốn thân ta! Ai sẽ giải thoát ta khỏi tay những thần hùng mạnh ấy? Ðó là những thần đã dùng mọi thứ đòn mà đánh phạt người Ai-cập trong sa mạc. 9 Hỡi người Phi-li-tinh, can đảm lên, hãy tỏ ra là nam nhi, kẻo phải làm nô lệ cho bọn Híp-ri như chúng đã làm nô lệ cho anh em. Hãy tỏ ra là nam nhi và chiến đấu!” 10 Người Phi-li-tinh giao chiến. Ít-ra-en bị đánh bại và ai nấy chạy trốn về lều của mình. Ðó là một đòn rất đau: về phía Ít-ra-en có ba mươi ngàn bộ binh tử trận. 11 Hòm Bia Thiên Chúa bị chiếm đoạt, và hai con ông Ê-li là Khóp-ni và Pin-khát bị giết.

Ông Ê-li qua đời

12 Một người thuộc chi tộc Ben-gia-min từ mặt trận chạy về, và ngay hôm đó tới Si-lô, áo quần xé rách, đầu thì rắc đất. 13 Khi người ấy đến thì ông Ê-li đang ngồi trên ghế ở bên đường mà ngóng trông. Vì lòng ông bồn chồn lo sợ cho Hòm Bia Thiên Chúa. Người kia vào loan tin trong thành, và cả thành kêu gào lên. 14 Nghe tiếng kêu la, ông Ê-li hỏi: "Sao có tiếng ồn ào như thế?" Người kia vội vàng đến báo tin cho ông Ê-li. 15 Ông Ê-li đã chín mươi tám tuổi, mắt ông cứng đờ, ông không thấy được nữa. 16 Người kia nói với ông Ê-li: "Tôi từ mặt trận về. Tôi đã từ mặt trận trốn về hôm nay." Ông hỏi: "Cái gì đã xảy ra vậy con?” 17 Người đưa tin trả lời rằng: "Ít-ra-en đã chạy trốn quân Phi-li-tinh; dân đại bại, hai con ông là Khóp-ni và Pin-khát đã chết, và Hòm Bia Thiên Chúa đã bị chiếm đoạt.” 18 Người kia vừa nhắc tới Hòm Bia Thiên Chúa, thì ông từ ghế ngã ngửa xuống, bên cạnh cửa, giập gáy mà chết, vì ông đã già lại nặng cân. Ông đã làm thủ lãnh xét xử Ít-ra-en bốn mươi năm.

Vợ Pin-khát chết

19 Con dâu ông, tức là vợ của Pin-khát, đang có thai và sắp sinh. Nghe tin Hòm Bia bị chiếm đoạt, cha chồng và chồng chết, nàng khuỵu xuống và sinh con, vì lên cơn đau đột ngột. 20 Lúc nàng sắp chết, những người đàn bà đứng quanh bảo nàng: "Cô đừng sợ, vì cô đã sinh được một con trai!" Nhưng nàng không trả lời và không để tâm đến. 21 Nàng gọi đứa trẻ là I-kha-vốt, và nói: "Vinh quang đã bị cướp khỏi Ít-ra-en", vì Hòm Bia Thiên Chúa đã bị chiếm đoạt, vì cha chồng và chồng nàng đã chết. 22 Nàng nói: "Vinh quang đã bị cướp khỏi Ít-ra-en", vì Hòm Bia Thiên Chúa đã bị chiếm đoạt.

Chương 05

Người Phi-li-tinh gặp rủi ro vì Hòm Bia

1 Người Phi-li-tinh chiếm đoạt Hòm Bia Thiên Chúa và đưa từ E-ven Ha E-de về thành Át-đốt. 2 Người Phi-li-tinh lấy Hòm Bia, đưa vào nhà của thần Ða-gôn và đặt bên cạnh thần Ða-gôn. 3 Hôm sau, người Át-đốt dậy sớm và kìa Ða-gôn ngã sấp mặt xuống đất, trước Hòm Bia Ðức Chúa. Chúng đem Ða-gôn đặt vào chỗ cũ. 4 Sáng hôm sau chúng dậy sớm và kìa Ða-gôn lại ngã sấp mặt xuống đất, trước Hòm Bia Ðức Chúa. Ðầu Ða-gôn và hai bàn tay đã bị chặt, thì ở trên ngưỡng cửa, chỉ còn lại thân Ða-gôn. 5 Vì thế, cho đến ngày hôm nay, ở Át-đốt, các tư tế Ða-gôn và tất cả những ai vào Nhà của Ða-gôn không giẫm lên ngưỡng cửa Ða-gôn.

6 Bàn tay Ðức Chúa đè nặng trên người Át-đốt, Người làm cho chúng phải điêu linh, và mắc những khối u, tại Át-đốt và trong lãnh thổ. 7 Thấy vậy, người Át-đốt nói: "Ðừng để Hòm Bia Thiên Chúa Ít-ra-en ở lại với chúng ta, vì Người đã ra tay đối xử nghiệt ngã với chúng ta và với thần Ða-gôn của chúng ta; 8 chúng sai người đi mời tất cả các vương hầu người Phi-li-tinh đến với chúng. Chúng nói: "Chúng tôi phải làm gì với Hòm Bia Thiên Chúa Ít-ra-en?" Các vương hầu trả lời: "Phải di chuyển Hòm Bia Thiên Chúa Ít-ra-en đến Gát." Họ đã di chuyển Hòm Bia Thiên Chúa Ít-ra-en đi. 9 Sau khi di chuyển Hòm Bia, tay Ðức Chúa giáng xuống trên thành. Chúng vô cùng hoảng sợ. Ðức Chúa đánh phạt người trong thành, từ bé đến lớn: khối u mọc trên khắp người chúng. 10 Chúng gửi Hòm Bia Thiên Chúa đến Éc-rôn. Nhưng khi Hòm Bia đến Éc-rôn thì người Éc-rôn kêu lên rằng: "Họ di chuyển Hòm Bia Thiên Chúa Ít-ra-en đến với (chúng) ta, để giết (chúng) ta và dân (chúng) ta.” 11 Chúng sai người đi mời tất cả các vương hầu người Phi-li-tinh đến. Chúng nói: "Các ông hãy trả lại Hòm Bia Thiên Chúa Ít-ra-en; Hòm Bia phải trở về chỗ cũ, để Hòm Bia đừng giết (chúng) tôi và dân (chúng) tôi!" Thật vậy, trong toàn thành, người ta hoảng sợ trước cái chết, vì bàn tay Thiên Chúa giáng rất mạnh xuống trên đó. 12 Những người không chết thì bị mắc những khối u, và tiếng kêu của thành đã thấu tới trời.

Chương 06

Trả lại Hòm Bia

1 Hòm Bia Ðức Chúa ở trong lãnh thổ người Phi-li-tinh bảy tháng. 2 Người Phi-li-tinh mời các tư tế và thầy bói đến và hỏi: "Chúng tôi phải làm gì với Hòm Bia Ðức Chúa? Xin cho chúng tôi biết phải trả Hòm Bia về chỗ cũ bằng cách nào.” 3 Họ đáp: "Nếu anh em trả lại Hòm Bia Thiên Chúa Ít-ra-en, thì đừng trả lại không, nhưng phải nộp cho Người một của lễ đền tội. Bấy giờ anh em sẽ khỏi bệnh và sẽ biết tại sao tay của Người đã không tha anh em.” 4 Người Phi-li-tinh hỏi: "Của lễ đền tội chúng tôi phải nộp cho Người là gì?" Họ đáp: "Năm cái khối u bằng vàng và năm con chuột bằng vàng, tính theo số các vương hầu người Phi-li-tinh, vì cũng một tai hoạ đã giáng xuống trên tất cả anh em và trên các vương hầu của anh em. 5 Anh em hãy làm những hình ảnh các khối u của anh em, và hình ảnh các con chuột đang phá phách xứ sở, và hãy tôn vinh Thiên Chúa Ít-ra-en. May ra Người sẽ nhẹ tay với anh em, với các thần của anh em và xứ sở anh em. 6 Tại sao anh em để lòng mình ra nặng nề cứng cỏi, như người Ai-cập và Pha-ra-ô đã để lòng chúng ra nặng nề cứng cỏi? Khi Người thị uy với chúng, chúng đã chẳng phải để cho Ít-ra-en đi sao? 7 Bây giờ hãy đóng một cỗ xe mới và bắt hai con bò sữa chưa hề mang ách. Hãy lấy hai con bò đó mà thắng xe, và hãy tách con chúng ra mà đưa về nhà. 8 Anh em hãy đem Hòm Bia Ðức Chúa đặt lên xe. Còn các đồ bằng vàng anh em nộp cho Người làm của lễ đền tội, thì hãy để vào một cái tráp ở bên cạnh, rồi hãy để cho Hòm Bia đi. 9 Anh em sẽ xem: nếu Hòm Bia theo hướng lãnh thổ mình mà lên Bết Se-mét, thì chính là Người đã gây ra cho chúng ta đại hoạ này. Nếu không, chúng ta sẽ biết là chẳng phải tay Người đã đánh chúng ta, mà chỉ là chuyện tình cờ xảy đến cho chúng ta."

10 Những người ấy làm như vậy. Chúng bắt hai con bò sữa mà thắng xe, còn bò con thì nhốt ở nhà. 11 Chúng đặt Hòm Bia Ðức Chúa lên xe, cùng với cái tráp đựng các con chuột bằng vàng và hình ảnh các khối u của chúng.

12 Các con bò cái thẳng đường đi về hướng Bết Se-mét. Chúng cứ theo một đường mà đi, vừa đi vừa rống, không đi trệch bên phải bên trái. Các vương hầu người Phi-li-tinh đi theo sau chúng cho đến ranh giới Bết Se-mét.

Hòm Bia tại Bết Se-mét

13 Người Bết Se-mét đang gặt lúa mì trong thung lũng. Ngước mắt lên, họ nhìn thấy Hòm Bia, và khi nhìn thấy, họ vui mừng. 14 Cỗ xe đến cánh đồng ông Giơ-hô-su-a người Bết Se-mét, và dừng lại ở đó. Ở đó có một tảng đá lớn. Họ bổ gỗ xe ra, còn những con bò cái thì họ dâng Ðức Chúa làm lễ toàn thiêu. 15 Các thầy Lê-vi đưa Hòm Bia Ðức Chúa xuống, cùng với cái tráp bên cạnh, trong đó có các đồ vật bằng vàng. Họ đặt tất cả lên tảng đá lớn. Người Bết Se-mét dâng những lễ toàn thiêu và tiến những hy lễ lên Ðức Chúa, ngày hôm đó. 16 Năm vương hầu người Phi-li-tinh thấy vậy, cũng trở về Éc-rôn ngày hôm đó. 17 Ðây là các u bướu bằng vàng người Phi-li-tinh đã nộp cho Ðức Chúa làm lễ đền tội: một cho Át-đốt, một cho Ga-da, một cho Át-cơ-lôn, một cho Gát, một cho Éc-rôn. 18 Ngoài ra còn có các con chuột bằng vàng, tính theo số tất cả các thành người Phi-li-tinh thuộc về năm vương hầu, từ thành kiên cố cho đến làng bỏ ngỏ. Tảng đá lớn trên đó người ta đã đặt Hòm Bia Ðức Chúa là bằng chứng cho đến ngày hôm nay, trong cánh đồng ông Giơ-hô-su-a người Bết Se-mét. 19 Người đã đánh phạt những người Bết Se-mét vì họ đã nhìn thấy Hòm Bia Ðức Chúa. Trong dân, Người đã đánh phạt bảy mươi người. Dân để tang vì Ðức Chúa đã đánh dân một đòn đau.

Hòm Bia tại Kia-giát Giơ-a-rim

20 Người Bết Se-mét nói: "Ai có thể đứng vững trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa thánh thiện này? Khi rời chúng tôi, Người sẽ lên với ai?” 21 Họ sai sứ giả đến với dân cư thành Kia-giát Giơ-a-rim và nói: "Người Phi-li-tinh đã trả lại Hòm Bia Ðức Chúa. Hãy xuống mà đưa lên với anh em."

Chương 07

1 Người Kia-giát Giơ-a-rim đến và đưa Hòm Bia Ðức Chúa lên. Họ đưa Hòm Bia vào nhà ông A-vi-na-đáp, ở trên đồi, và thánh hiến E-la-da, con ông, để giữ Hòm Bia Ðức Chúa.

Ông Sa-mu-en làm thủ lãnh và cứu dân

2 Từ ngày Hòm Bia được đặt ở Kia-giát Giơ-a-rim, một thời gian dài trôi qua: đã hai mươi năm rồi. Toàn thể nhà Ít-ra-en thiết tha hướng về Ðức Chúa. 3 Bấy giờ ông Sa-mu-en nói với toàn thể nhà Ít-ra-en rằng: "Nếu anh em hết lòng trở về với Ðức Chúa, thì hãy loại bỏ các thần ngoại bang và các nữ thần Át-tô-rét ra khỏi anh em; hãy hướng lòng anh em về với Ðức Chúa và phụng sự một mình Người, thì Người sẽ giải thoát anh em khỏi tay người Phi-li-tinh.” 4 Con cái Ít-ra-en loại bỏ các thần Ba-an và các nữ thần Át-tô-rét và chỉ phụng sự một mình Ðức Chúa.

5 Ông Sa-mu-en nói: "Hãy tập hợp toàn thể Ít-ra-en về Mít-pa: tôi sẽ cầu nguyện với Ðức Chúa cho anh em.” 6 Họ tập hợp về Mít-pa. Họ múc nước và đổ ra trước nhan Ðức Chúa. Ngày hôm ấy họ ăn chay và nói tại đó: "Chúng tôi đắc tội với Ðức Chúa." Ông Sa-mu-en làm thủ lãnh xét xử con cái Ít-ra-en tại Mít-pa.

7 Khi người Phi-li-tinh nghe tin con cái Ít-ra-en tập hợp về Mít-pa, thì các vương hầu người Phi-li-tinh lên đánh Ít-ra-en. Con cái Ít-ra-en nghe tin và sợ người Phi-li-tinh. 8 Con cái Ít-ra-en nói với ông Sa-mu-en: "Xin ông chớ ngừng kêu lên Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, để người cứu chúng tôi khỏi tay người Phi-li-tinh!” 9 Ông Sa-mu-en bắt một con chiên sữa và dâng toàn bộ làm lễ toàn thiêu lên Ðức Chúa. Rồi ông Sa-mu-en kêu lên Ðức Chúa cho Ít-ra-en và Ðức Chúa đã đáp lời ông. 10 Trong khi ông Sa-mu-en dâng lễ toàn thiêu thì người Phi-li-tinh tiến lại giao chiến với Ít-ra-en. Nhưng ngày hôm đó Ðức Chúa giáng sấm sét ầm ầm xuống người Phi-li-tinh; Người khiến chúng tán loạn và chúng bị Ít-ra-en đánh bại. 11 Người Ít-ra-en ra khỏi Mít-pa, đuổi theo quân Phi-li-tinh và đánh chúng đến tận bên dưới Bết Ca. 12 Ông Sa-mu-en lấy một tảng đá và đặt giữa Mít-pa và Cái Răng. Ông đặt tên tảng đá là E-ven Ha E-de và nói: "Cho đến chỗ này, Ðức Chúa đã cứu giúp chúng ta."

13 Người Phi-li-tinh bị hạ nhục và không còn đến lãnh thổ Ít-ra-en nữa. Tay Ðức Chúa đè trên người Phi-li-tinh suốt đời ông Sa-mu-en. 14 Các thành mà người Phi-li-tinh đã chiếm của Ít-ra-en lại trở về với Ít-ra-en, từ Éc-rôn đến Gát, và Ít-ra-en đã giải phóng lãnh thổ họ khỏi tay người Phi-li-tinh. Có hoà bình giữa Ít-ra-en và người E-mô-ri.

15 Ông Sa-mu-en làm thủ lãnh xét xử Ít-ra-en mọi ngày trong đời ông. 16 Năm này qua năm nọ, ông đi một vòng Bết Ên, Ghin-gan, Mít-pa, và ông xét xử Ít-ra-en tại tất cả những nơi ấy. 17 Rồi ông trở về Ra-ma vì nhà ông ở đó và ông xét xử Ít-ra-en ở đó. Tại đây ông dựng một bàn thờ để kính Ðức Chúa.

Chương 08

II. Ông Sa-Mu-En Và Ông Sa-Un

1. Thiết Lập Chế Ðộ Quân Chủ

Dân xin một vua

1 Khi ông Sa-mu-en đã già, ông đặt các con trai ông làm thủ lãnh Ít-ra-en. 2 Con đầu lòng của ông tên là Giô-en, con thứ hai tên là A-vi-gia. Họ làm thủ lãnh tại Bơ-e Se-va. 3 Các con trai ông không đi theo đường lối của ông, chúng ngả theo lợi lộc, nhận quà hối lộ và làm sai lệch công lý. 4 Toàn thể các kỳ mục tập hợp lại và đến với ông Sa-mu-en ở Ra-ma. 5 Họ nói với ông: "Ông coi, ông già rồi, và các con ông lại không đi theo đường lối của ông. Vậy bây giờ, xin ông lập cho chúng tôi một vua để vua xét xử chúng tôi, như trong tất cả các dân tộc.” 6 Ông Sa-mu-en bực mình vì lời họ nói: "Xin ông cho chúng tôi một vua để xét xử chúng tôi." Và ông Sa-mu-en đã cầu nguyện với Ðức Chúa. 7 Ðức Chúa phán với ông Sa-mu-en: "Ngươi cứ nghe theo tiếng của dân trong mọi điều chúng nói với ngươi, vì không phải chúng gạt bỏ ngươi, mà là chúng gạt bỏ Ta, không chịu để Ta làm vua của chúng. 8 Chúng xử sự với ngươi như chúng vẫn xử sự từ ngày Ta đưa chúng lên từ Ai-cập cho đến ngày hôm nay: Chúng đã bỏ Ta mà phụng sự những thần khác. 9 Vậy bây giờ ngươi cứ nghe theo tiếng chúng. Chỉ có điều là ngươi phải long trọng cảnh cáo chúng và nói cho chúng biết quyền hành của nhà vua sẽ cai trị chúng."

Những bất tiện của chế độ quân chủ

10 Ông Sa-mu-en nói lại mọi lời của Ðức Chúa cho dân bấy giờ đang xin ông một vua. 11 Ông nói: "Ðây là quyền hành của nhà vua sẽ cai trị anh em. Các con trai anh em, ông sẽ bắt mà cắt đặt vào việc trông coi xe và ngựa của ông, và chúng sẽ chạy đàng trước xe của ông. 12 Ông sẽ đặt chúng làm người chỉ huy một ngàn và chỉ huy năm mươi, sẽ bắt chúng cày đất cho ông, gặt lúa cho ông, chế tạo vũ khí cho ông và dụng cụ cho xe của ông. 13 Các con gái anh em, ông sẽ bắt vào làm thợ chế nước hoa, nấu ăn và làm bánh. 14 Ðồng ruộng, vườn nho, vườn cây ô-liu tốt nhất của anh em, ông sẽ lấy mà cho bề tôi của ông. 15 Lúa thóc và vườn nho của anh em, ông sẽ đánh thuế thập phân mà cho các thái giám và bề tôi của ông. 16 Các tôi tớ nam nữ, các người trai tráng khá nhất của anh em, các con lừa của anh em, ông sẽ bắt mà dùng vào việc của ông. 17 Chiên dê của anh em, ông sẽ đánh thuế thập phân. Còn chính anh em sẽ làm nô lệ cho ông. 18 Ngày ấy, anh em sẽ kêu than vì vua của anh em mà anh em đã chọn cho mình, nhưng ngày ấy Ðức Chúa sẽ không đáp lời anh em."

19 Nhưng dân không chịu nghe theo tiếng ông Sa-mu-en. Họ nói: "Không! Phải có một vua cai trị chúng tôi! 20 Cả chúng tôi cũng sẽ giống như mọi dân tộc. Vua chúng tôi sẽ xét xử chúng tôi, sẽ dẫn đầu chúng tôi và sẽ lãnh đạo các cuộc chiến của chúng tôi.” 21 Ông Sa-mu-en nghe tất cả những lời của dân và nói lại những lời ấy cho Ðức Chúa nghe. 22 Ðức Chúa phán với ông Sa-mu-en: "Hãy nghe theo tiếng chúng, và hãy đặt một vua cai trị chúng." Ông Sa-mu-en nói với người Ít-ra-en: "Ai nấy hãy về thành của mình."

Chương 09

Ông Sa-un đi tìm lừa của cha

1 Có một người thuộc chi tộc Ben-gia-min tên là Kít, con ông A-vi-ên; ông A-vi-ên là con ông Xơ-ro; ông Xơ-ro là con ông Bơ-khô-rát; ông Bơ-khô-rát là con ông A-phi-ác; ông A-phi-ác là con một người Ben-gia-min. Ông Kít là một người có thế giá. 2 Ông có một người con trai tên là Sa-un, một người trẻ và đẹp trai; trong số con cái Ít-ra-en, không có người nào đẹp trai hơn ông. Ông cao hơn toàn dân từ vai trở lên.

3 Các con lừa cái của ông Kít, cha ông Sa-un, bị lạc; ông Kít bảo ông Sa-un, con ông: "Con hãy đem một trong các người đầy tớ đi với con và lên đường đi tìm lừa.” 4 Ông Sa-un đi qua miền núi Ép-ra-im, rồi đi qua đất Sa-li-sa, mà không tìm thấy. Họ đi qua đất Sa-a-lim: cũng không thấy gì. Ông đi qua đất Ben-gia-min, mà không tìm thấy. 5 Khi họ đến đất Xúp, ông Sa-un nói với người đầy tớ đi với mình: "Nào, chúng ta hãy trở về, kẻo cha tôi không còn nghĩ đến lừa mà lại lo cho chúng ta.” 6 Người đầy tớ nói với ông: "Này, trong thành kia có một người của Thiên Chúa; ông là người có uy tín: tất cả những gì ông nói đều chắc chắn xảy ra. Bây giờ chúng ta hãy đi đến đó. May ra ông ấy sẽ chỉ cho chúng ta phải đi đường nào.” 7 Ông Sa-un nói với người đầy tớ: "Ðược, chúng ta đi! Nhưng chúng ta sẽ đem gì đến biếu ông ấy? Bị chúng ta hết bánh rồi, chúng ta không có quà đem biếu người của Thiên Chúa. Chúng ta có gì nào?” 8 Người đầy tớ lại trả lời ông Sa-un: "Ðây tôi có sẵn trong tay một chỉ bạc. Tôi sẽ tặng người của Thiên Chúa và ông ấy sẽ chỉ cho chúng ta con đường của chúng ta.” 9 - Ngày xưa, tại Ít-ra-en, khi người nào đi thỉnh ý Ðức Chúa thì nói thế này: "Nào chúng ta đến với thầy thị kiến", vì "ngôn sứ" ngày nay thì ngày xưa gọi là "thầy thị kiến". - 10 Ông Sa-un nói với đầy tớ: "Anh nói phải. Nào chúng ta đi! " Rồi họ đi đến thành trong đó có người của Thiên Chúa.

Ông Sa-un gặp ông Sa-mu-en

11 Họ đang lên dốc dẫn đến thành thì gặp những cô gái đi ra múc nước; họ hỏi các cô: "Thầy thị kiến có ở đây không?” 12 Các cô trả lời họ rằng: "Có, ngay trước mặt ông kia kìa, ông đi mau lên, vì hôm nay ông ấy đến thành, và hôm nay có hy lễ cho dân ở nơi cao. 13 Vào thành là các ông sẽ gặp ông ấy trước khi ông ấy lên nơi cao để dùng bữa: dân sẽ không dùng bữa trước khi ông ấy đến, vì ông ấy là người chúc phúc cho hy lễ; sau đó các khách mời sẽ dùng bữa. Vậy bây giờ các ông lên đi, các ông sẽ gặp ông ấy ngay lập tức."

14 Họ lên thành. Khi họ vào trong thành, thì thấy ông Sa-mu-en đang đi ra đón họ để lên nơi cao. 15 Một ngày trước khi ông Sa-un đến, Ðức Chúa đã mặc khải cho ông Sa-mu-en rằng: 16 "Ngày mai, vào giờ này, Ta sẽ sai một người xứ Ben-gia-min đến với ngươi, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm người lãnh đạo dân Ta là Ít-ra-en, và nó sẽ cứu dân Ta khỏi tay người Phi-li-tinh, vì Ta đã nhìn thấy dân Ta, và tiếng rên siết của nó đã thấu tới Ta.” 17 Khi ông Sa-mu-en thấy ông Sa-un thì Ðức Chúa mách bảo ông: "Ðây là người mà Ta đã nói với ngươi: chính nó sẽ cai trị dân Ta.” 18 Ông Sa-un lại gần ông Sa-mu-en ở giữa cửa thành và nói: "Xin ông làm ơn cho tôi biết nhà thầy thị kiến ở đâu.” 19 Ông Sa-mu-en trả lời ông Sa-un rằng: "Tôi là thầy thị kiến đây. Ông hãy lên nơi cao, trước mặt tôi. Các ông sẽ dùng bữa với tôi hôm nay. Sáng mai tôi sẽ để cho ông đi và sẽ nói cho ông biết tất cả những gì đang làm ông bận tâm. 20 Còn những con lừa cái của ông đã lạc ba ngày nay, ông đừng để tâm, vì đã tìm thấy rồi. Vả lại, mọi cái quý nhất trong Ít-ra-en thuộc về ai? Chẳng phải là thuộc về ông và nhà cha ông hay sao?” 21 Ông Sa-un trả lời rằng: "Tôi chẳng phải là một người Ben-gia-min, chi tộc nhỏ nhất trong Ít-ra-en sao? Thị tộc tôi chẳng phải là hèn mọn nhất trong các thị tộc của chi tộc Ben-gia-min sao? Sao ông lại nói với tôi như thế?"

22 Ông Sa-mu-en dẫn ông Sa-un và người đầy tớ ông này, đưa vào phòng và cho họ một chỗ ở hàng đầu những khách mời, khoảng ba mươi người. 23 Ông Sa-mu-en bảo người đầu bếp: "Hãy dọn phần tôi đã trao cho anh, khi bảo anh để riêng ra.” 24 Người đầu bếp mang cái đùi và cái đuôi ra đặt trước mặt ông Sa-un. Ông Sa-mu-en nói: "Ðây là phần để lại, dọn ra cho ông. Mời ông ăn, vì nó được giữ lại cho ông nhân dịp này là dịp tôi mời dân." Ngày hôm đó, ông Sa-un dùng bữa với ông Sa-mu-en. 25 Sau đó, từ nơi cao, họ xuống thành, và ông Sa-mu-en nói chuyện với ông Sa-un trên sân thượng.

Ông Sa-un được xức dầu phong vương

26 Hôm sau, họ dậy sớm. Khi hừng đông ló rạng, ông Sa-mu-en gọi ông Sa-un đang ở trên sân thượng và nói: "Mời ông dậy, tôi sẽ tiễn ông đi." Ông Sa-un dậy, rồi cả hai người, ông và ông Sa-mu-en, ra ngoài. 27 Khi họ đang xuống đến cuối thành thì ông Sa-mu-en nói với ông Sa-un: "Xin ông bảo người đầy tớ đi qua trước chúng ta." - Người ấy đi qua - "Còn ông, bây giờ xin ông đứng lại để tôi nói cho ông nghe lời của Thiên Chúa."

Chương 10

1 Ông Sa-mu-en lấy lọ dầu và đổ trên đầu ông Sa-un, rồi hôn ông và nói: "Chẳng phải Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong ông làm người lãnh đạo cơ nghiệp của Người sao? 2 Hôm nay, khi từ biệt tôi mà đi, ông sẽ gặp hai người đàn ông gần mộ bà Ra-khen, ở ranh giới Ben-gia-min, tại Xen-xác. Họ sẽ nói với ông: "Các con lừa cái ông đang đi tìm, đã tìm được rồi, và bây giờ cha ông đã quên chuyện các con lừa, nhưng đang lo cho các ông và tự hỏi: Tôi phải làm gì cho con trai tôi? 3 Từ đó đi xa hơn nữa, ông sẽ đến Cây Sồi Ta-bo, ở đó ba người đàn ông sẽ gặp ông, họ đang lên với Thiên Chúa ở Bết Ên, một người mang ba con dê con, một người mang ba cái bánh, một người mang một bầu da đầy rượu. 4 Họ sẽ vấn an ông, sẽ biếu ông hai cái bánh và ông sẽ nhận từ tay họ. 5 Sau đó, ông sẽ đến Ghíp-a của Thiên Chúa, là nơi có viên trấn thủ Phi-li-tinh. Tại đó, khi ông vào thành, ông sẽ gặp một nhóm ngôn sứ đang từ nơi cao xuống, trước mặt họ có đàn hạc, trống, sáo, đàn cầm, và họ đang lên cơn xuất thần ngôn sứ. 6 Bấy giờ thần khí Ðức Chúa sẽ nhập vào ông, ông sẽ lên cơn xuất thần ngôn sứ cùng với họ, và ông sẽ biến thành một người khác. 7 Vậy khi các dấu ấy xảy đến cho ông, thì ông hãy tuỳ cơ ứng biến, vì Thiên Chúa ở với ông. 8 Ông hãy xuống Ghin-gan trước tôi; phần tôi, tôi sẽ xuống gặp ông, để dâng những lễ toàn thiêu và tiến những hy lễ kỳ an. Xin ông đợi bảy ngày, cho đến khi tôi tới. Tôi sẽ cho ông biết ông phải làm gì."

Ông Sa-un trở về

9 Ông Sa-un vừa quay lưng bỏ ông Sa-mu-en mà đi, thì Thiên Chúa biến đổi lòng ông, và tất cả các dấu đó đã xảy ra ngày hôm ấy. 10 Khi họ đến Ghíp-a thì thấy một nhóm ngôn sứ đi về phía họ. Thần khí Thiên Chúa nhập vào ông, và ông lên cơn xuất thần ngôn sứ ở giữa họ. 11 Tất cả những người quen biết ông trước kia đều thấy ông: ông làm ngôn sứ với những ngôn sứ! Trong dân người ta bảo nhau: "Cái gì đã xảy ra cho con ông Kít? Ông Sa-un mà cũng ở trong số các ngôn sứ sao?” 12 Một người ở đó lên tiếng hỏi: "Ai là cha của họ vậy?" Vì thế có câu ngạn ngữ rằng: "Ông Sa-un mà cũng ở trong số các ngôn sứ sao?"

13 Khi hết cơn xuất thần ngôn sứ, thì ông Sa-un đi lên nơi cao. 14 Chú ông Sa-un hỏi ông và người đầy tớ: "Các anh đã đi đâu vậy?" Ông Sa-un trả lời: "Chúng cháu đi tìm các con lừa cái, nhưng không thấy gì, nên đã đến gặp ông Sa-mu-en.” 15 Chú ông Sa-un nói: "Cháu hãy kể lại cho chú nghe ông Sa-mu-en đã nói gì với hai người.” 16 Ông Sa-un trả lời chú: "Ông ấy chỉ báo cho chúng cháu là đã tìm thấy con lừa cái rồi." Nhưng về chuyện làm vua, thì ông không kể lại cho chú điều ông Sa-mu-en đã nói.

Ông Sa-un trúng thăm làm vua

17 Ông Sa-mu-en triệu tập dân đến với Ðức Chúa ở Mít-pa. 18 Ông nói với con cái Ít-ra-en: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán như sau: Chính Ta đã đưa các ngươi lên từ Ai-cập và đã giải thoát các ngươi khỏi tay người Ai-cập và khỏi tay mọi vương quốc đang áp bức các ngươi. 19 Còn các ngươi, hôm nay các ngươi đã gạt bỏ Thiên Chúa của các ngươi, Ðấng cứu các ngươi khỏi mọi tai hoạ và mọi cơn ngặt nghèo của các ngươi, và các ngươi đã thưa với Người: "Xin Ngài lập một vua cai trị chúng tôi. Vậy bây giờ hãy đến đứng trước mặt Ðức Chúa theo chi tộc và thị tộc.” 20 Ông Sa-mu-en cho mọi chi tộc Ít-ra-en tiến đến và chi tộc Ben-gia-min trúng thăm. 21 Ông cho chi tộc Ben-gia-min tiến đến theo thị tộc, và thị tộc Mát-ri trúng thăm. Rồi ông Sa-un con ông Kít trúng thăm. Họ tìm ông mà không thấy.

22 Họ lại thỉnh ý Ðức Chúa: "Thưa còn người nào đến đây nữa không?" Ðức Chúa trả lời: "Nó đây này, nó đang lẩn trốn trong đống hành lý.” 23 Họ chạy đến, lôi ông từ đó ra, và ông đến đứng giữa dân. Ông cao hơn toàn dân từ vai trở lên. 24 Ông Sa-mu-en nói với toàn dân: "Anh em đã xem thấy người Ðức Chúa chọn chưa? Trong toàn dân không có ai được như ông." Toàn dân reo hò và nói: "Vạn tuế đức vua!"

25 Ông Sa-mu-en nói cho dân biết quyền hành vua chúa, ghi chép vào một quyển sách và đặt trước nhan Ðức Chúa. Rồi ông Sa-mu-en cho toàn dân ai nấy về nhà mình.

26 Ông Sa-un cũng đi về nhà ở Ghíp-a. Cùng đi với ông có những người can đảm đã được Ðức Chúa cảm hoá tâm hồn. 27 Nhưng có những tên vô lại đã nói: "Làm sao hắn cứu chúng ta được?" Chúng coi thường ông và không đem quà biếu ông. Nhưng ông làm như không nghe thấy.

Chương 11

Thắng người Am-mon

1 Na-khát, người Am-mon, lên bao vây thành Gia-vết, miền Ga-la-át. Mọi người Gia-vết nói với Na-khát: "Xin ông lập giao ước với chúng tôi, và chúng tôi sẽ làm tôi ông.” 2 Na-khát, người Am-mon, nói với họ: "Ta sẽ lập giao ước với các ngươi với điều kiện này là ta sẽ chọc thủng mắt phải của tất cả các ngươi. Ta sẽ bắt toàn thể Ít-ra-en phải chịu điều sỉ nhục đó.” 3 Các kỳ mục Gia-vết nói với ông: "Xin để cho chúng tôi bảy ngày. Chúng tôi sẽ sai sứ giả đi khắp lãnh thổ Ít-ra-en, và nếu không có ai cứu chúng tôi, thì chúng tôi sẽ ra hàng ông.” 4 Các sứ giả đến Ghíp-a, thành của ông Sa-un, và nói những lời ấy cho dân nghe. Toàn dân oà lên khóc.

5 Và này ông Sa-un từ ngoài đồng về theo sau đàn bò. Ông hỏi: "Có gì mà dân khóc vậy? " Họ kể lại cho ông những lời người Gia-vết nói. 6 Khi ông Sa-un nghe những lời ấy, thần khí của Ðức Chúa nhập vào ông, và ông bừng bừng nổi giận. 7 Ông bắt một cặp bò, xả thịt và gửi các sứ giả mang đi khắp lãnh thổ Ít-ra-en với lời này: "Ai không theo Sa-un và Sa-mu-en ra trận, thì bò của nó sẽ bị như thế này." Ðức Chúa gieo kinh hoàng xuống trên dân, và họ đã ra trận, muôn người như một. 8 Ông Sa-un duyệt binh tại Be-déc: Con cái Ít-ra-en là ba trăm ngàn và người Giu-đa là ba mươi ngàn. 9 Ông nói với các sứ giả đã đến: "Các ông hãy nói với người Gia-vết thế này: Ngày mai, vào lúc mặt trời nóng nhất, anh em sẽ được cứu viện." Các sứ giả về báo tin cho người Gia-vết, khiến họ vui mừng. 10 Người Gia-vết nói với Na-khát: "Ngày mai, chúng tôi sẽ ra hàng các ông, và các ông cứ xử với chúng tôi theo mọi điều các ông coi là tốt."

11 Hôm sau, ông Sa-un chia dân ra thành ba cánh quân. Họ vào giữa trại khi gần sáng và đánh người Am-mon cho đến lúc nóng nực nhất trong ngày. Những tên sống sót thì tán loạn không còn có lấy hai tên ở với nhau.

Ông Sa-un được tôn làm vua

12 Dân nói với ông Sa-mu-en: "Ai là người nói: "Sa-un mà lại làm vua cai trị chúng tôi sao"? Các ông hãy nộp chúng cho chúng tôi xử tử.” 13 Ông Sa-un nói: "Không ai sẽ bị xử tử hôm nay, vì hôm nay Ðức Chúa đã chiến thắng tại Ít-ra-en.” 14 Ông Sa-mu-en nói với dân: "Nào, chúng ta đi Ghin-gan và khai mạc vương quyền mới ở đó."

15 Toàn dân đi Ghin-gan. Ở đó, trước nhan Ðức Chúa, tại Ghin-gan, họ đã tôn ông Sa-un làm vua, và ở đó họ dâng những hy lễ kỳ an trước nhan Ðức Chúa. Ở đó, ông Sa-un và mọi người Ít-ra-en đã liên hoan tưng bừng.

Chương 12

Ông Sa-mu-en nhường chỗ cho ông Sa-un

1 Ông Sa-mu-en nói với toàn thể Ít-ra-en: "Ðây tôi đã nghe theo tiếng của anh em trong mọi điều anh em nói với tôi, và tôi đã đặt một vua cai trị anh em. 2 Bây giờ, đây là vua dẫn đầu anh em. Phần tôi, tôi đã già nua tóc bạc, và các con trai tôi, chúng đang ở giữa anh em đó. Tôi đã dẫn đầu anh em, từ lúc tôi còn trẻ cho đến hôm nay. 3 Này tôi đây. Hãy cáo tội tôi trước mặt Ðức Chúa và trước mặt vị Người đã xức dầu tấn phong: tôi đã lấy bò của ai, lấy lừa của ai? Tôi đã bóc lột ai, áp bức ai? Tôi đã nhận quà đút lót từ tay ai để nhắm mắt làm ngơ cho nó? Tôi sẽ trả lại cho anh em.” 4 Họ trả lời: "Ông đã không bóc lột chúng tôi, không áp bức chúng tôi, không lấy cái gì từ tay ai.” 5 Ông nói với họ: "Có Ðức Chúa làm chứng trước mặt anh em, và có vị Người đã xức dầu tấn phong cũng làm chứng hôm nay, rằng anh em đã không tìm thấy gì nơi tay tôi." Họ trả lời: "Vâng, có Người làm chứng."

6 Ông Sa-mu-en nói với dân: "Phải, chính Thiên Chúa, Ðấng đã cho ông Mô-sê và ông A-ha-ron xuất hiện và đã đưa cha ông anh em lên từ đất Ai-cập. 7 Bây giờ, anh em hãy đứng đây, để tôi tranh tụng với anh em trước mặt Ðức Chúa về mọi hồng ân Ðức Chúa đã ban cho anh em và cha ông anh em. 8 Sau khi ông Gia-cóp vào Ai-cập, thì cha ông anh em đã kêu gào lên Ðức Chúa, và Ðức Chúa đã sai ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến; các ông đã đưa cha ông anh em ra khỏi Ai-cập và định cư họ ở nơi này. 9 Nhưng họ đã quên Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ, nên Người đã trao họ vào tay Xi-xơ-ra, tổng chỉ huy quân đội thành Kha-xo, vào tay người Phi-li-tinh và vào tay vua Mô-áp, và chúng đã giao tranh với họ. 10 Họ đã kêu lên Ðức Chúa và nói: "Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi đã bỏ Ðức Chúa, đã phụng thờ các thần Ba-an và các nữ thần Át-tô-rét. Giờ đây, xin giải thoát chúng tôi khỏi tay quân thù và chúng tôi sẽ phụng thờ Ngài. 11 Ðức Chúa đã sai các ông Giơ-rúp-ba-an, Bơ-đan, Gíp-tác và Sa-mu-en đến; Người đã giải thoát anh em khỏi tay thù địch chung quanh và anh em đã được sống yên hàn.

12 "Nhưng khi anh em thấy Na-khát, vua của con cái Am-mon, đến đánh anh em, thì anh em đã nói với tôi: "Không! Phải có một vua cai trị chúng tôi! Trong khi chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là vua anh em. 13 Bây giờ, đây là vua anh em đã chọn, đã xin; Ðức Chúa đã ban một vua cai trị anh em đó. 14 Nếu anh em kính sợ Ðức Chúa và phụng thờ Người, nếu anh em nghe theo tiếng Người và không cưỡng lệnh Ðức Chúa, thì cả anh em, cả vua của anh em sẽ theo Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em. 15 Nhưng nếu anh em không nghe theo tiếng Ðức Chúa, nếu anh em cưỡng lệnh Ðức Chúa, thì bàn tay Ðức Chúa sẽ đè trên anh em cũng như trên cha ông anh em.

16 Bây giờ, một lần nữa, hãy đứng đây và xem điều vĩ đại Ðức Chúa sắp thực hiện trước mắt anh em. 17 Hiện nay đang là mùa gặt lúa mì phải không? Tôi sẽ kêu cầu Ðức Chúa và Người sẽ cho sấm nổ mưa rơi. Anh em hãy hiểu và thấy rằng anh em đã làm một điều rất xấu xa trái mắt Ðức Chúa, khi đòi có vua.” 18 Ông Sa-mu-en kêu cầu Ðức Chúa và Người cho sấm nổ mưa rơi ngày hôm đó. Toàn dân rất kính sợ Ðức Chúa và ông Sa-mu-en. 19 Toàn dân nói với ông Sa-mu-en: "Xin ông cầu nguyện với Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, cho các tôi tớ ông đây, để chúng tôi khỏi chết, vì ngoài mọi tội lỗi của chúng tôi, chúng tôi còn làm thêm điều xấu xa là đòi có vua."

20 Ông Sa-mu-en nói với dân: "Ðừng sợ! Chính anh em đã làm tất cả điều xấu xa ấy. Tuy nhiên, anh em đừng có bỏ không theo Ðức Chúa, mà hãy phụng thờ Ðức Chúa hết lòng. 21 Ðừng có bỏ mà theo những cái hư không, chúng chẳng ích gì và chẳng giải thoát được ai, vì chúng chỉ là hư không. 22 Thật vậy, Ðức Chúa sẽ không bỏ rơi dân Người, vì danh vĩ đại của Người, vì Ðức Chúa đã muốn làm cho anh em thành dân của Người. 23 Phần tôi, không đời nào tôi phạm tội nghịch cùng Ðức Chúa là thôi cầu nguyện cho anh em. Tôi sẽ cho anh em biết đường ngay nẻo chính. 24 Chỉ có một điều là anh em hãy kính sợ Ðức Chúa và trung tín phụng thờ Người hết lòng: anh em hãy xem việc vĩ đại Người đã làm giữa anh em. 25 Nhưng nếu anh em cứ làm điều xấu xa, thì cả anh em lẫn vua của anh em sẽ bị huỷ diệt."

Chương 13

2. Những Năm Ðầu Của Triều Ðại Sa-Un

Nổi dậy chống người Phi-li-tinh

1 Ông Sa-un được... tuổi khi lên làm vua, và ông đã làm vua cai trị Ít-ra-en được hai năm. 2 Vua Sa-un chọn lấy ba ngàn người Ít-ra-en: hai ngàn ở với vua Sa-un tại Mích-mát và trong núi Bết Ên, một ngàn ở với ông Giô-na-than tại Ghíp-a thuộc Ben-gia-min, số còn lại trong dân thì vua cho ai nấy về lều mình.

3 Ông Giô-na-than hạ viên trấn thủ Phi-li-tinh ở Ghe-va và người Phi-li-tinh nghe biết. Vua Sa-un cho thổi tù và trong toàn xứ. Ông nói: "Các người Híp-ri hãy nghe đây!” 4 Toàn thể Ít-ra-en nghe tin rằng: vua Sa-un đã hạ viên trấn thủ Phi-li-tinh, và Ít-ra-en cũng đã trở nên đáng ghét đối với người Phi-li-tinh. Dân liền tập hợp lại sau lưng vua Sa-un ở Ghin-gan. 5 Người Phi-li-tinh họp nhau lại để giao tranh với Ít-ra-en. Chúng có ba ngàn chiến xa, sáu ngàn kỵ binh và quân đông như cát ngoài bãi biển. Chúng lên đóng trại ở Mích-mát, về phía đông Bết A-ven. 6 Người Ít-ra-en thấy mình lâm cảnh ngặt nghèo vì dân bị siết chặt. Dân trốn vào trong các hang, động, khe đá, hầm hố và hồ chứa nước. 7 Người Híp-ri đi qua sông Gio-đan sang đất Gát và Ga-la-át.

Ông Sa-mu-en đoạn giao với vua Sa-un

Vua Sa-un vẫn còn ở Ghin-gan và sau lưng vua toàn dân run sợ. 8 Vua đợi bảy ngày, theo thời hạn ông Sa-mu-en đã ấn định, nhưng ông Sa-mu-en không đến Ghin-gan, và dân bỏ vua Sa-un đi tản mác. 9 Vua Sa-un bảo: "Hãy đem lễ vật toàn thiêu và những lễ vật kỳ an đến cho ta." Và vua đã dâng lễ toàn thiêu.

10 Vua vừa dâng lễ toàn thiêu xong, thì này ông Sa-mu-en đến. Vua Sa-un ra đón chào ông. 11 Ông Sa-mu-en hỏi: "Ngài đã làm gì thế?" Vua Sa-un trả lời: "Khi tôi thấy dân bỏ tôi đi tản mác, còn ông lại không đến đúng thời hạn và người Phi-li-tinh họp nhau ở Mích-mát, 12 thì tôi đã tự bảo: "Bây giờ người Phi-li-tinh sắp kéo xuống Ghin-gan đánh tôi mà tôi không làm cho nét mặt Ðức Chúa dịu lại, nên buộc lòng tôi phải dâng lễ toàn thiêu.” 13 Ông Sa-mu-en nói với vua Sa-un: "Ngài đã hành động ngu xuẩn! Ngài đã không giữ mệnh lệnh Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngài, đã truyền. Nếu ngài đã giữ thì bây giờ Ðức Chúa đã làm cho vương quyền của ngài được vững bền mãi mãi. 14 Nhưng bây giờ vương quyền của ngài sẽ không đứng vững. Ðức Chúa đã tìm cho mình một kẻ như lòng Người mong muốn, và Ðức Chúa đã đặt kẻ ấy làm người lãnh đạo dân Người, bởi vì ngài đã không giữ điều Ðức Chúa truyền cho ngài.” 15 Ông Sa-mu-en đứng dậy và từ Ghin-gan lên Ghíp-a thuộc Ben-gia-min. Vua Sa-un duyệt đám quân binh đang ở với vua: khoảng sáu trăm người.

Chuẩn bị giao chiến

16 Vua Sa-un, ông Giô-na-than, con vua, và đám quân binh đang ở với hai ông thì giữ Ghe-va thuộc Ben-gia-min, còn người Phi-li-tinh thì đóng trại ở Mích-mát. 17 Ðạo quân tiễu trừ, chia thành ba toán, xuất phát từ trại Phi-li-tinh: một toán đi về hướng Óp-ra, ở xứ Su-an, 18 một toán đi về hướng Bết Khô-rôn, một toán đi về hướng ranh giới ở bên trên thung lũng Linh Cẩu, về phía sa mạc.

19 Bấy giờ trong toàn đất Ít-ra-en không tìm được một thợ rèn, vì người Phi-li-tinh đã tự bảo: "Không thể để bọn Híp-ri chế tạo gươm hay giáo.” 20 Toàn thể người Ít-ra-en xuống chỗ người Phi-li-tinh để rèn, người thì lưỡi cày, kẻ thì cái cuốc, cái rìu hay cái đục. 21 Giá tiền công là hai chỉ bạc cho lưỡi cày và cái cuốc, một chỉ bạc để mài rìu và sửa gậy thúc bò. 22 Vì vậy trong ngày giao tranh, không tìm được một cây gươm cây giáo ở tay người nào thuộc đám quân binh đang ở với vua Sa-un và ông Giô-na-than. Chỉ vua Sa-un và ông Giô-na-than, con vua, mới có.

23 Người Phi-li-tinh ra đóng đồn trên ải Mích-mát.

Chương 14

Ông Giô-na-than tấn công đồn Phi-li-tinh

1 Một hôm, ông Giô-na-than, con vua Sa-un, bảo người hầu cận: "Nào đi, ta sang đồn người Phi-li-tinh ở bên kia." Nhưng ông không báo cho cha ông biết. 2 Vua Sa-un bấy giờ đang ngồi ở ranh giới Ghíp-a, dưới cây lựu ở Mích-rôn, và đám quân binh đang ở với vua khoảng sáu trăm người. 3 Ông A-khi-gia, con ông A-khi-túp, lúc ấy mang ê-phốt; ông A-khi-túp là anh ông I-kha-vót; ông I-kha-vót là con ông Pin-khát; ông Pin-khát là con ông Ê-li, tư tế của Ðức Chúa ở Si-lô. Quân binh không biết là ông Giô-na-than đã đi.

4 Trên những ải mà ông Giô-na-than tìm cách vượt qua để tới đồn Phi-li-tinh, có hai đỉnh đá nhọn, một đỉnh bên này, một đỉnh bên kia; một đỉnh tên là Bô-xét, một đỉnh tên là Xen-ne; 5 một đỉnh đứng phía bắc, đối diện với Mích-mát, một đỉnh đứng phía nam, đối diện với Ghe-va. 6 Ông Giô-na-than bảo người hầu cận: "Nào ta sang phía đồn bọn không cắt bì kia. Biết đâu Ðức Chúa sẽ hành động giúp ta, vì không gì ngăn cản Ðức Chúa cứu, dù số người nhiều hay ít.” 7 Người hầu cận nói: "Ông nghĩ gì trong lòng thì hãy làm như vậy. Ông cứ đi, tôi đây xin một lòng theo ông.” 8 Ông Giô-na-than nói: "Này ta sang phía bọn người ấy, và sẽ để chúng thấy ta. 9 Nếu chúng bảo: "Ðứng lại! Ðợi chúng tao đến chỗ chúng mày đã", thì ta sẽ đứng tại chỗ và sẽ không lên phía chúng. 10 Nhưng nếu chúng bảo: "Lên đây với chúng tao! , thì ta sẽ lên, vì Ðức Chúa đã trao chúng vào tay ta. Ðó là dấu hiệu cho ta.” 11 Vậy cả hai người để đồn Phi-li-tinh thấy mình. Người Phi-li-tinh nói: "Kìa bọn Híp-ri đang chui ra khỏi hang hốc chúng trốn.” 12 Những người trong đồn nói với ông Giô-na-than và người hầu cận: "Lên đây với chúng tao, chúng tao sẽ cho chúng mày biết tay!" Ông Giô-na-than nói với người hầu cận: "Hãy lên theo tôi, vì Ðức Chúa đã trao chúng vào tay Ít-ra-en.” 13 Ông Giô-na-than dùng cả tay cả chân mà leo lên, còn người hầu cận thì theo sau. Chúng ngã gục trước mặt ông Giô-na-than, và người hầu cận đằng sau ông kết liễu đời chúng. 14 Ðòn đầu tiên mà ông Giô-na-than và người hầu cận giáng xuống, đã giết chừng hai mươi người, trên diện tích bằng nửa luống cày của một sào đất.

Cuộc chiến lan rộng

15 Sự kinh hãi lan rộng khắp nơi: trong trại, ngoài đồng và trong toàn dân. Ðồn binh và đạo quân tiễu trừ cũng kinh hãi. Ðất rung chuyển và đó là một sự kinh hãi Thiên Chúa gieo xuống. 16 Lính canh của vua Sa-un tại Ghíp-a thuộc Ben-gia-min quan sát và thấy đám đông chạy tán loạn. 17 Vua Sa-un nói với dân đang ở với mình: "Hãy điểm quân và xem ai đã bỏ đây mà đi." Họ điểm quân và thấy thiếu ông Giô-na-than và người hầu cận của ông.

18 Vua Sa-un nói với ông A-khi-gia: "Hãy đem Hòm Bia Thiên Chúa lại gần", vì hồi ấy Hòm Bia Thiên Chúa ở với con cái Ít-ra-en. 19 Ðang khi vua Sa-un nói với tư tế thì trại Phi-li-tinh mỗi lúc một thêm náo động. Vua Sa-un nói với tư tế: "Rút tay lại!” 20 Vua Sa-un và tất cả quân binh đang ở với vua tập hợp lại và ra chiến trường: kìa chúng rút gươm chém nhau và vô cùng hoảng sợ. 21 Những người Híp-ri trước đó đã theo người Phi-li-tinh và lên trại với chúng, cũng trở mặt mà theo người Ít-ra-en đang ở với vua Sa-un và ông Giô-na-than. 22 Tất cả những người Ít-ra-en đã trốn lên núi Ép-ra-im, nghe tin người Phi-li-tinh chạy trốn, cũng đuổi theo sát gót mà đánh. 23 Ngày ấy Ðức Chúa đã cứu Ít-ra-en.

Ông Giô-na-than vi phạm một lệnh cấm của vua Sa-un

Cuộc giao tranh vượt quá Bết A-ven. 24 Ngày đó người Ít-ra-en mệt lử, vì vua Sa-un đã ràng buộc dân bằng lời thề nguyền sau đây: "Khốn cho kẻ nào ăn gì từ bây giờ cho đến chiều, trước khi ta trả thù xong các kẻ thù của ta!" Toàn dân không ai nếm một chút gì.

25 Toàn dân trong xứ vào rừng. Trên mặt đất có mật ong. 26 Dân vào rừng, và kìa có mật ong đang chảy; nhưng không ai dám nhúng tay vào đưa lên miệng, vì dân sợ lời thề. 27 Ông Giô-na-than đã không nghe thấy cha ông bắt dân thề. Ông nhúng đầu cây gậy đang cầm trong tay vào tầng mật ong rồi đưa tay lên miệng; mắt ông liền sáng ra. 28 Bấy giờ một người trong dân lên tiếng nói: "Cha ông đã long trọng bắt dân thề và nói: "Khốn cho kẻ nào ăn gì hôm nay. Và dân đã kiệt sức.” 29 Ông Giô-na-than nói: "Cha tôi đã gây tai hoạ cho xứ sở. Anh em coi: mắt tôi sáng ra vì tôi đã nếm chút mật này. 30 Giả như hôm nay dân đã được ăn phần chiến lợi phẩm tìm thấy nơi quân thù, thì có phải là đòn giáng xuống người Phi-li-tinh đã mạnh hơn không?"

Dân phạm lỗi về nghi thức

31 Hôm ấy họ đánh người Phi-li-tinh từ Mích-mát đến Ai-gia-lôn. Dân đã kiệt sức, 32 nên xông vào lấy chiến lợi phẩm: họ bắt chiên dê, bò bê, giết ngay trên đất và ăn thịt có máu. 33 Người ta báo tin cho vua Sa-un rằng: "Kìa dân đang phạm tội nghịch cùng Ðức Chúa là ăn thịt có máu." Vua nói: "Các người đã phản bội. Hãy lập tức vần đến cho ta một tảng đá lớn!” 34 Vua Sa-un nói: "Hãy chia nhau đi đến với dân và bảo họ mỗi người phải đem lại cho ta con bò hay con chiên, con dê của mình. Các người phải giết nó ở đây và ăn thịt, và đừng phạm tội nghịch cùng Ðức Chúa là ăn thịt có máu." Ðêm ấy, toàn dân mỗi người đem đến con bò họ có trong tay và họ giết tại đó. 35 Vua Sa-un dựng một bàn thờ để kính Ðức Chúa: đó là bàn thờ đầu tiên ông dựng để kính Ðức Chúa.

Ông Giô-na-than có lỗi nhưng được dân cứu

36 Vua Sa-un nói: "Chúng ta hãy xuống đuổi theo người Phi-li-tinh ban đêm, và hãy cướp phá chúng cho đến khi trời sáng, đừng để cho một tên nào sống sót." Họ nói: "Ðiều ngài cho là tốt, xin ngài cứ làm." Vị tư tế nói: "Chúng ta hãy lại gần Thiên Chúa, ngay tại chỗ này.” 37 Vua Sa-un thỉnh ý Thiên Chúa: "Con có nên xuống đuổi theo người Phi-li-tinh không? Ngài có trao chúng vào tay người Ít-ra-en không?" Nhưng ngày hôm ấy Người không trả lời vua. 38 Vua Sa-un nói: "Tất cả các cột trụ của dân, hãy lại gần đây, hãy xem xét cho kỹ tội của ngày hôm nay là ở chỗ nào. 39 Có Ðức Chúa hằng sống, Ðấng cứu Ít-ra-en! Dù là chính Giô-na-than, con ta, thì chắc chắn nó cũng sẽ phải chết." Toàn dân không có ai trả lời vua. 40 Vua nói với toàn thể Ít-ra-en: "Các người hãy ở một bên, còn ta và Giô-na-than, con ta, sẽ ở một bên." Toàn dân nói với vua Sa-un: "Ðiều ngài coi là tốt, xin ngài cứ làm."

41 Vua Sa-un thưa với Ðức Chúa: "Lạy Thiên Chúa của Ít-ra-en, xin cho biết đầy đủ." Ông Giô-na-than và vua Sa-un bị trúng thăm, còn dân thì thoát. 42 Vua Sa-un nói: "Hãy rút thăm giữa ta và Giô-na-than, con ta." Ông Giô-na-than bị trúng thăm.

43 Vua Sa-un bảo ông Giô-na-than: "Hãy kể cho cha biết con đã làm gì." Ông Giô-na-than kể cho cha biết, ông nói: "Quả con đã có nếm chút mật ở đầu chiếc gậy con cầm ở tay. Con đây, con sẵn sàng chết.” 44 Vua Sa-un nói: "Xin Thiên Chúa phạt tôi thế này, và còn thêm thế kia nữa! ... Ðúng chắc chắn con sẽ phải chết, Giô-na-than ơi!” 45 Dân nói với vua Sa-un: "Sao? Ông Giô-na-than, người đã thực hiện cuộc chiến thắng vĩ đại này trong Ít-ra-en, mà phải chết ư? Không đời nào! Có Ðức Chúa hằng sống. Không một sợi tóc nào trên đầu Giô-na-than sẽ rụng xuống đất, vì hôm nay ông đã hành động cùng với Thiên Chúa." Thế là dân đã giải thoát ông Giô-na-than và ông không phải chết.

46 Vua Sa-un đi lên, không đuổi theo người Phi-li-tinh nữa; còn người Phi-li-tinh thì về xứ mình.

Tóm tắt về triều đại vua Sa-un

47 Khi vua Sa-un nắm được vương quyền cai trị Ít-ra-en, vua giao chiến với mọi kẻ thù tứ phía: với Mô-áp, với con cái Am-mon, với Ê-đôm, với các vua Xô-va, với người Phi-li-tinh; quay về phía nào, vua cũng thắng. 48 Vua biểu dương sức mạnh, đánh người A-ma-lếch và giải thoát Ít-ra-en khỏi tay kẻ cướp phá họ.

49 Các con trai vua Sa-un là ông Giô-na-than, ông Gít-vi và ông Man-ki Su-a; còn các con gái vua, thì cô chị tên là Mê-ráp, cô em tên là Mi-khan. 50 Vợ vua Sa-un tên là A-khi-nô-am, con gái ông A-khi-ma-át. Tướng chỉ huy quân đội của vua tên là Áp-ne, con ông Ne, ông này là chú vua Sa-un. 51 Ông Kít, cha vua Sa-un, và ông Ne, cha ông Áp-ne, đều là con ông A-vi-ên.

52 Suốt đời vua Sa-un, luôn có chiến tranh kịch liệt với người Phi-li-tinh. Hễ thấy ai là dũng sĩ hay người can đảm, thì vua Sa-un đều thu dụng.

Chương 15

Thánh chiến chống người A-ma-lếch

1 Ông Sa-mu-en nói với vua Sa-un: "Tôi đã được Ðức Chúa sai đến xức dầu tấn phong ngài làm vua cai trị dân Người là Ít-ra-en. Giờ đây ngài hãy nghe những lời Ðức Chúa phán. 2 Ðức Chúa các đạo binh phán thế này: Ta sắp hạch tội A-ma-lếch về cách nó đã đối xử với Ít-ra-en khi chặn đường Ít-ra-en đang từ Ai-cập lên. 3 Giờ đây, ngươi hãy đi đánh A-ma-lếch. Các ngươi phải tru hiến tất cả những gì thuộc về nó. Ngươi không được tha chết cho nó. Ngươi phải giết từ đàn ông đến đàn bà, từ nhi đồng đến trẻ con đang bú, từ bò đến chiên dê, từ lạc đà đến lừa."

4 Vua Sa-un triệu tập dân và duyệt binh tại Tơ-la-im: hai trăm ngàn bộ binh và mười ngàn người Giu-đa. 5 Vua Sa-un đến thành của A-ma-lếch và mai phục trong thung lũng. 6 Vua Sa-un nói với người Kê-ni: "Các người hãy đi, hãy ly khai, hãy bỏ hàng ngũ người A-ma-lếch, kẻo ta cũng coi các người như bọn chúng, vì các người đã lấy tình mà đối xử với toàn thể con cái Ít-ra-en khi họ ra khỏi Ai-cập." Người Kê-ni liền ly khai hàng ngũ A-ma-lếch.

7 Vua Sa-un đã đánh A-ma-lếch từ Kha-vi-la cho đến Sua, 8 bắt sống A-gác, vua A-ma-lếch, và dùng lưỡi gươm mà tru hiến toàn dân. 9 Nhưng vua Sa-un và toàn dân đã tha chết cho A-gác, cho những con tốt nhất trong đoàn chiên dê và bò, các con mập, các chiên con và tất cả những gì tốt; họ không muốn tru hiến chúng. Còn tất cả các con vật xấu xí và vô giá trị, thì họ đã tru hiến.

Vua Sa-un bị Ðức Chúa từ bỏ

10 Có lời Ðức Chúa phán với ông Sa-mu-en rằng: 11 "Ta hối hận đã đặt Sa-un làm vua, vì nó đã bỏ không theo Ta và không thi hành các lệnh của Ta." Ông Sa-mu-en buồn bực, và suốt đêm ông kêu lên Ðức Chúa.

12 Sáng hôm sau, ông Sa-mu-en dậy sớm để đi gặp vua Sa-un. Người ta báo tin cho ông Sa-mu-en rằng: "Vua Sa-un đã đi Các-men, đã dựng một đài kỷ niệm, rồi bỏ nơi đó, đi xa hơn, và xuống Ghin-gan.” 13 Ông Sa-mu-en đến với vua Sa-un. Vua Sa-un nói: "Xin Ðức Chúa chúc phúc cho ông. Tôi đã thi hành lệnh của Ðức Chúa.” 14 Ông Sa-mu-en nói: "Thế thì tiếng chiên dê bên tai tôi và tiếng bò rống tôi nghe là gì vậy?” 15 Vua Sa-un trả lời: "Người ta đã đưa chúng từ nơi người A-ma-lếch về, vì dân đã tha chết cho những con tốt nhất trong đàn chiên dê và bò, để làm hy lễ dâng Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông; những con còn lại, chúng tôi đã tru hiến."

16 Ông Sa-mu-en nói với vua Sa-un: "Thôi! Tôi sẽ báo cho ngài biết điều Ðức Chúa đã phán với tôi đêm qua." Vua Sa-un bảo: "Xin ông cứ nói.” 17 Ông Sa-mu-en nói: "Dù ngài tự coi mình là nhỏ bé, ngài chẳng phải là đầu của các chi tộc Ít-ra-en sao? Ðức Chúa đã xức dầu phong ngài làm vua cai trị Ít-ra-en. 18 Ðức Chúa đã sai ngài lên đường và phán: "Hãy đi, ngươi phải tru hiến quân tội lỗi là bọn A-ma-lếch ấy, và phải giao chiến với chúng cho đến khi tận diệt chúng. 19 Tại sao ngài đã không nghe theo tiếng Ðức Chúa? Tại sao ngài đã xông vào lấy chiến lợi phẩm và làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa?” 20 Vua Sa-un nói với ông Sa-mu-en: "Tôi đã nghe theo tiếng Ðức Chúa. Tôi đã đi theo con đường Ðức Chúa sai tôi đi. Tôi đã đưa A-gác, vua A-ma-lếch, về và đã tru hiến A-ma-lếch. 21 Trong số chiến lợi phẩm là chiên dê và bò, trong số những vật bị tru hiến, dân đã lấy những con tốt nhất để làm hy lễ dâng Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, tại Ghin-gan."

22 Ông Sa-mu-en nói:

"Ðức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ

như ưa thích người ta vâng lời Ðức Chúa không?

Này, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ,

lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu.

23 Phản nghịch cũng có tội như bói toán,

ngoan cố là tội ác giống như thờ ngẫu tượng.

Bởi vì ngài đã gạt bỏ lời của Ðức Chúa,

nên Người đã gạt bỏ ngài, không cho làm vua nữa."

Vua Sa-un xin tha thứ nhưng không được

24 Vua Sa-un nói với ông Sa-mu-en: "Tôi đã phạm tội, vì đã vi phạm lệnh Ðức Chúa và các lời của ông. Lý do là vì tôi đã sợ dân và nghe theo tiếng họ. 25 Giờ đây, xin ông vui lòng tha tội cho tôi và trở lại cùng với tôi, để tôi phục xuống lạy Ðức Chúa.” 26 Ông Sa-mu-en trả lời vua Sa-un: "Tôi sẽ không trở lại cùng với ngài, vì ngài đã gạt bỏ lời Ðức Chúa; Ðức Chúa đã gạt bỏ ngài, không cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa.” 27 Khi ông Sa-mu-en quay mặt để đi thì vua Sa-un níu vạt áo khoác của ông và áo bị giật rách. 28 Ông Sa-mu-en nói với vua: "Hôm nay Ðức Chúa đã giật vương quyền Ít-ra-en ra khỏi ngài và đã ban cho một người khác tốt hơn ngài. 29 Ðấng là Vinh Dự của Ít-ra-en không lừa dối cũng không hối hận, vì Người đâu phải là con người để mà hối hận.” 30 Vua nói: "Tôi đã phạm tội, nhưng giờ đây xin ông kính trọng tôi trước mặt các kỳ mục trong dân của tôi và trước mặt Ít-ra-en. Xin ông trở lại cùng với tôi để tôi phục xuống lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông.” 31 Ông Sa-mu-en trở lại, theo sau vua Sa-un, và vua Sa-un đã phục xuống lạy Ðức Chúa.

Vua A-gác bị giết. Ông Sa-mu-en ra đi.

32 Ông Sa-mu-en nói: "Hãy đem A-gác, vua A-ma-lếch lại cho tôi." A-gác vui vẻ đến với ông và nói: "Hẳn là ta thoát được cái chết cay đắng.” 33 Ông Sa-mu-en nói:

"Cũng như gươm của ngươi đã cướp con của những người đàn bà,

thì giữa các người đàn bà,

mẹ ngươi cũng sẽ bị cướp con như vậy!"

Rồi ông Sa-mu-en xé xác A-gác trước nhan Ðức Chúa, tại Ghin-gan.

34 Ông Sa-mu-en đi Ra-ma, còn vua Sa-un lên nhà mình tại Ghíp-a, thành của vua Sa-un. 35 Cho đến chết, ông Sa-mu-en không gặp lại vua Sa-un nữa: ông Sa-mu-en khóc thương vua Sa-un, vì Ðức Chúa hối hận đã đặt Sa-un làm vua cai trị Ít-ra-en.

Chương 16

III. Vua Sa-Un Và Ông Ða-Vít

1. Ông Ða-Vít Trong Triều Ðình

Ông Ða-vít được xức dầu phong vương

1 Ðức Chúa phán với ông Sa-mu-en: "Ngươi còn khóc thương Sa-un cho đến bao giờ, khi ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến gặp Gie-sê người Bê-lem, vì Ta đã thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua.” 2 Ông Sa-mu-en thưa: "Con đi thế nào được? Vua Sa-un mà nghe biết thì vua sẽ giết con! " Ðức Chúa phán: "Ngươi hãy đem theo một con bò cái tơ và hãy nói: "Tôi tới đây là để dâng hy lễ lên Ðức Chúa. 3 Ngươi sẽ mời Gie-sê đến dự hy lễ; phần Ta, Ta sẽ cho ngươi biết điều ngươi phải làm, và ngươi sẽ xức dầu tấn phong cho Ta kẻ Ta sẽ nói cho ngươi hay."

4 Ông Sa-mu-en làm điều Ðức Chúa đã phán; ông đến Bê-lem và các kỳ mục trong thành run sợ ra đón ông. Họ nói: "Ông đến có phải là để đem bình an không?” 5 Ông trả lời: "Bình an! Tôi tới đây là để dâng hy lễ lên Ðức Chúa. Các ông hãy thanh tẩy mình và đến dự hy lễ với tôi." Ông thanh tẩy ông Gie-sê và các con trai ông ấy và mời họ đến dự hy lễ.

6 Khi họ đến, ông thấy Ê-li-áp, ông nghĩ: "Ðúng rồi! Người Ðức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Ðức Chúa đây!” 7 Nhưng Ðức Chúa phán với ông Sa-mu-en: "Ðừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Ðức Chúa thì thấy tận đáy lòng.” 8 Ông Gie-sê gọi A-vi-na-đáp và cho cậu đi qua trước mặt Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en nói: "Cả người này, Ðức Chúa cũng không chọn.” 9 Ông Gie-sê cho Sa-ma đi qua, nhưng ông Sa-mu-en nói: "Cả người này, Ðức Chúa cũng không chọn.” 10 Ông Gie-sê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en nói với ông Gie-sê: "Ðức Chúa không chọn những người này.” 11 Rồi ông lại hỏi ông Gie-sê: "Các con ông có mặt đầy đủ chưa?" Ông Gie-sê trả lời: "Còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên." Ông Sa-mu-en liền nói với ông Gie-sê: "Xin ông cho người đi tìm nó về, chúng ta sẽ không nhập tiệc trước khi nó tới đây.” 12 Ông Gie-sê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Ðức Chúa phán với ông Sa-mu-en: "Ðứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!” 13 Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí Ðức Chúa nhập vào Ða-vít từ ngày đó trở đi. Ông Sa-mu-en đứng dậy và đi Ra-ma.

Ông Ða-vít vào phục vụ vua Sa-un

14 Thần khí Ðức Chúa rời khỏi vua Sa-un và một thần khí xấu từ Ðức Chúa đến ám vua. 15 Triều thần nói với vua Sa-un: "Ngài thấy đó, một thần khí xấu của Thiên Chúa ám ngài. 16 Xin ngài truyền. Bề tôi của ngài đang ở trước mặt ngài: họ sẽ tìm một người biết gảy đàn, và khi thần khí xấu của Thiên Chúa xuống trên ngài, thì người ấy sẽ gảy đàn và ngài sẽ cảm thấy dễ chịu.” 17 Vua Sa-un nói với triều thần: "Các người hãy đi tìm cho ta một tay gảy đàn giỏi và đưa đến cho ta.” 18 Một người trong đám gia nhân thưa rằng: "Tôi biết ông Gie-sê người Bê-lem, có một người con trai biết gảy đàn. Anh ta là một dũng sĩ can đảm, một chiến binh, một người có tài ăn nói, đẹp trai, và Ðức Chúa ở với anh.” 19 Vua Sa-un sai sứ giả đến với ông Gie-sê và nói với ông: "Ngươi hãy gửi cho ta Ða-vít, con ngươi, đứa chăn chiên.” 20 Ông Gie-sê bắt một con lừa, cho chở bánh, một bầu da rượu, và một con dê con, rồi sai Ða-vít, con ông, mang đến cho vua Sa-un. 21 Ða-vít đến với vua Sa-un và chầu chực trước mặt vua. Vua thương cậu lắm và cậu trở thành người hầu cận của vua. 22 Vua Sa-un sai người đến nói với ông Gie-sê: "Hãy để Ða-vít chầu chực trước mặt ta, vì nó được đẹp lòng ta.” 23 Như vậy, khi thần khí Thiên Chúa xuống trên vua Sa-un, thì Ða-vít cầm đàn và gảy. Bấy giờ vua Sa-un nguôi bệnh, cảm thấy dễ chịu, và thần khí xấu rời khỏi vua.

Chương 17

Go-li-át thách thức quân đội Ít-ra-en

1 Người Phi-li-tinh tập trung quân đội để giao chiến. Chúng tập trung ở Xô-khô thuộc Giu-đa và đóng trại giữa Xô-khô và A-dê-ca, tại E-phét Ðam-mim. 2 Vua Sa-un và người Ít-ra-en cũng tập trung, đóng trại trong thung lũng Cây Vân Hương, và dàn trận đối diện với người Phi-li-tinh. 3 Người Phi-li-tinh đứng trên núi bên này, còn người Ít-ra-en đứng trên núi bên kia, giữa họ là thung lũng.

4 Một đấu thủ từ doanh trại Phi-li-tinh tiến ra. Tên nó là Go-li-át, người thành Gát. Nó cao khoảng ba thước, 5 đầu đội mũ chiến bằng đồng, mình mặc áo giáp vảy cá; áo giáp ấy bằng đồng, nặng năm mươi ký. 6 Chân nó mang tấm che bằng đồng, vai đeo cây lao bằng đồng. 7 Cán giáo của nó như trục khung cửi thợ dệt; và mũi giáo của nó bằng sắt, nặng sáu ký. Ði trước mặt nó là người mang thuẫn.

8 Nó đứng lại và gọi hàng ngũ Ít-ra-en. Nó bảo họ: "Sao chúng bay ra dàn trận? Ta đây chẳng phải là người Phi-li-tinh, còn chúng bay chẳng phải là bề tôi Sa-un sao? Hãy chọn lấy một người và nó hãy xuống đây với ta. 9 Nếu nó đủ mạnh để chiến đấu với ta và hạ được ta, thì chúng tao sẽ làm nô lệ chúng bay. Còn nếu ta mạnh hơn nó và hạ được nó, thì chúng bay sẽ làm nô lệ chúng tao và sẽ hầu hạ chúng tao.” 10 Tên Phi-li-tinh lại nói: "Ta đây, hôm nay ta thách hàng ngũ Ít-ra-en: Hãy đưa ra cho ta một người, để chiến đấu tay đôi!” 11 Khi vua Sa-un và toàn thể Ít-ra-en nghe tên Phi-li-tinh nói những lời ấy thì họ kinh khiếp sợ hãi lắm.

Ông Ða-vít đến trại

12 Ða-vít là con một người Ép-ra-tha ở Bê-lem thuộc Giu-đa; ông này tên là Gie-sê và có tám người con trai. Thời vua Sa-un, ông đã già và giữa người ta, ông là người có tuổi. 13 Ba con trai lớn của ông Gie-sê đã ra đi; họ đi theo vua Sa-un để đánh giặc. Ba con trai của ông đã đi đánh giặc tên là: Ê-li-áp, trưởng nam, A-vi-na-đáp, thứ hai, và Sam-ma, thứ ba. 14 Ða-vít là người nhỏ nhất, ba anh lớn đã đi theo vua Sa-un. 15 Ða-vít đi đi về về từ chỗ vua Sa-un đến Bê-lem, để chăn chiên cho cha. 16 Sáng nào chiều nào tên Phi-li-tinh cũng tiến ra và đứng như thế suốt bốn mươi ngày. 17 Ông Gie-sê bảo Ða-vít, con ông: "Con mang cho các anh con hai thùng gié lúa rang với mười cái bánh này, và chạy đến trại các anh con. 18 Còn mười miếng bánh sữa này thì con đưa cho viên chỉ huy ngàn quân. Con hãy hỏi thăm sức khoẻ các anh và lấy một vật của các anh làm bằng. 19 Vua Sa-un và các anh con, cũng như toàn thể các người Ít-ra-en, ở thung lũng Cây Vân Hương, đang giao chiến với người Phi-li-tinh."

20 Sáng hôm sau, Ða-vít dậy sớm, để chiên dê lại cho một người giữ, rồi khăn gói lên đường như ông Gie-sê đã dạy. Cậu đến trại binh lúc quân đội đang ra trận và reo hò giao chiến. 21 Người Ít-ra-en và người Phi-li-tinh dàn quân, trận tuyến đối nhau. 22 Ða-vít để hành lý lại, giao cho người giữ đồ, rồi chạy ra trận tuyến, đến vấn an các anh.

23 Cậu còn đang nói với họ, thì kìa từ trận tuyến Phi-li-tinh, tên đấu thủ tiến lên, nó là Go-li-át, người Phi-li-tinh, quê ở Gát. Nó nói những lời như trước và Ða-vít nghe thấy. 24 Vừa thấy tên đó, mọi người Ít-ra-en trốn xa nó và sợ hãi lắm. 25 Một người Ít-ra-en nói: "Anh em có thấy người đang tiến lên đó không? Nó tiến lên là để thách thức Ít-ra-en đấy. Ai mà hạ được nó thì nhà vua sẽ cho của cải dư dật, sẽ gả con gái cho và sẽ cho gia đình người ấy được miễn sưu thuế tại Ít-ra-en.” 26 Ða-vít hỏi những người đang đứng với cậu rằng: "Người ta sẽ làm gì cho kẻ hạ được tên Phi-li-tinh ấy và cất nỗi ô nhục khỏi Ít-ra-en? Thật vậy, tên Phi-li-tinh không cắt bì kia là ai mà dám thách thức hàng ngũ của Thiên Chúa Hằng Sống?” 27 Dân trả lời cậu như trên, họ nói: "Người ta sẽ làm như thế cho kẻ hạ được nó."

28 Ê-li-áp, anh cả của cậu, nghe thấy cậu nói chuyện với những người ấy. Ê-li-áp nổi giận với Ða-vít và nói: "Mày xuống đây làm gì? Mày bỏ mấy con chiên kia trong sa mạc cho ai? Tao, tao biết mày hỗn láo và xấu bụng: mày xuống chỉ để xem đánh nhau!” 29 Ða-vít trả lời: "Em có làm gì đâu? Nói chuyện cũng không được sao?” 30 Cậu bỏ anh đến với người khác, và cũng hỏi như thế. Người ta cũng trả lời như trước. 31 Người ta đã nghe các lời Ða-vít nói và thuật lại cho vua Sa-un. Vua cho gọi Ða-vít đến.

Ông Ða-vít tình nguyện nhận lời thách thức

32 Ða-vít nói với vua Sa-un: "Ðừng ai ngã lòng vì nó. Tôi tớ ngài đây sẽ đi chiến đấu với tên Phi-li-tinh ấy.” 33 Vua Sa-un nói với Ða-vít: "Con không thể đến với tên Phi-li-tinh ấy để chiến đấu với nó, vì con chỉ là một đứa trẻ, còn nó là một chiến binh từ khi còn trẻ."

34 Ða-vít thưa với vua Sa-un: "Tôi tớ ngài là người chăn chiên dê cho cha. Khi sư tử hay gấu đến tha đi một con chiên trong bầy gia súc, 35 thì con ra đuổi theo nó, đánh nó và giật con chiên khỏi mõm nó. Nó mà chồm lên con, thì con nắm lấy râu nó, đánh cho nó chết. 36 Tôi tớ ngài đã đánh cả sư tử lẫn gấu, thì tên Phi-li-tinh không cắt bì này cũng sẽ như một trong các con vật đó, vì nó đã thách thức các hàng ngũ của Thiên Chúa hằng sống.” 37 Ða-vít nói: "Ðức Chúa là Ðấng đã giật con khỏi vuốt sư tử và vuốt gấu, chính Người sẽ giật con khỏi tay tên Phi-li-tinh này." Vua Sa-un nói với Ða-vít: "Con hãy đi, xin Ðức Chúa ở với con!” 38 Vua Sa-un lấy y phục của mình mặc cho Ða-vít, đội mũ chiến bằng đồng lên đầu và mặc áo giáp cho cậu. 39 Ða-vít đeo gươm của vua ngoài y phục rồi thử bước đi, vì cậu không quen. Ða-vít nói với vua Sa-un: "Con không thể bước đi với những thứ này được, vì con không quen." Rồi Ða-vít bỏ những thứ đó ra.

Cuộc chiến tay đôi

40 Cậu cầm gậy trong tay, chọn lấy năm hòn đá cuội dưới suối, bỏ vào túi chăn chiên, vào bị của cậu, rồi tay cầm dây phóng đá, cậu tiến về phía tên Phi-li-tinh. 41 Tên Phi-li-tinh từ từ tiến lại gần Ða-vít, đi trước mặt nó là người mang thuẫn. 42 Tên Phi-li-tinh nhìn, và khi thấy Ða-vít, nó khinh dể cậu, vì cậu còn trẻ, có mái tóc hung và đẹp trai. 43 Tên Phi-li-tinh nói với Ða-vít: "Tao là chó hay sao mà mầy cầm gậy đến với tao?" Và tên Phi-li-tinh lấy tên các thần của mình mà nguyền rủa Ða-vít. 44 Tên Phi-li-tinh nói với Ða-vít: "Ðến đây với tao, tao sẽ đem thịt mày làm mồi cho chim trời và dã thú.” 45 Ða-vít bảo tên Phi-li-tinh: "Mày mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày nhân danh Ðức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Ít-ra-en mà mày thách thức. 46 Ngay hôm nay Ðức Chúa sẽ nộp mày vào tay tao, tao sẽ hạ mày và làm cho đầu mày lìa khỏi thân. Ngay hôm nay tao sẽ đem xác chết của quân đội Phi-li-tinh làm mồi cho chim trời và dã thú. Toàn cõi đất sẽ biết rằng có một Thiên Chúa che chở Ít-ra-en, 47 và toàn thể đại hội này sẽ biết rằng không phải nhờ gươm, nhờ giáo mà Ðức Chúa ban chiến thắng, vì chiến đấu là việc của Ðức Chúa và Người sẽ trao chúng mày vào tay chúng tao!"

48 Khi tên Phi-li-tinh bắt đầu xông lên và đến gần để đương đầu với Ða-vít, thì Ða-vít vội vàng chạy từ trận tuyến ra để đương đầu với tên Phi-li-tinh. 49 Ða-vít thọc tay vào bị, rút từ đó ra một hòn đá, rồi dùng dây phóng mà ném trúng vào trán tên Phi-li-tinh. Hòn đá cắm sâu vào trán, khiến nó ngã sấp mặt xuống đất. 50 Thế là Ða-vít thắng tên Phi-li-tinh nhờ dây phóng và hòn đá. Cậu hạ tên Phi-li-tinh và giết nó. Nhưng trong tay Ða-vít không có gươm. 51 Ða-vít chạy lại, đứng trên xác tên Phi-li-tinh, lấy gươm của nó, rút khỏi bao, kết liễu đời nó và dùng gươm chặt đầu nó.

Người Phi-li-tinh thấy người hùng của mình đã chết thì chạy trốn. 52 Người Ít-ra-en và Giu-đa xông lên, reo hò và đuổi theo người Phi-li-tinh cho đến lối vào thung lũng và cho đến cửa thành Éc-rôn. Thây người Phi-li-tinh ngã gục trên đường Sa-a-ra-gim, cho đến Gát và Éc-rôn. 53 Sau khi ráo riết đuổi theo người Phi-li-tinh, con cái Ít-ra-en quay trở lại cướp phá trại chúng. 54 Ða-vít lấy đầu tên Phi-li-tinh và đem về Giê-ru-sa-lem; còn các vũ khí của nó thì đặt trong lều mình.

Sau khi chiến thắng, Ða-vít ra trình diện vua Sa-un

55 Khi vua Sa-un thấy Ða-vít ra đương đầu với tên Phi-li-tinh, thì hỏi ông Áp-ne, tướng chỉ huy quân đội: "Ðứa trẻ ấy là con ai, Áp-ne?" Ông Áp-ne trả lời: "Thưa đức vua, tôi xin lấy mạng sống ngài mà thề, tôi không biết!” 56 Vua nói: "Hỏi xem thiếu niên ấy là con ai."

57 Lúc Ða-vít trở về sau khi hạ tên Phi-li-tinh, ông Áp-ne đón cậu, dẫn cậu đến trước mặt vua Sa-un, tay cậu xách cái đầu tên Phi-li-tinh. 58 Vua Sa-un hỏi cậu: "Hỡi người thanh niên, con là con ai?" Ða-vít trả lời: "Con là con của tôi tớ ngài là Gie-sê, người Bê-lem."

Chương 18

1 Ông Ða-vít vừa nói với vua Sa-un xong thì tâm hồn ông Giô-na-than gắn bó với tâm hồn ông Ða-vít, và ông Giô-na-than yêu mến ông như chính mình. 2 Hôm ấy vua Sa-un giữ ông Ða-vít lại và không cho về nhà cha ông. 3 Ông Giô-na-than lập giao ước với ông Ða-vít, vì ông yêu mến ông ấy như chính mình. 4 Ông Giô-na-than cởi chiếc áo khoác đang mặc mà cho ông Ða-vít, cho áo, cho cả gươm, cả cung, cả thắt lưng của ông. 5 Khi ông Ða-vít ra trận, mọi nơi vua Sa-un sai ông đi, ông đều thành công, và vua Sa-un đặt ông chỉ huy các chiến binh. Ông vừa lòng toàn dân và cả triều thần vua Sa-un nữa.

Vua Sa-un bắt đầu ghen tị

6 Lúc quân dân đến, khi ông Ða-vít hạ được tên Phi-li-tinh trở về, thì phụ nữ từ hết mọi thành của Ít-ra-en kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. 7 Phụ nữ vui đùa ca hát rằng:

"Vua Sa-un hạ được hàng ngàn,

ông Ða-vít hàng vạn."

8 Vua Sa-un giận lắm, và bực mình vì lời ấy. Vua nói: "Người ta cho Ða-vít hàng vạn, còn ta thì họ cho hàng ngàn. Nó chỉ còn thiếu ngôi vua nữa thôi!” 9 Từ ngày đó về sau, vua Sa-un nhìn Ða-vít với con mắt ghen tị.

10 Ngày hôm sau, một thần khí xấu của Thiên Chúa nhập vào vua Sa-un, và vua lên cơn xuất thần ngôn sứ ở giữa nhà. Ông Ða-vít đang gảy đàn như mọi ngày và vua Sa-un cầm cây giáo trong tay. 11 Vua Sa-un phóng cây giáo và nói: "Ta phải đâm Ða-vít, ghim nó vào tường mới được." Nhưng hai lần Ða-vít tránh được.

12 Vua Sa-un sợ ông Ða-vít, bởi vì Ðức Chúa ở với ông và đã rời khỏi vua Sa-un. 13 Vua Sa-un đẩy ông đi xa và đặt ông làm người chỉ huy ngàn quân. Ông dẫn đầu dân. 14 Ông Ða-vít thành công trong mọi công việc và Ðức Chúa ở với ông. 15 Thấy ông thành công lớn, vua Sa-un sợ ông. 16 Nhưng toàn thể Ít-ra-en và Giu-đa mến ông Ða-vít, vì ông dẫn đầu họ.

Ông Ða-vít cưới vợ

17 Vua Sa-un nói với ông Ða-vít: "Ðây con gái lớn của ta là Mê-ráp, ta sẽ gả nó cho con. Nhưng con hãy tỏ ra là một người can đảm phục vụ ta và hãy chiến đấu những cuộc chiến của Ðức Chúa." Vua Sa-un tự bảo: "Mình đừng tự tay hại nó, nhưng để tay người Phi-li-tinh hại nó.” 18 Ông Ða-vít-thưa với vua Sa-un: "Con là gì, và dòng họ con, thị tộc của cha con là gì trong Ít-ra-en, mà con được làm rể đức vua?” 19 Nhưng đến lúc phải gả cô Mê-ráp, con gái vua Sa-un, cho ông Ða-vít, thì cô lại được gả cho ông Át-ri-ên, người Mơ-khô-la.

20 Cô Mi-khan, con gái vua Sa-un, yêu ông Ða-vít. Người ta cho vua hay và vua thấy điều đó là phải. 21 Vua Sa-un tự bảo: "Mình sẽ gả con gái cho nó, để con này thành cạm bẫy cho nó, và tay người Phi-li-tinh hại nó." Vậy vua Sa-un nói với ông Ða-vít lần thứ hai: "Hôm nay con sẽ là rể của ta.” 22 Vua Sa-un ra lệnh cho triều thần: "Hãy nói nhỏ với Ða-vít rằng: "Nhà vua có cảm tình với ông và triều thần ai cũng mến ông. Bây giờ ông hãy làm rể nhà vua.” 23 Triều thần vua Sa-un nói lại những lời ấy cho ông Ða-vít nghe. Ông Ða-vít nói: "Các ông coi chuyện làm rể nhà vua là chuyện không đáng kể ư? Tôi, tôi chỉ là một người nghèo không đáng kể.” 24 Triều thần vua Sa-un thưa lại với vua rằng: "Ông Ða-vít đã nói những lời như thế.” 25 Vua Sa-un nói: "Các ngươi hãy nói với Ða-vít-thế này: Nhà vua không đòi sính lễ nào khác ngoài một trăm bao quy đầu người Phi-li-tinh, để trả thù quân địch của nhà vua." Vua Sa-un tính dùng tay người Phi-li-tinh mà hạ ông Ða-vít.

26 Triều thần vua Sa-un thuật lại cho ông Ða-vít những lời ấy. Ông Ða-vít thấy chuyện làm rể vua là phải. Chưa hết hạn, 27 ông Ða-vít đã lên đường, đi với người của ông. Ông hạ hai trăm người Phi-li-tinh, rồi đem bao quy đầu của chúng về, đếm đủ cho vua, để làm rể vua. Bấy giờ vua Sa-un gả cô Mi-khan, con gái vua, cho ông Ða-vít.

28 Thấy thế, vua Sa-un hiểu rằng Ðức Chúa ở với ông Ða-vít và cô Mi-khan, con vua, yêu ông. 29 Vua Sa-un càng thêm sợ ông Ða-vít, và vua Sa-un trở thành kẻ thù của ông Ða-vít suốt đời. 30 Các thủ lãnh người Phi-li-tinh ra trận, nhưng mỗi khi chúng ra trận, thì ông Ða-vít thành công hơn mọi bề tôi vua Sa-un, khiến danh tiếng ông lừng lẫy.

Chương 19

Ông Giô-na-than can thiệp cho ông Ða-vít

1 Vua Sa-un nói với ông Giô-na-than, con vua, và với toàn thể triều thần về ý định giết ông Ða-vít. Nhưng ông Giô-na-than, con vua Sa-un, lại rất có cảm tình với ông Ða-vít. 2 Ông Giô-na-than báo cho ông Ða-vít rằng: "Vua Sa-un, cha tôi, đang tìm cách giết anh. Vậy sáng mai anh hãy coi chừng, hãy ở nơi kín đáo và ẩn mình đi. 3 Phần tôi, tôi sẽ đi ra, sẽ đứng cạnh cha tôi trong cánh đồng, nơi anh đang trốn, tôi sẽ nói với cha tôi về anh. Thấy thế nào, tôi sẽ báo cho anh."

4 Ông Giô-na-than nói tốt cho ông Ða-vít với vua Sa-un, cha mình; ông nói với vua: "Xin đức vua đừng phạm tội hại tôi tớ ngài là Ða-vít, vì anh ấy đã không phạm tội hại ngài, và các hành động của anh là điều rất lợi cho ngài. 5 Anh đã liều mạng và hạ được tên Phi-li-tinh, và Ðức Chúa đã thắng lớn để bảo vệ toàn thể Ít-ra-en. Ngài đã thấy và đã vui mừng. Vậy sao ngài lại phạm tội đổ máu vô tội, mà vô cớ giết Ða-vít?” 6 Vua Sa-un nghe theo lời ông Giô-na-than, và vua Sa-un thề rằng: "Có Ðức Chúa hằng sống, ta thề: nó sẽ không bị giết.” 7 Ông Giô-na-than gọi ông Ða-vít đến và ông Giô-na-than thuật lại tất cả những điều ấy; rồi ông Giô-na-than dẫn ông Ða-vít đến với vua Sa-un, và ông Ða-vít lại phục vụ vua như trước.

2. Ông Ða-Vít Trốn Ði

Vua Sa-un toan sát hại ông Ða-vít

8 Chiến tranh lại tái diễn, ông Ða-vít ra trận và chiến đấu với người Phi-li-tinh. Ông đánh chúng một đòn đau và chúng chạy trốn trước mặt ông. 9 Một thần khí xấu của Ðức Chúa xuống trên vua Sa-un. Vua đang ở trong nhà, tay cầm cây giáo, còn ông Ða-vít đang gảy đàn. 10 Vua Sa-un tìm cách dùng cây giáo ghim ông Ða-vít vào tường, nhưng ông này tránh được, và vua cắm cây giáo vào tường. Ông Ða-vít chạy đi và trốn thoát đêm ấy.

Bà Mi-khan cứu ông Ða-vít

11 Vua Sa-un sai lính biệt phái đến nhà ông Ða-vít để canh chừng ông và sáng hôm sau giết ông. Bà Mi-khan, vợ ông, báo cho ông rằng: "Nếu anh không thoát thân đêm nay, thì ngày mai anh sẽ bị giết.” 12 Bà Mi-khan thả ông Ða-vít xuống qua cửa sổ. Ông đi trốn và thoát được.

13 Bà Mi-khan lấy tượng thần, đặt lên giường, để ở phía đầu một tấm lông dê, rồi lấy áo phủ lên. 14 Vua Sa-un sai lính biệt phái đến bắt ông Ða-vít, nhưng bà Mi-khan bảo họ: "Ông ấy đang bệnh.” 15 Vua Sa-un sai lính biệt phái đến để xem ông Ða-vít ra sao; vua bảo họ: "Cứ để nó trên giường mà khiêng lên cho ta, để ta giết nó.” 16 Lính biệt phái vào thì thấy tượng thần trên giường, với tấm lông dê ở phía đầu! 17 Vua Sa-un nói với bà Mi-khan: "Sao con đánh lừa cha như thế? Con đã để cho kẻ thù cha đi và nó đã thoát được!" Bà Mi-khan thưa với vua Sa-un: "Anh ấy bảo con: "Ðể cho anh đi, nếu không anh sẽ giết em!"

Vua Sa-un đến tìm ông Ða-vít tại nhà ông Sa-mu-en

18 Sau khi đã trốn đi và thoát được, ông Ða-vít đến với ông Sa-mu-en tại Ra-ma, và nói hết cho ông này biết vua Sa-un đã đối xử với mình như thế nào. Rồi ông và ông Sa-mu-en đến Nai-giốt. 19 Người ta báo cho vua Sa-un rằng: "Kìa ông Ða-vít đang ở Nai-giốt thuộc Ra-ma.” 20 Vua Sa-un sai lính biệt phái đến bắt ông Ða-vít. Họ thấy đoàn ngôn sứ đang lên cơn xuất thần ngôn sứ, có ông Sa-mu-en đứng đầu. Thần khí Thiên Chúa xuống trên các lính biệt phái của vua Sa-un, và cả những người này cũng lên cơn xuất thần ngôn sứ. 21 Người ta báo cho vua Sa-un, vua lại sai các lính biệt phái khác đến, và cả những người này cũng lên cơn xuất thần ngôn sứ. Vua lại sai nhóm lính biệt phái thứ ba, và cả những người này cũng lên cơn xuất thần ngôn sứ.

22 Vua liền đích thân đi Ra-ma và đến bể nước lớn tại Xe-khu. Vua hỏi rằng: "Ông Sa-mu-en và Ða-vít ở đâu?" Người ta trả lời: "Ở Nai-giốt thuộc Ra-ma.” 23 Vua đi tới đó, tới Nai-giốt thuộc Ra-ma. Thần khí Thiên Chúa cũng xuống trên vua, và vua vừa đi vừa lên cơn xuất thần ngôn sứ cho tới khi vua đến Nai-giốt thuộc Ra-ma. 24 Cả vua cũng cởi áo ra, cả vua cũng lên cơn xuất thần ngôn sứ trước mặt ông Sa-mu-en. Rồi cứ ở trần như vậy, vua ngã vật xuống, nằm suốt ngày suốt đêm hôm ấy. Vì thế mới có câu: "Ông Sa-un mà cũng ở trong số các ngôn sứ sao? "

Chương 20

Ông Giô-na-than giúp ông Ða-vít trốn thoát

1 Ông Ða-vít trốn khỏi Nai-giốt thuộc Ra-ma, và đến nói trước mặt ông Giô-na-than: "Tôi đã làm gì, tôi có lỗi gì, có tội gì với cha anh, mà người lại tìm hại mạng sống tôi?” 2 Ông Giô-na-than trả lời: "Không đời nào! Anh sẽ không chết đâu! Anh xem: cha tôi không làm điều gì, lớn hay nhỏ, mà không tiết lộ cho tôi. Vậy sao cha tôi lại giấu tôi điều này? Không có chuyện đó đâu!” 3 Ông Ða-vít nói lại và thề: "Cha anh thừa biết tôi được đẹp lòng anh, nên đã tự bảo: "Giô-na-than không được biết điều này, kẻo nó buồn phiền. Có Ðức Chúa hằng sống, có anh đang sống đó, tôi xin thề: giữa tôi và cái chết chỉ còn một bước.” 4 Ông Giô-na-than nói với ông Ða-vít: "Lòng anh muốn sao, tôi sẽ làm cho anh như vậy.” 5 Ông Ða-vít trả lời ông Giô-na-than: "Mai là ngày đầu tháng, và tôi phải ngồi ăn với đức vua. Anh sẽ để cho tôi đi và tôi sẽ ẩn ngoài đồng cho đến chiều ngày kia. 6 Nếu cha anh thấy vắng tôi, anh cứ nói: "Anh Ða-vít đã nài nẵng xin phép con chạy về Bê-lem, thành của anh, vì ở đó có hy lễ hằng năm cho toàn thị tộc. 7 Nếu người nói: "Tốt lắm", thì tôi tớ anh đây được bình an. Nhưng nếu người nổi giận, thì anh nên biết rằng người đã quyết tâm làm điều ác. 8 Xin anh lấy tình mà xử với tôi tớ anh đây, vì anh đã nhân danh Ðức Chúa mà lập giao ước với tôi tớ anh. Nếu tôi có lỗi, thì chính anh hãy giết tôi đi, chứ sao lại đưa tôi đến với cha anh?” 9 Ông Giô-na-than nói: "Không đời nào anh được nghĩ thế! Vì nếu tôi biết rằng cha tôi đã quyết tâm làm điều ác để hại anh, chẳng lẽ tôi lại không báo cho anh biết sao?” 10 Ông Ða-vít nói với ông Giô-na-than: "Ai sẽ báo cho tôi biết, nếu cha anh trả lời anh cách cứng cỏi?"

11 Ông Giô-na-than bảo ông Ða-vít: "Nào chúng ta ra ngoài đồng", và cả hai ra ngoài đồng. 12 Ông Giô-na-than nói với ông Ða-vít: "Có Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en chứng giám! Ngày mai ngày kia, vào giờ này, tôi sẽ dò ý cha tôi. Nếu mọi sự tốt đẹp cho Ða-vít, mà bấy giờ tôi lại không sai người đến tiết lộ cho anh, 13 thì xin Ðức Chúa phạt Giô-na-than thế này, và còn thêm thế kia nữa! Còn nếu cha tôi muốn làm điều ác hại anh, thì tôi sẽ tiết lộ cho anh, sẽ để cho anh đi, và anh sẽ đi bình an. Xin Ðức Chúa ở với anh như đã ở với cha tôi! 14 Nếu tôi còn sống, thì xin anh lấy tình mà xử với tôi như Ðức Chúa đòi hỏi. Còn nếu tôi chết, 15 thì xin anh đừng dứt bỏ tình nghĩa với gia đình tôi mãi mãi, ngay cả khi Ðức Chúa loại bỏ các kẻ thù của Ða-vít khỏi mặt đất, không sót một tên.” 16 Ông Giô-na-than lập giao ước với nhà ông Ða-vít và nói: "Xin Ðức Chúa hỏi tội các kẻ thù của Ða-vít!” 17 Ông Giô-na-than còn bắt ông Ða-vít thề, vì tình yêu của ông đối với ông Ða-vít: thật vậy, ông yêu Ða-vít như yêu chính mình.

18 Ông Giô-na-than bảo ông Ða-vít: "Mai là ngày đầu tháng, người ta sẽ thấy vắng anh vì chỗ anh trống. 19 Ngày kia, anh sẽ xuống mau, sẽ đến chỗ anh đã ẩn ngày xảy ra vụ đó và sẽ ngồi bên cạnh tảng đá E-den. 20 Còn tôi, tôi sẽ bắn ba mũi tên về một phía, làm như nhắm vào một cái bia. 21 Tôi sẽ sai người đầy tớ: "Ði tìm các mũi tên đi! Nếu tôi bảo người đầy tớ: "Ðây này, các mũi tên ở đằng sau ngươi, nhặt đi! thì anh hãy đến: anh được bình an, và không có gì cả. Có Ðức Chúa hằng sống, tôi xin thề. 22 Nhưng nếu tôi nói với người thiếu niên thế này: "Kia kìa, các mũi tên ở đằng trước ngươi! thì anh hãy đi, vì Ðức Chúa bảo anh đi. 23 Còn lời mà tôi và anh, chúng ta đã nói với nhau, thì có Ðức Chúa chứng giám giữa tôi và anh mãi mãi."

24 Vậy ông Ða-vít ẩn ngoài đồng. Ðến ngày đầu tháng, nhà vua ngồi bàn dùng bữa. 25 Nhà vua ngồi chỗ mình, như mọi khi, ở chỗ gần vách. Ông Giô-na-than ngồi đối diện. Ông Áp-ne ngồi bên cạnh vua Sa-un, còn chỗ ông Ða-vít thì trống. 26 Hôm đó, vua Sa-un không nói gì, vì vua tự bảo: "Ðó là chuyện tình cờ. Nó không thanh sạch, hẳn nó không thanh sạch.” 27 Hôm sau ngày đầu tháng, ngày thứ hai, chỗ ông Ða-vít vẫn trống. Vua Sa-un hỏi ông Giô-na-than, con vua: "Tại sao cả hôm qua lẫn hôm nay, con trai ông Gie-sê không đến dùng bữa?” 28 Ông Giô-na-than trả lời vua Sa-un: "Anh Ða-vít đã nài nẵng xin phép con về Bê-lem. 29 Anh ấy đã nói: "Xin để cho tôi đi, vì chúng tôi có hy lễ của thị tộc trong thành, và anh tôi đã ra lệnh cho tôi về. Bây giờ nếu tôi được đẹp lòng anh, xin anh cho tôi đi khỏi đây để về thăm các anh tôi. Vì thế anh ấy không đến bàn ăn của đức vua."

30 Vua Sa-un nổi cơn thịnh nộ với ông Giô-na-than, và vua nói với ông: "Thằng con của mụ đàn bà hư thân mất nết kia! Tao lại không biết mày cặp kè với thằng con trai lão Gie-sê, để mày phải nhục và con mẹ đã đẻ ra mày cũng phải nhục sao? 31 Thật vậy, bao lâu thằng con trai lão Gie-sê còn sống trên mặt đất, thì mày và vương quyền của mày sẽ không vững đâu. Bây giờ hãy sai người đi bắt nó về đây cho tao, vì nó đáng chết.” 32 Ông Giô-na-than thưa với vua Sa-un, cha của ông, và nói: "Sao lại giết anh ấy? Anh ấy đã làm gì?” 33 Vua Sa-un phóng cây giáo vào ông Giô-na-than, để đâm ông, và ông biết rằng cha ông đã quyết định giết ông Ða-vít. 34 Nổi giận bừng bừng, ông Giô-na-than đứng lên khỏi bàn ăn, và ngày thứ hai sau ngày đầu tháng đó, ông không dùng bữa, vì ông buồn cho ông Ða-vít, bởi lẽ cha ông đã xử bất công với ông ấy.

35 Sáng hôm sau, ông Giô-na-than ra ngoài đồng, đến chỗ đã hẹn với ông Ða-vít, có một đầy tớ nhỏ đi với ông. 36 Ông bảo đầy tớ: "Ngươi chạy đi tìm những mũi tên ta bắn!" Người đầy tớ chạy đi, và ông bắn mũi tên sao cho vượt qua nó. 37 Người đầy tớ đến chỗ mũi tên ông Giô-na-than vừa bắn. Ông Giô-na-than kêu ở phía sau người đầy tớ, ông nói: "Mũi tên không phải ở đằng trước ngươi sao"? 38 Ông Giô-na-than kêu ở phía sau: "Mau lên, lẹ lên, đừng đứng lại!" Người đầy tớ của ông Giô-na-than lượm mũi tên và đến với chủ. 39 Người đầy tớ không biết gì hết, chỉ có ông Giô-na-than và ông Ða-vít biết sự việc.

40 Ông Giô-na-than giao vũ khí cho người đầy tớ và bảo: "Ði mang về thành.” 41 Người đầy tớ về rồi, ông Ða-vít đứng dậy từ phía nam, sấp mặt xuống đất ba lần, rồi hai ông hôn nhau và cùng khóc, cho đến khi ông Ða-vít nén được cơn xúc động. 42 Ông Giô-na-than nói với ông Ða-vít: "Anh hãy đi bình an, vì cả hai chúng ta đã nhân danh Ðức Chúa mà thề rằng: Ðức Chúa sẽ ở giữa tôi và anh, giữa dòng dõi tôi và dòng dõi anh, mãi mãi!"

Chương 21

1 Ông Ða-vít đứng dậy và ra đi, còn ông Giô-na-than thì trở về thành.

Ông Ða-vít dừng lại ở Nốp

2 Ông đến Nốp gặp tư tế A-khi-me-léc. Ông A-khi-me-léc run sợ ra đón ông Ða-vít và hỏi ông: "Sao ông chỉ có một mình, không ai đi theo?” 3 Ông Ða-vít nói với tư tế A-khi-me-léc: "Ðức vua đã giao cho tôi một nhiệm vụ và bảo tôi: "Không ai được biết gì về sứ mệnh và nhiệm vụ ta giao cho ngươi. Các đầy tớ thì tôi đã hẹn đến chỗ kia rồi. 4 Bây giờ ông có sẵn gì không? Xin ông cho tôi năm cái bánh hay có gì cũng được.” 5 Tư tế trả lời ông Ða-vít rằng: "Tôi không có sẵn bánh thường, chỉ có bánh thánh hiến, miễn là các đầy tớ đã giữ mình, không gần gũi đàn bà."

6 Ông Ða-vít trả lời tư tế rằng: "Phải, chúng tôi bị cấm không được gần gũi đàn bà, như xưa nay, mỗi khi tôi ra trận: các đầy tớ đã giữ thân thể cho được thánh. Ðây là một chuyến đi thường, nhưng quả thật hôm nay họ đã giữ thân thể cho được thánh.” 7 Bấy giờ tư tế cho ông của thánh, vì ở đó không có bánh nào khác ngoài bánh tiến, thứ bánh đặt trước nhan Ðức Chúa, mà người ta lấy đi để đặt bánh nóng vào, trong ngày thay bánh.

8 Chính hôm ấy, ở đó có một người trong các bề tôi vua Sa-un, bị giữ lại trước nhan Ðức Chúa. Nó tên là Ðô-ếch, người Ê-đôm, và đứng đầu các người chăn chiên của vua Sa-un.

9 Ông Ða-vít nói với ông A-khi-me-léc: "Ông không có sẵn ở đây một cây giáo hay một thanh gươm ư? Tôi đã không mang theo cả gươm lẫn vũ khí của tôi, vì việc của đức vua quá khẩn cấp!” 10 Tư tế nói: "Có thanh gươm của tên Go-li-át người Phi-li-tinh, ông đã hạ tại thung lũng Cây Vân Hương; thanh gươm đó ở kia, bọc trong một áo choàng, đàng sau ê-phốt. Nếu ông muốn lấy, thì cứ lấy, vì ngoài nó ra, ở đây không có gươm nào khác." Ông Ða-vít nói: "Ðó là thanh gươm có một không hai. Ông hãy đưa cho tôi."

Ông Ða-vít đến với người Phi-li-tinh

11 Ông Ða-vít lên đường và ngày hôm đó trốn vua Sa-un. Ông đến gặp A-khít, vua thành Gát. 12 Triều thần vua A-khít thưa với vua: "Tên này chẳng phải là Ða-vít, vua xứ đó sao? Người ta đã chẳng múa nhảy hát mừng nó rằng:

"Vua Sa-un hạ được hàng ngàn,

ông Ða-vít hàng vạn"?"

13 Ông Ða-vít suy nghĩ về những lời ấy, và sợ A-khít, vua thành Gát lắm. 14 Bấy giờ ông giả dại trước mắt chúng, và trong tay chúng, ông làm bộ khùng: ông viết nguệch ngoạc trên các cánh cửa và để dãi chảy xuống râu.

15 Vua A-khít bảo triều thần: "Ðấy các ngươi thấy nó là một thằng điên. Tại sao các ngươi lại đưa nó đến với ta? 16 Ta đâu thiếu người điên mà các ngươi còn đưa tên này đến để nó làm thằng điên bên ta? Tên này mà lại vào nhà ta ư?

Chương 22

3. Ông Ða-Vít Cầm Ðầu Một Bọn Thủ Hạ

Ông Ða-vít bắt đầu cuộc sống nay đây mai đó

1 Ông Ða-vít đi khỏi đó và trốn thoát vào hang A-đu-lam. Các anh ông và tất cả nhà cha ông nghe tin và xuống đó với ông. 2 Bấy giờ tất cả những người cùng khốn, mắc nợ, bất mãn đều quy tụ quanh ông, và ông trở thành thủ lãnh của họ. Có khoảng chừng bốn trăm người ở với ông.

3 Từ nơi ấy ông Ða-vít đi Mít-pê thuộc Mô-áp. Ông nói với vua Mô-áp: "Xin cho cha mẹ tôi sang với các ông cho đến khi tôi biết Thiên Chúa sẽ làm gì cho tôi.” 4 Ông dẫn họ đến trước mặt vua Mô-áp, và họ ở lại với vua suốt thời gian ông Ða-vít ở trong nơi ẩn náu.

5 Ngôn sứ Gát nói với Ða-vít: "Ông đừng ở lại trong nơi ẩn náu, hãy ra đi và trở về miền Giu-đa." Ông Ða-vít ra đi và đến rừng Khe-rét.

Các tư tế thành Nốp bị tàn sát

6 Vua Sa-un nghe tin là người ta đã tìm ra ông Ða-vít và những người ở với ông. Vua Sa-un đang ngồi ở Ghíp-a, dưới cây liễu bách, tại nơi cao, tay cầm cây giáo, có toàn thể triều thần đứng bên. 7 Vua Sa-un nói với triều thần đang đứng bên: "Nghe đây, hỡi các người Ben-gia-min, có phải thằng con của Gie-sê cũng sẽ cho tất cả các ngươi những cánh đồng và vườn nho, sẽ đặt các ngươi làm chỉ huy một ngàn và chỉ huy một trăm quân không? 8 Sao tất cả các ngươi đã âm mưu chống lại ta? Không có ai tiết lộ cho ta, khi con ta lập giao ước với thằng con của Gie-sê; không ai trong các ngươi buồn cho ta, khi con ta xui người đầy tớ của ta nổi lên gài bẫy hại ta, như hôm nay!"

9 Ðô-ếch, người Ê-đôm, đang đứng bên triều thần vua Sa-un, lên tiếng nói: "Tôi đã thấy thằng con của Gie-sê đến Nốp gặp ông A-khi-me-léc, con ông A-khi-túp. 10 Ông A-khi-me-léc đã thỉnh ý Ðức Chúa cho nó, đã tiếp tế lương thực cho nó, và còn cho nó thanh gươm của Go-li-át, người Phi-li-tinh.” 11 Nhà vua sai người đi đòi tư tế A-khi-me-léc, con ông A-khi-túp đến, cùng với toàn thể nhà cha ông, là các tư tế ở Nốp. Tất cả những người đó đến với vua.

12 Vua Sa-un nói: "Nghe đây, hỡi con của A-khi-túp." Ông đáp: "Thưa chúa thượng, tôi đây.” 13 Vua Sa-un nói với ông: "Tại sao ngươi và thằng con của Gie-sê, các ngươi đã âm mưu chống lại ta? Ngươi đã cho nó bánh và gươm, lại thỉnh ý Thiên Chúa cho nó, để nó nổi lên gài bẫy hại ta, như hôm nay?” 14 Ông A-khi-me-léc thưa với vua rằng: "Trong triều thần của ngài, có ai trung tín như ông Ða-vít, con rể của nhà vua, chỉ huy cận vệ của ngài, người được kính nể trong triều đình? 15 Có phải hôm nay tôi mới bắt đầu thỉnh ý Thiên Chúa cho ông ấy? Không đời nào! Xin đức vua đừng buộc tội tôi tớ ngài và toàn thể nhà cha tôi, vì tôi tớ ngài không biết một điều gì, lớn hay nhỏ, về tất cả chuyện này.” 16 Vua nói: "A-khi-me-léc, ngươi sẽ phải chết, ngươi và toàn thể nhà cha ngươi."

17 Vua bảo các thị vệ đang đứng bên: "Hãy đi xử tử các tư tế của Ðức Chúa, vì cả chúng cũng tiếp tay cho Ða-vít: chúng biết nó trốn đi mà không báo cho ta." Nhưng triều thần không muốn tra tay giết các tư tế của Ðức Chúa. 18 Vua mới bảo Ðô-ếch: "Hãy đi giết các tư tế." Ðô-ếch, người Ê-đôm, đi và chính nó giết các tư tế. Ngày hôm ấy, nó đã xử tử tám mươi lăm người mặc ê-phốt vải gai. 19 Còn Nốp, thành của các tư tế, vua đã dùng gươm mà giết từ đàn ông đến đàn bà, từ nhi đồng đến trẻ con đang bú, và bò, lừa, chiên dê.

20 Chỉ có một người là con ông A-khi-me-léc và là cháu ông A-khi-túp, thoát được. Người ấy tên là Ép-gia-tha. Ông trốn đi theo ông Ða-vít. 21 Ông Ép-gia-tha báo tin cho ông Ða-vít là vua Sa-un đã giết các tư tế của Ðức Chúa. 22 Ông Ða-vít nói với ông Ép-gia-tha: "Hôm ấy, tôi biết là Ðô-ếch, người Ê-đôm, có ở đó và chắc chắn nó sẽ báo cho vua Sa-un. Chính tôi đã là nguyên do khiến cả nhà cha ông phải thiệt mạng. 23 Ông cứ ở lại với tôi, đừng sợ: ai tìm hại mạng sống ông là tìm hại mạng sống tôi. Ở bên tôi, ông sẽ được bảo vệ."

Chương 23

Ông Ða-vít đến Cơ-i-la

1 Người ta báo tin cho ông Ða-vít biết rằng: "Kìa người Phi-li-tinh đang tấn công Cơ-i-la và cướp phá các sân lúa.” 2 Ông thỉnh ý Ðức Chúa rằng: "Con có nên đi không và có đánh bại được những tên Phi-li-tinh này không?" Ðức Chúa phán với ông Ða-vít: "Cứ đi, ngươi sẽ đánh bại người Phi-li-tinh và cứu được Cơ-i-la.” 3 Người của ông Ða-vít nói với ông: "Ở đây, tại Giu-đa, mà chúng ta còn sợ hãi, huống chi là đi Cơ-i-la, xông vào trận tuyến người Phi-li-tinh!” 4 Ông Ða-vít lại thỉnh ý Ðức Chúa một lần nữa. Ðức Chúa trả lời ông rằng: "Ðứng lên! Hãy xuống Cơ-i-la, vì Ta sắp trao người Phi-li-tinh vào tay ngươi.” 5 Ông Ða-vít cùng với người của ông đi Cơ-i-la; ông tấn công người Phi-li-tinh, dẫn những bầy gia súc của chúng đi và đánh chúng một đòn đau. Thế là ông Ða-vít cứu được dân thành Cơ-i-la.

6 Khi ông Ép-gia-tha, con ông A-khi-me-léc, trốn đến với ông Ða-vít, ông đã xuống Cơ-i-la, tay cầm ê-phốt.

7 Người ta báo tin cho vua Sa-un là ông Ða-vít đã vào Cơ-i-la, vua Sa-un nói: "Thiên Chúa đã nộp nó vào tay ta, vì nó đã tự nhốt mình khi vào một thành có cửa đóng then cài.” 8 Vua Sa-un triệu tập toàn dân đi giao chiến để xuống Cơ-i-la vây ông Ða-vít và người của ông. 9 Ông Ða-vít biết rằng chính để hại ông mà vua Sa-un đang ngầm mưu điều ác, ông bảo tư tế Ép-gia-tha: "Ðem ê-phốt lại đây!” 10 Ông Ða-vít thưa: "Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, tôi tớ Ngài đây đã nghe nói rằng vì con, vua Sa-un đang tìm cách đến Cơ-i-la để phá huỷ thành này. 11 Các thân hào Cơ-i-la có nộp con vào tay vua không? Vua Sa-un có xuống, như tôi tớ Ngài đã nghe nói không? Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, xin cho tôi tớ Ngài biết." Ðức Chúa phán: "Nó sẽ xuống.” 12 Ông Ða-vít lại hỏi: "Các thân hào Cơ-i-la có nộp con và người của con vào tay vua Sa-un không?" Ðức Chúa phán: "Chúng sẽ nộp.” 13 Ông Ða-vít đứng lên cùng với người của ông, khoảng chừng sáu trăm người; họ ra khỏi Cơ-i-la và đi lang thang. Người ta báo cho vua Sa-un là ông Ða-vít đã trốn thoát khỏi Cơ-i-la, và vua thôi không ra trận nữa.

14 Ông Ða-vít ở trong sa mạc, trên các đỉnh núi; ông ở trong núi, trong sa mạc Díp. Trong suốt thời gian ấy, vua Sa-un tìm ông, nhưng Thiên Chúa không trao ông vào tay vua.

Ông Ða-vít ở Khoóc-sa. Ông Giô-na-than tới gặp.

15 Ông Ða-vít thấy rằng vua Sa-un đã ra trận để tìm hại mạng sống ông. Ông Ða-vít ở trong sa mạc Díp, tại Khoóc-sa. 16 Ông Giô-na-than, con vua Sa-un, lên đường, đến gặp ông Ða-vít tại Khoóc-sa và khuyến khích ông nhân danh Thiên Chúa. 17 Ông nói với ông Ða-vít: "Anh đừng sợ, vì bàn tay vua Sa-un, cha tôi, sẽ không đụng tới anh được. Chính anh sẽ làm vua cai trị Ít-ra-en, còn tôi sẽ làm phó cho anh; cả vua Sa-un, cha tôi, cũng biết như thế.” 18 Hai người lập giao ước trước nhan Ðức Chúa. Ông Ða-vít ở lại Khoóc-sa, còn ông Giô-na-than thì đi về nhà.

Ông Ða-vít thoát tay vua Sa-un

19 Có những người vùng Díp lên gặp vua Sa-un tại Ghíp-a và thưa: "Ða-vít chẳng trốn giữa chúng tôi, ở những đỉnh núi, tại Khoóc-sa, trên đồi Kha-khi-la ở phía nam hoang địa đó sao? 20 Bây giờ, thưa đức vua, khi nào ngài muốn xuống thì xin cứ xuống. Phận sự của chúng tôi là nộp nó vào tay đức vua.” 21 Vua Sa-un nói: "Xin Ðức Chúa chúc phúc cho các ngươi, vì các ngươi đã động lòng thương xót tôi. 22 Các ngươi hãy đi, điều tra nữa cho chắc chắn; hãy tìm cho biết và xem nó đặt chân ở đâu, có ai đã thấy nó ở đấy không, vì người ta nói với tôi rằng nó xảo quyệt lắm. 23 Các ngươi hãy xem và tìm cho biết hết những nơi nó ẩn, những chỗ nó núp. Khi đã chắc rồi, thì hãy trở lại gặp ta, và ta sẽ đi với các ngươi. Nếu như nó có ở trong xứ, thì ta sẽ truy nã nó trong mọi thị tộc Giu-đa.” 24 Họ lên đường và đi Díp trước vua Sa-un. Ông Ða-vít và người của ông thì ở trong sa mạc Ma-ôn, trong thung lũng phía nam hoang địa. 25 Vua Sa-un và người của vua đi tìm ông. Người ta báo tin cho ông Ða-vít, ông xuống Tảng Ðá và ở trong sa mạc Ma-ôn. Vua Sa-un nghe biết thì đuổi theo ông Ða-vít trong sa mạc Ma-ôn. 26 Vua Sa-un đi phía sườn núi bên này, còn ông Ða-vít và người của ông đi phía sườn núi bên kia. Ông Ða-vít vội vàng ra đi để thoát vua Sa-un. Vua Sa-un và người của vua đang bao vây ông Ða-vít và người của ông để bắt họ, 27 thì một người đưa tin đến nói với vua Sa-un: "Xin đức vua đến mau, vì người Phi-li-tinh đã tràn vào xứ.” 28 Vua Sa-un thôi không đuổi theo ông Ða-vít nữa, để ra nghênh chiến với người Phi-li-tinh. Vì thế người ta gọi chỗ ấy là Tảng Ðá Phân Ly.

Chương 24

Ông Ða-vít tha chết cho vua Sa-un

1 Ông Ða-vít lên khỏi chỗ đó và ở trên những đỉnh núi Ên Ghe-đi. 2 Sau khi vua Sa-un đuổi người Phi-li-tinh và trở về, người ta báo tin cho vua rằng: "Này Ða-vít đang ở trong sa mạc Ên Ghe-đi.” 3 Vua Sa-un lấy trong toàn thể Ít-ra-en ba ngàn quân tinh nhuệ, và lên đường để tìm bắt ông Ða-vít và người của ông, ở phía đông các Mỏm Ðá Sơn Dương. 4 Vua đến các bãi quây chiên dê bên đường. Ở đó có một cái hang và vua Sa-un vào đó để đi việc cần. Ông Ða-vít và người của ông đang ngồi ở cuối hang. 5 Người của ông Ða-vít nói với ông: "Ðây là ngày Ðức Chúa phán với ông: "Này ta trao kẻ thù của ngươi vào tay ngươi, ngươi sẽ đối xử với nó thế nào tuỳ ý." Ông Ða-vít đứng dậy và cắt vạt áo khoác của vua Sa-un. 6 Sau đó, ông Ða-vít áy náy trong lòng vì đã cắt vạt áo của vua Sa-un. 7 Ông bảo người của ông: "Xin Ðức Chúa đừng để tôi làm điều này cho chúa thượng của tôi, đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong, là tra tay hại vua, vì người là đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong.” 8 Nhờ những lời ấy, ông Ða-vít đã ngăn chặn người của ông, không để cho họ xông vào vua Sa-un.

Vua Sa-un đứng lên, ra khỏi hang và lên đường. 9 Sau đó, ông Ða-vít đứng lên, ra khỏi hang và kêu đằng sau vua Sa-un rằng: "Thưa đức vua là chúa thượng con!" Vua Sa-un ngoái lại đằng sau. Ông Ða-vít sấp mặt sát đất mà lạy. 10 Ông Ða-vít nói với vua Sa-un: "Tại sao cha lại nghe lời người ta nói rằng Ða-vít đang tìm cách hại cha? 11 Hôm nay đây, chính mắt cha thấy Ðức Chúa đã trao cha vào tay con, hôm nay, trong hang; người ta nói đến chuyện giết cha, nhưng con đã thương hại cha và nói: "Tôi sẽ không tra tay hại chúa thượng tôi, vì người là đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong. 12 Thưa cha, xin nhìn xem, vâng, xin nhìn xem vạt áo choàng của cha trong tay con. Vì con đã cắt áo choàng của cha và không giết cha, thì xin cha biết và thấy cho rằng tay con không làm điều ác, điều lỗi, và con đã không phạm tội hại cha, trong khi cha mưu toan lấy mạng sống con. 13 Xin Ðức Chúa phân xử giữa con và cha và xin Ðức Chúa phạt cha để trả thù cho con, nhưng tay con sẽ không đụng đến cha. 14 Như tục ngữ người xưa có nói: "Ðiều ác từ kẻ ác mà ra", nên tay con sẽ không đụng đến cha. 15 Ðức vua Ít-ra-en đã ra trận để đánh ai? Cha đuổi theo ai? Một con chó chết! Một con bọ chét! 16 Ðức Chúa sẽ là trọng tài, Người sẽ phân xử giữa con và cha. Xin Người nhìn xem và biện hộ cho con, xin Người phân xử để con thoát khỏi tay cha!"

17 Khi ông Ða-vít nói với vua Sa-un những lời đó xong, thì vua Sa-un hỏi: "Ða-vít con cha, có phải tiếng của con đấy không?" Rồi vua Sa-un oà lên khóc. 18 Vua nói với ông Ða-vít: "Con công chính hơn cha, vì con xử tốt với cha, còn cha thì xử ác với con. 19 Hôm nay con đã tỏ ra là con làm điều tốt cho cha, vì Ðức Chúa đã nộp cha vào tay con mà con đã không giết cha. 20 Có ai gặp kẻ thù của mình mà cứ để nó đi yên lành không? Xin Ðức Chúa thưởng con vì điều tốt con làm cho cha hôm nay. 21 Giờ đây cha biết rằng chắc chắn con sẽ làm vua và vương quyền Ít-ra-en sẽ vững mãi trong tay con. 22 Vậy giờ đây con hãy lấy Ðức Chúa mà thề với cha là sẽ không loại trừ dòng dõi cha sau này, và sẽ không xoá bỏ tên tuổi cha khỏi nhà của tổ phụ cha.” 23 Ông Ða-vít thề với vua Sa-un. Rồi vua Sa-un đi về nhà, còn ông Ða-vít và người của ông thì đi lên nơi ẩn náu.

Chương 25

Ông Sa-mu-en qua đời

1 Ông Sa-mu-en qua đời. Toàn thể Ít-ra-en tập hợp lại cử hành tang lễ cho ông. Họ chôn cất ông tại quê nhà ông, ở Ra-ma.

Chuyện ông Na-van và bà A-vi-ga-gin

Ông Ða-vít lên đường và xuống sa mạc Pa-ran.

2 Ở Ma-ôn có một người có cơ sở làm ăn tại Các-men. Người ấy rất giàu: ông có ba ngàn con cừu và một ngàn con dê. Ông đang ở Các-men để xén lông cừu của ông. 3 Ông ấy tên là Na-van, còn vợ ông tên là A-vi-ga-gin. Người vợ thì khôn khéo và có duyên, người chồng thì cứng cỏi và ưa làm điều ác; ông ta là người Ca-lếp.

4 Trong sa mạc, ông Ða-vít nghe tin là ông Na-van đang xén lông cừu của ông ấy. 5 Ông Ða-vít sai mười đầy tớ đi. Ông bảo các đầy tớ: "Các anh hãy lên Các-men, đến gặp ông Na-van và nhân danh tôi vấn an ông ấy. 6 Các anh hãy nói với người anh em tôi thế này: "Chúc ông được bình an, chúc gia đình ông được bình an, chúc ông vạn sự bình an! 7 Bây giờ tôi nghe tin là có thợ đang xén lông cừu cho ông. Khi người chăn súc vật của ông ở với chúng tôi, chúng tôi đã không quấy nhiễu họ, họ đã không bị mất mát gì trong suốt thời gian ở Các-men. 8 Ông cứ hỏi đầy tớ ông, họ sẽ nói cho ông biết. Mong rằng đầy tớ tôi được đẹp lòng ông, vì chúng tôi đã tới vào một ngày lễ. Xin vui lòng cho các đầy tớ ông và cho Ða-vít, con ông, cái gì ông sẵn có trong tay"."

9 Các đầy tớ ông Ða-vít đến và nói lại với ông Na-van tất cả những lời ấy nhân danh ông Ða-vít, rồi họ đợi. 10 Ông Na-van trả lời cho tôi tớ ông Ða-vít rằng: "Ða-vít là ai? Con ông Gie-sê là ai? Ngày nay có nhiều tôi tớ trốn chủ mà đi. 11 Chẳng lẽ tôi lại phải lấy bánh của tôi, nước của tôi, các con vật tôi đã làm thịt cho thợ xén lông của tôi, mà cho những người tôi không biết từ đâu đến sao?” 12 Các đầy tớ ông Ða-vít quay lại đường cũ và trở về. Khi đến nơi, họ thuật lại cho ông Ða-vít tất cả những lời đó. 13 Ông Ða-vít bảo người của ông: "Mỗi người hãy đeo gươm của mình vào!" Mỗi người đã đeo gươm của mình, ông Ða-vít cũng đeo gươm của ông. Có khoảng chừng bốn trăm người lên theo ông Ða-vít, còn hai trăm thì ở lại giữ đồ đạc.

14 Một trong số các đầy tớ báo tin cho bà A-vi-ga-gin, vợ ông Na-van rằng: "Này, ông Ða-vít đã sai người từ sa mạc đến chào ông chủ, và ông chủ đã xông vào họ. 15 Những người ấy rất tốt với chúng tôi. Chúng tôi đã không bị quấy nhiễu, đã không mất mát gì, suốt thời gian chúng tôi di chuyển bên họ, khi chúng tôi ở ngoài đồng. 16 Họ đã là thành luỹ bảo vệ chúng tôi, cả đêm lẫn ngày, suốt thời gian chúng tôi ở với họ mà chăn chiên dê. 17 Bây giờ xin bà biết cho và xem phải làm gì, vì người ta đã quyết định hại ông chủ và cả nhà ông. Còn ông ấy thì là một tên vô lại, không nói chuyện với ông ấy được."

18 Bà A-vi-ga-gin vội vàng lấy hai trăm cái bánh, hai bầu da đầy rượu, năm con cừu đã làm thịt, năm thúng gié lúa rang, một trăm bánh nho khô và hai trăm bánh vả, và chất lên lưng lừa. 19 Bà bảo đầy tớ: "Các anh hãy đi đằng trước tôi, còn tôi, tôi theo sau các anh." Nhưng bà không nói cho chồng bà là ông Na-van biết.

20 Bà đang cỡi lừa đi xuống, khuất sau ngọn núi thì kìa ông Ða-vít và người của ông đang xuống về phía bà, và bà đã gặp họ. 21 Ông Ða-vít tự bảo: "Thật uổng công tôi đã giữ tất cả những gì thuộc về tên này trong sa mạc, và không để mất một cái gì của nó. Nó đã lấy oán đền ơn. 22 Xin Thiên Chúa phạt các kẻ thù của Ða-vít thế này và còn thêm thế kia nữa, nếu cho đến sáng mai, trong tất cả những người thuộc về nó, tôi còn để lại một tên đàn ông con trai nào!” 23 Thấy ông Ða-vít, bà A-vi-ga-gin vội vàng xuống lừa, sấp mình xuống trước mặt ông Ða-vít và sụp lạy sát đất. 24 Bà phục xuống dưới chân ông và nói: "Thưa đức ông, tôi xin chịu tội! Nữ tỳ ngài xin được nói thấu tai ngài! Xin ngài nghe nữ tỳ ngài nói. 25 Xin đức ông đừng để tâm đến Na-van, kẻ vô lại ấy, vì tên nó thế nào, thì nó như vậy: tên nó là Ngu và cái ngu gắn liền với nó. Nhưng tôi, nữ tỳ ngài, đã không trông thấy các đầy tớ mà đức ông sai đến. 26 Giờ đây, thưa đức ông, có Ðức Chúa hằng sống, và có ngài đang sống đó, Ðức Chúa đã ngăn cản không cho ngài đi đến chỗ đổ máu và tự tay trả thù. Bây giờ, ước chi kẻ thù ngài, các kẻ tìm cách hại đức ông, phải bị như Na-van! 27 Giờ đây, món quà này mà tớ nữ của ngài đã đem đến cho đức ông, xin được giao cho các đầy tớ đi theo chân đức ông. 28 Xin vui lòng xá lỗi cho nữ tỳ ngài. Thật vậy, Ðức Chúa chắc chắn sẽ làm cho đức ông một nhà kiên cố, vì đức ông chiến đấu những cuộc chiến của Ðức Chúa, và suốt đời ngài, người ta không tìm được nơi ngài một điều ác nào. 29 Có người đứng lên để đuổi theo ngài và tìm hại mạng sống ngài, nhưng mạng sống của đức ông sẽ được bọc trong bọc những kẻ sống bên Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngài; còn mạng sống các kẻ thù ngài, thì Ðức Chúa dùng dây phóng đá mà phóng đi. 30 Vậy khi Ðức Chúa làm cho đức ông tất cả điều tốt lành Người đã nói về ngài, và đặt ngài làm người lãnh đạo Ít-ra-en, 31 thì đức ông sẽ không phải ân hận và áy náy lương tâm vì đã đổ máu vô cớ và trả thù cho chính mình. Khi Ðức Chúa xử tốt với đức ông, thì xin ngài nhớ đến nữ tỳ ngài."

32 Ông Ða-vít nói với bà A-vi-ga-gin: "Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en, hôm nay đã sai bà đến gặp tôi! 33 Bà được chúc phúc vì bà khôn ngoan, bà được chúc phúc vì hôm nay đã giữ không cho tôi đi tới chỗ đổ máu và tự tay trả thù. 34 Nhưng có Ðức Chúa hằng sống là Thiên Chúa Ít-ra-en, Ðấng đã ngăn cản không cho tôi làm hại bà! Giả như bà đã không vội vàng đến gặp tôi, thì cho đến khi trời sáng, sẽ không còn lại một tên đàn ông con trai nào của Na-van.” 35 Ông Ða-vít nhận từ tay bà những gì bà mang đến cho ông, và ông nói với bà: "Bà hãy lên nhà bà bình an. Bà xem đây: tôi đã nghe theo tiếng bà và đã nể bà.” 36 Bà A-vi-ga-gin về với ông Na-van. Kìa ông đang mở tiệc ở nhà ông, một bữa tiệc vương giả! Lòng ông Na-van vui vẻ. Ông say khướt nên bà không kể lại cho ông điều gì, dù nhỏ hay lớn, cho đến khi trời sáng. 37 Sáng hôm sau, khi ông Na-van tỉnh rượu, vợ ông mới kể lại cho ông các sự việc ấy. Tim ông chết lặng trong lồng ngực, ông cứng đờ ra như đá. 38 Khoảng mười ngày sau, Ðức Chúa đánh phạt ông Na-van và ông chết.

39 Ông Ða-vít nghe tin ông Na-van đã chết, thì nói: "Chúc tụng Ðức Chúa, Ðấng đã biện hộ cho tôi, khi tôi bị Na-van sỉ nhục, và đã ngăn không cho tôi tớ Người làm điều ác. Còn điều ác Na-van đã làm, thì Ðức Chúa đã đổ lại trên đầu nó."

Ông Ða-vít sai người đi hỏi bà A-vi-ga-gin làm vợ. 40 Tôi tớ Ða-vít đến với bà A-vi-ga-gin tại Các-men và nói với bà rằng: "Ông Ða-vít sai chúng tôi đến xin cưới bà làm vợ.” 41 Bà đứng dậy, sấp mặt xuống đất và nói: "Này nữ tỳ ngài xin làm tớ nữ để rửa chân cho tôi tớ của đức ông.” 42 Bà A-vi-ga-gin vội vã đứng dậy, lên lừa và có năm tớ gái theo chân bà. Bà đi theo những người ông Ða-vít sai đến. Bà đã trở thành vợ ông.

43 Ông Ða-vít cũng đã cưới bà A-khi-nô-am, người Gít-rơ-en. Cả hai bà đều là vợ ông. 44 Vua Sa-un đã gả bà Mi-khan là con gái vua và là vợ ông Ða-vít, cho ông Pan-ti, con ông La-gít, người Ga-lim.

Chương 26

Ông Ða-vít tha chết cho vua Sa-un

1 Người vùng Díp đến gặp vua Sa-un tại Ghíp-a và thưa: "Ða-vít chẳng trốn trên đồi Kha-khi-la, đối diện với hoang địa đó sao?” 2 Vua Sa-un lên đường và xuống sa mạc Díp, cùng với ba ngàn quân tinh nhuệ của Ít-ra-en, để tìm bắt ông Ða-vít trong sa mạc Díp. 3 Vua Sa-un đóng trại trên đồi Kha-khi-la, đối diện với hoang địa, ở bên đường, còn ông Ða-vít thì ở trong sa mạc. Thấy vua Sa-un đến đuổi theo ông trong sa mạc, 4 ông Ða-vít sai người đi do thám và ông biết là vua Sa-un chắc chắn đã đến. 5 Ông Ða-vít lên đường và đến nơi vua Sa-un đóng trại. Ông Ða-vít trông thấy chỗ vua Sa-un và ông Áp-ne, con ông Ne, tướng chỉ huy quân đội của vua, đang nằm. Vua Sa-un nằm trong trại binh; còn quân binh thì đóng trại chung quanh ông.

6 Ông Ða-vít lên tiếng hỏi ông A-khi-me-léc, người Khết, và ông A-vi-sai là con bà Xơ-ru-gia và là anh ông Giô-áp: "Ai muốn cùng tôi xuống chỗ vua Sa-un đóng trại?" Ông A-vi-sai thưa: "Cháu xin xuống với cậu.” 7 Ðang đêm, ông Ða-vít và ông A-vi-sai đến chỗ quân binh. Vua Sa-un đang nằm ngủ trong trại binh, cây giáo của vua cắm xuống đất, ở phía đầu vua, còn ông Áp-ne và quân binh thì nằm chung quanh.

8 Ông A-vi-sai nói với ông Ða-vít: "Hôm nay Thiên Chúa đã nộp kẻ thù của cậu vào tay cậu. Bây giờ, xin cho cháu dùng giáo ghim nó xuống đất, một nhát thôi; cháu không cần đâm nhát thứ hai.” 9 Ông Ða-vít nói với ông A-vi-sai: "Ðừng giết vua! Có ai tra tay hại đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong mà vô sự đâu?” 10 Ông Ða-vít nói: "Có Ðức Chúa hằng sống! Chính Ðức Chúa sẽ đánh phạt vua, hoặc khi ngày của vua đến mà vua phải chết, hoặc khi vua xuống giao chiến mà vua thiệt mạng. 11 Nhưng xin Ðức Chúa đừng bao giờ để tôi tra tay hại đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong! Bây giờ anh hãy lấy cây giáo ở phía đầu vua, cùng với bình nước, rồi chúng ta đi.” 12 Ông Ða-vít lấy cây giáo và bình nước ở phía đầu vua Sa-un, rồi cả hai người ra đi. Không ai thấy, không ai hay, không ai thức dậy. Họ đều ngủ cả, vì Ðức Chúa đã cho một giấc ngủ mê ập xuống trên họ.

13 Ông Ða-vít đi sang phía bên kia và đứng trên đỉnh núi, ở đàng xa; có một khoảng cách lớn giữa họ. 14 Ông Ða-vít gọi quân binh và ông Áp-ne, con ông Ne, rằng: "Ông không trả lời sao, ông Áp-ne?" Ông Áp-ne trả lời rằng: "Ngươi là ai mà dám gọi đức vua?” 15 Ông Ða-vít nói với ông Áp-ne: "Ông không phải là nam nhi sao? Và trong Ít-ra-en, có ai được như ông? Vậy tại sao ông đã không canh giữ đức vua, chúa thượng của ông? Có một người dân đã đến để giết đức vua, chúa thượng của ông. 16 Ðiều ông đã làm, thật không tốt. Có Ðức Chúa hằng sống! Các ông đáng chết vì đã không canh giữ chúa thượng của các ông, đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong. Bây giờ hãy xem: cây giáo của đức vua đâu rồi, và bình nước ở phía đầu người đâu rồi?"

17 Vua Sa-un nhận ra tiếng ông Ða-vít và nói: "Ða-vít con cha, có phải tiếng của con đấy không?" Ông Ða-vít nói: "Thưa đức vua là chúa thượng của con, vâng, tiếng con đó!” 18 Rồi ông nói: "Tại sao chúa thượng lại đuổi theo tôi tớ ngài? Con đã làm gì và tay con đã làm điều gì ác? 19 Bây giờ xin đức vua là chúa thượng của con vui lòng nghe tôi tớ ngài nói. Nếu là Ðức Chúa đã xúi ngài chống con, thì xin Người ngửi mùi thơm của lễ phẩm. Nhưng nếu là người phàm, thì xin cho chúng bị nguyền rủa trước nhan Ðức Chúa, vì chúng đã xua đuổi con hôm nay, không cho con được dự phần cơ nghiệp của Ðức Chúa, khi chúng bảo: "Hãy đi mà thờ các thần khác! 20 Bây giờ xin cho máu con đừng chảy xuống đất xa nhan Ðức Chúa, vì đức vua Ít-ra-en đã ra trận để tìm bắt một con bọ chét, như người ta đuổi theo một con chim cuốc trong vùng núi."

21 Vua Sa-un nói: "Cha thật đắc tội! Ða-vít con cha, trở về đi! Cha sẽ không hại con nữa, bởi vì ngày hôm nay con đã coi mạng sống của cha là quý. Phải, cha đã hành động ngu xuẩn, cha đã sai lỗi nặng nề!” 22 Ông Ða-vít trả lời: "Cây giáo của đức vua đây. Một trong các đầy tớ hãy sang mà lấy. 23 Xin Ðức Chúa thưởng công cho mỗi người tuỳ theo sự công chính và lòng trung thành của họ: hôm nay Ðức Chúa đã nộp cha vào tay con, nhưng con đã không muốn tra tay hại đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong. 24 Hôm nay con đã coi trọng mạng sống cha, thì xin Ðức Chúa cũng coi trọng mạng sống con như vậy, và giải thoát con khỏi mọi cảnh ngặt nghèo."

25 Vua Sa-un nói với ông Ða-vít: "Ða-vít con cha ơi, con được chúc phúc! Chắc chắn con sẽ làm việc lớn, và sẽ thành công." Ông Ða-vít tiếp tục con đường của mình, còn vua Sa-un thì trở về nhà.

Chương 27

4. Ông Ða-Vít Ðến Với Người Phi-Li-Tinh

Ông Ða-vít trốn đi Gát

1 Ông Ða-vít tự bảo: "Giờ đây, một ngày nào đó, tôi sẽ phải mất mạng bởi tay vua Sa-un. Không gì tốt hơn cho tôi là thoát sang đất người Phi-li-tinh. Vua Sa-un sẽ thôi không tìm bắt tôi trong toàn lãnh thổ Ít-ra-en nữa, và tôi sẽ thoát khỏi tay vua.” 2 Ông Ða-vít lên đường và cùng với sáu trăm người theo ông, sang với vua thành Gát là A-khít, con ông Ma-ốc. 3 Ông Ða-vít ở lại với vua A-khít tại Gát, cùng với các người của ông, mỗi người với gia đình mình, ông Ða-vít với hai bà vợ là bà A-khi-nô-am người Gít-rơ-en, và bà A-vi-ga-gin, vợ ông Na-van người Các-men. 4 Người ta báo cho vua Sa-un là ông Ða-vít đã trốn đi Gát, và vua không còn tìm bắt ông Ða-vít nữa.

Ông Ða-vít làm chư hầu người Phi-li-tinh

5 Ông Ða-vít nói với vua A-khít: "Nếu tôi được đẹp lòng ngài, thì xin cho tôi một chỗ trong thành nào đó ở vùng quê để tôi ở. Tôi tớ ngài ở gần ngài trong hoàng thành sao được?” 6 Ngay hôm đó, vua A-khít cho ông thành Xích-lắc; vì vậy Xích-lắc thuộc về các vua Giu-đa cho đến ngày nay. 7 Thời gian ông Ða-vít ở vùng quê Phi-li-tinh là một năm bốn tháng.

8 Ông Ða-vít và người của ông lên cướp phá vùng đất của người Gơ-sua, người Ghe-de và người A-ma-lếch, vì đó là những dân ở miền ấy từ xa xưa, trên đường vào Sua cho đến tận Ai-cập. 9 Ông Ða-vít đánh phá vùng đất ấy và không để một người đàn ông hay đàn bà nào sống sót; ông lấy chiên dê bò lừa, lạc đà và quần áo, rồi trở về và đến gặp vua A-khít. 10 Vua A-khít hỏi: "Hôm nay các ông đi cướp phá ở đâu?" Ông trả lời là ở vùng Ne-ghép của Giu-đa, hoặc ở vùng Ne-ghép của người Giơ-rác-mơ-ên, hoặc ở vùng Ne-ghép của người Kê-ni. 11 Ông Ða-vít không để một người đàn ông hay đàn bà nào sống sót mà đem về Gát; ông nói: "Sợ chúng báo cáo có hại cho chúng ta mà nói: "Ông Ða-vít đã làm như thế"." Ðó là cách xử sự của ông Ða-vít trong thời gian ông ở tại vùng quê Phi-li-tinh. 12 Vua A-khít tin ông Ða-vít; vua nói: "Nó đã làm cho nó trở nên đáng ghét đối với Ít-ra-en, dân của nó, và nó sẽ là tôi tớ ta mãi mãi."

Chương 28

Người Phi-li-tinh đi đánh Ít-ra-en

1 Thời ấy, người Phi-li-tinh tập hợp quân đội để ra trận giao chiến với Ít-ra-en. Vua A-khít nói với ông Ða-vít: "Ông phải biết rằng ông và người của ông sẽ ra quân với tôi.” 2 Ông Ða-vít nói với vua A-khít: "Thế thì ngài sẽ biết tôi tớ ngài làm được gì." Vua A-khít bảo ông Ða-vít: "Vậy tôi sẽ đặt ông làm người hộ vệ tôi suốt đời."

Vua Sa-un và bà đồng bóng tại Ên Ðo

3 Ông Sa-mu-en đã qua đời, toàn thể Ít-ra-en đã cử hành tang lễ cho ông và chôn cất ông ở Ra-ma, thành của ông. Vua Sa-un trục xuất các người đồng bóng và thầy bói ra khỏi xứ.

4 Người Phi-li-tinh tập hợp lại và đến đóng trại ở Su-nêm. Vua Sa-un tập hợp toàn thể Ít-ra-en, và họ đóng trại ở Ghin-bô-a. 5 Vua Sa-un thấy trại của người Phi-li-tinh thì sợ và tim ông đập mạnh. 6 Ông thỉnh ý Ðức Chúa nhưng Ðức Chúa không trả lời, dù bằng giấc mộng, bằng thẻ u-rim, hay qua trung gian ngôn sứ. 7 Vua Sa-un bảo triều thần: "Hãy tìm cho ta một bà đồng bóng, để ta thỉnh ý bà ấy." Triều thần nói với vua: "Thưa có một bà đồng bóng ở Ên Ðo."

8 Vua Sa-un cải trang, mặc áo khác rồi ra đi, có hai người cùng đi với vua. Ðang đêm, họ đến nhà người đàn bà, và vua nói: "Xin bà ngồi đồng mà bói cho tôi, và hãy gọi lên cho tôi người tôi sẽ nói cho bà biết.” 9 Người đàn bà nói với vua: "Này chính ông biết điều vua Sa-un đã làm: vua đã diệt trừ các người đồng bóng và các thầy bói trong xứ. Vậy tại sao ông lại gài bẫy hại tôi để làm cho tôi phải chết?” 10 Vua Sa-un lấy Ðức Chúa mà thề với bà ấy: "Có Ðức Chúa hằng sống, tôi xin thề rằng bà sẽ không mắc lỗi trong việc này.” 11 Người đàn bà nói: "Tôi phải gọi ai lên cho ông?" Vua trả lời: "Bà gọi ông Sa-mu-en lên cho tôi."

12 Người đàn bà trông thấy ông Sa-mu-en và rú lên. Người đàn bà nói với vua Sa-un: "Tại sao ngài lại đánh lừa tôi? Ngài là vua Sa-un!” 13 Vua nói với bà: "Ðừng sợ! Bà đã trông thấy gì?" Người đàn bà trả lời vua Sa-un: "Tôi đã trông thấy một thần linh đang từ đất đi lên.” 14 Vua hỏi: "Hình dáng thế nào?" Bà đáp: "Một cụ già đi lên, mình quấn áo choàng." Vua Sa-un biết đó là ông Sa-mu-en, liền sấp mặt sát đất mà lạy. 15 Ông Sa-mu-en hỏi vua Sa-un: "Tại sao ngài lại gọi tôi lên mà quấy rầy tôi?" Vua Sa-un trả lời: "Tôi lâm vào cảnh rất ngặt nghèo. Người Phi-li-tinh đang giao chiến với tôi, và Thiên Chúa đã rời khỏi tôi: Người không trả lời tôi nữa, dù qua trung gian ngôn sứ, hay qua giấc mộng. Vậy tôi đã gọi ông, để ông cho tôi biết tôi phải làm gì.” 16 Ông Sa-mu-en nói: "Tại sao ngài thỉnh ý tôi, trong khi Ðức Chúa đã rời khỏi ngài và đã trở nên thù địch với ngài? 17 Ðức Chúa đã hành động như Người đã dùng tôi mà phán: Ðức Chúa đã giật vương quyền ra khỏi tay ngài và ban cho một người khác là Ða-vít. 18 Bởi vì ngài đã không nghe tiếng Ðức Chúa và đã không trút cơn thịnh nộ của Người xuống A-ma-lếch, cho nên hôm nay Ðức Chúa đã xử với ngài như thế. 19 Cùng với ngài, Ðức Chúa sẽ trao cả Ít-ra-en nữa vào tay người Phi-li-tinh. Ngày mai, ngài và các con trai ngài sẽ ở với tôi. Cả quân đội Ít-ra-en nữa, Ðức Chúa cũng sẽ trao vào tay người Phi-li-tinh."

20 Lập tức vua Sa-un ngã sóng sượt xuống đất: vua quá sợ hãi vì lời ông Sa-mu-en nói. Hơn nữa, vua không còn sức, vì suốt ngày suốt đêm hôm ấy đã không ăn gì. 21 Người đàn bà đến bên vua Sa-un và thấy vua quá kinh hoàng thì nói với vua: "Ngài coi, nữ tỳ ngài đã nghe theo ngài. Tôi đã liều mạng và vâng nghe những lời ngài truyền cho tôi. 22 Vậy bây giờ, xin ngài cũng vui lòng nghe theo nữ tỳ ngài: tôi xin dọn cho ngài miếng bánh, và xin ngài ăn để có sức tiếp tục lên đường.” 23 Vua từ chối và nói: "Ta sẽ không ăn đâu." Các người theo hầu cũng như người đàn bà nài nỉ vua, nên vua nghe theo họ. Vua trỗi dậy từ dưới đất và ngồi lên giường. 24 Người đàn bà có một con bê béo trong nhà. Bà vội vàng làm thịt, lấy bột mà nhồi, rồi nướng bánh không men. 25 Bà dọn ra trước mặt vua Sa-un và trước mặt các người theo hầu vua. Họ ăn rồi đứng dậy và đi ngay đêm ấy.

Chương 29

Các người chỉ huy Phi-li-tinh cho ông Ða-vít về

1 Người Phi-li-tinh tập họp toàn thể quân đội tại A-phếch, còn người Ít-ra-en thì đóng trại tại suối nước ở Gít-rơ-en. 2 Các vương hầu người Phi-li-tinh dẫn đầu các đoàn một trăm, một ngàn quân đi diễu hành; ông Ða-vít và người của ông diễu hành sau cùng với vua A-khít. 3 Các người chỉ huy Phi-li-tinh hỏi: "Bọn Híp-ri kia là gì vậy?" Vua A-khít nói với các người chỉ huy Phi-li-tinh: "Ðó là Ða-vít, tôi tớ ông Sa-un, vua Ít-ra-en, chứ ai! Hắn ở với tôi từ một hai năm nay, và tôi không thấy nơi hắn điều gì đáng trách, từ ngày hắn về đầu hàng tôi cho đến hôm nay.” 4 Các người chỉ huy Phi-li-tinh nổi giận với vua và nói: "Ông hãy cho người ấy về, nó hãy về nơi ông đã chỉ định cho nó. Nó không được cùng với chúng ta xuống giao chiến, kẻo nó trở nên địch thủ của chúng ta trong chiến trận. Nó sẽ dùng gì mà lấy lòng chúa thượng nó, nếu không phải là dùng đầu của những người này? 5 Tên này chẳng phải là Ða-vít mà người ta đã múa nhảy hát mừng rằng:

"Vua Sa-un hạ được hàng ngàn,

ông Ða-vít hàng vạn"?"

6 Vua A-khít gọi ông Ða-vít lại và nói với ông: "Có Ðức Chúa hằng sống, ông là người ngay thẳng. Tôi lấy làm vui thấy ông cùng với tôi ra vào chiến đấu, vì tôi không thấy điều gì xấu nơi ông, từ ngày ông đến với tôi cho đến ngày hôm nay. Nhưng ông không được lòng các vương hầu. 7 Vậy ông hãy về và ra đi bình an. Ông đừng làm điều gì phật lòng các vương hầu người Phi-li-tinh.” 8 Ông Ða-vít nói với vua: "Tôi đã làm gì? Từ ngày tôi phục vụ ngài cho đến hôm nay ngài đã thấy điều gì đáng trách nơi tôi tớ ngài, khiến tôi không thể đến giao chiến với các kẻ thù của đức vua là chúa thượng tôi?” 9 Vua A-khít trả lời ông Ða-vít: "Tôi biết ông đẹp lòng tôi như một sứ giả của Thiên Chúa. Có điều là các người chỉ huy Phi-li-tinh đã nói: "Nó không được cùng với chúng ta lên giao chiến. 10 Vậy sáng mai ông hãy dậy sớm, cũng như các tôi tớ của chủ ông đã đến với ông. Các ông hãy dậy sớm, và khi trời sáng, hãy ra đi."

11 Ông Ða-vít dậy sớm cùng với người của ông, để ra đi ngay từ sáng sớm và trở về đất Phi-li-tinh. Còn người Phi-li-tinh thì lên Gít-rơ-en.

Chương 30

Ông Ða-vít tiến đánh người A-ma-lếch

1 Sang ngày thứ ba, khi ông Ða-vít và người của ông đến Xích-lắc, thì người A-ma-lếch đã cướp phá miền Ne-ghép và thành Xích-lắc. Chúng phá phách Xích-lắc và phóng hoả đốt thành. 2 Chúng bắt đàn bà và mọi người trong thành, từ nhỏ đến lớn, làm tù, nhưng không giết ai. Chúng dẫn họ đi và tiếp tục lên đường. 3 Khi ông Ða-vít và người của ông đến thành thì thấy thành đã bị phóng hoả, và vợ cùng con trai con gái của họ đã bị bắt làm tù. 4 Ông Ða-vít và quân binh ở với ông oà lên khóc cho đến khi không còn sức khóc nữa. 5 Hai bà vợ của ông Ða-vít cũng bị bắt làm tù, đó là bà A-khi-nô-am người Gít-rơ-en, và bà A-vi-ga-gin, vợ ông Na-van người Các-men.

6 Ông Ða-vít lâm vào cảnh rất ngặt nghèo vì người ta bàn chuyện ném đá ông; thật vậy, tâm hồn ai cũng cay đắng khi nghĩ đến con trai con gái của mình. Nhưng ông Ða-vít lấy lại can đảm, nhờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông. 7 Ông Ða-vít bảo tư tế Ép-gia-tha, con ông A-khi-me-léc: "Xin ông đem ê-phốt lại đây cho tôi." Ông Ép-gia-tha đem ê-phốt lại cho ông Ða-vít. 8 Ông Ða-vít thỉnh ý Ðức Chúa rằng: "Con có nên rượt theo bọn cướp đó không? Con có đuổi kịp chúng không?" Người phán với ông: "Cứ rượt theo, vì ngươi sẽ đuổi kịp và chắc chắn ngươi sẽ giải thoát được tù.” 9 Ông Ða-vít đi cùng với sáu trăm người theo ông; khi họ đến khe nước Bơ-xo thì một số người đã dừng lại. 10 Ông tiếp tục rượt theo cùng với bốn trăm người. Hai trăm người đã dừng lại vì quá mệt, không đủ sức sang qua khe nước Bơ-xo.

11 Người ta thấy một tên Ai-cập ngoài đồng, liền bắt đem đến ông Ða-vít. Họ cho nó bánh, nó ăn, rồi họ cho nó uống nước. 12 Họ cho nó một miếng bánh vả và hai chùm nho khô. Ăn xong, nó hoàn hồn, vì đã ba ngày ba đêm nó chẳng ăn uống gì. 13 Ông Ða-vít hỏi nó: "Anh là người của ai và quê ở đâu?" Nó đáp: "Tôi là một thanh niên Ai-cập, nô lệ của một người A-ma-lếch. Chủ tôi bỏ tôi lại vì tôi ngã bệnh, nay đã ba ngày. 14 Chúng tôi đã cướp phá vùng Ne-ghép của người Cơ-rê-thi, vùng Ne-ghép của Giu-đa và vùng Ne-ghép của Ca-lếp, và chúng tôi đã phóng hoả đốt Xích-lắc.” 15 Ông Ða-vít nói: "Anh có muốn đưa tôi xuống chỗ bọn cướp ấy không?" Nó đáp: "Ông hãy lấy Thiên Chúa mà thề với tôi là ông sẽ không giết tôi, và sẽ không nộp tôi vào tay chủ tôi, thì tôi sẽ đưa ông xuống chỗ bọn cướp đó."

16 Nó đưa ông xuống, và kìa chúng đang tản mác khắp miền, chè chén, ăn mừng số chiến lợi phẩm lớn đã cướp được ở đất Phi-li-tinh và ở đất Giu-đa. 17 Ông Ða-vít đánh giết chúng từ hừng đông cho đến chiều hôm sau. Không tên nào thoát, trừ bốn trăm thanh niên cưỡi lạc đà chạy trốn. 18 Ông Ða-vít giải thoát tất cả những gì người A-ma-lếch đã cướp; ông cũng giải thoát hai bà vợ của ông. 19 Họ không mất gì: từ người nhỏ đến người lớn, con trai, con gái họ, chiến lợi phẩm và tất cả những gì chúng đã lấy của họ, ông Ða-vít đem về tất cả. 20 Ông Ða-vít lấy tất cả chiên dê và bò. Người ta đi trước, dẫn theo đàn vật và nói: "Ðây là chiến lợi phẩm của ông Ða-vít!"

21 Ông Ða-vít đến chỗ hai trăm người đã quá mệt, không đủ sức đi theo ông Ða-vít, và đã bị bỏ lại ở khe nước Bơ-xo. Họ ra đón ông Ða-vít và đón quân binh đi với ông. Ông Ða-vít cùng với quân binh lại gần và vấn an họ. 22 Nhưng tất cả những kẻ xấu và những tên vô lại trong đám người đã đi với ông Ða-vít lên tiếng nói: "Bởi vì họ đã không đi với chúng tôi, nên chúng tôi sẽ không cho họ phần chiến lợi phẩm chúng tôi đã lấy lại được, ngoại trừ vợ con của mỗi người. Họ hãy dẫn những người ấy mà đi.” 23 Nhưng ông Ða-vít nói: "Thưa anh em, đừng làm như thế với những thứ Ðức Chúa đã ban cho chúng ta. Người đã gìn giữ chúng ta và trao vào tay chúng ta bọn cướp đến tấn công chúng ta. 24 Ai có thể nghe anh em trong việc này? Vì

Phần của người xuống giao chiến thế nào,

phần của người ở lại giữ đồ đạc cũng vậy:

họ sẽ cùng nhau chia phần."

25 Từ ngày đó về sau, ông đặt điều ấy thành luật lệ và quy định cho Ít-ra-en cho đến ngày nay.

26 Khi ông Ða-vít đến Xích-lắc, ông gửi những phần chiến lợi phẩm cho các kỳ mục Giu-đa, đồng bào của ông, mà nói: "Ðây là quà tặng anh em, lấy từ chiến lợi phẩm cướp được của các kẻ thù Ðức Chúa.” 27 Ông gửi cho: những người ở Bết Ên, những người ở Ra-mốt Ne-ghép, những người ở Giát-tia, 28 những người ở A-rô-e, những người ở Xíp-mốt, những người ở Ét-tơ-mô-a, 29 những người ở Các-men, những người ở các thành người Giơ-rác-mơ-ên, những người ở các thành người Kê-ni, 30 những người ở Khoóc-ma, những người ở Bô A-san, những người ở A-tác, 31 những người ở Khép-rôn, và tất cả những nơi ông Ða-vít và người của ông đã thường qua lại.

Chương 31

Trận Ghin-bô-a. Vua Sa-un tử trận. (1 Sb 10:1-12)

1 Người Phi-li-tinh giao chiến với Ít-ra-en. Người Ít-ra-en chạy trốn trước mặt người Phi-li-tinh và bị tử thương ngã gục trên núi Ghin-bô-a. 2 Người Phi-li-tinh bám sát vua Sa-un cùng các con trai vua, và chúng giết ông Giô-na-than, ông A-vi-na-đáp và ông Man-ki Su-a, các con vua Sa-un. 3 Áp lực của mặt trận dồn về phía vua Sa-un. Lính bắn cung nhận ra vua. Vua rất run sợ khi thấy lính bắn cung. 4 Vua Sa-un bảo người hầu cận: "Rút gươm ra và đâm ta đi, kẻo bọn không cắt bì ấy đến đâm ta và ngạo ta." Nhưng người hầu cận không dám vì quá sợ. Vua Sa-un mới lấy gươm ra và lao vào mũi gươm. 5 Người hầu cận thấy vua đã chết cũng lao mình vào mũi gươm của anh ta và chết theo vua. 6 Thế là vua Sa-un, với ba con trai, người hầu cận và mọi người của vua đều cùng chết ngày hôm đó. 7 Người Ít-ra-en ở bên kia thung lũng và ở bên kia sông Gio-đan, thấy người Ít-ra-en chạy trốn và vua Sa-un cùng các con vua đã chết, thì bỏ các thành của họ mà chạy trốn. Người Phi-li-tinh đến và chiếm cứ các thành ấy.

8 Ngày hôm sau, người Phi-li-tinh đến lột các xác chết, thì tìm thấy vua Sa-un và ba người con trai nằm trên núi Ghin-bô-a. 9 Chúng chặt đầu vua và tước võ khí của vua. Rồi chúng sai người rảo quanh khắp xứ Phi-li-tinh, để báo tin mừng cho đền thần của chúng và cho dân. 10 Chúng đặt võ khí của vua Sa-un trong đền các thần Át-tô-rét, còn thi hài vua thì chúng bêu ở tường thành Bết San.

11 Khi dân thành Gia-vết miền Ga-la-át nghe biết cách người Phi-li-tinh đã đối xử với vua Sa-un, 12 thì tất cả các người can đảm đã lên đường, đi suốt đêm, lấy thi hài vua và thi hài các con vua khỏi tường thành Bết San, rồi trở về Gia-vết và thiêu tại đó.13 Họ lấy hài cốt và chôn dưới cây liễu bách ở Gia-vết, rồi ăn chay bảy ngày.

Sa-mu-en 2

Chương 01

Ông Ða-vít nghe tin vua Sa-un chết

1 Sau khi vua Sa-un chết, ông Ða-vít đánh thắng người A-ma-lếch trở về, và ở lại Xích-lắc hai ngày. 2 Sang ngày thứ ba, có một người từ trại, từ bên vua Sa-un đến, áo quần xé rách, đầu thì rắc đất. Khi đến gần ông Ða-vít, anh ta sấp mình xuống đất và sụp lạy. 3 Ông Ða-vít hỏi anh: "Anh từ đâu đến?" Anh trả lời ông: "Tôi đã chạy thoát từ trại Ít-ra-en.” 4 Ông Ða-vít nói với anh: "Chuyện gì đã xảy ra? Kể lại cho tôi đi!" Anh nói: "Dân đã bỏ chiến trường mà chạy trốn; nhiều người trong dân tử trận, cả vua Sa-un và con vua là ông Giô-na-than cũng đã chết."

5 Ông hỏi người thanh niên đưa tin cho ông: "Làm sao anh biết được vua Sa-un và con vua là ông Giô-na-than đã chết?” 6 Người thanh niên đưa tin cho ông trả lời: "Tình cờ tôi ở trên núi Ghin-bô-a và thấy vua Sa-un đang tựa vào cây giáo của vua, có chiến xa và kỵ binh bám sát vua. 7 Vua quay lại, thấy tôi và gọi tôi. Tôi thưa: "Dạ, tôi đây!” 8 Vua hỏi tôi: "Ngươi là ai?" Tôi thưa: "Tôi là người A-ma-lếch.” 9 Vua bảo tôi: "Ngươi hãy đứng bên ta và kết liễu đời ta, vì ta bị choáng váng, mặc dầu sinh lực vẫn còn nguyên vẹn nơi ta.” 10 Vậy tôi đứng bên vua và kết liễu đời vua, vì biết rằng vua sẽ không sống được sau khi thất trận. Tôi đã lấy huy hiệu trên đầu vua và cái vòng trên cánh tay vua và đem lại đây cho chúa thượng."

11 Ông Ða-vít nắm lấy áo mình mà xé ra, tất cả những người ở với ông cũng vậy. 12 Họ cử hành tang lễ, khóc lóc và ăn chay cho đến chiều để tỏ lòng thương tiếc vua Sa-un và ông Giô-na-than, con vua, thương tiếc dân Ðức Chúa và nhà Ít-ra-en, vì những người này đã ngã gục dưới lưỡi gươm.

13 Ông Ða-vít hỏi người thanh niên báo tin cho ông: "Ngươi quê ở đâu?" Anh đáp: "Tôi là con một người ngoại kiều A-ma-lếch.” 14 Ông Ða-vít nói với anh: "Ngươi không sợ sao mà dám tra tay sát hại người Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong?” 15 Ông Ða-vít gọi một trong các đầy tớ và nói: "Lại gần mà giết nó đi." Người này đâm anh ta và anh ta chết. 16 Ông Ða-vít bảo anh ta: "Máu ngươi đổ xuống đầu ngươi, vì chính miệng ngươi đã cáo tội ngươi, khi ngươi nói: "Chính tôi đã kết liễu cuộc đời của người Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong"."

Ông Ða-vít làm văn tế khóc vua Sa-un và ông Giô-na-than

17 Bấy giờ ông Ða-vít đọc bài văn tế này khóc vua Sa-un và ông Giô-na-than, con vua. 18 Ông nói: Ðể dạy cho con cái Giu-đa. Bài Cây Cung, được ghi chép trong sách Người Công Chính.

19 "Hỡi Ít-ra-en, trên các đồi của ngươi,

những người con ưu tú đã bỏ mình.

Than ôi! Anh hùng nay ngã gục!

20 Các người đừng báo tin cho thành Gát,

đừng công bố trong các phố phường Át-cơ-lôn,

kẻo con gái người Phi-li-tinh vui mừng,

con gái bọn không cắt bì hớn hở!

21 Hỡi núi đồi Ghin-bô-a,

ước gì trên các ngươi chẳng còn mưa rơi sương đọng,

chẳng còn những cánh đồng phì nhiêu,

vì tại đó khiên thuẫn các anh hùng đã bị vứt bỏ!

Khiên thuẫn của Sa-un không được bôi dầu,

22 nhưng vấy máu những người bị đâm,

dính mỡ các anh hùng;

cây cung của Giô-na-than không lùi lại,

thanh gươm của Sa-un không trở về vô hiệu quả.

23 Sa-un và Giô-na-than,

ôi những con người dễ thương, dễ mến,

sống chẳng xa nhau, chết cũng chẳng rời,

nhanh hơn chim bằng, mạnh hơn sư tử!

24 Thiếu nữ Ít-ra-en hỡi, hãy khóc Sa-un,

người đã mặc cho các cô vải điều lộng lẫy,

đính trên áo các cô đồ trang sức bằng vàng.

25 Than ôi! Các anh hùng đã ngã gục giữa lúc giao tranh!

Trên các đồi của ngươi, Giô-na-than đã bỏ mình!

26 Giô-na-than, anh hỡi, lòng tôi se lại vì anh!

Tôi thương anh biết mấy!

Tình anh đối với tôi thật diệu kỳ hơn cả tình nhi nữ.

27 Than ôi! Anh hùng nay ngã gục, võ khí đã tan tành! "

Chương 02

IV. Vua Ða-Vít

1. Vua Ða-Vít Trị Vì Giu-Ða

Ông Ða-vít được xức dầu phong vương tại Khép-rôn

1 Sau đó, ông Ða-vít thỉnh ý Ðức Chúa: "Con có nên đi lên một trong các thành Giu-đa không?" Ðức Chúa phán với ông: "Cứ lên." Ông Ða-vít nói: "Con phải lên đâu?" Người phán: "Lên Khép-rôn.” 2 Ông Ða-vít lên đó, cùng với hai bà vợ, là bà A-khi-nô-am người Gít-rơ-en, và bà A-vi-ga-gin, vợ ông Na-van người Các-men. 3 Còn những người đi theo ông, ông Ða-vít cũng đưa họ lên, mỗi người cùng với gia đình mình, và họ ở các thành vùng Khép-rôn. 4 Người Giu-đa kéo đến, và tại đó, họ xức dầu tấn phong ông Ða-vít làm vua nhà Giu-đa.

Vua Ða-vít sai sứ giả đi Gia-vết

5 Vua Ða-vít sai sứ giả đến với người Gia-vết miền Ga-la-át và nói với họ: "Xin Ðức Chúa chúc phúc cho anh em, vì anh em đã làm việc nghĩa ấy với chúa thượng của anh em là vua Sa-un, và đã chôn cất vua. 6 Giờ đây, xin Ðức Chúa lấy tình thương và lòng thành tín mà đối xử với anh em. Cả tôi nữa, tôi cũng sẽ lấy lòng tốt như vậy mà đối xử với anh em, vì anh em đã làm điều ấy. 7 Giờ đây, anh em hãy mạnh bạo lên, hãy tỏ ra là những người can đảm, vì chúa thượng của anh em là vua Sa-un đã chết. Còn tôi thì nhà Giu-đa đã xức dầu tấn phong làm vua của họ.

Ông Áp-ne tôn ông Ít-bô-sét làm vua Ít-ra-en

8 Ông Áp-ne là con ông Ne và là tướng chỉ huy quân đội vua Sa-un, đã rước ông Ít-bô-sét, con vua Sa-un, đưa sang Ma-kha-na-gim, 9 và tôn làm vua miền Ga-la-át, dân A-su-ri, miền Gít-rơ-en, Ép-ra-im, Ben-gia-min và toàn thể Ít-ra-en. 10 Ông Ít-bô-sét, con vua Sa-un, được bốn mươi tuổi khi lên làm vua Ít-ra-en, và trị vì hai năm. Chỉ có nhà Giu-đa theo vua Ða-vít. 11 Thời gian vua Ða-vít làm vua tại Khép-rôn, cai trị nhà Giu-đa, là bảy năm sáu tháng.

Giu-đa và Ít-ra-en giao chiến. Trận Ghíp-ôn.

12 Ông Áp-ne, con ông Ne, cùng bề tôi vua Ít-bô-sét, con vua Sa-un, ra quân từ Ma-kha-na-gim, tiến về phía Ghíp-ôn. 13 Ông Giô-áp, con bà Xơ-ru-gia, cùng bề tôi vua Ða-vít, ra quân từ Khép-rôn và gặp họ gần hồ Ghíp-ôn. Một phe đóng ở bên này hồ, một phe đóng ở bên kia.

14 Ông Áp-ne nói với ông Giô-áp: "Các trai tráng hãy đứng dậy và đấu trước mặt chúng ta!" Ông Giô-áp nói: "Họ hãy đứng dậy!” 15 Họ đứng lên và đi qua cho người ta đếm: mười hai người Ben-gia-min thuộc phía vua Ít-bô-sét, con vua Sa-un, mười hai người trong số bề tôi vua Ða-vít. 16 Mỗi người túm lấy đầu đối thủ của mình và lấy gươm đâm vào sườn đối thủ, khiến họ đều cùng ngã gục. Người ta gọi nơi ấy là Thửa Ðất Ðá Tảng; thửa đất ấy ở Ghíp-ôn.

17 Ngày hôm ấy, cuộc giao tranh diễn ra rất ác liệt. Ông Áp-ne và người Ít-ra-en bị bề tôi vua Ða-vít đánh bại. 18 Ở đó có ba con trai bà Xơ-ru-gia là ông Giô-áp, ông A-vi-sai và ông A-xa-hên. Ông A-xa-hên có đôi chân lanh lẹ như sơn dương ngoài đồng. 19 Ông A-xa-hên đuổi theo ông Áp-ne, chạy sau ông ấy, không trệch bên phải bên trái. 20 Ông Áp-ne ngoái lại và hỏi: "Có phải mày đó không, A-xa-hên?" Ông này trả lời: "Tao đây.” 21 Ông Áp-ne bảo ông ấy: "Mày hãy đi trệch sang bên phải hay bên trái, túm lấy một đứa trong các đầy tớ kia và lột lấy áo của nó." Nhưng ông A-xa-hên không chịu ngưng đuổi theo ông ấy. 22 Ông Áp-ne lại bảo ông A-xa-hên lần nữa rằng: "Mày hãy ngưng đuổi theo tao. Mày muốn tao quật mày xuống đất sao? Tao sẽ còn mặt mũi nào mà nhìn Giô-áp, anh mày được?” 23 Nhưng ông A-xa-hên từ chối không chịu ngưng, nên ông Áp-ne lấy giáo đâm ngược vào bụng ông ấy, và giáo xuyên qua lưng. Ông ngã xuống đó và chết ngay tại chỗ. Mọi kẻ đến chỗ ông A-xa-hên ngã xuống chết, thì dừng lại.

24 Ông Giô-áp và ông A-vi-sai đuổi theo ông Áp-ne. Khi mặt trời lặn, họ tới đồi Am-ma, ở phía đông Ghi-ác, trên đường đi sa mạc Ghíp-ôn. 25 Con cái Ben-gia-min tập hợp lại sau lưng ông Áp-ne, họ làm thành một khối và đóng trên một đỉnh đồi. 26 Ông Áp-ne gọi ông Giô-áp và nói: "Chẳng lẽ cứ để gươm chém giết mãi sao? Ông không biết rằng rốt cuộc chỉ là cay với đắng ư? Ðến bao giờ ông mới bảo quân binh thôi không đuổi theo anh em của họ nữa?” 27 Ông Giô-áp nói: "Có Thiên Chúa hằng sống! Ông mà không nói, thì mãi đến sáng quân binh mới thôi không đuổi theo anh em của họ.” 28 Ông Giô-áp cho thổi tù và, tất cả quân binh dừng lại, không đuổi theo Ít-ra-en nữa, và họ không còn tiếp tục giao chiến.

29 Ông Áp-ne và người của ông đi trong vùng A-ra-va suốt đêm ấy, họ sang sông Gio-đan, đi xuyên qua cả vùng Bít-rôn và tới Ma-kha-na-gim. 30 Ông Giô-áp thôi không đuổi theo ông Áp-ne; ông tập hợp toàn thể quân binh lại; trong số bề tôi vua Ða-vít thiếu mười chín người và ông A-xa-hên. 31 Bề tôi vua Ða-vít đã hạ được ba trăm sáu mươi người trong số người Ben-gia-min và người của ông Áp-ne, và những người này đã chết. 32 Người ta mang ông A-xa-hên đi và chôn cất ông trong mộ của cha ông, tại Bê-lem. Ông Giô-áp và người của ông đi suốt đêm, và khi trời sáng thì đến Khép-rôn.

Chương 03

1 Chiến tranh kéo dài giữa nhà Sa-un và nhà Ða-vít. Vua Ða-vít ngày càng mạnh thêm, còn nhà Sa-un thì ngày càng yếu đi.

Các con vua Ða-vít sinh ra tại Khép-rôn (1 Sb 3:1-3)

2 Tại Khép-rôn, vua Ða-vít đã sinh được những người con trai: con đầu lòng là Am-nôn, do bà A-khi-nô-am người Gít-rơ-en; 3 người thứ hai là Ki-láp, do bà A-vi-ga-gin, vợ ông Na-van người Các-men; người thứ ba là Áp-sa-lôm, do bà Ma-a-kha, ái nữ của Tan-mai, vua Gơ-sua; 4 người thứ tư là A-đô-ni-gia, do bà Khác-ghít; người thứ năm là Sơ-phát-gia, do bà A-vi-tan; 5 người thứ sáu là Gít-rơ-am, do bà Éc-la, vợ vua Ða-vít. Ðó là những người con trai vua Ða-vít đã sinh được tại Khép-rôn.

Ông Áp-ne đoạn giao với vua Ít-bô-sét

6 Trong khi có chiến tranh giữa nhà Sa-un và nhà Ða-vít, ông Áp-ne củng cố địa vị trong nhà Sa-un. 7 Vua Sa-un trước kia có người tỳ thiếp tên là Rít-pa, con gái ông Ai-gia. Vua Ít-bô-sét nói với ông Áp-ne: "Tại sao ông đi lại với tỳ thiếp của cha tôi?” 8 Ông Áp-ne giận lắm vì những lời vua Ít-bô-sét và nói: "Tôi là đầu chó của Giu-đa sao? Hôm nay tôi lấy tình nghĩa mà đối xử với nhà của vua Sa-un, cha ngài, với anh em của người và với các bạn của người; tôi đã không để ngài rơi vào tay Ða-vít. Thế mà hôm nay ngài lại bắt lỗi tôi về chuyện một người đàn bà! 9 Xin Thiên Chúa phạt Áp-ne thế này và còn thêm thế kia nữa, nếu tôi không làm cho Ða-vít điều Ðức Chúa đã thề với ông ấy, 10 là cất vương quyền khỏi nhà Sa-un và thiết lập ngai vàng của Ða-vít trên Ít-ra-en và trên Giu-đa, từ Ðan đến Bơ-e Se-va!” 11 Vua Ít-bô-sét không thể đáp lại ông Áp-ne một lời, vì vua sợ ông.

Ông Áp-ne điều đình với vua Ða-vít

12 Ông Áp-ne sai sứ giả thay mặt mình đến nói với vua Ða-vít: "Ðất này thuộc về ai?" Ông nói: "Ngài hãy lập giao ước với tôi, tôi sẽ giúp ngài một tay để làm cho toàn thể Ít-ra-en quay về với ngài.” 13 Vua đáp: "Tốt. Tôi sẽ lập giao ước với ông. Tôi chỉ xin ông một điều: ông sẽ không được ra mắt tôi, nếu ông không đem đến cho tôi bà Mi-khan, con gái vua Sa-un, khi ông đến ra mắt tôi.” 14 Vua Ða-vít sai sứ giả đến nói với vua Ít-bô-sét, con vua Sa-un: "Hãy trả lại tôi vợ tôi là Mi-khan, người tôi đã nộp một trăm bao qui đầu người Phi-li-tinh để cưới.” 15 Vua Ít-bô-sét sai người đến nhà chồng bà là ông Pan-ti-ên, con ông La-gít, để đem bà về. 16 Chồng bà đi với bà; ông vừa đi theo vừa khóc, cho đến Ba-khu-rim. Ông Áp-ne bảo ông ấy: "Thôi, về đi!" Ông ấy trở về.

17 Ông Áp-ne ngỏ lời với các kỳ mục Ít-ra-en: "Ðã từ lâu, anh em ao ước được ông Ða-vít làm vua. 18 Vậy bây giờ anh em hãy hành động, vì Ðức Chúa đã phán về ông Ða-vít rằng: "Chính nhờ tay Ða-vít, tôi tớ Ta, mà Ta sẽ cứu Ít-ra-en, dân Ta, khỏi tay người Phi-li-tinh và khỏi tay mọi kẻ thù của nó".” 19 Ông Áp-ne cũng đã nói cho người Ben-gia-min nghe. Rồi ông Áp-ne đi Khép-rôn nói cho vua Ða-vít nghe tất cả những gì Ít-ra-en và toàn thể nhà Ben-gia-min coi là tốt.

20 Ông Áp-ne đến với vua Ða-vít tại Khép-rôn, có hai mươi người cùng đi với ông. Vua Ða-vít làm tiệc đãi ông Áp-ne và những người cùng đi với ông. 21 Ông Áp-ne nói với ông Ða-vít: "Tôi sẽ lên đường đi tập hợp toàn thể Ít-ra-en về cho đức vua là chúa thượng tôi. Họ sẽ lập giao ước với ngài và ngài sẽ làm vua cai trị mọi nơi lòng ngài ao ước." Vua Ða-vít cho ông Áp-ne về, và ông ra đi bình an.

Ông Áp-ne bị giết

22 Trong khi đó, các bề tôi vua Ða-vít cùng với ông Giô-áp đi hành quân trở về, đem theo chiến lợi phẩm rất lớn. Ông Áp-ne không còn ở với vua Ða-vít tại Khép-rôn, vì vua đã cho ông về, và ông đã ra đi bình an. 23 Khi ông Giô-áp và toàn thể quân đội cùng đi với ông trở về, người ta báo tin cho ông Giô-áp rằng: "Ông Áp-ne, con ông Ne, đã đến gặp nhà vua. Nhà vua đã cho ông ấy về, và ông đã ra đi bình an.” 24 Ông Giô-áp đến gặp vua và nói: "Ngài đã làm gì thế? Kìa, Áp-ne đã đến gặp ngài. Tại sao ngài cho nó về và nó đã ra đi như vậy? 25 Ngài thừa biết Áp-ne, con ông Ne: nó đến chính là để lừa dối ngài, để biết đường đi nước bước của ngài, và để biết tất cả những gì ngài làm!"

26 Ở nhà vua Ða-vít ra, ông Giô-áp sai người chạy theo ông Áp-ne. Tới bể nước Xi-ra, họ mời ông trở lại, nhưng vua Ða-vít không biết gì. 27 Khi ông Áp-ne về đến Khép-rôn, ông Giô-áp kéo riêng ông vào phía trong cửa thành, như để nói chuyện thân mật với ông. Tại đó ông Giô-áp đâm vào bụng ông ấy, và ông ấy đã chết để trả nợ máu ông A-xa-hên, em ông Giô-áp. 28 Sau đó, vua Ða-vít nghe biết sự việc thì nói: "Ta và vương quốc của ta mãi mãi vô can trước mặt Ðức Chúa về máu ông Áp-ne, con ông Ne. 29 Ước gì máu đó đổ xuống đầu Giô-áp và xuống toàn thể nhà cha nó! Ước gì trong nhà Giô-áp không bao giờ hết người mắc bệnh lậu hay phong hủi, người chỉ biết cầm con suốt, người ngã gục dưới lưỡi gươm hay người thiếu bánh ăn!” 30 Ông Giô-áp và ông A-vi-sai, anh ông, đã giết ông Áp-ne, bởi vì ông này đã giết ông A-xa-hên, em của họ, trong trận Ghíp-ôn. 31 Vua Ða-vít nói với ông Giô-áp và toàn thể quân binh theo ông: "Hãy xé áo mình ra, quấn áo vải thô và cử hành tang lễ cho ông Áp-ne." Vua Ða-vít theo sau đòn cáng. 32 Người ta chôn cất ông Áp-ne tại Khép-rôn. Vua oà lên khóc bên mộ ông Áp-ne, và toàn dân cũng khóc.

33 Vua làm bài văn tế khóc ông Áp-ne; vua nói:

"Há Áp-ne lại phải chết cái chết của một thằng ngu?

34 Hỡi ông, tay ông không bị trói,

chân ông chẳng bị xiềng.

Như người ta ngã gục

trước những quân gian ác,

ông đã phải ngã gục!"

Toàn dân lại khóc ông.

35 Toàn dân đến ép vua Ða-vít ăn đôi chút khi còn ban ngày. Nhưng vua Ða-vít thề rằng: "Xin Thiên Chúa phạt tôi thế này và còn thêm thế kia nữa, nếu tôi nếm bánh hay bất cứ cái gì trước khi mặt trời lặn!” 36 Toàn dân ghi nhận điều đó và tán thành, như toàn dân vẫn tán thành mọi điều vua làm. 37 Hôm ấy, toàn dân và toàn thể Ít-ra-en biết rằng không phải do lệnh vua mà ông Áp-ne, con ông Ne, đã bị giết. 38 Vua nói với triều thần: "Các ngươi không biết rằng, hôm nay, một vị tướng, một vĩ nhân đã ngã gục tại Ít-ra-en sao? 39 Phần ta, hôm nay, ta còn yếu thế, tuy đã được xức dầu phong vương, nhưng những người này là các con bà Xơ-ru-gia, thì cứng cỏi hơn ta. Xin Ðức Chúa đáp trả kẻ làm điều ác, xứng với lòng độc ác của nó! "

Chương 04

Vua Ít-bô-sét bị giết

1 Khi người con vua Sa-un nghe tin ông Áp-ne đã chết tại Khép-rôn, thì tay chân rụng rời; toàn thể Ít-ra-en cũng kinh hoàng. 2 Người con vua Sa-un có hai tướng cướp, một thằng tên là Ba-a-na, một thằng tên là Rê-kháp. Chúng là con ông Rim-môn người thành Bơ-ê-rốt, và thuộc chi tộc Ben-gia-min, vì cả Bơ-ê-rốt cũng được kể như thuộc Ben-gia-min. 3 Người Bơ-ê-rốt đã trốn đến Ghít-ta-gim và là ngoại kiều ở đó cho đến ngày nay. 4 Ông Giô-na-than, con vua Sa-un, có một con trai bại hai chân. Nó được năm tuổi khi người ta từ Gít-rơ-en đến báo tin về vua Sa-un và ông Giô-na-than. Vú nuôi mang nó đi trốn, nhưng trong lúc chị hoảng hốt chạy trốn, nó ngã và bị què. Nó tên là Mơ-phi-bô-sét.

5 Các con ông Rim-môn người Bơ-ê-rốt, là Rê-kháp và Ba-a-na, đã lên đường và đã đến nhà vua Ít-bô-sét vào lúc nóng nực nhất trong ngày. Vua đang nằm ngủ trưa. 6 Chúng vào tận trong nhà, như để xúc lúa mì, đâm vào bụng vua, rồi Rê-kháp và Ba-a-na, anh nó, trốn thoát. 7 Khi chúng vào nhà thì vua đang nằm trên giường tại phòng ngủ, chúng đâm chết vua rồi chặt đầu. Rồi chúng mang đầu vua và đi theo đường A-ra-va suốt đêm. 8 Chúng đem đầu vua Ít-bô-sét đến cho vua Ða-vít tại Khép-rôn và nói với vua: "Ðây là đầu của Ít-bô-sét, con vua Sa-un, kẻ thù của ngài, người đã tìm hại mạng sống ngài. Hôm nay Ðức Chúa đã cho đức vua là chúa thượng tôi trả thù vua Sa-un và dòng dõi vua ấy."

9 Vua Ða-vít trả lời Rê-kháp và Ba-a-na, anh nó, là những người con ông Rim-môn người Bơ-ê-rốt; vua nói: "Có Ðức Chúa hằng sống, Ðấng đã giải thoát ta khỏi mọi cảnh ngặt nghèo! 10 Kẻ đưa tin cho ta rằng vua Sa-un đã chết, và coi mình là người đưa tin mừng, thì ta đã túm lấy và giết đi ở Xích-lắc, để thưởng công nó đã đem tin mừng. 11 Phương chi khi những kẻ ác ôn đã giết một người công chính trong nhà người ấy, trên giường người ấy! Há bây giờ ta lại không hỏi tội các ngươi về máu tay các ngươi đã đổ ra, và không khử trừ các ngươi khỏi mặt đất sao?” 12 Vua Ða-vít ra lệnh cho đầy tớ. Họ giết chúng, chặt tay chặt chân, rồi treo gần hồ Khép-rôn. Còn đầu vua Ít-bô-sét thì họ đem đi và chôn trong mộ ông Áp-ne tại Khép-rôn.

Chương 05

2. Vua Ða-Vít Trị Vì Giu-Ða Và Ít-Ra-En

Vua Ða-vít được xức dầu tấn phong làm vua Ít-ra-en (1 Sb 11:1-3)

1 Toàn thể các chi tộc Ít-ra-en đến gặp vua Ða-vít tại Khép-rôn và thưa: "Chúng tôi đây là cốt nhục của ngài. 2 Ngay cả trước kia, khi ông Sa-un làm vua cai trị chúng tôi, chính ngài đã chỉ huy các cuộc hành quân của Ít-ra-en. Ðức Chúa đã phán với ngài: "Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Ít-ra-en.” 3 Toàn thể kỳ mục Ít-ra-en đến gặp vua tại Khép-rôn. Vua Ða-vít lập giao ước với họ tại Khép-rôn, trước nhan Ðức Chúa. Rồi họ xức dầu tấn phong Ða-vít làm vua Ít-ra-en.

4 Vua Ða-vít được ba mươi tuổi khi lên làm vua, và trị vì bốn mươi năm. 5 Tại Khép-rôn, vua trị vì Giu-đa bảy năm sáu tháng. Tại Giê-ru-sa-lem, vua trị vì toàn thể Ít-ra-en và Giu-đa ba mươi ba năm.

Chiếm Giê-ru-sa-lem (1 Sb 11:4-9)

6 Vua và người của vua tiến về Giê-ru-sa-lem đánh người Giơ-vút là dân bản xứ. Chúng nói với vua Ða-vít: "Ông sẽ không vào đây được, vì người mù người què sẽ đẩy lui ông." Nghĩa là: "Ông Ða-vít sẽ không vào đây được.” 7 Vua Ða-vít đã chiếm được đồn luỹ Xi-on, đó là Thành vua Ða-vít. 8 Ngày hôm đó, vua Ða-vít nói: "Mọi kẻ muốn đánh người Giơ-vút, thì hãy qua đường hầm mà tấn công người mù người què, những kẻ mà lòng vua Ða-vít ghét." Vì thế có câu: "Người mù người què sẽ không được vào Ðền.” 9 Vua Ða-vít đóng tại đồn luỹ và gọi đó là Thành vua Ða-vít. Rồi vua Ða-vít xây chung quanh, từ nền Mi-lô vào phía trong. 10 Vua Ða-vít ngày càng mạnh thế, và Ðức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, ở với vua.

11 Ông Khi-ram, vua thành Tia, sai sứ giả đến với vua Ða-vít, đem theo gỗ bá hương, thợ mộc, thợ đẽo đá xây, và họ đã xây nhà cho vua Ða-vít. 12 Vua Ða-vít biết rằng Ðức Chúa đã đặt mình làm vua cai trị Ít-ra-en, và vì dân Người là Ít-ra-en, Người đã làm cho vương quyền của vua được vinh hiển.

Các con vua Ða-vít sinh ra tại Giê-ru-sa-lem (1 Sb 14:3-7)

13 Sau khi từ Khép-rôn tới, vua Ða-vít lấy thêm tỳ thiếp và vợ ở Giê-ru-sa-lem, và vua Ða-vít sinh thêm con trai con gái. 14 Ðây là tên những người vua sinh được tại Giê-ru-sa-lem: Sam-mu-a, Sô-váp, Na-than, Sa-lô-môn, 15 Gíp-kha, Ê-li-su-a, Ne-phéc, Gia-phia,16 Ê-li-sa-ma, En-gia-đa và Ê-li-phe-lét.

Chiến thắng quân Phi-li-tinh (1 Sb 14:8-16)

17 Khi quân Phi-li-tinh nghe biết là người ta đã xức dầu tấn phong vua Ða-vít làm vua Ít-ra-en, thì toàn thể quân Phi-li-tinh lên tìm bắt vua Ða-vít. Vua Ða-vít nghe tin liền xuống nơi ẩn náu. 18 Quân Phi-li-tinh đến và tràn vào thung lũng người Ra-pha. 19 Vua Ða-vít thỉnh ý Ðức Chúa: "Con có nên tiến đánh quân Phi-li-tinh không? Ngài có trao chúng vào tay con không?" Ðức Chúa trả lời vua Ða-vít: "Cứ lên, vì chắc chắn ta sẽ trao quân Phi-li-tinh vào tay ngươi.” 20 Vua Ða-vít đến Ba-an Pơ-ra-xim, và vua Ða-vít đánh bại chúng ở đó. Vua nói: "Ðức Chúa đã chọc thủng quân thù trước mặt tôi, như chỗ bị nước chọc thủng." Vì thế, người ta đặt tên cho nơi ấy là Ba-an Pơ-ra-xim. 21 Chúng đã bỏ lại đó các tượng thần của chúng, và vua Ða-vít và người của vua đã mang đi.

22 Một lần nữa, quân Phi-li-tinh lại lên và tràn vào thung lũng người Ra-pha. 23 Vua Ða-vít thỉnh ý Ðức Chúa; Người phán: "Ðừng lên, nhưng hãy đi vòng, đánh tập hậu, và tấn công chúng từ phía lùm cây sếu. 24 Khi nào ngươi nghe tiếng chân bước trên ngọn các cây sếu, bấy giờ ngươi hãy mau mau tấn công, vì bấy giờ Ðức Chúa sẽ ra trận trước mặt ngươi để đánh quân đội Phi-li-tinh.” 25 Vua Ða-vít làm như Ðức Chúa đã truyền cho vua, và vua đã đánh bại người Phi-li-tinh từ Ghe-va cho đến lối vào Ghe-de.

Chương 06

Rước Hòm Bia về Giê-ru-sa-lem (1 Sb 13:1-14; 15:25 -16:3.43)

1 Vua Ða-vít lại quy tụ toàn thể tinh binh Ít-ra-en: ba mươi ngàn người. 2 Từ Ba-a-lê Giu-đa, vua Ða-vít lên đường và cùng đi với toàn dân đang ở với vua, để đưa Hòm Bia Thiên Chúa từ đó lên, Hòm Bia mang danh Ðức Chúa các đạo binh, Ðấng ngự trên các thần hộ giá. 3 Người ta đặt Hòm Bia Thiên Chúa lên một cỗ xe mới và mang đi từ nhà ông A-vi-na-đáp ở trên đồi. Các con ông A-vi-na-đáp là Út-da và Ác-giô điều khiển cỗ xe mới. 4 Họ đưa xe đi từ nhà ông A-vi-na-đáp ở trên đồi, trên xe có Hòm Bia Thiên Chúa, còn ông Ác-giô đi trước Hòm Bia. 5 Vua Ða-vít và toàn thể nhà Ít-ra-en vui đùa trước nhan Ðức Chúa, với mọi thứ nhạc cụ bằng gỗ trắc bá, với đàn cầm đàn sắt, trống con, chũm choẹ, thanh la.

6 Khi đoàn người tới sân lúa Na-khôn, thì ông Út-da giơ tay ra về phía Hòm Bia Thiên Chúa và giữ lại, vì bò trượt chân. 7 Ðức Chúa nổi cơn thịnh nộ với ông Út-da, và Thiên Chúa đánh phạt ông tại chỗ vì lầm lỗi đó. Ông chết tại đó, bên Hòm Bia Thiên Chúa. 8 Vua Ða-vít buồn bực vì Ðức Chúa đã đột phá hại ông Út-da. Người ta gọi nơi ấy là Pe-rét Út-da cho đến ngày nay.

9 Ngày hôm đó, vua Ða-vít sợ Ðức Chúa, ông nói: "Hòm Bia Ðức Chúa đến với tôi thế nào được?” 10 Vua Ða-vít không muốn đưa Hòm Bia Ðức Chúa về với mình trong Thành vua Ða-vít, nên cho chuyển hướng sang nhà ông Ô-vết Ê-đôm, người thành Gát. 11 Hòm Bia Ðức Chúa ở nhà ông Ô-vết Ê-đôm người thành Gát, ba tháng, và Ðức Chúa giáng phúc cho ông Ô-vết Ê-đôm cùng cả nhà ông.

12 Người ta báo tin cho vua Ða-vít rằng: "Vì Hòm Bia Thiên Chúa, Ðức Chúa đã giáng phúc cho nhà ông Ô-vết Ê-đôm cùng tất cả những gì thuộc về ông." Vua Ða-vít liền đi và rước Hòm Bia Thiên Chúa từ nhà ông Ô-vết Ê-đôm lên Thành vua Ða-vít, trong niềm hân hoan. 13 Khi những người khiêng Hòm Bia của Ðức Chúa đi được sáu bước, thì vua sát tế một con bò và một con bê béo. 14 Vua Ða-vít quấn ê-phốt vải gai, nhảy múa hết sức mình trước nhan Ðức Chúa. 15 Vua Ða-vít và toàn thể nhà Ít-ra-en rước Hòm Bia Ðức Chúa lên giữa tiếng hò reo với tiếng tù và. 16 Khi Hòm Bia Ðức Chúa vào Thành vua Ða-vít, bà Mi-khan, con gái vua Sa-un, từ cửa sổ nhìn xuống thấy vua Ða-vít nhảy múa quay cuồng trước nhan Ðức Chúa, thì sinh lòng khinh dể. 17 Người ta đưa Hòm Bia Ðức Chúa đặt vào chỗ đã dọn giữa lều vua Ða-vít đã dựng sẵn. Vua Ða-vít dâng lên trước nhan Ðức Chúa những lễ toàn thiêu và những lễ kỳ an. 18 Khi đã hoàn tất việc dâng các lễ toàn thiêu và lễ kỳ an, vua Ða-vít nhân danh Ðức Chúa các đạo binh chúc phúc cho dân. 19 Rồi vua phân phát cho toàn dân, cho tất cả đám đông Ít-ra-en, đàn ông cũng như đàn bà, mỗi người một cái bánh ngọt, một phần thịt và một cái bánh nho. Rồi toàn dân ai nấy về nhà mình.

20 Khi vua Ða-vít trở về để chúc phúc cho nhà mình, bà Mi-khan, con gái vua Sa-un, ra đón vua và nói: "Vua Ít-ra-en hôm nay thật là danh giá, khi để hở hang trước mắt các nữ tỳ của tôi tớ mình, như một đứa vô danh tiểu tốt để hở hang!” 21 Vua Ða-vít nói với bà Mi-khan: "Trước nhan Ðức Chúa, Ðấng đã chọn tôi thay vì thân phụ bà và cả nhà thân phụ bà, để đặt tôi làm người lãnh đạo dân Ðức Chúa là Ít-ra-en, trước nhan Ðức Chúa tôi sẽ vui đùa. 22 Tôi sẽ còn hạ mình hơn thế nữa, tôi sẽ coi mình là thấp hèn; nhưng đối với các nữ tỳ mà bà nói, đối với chúng, tôi sẽ được danh giá.” 23 Và bà Mi-khan, con gái vua Sa-un, không có con cho đến ngày chết.

Chương 07

Lời sấm của ông Na-than (1 Sb 17:1-15)

1 Khi vua được yên cửa yên nhà và Ðức Chúa đã cho vua được thảnh thơi mọi bề, không còn thù địch nào nữa, 2 thì vua nói với ngôn sứ Na-than: "Ông xem, tôi được ở nhà bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì ở trong lều vải.” 3 Ông Na-than thưa với vua: "Tất cả những gì ngài ấp ủ trong lòng, xin ngài cứ đi mà thực hiện, vì Ðức Chúa ở với ngài."

4 Nhưng ngay đêm ấy, có lời Ðức Chúa phán với ông Na-than rằng:

5 "Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là Ða-vít: Ðức Chúa phán thế này: Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao? 6 Thật vậy, từ ngày Ta đưa con cái Ít-ra-en lên từ Ai-cập cho tới ngày hôm nay, Ta không hề ở trong một ngôi nhà, nhưng Ta đã nay đây mai đó trong một cái lều và trong một nhà tạm. 7 Trong suốt thời gian rày đây mai đó với toàn thể con cái Ít-ra-en, có bao giờ Ta đã lên tiếng hỏi một trong các thủ lãnh Ít-ra-en mà Ta đã đặt lên chăn dắt dân Ta là Ít-ra-en: "Sao các ngươi không xây cho Ta một ngôi nhà bằng gỗ bá hương? 8 Bây giờ ngươi hãy nói với tôi tớ Ta là Ða-vít như sau: Ðức Chúa các đạo binh phán thế này: Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Ít-ra-en. 9 Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi; mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất mắt ngươi. Ta sẽ làm cho tên tuổi ngươi lẫy lừng, như tên tuổi những bậc vĩ nhân trên mặt đất. 10 Ta sẽ cho dân Ta là Ít-ra-en một chỗ ở, Ta sẽ định cư chúng, và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ, và quân gian ác cũng không còn tiếp tục áp bức chúng như thuở ban đầu, 11 kể từ thời Ta đặt các thủ lãnh cai quản dân Ta là Ít-ra-en. Ta sẽ cho ngươi được thảnh thơi, không còn thù địch nào nữa, Ðức Chúa báo cho ngươi biết là Ðức Chúa lập cho ngươi một nhà. 12 Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi -một người do chính ngươi sinh ra-, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. 13 Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. 14 Ðối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Khi nó phạm lỗi, Ta sẽ sửa phạt nó bằng roi của người phàm, bằng đòn của con người. 15 Tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó, như Ta đã cho rời khỏi Sa-un, kẻ Ta đã bắt rời khỏi mặt ngươi. 16 Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi."

17 Ông Na-than đã nói lại với vua Ða-vít, đúng y như tất cả những lời ấy và tất cả thị kiến ấy.

Vua Ða-vít cầu nguyện (1 Sb 17:16 -27)

18 Vua Ða-vít vào ngồi chầu trước nhan Ðức Chúa và thưa: "Lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng, con là ai và nhà của con là gì, mà Ngài đã đưa con tới địa vị này? 19 Nhưng lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng, Ngài còn coi đó là quá ít; Ngài lại hứa cho nhà của tôi tớ Ngài một tương lai lâu dài. Phải chăng đó là luật chung cho con người, lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng? 20 Ða-vít còn nói được gì thêm với Ngài? Ngài biết tôi tớ Ngài, lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng! 21 Vì lời Ngài đã phán và theo như lòng Ngài muốn, Ngài đã thực hiện tất cả công trình vĩ đại này, để làm cho tôi tớ Ngài được biết. 22 Vì thế, lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng, Ngài thật vĩ đại: không ai sánh được như Ngài; và không có Thiên Chúa nào khác ngoại trừ Ngài, theo như mọi điều tai chúng con đã từng được nghe. 23 Dưới đất có một dân tộc nào được như dân Ngài là Ít-ra-en? Thiên Chúa đã đến cứu chuộc dân này để làm thành dân của Ngài, đặt tên cho nó, thực hiện cho nó những điều vĩ đại và khủng khiếp, hầu xua đuổi các dân tộc và các thần của chúng cho khuất mắt dân mà Ngài đã cứu chuộc từ Ai-cập về cho mình. 24 Ngài đã lập Ít-ra-en, dân Ngài, để nó thành dân Ngài mãi mãi; còn Ngài, lạy Ðức Chúa, Ngài đã trở thành Thiên Chúa của chúng. 25 Giờ đây, lạy Ðức Chúa là Thiên Chúa, lời Ngài đã phán về tôi tớ Ngài và nhà của nó, xin Ngài giữ mãi mãi, và xin hành động như Ngài đã phán. 26 Danh Ngài sẽ vĩ đại mãi mãi và người ta sẽ nói: "Ðức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa thống trị Ít-ra-en. Nhà của tôi tớ Ngài là Ða-vít sẽ vững bền trước nhan Ngài. 27 Thật vậy, lạy Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa của Ít-ra-en, chính Ngài đã mặc khải cho tôi tớ Ngài rằng: Ta sẽ xây cho ngươi một nhà. Vì thế tôi tớ Ngài đủ can đảm dâng lên Ngài lời cầu nguyện ấy. 28 Giờ đây, lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài là Thiên Chúa, những lời Ngài phán là chân lý, và Ngài đã hứa ban cho tôi tớ Ngài điều tốt đẹp ấy. 29 Vậy giờ đây, cúi xin Ngài giáng phúc cho nhà của tôi tớ Ngài, để nhà ấy được tồn tại mãi trước nhan Ngài. Bởi vì, lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài đã phán, và nhờ Ngài giáng phúc mà nhà của tôi tớ Ngài sẽ được chúc lành mãi mãi."

Chương 08

Các cuộc chiến tranh thời vua Ða-vít (1 Sb 18:1-13)

1 Sau đó, vua Ða-vít đánh bại người Phi-li-tinh, hạ nhục chúng và đoạt quyền bá chủ từ tay người Phi-li-tinh. 2 Vua đánh bại người Mô-áp, bắt chúng nằm rạp xuống đất và lấy dây đo: vua đo hai dây để giết và đủ một dây để cho sống. Người Mô-áp phải làm nô lệ cho vua Ða-vít và triều cống vua.

3 Vua Ða-vít đánh bại vua nước Xô-va là Ha-đát-e-de, con ông Rơ-khốp, khi vua này đi tái lập chủ quyền trên vùng Sông Cả. 4 Vua Ða-vít bắt được của vua ấy một ngàn bảy trăm kỵ binh và hai mươi ngàn bộ binh; và vua Ða-vít đã cắt gân chân tất cả những con ngựa kéo xe, chỉ chừa lại một trăm. 5 Người A-ram ở Ða-mát đến cứu viện Ha-đát-e-de, vua Xô-va, nhưng vua Ða-vít đã hạ của A-ram hai mươi ngàn người. 6 Vua Ða-vít đặt những trấn thủ cai trị người A-ram ở Ða-mát; người A-ram phải làm nô lệ cho vua Ða-vít và triều cống vua. Ðức Chúa đã cho vua Ða-vít đi đâu thắng đó. 7 Vua Ða-vít lấy các khiên vàng mà tôi tớ vua Ha-đát-e-de mang, và đưa về Giê-ru-sa-lem. 8 Tại Be-tác và Bê-rô-thai, các thành của vua Ha-đát-e-de, vua Ða-vít đã lấy được rất nhiều đồng.

9 Tô-i, vua Kha-mát, nghe tin vua Ða-vít đã đánh bại toàn thể quân đội vua Ha-đát-e-de. 10 Vua Tô-i sai con là Giô-ram đến với vua Ða-vít để vấn an và chúc mừng vua vì đã chiến đấu với vua Ha-đát-e-de và đánh bại vua ấy, vì vua Ha-đát-e-de là kẻ thù của vua Tô-i. Giô-ram mang theo những đồ bạc, đồ vàng và đồ đồng. 11 Các đồ ấy, vua Ða-vít cũng đã thánh hiến cho Ðức Chúa, cùng với bạc và vàng vua đã thánh hiến, bạc vàng của mọi dân tộc vua đã khuất phục, 12 là: A-ram, Mô-áp, con cái Am-mon, người Phi-li-tinh và A-ma-lếch, cũng như từ chiến lợi phẩm thu được của vua Xô-va là Ha-đát-e-de, con ông Rơ-khốp.

13 Vua Ða-vít làm cho danh mình lẫy lừng, lúc trở về sau khi đánh bại mười tám ngàn người Ê-đôm trong thung lũng Muối. 14 Vua Ða-vít đặt các trấn thủ tại Ê-đôm; vua đặt các trấn thủ trong toàn xứ Ê-đôm, và toàn dân Ê-đôm phải làm nô lệ cho vua Ða-vít. Ðức Chúa đã cho vua Ða-vít đi đâu thắng đó.

Việc cai trị vương quốc (1 Sb 18:14 -17)

15 Vua Ða-vít trị vì toàn thể Ít-ra-en. Vua Ða-vít thực hiện điều chính trực công minh cho toàn dân. 16 Ông Giô-áp, con bà Xơ-ru-gia, chỉ huy quân đội. Ông Giơ-hô-sa-phát, con ông A-khi-lút, làm quốc vụ khanh. 17 Ông Xa-đốc, con ông A-khi-túp, và ông A-khi-me-léc con ông Ép-gia-tha, làm tư tế. Ông Xơ-ra-gia làm ký lục. 18 Ông Bơ-na-gia-hu, con ông Giơ-hô-gia-đa, chỉ huy quân Cơ-rê-thi và quân Pơ-lê-thi. Các con trai vua Ða-vít làm tư tế.

Chương 09

3. Gia Ðình Vua Ða-Vít. Việc Kế Thừa Ngôi Vua.

A. Mơ-phi-bô-sét

Vua Ða-vít xử tốt với con trai ông Giô-na-than

1 Vua Ða-vít nói: "Nhà Sa-un có còn người nào sống sót không? Vì ông Giô-na-than, ta sẽ lấy tình mà đối xử với người ấy.” 2 Nhà Sa-un có một người tôi tớ tên là Xi-va. Người ta mời ông đến gặp vua Ða-vít. Vua hỏi ông: "Ngươi là Xi-va phải không? " Ông thưa: "Chính tôi tớ ngài đây.” 3 Vua bảo ông: "Nhà Sa-un không còn người nào nữa sao, để ta lấy tình mà đối xử với người ấy như Thiên Chúa đòi hỏi?" Ông Xi-va trả lời vua: "Vẫn còn một người con trai của ông Giô-na-than, bị bại hai chân.” 4 Vua hỏi ông: "Ông ấy ở đâu?" Ông Xi-va trả lời vua: "Ông ấy đang ở nhà ông Ma-khia, con ông A-mi-ên, tại Lô Ðơ-va.” 5 Vua Ða-vít sai người đi đón ông về từ nhà ông Ma-khia, con ông Am-mi-ên, tại Lô Ðơ-va.

6 Khi ông Mơ-phi-bô-sét, con ông Giô-na-than, cháu vua Sa-un, đến gặp vua Ða-vít, ông cúi rạp xuống mà lạy. Vua Ða-vít gọi: "Mơ-phi-bô-sét!" Ông thưa: "Dạ, tôi tớ ngài đây!” 7 Vua Ða-vít bảo ông: "Ðừng sợ! Vì ông Giô-na-than, cha cháu, ta muốn lấy tình mà đối xử với cháu. Ta sẽ trả cho cháu tất cả ruộng đất của vua Sa-un, ông của cháu. Phần cháu, cháu sẽ luôn luôn dùng bữa tại bàn ăn của ta.” 8 Ông lạy và nói: "Tôi tớ ngài là gì, mà ngài quay về phía một con chó chết như cháu?"

9 Vua Ða-vít gọi ông Xi-va, đầy tớ vua Sa-un, và bảo ông: "Tất cả những gì thuộc về vua Sa-un và thuộc về toàn thể nhà Sa-un, ta ban cho con trai của chủ ngươi. 10 Ngươi, con cái ngươi và tôi tớ ngươi sẽ cày cấy đất đai cho ông ấy. Ngươi sẽ thu hoạch và cái đó sẽ là lương thực cho con của chủ ngươi ăn. Còn ông Mơ-phi-bô-sét, con của chủ ngươi, ông sẽ luôn luôn dùng bữa tại bàn ăn của ta." Ông Xi-va có mười lăm con trai và hai mươi tôi tớ. 11 Ông Xi-va thưa vua: "Tất cả những gì đức vua là chúa thượng tôi truyền cho tôi tớ ngài, tôi tớ ngài sẽ làm như thế." Vậy ông Mơ-phi-bô-sét ăn tại bàn của vua, như một trong các hoàng tử. 12 Ông Mơ-phi-bô-sét có một con trai nhỏ tên là Mi-kha. Mọi người ở trong nhà ông Xi-va đều là tôi tớ ông Mơ-phi-bô-sét. 13 Nhưng ông Mơ-phi-bô-sét ở Giê-ru-sa-lem, vì ông luôn luôn ăn tại bàn của vua. Ông bị què hai chân.

Chương 10

B. Chiến tranh với Am-mon. Vua Sa-lô-môn sinh ra.

Người Am-mon làm nhục sứ giả vua Ða-vít (1 Sb 19:1-5)

1 Sau đó, vua của con cái Am-mon qua đời, và Kha-nun, con vua ấy, lên ngôi kế vị. 2 Vua Ða-vít nói: "Ta sẽ lấy tình mà đối xử với vua Kha-nun, con vua Na-khát, như cha vua ấy đã lấy tình mà đối xử với ta. Vua Ða-vít sai bề tôi chuyển lời chia buồn với vua ấy về vua cha. Nhưng khi bề tôi vua Ða-vít đến đất con cái Am-mon, 3 thì các tướng lãnh của con cái Am-mon thưa với vua Kha-nun, chúa thượng của chúng: "Ngài tưởng là Ða-vít kính trọng vua cha khi sai người đến chia buồn với ngài sao? Chẳng phải Ða-vít đã sai bề tôi đến với ngài là để quan sát thành, dò thám và lật đổ thành sao?” 4 Vua Kha-nun liền bắt bề tôi vua Ða-vít, cạo một nửa râu và cắt một nửa áo của họ cho đến mông, rồi thả về. 5 Người ta báo tin cho vua Ða-vít, vua sai người đi đón họ, vì những người ấy nhục nhã lắm. Vua bảo: "Các ngươi cứ ở lại Giê-ri-khô chờ cho râu mọc lại rồi hãy về."

Chiến dịch thứ nhất đánh người Am-mon (1 Sb 19:6-15)

6 Con cái Am-mon thấy rằng mình đã trở nên đáng ghét đối với vua Ða-vít. Con cái Am-mon đã sai người đi thuê của dân A-ram ở Bết Rơ-khốp và dân A-ram ở Xô-va: hai mươi ngàn bộ binh; của vua thành Ma-a-kha: một ngàn người; của dân thành Tốp: mười hai ngàn người. 7 Vua Ða-vít nghe tin thì sai ông Giô-áp đi với toàn thể đạo binh các dũng sĩ. 8 Con cái Am-mon tiến ra và dàn trận ở lối vào cửa thành. Quân A-ram Xô-va, quân A-ram Rơ-khốp, quân Tốp và quân Ma-a-kha thì đóng riêng ngoài đồng. 9 Ông Giô-áp thấy rằng mình phải đối phó với mặt trận cả phía trước lẫn phía sau, nên đã chọn trong toàn thể tinh binh của Ít-ra-en một số người và dàn trận đối diện với người A-ram. 10 Phần quân còn lại, ông giao cho ông A-vi-sai, anh ông, để dàn trận đối diện với con cái Am-mon. 11 Ông nói: "Nếu người A-ram mạnh hơn tôi, thì bác sẽ cứu viện tôi. Còn nếu con cái Am-mon mạnh hơn bác, thì tôi sẽ đến cứu viện bác. 12 Can đảm lên, chúng ta hãy tỏ ra can đảm, vì dân chúng ta và vì các thành của Thiên Chúa chúng ta! Xin Ðức Chúa thực hiện điều Người coi là tốt!” 13 Ông Giô-áp và quân binh của ông tiến lên giao chiến với quân A-ram, và chúng chạy trốn trước mặt họ. 14 Khi con cái Am-mon thấy quân A-ram chạy trốn, thì chúng cũng chạy trốn trước mặt ông A-vi-sai và rút về thành. Sau khi thắng con cái Am-mon, ông Giô-áp trở về Giê-ru-sa-lem.

Thắng quân A-ram (1 Sb 19:16 -19)

15 Người A-ram thấy mình bị Ít-ra-en đánh bại, thì họp lại với nhau. 16 Vua Ha-đát-e-de sai người đi chiêu mộ người A-ram ở bên kia Sông Cả. Chúng đến Khê-lam, có Sô-vác, tướng chỉ huy quân đội của vua Ha-đát-e-de, cầm đầu. 17 Người ta báo tin cho vua Ða-vít. Vua quy tụ toàn thể Ít-ra-en, vượt sông Gio-đan và đến Khê-lam. Người A-ram dàn trận đối diện với vua Ða-vít và giao chiến với vua. 18 Người A-ram chạy trốn trước mặt Ít-ra-en. Vua Ða-vít tiêu diệt của người A-ram bảy trăm chiến xa và bốn mươi ngàn kỵ binh. Còn Sô-vác, tướng chỉ huy quân đội, thì bị vua hạ và chết tại đó. 19 Tất cả các vua chư hầu của vua Ha-đát-e-de thấy mình bị Ít-ra-en đánh bại, thì cầu hoà với Ít-ra-en và làm tôi họ. Người A-ram sợ không dám cứu viện con cái Am-mon nữa.

Chương 11

Chiến dịch thứ hai đánh người Am-mon. Vua Ða-vít phạm tội.

1 Lúc xuân về, thời mà các vua ra quân, vua Ða-vít sai ông Giô-áp đi, cùng với các bề tôi của vua và toàn thể Ít-ra-en. Họ giết hại con cái Am-mon và vây hãm Ráp-ba. Còn vua Ða-vít thì ở lại Giê-ru-sa-lem.

2 Vào một buổi chiều, vua Ða-vít từ trên giường trỗi dậy và đi bách bộ trên sân thượng đền vua. Từ sân thượng, vua thấy một người đàn bà đang tắm. Nàng nhan sắc tuyệt vời. 3 Vua Ða-vít sai người đi điều tra về người đàn bà, và người ta nói: "Ðó chính là bà Bát Se-va, con gái ông Ê-li-am, vợ ông U-ri-gia người Khết.” 4 Vua Ða-vít sai lính biệt phái đến đón nàng. Nàng đến với vua và vua nằm với nàng; khi ấy nàng mới thanh tẩy sau thời kỳ ô uế. Rồi nàng trở về nhà. 5 Người đàn bà thụ thai. Nàng sai người đến báo tin cho vua Ða-vít rằng: "Tôi có thai."

6 Vua Ða-vít sai người đến nói với ông Giô-áp: "Hãy sai U-ri-gia, người Khết, về gặp ta." Ông Giô-áp sai ông U-ri-gia về gặp vua Ða-vít. 7 Khi ông U-ri-gia đến với vua, vua Ða-vít hỏi thăm về ông Giô-áp, về quân binh, về chiến sự. 8 Rồi vua Ða-vít bảo ông U-ri-gia: "Hãy xuống nhà của ngươi và rửa chân." Ông U-ri-gia ra khỏi đền vua, có người bưng ra một phần thức ăn của nhà vua theo sau. 9 Nhưng ông U-ri-gia nằm ở cửa đền vua với tất cả các bề tôi của chúa thượng ông, và ông không xuống nhà mình.

10 Người ta báo tin cho vua Ða-vít rằng: "Ông U-ri-gia đã không xuống nhà ông." Vua Ða-vít hỏi ông U-ri-gia: "Chẳng phải ngươi đi đường xa mới về ư? Tại sao ngươi không xuống nhà của ngươi?” 11 Ông U-ri-gia thưa với vua Ða-vít: "Hòm Bia cũng như Ít-ra-en và Giu-đa đang ở lều, chủ tướng tôi là ông Giô-áp và các bề tôi của chúa thượng đang đóng trại ở ngoài đồng trống, mà tôi đây lại về nhà ăn uống và nằm với vợ tôi sao? Tôi xin lấy mạng sống của ngài, lấy chính mạng sống của ngài mà thề: tôi sẽ không làm điều ấy!” 12 Vua Ða-vít bảo ông U-ri-gia: "Hãy ở lại đây hôm nay nữa, ngày mai ta sẽ cho ngươi đi." Ông U-ri-gia ở lại Giê-ru-sa-lem ngày hôm đó. Ngày hôm sau, 13 vua Ða-vít mời ông; ông ăn uống trước mặt vua, và vua cho ông uống say. Ðến chiều, ông ra nằm giường của ông cùng với các bề tôi của chúa thượng ông, nhưng không xuống nhà mình.

14 Sáng hôm sau, vua Ða-vít viết thư cho ông Giô-áp và gửi ông U-ri-gia mang đi. 15 Trong thư, vua viết rằng: "Hãy đặt U-ri-gia ở hàng đầu, chỗ mặt trận nặng nhất, rồi rút lui bỏ nó lại, để nó bị trúng thương mà chết.” 16 Ông Giô-áp đang thám sát thành liền để ông U-ri-gia ở chỗ ông biết là có quân hùng mạnh nhất. 17 Người trong thành xông ra, giao chiến với ông Giô-áp. Một số người trong quân binh, trong các bề tôi vua Ða-vít đã ngã gục, và ông U-ri-gia, người Khết, cũng chết.

18 Ông Giô-áp sai người về báo cho vua Ða-vít biết tất cả diễn tiến trận đánh. 19 Ông ra lệnh cho người lính biệt phái rằng: "Khi anh kể tất cả diễn tiến trận đánh cho đức vua xong, 20 nếu cơn giận đức vua nổi lên và người hỏi anh: "Tại sao các ngươi lại đến gần thành mà giao chiến? Các ngươi không biết là người ta bắn từ trên tường thành xuống sao? 21 Ai đã hạ A-vi-me-léc, con ông Giơ-rúp-be-sét? Chẳng phải một người đàn bà đã liệng xuống ông một thớt cối đá và ông đã chết tại Tê-vết đó sao? Tại sao các ngươi lại đến gần tường thành?, thì anh sẽ nói: "Tôi tớ ngài là ông U-ri-gia, người Khết, cũng đã chết"."

22 Người lính biệt phái ra đi và đến báo cho vua Ða-vít biết mọi điều ông Giô-áp đã sai anh về nói. 23 Người lính biệt phái nói với vua Ða-vít: "Những người ấy đã mạnh hơn chúng tôi và đã xông ra đánh chúng tôi ở ngoài đồng, nhưng chúng tôi đã đẩy lui chúng cho đến lối vào cửa thành. 24 Từ trên tường thành, lính bắn cung đã bắn xuống các bề tôi của ngài. Một số bề tôi đức vua đã chết, cả tôi tớ ngài là ông U-ri-gia, người Khết, cũng đã chết."

25 Vua Ða-vít bảo người lính biệt phái: "Hãy nói với ông Giô-áp thế này: "Ðừng bực mình về chuyện ấy, vì việc binh đao là thế: khi thì người này, khi thì người kia bị chém. Hãy mạnh mẽ tấn công và phá huỷ thành. Ngươi hãy khích lệ ông ấy."

26 Vợ ông U-ri-gia nghe tin ông U-ri-gia, chồng mình, đã chết, thì làm ma cho chồng. 27 Khi tang lễ đã qua, vua Ða-vít sai người đi đón nàng về nhà mình. Nàng trở thành vợ vua và sinh cho vua một con trai. Nhưng hành động của vua Ða-vít không đẹp lòng Ðức Chúa.

Chương 12

Ngôn sứ Na-than trách vua Ða-vít. Vua hối hận.

1 Ðức Chúa sai ông Na-than đến với vua Ða-vít. Ông vào gặp vua và nói với vua:

"Có hai người ở trong cùng một thành,

một người giàu, một người nghèo.

2 Người giàu thì có chiên dê và bò, nhiều lắm.

3 Còn người nghèo chẳng có gì cả,

ngoài con chiên cái nhỏ độc nhất ông đã mua.

Ông nuôi nó, nó lớn lên ở bên ông, cùng với con cái ông,

nó ăn chung bánh với ông, uống chung chén với ông,

ngủ trong lòng ông: ông coi nó như một đứa con gái.

4 Có khách đến thăm người giàu,

ông này tiếc của, không bắt chiên dê hay bò của mình

mà làm thịt đãi người lữ khách đến thăm ông.

Ông bắt con chiên cái của người nghèo

mà làm thịt đãi người đến thăm ông."

5 Vua Ða-vít bừng bừng nổi giận với người ấy và nói với ông Na-than: "Có Ðức Chúa hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết! 6 Nó phải đền gấp bốn con chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng thương xót.” 7 Ông Na-than nói với vua Ða-vít: "Kẻ đó chính là ngài! Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: Chính Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua cai trị Ít-ra-en, chính Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Sa-un. 8 Ta đã ban cho ngươi nhà của chúa thượng ngươi, và đã đặt các người vợ của chúa thượng ngươi vào vòng tay ngươi. Ta đã cho ngươi nhà Ít-ra-en và Giu-đa. Nếu bấy nhiêu mà còn quá ít, thì Ta sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế nữa. 9 Vậy tại sao ngươi lại khinh dể lời Ðức Chúa mà làm điều dữ trái mắt Người? Ngươi đã dùng gươm đâm U-ri-gia, người Khết; vợ y, ngươi đã cướp làm vợ ngươi; còn chính y, ngươi đã dùng gươm của con cái Am-mon mà giết. 10 Ấy vậy, gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi, bởi vì ngươi đã khinh dể Ta và cướp vợ của U-ri-gia, người Khết, làm vợ ngươi.

11 "Ðức Chúa phán thế này: Ta sắp dùng chính nhà của ngươi mà gây hoạ cho ngươi. Ta sẽ bắt các vợ của ngươi trước mắt ngươi mà cho một người khác, và nó sẽ nằm với các vợ của ngươi giữa thanh thiên bạch nhật. 12 Thật vậy, ngươi đã hành động lén lút, nhưng Ta, Ta sẽ làm điều ấy trước mặt toàn thể Ít-ra-en và giữa thanh thiên bạch nhật."

13 Bấy giờ vua Ða-vít nói với ông Na-than: "Tôi đắc tội với Ðức Chúa." Ông Na-than nói với vua Ða-vít: "Về phía Ðức Chúa, Người đã bỏ qua tội của ngài; ngài sẽ không phải chết. 14 Thế nhưng vì trong việc này ngài đã cả gan khinh thị Ðức Chúa, nên đứa trẻ ngài sinh được, chắc chắn sẽ phải chết.” 15 Rồi ông Na-than trở về nhà.

Con bà Bát Se-va chết. Vua Sa-lô-môn chào đời.

16 Vua Ða-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất. 17 Các kỳ mục trong nhà của vua nài nỉ xin vua trỗi dậy, nhưng vua không chịu và cũng chẳng ăn chút gì với họ. 18 Ðến ngày thứ bảy, đứa bé chết. Triều thần vua Ða-vít sợ không dám báo tin cho vua biết là đứa bé đã chết, vì họ bảo nhau: "Khi đứa trẻ còn sống, chúng ta đã nói với đức vua và người đã không nghe chúng ta. Bây giờ làm thế nào để nói với người là đứa bé đã chết? Hẳn người sẽ làm liều!” 19 Thấy triều thần thì thầm với nhau, vua Ða-vít hiểu là đứa bé đã chết. Vua Ða-vít hỏi triều thần: "Có phải đứa bé chết rồi không?" Họ thưa: "Vâng, chết rồi!"

20 Bấy giờ vua Ða-vít từ dưới đất trỗi dậy, tắm rửa, xức dầu thơm, thay quần áo; rồi vua vào Nhà Ðức Chúa mà phủ phục. Trở về nhà, vua yêu cầu người ta dọn bữa, và vua đã ăn. 21 Triều thần nói với vua: "Ngài làm gì vậy? Khi đứa bé còn sống, thì ngài ăn chay và khóc lóc vì nó. Khi đứa bé chết rồi, thì ngài lại trỗi dậy và dùng bữa!” 22 Vua trả lời: "Bao lâu đứa bé còn sống, ta ăn chay và khóc lóc vì ta tự bảo: "Biết đâu Ðức Chúa sẽ thương xót ta và đứa bé sẽ sống! 23 Bây giờ nó chết rồi, ta ăn chay làm gì? Hỏi rằng ta còn có thể làm cho nó trở lại được không? Ta đi đến với nó, chứ nó không trở lại với ta."

24 Vua Ða-vít an ủi bà Bát Se-va, vợ mình. Vua đến với nàng và nằm với nàng. Nàng sinh một con trai và vua gọi tên nó là Sa-lô-môn. Ðức Chúa yêu thương nó, 25 và sai ngôn sứ Na-than đến cho biết điều đó. Vì Ðức Chúa, ông gọi tên nó là Giơ-đi-đơ-gia.

Hạ thành Ráp-ba (1 Sb 20:1-3)

26 Ông Giô-áp tấn công thành Ráp-ba của con cái Am-mon và hạ được hoàng thành. 27 Ông Giô-áp sai lính biệt phái về nói với vua Ða-vít: "Tôi đã tấn công Ráp-ba, tôi còn hạ được cả thành dưới, chỗ có nhiều nước. 28 Giờ đây, xin ngài tập hợp số quân binh còn lại, bao vây và chiếm thành, kẻo chính tôi sẽ hạ thành và nó sẽ mang tên tôi.” 29 Vua Ða-vít tập hợp toàn thể quân binh, đi Ráp-ba, tấn công và hạ thành. 30 Vua lột vương miện trên đầu vua chúng, vương miện cân nặng ba mươi ký vàng và có một viên ngọc quý; viên ngọc ấy được đặt trên đầu vua Ða-vít. Vua lấy đi rất nhiều chiến lợi phẩm của thành. 31 Còn dân trong thành thì vua đưa đi và bắt phải làm những việc dùng đến cưa, cuốc sắt, rìu sắt, và phải đúc gạch. Vua xử như thế với mọi thành của con cái Am-mon. Rồi vua Ða-vít và toàn thể quân binh trở về Giê-ru-sa-lem.

Chương 13

C. Truyện Áp-sa-lôm

Am-nôn làm nhục em gái là Ta-ma

1 Sau đó xảy ra chuyện này. Áp-sa-lôm, con trai vua Ða-vít, có một cô em gái xinh đẹp, tên là Ta-ma. Am-nôn, con trai vua Ða-vít, yêu cô. 2 Am-nôn khắc khoải đến ốm tương tư vì Ta-ma, em gái cậu, bởi cô là gái còn trinh và Am-nôn thấy không có cách làm gì được cô. 3 Am-nôn có người bạn tên là Giô-na-đáp, con ông Sim-a, ông này là anh vua Ða-vít. Giô-na-đáp là người rất khôn lanh. 4 Cậu hỏi Am-nôn: "Này hoàng tử, sao mà sáng nào cũng bơ phờ như thế? Không nói cho anh biết được sao?" Am-nôn nói với cậu: "Em yêu Ta-ma, em gái của Áp-sa-lôm em trai em.” 5 Giô-na-đáp bảo cậu: "Chú cứ nằm trên giường và giả bệnh. Cha của chú sẽ đến thăm chú, chú sẽ thưa với người: "Xin cho phép Ta-ma, em con, đến lo việc ăn uống cho con: em con sẽ làm món ăn trước mắt con, để con thấy, và sẽ tự tay mang đến cho con ăn".” 6 Am-nôn đi nằm và giả bệnh. Vua đến thăm, và Am-nôn thưa với vua: "Xin cho phép Ta-ma, em con, đến làm trước mắt con hai cái bánh và tự tay mang đến cho con dùng.” 7 Vua Ða-vít sai người đến nhà cô Ta-ma mà bảo: "Con hãy đến nhà Am-nôn, anh con, và làm món ăn cho anh.” 8 Ta-ma đến nhà Am-nôn, anh cô. Cậu đang nằm. Cô lấy bột, nhào, làm bánh trước mắt cậu và đem chiên. 9 Rồi cô cầm chảo và đổ bánh ra trước mặt cậu, nhưng cậu từ chối không chịu ăn. Am-nôn nói: "Hãy bảo mọi người ra khỏi đây." Mọi người ra khỏi đó. 10 Am-nôn bảo Ta-ma: "Em đưa món ăn vào trong phòng, và tự tay mang đến cho anh dùng." Ta-ma lấy những cái bánh cô đã làm, và đưa vào phòng cho Am-nôn, anh cô. 11 Cô đang bưng đến cho cậu thì cậu nắm lấy cô và nói với cô: "Ðến đây em, nằm với anh đi!” 12 Cô bảo cậu: "Ðừng, anh! Ðừng cưỡng hiếp em; vì không được phép làm điều ấy trong Ít-ra-en. Chớ làm chuyện đồi bại ấy. 13 Em đây, em sẽ mang nỗi hổ nhục của em đi đâu? Còn anh, anh sẽ bị coi như một tên đồi bại trong Ít-ra-en. Bây giờ, xin anh cứ thưa với đức vua, người sẽ không từ chối gả em cho anh đâu.” 14 Nhưng cậu không muốn nghe lời cô. Mạnh hơn cô, cậu cưỡng hiếp cô và nằm với cô.

15 Bấy giờ Am-nôn đâm ra ghét cô, ghét thậm tệ: cậu còn ghét cô hơn là đã yêu cô. Am-nôn bảo cô: "Ðứng dậy! Cút đi!” 16 Cô nói với cậu: "Ðừng, đuổi em như vậy còn ác hơn là điều ác anh vừa làm đối với em." Nhưng cậu không muốn nghe cô. 17 Cậu gọi người đầy tớ hầu hạ cậu và bảo: "Ðuổi cô này ra khỏi đây và khoá cửa lại sau khi cô ấy ra.” 18 Bấy giờ cô đang mặc áo chùng dài tay, vì các công chúa còn trinh thường mặc như thế. Người hầu của cậu cho cô ra ngoài, rồi khoá cửa lại sau khi cô ra.

19 Ta-ma lấy tro bụi rắc lên đầu, xé cái áo chùng dài tay cô đang mặc, đặt tay lên đầu, vừa đi vừa kêu la. 20 Áp-sa-lôm, anh cô, hỏi cô: "Có phải thằng Am-nôn, anh của em, đã nằm với em không? Bây giờ, em ơi, nín đi: nó là anh của em. Ðừng để tâm vào chuyện này." Ta-ma ở vậy trong nhà của Áp-sa-lôm, anh cô. 21 Vua Ða-vít nghe biết tất cả sự việc ấy thì giận lắm. 22 Áp-sa-lôm không nói bất cứ điều gì với Am-nôn, bởi lẽ Áp-sa-lôm ghét Am-nôn vì chuyện cưỡng hiếp Ta-ma, em cậu.

Áp-sa-lôm ám sát Am-nôn rồi trốn đi

23 Hai năm sau, nhân dịp Áp-sa-lôm thuê thợ xén lông cừu tại Ba-an Kha-xo, gần Ép-ra-im, Áp-sa-lôm mời tất cả các hoàng tử. 24 Áp-sa-lôm vào gặp vua và thưa: "Tôi tớ ngài có thuê thợ xén lông cừu. Kính xin đức vua và triều thần đến với tôi tớ ngài.” 25 Vua nói với Áp-sa-lôm: "Không được, con ạ, chúng ta không nên đi cả, kẻo thành gánh nặng cho con." Cậu nài nỉ vua, nhưng vua không muốn đi. Vua chúc phúc cho cậu. 26 Áp-sa-lôm nói: "Vậy ít là xin cho anh Am-nôn của con đi với chúng con." Vua hỏi cậu: "Nó đi với con làm gì?” 27 Áp-sa-lôm nài nỉ vua, nên vua cho Am-nôn và tất cả các hoàng tử đi với cậu.

28 Áp-sa-lôm ra lệnh cho các đầy tớ của cậu rằng: "Các ngươi hãy để ý! Khi rượu đã làm cho lòng Am-nôn vui vẻ, và ta bảo các ngươi: "Hạ Am-nôn! , thì các ngươi hãy giết chết nó. Ðừng sợ! Chẳng phải là chính ta ra lệnh cho các ngươi sao? Can đảm lên, hãy tỏ ra là những người dũng cảm!” 29 Các đầy tớ của Áp-sa-lôm đã xử với Am-nôn như Áp-sa-lôm đã ra lệnh. Tất cả các hoàng tử đứng lên, mỗi người cưỡi la của mình mà chạy trốn.

30 Khi họ còn đang trên đường, thì có tin báo về cho vua Ða-vít rằng: "Áp-sa-lôm đã hạ tất cả các hoàng tử, không người nào sống sót.” 31 Vua đứng dậy, xé áo ra và nằm xuống đất. Toàn thể triều thần đứng chung quanh đều xé áo ra. 32 Nhưng Giô-na-đáp, con ông Sim-a là anh vua Ða-vít, lên tiếng nói: "Xin chúa thượng đừng nói rằng người ta đã giết chết tất cả các cậu hoàng tử. Chỉ một mình Am-nôn chết thôi, vì Áp-sa-lôm đã quyết định điều ấy từ ngày Ta-ma, em gái mình bị cưỡng hiếp. 33 Giờ đây, xin đức vua là chúa thượng tôi đừng có tưởng rằng tất cả các hoàng tử đã chết. Không, chỉ một mình Am-nôn chết thôi. 34 Còn Áp-sa-lôm thì đã trốn đi."

Người đầy tớ đứng cạnh ngước mắt lên nhìn thì thấy một đám đông đi trên con đường sau lưng mình, bên sườn núi. 35 Giô-na-đáp nói với vua: "Kìa, các hoàng tử đang đến. Việc đã xảy ra như lời tôi tớ ngài nói.” 36 Cậu vừa nói xong thì này các hoàng tử đến. Họ oà lên khóc. Cả vua và toàn thể triều thần cũng lớn tiếng than khóc. 37 Còn Áp-sa-lôm thì trốn đi và đến với ông Tan-mai, là con ông Am-mi-hút và là vua xứ Gơ-sua. Ngày ngày vua để tang con.

Ông Giô-áp điều đình cho Áp-sa-lôm trở về

38 Áp-sa-lôm đã trốn đi, đến Gơ-sua và ở đó ba năm. 39 Vua Ða-vít hết giận Áp-sa-lôm, vì vua đã khuây khoả được nỗi buồn mất Am-nôn.

Chương 14

1 Ông Giô-áp, con bà Xơ-ru-gia, biết rằng lòng vua hướng về Áp-sa-lôm. 2 Ông Giô-áp sai người đi Tơ-cô-a tìm một người đàn bà khôn lanh và bảo bà ấy: "Xin bà giả bộ để tang: bà hãy mặc áo tang, đừng xức dầu thơm, và làm như một người đàn bà đã từ lâu để tang một người chết. 3 Rồi bà đến gặp đức vua và thưa với người lời lẽ thế này." Ông Giô-áp đặt lời lẽ vào miệng bà.

4 Vậy người đàn bà Tơ-cô-a đến nói với vua. Bà sấp mặt xuống đất mà lạy rồi thưa: "Thưa đức vua, xin cứu tôi với!” 5 Vua hỏi bà: "Ngươi có chuyện gì?" Bà thưa: "Than ôi! Tôi là đàn bà goá, chồng tôi đã chết. 6 Nữ tỳ ngài có hai con trai. Hai đứa xô xát ở ngoài đồng, không có ai can ngăn chúng. Ðứa này đánh đứa kia và giết chết nó. 7 Và này toàn thể thị tộc đã đứng lên chống lại nữ tỳ ngài và bảo: "Bà hãy nộp kẻ đã hạ người anh em mình. Chúng tôi sẽ bắt nó chết để đền mạng người anh em nó đã giết, và sẽ tiêu diệt luôn cả người thừa kế. Họ sẽ dập tắt chút than hồng còn sót lại cho tôi, không để cho chồng tôi được duy trì tên tuổi và còn người nối dõi trên mặt đất.” 8 Vua nói với người đàn bà: "Ngươi cứ về nhà. Chính ta sẽ ra lệnh về việc của ngươi.” 9 Người đàn bà Tơ-cô-a thưa vua: "Thưa đức vua là chúa thượng tôi, tội đổ xuống đầu tôi và xuống nhà cha tôi! Còn đức vua và ngai vàng của người thì vô can.” 10 Vua nói: "Kẻ nào nói gì với ngươi, cứ đưa nó đến với ta, và nó sẽ không còn đụng tới ngươi nữa.” 11 Bà nói: "Xin đức vua lấy Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngài, mà thề, để kẻ đòi nợ máu đừng gây thêm chết chóc, và người ta đừng tiêu diệt con trai tôi." Vua nói: "Có Ðức Chúa hằng sống! Không một sợi tóc nào của con trai ngươi sẽ rơi xuống đất!"

12 Người đàn bà nói: "Xin cho nữ tỳ ngài được thưa với đức vua là chúa thượng tôi một lời." Vua bảo: "Cứ nói.” 13 Người đàn bà nói: "Vậy tại sao ngài lại tính một chuyện có hại cho dân Thiên Chúa như thế? Vì đã nói lời ấy, nên đức vua giống như một kẻ mắc tội, nếu đức vua không cho kẻ ngài đã đày biệt xứ được trở về. 14 Thật vậy, thế nào chúng ta cũng phải chết, như nước chảy xuống đất không thể hốt lại được. Nhưng Thiên Chúa không lấy sự sống đi và Người định liệu cho kẻ bị đày biệt xứ khỏi bị biệt xứ xa Người.

15 "Giờ đây, nếu tôi đến thưa điều ấy với đức vua là chúa thượng tôi, chính là vì dân đã làm cho tôi sợ. Nữ tỳ ngài tự nhủ: "Tôi phải thưa với đức vua, may ra đức vua sẽ làm điều nữ tỳ người nói. 16 Thật vậy, đức vua sẽ nhận lời mà giải thoát nữ tỳ người khỏi bàn tay kẻ muốn tiêu diệt tôi cùng với con trai tôi, không cho hưởng cơ nghiệp của Thiên Chúa". 17 Nữ tỳ ngài tự nhủ: "Ước chi lời của đức vua là chúa thượng tôi làm tôi yên lòng, vì đức vua là chúa thượng tôi khác nào sứ giả Thiên Chúa để lắng nghe điều thiện điều ác. Xin Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngài, ở với ngài."

18 Vua trả lời người đàn bà rằng: "Ðừng giấu ta điều ta sắp hỏi ngươi." Người đàn bà nói: "Xin đức vua là chúa thượng tôi cứ nói.” 19 Vua hỏi: "Có phải bàn tay ông Giô-áp ở với ngươi trong tất cả việc này không?" Người đàn bà thưa rằng: "Thưa đức vua là chúa thượng tôi, tôi xin lấy mạng sống ngài mà thề: không ai có thể đi trệch bên phải bên trái ra khỏi mọi điều đức vua là chúa thượng tôi đã nói. Phải, chính tôi tớ ngài là ông Giô-áp đã truyền cho tôi và đã đặt vào miệng nữ tỳ ngài mọi lời ấy. 20 Chính là để cho sự việc có một bộ mặt khác mà tôi tớ ngài là ông Giô-áp đã làm việc đó. Nhưng sự khôn ngoan của chúa thượng sánh được với sự khôn ngoan của sứ giả Thiên Chúa: ngài biết tất cả những gì xảy ra trên mặt đất."

21 Vua bảo ông Giô-áp: "Ðược, ta làm ngay điều đó. Cứ đi, dẫn cậu Áp-sa-lôm về.” 22 Ông Giô-áp sấp mặt xuống đất mà lạy và chúc phúc cho vua. Ông Giô-áp nói: "Ngày hôm nay tôi tớ ngài biết rằng tôi được đẹp lòng đức vua là chúa thượng tôi, vì đức vua đã làm theo như lời của tôi tớ ngài.” 23 Ông Giô-áp lên đường đi Gơ-sua và đưa Áp-sa-lôm về Giê-ru-sa-lem. 24 Vua nói: "Nó hãy lui về nhà nó và sẽ không được gặp mặt ta." Áp-sa-lôm lui về nhà mình và không được gặp mặt vua.

Một vài chi tiết về Áp-sa-lôm

25 Trong toàn thể Ít-ra-en, không có ai đẹp trai như Áp-sa-lôm, khiến người ta hết lời ca tụng: từ bàn chân cho tới đỉnh đầu không có một khuyết điểm nào. 26 Khi y cạo đầu -cuối mỗi năm y cạo đầu, vì tóc đè nặng trên đầu y và phải cạo- tóc đầu y cân nặng hai ký, theo quả cân của nhà vua. 27 Áp-sa-lôm sinh được ba con trai, và một con gái tên là Ta-ma. Nàng là một phụ nữ có nhan sắc.

Áp-sa-lôm được tha thứ

28 Áp-sa-lôm ở Giê-ru-sa-lem hai năm mà không được gặp mặt vua. 29 Áp-sa-lôm sai người tìm ông Giô-áp để cử ông đến gặp vua, nhưng ông không chịu đến gặp y. Y lại sai người đi tìm một lần nữa, nhưng ông không chịu đến. 30 Y bảo các tôi tớ: "Hãy xem cánh đồng của ông Giô-áp, ở bên cánh đồng của ta, ông ấy trồng lúa mạch ở đó. Hãy đi nổi lửa mà đốt." Tôi tớ của Áp-sa-lôm đã nổi lửa đốt cánh đồng. 31 Ông Giô-áp đứng lên và đến nhà Áp-sa-lôm mà hỏi y: "Tại sao tôi tớ của chú nổi lửa đốt cánh đồng của tôi?” 32 Áp-sa-lôm nói với ông Giô-áp: "Anh xem: tôi đã sai người đến mời anh tới đây, để cử anh đi thưa với đức vua: "Con từ Gơ-sua về làm gì? Thà con vẫn ở đó còn hơn. Bây giờ tôi muốn được gặp mặt đức vua. Nếu tôi có lỗi gì, xin người cứ giết tôi đi!” 33 Ông Giô-áp vào gặp vua và báo cho vua biết. Vua cho gọi Áp-sa-lôm. Y vào gặp vua, sấp mặt xuống đất trước mặt vua mà lạy. Vua hôn Áp-sa-lôm.

Chương 15

Thủ đoạn của Áp-sa-lôm

1 Sau đó, Áp-sa-lôm đóng cho mình một cỗ xe, với những con ngựa và năm mươi người hộ tống. 2 Áp-sa-lôm dậy sớm và đứng ở bên đường vào cửa thành. Mỗi khi người nào có kiện cáo mà đến với vua để xin xét xử, thì Áp-sa-lôm gọi người ấy lại mà hỏi: "Ông người thành nào?" Người kia thưa: "Tôi tớ ngài thuộc chi tộc này, chi tộc nọ trong Ít-ra-en.” 3 Áp-sa-lôm bảo người ấy: "Ông xem: vụ kiện của ông đúng và hợp lý, nhưng không có ai thay mặt đức vua để nghe ông đâu.” 4 Áp-sa-lôm nói: "Phải chi có ai đặt tôi làm thẩm phán trong xứ này! Tất cả những người có kiện cáo và cần xét xử, sẽ đến với tôi, và tôi sẽ xử công minh cho họ.” 5 Khi có người đến lạy y thì y đưa tay ra, giữ lấy người ấy mà hôn. 6 Áp-sa-lôm làm như thế với mọi người Ít-ra-en đến xin vua xét xử. Và Áp-sa-lôm đã mua chuộc lòng người Ít-ra-en.

Áp-sa-lôm làm loạn

7 Sau bốn năm, Áp-sa-lôm thưa với vua: "Xin cho phép con đi Khép-rôn để con giữ trọn lời đã khấn hứa với Ðức Chúa, 8 vì khi còn ở Gơ-sua miền A-ram, tôi tớ ngài đã có lời khấn hứa rằng: "Nếu quả thực Ðức Chúa cho con trở về Giê-ru-sa-lem, thì con sẽ thờ phượng Ðức Chúa".” 9 Vua bảo y: "Con đi bình an." Y lên đường đi Khép-rôn.

10 Áp-sa-lôm sai người bí mật đến tất cả các chi tộc Ít-ra-en mà nói: "Khi anh em nghe thấy tiếng tù và thì hãy nói: Áp-sa-lôm đã lên ngôi vua tại Khép-rôn!” 11 Cùng với Áp-sa-lôm có hai trăm người đi từ Giê-ru-sa-lem; họ là những khách được mời, vô tình mà đến, không hay biết gì về chuyện đó. 12 Khi dâng các hy lễ, Áp-sa-lôm sai người đi tìm A-khi-thô-phen, người thành Ghi-lô, cố vấn của vua Ða-vít, và triệu y về từ thành của y là Ghi-lô. Bọn mưu phản thêm mạnh và dân theo Áp-sa-lôm ngày càng đông.

Vua Ða-vít chạy trốn

13 Người đưa tin đến nói với vua Ða-vít: "Lòng người Ít-ra-en đã theo Áp-sa-lôm.” 14 Vua Ða-vít bảo toàn thể triều thần ở với vua tại Giê-ru-sa-lem: "Ðứng lên! Chúng ta chạy trốn đi, vì chúng ta sẽ không thoát được Áp-sa-lôm. Ði cho mau, kẻo chẳng mấy chốc nó đuổi kịp chúng ta, giáng tai hoạ xuống chúng ta và dùng lưỡi gươm giết dân thành.” 15 Triều thần thưa với vua: "Ðức vua là chúa thượng chọn cái gì, các tôi tớ ngài đây xin sẵn sàng!” 16 Vua đi ra và cả nhà theo chân, nhưng vua để lại mười người tỳ thiếp để giữ nhà. 17 Vua đi ra và toàn dân theo chân, họ dừng lại ở ngôi nhà cuối cùng. 18 Toàn thể triều thần đi qua, sát bên cạnh vua, tất cả quân Cơ-rê-thi, tất cả quân Pơ-lê-thi và tất cả quân Gát -tức là sáu trăm người đã theo chân vua từ Gát đến- đi qua trước mặt vua. 19 Vua nói với ông Ít-tai, người Gát: "Tại sao cả ngươi nữa cũng đi với chúng ta? Hãy trở về và ở với nhà vua, bởi vì ngươi là người nước ngoài, ngươi còn bỏ quê hương mà sống lưu vong. 20 Ngươi mới đến hôm qua, mà hôm nay ta lại bắt ngươi phải đi lang thang với chúng ta, trong khi ta đi mà chẳng biết đi đâu! Hãy trở về và đưa các anh em ngươi trở về cùng với ngươi. Xin Ðức Chúa lấy tình thương và lòng thành tín mà đối xử với ngươi.” 21 Ông Ít-tai trả lời vua rằng: "Có Ðức Chúa hằng sống và có đức vua là chúa thượng tôi đang sống, tôi thề: đức vua là chúa thượng tôi ở đâu, thì dù sống dù chết, tôi tớ ngài cũng ở đó!” 22 Vua Ða-vít bảo ông Ít-tai: "Hãy đi qua!" Ông Ít-tai, người Gát, đã đi qua cùng với tất cả những người của ông và mọi trẻ con theo ông. 23 Cả xứ khóc to tiếng và toàn dân đi qua. Vua đi qua thung lũng Kít-rôn, và toàn dân đi qua phía trước con đường vào sa mạc.

Hòm Bia ở lại Giê-ru-sa-lem

24 Và có cả ông Xa-đốc, và cùng với ông, có tất cả các thầy Lê-vi khiêng Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa. Họ đặt Hòm Bia Thiên Chúa xuống, và ông Ép-gia-tha tiến lên, cho đến khi toàn dân ra khỏi thành đã đi qua hết. 25 Vua bảo ông Xa-đốc: "Hãy đưa Hòm Bia Thiên Chúa về thành. Nếu ta được đẹp lòng Ðức Chúa, thì Người sẽ đưa ta trở về và cho ta thấy Hòm Bia và nơi Người ngự. 26 Nhưng nếu Người nói là Người không thương ta nữa, thì này ta đây, Người cứ làm cho ta điều Người cho là tốt.” 27 Vua nói với tư tế Xa-đốc: "Ngươi thấy không? Cứ trở về thành bình an. Có hai con trai của các ngươi ở với các ngươi: A-khi-ma-át, con của ngươi, và Giô-na-than, con của Ép-gia-tha. 28 Các ngươi xem: ta sẽ nán lại ở các chỗ qua sông vào sa mạc, chờ khi có lời các ngươi gửi đến báo tin cho ta.” 29 Ông Xa-đốc và ông Ép-gia-tha đưa Hòm Bia Thiên Chúa về Giê-ru-sa-lem, và họ ở lại đó.

Vua Ða-vít nhờ ông Khu-sai giúp

30 Vua Ða-vít lên dốc Cây Ô-liu, vừa lên vừa khóc, đầu trùm khăn, chân đi đất, và toàn dân đi với vua ai cũng đầu trùm khăn, vừa lên vừa khóc. 31 Người ta báo tin cho vua Ða-vít rằng: "A-khi-thô-phen ở trong đám những người âm mưu cùng với Áp-sa-lôm." Vua Ða-vít nói: "Lạy ÐỨC CHÚA, xin làm cho lời bàn của A-khi-thô-phen ra vô hiệu!"

32 Khi vua Ða-vít lên tới đỉnh, nơi người ta thờ lạy Thiên Chúa, thì này ông Khu-sai, người Ác-ki, đón gặp vua, áo chùng ông xé rách, đầu thì rắc đất. 33 Vua Ða-vít nói với ông: "Nếu ông qua đây với ta, thì ông sẽ nên gánh nặng cho ta. 34 Nhưng nếu ông trở về thành và nói với Áp-sa-lôm: "Thưa đức vua, tôi là tôi tớ ngài; trước đây tôi là tôi tớ cha ngài, còn bây giờ tôi là tôi tớ ngài", thì ông sẽ phá cho ta lời bàn của A-khi-thô-phen. 35 Nào các tư tế Xa-đốc và Ép-gia-tha sẽ chẳng có ở đó với ông sao? Tất cả những gì nghe được từ đền vua, ông sẽ báo cho các tư tế Xa-đốc và Ép-gia-tha. 36 Họ có hai người con trai ở đó với họ là A-khi-ma-át, con Xa-đốc và Giô-na-than, con Ép-gia-tha. Các ông sẽ nhờ chúng báo cho ta mọi điều các ông nghe được.” 37 Ông Khu-sai, bạn vua Ða-vít, vào thành khi Áp-sa-lôm đến Giê-ru-sa-lem.

Chương 16

Vua Ða-vít và ông Xi-va

1 Khi vua Ða-vít đi qua đỉnh được một chút, thì có ông Xi-va, đầy tớ ông Mơ-phi-bô-sét đón gặp vua, dẫn theo hai con lừa thồ chở hai trăm cái bánh, một trăm chùm nho khô, một trăm trái cây và một bầu da đầy rượu. 2 Vua Ða-vít hỏi ông Xi-va: "Ngươi định làm gì với những thứ này?" Ông Xi-va trả lời: "Lừa thì để cho hoàng gia cưỡi, bánh và trái cây thì để cho các đầy tớ ăn, rượu thì để cho người mệt lả trong sa mạc uống.” 3 Vua hỏi: "Người con của chủ ngươi đâu?" Ông Xi-va thưa với vua: "Ông ấy ở lại Giê-ru-sa-lem, vì ông tự bảo: "Hôm nay nhà Ít-ra-en sẽ trả lại cho ta vương quyền của cha ta.” 4 Vua bảo ông Xi-va: "Vậy tất cả những gì là của Mơ-phi-bô-sét thì là của ngươi." Ông Xi-va nói: "Tôi xin bái tạ. Ước chi tôi được đẹp lòng ngài, thưa đức vua là chúa thượng tôi."

Sim-y nguyền rủa vua Ða-vít

5 Khi vua Ða-vít đến Ba-khu-rim thì kìa có một người từ đó đi ra. Y thuộc cùng một thị tộc với nhà Sa-un, và tên là Sim-y, con ông Ghê-ra. Y vừa đi ra vừa nguyền rủa. 6 Y ném đá vào vua Ða-vít và tất cả bề tôi vua, mặc dầu có toàn thể quân đội và toàn thể các dũng sĩ ở bên phải và bên trái vua. 7 Sim-y nói thế này trong lời nguyền rủa của y: "Cút đi, cút đi, tên khát máu, thằng vô lại! 8 Ðức Chúa đã đổ xuống đầu mày tất cả máu của nhà Sa-un, người đã bị mày chiếm ngôi, và Ðức Chúa đã trao vương quyền vào tay Áp-sa-lôm, con mày. Và này, mày phải tai hoạ, vì mày là tên khát máu!” 9 Ông A-vi-sai, con bà Xơ-ru-gia, thưa với vua: "Tại sao thằng chó chết này dám nguyền rủa đức vua là chúa thượng tôi? Xin cho tôi qua chặt đầu nó!” 10 Vua nói: "Chuyện của ta can gì đến các ngươi, hỡi các con bà Xơ-ru-gia? Nếu nó nguyền rủa và nếu Ðức Chúa bảo nó: "Hãy nguyền rủa Ða-vít", thì ai dám hỏi: "Tại sao mày làm như thế?” 11 Vua Ða-vít nói với ông A-vi-sai và tất cả bề tôi: "Này con trai ta, do chính ta sinh ra mà còn tìm hại mạng sống ta, huống chi là tên Ben-gia-min này! Cứ để nó nguyền rủa, nếu Ðức Chúa đã bảo nó. 12 May ra Ðức Chúa sẽ đoái nhìn đến nỗi khổ cực của ta và Ðức Chúa sẽ trả lại cho ta hạnh phúc, thay vì lời nguyền rủa của nó hôm nay.” 13 Vua Ða-vít và người của vua vẫn đi trên đường, còn Sim-y thì đi ở sườn núi, song song với vua, vừa đi vừa nguyền rủa và ném đá, song song với vua; y làm bụi tung lên. 14 Vua và toàn dân theo vua đi tới nơi thì mệt lả. Họ nghỉ lấy sức tại đó.

Ông Khu-sai đến với Áp-sa-lôm

15 Áp-sa-lôm và toàn thể quân binh người Ít-ra-en vào Giê-ru-sa-lem, có A-khi-thô-phen cùng đi. 16 Khi ông Khu-sai, người Ác-ki, bạn vua Ða-vít, đến gặp Áp-sa-lôm, thì ông Khu-sai nói với Áp-sa-lôm: "Vạn tuế đức vua! Vạn tuế đức vua!” 17 Áp-sa-lôm hỏi ông Khu-sai: "Tình nghĩa của ông đối với người bạn ông là như thế ư? Tại sao ông không đi với bạn ông?” 18 Ông Khu-sai nói với ông Áp-sa-lôm: "Ðức Chúa, cũng như dân này và tất cả mọi người Ít-ra-en đã chọn ai, thì tôi sẽ thuộc về người ấy và ở với người ấy. 19 Thứ đến, tôi sẽ phục vụ ai, nếu không phải là con của người ấy? Tôi đã phục vụ cha ngài thế nào, thì tôi cũng sẽ phục vụ ngài như vậy."

Áp-sa-lôm và các tỳ thiếp của vua Ða-vít

20 Áp-sa-lôm bảo A-khi-thô-phen: "Các ngươi hãy bàn nhau xem chúng ta phải làm gì.” 21 A-khi-thô-phen nói với Áp-sa-lôm: "Xin ngài hãy đến với các tỳ thiếp mà cha ngài đã để lại giữ nhà. Toàn thể Ít-ra-en sẽ nghe biết rằng ngài đã trở nên đáng ghét đối với cha ngài, và mọi người theo ngài sẽ mạnh bạo lên.” 22 Người ta căng lều cho Áp-sa-lôm trên sân thượng, và Áp-sa-lôm đến với các tỳ thiếp của cha mình trước mắt toàn thể Ít-ra-en. 23 Lời bàn mà A-khi-thô-phen đưa ra trong những ngày ấy thì giống như lời Thiên Chúa phán, khi người ta thỉnh ý. Mọi lời bàn của A-khi-thô-phen đều có giá trị như thế đối với cả vua Ða-vít lẫn Áp-sa-lôm.

Chương 17

Ông Khu-sai làm hỏng kế hoạch của A-khi-thô-phen

1 A-khi-thô-phen nói với Áp-sa-lôm: "Xin để tôi tuyển mười hai ngàn người, tôi sẽ lên đường đuổi theo Ða-vít ngay đêm nay. 2 Tôi sẽ đến tấn công ông ấy, trong lúc ông ấy kiệt sức, tay chân rụng rời, tôi sẽ làm cho ông khiếp sợ, toàn dân theo ông sẽ bỏ trốn, và tôi sẽ hạ một mình nhà vua. 3 Tôi sẽ đưa toàn dân về với ngài. Hạ được người mà ngài đang tìm thì cũng như làm cho mọi người trở về: toàn dân sẽ được bình an.” 4 Áp-sa-lôm và toàn thể các kỳ mục Ít-ra-en thấy lời đó là phải.

5 Nhưng Áp-sa-lôm nói: "Hãy mời cả ông Khu-sai, người Ác-ki, để chúng ta cũng nghe cả ông ấy nữa, xem ông nói gì.” 6 Ông Khu-sai đến gặp Áp-sa-lôm. Áp-sa-lôm nói với ông rằng: "Ông A-khi-thô-phen đã nói như vậy. Chúng ta có nên làm điều ông ấy nói không? Nếu không thì chính ông nói đi.” 7 Ông Khu-sai nói với Áp-sa-lôm: "Lần này lời bàn ông A-khi-thô-phen đưa ra không hay.” 8 Rồi ông Khu-sai nói: "Ngài biết rằng cha ngài và người của ông là những dũng sĩ và họ cay đắng trong tâm hồn như gấu mẹ mất con ngoài đồng. Cha ngài là một chiến binh, ông sẽ không nghỉ đêm với dân. 9 Bây giờ chắc ông đang ẩn núp trong một hầm hố hay một nơi nào đó. Nếu ngay từ đầu có những người phe ta ngã gục, chắc chắn có người sẽ nghe biết và sẽ nói: "Dân theo Áp-sa-lôm đã bị bại! 10 Bấy giờ cả người can đảm, có gan như gan sư tử, cũng sẽ nản lòng, vì toàn thể Ít-ra-en biết rằng cha ngài là một dũng sĩ và những kẻ theo ông là người can đảm. 11 Vậy tôi xin bàn thế này: toàn thể Ít-ra-en, từ Ðan tới Bơ-e Se-va sẽ tập trung về với ngài, đông như cát ngoài bãi biển, và ngài sẽ đích thân đi đánh trận. 12 Chúng ta sẽ đến đánh ông tại bất cứ nơi nào ông đang ở, chúng ta sẽ đậu trên ông như sương rơi trên đất đai, và ông cũng như những người theo ông sẽ không còn sót lại một ai. 13 Nếu ông tập trung vào một thành, toàn thể Ít-ra-en sẽ đem dây thừng đến thành đó và chúng ta sẽ lôi thành ấy xuống thung lũng, đến nỗi không còn tìm thấy ở đó một hòn sỏi.” 14 Áp-sa-lôm và tất cả các người Ít-ra-en nói: "Lời bàn của ông Khu-sai, người Ác-ki, hay hơn lời bàn của ông A-khi-thô-phen." Thật vậy, Ðức Chúa đã quyết định phá lời bàn hay của A-khi-thô-phen, để đem tai hoạ đến cho Áp-sa-lôm.

15 Ông Khu-sai nói với các tư tế Xa-đốc và Ép-gia-tha: "A-khi-thô-phen đã bàn thế này thế này với Áp-sa-lôm và các kỳ mục Ít-ra-en; còn tôi, tôi đã bàn thế kia thế kia. 16 Bây giờ các ông hãy mau sai người đi báo tin cho vua Ða-vít rằng: "Xin đức vua đừng dừng lại đêm nay tại các vùng đất hoang trong sa mạc, nhưng ngài phải đi qua ngay, kẻo đức vua và toàn dân theo người sẽ bị tiêu diệt"."

Ðược tin báo, vua Ða-vít qua sông Gio-đan.

17 Giô-na-than và A-khi-ma-át đứng sẵn ở Ên Rô-ghên. Một nữ tỳ đi báo tin cho họ, rồi họ đi báo tin cho vua Ða-vít, họ không vào thành, vì không được để người ta nhìn thấy. 18 Nhưng một thanh niên thấy họ và báo cho Áp-sa-lôm. Cả hai vội vàng đi và đến nhà một người ở Ba-khu-rim, người này có một cái giếng trong sân. Họ xuống đó. 19 Vợ người ấy lấy tấm bố, trải ra trên miệng giếng rồi rải hạt lên trên. Chẳng ai hay biết gì.

20 Các tôi tớ Áp-sa-lôm vào nhà bà ấy và hỏi: "A-khi-ma-át và Giô-na-than đâu?" Bà trả lời chúng: "Họ đã đi qua sông." Chúng tìm nhưng không thấy, nên trở về Giê-ru-sa-lem. 21 Sau khi chúng đi rồi, thì hai người lên khỏi giếng và đi báo tin cho vua Ða-vít. Họ nói với vua Ða-vít: "Xin các ngài lên đường và mau mau qua sông, bởi vì A-khi-thô-phen đã bàn thế này để hại các ngài.” 22 Vua Ða-vít và tất cả quân binh theo vua đã lên đường qua sông Gio-đan. Khi trời sáng, mọi người đã qua sông, không sót một ai.

23 A-khi-thô-phen thấy người ta không làm theo lời bàn của mình thì thắng lừa, lên đường đi về nhà, trong thành mình. Y thu xếp việc nhà, rồi thắt cổ tự tử. Y được chôn cất trong phần mộ của cha y.

Áp-sa-lôm qua sông Gio-đan. Vua Ða-vít tại Ma-kha-na-gim.

24 Vua Ða-vít đến Ma-kha-na-gim, trong khi Áp-sa-lôm và toàn thể người Ít-ra-en cùng với y qua sông Gio-đan. 25 Áp-sa-lôm đã đặt A-ma-xa chỉ huy quân đội thay ông Giô-áp. A-ma-xa là con trai một người đàn ông tên là Gít-ra, người Ít-ra-en; người này đã đi lại với bà A-vi-ga-gin là con gái ông Na-khát và là chị em với bà Xơ-ru-gia, mẹ ông Giô-áp. 26 Ít-ra-en và Áp-sa-lôm đóng trại ở đất Ga-la-át.

27 Khi vua Ða-vít đến Ma-kha-na-gim, thì ông Sô-vi con ông Na-khát, từ thành Ráp-ba của con cái Am-mon, ông Ma-khia con ông Am-mi-ên, từ Lô Ðơ-va, và ông Bác-di-lai người Ga-la-át, từ Rốc-lim, 28 đem giường, chậu, bát đĩa, lúa mì, lúa mạch, bột, gié lúa rang, đậu tằm, đậu nâu, 29 mật ong, sữa chua, chiên dê và bê sữa, đến dâng cho vua Ða-vít và dân ở với vua, vì họ nói: "Dân đói, mệt lả và khát trong sa mạc."

Chương 18

Phe Áp-sa-lôm bại trận

1 Vua Ða-vít duyệt đám quân binh theo ông và đặt những người chỉ huy một ngàn, chỉ huy một trăm quân, để điều khiển họ. 2 Vua Ða-vít sai quân binh đi: một phần ba giao cho ông Giô-áp, một phần ba giao cho ông A-vi-sai, là con bà Xơ-ru-gia và là em ông Giô-áp, một phần ba giao cho ông Ít-tai, người Gát. Vua nói với quân binh: "Ta sẽ đích thân ra trận với các ngươi.” 3 Nhưng quân binh nói: "Ngài không được ra trận; vì nếu chúng tôi chạy trốn, người ta sẽ không để tâm đến chúng tôi, nếu một nửa số chúng tôi chết, người ta sẽ không để tâm đến chúng tôi, còn ngài, ngài bằng mười ngàn người chúng tôi; vậy tốt hơn là ngài cứ ở trong thành mà tiếp viện chúng tôi. “ 4 Vua nói với họ: "Ta sẽ làm điều các ngươi coi là tốt." Vua đứng ở bên cửa thành, trong khi quân binh kéo ra từng đơn vị một trăm, một ngàn. 5 Vua ra lệnh cho ông Giô-áp, ông A-vi-sai và ông Ít-tai rằng: "Vì ta, hãy nhẹ tay với cậu Áp-sa-lôm!" Toàn thể quân binh nghe thấy vua ra lệnh cho tất cả các tướng về Áp-sa-lôm.

6 Quân binh ra ngoài đồng nghênh chiến với Ít-ra-en, và cuộc giao tranh xẩy ra trong rừng Ép-ra-im. 7 Tại đó, quân binh Ít-ra-en bị bề tôi vua Ða-vít đánh bại. Hôm ấy là một ngày đại bại: hai mươi ngàn người chết tại đó. 8 Cuộc giao tranh tản ra khắp xứ, và ngày hôm ấy quân binh chết vì rừng nhiều hơn là chết vì gươm.

Áp-sa-lôm chết

9 Áp-sa-lôm bị bề tôi vua Ða-vít bắt gặp. Áp-sa-lôm đang cưỡi con la đi vào dưới một cây vân hương lớn, cành lá chằng chịt. Ðầu y mắc vào cây vân hương và y bị treo giữa trời và đất, còn con la y cưỡi thì đi mất. 10 Một người trông thấy và báo tin cho ông Giô-áp: "Này, tôi thấy Áp-sa-lôm treo trên một cây vân hương.” 11 Ông Giô-áp nói với người đã báo tin cho ông: "Này, anh đã thấy, sao anh không hạ nó ngay tại chỗ? Như thế, hẳn ta đã phải cho anh ba lượng bạc và một cái thắt lưng rồi!” 12 Người kia nói với ông Giô-áp: "Giả như người ta cân ngay vào tay tôi ba trăm lượng bạc, tôi cũng không dám ra tay hại hoàng tử, vì chính tai chúng tôi đã nghe đức vua ra lệnh cho ông, ông A-vi-sai và ông Ít-tai rằng: "Dù là ai đi nữa, các người cũng phải giữ gìn cậu Áp-sa-lôm! 13 Cho dù tôi liều mạng làm điều thất trung ấy, thì cũng chẳng có gì giấu được đức vua, còn ông, ông sẽ đứng xa.” 14 Ông Giô-áp nói: "Tôi không mất thời giờ với anh như thế nữa", rồi ông cầm lấy ba cây thương trong tay, đâm vào tim Áp-sa-lôm, khi y vẫn còn sống, treo trên cây vân hương. 15 Rồi mười thanh niên, người hầu cận của ông Giô-áp, xúm lại đánh Áp-sa-lôm và giết y.

16 Ông Giô-áp cho thổi tù và, cùng lúc đó quân binh thôi không đuổi theo Ít-ra-en nữa, vì ông Giô-áp đã giữ quân binh lại. 17 Người ta đem Áp-sa-lôm quăng vào một cái hố lớn trong rừng, rồi chất một đống đá rất lớn lên trên. Toàn thể Ít-ra-en đã chạy trốn, ai nấy về lều mình.

18 Khi còn sống, Áp-sa-lôm đã khởi công dựng cho mình một tấm bia trong thung lũng Nhà Vua, vì y tự bảo: "Tôi không có con trai để lưu truyền tên tuổi." Y đã lấy tên mình mà đặt cho tấm bia ấy. Người ta còn gọi là "đài Áp-sa-lôm" cho đến ngày nay.

Vua Ða-vít được tin Áp-sa-lôm chết

19 A-khi-ma-át, con ông Xa-đốc, nói: "Xin cho phép tôi chạy đi báo tin mừng cho đức vua là Ðức Chúa đã phân xử để đức vua thoát khỏi tay các kẻ thù của đức vua.” 20 Ông Giô-áp nói với anh: "Hôm nay, anh sẽ không phải là người đem tin mừng. Hôm khác, anh sẽ đem tin mừng, nhưng hôm nay anh sẽ không đem tin mừng, vì lý do là hoàng tử đã chết.” 21 Ông Giô-áp bảo một người Cút: "Ði báo cho đức vua điều anh đã thấy." Người Cút sụp xuống lạy ông Giô-áp rồi chạy đi. 22 Một lần nữa, A-khi-ma-át, con ông Xa-đốc, lại nói với ông Giô-áp: "Ra sao thì ra! Xin cho phép tôi cũng chạy theo người Cút." Ông Giô-áp nói: "Chạy làm gì, con ơi? Ðem tin mừng đó chẳng lợi lộc gì cho con đâu!” 23 Anh nói: "Ra sao thì ra! Tôi cứ chạy đi!" Ông bảo: "Thì chạy đi!" A-khi-ma-át chạy theo con đường vùng sông Gio-đan và vượt qua người Cút.

24 Vua Ða-vít đang ngồi giữa hai cửa thành. Người lính canh đi tới sân thượng cửa thành, trên tường thành. Anh ngước mặt lên nhìn thì thấy một người đang chạy một mình. 25 Người lính canh kêu lên và báo tin cho vua. Vua nói: "Nếu nó chỉ có một mình, tức là nó có tin mừng để báo." Trong khi người này tiếp tục đi đến gần, 26 thì người lính canh thấy một người khác đang chạy. Anh gọi người giữ cửa và nói: "Kìa, một người nữa đang chạy một mình." Vua nói: "Cả người ấy cũng báo tin mừng.” 27 Người lính canh nói: "Tôi thấy kiểu chạy của người thứ nhất như kiểu chạy của anh A-khi-ma-át, con ông Xa-đốc." Vua nói: "Anh ta là một người tốt, anh đến để đem tin mừng, tin tốt đấy!"

28 A-khi-ma-át kêu lên và nói với vua: "Kính chúc bình an! " Rồi anh sấp mặt xuống đất lạy vua và nói: "Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa của ngài, đã nộp những kẻ giơ tay chống lại đức vua là chúa thượng của con!” 29 Vua hỏi: "Cậu Áp-sa-lôm có được bình an không?" A-khi-ma-át trả lời: "Con thấy có đông người xôn xao khi ông Giô-áp sai một tôi tớ đức vua và tôi tớ ngài đây, nhưng con không biết có chuyện gì.” 30 Vua nói: "Hãy lui ra một bên và đứng đó." Anh lui ra một bên và đứng chờ.

31 Bấy giờ người Cút đến. Người Cút nói: "Xin đức vua là chúa thượng tôi nghe tin mừng. Hôm nay Ðức Chúa đã phân xử để ngài thoát khỏi tay tất cả những kẻ đứng lên chống lại ngài.” 32 Ðức vua hỏi người Cút: "Cậu Áp-sa-lôm có được bình an không?" Người Cút trả lời: "Ước chi các kẻ thù của đức vua là chúa thượng tôi và mọi kẻ đứng lên chống lại ngài để làm hại ngài, đều phải chung một số phận như cậu ấy! "

Chương 19

Vua Ða-vít khóc con

1 Vua Ða-vít run rẩy, đi lên lầu trên cửa thành và khóc. Vua vừa đi vừa nói: "Áp-sa-lôm con ơi, con ơi, Áp-sa-lôm con ơi! Phải chi cha chết thay con! Áp-sa-lôm con ơi, con ơi!” 2 Người ta báo cho ông Giô-áp: "Kìa đức vua đang khóc, đang khóc thương Áp-sa-lôm!” 3 Hôm ấy, chiến thắng đã trở thành tang tóc cho toàn thể quân binh, vì hôm ấy, quân binh được nghe nói rằng: "Ðức vua buồn phiền vì mất con.” 4 Hôm ấy, quân binh lén lút vào thành như một đám quân binh lén lút về, xấu hổ vì đã trốn chạy trong khi giao chiến. 5 Còn vua thì che mặt và lớn tiếng kêu: "Áp-sa-lôm con ơi, Áp-sa-lôm con ơi, con ơi!"

6 Ông Giô-áp vào gặp vua trong nhà và nói: "Hôm nay ngài làm bẽ mặt tất cả bề tôi ngài, là những kẻ hôm nay đã cứu sống ngài, cứu sống các con trai con gái ngài, cứu sống các bà vợ và cứu sống các tỳ thiếp của ngài. 7 Ngài yêu những kẻ ghét ngài và ghét những kẻ yêu ngài. Vâng, hôm nay ngài đã cho thấy rằng tướng với binh chẳng là gì cả đối với ngài, vì hôm nay tôi biết, nếu Áp-sa-lôm còn sống và tất cả chúng tôi có chết hôm nay thì ngài cũng coi là đương nhiên. 8 Giờ đây, xin ngài đứng lên và ra uỷ lạo bề tôi ngài, vì tôi xin lấy Ðức Chúa mà thề: nếu ngài không ra, thì sẽ không còn ai ở lại với ngài đêm nay, và đối với ngài, đó sẽ là một tai hoạ lớn hơn mọi tai hoạ đã xảy đến cho ngài, từ lúc ngài còn trẻ cho đến bây giờ.” 9 Vua đứng lên và ra ngồi ở cửa thành. Người ta báo cho toàn thể quân binh rằng: "Kìa đức vua đang ngồi ở cửa thành", và toàn thể quân binh đến trước mặt vua.

Chuẩn bị đưa vua Ða-vít trở về

10 Trong tất cả các chi tộc Ít-ra-en, toàn dân tranh luận với nhau, họ nói: "Ðức vua đã giải thoát chúng ta khỏi bàn tay kẻ thù, người đã cứu chúng ta khỏi bàn tay người Phi-li-tinh, và bây giờ người đã phải trốn khỏi xứ để thoát Áp-sa-lôm. 11 Còn Áp-sa-lôm, người mà chúng ta đã xức dầu tôn lên làm vua chúng ta, thì đã tử trận. Bây giờ, sao anh em còn ngồi yên đó mà không đưa đức vua về?"

12 Vua Ða-vít sai người đi nói với các tư tế Xa-đốc và Ép-gia-tha rằng: "Các ngươi hãy nói với các kỳ mục Giu-đa rằng: "Tại sao anh em lại là những người cuối cùng để đưa đức vua về nhà người, trong khi điều mà toàn thể Ít-ra-en nói đã đến tai đức vua tại nhà người? 13 Anh em là những anh em của tôi, anh em là cốt nhục của tôi. Vậy tại sao anh em lại là những người cuối cùng để đưa đức vua về? 14 Các ngươi hãy nói với A-ma-xa: "Ngươi chẳng phải là cốt nhục của ta sao? Xin Thiên Chúa phạt ta thế này và còn thêm thế kia nữa, nếu ngươi không mãi mãi là tướng quân chỉ huy quân đội ta, thay cho Giô-áp!” 15 Vua làm cho mọi người Giu-đa, muôn người như một, phải xiêu lòng, và họ sai người đến nói với vua: "Xin ngài và toàn thể bề tôi trở về!"

Trên đường về. Sim-y đón vua Ða-vít.

16 Vậy vua trở về và tới sông Gio-đan. Người Giu-đa tới Ghin-gan để đón vua và đưa vua qua sông Gio-đan. 17 Sim-y, con ông Ghê-ra, người Ben-gia-min ở Ba-khu-rim, vội vàng xuống với người Giu-đa để đón vua Ða-vít. 18 Cùng với y có một ngàn người Ben-gia-min. Ông Xi-va, đầy tớ nhà Sa-un, và cùng với ông, mười lăm con trai và hai mươi đầy tớ, ào tới sông Gio-đan trước vua. 19 Họ đưa bè sang để đón hoàng gia qua và làm điều vua coi là tốt.

20 Y thưa với vua: "Xin chúa thượng đừng hạch tội tôi. Xin đừng nhớ đến tội tôi tớ ngài đã phạm ngày đức vua là chúa thượng tôi ra khỏi Giê-ru-sa-lem. Xin đức vua đừng để tâm đến. 21 Quả thật, tôi tớ ngài biết rằng mình đã phạm tội. Nhưng này, hôm nay tôi là người đầu tiên trong toàn thể nhà Giu-se đã tới đón đức vua là chúa thượng tôi."

22 Ông A-vi-sai, con bà Xơ-ru-gia, lên tiếng nói: "Có phải vì thế mà Sim-y, kẻ đã nguyền rủa đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong, không bị xử tử sao?” 23 Vua Ða-vít nói: "Chuyện của ta can gì đến các ngươi, hỡi các con bà Xơ-ru-gia, khiến hôm nay các ngươi trở nên người chống đối ta? Hôm nay mà lại có người trong Ít-ra-en bị xử tử sao? Ta chẳng biết rằng hôm nay ta là vua Ít-ra-en sao?” 24 Vua nói với Sim-y: "Ngươi sẽ không phải chết." Và vua đã thề với y.

Ông Mơ-phi-bô-sét

25 Ông Mơ-phi-bô-sét, con cháu vua Sa-un, xuống đón vua. Ông đã không cắt móng chân, không xén râu ria, không giặt áo, từ ngày vua đi cho đến ngày vua về bình an. 26 Vậy khi ông tới Giê-ru-sa-lem để đón vua, thì vua hỏi ông: "Tại sao ngươi đã không đi với ta, Mơ-phi-bô-sét?” 27 Ông trả lời: "Thưa đức vua là chúa thượng tôi, người đầy tớ của tôi đã đánh lừa tôi. Thật vậy, tôi tớ ngài đã tự bảo: "Ta sẽ thắng cho mình con lừa cái, ta sẽ cưỡi lừa và đi với đức vua", vì tôi tớ ngài bị què. 28 Nó đã vu khống tôi tớ ngài trước mặt đức vua là chúa thượng tôi. Nhưng đức vua là chúa thượng tôi khác nào sứ giả Thiên Chúa, xin ngài cứ làm điều ngài coi là tốt. 29 Thật vậy, đối với đức vua là chúa thượng tôi, tất cả nhà cha tôi chỉ toàn những người đáng chết; thế mà đức vua lại đặt tôi tớ ngài vào số những kẻ ăn tại bàn của ngài. Tôi còn quyền gì nữa? Tôi còn có thể kêu xin đức vua gì nữa?” 30 Vua bảo ông: "Ngươi còn nói những chuyện ấy làm gì nữa? Ta bảo: ngươi và Xi-va, các ngươi hãy chia đất với nhau.” 31 Ông Mơ-phi-bô-sét nói với vua: "Nó cứ lấy cả đi, vì nay đức vua là chúa thượng tôi đã trở về nhà bình an."

Ông Bác-di-lai

32 Ông Bác-di-lai, người Ga-la-át, đã từ Rốc-lim xuống. Ông đã qua sông Gio-đan với vua, để tiễn vua gần sông Gio-đan. 33 Ông Bác-di-lai bấy giờ đã già lắm, ông được tám mươi tuổi. Chính ông đã cấp dưỡng cho vua, khi vua ở Ma-kha-na-gim, vì ông là người rất giàu. 34 Vua nói với ông Bác-di-lai: "Ông hãy đi tiếp với ta, ta sẽ đưa ông về ở với ta tại Giê-ru-sa-lem và sẽ cấp dưỡng cho ông.” 35 Ông Bác-di-lai trả lời vua: "Tôi còn sống được bao nhiêu năm nữa, để lên Giê-ru-sa-lem cùng với đức vua? 36 Hôm nay, tôi đã tám mươi tuổi rồi. Tôi còn phân biệt được tốt xấu nữa không? Tôi tớ ngài còn thưởng thức được của ăn thức uống nữa không? Tôi còn nghe được giọng hát của các nam ca sĩ với nữ ca sĩ nữa không? Tôi tớ ngài còn trở nên gánh nặng cho đức vua là chúa thượng tôi làm gì nữa? 37 Tôi tớ ngài sẽ chỉ đi với đức vua mấy bước qua sông Gio-đan. Ðức vua ban cho tôi phần thưởng đó làm gì? 38 Xin cho phép tôi tớ ngài trở về, để được chết trong thành của tôi bên phần mộ cha mẹ tôi. Ðây có tôi tớ ngài là Kim-ham. Xin cho nó đi tiếp với đức vua là chúa thượng tôi, ngài cứ làm cho nó điều ngài coi là tốt.” 39 Vua nói: "Kim-ham sẽ đi tiếp với ta. Ta sẽ làm cho nó điều ông coi là tốt, và tất cả những gì ông muốn xin ta, ta sẽ làm cho ông.” 40 Toàn dân qua sông Gio-đan, và vua cũng qua. Vua hôn ông Bác-di-lai và chúc phúc cho ông, rồi ông trở về nhà.

Giu-đa và Ít-ra-en tranh nhau đón vua

41 Vua đi tiếp tới Ghin-gan và Kim-ham đi tiếp với vua. Toàn dân Giu-đa cũng như một nửa dân Ít-ra-en đã đưa vua đi qua. 42 Mọi người Ít-ra-en đến gặp vua và nói với vua: "Tại sao anh em chúng tôi, những người Giu-đa, đã bắt cóc và đưa đức vua cùng với hoàng gia và mọi người phò Ða-vít qua sông Gio-đan?” 43 Mọi người Giu-đa trả lời người Ít-ra-en: "Vì đức vua là bà con gần với tôi. Sao anh lại tức giận vì điều ấy? Chúng tôi đâu có ăn bám đức vua, hoặc được người mang đến cho cái gì?” 44 Người Ít-ra-en trả lời người Giu-đa rằng: "Tôi có quyền trên đức vua gấp mười lần, ngay cả trên vua Ða-vít, tôi cũng có quyền hơn anh. Sao anh lại khinh tôi? Tôi chẳng phải là người đầu tiên nói đến chuyện đưa đức vua của tôi về sao?" Nhưng lời lẽ của người Giu-đa thì cứng cỏi hơn lời lẽ của người Ít-ra-en.

Chương 20

Se-va làm loạn

1 Tình cờ ở đó có một đứa vô lại tên là Se-va, con của Bích-ri, người Ben-gia-min. Y thổi tù và và nói:

"Chúng ta không chung phần với Ða-vít, chúng ta chẳng chung gia tài với con của Gie-sê. Hỡi Ít-ra-en, ai nấy về lều mình!"

2 Mọi người Ít-ra-en bỏ vua Ða-vít mà lên theo Se-va, con của Bích-ri. Nhưng người Giu-đa thì theo sát vua của họ, từ sông Gio-đan tới Giê-ru-sa-lem.

3 Vua Ða-vít về nhà tại Giê-ru-sa-lem. Vua bắt mười người tỳ thiếp mà vua đã để lại giữ nhà, và cho họ vào một nhà có người canh giữ. Vua cấp dưỡng cho họ nhưng không đi lại với họ. Họ bị giam cho tới ngày chết, goá bụa khi chồng vẫn sống.

Ông A-ma-xa bị giết

4 Vua bảo ông A-ma-xa: "Trong vòng ba ngày, ngươi hãy triệu tập các người Giu-đa lại cho ta, rồi ngươi hãy có mặt ở đây.” 5 Ông A-ma-xa đi triệu tập Giu-đa, nhưng ông đã chậm trễ quá hạn vua ấn định. 6 Vua Ða-vít nói với ông A-vi-sai: "Bây giờ, Se-va, con của Bích-ri, sẽ làm hại chúng ta hơn Áp-sa-lôm. Phần ngươi, hãy đem các bề tôi của chúa thượng ngươi mà đuổi theo nó, kẻo nó tìm được những thành kiên cố và thoát khỏi tầm mắt chúng ta.” 7 Theo ông ra trận, có người của ông Giô-áp, quân Cơ-rê-thi, quân Pơ-lê-thi và toàn thể các dũng sĩ. Họ từ Giê-ru-sa-lem đi ra để đuổi theo Se-va, con của Bích-ri. 8 Khi họ ở gần tảng đá lớn tại Ghíp-ôn, thì ông A-ma-xa đến trước mặt họ. Ông Giô-áp mặc quân phục, trên có một thắt lưng với một thanh gươm để trong bao đeo ngang lưng. Khi ông bước ra thì gươm rơi xuống. 9 Ông Giô-áp nói với ông A-ma-xa: "Thưa anh, anh có được bình an không?" Rồi ông Giô-áp đưa tay phải cầm lấy râu ông A-ma-xa mà hôn. 10 Ông A-ma-xa không để ý đến thanh gươm ở trong tay ông Giô-áp. Ông này dùng gươm đâm vào bụng ông A-ma-xa, khiến ruột gan lòi ra rơi xuống đất. Ông không cần đâm nhát thứ hai mà ông A-ma-xa cũng chết. Rồi ông Giô-áp và anh ông là A-vi-sai đuổi theo Se-va, con của Bích-ri.

11 Một người trong các đầy tớ ông Giô-áp đứng bên ông A-ma-xa và nói: "Ai thích ông Giô-áp, ai phò vua Ða-vít, hãy theo ông Giô-áp!” 12 Ông A-ma-xa nằm giữa đường cái, mình bê bết máu, và người kia thấy dân ai cũng đứng lại. Anh lôi ông A-ma-xa từ đường cái xuống cánh đồng và phủ một cái áo lên trên, vì anh thấy ai đến bên ông cũng đứng lại. 13 Khi anh đã đem ông ra khỏi đường cái, thì ai nấy đều đi qua luôn theo ông Giô-áp, để đuổi bắt Se-va, con của Bích-ri.

Cuộc nổi loạn chấm dứt

14 Y đi qua tất cả các chi tộc Ít-ra-en cho đến A-vên Bết Ma-a-kha. Mọi người Bê-rim tụ tập lại và cũng theo y vào thành. 15 Người ta đến vây hãm y trong thành A-vên Bết Ma-a-kha. Họ đắp luỹ đánh thành, luỹ đó dựa vào tường ngoài. Tất cả quân binh theo ông Giô-áp đang tìm cách phá sập tường thành, 16 thì một người đàn bà khôn lanh từ trong thành gọi ra: "Nghe đây, nghe đây! Xin nói với ông Giô-áp: Mời ông đến gần đây. Tôi muốn nói với ông.” 17 Ông Giô-áp đến gần chỗ bà. Người đàn bà hỏi: "Có phải ông là ông Giô-áp không?" Ông đáp: "Tôi đây." Bà nói với ông: "Xin nghe những lời của nữ tỳ ông." Ông nói: "Tôi nghe đây.” 18 Bà nói rằng: "Người xưa quen nói: "Cứ đến A-vên mà thỉnh ý, và như vậy là xong việc. 19 Chúng tôi thuộc số những người hiền hoà và trung tín nhất tại Ít-ra-en. Còn ông, ông lại tìm cách giết hại một thành, một thành mẹ tại Ít-ra-en. Sao ông muốn tiêu diệt cơ nghiệp của Ðức Chúa?” 20 Ông Giô-áp trả lời rằng: "Không đời nào! Không đời nào tôi muốn tiêu diệt hay phá huỷ! 21 Không phải vậy đâu! Nhưng một người từ miền núi Ép-ra-im, tên là Se-va, con của Bích-ri, đã giơ tay chống lại vua Ða-vít. Các người hãy nộp nó, một mình nó thôi, thì tôi sẽ rút đi không vây thành nữa." Người đàn bà nói với ông Giô-áp: "Ðây, đầu nó sẽ được ném qua tường thành xuống cho ông.” 22 Với sự khôn ngoan của mình, người đàn bà đến gặp toàn dân. Người ta chặt đầu Se-va, con của Bích-ri, và ném xuống cho ông Giô-áp. Ông cho thổi tù và, rồi họ bỏ thành mà phân tán đi, ai nấy về lều mình, còn ông Giô-áp thì về Giê-ru-sa-lem với vua.

Các quan trong triều vua Ða-vít (2 Sm 8:16 -18)

23 Ông Giô-áp chỉ huy toàn thể quân đội Ít-ra-en. Ông Bơ-na-gia, con ông Giơ-hô-gia-đa, chỉ huy quân Cơ-rê-thi và quân Pơ-lê-thi. 24 Ông A-đô-ram phụ trách việc lao dịch. Ông Giơ-hô-sa-phát, con ông A-khi-lút, làm quốc vụ khanh. 25 Ông Sơ-va làm ký lục. Ông Xa-đốc và ông Ép-gia-tha làm tư tế. 26 Cả ông I-ra, người Gia-ia, cũng là tư tế của vua Ða-vít.

Chương 21

V. Phụ Lục

Nạn đói. Dòng dõi vua Sa-un bị xử tử.

1 Vào thời vua Ða-vít, xảy ra một nạn đói kéo dài ba năm. Vua tìm kiếm thánh nhan Ðức Chúa và Ðức Chúa phán: "Tại Sa-un và nhà của nó có nợ máu, vì nó đã xử tử người thành Ghíp-ôn.” 2 Vua triệu tập người Ghíp-ôn đến và nói với họ. - Người Ghíp-ôn không phải là con cái Ít-ra-en, nhưng thuộc số người E-mô-ri còn sót lại. Con cái Ít-ra-en đã có lời thề với họ, nhưng vua Sa-un, vì lòng nhiệt thành với con cái Ít-ra-en và Giu-đa, đã tìm cách đánh giết họ. - 3 Vua Ða-vít nói với người Ghíp-ôn: "Ta phải làm gì cho các ngươi, và phải lấy gì làm lễ xá tội, để các ngươi chúc phúc cho cơ nghiệp của Ðức Chúa?” 4 Người Ghíp-ôn nói với vua Ða-vít: "Giữa chúng tôi với vua Sa-un và nhà của vua ấy, không có chuyện bạc vàng. Cũng chẳng có chuyện chúng tôi muốn giết chết ai trong Ít-ra-en." Vua nói: "Các ngươi nói gì, ta sẽ làm như vậy cho các ngươi.” 5 Họ thưa với vua: "Con người đã tận diệt chúng tôi và định huỷ diệt chúng tôi, để chúng tôi không còn tồn tại trên lãnh thổ Ít-ra-en, 6 thì xin người ta nộp cho chúng tôi bảy người trong số con cháu của người ấy, và chúng tôi sẽ treo chúng trước mặt Ðức Chúa tại Ghíp-a thành của vua Sa-un, là người Ðức Chúa tuyển chọn." Vua nói: "Ta sẽ nộp.” 7 Vua tha chết cho ông Mơ-phi-bô-sét, con ông Giô-na-than là con vua Sa-un, vì giữa hai người, nghĩa là giữa vua Ða-vít và ông Giô-na-than, con vua Sa-un, có lời thề trước mặt Ðức Chúa. 8 Vua bắt Ác-mô-ni và Mơ-phi-bô-sét là hai người con trai mà bà Rít-pa, con gái ông Ai-gia, đã sinh cho vua Sa-un, và bắt năm người con trai của bà Mi-khan, con gái vua Sa-un, đã sinh cho ông Át-ri-ên, con ông Bác-di-lai người Mơ-khô-la. 9 Vua nộp chúng vào tay người Ghíp-ôn, và họ treo chúng trên núi, trước nhan Ðức Chúa. Chúng đã mất mạng, cả bảy người một trật. Chúng đã bị xử tử vào những ngày đầu mùa gặt, khi người ta khởi sự gặt lúa mạch.

10 Bà Rít-pa, con gái ông Ai-gia, lấy tấm vải thô và trải ra trên tảng đá, từ đầu mùa gặt cho đến khi mưa từ trời trút xuống trên chúng. Bà không để cho chim trời đậu xuống trên chúng ban ngày hay dã thú đụng tới chúng ban đêm. 11 Người ta báo cho vua Ða-vít biết hành động của bà Rít-pa, con gái ông Ai-gia, tỳ thiếp của vua Sa-un. 12 Vua Ða-vít đến lấy hài cốt vua Sa-un và hài cốt ông Giô-na-than, con vua ấy, từ tay các thân hào thành Gia-vết miền Ga-la-át. Các người này đã lấy trộm xác hai cha con vua, từ quảng trường Bết San, nơi người Phi-li-tinh đã treo hai cha con, vào ngày người Phi-li-tinh hạ vua Sa-un ở Ghin-bô-a. 13 Vua đưa hài cốt vua Sa-un và hài cốt ông Giô-na-than, con vua ấy, từ đó lên. Người ta cũng thu hài cốt của những người đã bị treo 14 và mai táng cùng với hài cốt của vua Sa-un và của ông Giô-na-than, con vua ấy, ở đất Ben-gia-min, tại Xê-la, trong phần mộ ông Kít, cha của vua ấy. Người ta đã làm mọi điều vua truyền. Sau đó, Thiên Chúa đã thương đến xứ sở.

Các anh hùng trong cuộc chiến chống người Phi-li-tinh (1 Sb 20:4-8)

15 Lại có giao tranh giữa người Phi-li-tinh và Ít-ra-en. Vua Ða-vít cùng với bề tôi xuống chiến đấu với người Phi-li-tinh. Vua Ða-vít đã mệt mỏi. 16 Có tên Gít-bi Bơ-nốp, một người con cháu Ra-pha; cây giáo đồng của nó cân nặng ba ký, nó trang bị toàn đồ mới và nói tới chuyện hạ vua Ða-vít. 17 Nhưng ông A-vi-sai, con bà Xơ-ru-gia, đã đến giúp vua. Ông đâm tên Phi-li-tinh và giết nó. Bấy giờ người của vua Ða-vít thề mà nói với vua: "Ngài sẽ không ra trận với chúng tôi nữa, kẻo ngài dập tắt ngọn đèn của Ít-ra-en."

18 Sau đó lại có giao tranh ở Gốp với người Phi-li-tinh. Bấy giờ ông Xíp-bơ-khai, người Khu-sa, hạ tên Xáp, con cháu Ra-pha.

19 Lại có giao tranh ở Gốp với người Phi-li-tinh. Ông En-kha-nan, con ông Gia-rê O-ghim, người Bê-lem, hạ tên Go-li-át, người Gát; cán giáo của nó như trục khung cửi thợ dệt.

20 Lại có giao tranh ở Gát. Có một người cao lớn, tay chân đều có sáu ngón, vị chi hai mươi bốn ngón; nó cũng là con cháu Ra-pha. 21 Nó thách Ít-ra-en, và ông Giơ-hô-na-than, con ông Sim-a là anh vua Ða-vít, đã hạ nó.

22 Bốn tên ấy là con cháu Ra-pha, ở Gát, và chúng đã ngã gục do tay vua Ða-vít và do tay bề tôi của vua.

Chương 22

Thánh vịnh của vua Ða-vít (Thi 18:1-50)

1 Vua Ða-vít dâng lên Ðức Chúa những lời của bài ca này, vào ngày Ðức Chúa đã giải thoát vua khỏi bàn tay mọi kẻ thù của vua và khỏi bàn tay vua Sa-un. 2 Vua nói:

"Lạy Ðức Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Ðấng giải thoát con;

3 Lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn,

là khiên mộc, là Ðấng cứu độ quyền năng,

là thành trì bảo vệ, là chốn con nương mình,

là Ðấng cứu độ con, Ngài cứu con khỏi quân tàn bạo.

4 Tôi kêu cầu Ðức Chúa, là Ðấng xứng muôn lời ngợi khen,

và tôi được cứu thoát khỏi quân thù.

5 Sóng tử thần dồn dập chung quanh,

thác diệt vong làm tôi kinh hãi,

6 màng lưới âm ty bủa vây tứ phía,

bẫy tử thần ập xuống trên tôi.

7 Lúc ngặt nghèo tôi kêu cầu Ðức Chúa,

kêu cầu Người là Thiên Chúa của tôi.

Từ thánh điện, Người nghe tiếng tôi cầu cứu,

lời tôi khẩn nguyện vọng đến tai Người.

8 Trái đất bỗng ầm ầm rung chuyển,

nền móng các tầng trời chấn động lung lay, vì Chúa nổi lôi đình.

9 Từ thánh nhan Người, khói bốc lửa thiêu,

và than hồng tung toé.

10 Chúa nghiêng trời ngự xuống, chân đạp lớp mây mù,

11 ngự trên thần hộ giá, Người bay

và xuất hiện trên cánh gió.

12 Chúa dùng bóng tối chung quanh,

dùng khối nước tụ và mây đen nghịt, để làm trướng che Người.

13 Từ chớp loé đi trước mặt Chúa, than hồng cháy bừng lên.

14 Ðức Chúa nổi sấm từ trời, Ðấng Tối Cao lớn tiếng.

15 Người bắn tên, khiến địch thù tán loạn,

phóng chớp ra làm chúng phải tan tành.

16 Lòng đại dương xuất hiện, thềm lục địa phơi trần,

khi thấy Ðức Chúa doạ nạt ngăm đe và bừng bừng nổi giận.

17 Từ chốn cao vời, Chúa đưa tay nắm lấy,

vớt tôi lên khỏi nước lũ mênh mông,

18 cứu tôi thoát đối phương tàn bạo, và kẻ thù mạnh thế hơn tôi.

19 Chúng tấn công tôi ngày tôi lâm nạn,

nhưng Ðức Chúa thương bênh đỡ phù trì,

20 Người kéo tôi ra chỗ thảnh thơi,

vì yêu thương tôi nên Người giải thoát.

21 Ðức Chúa xử tốt với tôi bởi tôi sống ngay lành,

Người ban thưởng cho tôi vì tay tôi trong sạch.

22 Chính bởi tôi đã theo đường lối Ðức Chúa,

không lỗi đạo cùng Thiên Chúa tôi thờ.

23 Mọi quyết định của Người luôn ở trước mặt tôi,

thánh chỉ Người truyền, tôi không lìa bỏ.

24 Trước mặt Chúa, tôi là kẻ thập toàn, và tránh xa tội lỗi.

25 Ðức Chúa thưởng cho tôi bởi tôi sống ngay lành,

và vì tôi trong sạch như mắt người đã thấy.

26 Lạy Chúa, Ngài tín trung với kẻ tín trung,

xử tuyệt hảo với người tuyệt hảo.

27 Ngài ở liêm khiết cùng người liêm khiết,

nhưng dùng mưu mẹo với kẻ gian ngoan.

28 Vì Chúa cứu độ dân nghèo hèn,

quắc mắt nhìn xuống kẻ tự cao.

29 Vâng, Ngài là ngọn đèn của con, lạy Ðức Chúa,

Ðức Chúa soi chiếu vào đời con tăm tối mịt mù.

30 Cậy sức Ngài, con tấn công bọn giặc,

nhờ ơn Ngài là Thiên Chúa của con,

con vượt thành vượt luỹ.

31 Ðường lối Thiên Chúa quả là toàn thiện,

lời Ðức Chúa hứa được chứng nghiệm tỏ tường.

Chính Người là khiên che thuẫn đỡ

cho những ai ẩn náu bên Người.

32 Ngoài Ðức Chúa, hỏi ai là Thiên Chúa?

Ai là núi đá độ trì, ngoài Thiên Chúa của ta?

33 Chính Thiên Chúa là nơi trú ẩn vững chắc của tôi,

mở ra cho tôi đường lối thiện toàn.

34 Chúa cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân nai,

Người đặt tôi đứng vững trên đỉnh núi,

35 tập cho tôi thạo phép binh đao,

luyện đôi tay rành nghề cung nỏ.

36 Lạy Chúa, Ngài ban ơn cứu độ làm khiên mộc chở che con,

săn sóc ân cần giúp con lớn mạnh.

37 Ðường con đi, Chúa mở rộng thênh thang,

chân con bước không bao giờ lảo đảo.

38 Con đuổi theo, huỷ diệt quân thù,

chỉ trở về khi chúng bị dẹp tan;

39 con dẹp tan chúng, đánh cho quỵ, không sao dậy nữa,

chúng ngã gục, nằm dưới chân con.

40 Chúa làm cho con nên hùng dũng để xông ra chiến trường,

Ngài cho con đè bẹp đối phương.

41 Ngài bắt cừu địch con quay lưng chạy trốn;

con tiêu diệt những kẻ oán thù con.

42 Chúng kêu cứu mà không ai cứu chữa,

kêu lên Ðức Chúa, nhưng Chúa chẳng đáp lời.

43 Con nghiền tan chúng như bụi đất,

giẫm nát, chà đạp chúng như bùn ở ngoài đường.

44 Dân của con phản loạn, Ngài cứu con thoát khỏi,

vẫn giữ con làm đầu các nước;

dân xa lạ phải thần phục con,

45 người nước ngoài cầu thân nịnh bợ,

vừa nghe con ra lệnh, chúng đã tuân hành;

46 người nước ngoài tiêu tan nhuệ khí,

từ trong đồn luỹ, run rẩy kéo nhau ra.

47 Ðức Chúa vạn vạn tuế!

Chúc tụng Người là núi đá cho tôi trú ẩn.

Tôn vinh Thiên Chúa là núi đá độ trì tôi,

48 là Thượng đế giúp tôi rửa sạch hận thù,

đặt chư dân ở dưới quyền tôi.

49 Lạy Chúa, Ngài gỡ con ra khỏi tay thù địch,

cho thắng cả đối phương, cứu khỏi người tàn bạo.

50 Vì thế giữa muôn dân, con cảm tạ Ngài, lạy Ðức Chúa,

dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa.

51 Chúa ban nhiều chiến thắng lớn lao

cho Ðức Vua chính Người đã lập.

Chúa hằng ưu ái Ðấng Người đã xức dầu tấn phong,

là Ða-vít cùng dòng dõi đến muôn đời."

Chương 23

Những lời cuối cùng của vua Ða-vít

1 Ðây là những lời cuối cùng của vua Ða-vít:

"Sấm ngôn của vua Ða-vít, con ông Gie-sê,

sấm ngôn của người được đặt lên cao,

của người được Thiên Chúa nhà Gia-cóp xức dầu tấn phong,

của người ca sĩ được Ít-ra-en ái mộ.

2 Thần khí Ðức Chúa dùng tôi mà phán,

lời Người ở trên lưỡi tôi.

3 Thiên Chúa của Ít-ra-en đã nói,

Núi Ðá của Ít-ra-en đã phán cùng tôi:

Ai cai trị con người với đức công minh,

ai cai trị với lòng kính sợ Thiên Chúa,

4 thì khác nào ánh ban mai lúc mặt trời mọc,

một buổi sáng không mây,

ánh sáng chói loà sau cơn mưa,

làm cỏ xanh mọc lên từ lòng đất.

5 Nhà Ða-vít bên Thiên Chúa chẳng như thế sao,

vì Người đã lập với tôi một giao ước vĩnh cửu,

được sắp đặt chi li và được duy trì?

Mọi chiến thắng của tôi và mọi ước vọng,

Người chẳng làm cho nẩy mầm đó sao?

6 Nhưng phường vô lại đều như gai bị vứt bỏ:

người ta chẳng bắt chúng bằng tay.

7 Người nào đụng đến chúng,

phải mang sắt và cán giáo nơi mình,

chúng sẽ bị quăng vào lửa mà thiêu rụi tại chỗ."

Các dũng sĩ của vua Ða-vít (1 Sb 11:10-41)

8 Ðây là tên các dũng sĩ của vua Ða-vít: ông Ít-bô-sét, một người Tác-cơ-môn, đứng đầu Bộ Ba; chính ông đã vung giáo đâm chết tám trăm người cùng một lúc. 9 Kế đến là ông E-la-da, con ông Ðô-đô, con một người A-khô-ác. Ông ở trong số ba dũng sĩ đi theo vua Ða-vít khi họ thách người Phi-li-tinh, lúc chúng tập trung tại đó để giao chiến. Người Ít-ra-en đã rút đi, 10 nhưng ông đứng vững và chém giết người Phi-li-tinh, cho đến khi bàn tay ông mệt mỏi dính chặt vào gươm. Và ngày đó Ðức Chúa đã thắng lớn. Quân binh trở lại phía sau ông, nhưng chỉ là để lột các xác chết. 11 Sau ông là ông Sam-ma, con ông A-ghê, người Ha-ra. Người Phi-li-tinh đã tập trung thành một đạo quân. Ở đó có một thửa đất trồng toàn đậu nâu. Quân binh đã chạy trốn người Phi-li-tinh, 12 nhưng ông đứng giữa thửa đất, đuổi người Phi-li-tinh ra khỏi đó, và đánh bại chúng. Ðức Chúa đã thắng lớn.

13 Ba người trong Nhóm Ba Mươi làm thành một tốp đi xuống và đến gặp vua Ða-vít ở hang A-đu-lam, vào mùa gặt. Một đạo quân Phi-li-tinh đóng trại ở thung lũng người Ra-pha. 14 Vua Ða-vít bấy giờ đang ở nơi ẩn náu, còn người Phi-li-tinh bấy giờ đóng đồn ở Bê-lem. 15 Vua Ða-vít ước ao và nói: "Phải chi có ai cho ta uống nước lấy ở giếng tại cổng thành Bê-lem!” 16 Ba dũng sĩ đã đột nhập trại Phi-li-tinh, lấy nước ở giếng tại cổng thành Bê-lem, đưa về cho vua Ða-vít. Nhưng vua không muốn uống mà đổ nước ấy làm lễ rưới dâng Ðức Chúa. 17 Vua nói: "Xin Ðức Chúa đừng để ta làm điều ấy! Ðó là máu của những người đã liều mạng đi lấy!" Vậy vua không muốn uống nước. Ðó là việc ba dũng sĩ đã làm.

18 Ông A-vi-sai, em ông Giô-áp, con bà Xơ-ru-gia, là người chỉ huy Nhóm Ba Mươi. Chính ông đã vung giáo đâm chết ba trăm người, và được nổi danh trong Nhóm Ba Mươi. 19 Ông được vinh dự nhất trong Nhóm Ba Mươi, nên ông được đứng đầu, nhưng không được vào Bộ Ba.

20 Ông Bơ-na-gia-hu, con ông Giơ-hô-gia-đa, con một người dũng cảm, nhiều thành tích, xuất thân từ Cáp-xơ-ên. Chính ông đã hạ sát hai anh hùng Mô-áp. Chính ông đã xuống đập chết con sư tử ở trong giếng vào một ngày có tuyết. 21 Chính ông đã hạ một tên Ai-cập tướng mạo khác thường. Tên Ai-cập cầm giáo trong tay. Ông xuống đánh nó với một cây gậy, cướp giáo khỏi tay tên Ai-cập và lấy giáo của nó mà giết nó. 22 Ðó là những việc ông Bơ-na-gia-hu, con ông Giơ-hô-gia-đa đã làm, và ông được nổi danh trong Nhóm Ba Mươi dũng sĩ. 23 Ông được vinh dự nhất trong Nhóm Ba Mươi, nhưng không được vào Bộ Ba. Vua Ða-vít đặt ông vào số cận vệ của vua.

24 A-xa-hên, em của Giô-áp, ở trong Nhóm Ba Mươi, En-kha-nan, con của Ðô-đô, người Bê-lem, 25 Sam-ma, người Kha-rốt, Ê-li-ca, người Kha-rốt, 26 Khe-lét, người Pan-ti, I-ra, con của Ích-kết, người Tơ-cô-a, 27 A-vi-e-de, người A-na-thốt, Mơ-vun-nai, người Khu-sa, 28 Xan-môn, người A-khô-khi, Ma-rai, người Nơ-tô-pha, 29 Khê-lép, con của Ba-a-na, người Nơ-tô-pha, Ít-tai, con của Ri-vai, quê ở Ghíp-a thuộc con cái Ben-gia-min, 30 Bơ-na-gia-hu, người Pia-a-thôn, Hít-đai, quê ở khe núi Ga-át, 31 A-vi An-vôn, người A-ra-va, Át-ma-vét, người Bác-khum, 32 En-giác-ba, người Sa-an-vôn, các con của Gia-sên: Giơ-hô-na-than, 33 Sam-ma, người Ha-ra, A-khi-am, con của Sa-ra, người A-ra-ri, 34 Ê-li-phe-lét, con của A-khát-bai, người Ma-a-kha, Ê-li-am, con của A-khi-thô-phen, người Ghi-lô, 35 Khét-rai, người Các-men, Pa-a-rai, người A-ráp, 36 Gích-an, con của Na-than, quê Xô-va, Ba-ni, người Gát, 37 Xe-léc, người Am-mon, Nác-rai, người Bơ-ê-rốt, người hầu cận của Giô-áp là con bà Xơ-ru-gia, 38 I-ra, người Gít-ri, Ga-rếp, người Gít-ri, 39 U-ri-gia, người Khết. Tất cả là ba mươi bảy.

Chương 24

Cuộc điều tra dân số (1 Sb 21:1-6)

1 Ðức Chúa lại nổi giận với Ít-ra-en, và Người xúi giục vua Ða-vít gây hoạ cho họ. Người phán: "Hãy đi đếm dân Ít-ra-en và người Giu-đa.” 2 Vua bảo ông Giô-áp, tướng chỉ huy quân lực, đang ở với vua: "Hãy rảo khắp các chi tộc Ít-ra-en, từ Ðan tới Bơ-e Se-va, và điều tra nhân khẩu để ta biết dân số.” 3 Ông Giô-áp thưa với vua: "Ước chi Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngài, làm cho dân tăng lên gấp trăm lần con số hiện nay, và ước chi chính mắt của đức vua là chúa thượng tôi được thấy! Nhưng tại sao đức vua là chúa thượng tôi lại muốn điều ấy?” 4 Tuy nhiên, lời vua buộc ông Giô-áp và các tướng chỉ huy quân lực; ông Giô-áp và các tướng chỉ huy quân lực đang ở trước mặt vua đã ra đi điều tra dân số Ít-ra-en.

5 Họ đi qua sông Gio-đan và đóng trại ở A-rô-e, ở phía nam của thành nằm giữa thung lũng Gát, rồi đi về phía Gia-de. 6 Họ đến miền Ga-la-át và Vùng đất thấp ở Khót-si, rồi đến Ðan Gia-an và vòng về Xi-đôn. 7 Họ đến Tia, một thành luỹ kiên cố, và mọi thành của người Khi-vi và của người Ca-na-an, rồi họ ra vùng Ne-ghép của Giu-đa, tại Bơ-e Se-va. 8 Họ đã rảo qua khắp xứ, và sau chín tháng hai mươi ngày, họ về Giê-ru-sa-lem. 9 Ông Giô-áp nộp cho vua con số của cuộc điều tra dân số: Ít-ra-en có tám trăm ngàn chiến binh biết tuốt gươm, và Giu-đa có năm trăm ngàn.

Bệnh dịch. Thiên Chúa tha thứ. (1 Sb 21:7-17)

10 Vua Ða-vít áy náy trong lòng sau khi đã kiểm tra dân số như vậy. Vua Ða-vít thưa cùng Ðức Chúa: "Con đã phạm tội nặng khi làm như thế. Giờ đây, lạy Ðức Chúa, xin bỏ qua lỗi lầm của tôi tớ Ngài, vì con đã hành động rất ngu xuẩn.” 11 Sáng hôm sau, khi vua Ða-vít dậy, đã có lời Ðức Chúa phán với ngôn sứ Gát, thầy chiêm của vua Ða-vít, rằng: 12 "Hãy đi nói với Ða-vít: Ðức Chúa phán thế này: "Ta đưa ra cho ngươi ba điều. Ngươi hãy chọn lấy một trong ba, và Ta sẽ thực hiện cho ngươi.” 13 Vậy ông Gát đến gặp vua Ða-vít, báo cho vua và nói: "Ngài muốn điều gì xảy ra: hoặc bảy năm đói trong toàn nước ngài, hoặc ba tháng chạy trốn trước mặt kẻ thù đuổi theo ngài, hoặc ba ngày ôn dịch? Bây giờ xin ngài suy nghĩ xem tôi phải trả lời thế nào cho Ðấng đã sai tôi.” 14 Vua Ða-vít nói với ông Gát: "Tôi lâm vào cảnh rất ngặt nghèo. Thà chúng ta sa vào tay Ðức Chúa còn hơn, vì lòng thương của Người bao la, nhưng ước chi tôi đừng sa vào tay người phàm!"

15 Ðức Chúa giáng ôn dịch xuống Ít-ra-en từ sáng hôm đó cho đến lúc đã định, và từ Ðan tới Bơ-e Se-va, có bảy mươi ngàn người trong dân đã chết. 16 Thiên sứ đưa tay về phía Giê-ru-sa-lem để tàn phá thành, nhưng Ðức Chúa hối tiếc vì tai hoạ đó, và Người bảo thiên sứ có nhiệm vụ tiêu diệt dân: "Ðủ rồi! Bây giờ rút tay lại." Thiên sứ của Ðức Chúa đang ở gần sân lúa của ông A-rau-na, người Giơ-vút. 17 Vua Ða-vít thưa với Ðức Chúa, khi thấy thiên sứ có nhiệm vụ đánh phạt dân, ông nói: "Ngài coi, chính con đã phạm tội, chính con có lỗi; nhưng đàn chiên đó đã làm gì? Xin tay Ngài cứ đè trên con và nhà cha con!"

Vua Ða-vít dựng bàn thờ (1 Sb 21:18 -27)

18 Ngày hôm đó, ông Gát đến gặp vua Ða-vít và nói với vua: "Xin ngài lên dựng một bàn thờ để kính Ðức Chúa tại sân lúa của ông A-rau-na, người Giơ-vút.” 19 Vua Ða-vít đi lên theo lời ông Gát, như Ðức Chúa đã truyền. 20 Ông A-rau-na nhìn xuống, thấy vua và bề tôi đang đi qua phía mình. Ông A-rau-na liền đi ra và sấp mặt xuống đất lạy vua. 21 Ông A-rau-na nói: "Chẳng hay đức vua là chúa thượng tôi đến gặp tôi tớ người có mục đích gì?" Vua Ða-vít nói: "Ðến mua sân lúa của ngươi và xây một bàn thờ để kính Ðức Chúa, hầu chấm dứt tai ương đang làm hại dân.” 22 Ông A-rau-na thưa với vua Ða-vít: "Xin đức vua là chúa thượng tôi cứ lấy sân lúa và dâng lên cái gì ngài coi là tốt. Ngài xem: đây có bò làm lễ toàn thiêu, có bàn đạp lúa và ách bò làm củi. 23 Thưa đức vua, tất cả những cái đó, A-rau-na xin dâng đức vua." Ông A-rau-na thưa với vua: "Xin Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngài, khứng nhận cho ngài!"

24 Nhưng vua nói với ông A-rau-na: "Không! Ta muốn mua của ngươi, giá cả sòng phẳng, và ta không muốn dâng lên Ðức Chúa, Thiên Chúa của ta, những lễ toàn thiêu mà ta không mất tiền mua." Vua Ða-vít đã trả mười lăm lượng bạc để mua sân lúa và bò. 25 Vua Ða-vít xây một bàn thờ ở đó để kính Ðức Chúa và dâng những lễ toàn thiêu và những lễ kỳ an. Ðức Chúa đã thương đến xứ sở, và tai ương đã chấm dứt không làm hại Ít-ra-en nữa.

Các Vua 1

Chương 01

I. Việc Kế Vị Vua Ða-Vít

Tuổi già của vua Ða-vít và những âm mưu của A-đô-ni-gia-hu

1 Vua Ða-vít đã già nua, tuổi tác; áo mặc bao nhiêu cũng không đủ ấm. 2 Các bề tôi của vua mới thưa vua rằng: "Xin được tìm cho đức vua, chúa thượng của hạ thần một cô trinh nữ, để nàng túc trực bên ngài và săn sóc cho ngài; có nàng nằm trong lòng ngài, ngài sẽ cảm thấy ấm.” 3 Vậy họ đã tìm khắp nơi trong toàn cõi Ít-ra-en để kiếm một thiếu nữ trẻ đẹp, và họ đã gặp cô A-vi-sác, người Su-nêm. Họ dẫn nàng vào chầu vua. 4 Ðó là một thiếu nữ cực kỳ xinh đẹp; thế là nàng trở thành người săn sóc và hầu hạ vua; nhưng vua vẫn để nàng trinh nguyên. 5 Còn hoàng tử A-đô-ni-gia, con của bà Khác-ghít, thì tự xưng vương mà rằng: "Ta sẽ làm vua!" Chàng sắm xe, ngựa, và kiếm được năm mươi người chạy đàng trước mình. 6 Suốt đời chàng, vua cha không hề cấm cản chàng, như nói: "Sao con lại làm thế?" Vả lại trông chàng cũng khôi ngô tuấn tú, và bà mẹ chàng đã sinh ra chàng sau Áp-sa-lôm. 7 Chàng móc nối với ông Giô-áp, con bà Xơ-ru-gia và với tư tế Ép-gia-tha; họ đã theo phe A-đô-ni-gia. 8 Còn tư tế Xa-đốc, ông Bơ-na-gia-hu, con ông Giơ-hô-gia-đa, ngôn sứ Na-than, ông Sim-y, ông Rê-y và các anh hùng của vua Ða-vít, không ai ủng hộ A-đô-ni-gia-hu.

9 Khi A-đô-ni-gia-hu sát tế chiên, bò và dê béo gần tảng đá Dô-khe-lét bên cạnh Ên Rô-ghên, thì chàng mời tất cả các hoàng tử anh em mình cùng tất cả nhân sĩ Giu-đa đang phục vụ nhà vua. 10 Nhưng ngôn sứ Na-than, ông Bơ-na-gia-hu, các anh hùng và cả Sa-lô-môn em chàng, chàng cũng không mời.

Âm mưu của ông Na-than và bà Bát Se-va

11 Bấy giờ ông Na-than nói với bà Bát Se-va mẹ của Sa-lô-môn: "Bà không nghe biết sao: A-đô-ni-gia-hu, con bà Khác-ghít đã làm vua, mà vua Ða-vít chúa thượng của chúng ta không hay biết gì hết? 12 Bây giờ, này, tôi xin góp ý với bà để bà tự cứu lấy mạng mình và mạng Sa-lô-môn con bà nữa. 13 Bà hãy đi yết kiến vua Ða-vít và thưa với người: "Thưa đức vua, chúa thượng của tiện thiếp, nào chẳng phải chính ngài đã thề với tiện thiếp rằng: Chắc chắn Sa-lô-môn, con của ái khanh sẽ lên kế vị trên ngai báu ta? Vậy tại sao hoàng tử A-đô-ni-gia-hu lại đã làm vua? 14 Này, khi bà còn đang ở đó hầu chuyện đức vua, thì tôi sẽ vào sau, và bổ túc cho lời bà."

15 Bà Bát Se-va vào chầu vua tại ngự phòng. (Vua đã quá già, và nàng A-vi-sác, người Su-nêm, hầu hạ vua). 16 Bà Bát Se-va quỳ gối phủ phục trước mặt vua; vua hỏi: "Có chuyện gì thế, ái khanh?” 17 Bà thưa với vua: "Thưa chúa thượng, ngài đã nhân danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngài mà thề với nữ tỳ của ngài rằng: "Sa-lô-môn con của ái khanh sẽ làm vua kế vị ta trên ngai báu của ta. 18 Nhưng bây giờ, này, A-đô-ni-gia đã làm vua, thế mà đức vua chúa thượng của tiện thiếp vẫn không hay biết. 19 Hoàng tử đã sát tế bò, bê béo, chiên cừu nhiều vô kể, rồi mời tất cả các hoàng tử, mời tư tế Ép-gia-tha, ông Giô-áp chỉ huy quân đội; còn Sa-lô-môn tôi tớ ngài thì hoàng tử không mời. 20 Nhưng, chính nơi ngài, tâu đức vua chúa thượng của tiện thiếp, nơi ngài toàn thể Ít-ra-en đều để mắt trông chờ, xem ngài sẽ phán quyết cho ai lên kế vị ngài trên ngai báu của đức vua chúa thượng của tiện thiếp. 21 Thành ra khi đức vua chúa thượng của tiện thiếp đã an nghỉ với tổ tiên, thì tiện thiếp cùng với Sa-lô-môn con của tiện thiếp sẽ phải mang tội."

22 Bà còn đang trình bày với vua, thì ngôn sứ Na-than đến. 23 Người ta báo tin cho vua hay có ngôn sứ Na-than đến. Ông đi vào phủ phục trước mặt vua, mặt sát đất. 24 Ông Na-than nói: "Thưa đức vua chúa thượng tôi, thế ra chính ngài đã phán quyết: "A-đô-ni-gia-hu sẽ làm vua kế vị ta, nó sẽ ngồi trên ngai của ta. 25 Vì hôm nay hoàng tử đã xuống sát tế bò, bê béo, chiên cừu nhiều vô kể, rồi mời tất cả các hoàng tử, các người chỉ huy quân đội, tư tế Ép-gia-tha. Này họ đang ăn uống trước mặt hoàng tử ấy và hoan hô: "Vua A-đô-ni-gia-hu muôn năm! 26 Còn bề tôi ngài là hạ thần đây, rồi tư tế Xa-đốc, ông Bơ-na-gia-hu con ông Giơ-hô-gia-đa cũng như Sa-lô-môn bề tôi của ngài, thì hoàng tử không mời. 27 Nếu sự việc này đã do đức vua chúa thượng tôi quyết định, thì đúng là ngài đã không cho các bề tôi của ngài biết: ai sẽ lên kế vị trên ngai báu của đức vua chúa thượng tôi."

28 Vua Ða-vít lên tiếng nói: "Mời Bát Se-va vào cho ta." Bà vào chầu vua và đứng trước mặt vua. 29 Bấy giờ vua thề và nói: "Ta thề nhân danh Ðức Chúa, Ðấng đã giải thoát ta khỏi mọi cơn quẫn bách: 30 đúng như ta đã thề với ái khanh nhân danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, rằng Sa-lô-môn của ái khanh sẽ làm vua kế vị ta; chính nó sẽ ngự trên ngai ta, thay thế ta, và ngay hôm nay ta sẽ thi hành như thế.” 31 Bà Bát Se-va quỳ xuống phủ phục trước mặt vua, mặt sát đất, và nói: "Ðức vua Ða-vít chúa thượng của tiện thiếp muôn muôn năm!” 32 Vua Ða-vít nói: "Gọi vào đây cho ta tư tế Xa-đốc, ngôn sứ Na-than, ông Bơ-na-gia-hu con ông Giơ-hô-gia-đa." Những người này vào chầu vua. 33 Vua nói với họ: "Hãy đưa các bề tôi của chúa thượng các ngươi đi theo các ngươi; để Sa-lô-môn con ta cỡi con la cái của ta, rồi đưa nó xuống Ghi-khôn. 34 Ở đấy tư tế Xa-đốc và ngôn sứ Na-than sẽ xức dầu phong nó làm vua Ít-ra-en; các ngươi sẽ rúc tù và và hô: "Vua Sa-lô-môn muôn năm! 35 Rồi các ngươi sẽ theo nó đi lên, nó sẽ vào ngự trên ngai của ta, nó sẽ làm vua thay thế ta, vì nó chính là người mà ta đã đặt lên cai quản Ít-ra-en và Giu-đa.” 36 Ông Bơ-na-gia-hu con ông Giơ-hô-gia-đa thưa lại với vua và nói: "A-men, xin Ðức Chúa, Thiên Chúa của đức vua chúa thượng của hạ thần phán như vậy! 37 Xin Ðức Chúa cũng ở với vua Sa-lô-môn như đã ở với đức vua chúa thượng của hạ thần và làm cho ngai báu của người trở nên vĩ đại hơn ngai báu của đức vua Ða-vít chúa thượng của hạ thần."

38 Tư tế Xa-đốc, ngôn sứ Na-than, ông Bơ-na-gia-hu con ông Giơ-hô-gia-đa, cùng với quân Cơ-rê-thi và Pơ-lê-thi đi xuống; họ để hoàng tử Sa-lô-môn cỡi con la cái của vua Ða-vít và đưa hoàng tử xuống Ghi-khôn. 39 Tư tế Xa-đốc lấy sừng đựng dầu từ Nhà Lều và xức cho Sa-lô-môn. Người ta đã rúc tù và; toàn dân hô: "Vua Sa-lô-môn muôn năm!” 40 Toàn dân tiến lên theo sau vua. Dân chúng thổi sáo và reo vui đến nỗi đất cũng chuyển động vì tiếng hò la của họ.

A-đô-ni-gia-hu khiếp sợ

41 Ông A-đô-ni-gia-hu cùng tất cả các người được mời đang ở với ông, vừa ăn xong, thì nghe thấy; ông Giô-áp nghe tiếng tù và, thì nói: "Tiếng gì làm náo động nội thành vậy?” 42 Họ còn đang nói, thì này, ông Giô-na-than con tư tế Ép-gia-tha đi vào; ông A-đô-ni-gia-hu liền nói: "Vào đi, vì anh là một dũng sĩ và là người mang tin mừng.” 43 Ông Giô-na-than trả lời và nói với ông A-đô-ni-gia-hu: "Nguy to! Ðức vua Ða-vít chúa thượng của chúng ta đã đặt Sa-lô-môn làm vua! 44 Ðức vua đã sai tư tế Xa-đốc, ngôn sứ Na-than, ông Bơ-na-gia-hu con ông Giơ-hô-gia-đa, quân Cơ-rê-thi và Pơ-lê-thi cùng đi với ông; họ để ông cỡi con la cái của đức vua. 45 Tư tế Xa-đốc và ngôn sứ Na-than đã xức dầu phong ông làm vua, tại Ghi-khôn; rồi họ hò la kéo lên và cả thành náo động. Ðó là tiếng ồn ào mà quý vị đã nghe thấy. 46 Hơn nữa, Sa-lô-môn còn được ngồi trên ngai vua. 47 Quần thần đến chúc mừng vua Ða-vít chúa thượng của chúng ta rằng: "Xin Thiên Chúa của ngài làm cho danh Sa-lô-môn rạng ngời hơn danh ngài, cho ngai báu của người vĩ đại hơn ngai báu của ngài." Vua phủ phục trên long sàng. 48 Vua nói như thế này: "Chúc tụng Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, Ðấng hôm nay đã ban cho mắt ta được thấy trong dòng dõi ta có người ngồi trên ngai ta!"

49 Bấy giờ tất cả những người được A-đô-ni-gia-hu mời đều run sợ; họ đứng lên, bỏ đi, mỗi người một ngả. 50 Còn A-đô-ni-gia-hu, vì sợ Sa-lô-môn, đã đứng lên đi bám chặt lấy góc bàn thờ. 51 Người ta báo tin cho Sa-lô-môn rằng: "Này A-đô-ni-gia-hu sợ vua Sa-lô-môn, nên đã bám chặt lấy góc bàn thờ mà nói: "Hôm nay xin vua Sa-lô-môn thề hứa với tôi là người sẽ không dùng gươm giết tôi tớ người.” 52 Sa-lô-môn nói: "Nếu ông ấy là người lương thiện, thì không một sợi tóc nào trên đầu ông sẽ rơi xuống đất; còn nếu người ta phát giác ông có tội, thì ông sẽ phải chết.” 53 Rồi vua Sa-lô-môn truyền đưa ông xuống khỏi bàn thờ; ông đến sấp mình trước vua Sa-lô-môn, và Sa-lô-môn bảo ông: "Về nhà ngươi đi!"

Chương 02

Di chúc của vua Ða-vít

1 Khi thấy mình đã gần đất xa trời, vua Ða-vít truyền dạy Sa-lô-môn con mình rằng: 2 "Cha sắp bước vào đoạn đường mà mọi người trên đời phải đi qua; con hãy can đảm lên và sống cho xứng bậc nam nhi. 3 Hãy tuân giữ các huấn lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của con, mà đi theo đường lối của Người, là giữ các giới răn, mệnh lệnh, luật pháp, và chỉ thị của Người, như đã ghi trong Luật Mô-sê. Như thế con sẽ thành công trong mọi việc con làm và trong mọi hướng con đi, 4 và Ðức Chúa sẽ thực hiện lời Người đã phán với cha rằng: "Nếu con cái ngươi sống cho phải đạo là hết lòng hết dạ bước đi trung thực trước nhan Ta, thì ngươi sẽ không bao giờ thiếu người ngự trên ngai Ít-ra-en. 5 Con cũng đã biết Giô-áp, con của Xơ-ru-gia, đã làm gì cho cha, nó đã làm gì cho hai người chỉ huy quân đội Ít-ra-en là Áp-ne, con của Ne, và A-ma-xa, con của Gie-the; nó đã giết họ. Như thế trong thời bình nó đã đổ máu người như trong thời chiến, làm cho đai lưng và giầy nó mang vấy máu chiến tranh. 6 Con sẽ đối xử theo sự khôn ngoan của con, và đừng để cho đầu bạc của nó xuống âm phủ bình an. 7 Còn đối với các con của Bác-di-lai, người Ga-la-át, thì con sẽ cư xử nhân hậu, cho chúng được hưởng lộc của con, vì khi cha trốn Áp-sa-lôm anh con, nó đã tiếp cứu cha như thế. 8 Và này, con còn vụ Sim-y, con của Ghê-ra, người Ben-gia-min, thuộc Ba-khu-rim. Nó đã chửi rủa cha thậm tệ hôm cha đến Ma-kha-na-gim; nhưng rồi nó lại xuống đón gặp cha ở sông Gio-đan, và cha đã nhân danh Ðức Chúa mà thề với nó rằng: "Ta sẽ không dùng gươm giết ngươi. 9 Nhưng con, con đừng để nó vô can, bởi vì con là người khôn ngoan, và biết phải xử với nó như thế nào để bắt nó xuống âm phủ với đầu bạc vấy máu."

10 Vua Ða-vít đã an nghỉ với tổ tiên ông, và được chôn cất trong Thành vua Ða-vít. 11 Thời gian vua Ða-vít trị vì Ít-ra-en là bốn mươi năm: vua trị vì tại Khép-rôn bảy năm và tại Giê-ru-sa-lem ba mươi ba năm.

Ông A-đô-ni-gia-hu bị giết

12 Vua Sa-lô-môn ngự trên ngai vua Ða-vít, thân phụ ông, và vương quyền của ông thật là vững chắc. 13 Ông A-đô-ni-gia-hu, con bà Khác-ghít, đến gặp bà Bát Se-va, mẹ vua Sa-lô-môn; bà hỏi ông: "Anh đến nói chuyện bình an chứ?" Ông thưa: "Bình an.” 14 Ông nói tiếp: "Tôi có việc muốn thưa với bà." Bà đáp: "Anh cứ nói.” 15 Ông nói: "Hẳn bà cũng biết là vương quyền phải thuộc về tôi; và toàn thể Ít-ra-en đều hướng về tôi, trông chờ tôi làm vua. Nhưng vương quyền ấy đã xoay chiều và thuộc về em tôi, vì Ðức Chúa đã muốn như thế. 16 Vậy bây giờ tôi chỉ có một điều xin bà, bà đừng ngoảnh mặt đi." Bà bảo ông: "Anh cứ nói.” 17 Ông liền nói: "Xin bà nói với vua Sa-lô-môn - vì người không ngoảnh mặt từ chối bà đâu - xin người ban cho tôi nàng A-vi-sác, người Su-nêm, làm vợ.” 18 Bà Bát Se-va nói: "Ðược, tôi sẽ thưa với vua hộ anh.” 19 Bà Bát Se-va vào yết kiến vua Sa-lô-môn để thưa chuyện với vua giúp A-đô-ni-gia-hu. Vua đứng lên, ra đón và sấp mình chào bà; đoạn vua ngồi trên ngai, đồng thời cũng truyền đặt một ngai cho bà thái hậu, bà ngồi bên hữu vua. 20 Bà nói: "Có một điều nhỏ mọn mẹ xin với con; con đừng ngoảnh mặt đi." Vua nói với bà: "Thưa mẹ, mẹ cứ xin, vì con sẽ không ngoảnh mặt từ chối mẹ.” 21 Bà liền nói: "Xin cho nàng A-vi-sác, người Su-nêm, được làm vợ A-đô-ni-gia-hu, anh con.” 22 Vua Sa-lô-môn trả lời và nói với mẹ: "Sao mẹ lại xin nàng A-vi-sác, người Su-nêm, cho A-đô-ni-gia-hu? Mẹ xin cho anh ấy vương quyền luôn đi, vì anh ấy là anh con mà, và đã có tư tế Ép-gia-tha cũng như Giô-áp, con Xơ-ru-gia, ủng hộ.” 23 Rồi vua Sa-lô-môn lấy danh Ðức Chúa mà thề: "Xin Thiên Chúa phạt ta thế này và thế kia nữa, nếu A-đô-ni-gia-hu không mất mạng vì câu nói đó!” 24 Vậy bây giờ, có Ðức Chúa hằng sống! Ðấng đã làm cho ta được vững, và đặt ta trên ngai Ða-vít phụ vương ta, Người cũng đã tạo lập cho ta một triều đại như Người đã phán, ta thề rằng ngay hôm nay A-đô-ni-gia-hu sẽ phải chết!” 25 Ðoạn vua Sa-lô-môn sai ông Bơ-na-gia-hu, con ông Giơ-hô-gia-đa, đi hạ sát ông A-đô-ni-gia-hu và ông này đã chết.

Số phận ông Ép-gia-tha và ông Giô-áp

26 Còn tư tế Ép-gia-tha thì vua bảo: "Ngươi hãy về A-na-thốt với ruộng đất của ngươi, vì ngươi là con người đáng chết, nhưng hôm nay ta không giết ngươi, bởi vì ngươi đã khiêng Hòm Bia của Ðức Chúa là Chúa Thượng ta, trước mặt Ða-vít phụ vương ta, và ngươi đã chia sẻ mọi nỗi gian lao với phụ vương ta.” 27 Thế là ông Sa-lô-môn cách chức ông Ép-gia-tha không cho làm tư tế Ðức Chúa nữa, khiến cho lời Ðức Chúa đã phán về gia đình Ê-li tại Si-lô nên ứng nghiệm.

28 Hay tin ấy, ông Giô-áp, người đã từng theo phe A-đô-ni-gia, tuy không ngả theo Áp-sa-lôm, liền trốn vào Lều của Ðức Chúa và bám chặt lấy góc bàn thờ. 29 Người ta báo tin cho Sa-lô-môn biết là ông Giô-áp đã trốn vào Lều của Ðức Chúa, và này ông đang ở bên cạnh bàn thờ. Vua Sa-lô-môn sai ông Bơ-na-gia-hu, con ông Giơ-hô-gia-đa và bảo: "Ði hạ sát hắn!” 30 Ông Bơ-na-gia-hu vào Lều của Ðức Chúa và nói với ông Giô-áp: "Ðức vua phán thế này: Ði ra!" Nhưng ông đáp: "Không, tôi sẽ chết ở đây." Ông Bơ-na-gia-hu tường trình sự việc với vua: "Giô-áp đã nói và trả lời tôi như thế.” 31 Vua nói với ông: "Cứ làm như hắn nói; hạ sát hắn, rồi chôn hắn đi. Như thế, ngươi sẽ làm cho ta và nhà cha ta được sạch vết máu vô tội Giô-áp đã đổ ra. 32 Xin Ðức Chúa làm cho máu hắn lại đổ trên đầu hắn, vì hắn đã hạ sát hai người công chính và tốt lành hơn hắn; hắn đã dùng gươm thủ tiêu họ mà Ða-vít, thân phụ ta, không hay biết: đó là ông Áp-ne, con ông Ne, chỉ huy quân đội Ít-ra-en, và ông A-ma-xa, con ông Gie-the, chỉ huy quân đội Giu-đa. 33 Như thế máu của họ lại đổ trên đầu Giô-áp và trên đầu dòng dõi hắn đến muôn đời; còn Ða-vít và dòng dõi người, cũng như triều đại và ngai báu của người sẽ được Ðức Chúa ban bình an đến muôn đời.” 34 Bấy giờ ông Bơ-na-gia-hu, con ông Giơ-hô-gia-đa, đi lên, hạ sát, rồi chôn ông Giô-áp tại nhà ông này trong sa mạc. 35 Vua đặt ông Bơ-na-gia-hu con ông Giơ-hô-gia-đa thay thế ông Giô-áp đứng đầu quân đội và tư tế Xa-đốc thay thế ông Ép-gia-tha.

Sim-y thất lời và bị giết

36 Vua sai người gọi Sim-y đến và bảo: "Ngươi hãy xây cho mình một ngôi nhà tại Giê-ru-sa-lem mà ở, và không được rời khỏi đây, để đi bất cứ nơi nào khác. 37 Ngày nào ngươi rời khỏi đó và qua suối Kít-rôn, thì ngày ấy ngươi biết chắc rằng ngươi sẽ phải chết; máu ngươi sẽ đổ trên đầu ngươi.” 38 Sim-y thưa với vua: "Lời ngài nói thật là phải. Ðức vua, chúa thượng tôi, đã nói thế nào, thì xin ngài cứ thi hành như vậy với bề tôi của ngài." Và Sim-y cư ngụ lâu ngày tại Giê-ru-sa-lem.

39 Nhưng rồi sau ba năm có hai người đầy tớ của Sim-y bỏ trốn, đến với ông A-khít, con ông Ma-a-kha, vua Gát; và người ta báo cho Sim-y: "Này, các đầy tớ của ông đang ở Gát.” 40 Sim-y liền trỗi dậy, thắng lừa, đi Gát, đến nhà ông A-khít, để tìm đầy tớ; ông đến đó và đưa các đầy tớ của mình từ Gát trở về. 41 Người ta báo cho vua Sa-lô-môn biết Sim-y đã bỏ Giê-ru-sa-lem đi Gát và đã trở về.

42 Vua mới sai người gọi Sim-y đến và bảo: "Ta lại đã không bắt ngươi lấy Ðức Chúa mà thề và ta đã cảnh giác ngươi rằng: ngày nào ngươi rời khỏi đây và đi bất cứ nơi nào khác, thì ngươi biết chắc rằng ngươi sẽ phải chết; ngươi cũng đã thưa với ta: "Lời ngài nói thật là phải, tôi xin tuân hành. 43 Vậy, tại sao ngươi không giữ lời đã thề trước mặt Ðức Chúa và lệnh ta đã truyền cho ngươi?” 44 Rồi vua nói với Sim-y: "Chính ngươi đã biết tất cả sự độc ác - hẳn lòng ngươi quá rõ - mà ngươi đã làm cho Ða-vít thân phụ ta; xin Ðức Chúa làm cho sự độc ác của ngươi lại giáng xuống đầu ngươi. 45 Còn vua Sa-lô-môn thì được chúc phúc, và ngai báu của Ða-vít bền vững trước nhan Ðức Chúa đến muôn đời.” 46 Vua ra lệnh cho ông Bơ-na-gia-hu con ông Giơ-hô-gia-đa, và ông đã đi hạ sát Sim-y và y đã chết.

Vua Sa-lô-môn nắm vững vương quyền trong tay.

Chương 03

II. Tiểu Sử Sa-Lô-Môn Ðại Ðế

1. Sa-Lô-Môn, Con Người Khôn Ngoan

Tiểu dẫn

1 Sa-lô-môn thành con rể của Pha-ra-ô vua Ai-cập, vì đã cưới công chúa vua Ai-cập, và đưa nàng về Thành của Ða-vít, cho đến khi hoàn thành việc xây cất cung điện của ông, cũng như Ðền Thờ Ðức Chúa và tường thành quanh Giê-ru-sa-lem. 2 Chỉ có điều là dân chúng vẫn tế lễ trên các nơi cao, vì cho đến nay ông vẫn chưa xây được ngôi đền nào kính Danh Ðức Chúa. 3 Tuy Sa-lô-môn yêu mến Ðức Chúa, bước theo các lời chỉ dạy của Ða-vít, thân phụ ông; nhưng ông vẫn tế lễ và đốt hương trên các nơi cao.

Giấc mộng ở Ghíp-ôn (2 Sb 1:3-12)

4 Vua đi Ghíp-ôn để tế lễ vì chỗ ấy là nơi cao quan trọng nhất; Sa-lô-môn dâng một ngàn lễ vật toàn thiêu trên bàn thờ ấy. 5 Tại Ghíp-ôn, đang đêm Ðức Chúa hiện ra báo mộng cho vua Sa-lô-môn, Thiên Chúa phán: "Ngươi cứ xin đi, Ta sẽ ban cho.” 6 Vua Sa-lô-môn thưa: "Chính Ngài đã lấy lòng nhân hậu lớn lao mà xử với tôi tớ Chúa là Ða-vít thân phụ con, như người đã bước đi trước nhan Chúa cách trung thực, công chính, với tâm hồn ngay thẳng. Chúa đã duy trì lòng nhân hậu lớn lao ấy đối với người, khi ban cho người có một đứa con ngồi trên ngai của người hôm nay. 7 Và bây giờ, lạy Ðức Chúa là Thiên Chúa của con, chính Chúa đã đặt tôi tớ Chúa đây lên ngôi kế vị Ða-vít, thân phụ con, mặc dầu con chỉ là một thanh niên bé nhỏ, không biết cầm quyền trị nước. 8 Con lại ở giữa dân mà Chúa đã chọn, một dân đông đúc, đông không kể xiết, cũng không đếm nổi. 9 Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái; chẳng vậy, nào ai có đủ sức cai trị dân Chúa, một dân quan trọng như thế?” 10 Chúa hài lòng vì vua Sa-lô-môn đã xin điều đó. 11 Thiên Chúa phán với vua: "Bởi vì ngươi đã xin điều đó, ngươi đã không xin cho được sống lâu, hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, 12 thì này, Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp. 13 Cả điều ngươi không xin, Ta cũng sẽ ban cho ngươi: giàu có, vinh quang, đến nỗi suốt đời ngươi không có ai trong các vua được như ngươi. 14 Và nếu ngươi bước theo các đường lối của Ta, là tuân giữ các giới răn và mệnh lệnh của Ta, như Ða-vít thân phụ ngươi, thì Ta sẽ kéo dài ngày đời của ngươi.” 15 Sa-lô-môn tỉnh dậy, thì ra đó là một giấc mộng. Ông trở về Giê-ru-sa-lem và đứng trước Hòm Bia Giao Ước của Chúa; ông thượng tiến lễ toàn thiêu, dâng lễ kỳ an và thết tất cả các bề tôi của mình một bữa tiệc.

Vua Sa-lô-môn xử kiện

16 Bấy giờ có hai người gái điếm vào chầu vua. Khi đứng trước mặt vua, 17 thì một người nói: "Ôi, thưa chúa thượng tôi, tôi và người đàn bà này cùng ở một nhà; và tôi sinh một đứa con, trong lúc chị này cùng ở đó với tôi. 18 Tôi sinh được ba ngày, thì người đàn bà này cũng sinh. Chúng tôi ở chung với nhau; ngoài hai chúng tôi ra, không có ai khác trong nhà. 19 Ðêm nọ, đứa con của chị này chết, vì chị đè lên nó; 20 giữa đêm chị thức dậy, và trong khi nữ tỳ của ngài vẫn ngủ, thì chị bế đứa con của tôi đang nằm cạnh tôi, và đặt trong lòng mình, còn đứa con đã chết của chị, chị đặt vào lòng tôi. 21 Ðến sáng khi tôi thức dậy cho con bú, thì này đứa bé đã chết. Nhưng khi tôi nhìn kỹ nhờ ánh sáng ban ngày, thì ra nó không phải là đứa con tôi đã sinh ra.” 22 Người đàn bà kia trả lời: "Không phải thế, vì con tôi còn sống, con chị mới là đứa chết." Nhưng người này lại nói: "Không phải, con chị mới là đứa chết, đứa sống là con tôi." Và họ cãi nhau trước mặt vua. 23 Bấy giờ vua nói: "Chị này bảo: "Ðứa sống này là con tôi, con chị mới là đứa chết. Chị kia đáp lại: "Không phải thế, con chị mới là đứa chết, nhưng con tôi còn sống.” 24 Rồi vua ra lệnh: "Ðưa cho ta chiếc gươm." Người ta đưa tới trước mặt vua một chiếc gươm. 25 Và vua quyết định: "Phân đứa trẻ còn sống ra làm hai, và cho mỗi người một nửa!” 26 Bấy giờ người mẹ của đứa trẻ còn sống, động lòng thương con mình, liền thưa với vua: "Ôi! thưa chúa thượng tôi, xin ngài cho chị ấy đứa trẻ còn sống; còn giết chết nó, thì xin đừng!" Người kia nói: "Chẳng phải con tôi, cũng chẳng phải con chị, cứ chia ra!” 27 Bấy giờ vua lên tiếng nói: "Trao đứa trẻ còn sống cho người nói trước, và đừng giết nó, chính nàng mới là mẹ nó.” 28 Toàn thể Ít-ra-en nghe biết vụ án vua đã xử, đều kính sợ vua, vì thấy rằng Thiên Chúa đã phú bẩm cho vua một sự khôn ngoan lạ lùng để người xét xử.

Chương 04 & 05

04

Các viên chức cao cấp của vua Sa-lô-môn

1 Vua Sa-lô-môn cai trị toàn cõi Ít-ra-en. 2 Và đây là các viên chức của vua: A-dác-gia-hu, con của Xa-đốc, làm tư tế.

3 Ê-li-khô-rép và A-khi-gia, hai người con của Si-sa làm ký lục.

Giơ-hô-sa-phát, con của A-khi-lút, làm ngự sử.

4 Bơ-na-gia-hu, con của Giơ-hô-gia-đa, chỉ huy quân đội.

Xa-đốc và Ép-gia-tha làm tư tế.

5 A-dác-gia-hu, con của Na-than, chỉ huy các trưởng vùng.

Da-vút, con tư tế Na-than, làm cố vấn của vua.

6 A-khi-sa đặc trách cung điện.

A-đô-ni-ram, con của Áp-đa, đặc trách dân công.

Các trưởng vùng của vua Sa-lô-môn

7 Vua Sa-lô-môn có mười hai trưởng vùng trên toàn cõi Ít-ra-en. Họ cống hiến lương thực cho vua và triều đình, hằng năm mỗi người cống hiến một tháng.

8 Ðây là danh sách họ:

Con ông Khua trong vùng núi Ép-ra-im.

9 Con ông Ðe-ke, ở Ma-cát, Sa-an-vim, Bết Se-mét và Ê-lôn cho đến Bết Kha-nan.

10 Con ông Khe-xét tại A-rúp-bốt; Xô-khô và tất cả miền Khê-phe cũng thuộc quyền ông.

11 Con ông A-vi-na-đáp coi tất cả cao nguyên vùng Ðo. Vợ ông là công chúa Ta-phát, ái nữ của vua Sa-lô-môn.

12 Ông Ba-a-na, con ông A-khi-lút coi Ta-nác, Mơ-ghít-đô đến tận bên kia Gióc-mơ-am và tất cả Bết San gần Xác-than, bên dưới Gít-rơ-en từ Bết San cho đến A-vên Mơ-khô-la.

13 Con ông Ghe-ve tại Ra-mốt Ga-la-át; ông coi các thôn làng của ông Gia-ia con ông Mơ-na-se nằm trong miền Ga-la-át, và vùng đất Ác-gốp tại Ba-san, tất cả là sáu mươi thành lớn có tường vây và then cài bằng đồng.

14 Ông A-khi-na-đáp, con ông Ít-đô, ở Ma-kha-na-gim.

15 Ông A-khi-ma-át tại Náp-ta-li; ông cũng cưới công chúa Ba-xơ-mát, ái nữ của vua Sa-lô-môn làm vợ.

16 Ông Ba-a-na, con ông Khu-sai, ở A-se và Bơ-a-lốt.

17 Ông Giơ-hô-sa-phát, con ông Pa-ru-ác, ở Ít-xa-kha.

18 Ông Sim-y, con ông Ê-la, ở Ben-gia-min.

19 Ông Ghe-ve, con ông U-ri, trong đất Ga-la-át, đất của Xi-khôn vua dân E-mô-ri và Ốc vua Ba-san.

Và trong xứ chỉ có một trưởng vùng.

05

7 Các trưởng vùng này, mỗi người một tháng, cống hiến lương thực cho vua Sa-lô-môn và cho tất cả những người được lui tới bàn ăn của vua Sa-lô-môn, họ không để cho vua phải thiếu gì. 8 Lúa mạch và rơm rạ cho ngựa tải đồ và ngựa trận, nơi nào có nhu cầu, họ cũng phải cung cấp, theo mức quy định cho mỗi người. 2 Thực phẩm cung cấp cho vua Sa-lô-môn mỗi ngày là: sáu trăm thùng tinh bột, một ngàn hai trăm thùng bột thường, 3 mười con bò thịt và hai mươi con bò nuôi, một trăm con cừu, không kể nai, linh dương, sơn dương và chim gáy béo để ăn thịt. 4 Vì vua thống trị khắp Vùng bên kia Sông Cả, từ Típ-xác đến Ga-da, thống trị hết, các vua bên kia Sông Cả, và vua sống bình an với mọi vùng ranh giới chung quanh. 5 Giu-đa và Ít-ra-en được an cư, mỗi người dưới cây nho và cây vả của mình, từ Ðan tới Bơ-e Se-va trong suốt thời vua Sa-lô-môn cai trị.

04

20 Giu-đa và Ít-ra-en thật đông dân, đông như cát ngoài bãi biển. Họ ăn, họ uống và vui sướng thoả thuê.

05

1 Vua Sa-lô-môn có quyền trên tất cả các nước, từ Sông Cả đến đất của người Phi-li-tinh, và đến ranh giới Ai-cập. Họ phải triều cống và phục vụ vua Sa-lô-môn suốt đời vua. 6 Vua Sa-lô-môn có bốn ngàn ngăn chuồng cho ngựa kéo và mười hai ngàn con ngựa cưỡi.

Danh tiếng vua Sa-lô-môn

9 Thiên Chúa cho vua Sa-lô-môn được dồi dào khôn ngoan, thông thạo, và một trái tim bao la như cát ngoài bãi biển. 10 Sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn trổi vượt hơn sự khôn ngoan của tất cả mọi người Phương Ðông và hơn tất cả sự khôn ngoan của Ai-cập. 11 Ông khôn ngoan hơn bất cứ ai, hơn ông Ê-than người Ét-ra, hơn ông Hê-man, ông Can-côn, ông Ðác-đa, ba người con của ông Ma-khôn; danh tiếng vua đồn ra khắp các dân tộc chung quanh. 12 Vua đọc được ba ngàn câu cách ngôn, và các bài ca của vua là một ngàn không trăm lẻ năm bài. 13 Vua nói về các thứ cây, từ cây bá hương ở Li-băng cho tới cây ngưu tất mọc ở bờ tường; vua cũng bàn tới các thú vật, các loài chim, các thứ rắn rết và các loại cá. 14 Từ mọi dân tộc, thiên hạ kéo tới nghe sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn; vua nhận được tặng phẩm của tất cả các vua trên mặt đất đã nghe biết sự khôn ngoan của vua.

2. Sa-Lô-Môn, Con Người Xây Cất.

Chuẩn bị xây Ðền Thờ (2 Sb 2:2-15)

15 Khi-ram, vua thành Tia, sai bề tôi của mình đến yết kiến vua Sa-lô-môn, khi vua biết ông được xức dầu phong vương kế vị thân phụ ông; vì vua Khi-ram vốn là bạn thân của vua Ða-vít lúc sinh thời. 16 Vua Sa-lô-môn sai sứ đi thưa với vua Khi-ram rằng: 17 "Ngài biết là Ða-vít thân phụ tôi không thể xây Ðền Thờ kính danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của người được, vì chiến tranh bao bọc tư bề, bao lâu Ðức Chúa chưa cho người đè bẹp quân thù dưới chân. 18 Nay thì Ðức Chúa cho tôi được bốn bề yên ổn, không có người chống đối, cũng chẳng gặp số phận rủi ro. 19 Vậy tôi nghĩ phải xây một Ðền Thờ kính danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của tôi, như Ðức Chúa đã phán bảo Ða-vít thân phụ tôi rằng: "Con của ngươi, người Ta sẽ cho kế vị ngươi trên ngai báu, chính nó sẽ xây Ðền Thờ kính Danh Ta. 20 Vậy bây giờ, xin ngài ra lệnh đốn cho tôi những cây bá hương Li-băng. Bề tôi của tôi sẽ hợp tác với bề tôi của ngài, và tôi sẽ trả tiền công cho bề tôi của ngài, như ngài ấn định. Hẳn ngài đã rõ không ai trong chúng tôi biết đốn cây như người Xi-đôn.” 21 Khi nghe những lời của vua Sa-lô-môn, vua Khi-ram rất đỗi vui mừng và nói: "Hôm nay xin chúc tụng Ðức Chúa, vì Người đã ban cho Ða-vít một người con khôn ngoan cai trị dân đông đảo này.” 22 Rồi vua Khi-ram sai người đến nói với vua Sa-lô-môn: "Tôi đã nghe biết điều ngài sai sứ giả đến nói với tôi. Tôi sẽ thi hành mọi ước muốn của ngài về gỗ bá hương và gỗ trắc. 23 Bề tôi của tôi sẽ đưa những thứ đó từ Li-băng xuống biển; tôi sẽ đóng bè ngoài biển, chở tới chỗ ngài yêu cầu, ở đấy tôi sẽ phá bè và ngài sẽ lấy đi. Còn ngài, xin cũng thực hiện điều tôi ước muốn, là cung cấp thực phẩm cho triều đình tôi.” 24 Thế là vua Khi-ram cung cấp cho vua Sa-lô-môn tất cả gỗ bá hương và gỗ trắc như vua Sa-lô-môn muốn. 25 Và vua Sa-lô-môn trao cho vua Khi-ram bốn trăm ngàn thùng lúa miến làm lương thực cho triều đình của vua này, với bốn mươi ngàn thùng dầu nguyên chất. Vua Sa-lô-môn cung cấp cho vua Khi-ram như thế hằng năm. 26 Ðức Chúa cho vua Sa-lô-môn được khôn ngoan như Người đã phán với vua; vua Sa-lô-môn và vua Khi-ram giao hảo với nhau và hai bên đã kết ước.

27 Vua Sa-lô-môn ra lệnh cho toàn thể Ít-ra-en đi dân công: có ba mươi ngàn người đi dân công. 28 Vua sai họ thay phiên nhau đi Li-băng mỗi tháng mười ngàn người, họ ở Li-băng một tháng, rồi ở nhà hai tháng. Ông A-đô-ni-ram đặc trách dân công. 29 Vua Sa-lô-môn có bảy mươi ngàn phu khuân vác và tám mươi ngàn thợ đục đá trong núi, 30 không kể những người chỉ huy do các trưởng vùng của vua Sa-lô-môn đặt phụ trách công việc; số người này là ba ngàn ba trăm người: họ điều khiển dân chúng tiến hành công việc 31 Vua ra lệnh phải đẽo những phiến đá lớn, đá lựa riêng để xây nền móng Ðền thờ, được đục đẽo vuông vắn. 32 Thợ nề của vua Sa-lô-môn cùng với thợ nề của vua Khi-ram và những người Gơ-van đẽo và chuẩn bị sẵn sàng gỗ đá để xây Ðền Thờ.

Chương 06

Xây cất Ðền Thờ

1 Năm thứ bốn trăm tám mươi từ khi con cái Ít-ra-en ra khỏi đất Ai-cập, năm thứ tư triều đại vua Sa-lô-môn cai trị Ít-ra-en tháng Diu tức là tháng thứ hai, vua xây Ðền Thờ kính Ðức Chúa. 2 Ðền vua Sa-lô-môn xây kính Ðức Chúa dài ba mươi thước, rộng mười thước và cao mười lăm thước. 3 Tiền đình ở trước gian Cung Thánh của Ðền Thờ dài mười thước nằm theo chiều rộng của Ðền Thờ, rộng năm thước nằm theo chiều dài của Ðền Thờ. 4 Vua làm Ðền Thờ có cửa sổ với khung và chấn song. 5 Vua xây dựa vào tường Ðền Thờ một cái chái bọc các tường chung quanh gian Cung Thánh và Nơi Cực Thánh, và làm các tầng chái chung quanh. 6 Tầng dưới rộng hai thước rưỡi, tầng giữa rộng ba thước, và tầng thứ ba rộng ba thước rưỡi, vì chung quanh Ðền Thờ, phía ngoài, vua đã xây thụt vào để khỏi đóng đà vào tường Ðền Thờ. 7 Khi xây Ðền Thờ, người ta dùng đá đẽo toàn khối, đang khi xây, trong Ðền Thờ không hề nghe thấy tiếng búa tiếng rìu, hay bất cứ dụng cụ nào bằng sắt. 8 Cửa vào tầng giữa nằm bên hông phải Ðền Thờ, và người ta dùng thang xoáy đi lên tầng giữa; rồi từ tầng giữa lên tầng ba. 9 Khi xây Ðền Thờ xong, vua dùng gỗ bá hương chạm trổ mỹ thuật mà đóng trần Ðền Thờ. 10 Rồi vua xây hành lang chung quanh Ðền Thờ, cao hai thước rưỡi, và được nối liền với Ðền Thờ bằng những cái đà gỗ bá hương. 11 Có lời Ðức Chúa phán bảo vua Sa-lô-môn rằng: 12 "Vì Ðền Thờ ngươi đang xây đây, nếu ngươi tiến bước theo các giới răn, thực hành các huấn lệnh của Ta và tuân giữ các mệnh lệnh Ta truyền, mà bước theo các điều ấy, thì Ta sẽ thực hiện cho ngươi các lời Ta đã phán với Ða-vít, thân phụ ngươi. 13 Ta sẽ lưu ngự giữa con cái Ít-ra-en; Ta sẽ không bỏ Ít-ra-en, dân Ta.” 14 Vua Sa-lô-môn đã hoàn thành việc xây cất Ðền Thờ.

Trần thiết bên trong - Nơi Cực Thánh (2 Sb 3:8-9)

15 Vua dùng ván bá hương ghép mặt trong của Ðền Thờ, từ nền cho tới đà của trần nhà; như thế toàn bộ mặt trong của Ðền Thờ được ghép gỗ; nền nhà thì vua lát ván gỗ trắc. 16 Vua dùng ván bá hương lát mười thước phần sau của Ðền Thờ, từ nền cho tới trần nhà; và dành phần đó làm Ðơ-via, tức là Nơi Cực Thánh. 17 Cung Thánh, tức là Hê-can, ở trước Ðơ-via, được hai mươi thước. 18 Gỗ bá hương ghép bên trong Cung Thánh được trạm trổ hình trái mướp đắng và nhành hoa; toàn là gỗ bá hương, chứ không thấy đá. 19 Vua lập một Nơi Cực Thánh ở giữa Ðền Thờ, phía trong, để đặt Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa. 20 Nơi Cực Thánh dài mười thước, rộng mười thước, và cao mười thước, và vua dát vàng ròng; vua cũng làm bàn thờ bằng gỗ bá hương. 21 Vua Sa-lô-môn dát vàng ròng phía trong Cung Thánh, trước Nơi Cực Thánh vua cũng dát vàng. 22 Tất cả Ðền Thờ vua đều dát vàng, không trừ một chỗ nào; bàn thờ Nơi Cực Thánh vua cũng dát toàn vàng.

Các Kê-ru-bim (2 Sb 3:10 -14)

23 Trong Nơi Cực Thánh vua làm hai Kê-ru-bim bằng gỗ ô-liu, cao năm thước. 24 Một cánh của một Kê-ru-bim dài hai thước rưỡi, cánh kia cũng hai thước rưỡi; thành ra từ đầu cánh này tới đầu cánh kia là năm thước. 25 Kê-ru-bim thứ hai cũng đo được năm thước; hai Kê-ru-bim có một kích thước và hình thể như nhau. 26 Chiều cao của một Kê-ru-bim là năm thước; Kê-ru-bim thứ hai cũng thế. 27 Vua đặt các Kê-ru-bim ở giữa Nhà, phía bên trong; cánh xoè ra: một cánh của Kê-ru-bim thứ nhất đụng tường bên này, và một cánh của Kê-ru-bim thứ hai đụng tường bên kia; hai cánh khác giao nhau ở giữa Nhà, cánh nọ chạm cánh kia. 28 Vua cũng dát vàng các Kê-ru-bim. 29 Trên khắp các tường chung quanh Nhà, vua chạm trổ những hình Kê-ru-bim, hình cây chà là và nhành hoa, cả trong lẫn ngoài. 30 Sàn Nhà, vua cũng dát vàng, cả phía trong lẫn phía ngoài.

Cửa - Sân

31 Ở lối vào Nơi Cực Thánh, vua làm cánh cửa bằng gỗ ô-liu quý, khung cửa có năm cạnh. 32 Trên hai cánh cửa bằng gỗ ô-liu, vua chạm trổ những hình Kê-ru-bim, hình cây chà là và nhành hoa, rồi vua dát vàng; vua trải mỏng vàng trên các Kê-ru-bim và các cây chà là. 33 Cửa vào Cung Thánh, vua cũng làm như thế; trụ khung cửa bằng gỗ ô-liu, nhưng có bốn cạnh, 34 hai cánh cửa bằng gỗ trắc: một cánh có hai tấm xoay được, và cánh kia cũng có hai tấm xoay được. 35 Vua chạm trổ hình Kê-ru-bim, hình cây chà là và nhành hoa, và dát vàng hoàn toàn khít với hình nổi.

36 Vua xây sân trong: ba hàng đá, đục đẽo mỹ thuật và một hàng thanh gỗ trắc.

Thời gian xây Ðền Thờ

37 Năm thứ tư, tháng Diu, người ta đặt nền móng Ðền Thờ Ðức Chúa; 38 năm thứ mười một, tháng Bun, tức là tháng thứ tám, công trình xây cất Ðền Thờ, cả quy mô lẫn chi tiết, đều được hoàn thành. Vua đã xây cất Ðền Thờ trong bảy năm.

Chương 07

Cung điện vua Sa-lô-môn

1 Vua Sa-lô-môn xây dựng cung điện của mình mất mười ba năm mới xong. 2 Vua đã xây Cung Rừng Li-băng, dài năm mươi thước, rộng hai mươi lăm thước, cao mười lăm thước, với bốn hàng cột bằng gỗ bá hương; trên các cột có ghép các thanh gỗ bá hương. 3 Trần nhà bằng gỗ bá hương được đặt trên bốn mươi lăm chiếc đà, mỗi khoang mười lăm chiếc, có cột chống đỡ. 4 Ba hàng cửa sổ, hàng này đối diện với hàng kia, thành bộ ba. 5 Tất cả các cửa và khung cửa đều có bốn cạnh, bên này đối diện với bên kia, thành bộ ba. 6 Vua cũng làm hành lang nhiều cột, dài hai mươi lăm thước, rộng mười lăm thước, và phía mặt tiền hành lang có một mái hiên với tường hoa. 7 Vua còn làm hành lang đặt ngai vàng, là nơi vua xét xử, và cũng là hành lang công lý, được ghép gỗ bá hương từ sàn tới mái nhà. 8 Và cung điện nơi vua cư ngụ cũng như sân bên trong hành lang, đều cùng một kiểu như nhau. Còn phòng vua làm cho ái nữ Pha-ra-ô mà vua đã cưới làm vợ, thì cũng giống như các hành lang ấy.

9 Tất cả đều bằng đá phiến, đẽo gọt theo kích thước và xẻ bằng cưa, bên trong cũng như bên ngoài, từ nền cho tới kèo nhà. 10 Nền nhà lát đá hảo hạng, đá lớn, đá rộng năm thước và đá rộng bốn thước.11 Phần trên thì bằng đá quý, đẽo gọt theo kích thước và bằng gỗ bá hương. 12 Chung quanh sân lớn có ba hàng đá đẽo và một hàng ván bá hương; sân trong Ðền Thờ Ðức Chúa và tiền đình cung điện cũng vậy.

Ông thợ đồng Khi-ram

13 Vua Sa-lô-môn sai người đi Tia mời ông Khi-ram đến; 14 ông là con một bà goá thuộc chi tộc Náp-ta-li; thân phụ ông là người Tia và làm thợ gò đồng. Ông rất khôn ngoan, thành thạo và tài khéo trong mọi công việc thuộc nghề đồng. Vậy ông vào chầu vua Sa-lô-môn và làm mọi công việc của vua.

Các trụ đồng (2 Sb 3:15 -17)

15 Ông đúc hai trụ đồng; trụ thứ nhất cao chín thước; lấy dây mà đo chu vi trụ thì được sáu thước; trụ thứ hai cũng thế. 16 Ông đúc hai đầu trụ bằng đồng, để đặt trên các trụ, chiều cao của đầu trụ thứ nhất là hai thước rưỡi, chiều cao của đầu trụ thứ hai cũng hai thước rưỡi. 17 Ông làm những màng lưới mắt cáo, kiểu lưới bằng thừng xoắn lại, kết thành những dây hoa đeo lên đầu trụ nằm trên đỉnh trụ, bảy dây hoa cho đầu trụ thứ nhất và bảy dây hoa cho đầu trụ thứ hai. 18 Ông làm hai hàng trái thạch lựu chung quanh lưới mắt cáo bọc đầu trụ nằm trên đỉnh trụ, và đầu trụ thứ hai ông cũng làm như thế. 19 Còn các đầu trụ trên đỉnh trụ thì ông làm tất cả theo hình bông huệ, dài hai thước. 20 Phần thượng các đầu trụ trên hai trụ, sát với bầu trụ, ông cũng làm một hàng hai trăm trái thạch lựu chung quanh cả hai đầu trụ. 21 Ông dựng cột tiền đình của Cung Thánh, ông dựng cột bên phải và đặt tên là Gia-khin, rồi dựng cột bên trái và gọi là Bô-át. 22 Trên đầu các cột ông làm hình bông huệ. Công việc làm cột thế là hoàn tất.

Bể nước bằng đồng (2 Sb 4:2-5)

23 Ông đúc một bể nước rộng năm thước từ mép nọ tới mép kia, hình tròn, cao hai thước rưỡi; lấy dây mà đo chu vi của bể thì được mười lăm thước. 24 Bên dưới mép bể có những hình trái mướp đắng chạy vòng quanh bể, cứ nửa thước là mười trái, khắp chung quanh bể; hai hàng trái mướp đắng cùng đúc một lượt với bể. 25 Bể được đặt trên mười hai con bò: ba con quay mặt về hướng Bắc, ba con quay mặt về hướng Tây, ba con quay mặt về hướng Nam, và ba con quay mặt về hướng Ðông; bể đặt bên trên chúng, và các phần mông của chúng đều quay vào trong. 26 Chiều dày của bể là một tấc, và mép nó giống như mép một cái chén hình hoa huệ. Bể chứa được bốn ngàn thùng.

Giàn lăn và bồn nước bằng đồng

27 Ông làm mười giàn bằng đồng; mỗi cái dài hai thước, rộng hai thước và cao một thước rưỡi. 28 Các giàn ấy được làm như thế này: giàn có những đòn ngang ghép thành khung. 29 Trên những đòn ngang ghép thành khung ấy có khắc hình sư tử, bò và Kê-ru-bim; trên các khung, phía trên phía dưới các con sư tử và bò có những nhành hoa rủ xuống như đeo. 30 Mỗi giàn có bốn bánh xe bằng đồng, với những cái trục; bốn chân của nó có bờ vai đỡ bồn nước; các bờ vai này đều được đúc và bên kia mỗi bờ vai là những nhành hoa. 31 Bên trong vòng là cái miệng giàn cao nửa thước; miệng nó tròn, đo được bảy tấc rưỡi. Trên miệng nó cũng có những hình nổi. Các đòn ngang thì lại vuông chứ không tròn. 32 Bên dưới các đòn ngang có bốn bánh xe; các chốt bánh xe được gắn với giàn; chiều cao của mỗi bánh xe là bảy tấc rưỡi. 33 Người ta làm các bánh xe này cũng như bánh xe thường; chốt, vành, thang bánh xe và đùm bánh xe, tất cả đều đúc. 34 Có bốn bờ vai ở bốn góc của mỗi giàn; các bờ vai này được gắn thành một với giàn. 35 Trên đỉnh giàn có một vòng tròn cao hai tấc rưỡi; trên đỉnh giàn những cái mộng và các đòn ngang làm thành một khối với giàn. 36 Trên mặt các mộng, ông trạm trổ hình các Kê-ru-bim, sư tử và những trái chà là; giữa khoảng cách mỗi vật có những nhành hoa chạy chung quanh. 37 Ông làm mười giàn đều như thế: cùng đúc một kiểu, một kích thước, một hình thể như nhau.

38 Ông làm mười bồn nước bằng đồng; mỗi bồn chứa được tám mươi thùng, và mỗi bồn cao hai thước; mỗi bồn được đặt trên một trong mười giàn. 39 Ông đặt năm giàn bên hông phải Ðền Thờ và năm giàn bên hông trái; còn bể thì ông đặt bên phải Ðền Thờ, hướng đông nam.

Vật dụng trong Ðền Thờ - Tóm lược (2 Sb 4:11 -5:1)

40 Ông Khi-ram làm những chiếc vạc, những cái xẻng và bình rảy. Ông Khi-ram hoàn thành tất cả công trình mà ông đã thực hiện cho vua Sa-lô-môn trong Ðền Thờ Ðức Chúa:

41 Hai trụ, các bầu của các đầu trụ trên hai đỉnh trụ, hai màng lưới bọc hai bầu của các đầu trụ trên đỉnh trụ. 42 Bốn trăm trái thạch lựu cho hai màng lưới, mỗi màng lưới hai hàng thạch lựu, để bọc hai bầu của các đầu trụ trên đỉnh trụ.

43 Mười cái giàn và mười cái bồn đặt trên giàn.

44 Một cái bể và mười hai con bò đỡ phía dưới.

45 Những cái vạc, xẻng và bình rảy.

46 Vua đúc các vật ấy tại đồng bằng Gio-đan, trên mặt đất sét, giữa Xúc-cốt và Xác-than. 47 Vua Sa-lô-môn xếp đặt tất cả các vật ấy, chúng nhiều vô kể, nên không tính được số lượng đồng.

48 Vua Sa-lô-môn đã làm tất cả các vật dụng cho Ðền Thờ Ðức Chúa: bàn thờ bằng vàng, bàn đặt bánh tiến cũng bằng vàng. 49 Các chân đèn: năm chiếc bên phải và năm chiếc bên trái, trước Nơi Cực Thánh, tất cả bằng vàng ròng; hoa, đèn, kéo cắt bấc đều bằng vàng; 50 chén, dao, bình rảy, bình hương, khay đựng tro bằng vàng ròng; các chốt cánh cửa Ðền Thờ bên trong, tức là Nơi Cực Thánh, và các chốt cánh cửa Ðền Thờ, tức là Cung Thánh, cũng bằng vàng.

51 Thế là hoàn thành toàn bộ công trình mà vua Sa-lô-môn đã thực hiện cho Ðền Thờ Ðức Chúa. Vua Sa-lô-môn đưa vào đó các vật thánh mà vua Ða-vít, thân phụ ông đã dâng: bạc, vàng, các vật dụng; vua đặt các vật ấy trong kho Ðền Thờ Ðức Chúa.

Chương 08

Di chuyển Hòm Bia Giao Ước (2 Sb 5:2-10)

1 Bấy giờ vua Sa-lô-môn triệu tập bên mình, tại Giê-ru-sa-lem, các kỳ mục Ít-ra-en, gồm tất cả các người đứng đầu các chi tộc cùng các trưởng tộc con cái Ít-ra-en, để đưa Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa lên, từ Thành vua Ða-vít tức là Xi-on. 2 Mọi người Ít-ra-en tập hợp lại bên vua Sa-lô-môn trong tháng Ê-ta-nim tức là tháng thứ bảy để mừng Lễ. 3 Tất cả các kỳ mục Ít-ra-en đều tới; các tư tế thì khiêng Hòm Bia, 4 và đưa Hòm Bia của Ðức Chúa cũng như Lều Hội Ngộ và tất cả các vật dụng thánh trong Lều lên. Các tư tế và các thầy Lê-vi đưa những thứ ấy lên. 5 Vua Sa-lô-môn và toàn thể cộng đồng Ít-ra-en tụ họp lại bên cạnh vua trước Hòm Bia, sát tế chiên bò nhiều vô kể, không sao đếm nổi. 6 Các tư tế đưa Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa vào nơi đã dành sẵn trong cung Ðơ-via của Ðền Thờ, tức là Nơi Cực Thánh, dưới cánh các Kê-ru-bim. 7 Quả vậy, các Kê-ru-bim xoè cánh ra bên trên Hòm Bia, che phía trên Hòm Bia và các đòn khiêng. 8 Các đòn này dài đến nỗi từ Cung Thánh, trước Nơi Cực Thánh, có thể nhìn thấy các đầu đòn, nhưng từ bên ngoài thì không thấy được. Các đòn này vẫn còn đó cho tới ngày nay. 9 Trong Hòm Bia không có gì ngoài hai Bia đá ông Mô-sê đã đặt vào đó, trên núi Khô-rếp, khi Ðức Chúa lập Giao Ước với con cái Ít-ra-en vào thời họ ra khỏi đất Ai-cập.

Thiên Chúa ngự xuống Ðền Thờ (2 Sb 5:11-6:2)

10 Khi các tư tế ra khỏi Cung Thánh, thì có đám mây toả đầy Ðền Thờ Ðức Chúa. 11 Các tư tế không thể tiếp tục thi hành nhiệm vụ được vì đám mây: quả thật, vinh quang Ðức Chúa đã tràn ngập Ðền Thờ Ðức Chúa.

12 Bấy giờ vua Sa-lô-môn nói:

"Ðức Chúa đã phán: Người sẽ ngự trong đám mây dày đặc. Vâng,

13 Con đã xây cho Ngài một ngôi nhà cao sang. Một nơi để Ngài ngự muôn đời."

Vua Sa-lô-môn hiệu triệu dân chúng (2Sb 6 :3-11)

14 Rồi vua quay mặt lại chúc lành cho toàn thể cộng đồng Ít-ra-en, trong khi cả cộng đồng Ít-ra-en đều đứng. 15 Vua nói: "Chúc tụng Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, Ðấng đã ra tay hoàn thành điều chính miệng Người đã phán với Ða-vít, thân phụ ta, rằng: 16 "Từ ngày Ta đưa Ít-ra-en dân Ta ra khỏi Ai-cập, Ta đã không chọn một thành nào trong tất cả các chi tộc Ít-ra-en để xây một ngôi nhà kính Danh Ta ở đó, nhưng Ta đã chọn Ða-vít đứng đầu Ít-ra-en dân Ta. 17 Vậy Ða-vít thân phụ ta đã có ý xây một ngôi nhà để kính Danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en. 18 Nhưng Ðức Chúa lại phán với Ða-vít thân phụ ta: "Ngươi định tâm xây một ngôi nhà để kính Danh Ta; ngươi định tâm như thế là tốt. 19 Có điều là ngươi sẽ không xây nhà ấy, mà con của ngươi, kẻ từ lòng ngươi sinh ra, chính nó sẽ xây nhà để kính Danh Ta. 20 Ðức Chúa đã thực hiện lời Người phán; ta đã lên kế vị Ða-vít thân phụ ta và ngồi trên ngai Ít-ra-en, như Ðức Chúa đã phán; ta đã xây nhà để kính Danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en; 21 tại đó, ta đã chỉ định một nơi để đặt Hòm Bia có Giao Ước của Ðức Chúa, giao ước Người đã thiết lập với cha ông chúng ta, khi Người đưa họ ra khỏi đất Ai-cập.

Vua Sa-lô-môn cầu nguyện (2 Sb 6:12 -20)

22 Vua Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của Ðức Chúa, trước toàn thể cộng đồng Ít-ra-en, giơ hai tay lên trời và 23 thưa: "Lạy Ðức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en, chốn trời cao cũng như nơi đất thấp, chẳng có thần nào giống như Ngài. Ngài vẫn giữ giao ước và tình thương đối với các tôi tớ Ngài, khi họ hết lòng bước đi trước nhan Ngài. 24 Ngài đã giữ lời Ngài đã phán tôi tớ Ngài là Ða-vít thân phụ con, vì điều chính miệng Ngài phán, thì tay Ngài đã thực hiện, như thấy hôm nay. 25 Giờ đây, lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, xin Ngài cũng giữ điều Ngài đã hứa với tôi tớ Ngài là Ða-vít thân phụ con là: "Bao lâu con cái ngươi giữ đúng đường lối của chúng, là bước đi trước nhan Ta như ngươi đã bước đi trước nhan Ta, thì ngươi sẽ không bao giờ thiếu người ngồi trên ngai báu Ít-ra-en. 26 Vậy, lạy Thiên Chúa của Ít-ra-en, xin thực hiện lời Ngài đã phán với Ða-vít thân phụ con. 27 Có thật Thiên Chúa cư ngụ dưới đất chăng? Này, trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây! 28 Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của con! Xin đoái đến lời tôi tớ Chúa cầu xin khẩn nguyện, mà lắng nghe tiếng kêu cầu của tôi tớ Ngài dâng trước tôn nhan hôm nay. 29 Xin Ngài để mắt nhìn đến ngôi nhà này đêm ngày, nhìn đến nơi này, vì Ngài đã phán "Danh Ta sẽ ở đấy"; xin Ngài lắng nghe lời nguyện tôi tớ Ngài dâng ở nơi đây."

Cầu cho dân (2 Sb 6:21 -31)

30 Xin nghe lời nài van của tôi tớ Ngài và của Ít-ra-en dân Ngài dâng lên ở nơi đây. Từ trời, nơi Ngài ngự, xin lắng nghe; xin lắng nghe và tha thứ.

31 Nếu có ai xúc phạm đến đồng loại, và người ta lấy lời thề độc mà buộc nó phải đến thề trước Bàn Thờ của Ngài trong Ðền Thờ này, 32 thì từ trời xin Ngài lắng nghe và hành động; xin phân xử cho các tôi tớ Ngài, là lên án kẻ có lỗi mà bắt nó phải cúi đầu chịu tội; còn người vô tội thì Ngài minh oan cho họ được vô can.

33 Nếu Ít-ra-en dân Ngài bị quân thù đánh bại vì đã xúc phạm đến Ngài, và nếu họ trở lại với Ngài mà tuyên xưng Danh Ngài và cầu xin, khẩn nài trong Ðền Thờ này, 34 thì từ trời xin Ngài lắng nghe, thứ tha tội lỗi Ít-ra-en dân Ngài và đưa họ về đất Ngài đã ban cho cha ông họ.

35 Khi trời đóng lại và không có mưa vì họ đã xúc phạm đến Ngài, nếu họ cầu nguyện nơi đây, tuyên xưng Danh Ngài, bỏ tội lỗi mà trở về, vì Ngài đã làm cho họ khổ cực, 36 thì từ trời xin Ngài lắng nghe và tha thứ tội lỗi cho các tôi tớ Ngài và cho Ít-ra-en dân Ngài, để họ thấy con đường lành phải theo, và xin cho mưa nhuần tưới xuống trên phần đất Ngài đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.

37 Khi trong xứ có nạn đói kém, dịch hạch, khi mùa màng hư hoại, khi có nạn châu chấu cào cào, khi quân thù vây hãm một thành nào của họ, trong bất cứ tai hoạ hay bệnh tật nào; 38 mọi lời cầu nguyện, khấn xin của bất cứ ai hoặc toàn thể Ít-ra-en dân Ngài dâng lên, vì thấy lương tâm cắn rứt mà giơ tay hướng về Ðền Thờ này, 39 thì từ trời là nơi Ngài ngự, xin Ngài lắng nghe và tha thứ; xin Ngài hành động và ban ơn cho mỗi người tuỳ theo lối sống của họ, bởi vì Ngài biết lòng họ, quả thật chỉ mình Ngài biết rõ lòng con cái loài người, 40 ngõ hầu họ kính sợ Ngài, bao lâu họ còn sống trên phần đất mà Ngài đã ban cho cha ông chúng con.

Phụ trương (2 Sb 6:32 -39)

41 Ngay cả với người ngoại kiều, không thuộc về Ít-ra-en dân Ngài, nếu nó từ phương xa tới vì Danh Ngài, - 42 vì người ta sẽ nghe biết Danh Ngài cao cả, bàn tay Ngài dũng mãnh và cánh tay Ngài giương cao -, nếu nó đến cầu nguyện trong Ðền Thờ này, 43 thì từ trời nơi Ngài ngự xin Ngài lắng nghe và thực hiện mọi điều kẻ ngoại kiều ấy kêu xin, để cho mọi dân trên mặt đất nhận biết Danh Ngài và kính sợ Ngài, như Ít-ra-en dân Ngài và để họ biết là Danh Ngài được kêu cầu nơi Ðền Thờ con đã xây lên đây.

44 Nếu dân Ngài xuất trận chống quân thù theo đường lối Ngài sai họ đi, và nếu họ cầu nguyện với Ðức Chúa, hướng về kinh thành Ngài đã chọn, và Ðền Thờ con đã xây kính Danh Ngài, 45 thì từ trời xin Ngài nghe lời họ cầu nguyện van xin mà xét xử công minh cho họ.

46 Nếu họ xúc phạm đến Ngài - thật thì không người nào mà không phạm tội -, khiến Ngài phải thịnh nộ với họ, mà trao họ cho địch, và những kẻ chiến thắng đày họ sang một xứ thù địch, xa hay gần; 47 nhưng rồi trên đất lưu đày, họ hồi tâm trở lại và van xin Ngài trên đất lưu đày rằng: "Chúng con đã phạm tội, đã làm điều gian ác, chúng con thật đáng tội! 48 Nếu trên đất địch, nơi họ bị lưu đày, họ hết lòng hết sức trở về với Ngài, và cầu nguyện với Ngài; hướng về xứ sở Ngài đã ban cho tổ tiên họ, về kinh thành Ngài đã chọn, và Ðền Thờ con đã xây kính Danh Ngài, 49 thì từ trời, nơi Ngài ngự, xin Ngài nghe lời họ cầu nguyện van xin mà xét xử công minh cho họ, 50 và tha cho dân tội xúc phạm đến Ngài cũng như mọi tội phản bội đối với Ngài; xin Ngài tỏ lòng thương xót họ trước mặt quân chiến thắng, khiến chúng cũng phải thương xót họ, 51 vì họ là dân, là gia nghiệp của Ngài, gia nghiệp Ngài đã đưa ra từ Ai-cập, từ giữa lò nung sắt.

Kết thúc lời nguyện - Chúc lành cho dân

52 Vậy, lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng, xin ghé mắt nhìn đến tôi tớ Ngài đang nài van, đến Ít-ra-en dân Ngài đang cầu nguyện, mà lắng nghe mọi điều họ kêu xin, 53 vì, từ giữa mọi dân tộc trên mặt đất, Ngài đã tách họ ra làm sản nghiệp riêng, như Ngài đã dùng ông Mô-sê tôi tớ Ngài mà phán, khi đưa cha ông chúng con ra khỏi Ai-cập."

54 Sau khi dâng tất cả những lời cầu nguyện và nài van ấy lên Ðức Chúa, thì vua Sa-lô-môn phủ phục rồi đứng lên trước bàn thờ Ðức Chúa, giơ hai tay lên trời, 55 quay xuống, cất lớn tiếng chúc lành cho toàn thể cộng đoàn Ít-ra-en: 56 "Chúc tụng Ðức Chúa, Ðấng đã ban cho Ít-ra-en dân Người được nghỉ ngơi, đúng y như Người đã phán, không sai một lời nào trong tất cả những lời tốt lành Người đã dùng ông Mô-sê, tôi tớ Người, mà phán. 57 Xin Ðức Chúa là Thiên Chúa chúng ta, ở cùng chúng ta như Người đã ở với tổ tiên chúng ta; xin Người đừng để mặc, cũng đừng bỏ rơi chúng ta, 58 nhưng xin hướng lòng chúng ta về với Người, để chúng ta bước đi trên mọi nẻo đường của Người, và tuân giữ các mệnh lệnh, giới răn và luật pháp Người đã truyền cho tổ tiên chúng ta. 59 Ước chi những lời ta khẩn khoản dâng lên Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta ở trước Tôn Nhan Người đêm ngày, để Người bênh vực quyền lợi tôi tớ Người và quyền lợi Ít-ra-en dân Người, ngày này qua ngày khác. 60 Như thế mọi dân trên mặt đất sẽ nhìn nhận Ðức Chúa chính là Thiên Chúa, không có Chúa nào khác. 61 Các ngươi phải hết lòng với Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta mà bước đi theo các giới răn và tuân giữ các mệnh lệnh của Người như ngày hôm nay."

Hiến tế trong ngày Cung hiến Ðền Thờ (2Sb 7 :4-10)

62 Vua cùng toàn thể Ít-ra-en dâng hy lễ trước nhan Ðức Chúa. 63 Vua Sa-lô-môn sát tế hai mươi hai ngàn con bò và một trăm hai mươi ngàn con chiên làm lễ kỳ an dâng lên Ðức Chúa; vua và toàn thể con cái Ít-ra-en cung hiến Ðền Thờ Ðức Chúa. 64 Ngày hôm ấy, vua thánh hiến phần giữa của Tiền đình ở trước Nhà Ðức Chúa; chính tại đây, vua dâng lễ toàn thiêu, lễ phẩm và mỡ của lễ kỳ an, vì bàn thờ bằng đồng trước nhan Ðức Chúa quá nhỏ không đủ chứa lễ toàn thiêu, lễ phẩm và mỡ của lễ kỳ an. 65 Dịp này, vua Sa-lô-môn cùng với toàn thể Ít-ra-en mừng lễ trước nhan Ðức Chúa là Thiên Chúa chúng ta trong bảy ngày, rồi bảy ngày nữa là mười bốn ngày. Thật là một công hội vĩ đại quy tụ từ lối vào Cửa Ải Kha-mát tới suối Ai-cập. 66 Ngày thứ tám, vua giải tán dân. Họ cầu chúc vua khang an rồi ai nấy trở về lều mình, lòng vui mừng hân hoan vì mọi sự tốt lành Ðức Chúa đã làm cho Ða-vít tôi tớ Người và Ít-ra-en dân Người.

Chương 09

Thiên Chúa lại hiện ra với vua Sa-lô-môn (2 Sb 7:11 -22)

1 Sau khi vua Sa-lô-môn hoàn tất việc xây Ðền Thờ Ðức Chúa và cung điện nhà vua, cùng mọi công trình vua dự tính, 2 thì Ðức Chúa lại hiện ra với vua lần thứ hai, giống y như lần hiện ra với vua ở Ghíp-ôn. 3 Ðức Chúa phán với vua: "Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện và van nài trước nhan Ta; Ta đã thánh hoá ngôi nhà này mà ngươi đã xây để cho Danh Ta ngự ở đó muôn đời; Ta sẽ nhìn xem và ưa thích ở đấy mọi ngày. 4 Còn ngươi, nếu ngươi bước đi trước nhan Ta, như Ða-vít thân phụ ngươi, với tâm hồn trong sạch và ngay thẳng, mà thi hành mọi điều Ta truyền cho ngươi và tuân giữ các giới răn và luật pháp của Ta, 5 thì Ta sẽ củng cố ngai vàng của ngươi trên Ít-ra-en đến muôn đời, như Ta đã hứa với Ða-vít, thân phụ ngươi, rằng: "Ngươi sẽ không thiếu người ngự trên ngai Ít-ra-en". 6 Nhưng nếu các ngươi và con cháu các ngươi tráo trở bỏ đường lối của Ta, không giữ các mệnh lệnh, các giới răn Ta đã đặt cho các ngươi, lại đi làm tôi các thần ngoại và thờ lạy chúng, 7 thì Ta sẽ tiêu diệt Ít-ra-en khỏi phần đất mà Ta đã ban cho chúng; còn Ðền Thờ Ta đã thánh hoá để kính Danh Ta, Ta sẽ loại trừ khỏi nhan Ta, và Ít-ra-en sẽ thành bia miệng cho mọi dân tộc đàm tiếu; 8 Ðền Thờ này sẽ thành đống hoang tàn, khiến mọi kẻ qua lại phải sững sờ, huýt sáo mà nói: "Tại sao Ðức Chúa đã xử như thế với đất nước và Ðền Thờ này? 9 Người ta sẽ trả lời: Tại chúng đã bỏ Ðức Chúa Thiên Chúa của chúng, Ðấng đã đưa tổ tiên chúng ra khỏi đất Ai-cập; chúng đã gắn bó với các thần ngoại, sụp lạy và làm tôi các thần ấy, nên Ðức Chúa đã giáng xuống trên chúng tất cả tai hoạ này."

Buôn bán với vua Khi-ram (2 Sm 8:1-2)

10 Trong hai mươi năm vua Sa-lô-môn xây hai ngôi nhà, là Ðền Thờ Ðức Chúa và cung điện nhà vua, 11 thì Khi-ram vua Tia cung cấp cho vua Sa-lô-môn gỗ bá hương, gỗ trắc và vàng tuỳ thích; còn vua Sa-lô-môn thì trao cho vua Khi-ram hai mươi thành trong miền Ga-li-lê. 12 Từ Tia vua Khi-ram đi ra xem các thành vua Sa-lô-môn đã trao cho, nhưng vua không thích các thành ấy. 13 Vua nói: "Này ông anh, thành gì mà ông cho tôi vậy? " Rồi vua gọi các thành ấy là "đất Ca-vun" cho tới ngày nay. 14 Vua Khi-ram gửi tới cho vua Sa-lô-môn ba ngàn sáu trăm ký vàng.

Dân công để xây cất (2 Sb 8:3-11)

15 Ðây là dịch vụ dân công vua Sa-lô-môn đã đặt ra để xây Ðền Thờ Ðức Chúa, cung điện của mình, công trình Mi-lô, tường thành Giê-ru-sa-lem, Kha-xo, Mơ-ghít-đô và Ghe-de. 16 Pha-ra-ô vua Ai-cập đã tiến quân chiếm Ghe-de, thiêu huỷ thành và sát hại dân Ca-na-an cư ngụ ở đó; rồi vua tặng làm của hồi môn cho ái nữ là phu nhân của vua Sa-lô-môn. 17 Vua Sa-lô-môn xây dựng lại Ghe-de và Bết Khô-rôn Hạ,18 rồi Ba-a-lát và Ta-ma ở sa mạc, trong xứ, 19 và tất cả các thành làm kho dự trữ mà vua Sa-lô-môn sẵn có, các thành giữ xe trận, các thành nuôi ngựa và tất cả những gì vua Sa-lô-môn muốn xây cất ở Giê-ru-sa-lem, ở Li-băng và trong toàn lãnh thổ thuộc quyền vua. 20 Tất cả những người còn sót lại thuộc các dân E-mô-ri, Khết, Pơ-rít-di, Khi-vi và Giơ-vút, những người không phải là con cái Ít-ra-en, 21 những người này đã để lại con cháu chúng trong xứ, vì con cái Ít-ra-en không tiêu diệt hết được. Vua Sa-lô-môn bắt tất cả những người đó phải lao động khổ sai đến ngày nay. 22 Phần con cái Ít-ra-en vua Sa-lô-môn không bắt ai phải làm nô dịch cho vua; họ là những chiến sĩ, những cận thần, những tướng lãnh, những viên chức, những người chỉ huy chiến xa và kỵ binh của vua. 23 Họ chỉ huy các đốc công phụ trách công trình của vua Sa-lô-môn, tất cả là năm trăm năm mươi người, giám sát dân chúng làm việc trong các công trình. 24 Khi công chúa của Pha-ra-ô từ Thành Ða-vít lên cung điện đã xây cho bà, thì vua Sa-lô-môn bắt đầu xây công trình Mi-lô.

Phục vụ Ðền Thờ (2 Sb 8:12 -16)

25 Mỗi năm ba lần, vua Sa-lô-môn dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an trên bàn thờ vua đã dựng lên để kính Ðức Chúa; vua thường đốt hương trên bàn thờ trước nhan Ðức Chúa. Thế là vua chu toàn bổn phận đối với Ðền Thờ.

3. Vua Sa-Lô-Môn, Nhà Kinh Doanh

Vua Sa-lô-môn, người tổ chức thương thuyền (2 Sb 8:17 -18)

26 Ngoài ra, vua Sa-lô-môn còn trang bị một đoàn tàu tại E-xi-ôn Ghe-ve, gần Ê-lát, bên bờ Biển Sậy trong đất Ê-đôm. 27 Vua Khi-ram phái tới đoàn tàu các tôi tớ của mình là những thủy thủ thạo nghề biển, cùng với các tôi tớ của vua Sa-lô-môn. 28 Họ đi Ô-phia, mang vàng về và nộp cho vua Sa-lô-môn, tất cả là mười hai tấn.

Chương 10

Cuộc viếng thăm của nữ hoàng Sơ-va (2 Sb 9:1-12)

1 Nữ hoàng Sơ-va nghe biết vua Sa-lô-môn nổi tiếng vì danh Ðức Chúa, thì đến đặt câu đố để thử tài vua. 2 Bà đến Giê-ru-sa-lem cùng với đoàn tuỳ tùng đông đảo, nhiều lạc đà chở đầy hương liệu, và một số lượng rất lớn vàng cùng đá quý. Bà vào hội kiến với vua Sa-lô-môn và nói với vua tất cả những gì bà suy nghĩ trong lòng. 3 Vua Sa-lô-môn giải đáp tất cả những vấn đề bà đưa ra; không có chuyện gì là bí ẩn mà vua không giải đáp được cho bà. 4 Nữ hoàng Sơ-va thấy tất cả sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn và cung điện vua đã xây, 5 những món ăn trên bàn của vua, dinh thự của quần thần, cung cách và trang phục của họ, các thứ rượu của vua, các lễ toàn thiêu vua tiến dâng tại Ðền Thờ Ðức Chúa, bà hết hồn, 6 bà nói với vua: "Những điều tôi đã nghe nói ở nước tôi về ngài và sự khôn ngoan của ngài quả là sự thật. 7 Tôi đã không tin những điều người ta nói, cho tới khi tôi đến và thấy tận mắt; nhưng thực ra người ta cho tôi biết chưa tới một nửa. Ngài còn khôn ngoan và giàu có hơn tiếng đồn tôi đã nghe. 8 Phúc thay thần dân của ngài! Phúc thay quần thần của ngài, những kẻ luôn luôn được túc trực trước mặt ngài và nghe biết sự khôn ngoan của ngài! 9 Chúc tụng Ðức Chúa Thiên Chúa của ngài, Ðấng đã ưu ái đặt ngài lên ngai Ít-ra-en; chính vì lòng yêu thương Ít-ra-en đến muôn đời, mà Ðức Chúa đã đặt ngài làm vua, để ngài thi hành luật pháp và công lý.” 10 Và bà tặng vua ba ngàn sáu trăm ký vàng, một số rất lớn hương liệu và đá quý. Chưa từng có một số lượng hương liệu nhiều như nữ hoàng Sơ-va đã tặng vua Sa-lô-môn. 11 Cả đoàn tàu của vua Khi-ram, mang vàng từ Ô-phia về, cũng đưa rất nhiều gỗ đàn hương và đá quý từ Ô-phia về nữa. 12 Vua dùng gỗ đàn hương làm các cột trụ Ðền Thờ Ðức Chúa, cung điện nhà vua, đàn lia đàn hạc cho các ca sĩ; thứ gỗ đàn hương ấy không còn và cũng không thấy nữa cho tới ngày nay. 13 Vua Sa-lô-môn tặng lại nữ hoàng Sơ-va tất cả những gì bà ngỏ ý thích, chưa kể những gì vua tặng bà xứng với danh vua Sa-lô-môn hào hiệp. Sau đó bà lui gót, cùng với đoàn tuỳ tùng trở về xứ sở.

Sự giàu sang của vua Sa-lô-môn (2 Sb 9:13 -24)

14 Số vàng vua Sa-lô-môn thu nhập hàng năm là hai mươi ngàn ký, 15 không kể vàng do khách vãng lai, do các thương gia, do tất cả các vua Ả-rập và các quan thái thú trong nước đem nộp. 16 Vua Sa-lô-môn làm hai trăm chiếc thuẫn lớn bằng vàng gò; mỗi chiếc thuẫn phải dùng tới sáu ký vàng. 17 Vua còn làm ba trăm chiếc thuẫn nhỏ bằng vàng gò; mỗi chiếc mất một ký rưỡi vàng. Và vua đặt các thuẫn ấy trong Cung Rừng Li-băng. 18 Vua lại làm một cái ngai lớn bằng ngà và dát vàng ròng rất tinh vi. 19 Ngai có sáu cấp, phần trên của lưng ngai thì tròn; hai bên chỗ ngồi có tay tựa, đứng sát tay tựa là hai con sư tử, 20 và mười hai con sư tử đứng trên sáu cấp ở hai bên. Chẳng vương quốc nào làm được như thế.

21 Tất cả các chén để uống của vua Sa-lô-môn đều bằng vàng, và tất cả các vật dụng trong Cung Rừng Li-băng cũng bằng vàng ròng. Không có bạc, vì thời vua Sa-lô-môn bạc không có giá trị gì cả. 22 Quả vậy, vua Sa-lô-môn có một đoàn tàu biển đi Tác-sít, cùng với đoàn tàu của vua Khi-ram; và cứ ba năm một lần, đoàn tàu Tác-sít đến, mang theo vàng, bạc, ngà, khỉ và công. 23 Vua Sa-lô-môn là người trổi vượt hơn tất cả các đế vương trên mặt đất về sự giàu có và khôn ngoan. 24 Thiên hạ ai nấy đều mong diện kiến vua Sa-lô-môn để được nghe sự khôn ngoan mà Thiên Chúa đã ban cho vua. 25 Mỗi vị đều mang lễ vật: đồ bạc, đồ vàng, y phục, vũ khí, hương liệu, ngựa và lừa. Cứ thế từ năm này qua năm khác.

Xa mã của vua Sa-lô-môn (2 Sb 1:24-17; 9:25-28)

26 Vua Sa-lô-môn tập trung xe và ngựa, xe có một ngàn bốn trăm cỗ, và ngựa có mười hai ngàn con. Vua để chúng ở các thành có xe, bên cạnh vua tại Giê-ru-sa-lem. 27 Vua đã làm cho bạc ở Giê-ru-sa-lem ra thường như sỏi đá, còn bá hương thì nhiều như sung ở miền Sơ-phê-la. 28 Ngựa của vua Sa-lô-môn được nhập từ Ai-cập và Cơ-vê. Các thương gia của vua đến tận Cơ-vê mua ngựa theo đúng giá. 29 Một chiếc xe bán ra từ Ai-cập là sáu trăm se-ken bạc, và một con ngựa là một trăm năm mươi. Ðối với tất cả các vua Khết và các vua A-ram, nhờ các thương gia làm trung gian mua vào, thì cũng thế.

Chương 11

4. Bóng Mây Ðen Trên Vương Quốc

Các hậu phi của vua Sa-lô-môn

1 Vua Sa-lô-môn yêu nhiều người đàn bà ngoại bang; ngoài ái nữ của Pha-ra-ô, còn có các bà thuộc dân Mô-áp, Am-mon, Ê-đôm, Xi-đôn, Khết, 2 những dân mà Ðức Chúa đã truyền cho con cái Ít-ra-en là "các ngươi không được đi lại với chúng, và chúng cũng chẳng được đi lại với các ngươi; vì chắc chắn chúng sẽ làm cho lòng các ngươi ngả theo các thần của chúng." Nhưng vua Sa-lô-môn thì lại mê những người đàn bà ấy; 3 vua có bảy trăm bà vợ chính thức và ba trăm cung phi. Và các bà ấy làm cho lòng vua ra hư hỏng. 4 Quả vậy, khi vua Sa-lô-môn về già, các bà vợ của vua đã làm cho lòng vua ngả theo các thần ngoại; lòng vua không còn chung thủy với Ðức Chúa Thiên Chúa của vua, như lòng phụ vương Ða-vít nữa. 5 Vua Sa-lô-môn đi theo nữ thần Át-tô-rét của dân Xi-đôn, theo thần Min-côm ghê tởm của dân Am-mon. 6 Như thế, vua Sa-lô-môn làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, chứ không theo Ðức Chúa trọn vẹn như phụ vương Ða-vít. 7 Bấy giờ vua Sa-lô-môn xây trên núi đối diện với Giê-ru-sa-lem một nơi cao cho thần Cơ-mốt ghê tởm của dân Mô-áp, cho thần Mô-léc ghê tởm của con cái Am-mon. 8 Vua làm như thế với tất cả các bà vợ ngoại đạo của vua; họ đốt hương và sát tế kính các thần của họ.

9 Ðức Chúa nổi giận với vua Sa-lô-môn, vì lòng vua rời xa Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, Ðấng đã hiện ra với vua hai lần, 10 và truyền cho vua là đừng đi theo các thần ngoại, nhưng vua không giữ điều Ðức Chúa đã truyền. 11 Ðức Chúa phán với vua Sa-lô-môn: "Vì ngươi đã như vậy và đã không giữ giao ước cũng như các giới răn Ta truyền cho ngươi, thì chắc chắn Ta sẽ giựt lấy vương quốc ngươi mà trao cho một thuộc hạ của ngươi. 12 Tuy nhiên, vì thân phụ ngươi, Ta sẽ không làm điều đó trong đời ngươi, nhưng sẽ giựt vương quốc khỏi tay con của ngươi. 13 Hơn nữa, vì nể Ða-vít tôi tớ Ta, và vì Giê-ru-sa-lem, thành đô Ta đã chọn, Ta sẽ không giựt lấy cả vương quốc, nhưng sẽ để lại cho con của ngươi một chi tộc."

Những kẻ thù bên ngoài

14 Ðức Chúa xui khiến cho có một người chống lại vua Sa-lô-môn: đó là Ha-đát người Ê-đôm, thuộc hoàng tộc Ê-đôm. 15 Khi vua Ða-vít đã đánh bại Ê-đôm và ông Giô-áp chỉ huy quân đội lên chôn cất các tử thi, thì ông tàn sát mọi đàn ông con trai ở Ê-đôm. 16 Quả vậy, ông Giô-áp cùng toàn thể Ít-ra-en đã ở lại đấy sáu tháng cho tới khi tiêu diệt hoàn toàn mọi đàn ông con trai ở Ê-đôm. 17 Bấy giờ, Ha-đát cùng với mấy người Ê-đôm trong số các tôi tớ của cha mình đã chạy trốn được sang Ai-cập, vì lúc đó Ha-đát là một thiếu niên. 18 Chúng rời Ma-đi-an và tới Pa-ran; từ Pa-ran chúng lấy một số người đi theo mình xuống Ai-cập, vào chầu Pha-ra-ô vua Ai-cập; vua này cung cấp cho chúng nhà ở, bảo đảm lương thực và cho chúng cả đất đai nữa. 19 Ha-đát rất được lòng Pha-ra-ô, nên vua gả em gái vợ mình cho ông, tức là em gái bà Tác-pơ-nết hay là Bà Hoàng. 20 Em gái bà Tác-bơ-nết sinh ra cho ông một người con tên là Gơ-nu-vát; bà Tác-pơ-nết nuôi nấng người con này ngay trong cung điện Pha-ra-ô. Gơ-nu-vát sống trong cung điện Pha-ra-ô giữa các con cái Pha-ra-ô. 21 Ðang khi ở Ai-cập, Ha-đát nghe tin vua Ða-vít đã an nghỉ với tổ tiên và tướng Giô-áp chỉ huy quân đội cũng đã chết, thì thưa với Pha-ra-ô: "Xin để tôi về đất nước tôi.” 22 Pha-ra-ô nói với ông: "Ở với ta, ngươi có thiếu gì mà phải tìm về đất nước ngươi? " Ông thưa: "Không thiếu gì, nhưng xin cứ để tôi đi.” 25b Ðiều ác của Ha-đát là ông gớm ghét Ít-ra-en mà ông lại làm vua cai trị Ê-đôm.

23 Thiên Chúa còn xui khiến cho vua có một địch thủ là Rơ-dôn, con của En-gia-đa, người đã bỏ chủ mình là Ha-đát-e-de, vua Xô-va mà trốn. 24 Một số người tụ họp bên ông và ông trở thành đầu đảng. Vì vua Ða-vít muốn tiêu diệt họ, nên ông đến Ða-mát cư ngụ tại đó và làm vua ở Ða-mát. 25 Ông thù nghịch với Ít-ra-en suốt thời vua Sa-lô-môn.

Cuộc nổi dậy của Gia-róp-am

26 Ông Gia-róp-am là con ông Nơ-vát, người Ép-ra-im, thuộc Xơ-rê-đa; bà Xơ-ru-a mẹ ông là một quả phụ. Ông đã từng phục vụ vua Sa-lô-môn, nhưng lại nổi dậy chống vua. 27 Chuyện ông nổi dậy chống vua như sau:

28 Bấy giờ Gia-róp-am là người có khả năng. Vua Sa-lô-môn thấy chàng trai ấy đảm đang công việc, thì đặt chàng phụ trách toàn thể dân công nhà Giu-se. 29 Một hôm, khi Gia-róp-am từ Giê-ru-sa-lem đi ra, thì dọc đường gặp ngôn sứ A-khi-gia, người Si-lô; ông này khoác một chiếc áo choàng mới. Lúc ấy chỉ có hai ông ở ngoài đồng. 30 Ông A-khi-gia lấy chiếc áo mới mình đang mặc, xé ra làm mười hai mảnh. 31 Rồi ông nói với Gia-róp-am: "Anh cầm lấy mười mảnh, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en phán như sau: "Này Ta sẽ giựt vương quốc khỏi tay Sa-lô-môn để trao cho ngươi mười chi tộc. 32 Nó vẫn còn được một chi tộc, vì nể Ða-vít, tôi tớ Ta, và vì Giê-ru-sa-lem thành đô Ta đã chọn trong tất cả chi tộc Ít-ra-en. 33 Vì nó đã bỏ Ta mà thờ lạy thần Át-tô-rét của dân Xi-đôn, thần Cơ-mốt của Mô-áp, thần Min-côm của con cái Am-mon, và không đi theo đường lối của Ta, là thi hành điều chính trực trước nhan Ta, cũng như các giới răn và luật pháp của Ta như Ða-vít thân phụ nó. 34 Nhưng Ta sẽ không cất hết vương quốc khỏi tay nó, mà sẽ để nó làm thủ lãnh cho đến cuối đời, vì nể Ða-vít tôi tớ Ta, người Ta đã chọn, kẻ đã tuân giữ các mệnh lệnh và các giới răn của Ta. 35 Ta sẽ giựt lấy vương quốc khỏi tay con nó, sẽ cho ngươi mười chi tộc 36 và cho con nó một chi tộc, để Ða-vít tôi tớ Ta luôn luôn có một ngọn đèn trước nhan Ta ở Giê-ru-sa-lem, thành đô Ta đã chọn làm nơi danh Ta ngự trị. 37 Vậy Ta sẽ đặt ngươi làm người cai trị mọi sự như lòng ngươi muốn, và ngươi sẽ làm vua Ít-ra-en. 38 Nếu ngươi vâng nghe tất cả những điều Ta truyền cho ngươi và bước đi theo đường lối của Ta, thi hành điều chính trực trước nhan Ta mà tuân giữ các giới răn và mệnh lệnh của Ta như Ða-vít tôi tớ Ta đã làm, thì Ta sẽ ở với ngươi và xây cho ngươi một ngôi nhà bền vững như Ta đã xây cho Ða-vít, và Ta sẽ trao Ít-ra-en cho ngươi. 39 Như thế, Ta sẽ hạ dòng dõi Ða-vít xuống, nhưng không phải mãi đâu!"

40 Vua Sa-lô-môn tìm cánh giết Gia-róp-am; nhưng Gia-róp-am chỗi dậy và trốn sang Ai-cập, đến với Si-sắc vua Ai-cập, và ở Ai-cập cho tới khi vua Sa-lô-môn qua đời.

Kết thúc triều đại Sa-lô-môn (2Sb 9 :29-31)

41 Các truyện khác về vua Sa-lô-môn và tất cả những gì vua đã thực hiện cũng như sự khôn ngoan của vua đều đã được ghi chép trong sách Sử biên niên của vua Sa-lô-môn. 42 Thời gian vua Sa-lô-môn trị vì toàn thể Ít-ra-en tại Giê-ru-sa-lem là bốn mươi năm. 43 Vua Sa-lô-môn đã an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất trong Thành Ða-vít thân phụ vua; và thái tử Rơ-kháp-am lên ngôi kế vị vua.

Chương 12

III. Cuộc Ly Khai Về Chính Trị Và Tôn Giáo

Ðại hội tại Si-khem (2 Sb 10:1-19)

1 Rơ-kháp-am đi Si-khem, vì toàn thể Ít-ra-en tụ họp ở Si-khem để tôn ông lên làm vua. 2 Lúc ấy Gia-róp-am con ông Nơ-vát nghe biết chuyện ấy, -ông còn đang ở bên Ai-cập vì ông đã trốn vua Sa-lô-môn sang đó- ông liền bỏ Ai-cập trở về. 3 Người ta cho mời ông Gia-róp-am. Ông và toàn thể cộng đoàn Ít-ra-en tới. Họ thưa với Rơ-kháp-am rằng: 4 "Phụ vương ngài đã bắt chúng tôi mang một cái ách quá nặng. Bây giờ nếu ngài giảm bớt khổ dịch và ách nặng nề phụ vương đã đặt trên chúng tôi, thì chúng tôi sẽ phục dịch ngài.” 5 Vua nói với họ: "Các ngươi cứ đi đi, ba ngày nữa trở lại đây gặp ta." Dân chúng liền rút lui.

6 Vua Rơ-kháp-am bàn hỏi với các kỳ mục là những người đã từng hầu cận phụ vương Sa-lô-môn, khi vua này còn sống; vua Rơ-kháp-am nói: "Các ngươi góp ý với ta thế nào, để ta còn trả lời cho dân này?” 7 Họ thưa với vua: "Nếu hôm nay ngài làm đầy tớ cho dân này, nếu ngài phục vụ và để ý tới dân, dùng lời lẽ ôn tồn mà nói với dân, thì dân sẽ làm tôi ngài mãi mãi.” 8 Nhưng vua không đếm xỉa gì đến ý kiến các kỳ mục đưa ra, lại đi bàn hỏi với đám người trẻ, là những bạn thiếu thời hiện đang hầu cận vua. 9 Vua nói với họ: "Các ngươi góp ý với ta thế nào, để ta còn trả lời cho dân này, vì nó đã nói với ta rằng: Xin ngài giảm bớt cái ách nặng phụ vương đã đặt trên chúng tôi!” 10 Ðám người trẻ, những bạn thiếu thời của vua, thưa vua rằng: "Ngài sẽ trả lời cho dân đã từng nói với ngài: "Phụ vương ngài đã đặt ách nặng trên chúng tôi, nhưng xin ngài giảm bớt cho chúng tôi", xin ngài nói với chúng thế này: "Ngón tay nhỏ của ta còn lớn hơn cả lưng của phụ vương ta. 11 Vậy phụ vương ta đã đặt ách nặng trên các ngươi, còn ta, ta chất cho nặng hơn nữa; phụ vương ta trừng phạt các ngươi bằng roi, còn ta, ta sẽ trừng phạt các ngươi bằng bọ cạp."

12 Ngày thứ ba, Gia-róp-am cùng toàn dân đến yết kiến vua Rơ-kháp-am như vua đã hẹn rằng: "Ba ngày nữa trở lại gặp ta.” 13 Vua trả lời cứng cỏi với dân; vua không đếm xỉa gì đến ý kiến các kỳ mục đã đưa ra, 14 nhưng nói với họ theo ý kiến đám người trẻ rằng: "Phụ vương ta đã đặt ách nặng trên các ngươi, còn ta, ta chất nặng hơn nữa trên các ngươi; phụ vương ta trừng phạt các ngươi bằng roi, còn ta, ta sẽ trừng phạt các ngươi bằng bọ cạp.” 15 Thế là vua không chịu nghe dân: Ðức Chúa đã để như vậy cho lời Người được ứng nghiệm, lời mà Ðức Chúa đã dùng ông A-khi-gia người Si-lô mà phán với ông Gia-róp-am con ông Nơ-vát. 16 Khi toàn thể Ít-ra-en thấy vua không thèm nghe họ, thì dân đáp lại vua rằng:

"Chúng tôi có liên hệ chi với Ða-vít? Chẳng có phần gì với con của Gie-sê! Ít-ra-en ơi, ai về lều nấy! Này Ða-vít hãy liệu lấy nhà của ngươi!"

17 Còn con cái Ít-ra-en cư ngụ tại các thành của Giu-đa, thì vua Rơ-kháp-am vẫn làm vua cai trị họ. 18 Vua Rơ-kháp-am cử ông A-đô-ram phụ trách việc dân công, nhưng toàn thể Ít-ra-en ném đá ông và ông đã chết; còn vua Rơ-kháp-am thì vội vã lên xe trốn về Giê-ru-sa-lem. 19 Thế là Ít-ra-en ly khai với nhà Ða-vít cho tới ngày nay.

Ly khai về chính trị (2 Sb 11:1-4)

20 Khi toàn thể Ít-ra-en nghe tin ông Gia-róp-am đã về nước, thì sai người mời ông tới đại hội và phong ông làm vua cai trị toàn thể Ít-ra-en; chỉ còn một mình chi tộc Giu-đa là theo nhà Ða-vít.

21 Về tới Giê-ru-sa-lem, vua Rơ-kháp-am tập họp toàn thể nhà Giu-đa và chi tộc Ben-gia-min, được một trăm tám mươi ngàn quân tinh nhuệ để giao chiến với nhà Ít-ra-en và thu hồi vương quốc về cho Rơ-kháp-am con vua Sa-lô-môn. 22 Nhưng có lời Thiên Chúa phán với ông Sơ-ma-gia, người của Thiên Chúa rằng: 23 "Hãy nói với Rơ-kháp-am con của Sa-lô-môn vua Giu-đa, với toàn thể nhà Giu-đa và Ben-gia-min cùng phần còn lại của dân rằng: 24 "Ðức Chúa phán thế này: Các ngươi không được lên giao chiến với con cái Ít-ra-en là anh em các ngươi; ai nấy cứ về nhà mình, vì mọi chuyện là do Ta." Họ nghe lời Ðức Chúa và quay về như Ðức Chúa đã phán. 25 Vua Gia-róp-am xây dựng Si-khem trong vùng núi Ép-ra-im và ở lại đó. Ðoạn vua rời nơi ấy, đi xây dựng Pơ-nu-ên.

Ly khai về tôn giáo

26 Vua Gia-róp-am nghĩ bụng rằng: "Rồi vương quốc lại trở về nhà Ða-vít mất thôi! 27 Nếu dân này cứ lên tế lễ tại Ðền Thờ Ðức Chúa ở Giê-ru-sa-lem, thì lòng họ lại quay về với chủ mình là Rơ-kháp-am vua Giu-đa, và họ sẽ giết ta để trở về với Rơ-kháp-am vua Giu-đa.” 28 Sau khi quyết định, vua làm hai con bò mộng bằng vàng, rồi nói với dân: "Các ngươi lên Giê-ru-sa-lem như thế là đủ rồi! Này, Ít-ra-en, Thiên Chúa của ngươi đây, Ðấng đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập.” 29 Vua đặt một tượng ở Bết Ên, còn tượng kia ở Ðan. 30 Ðó là nguyên cớ gây ra tội, vì dân đi tới mãi tận Ðan để thờ một trong hai tượng đó. 31 Vua thiết lập những nơi cao và đặt các tư tế lấy từ đám thường dân, không thuộc hàng con cháu Lê-vi. 32 Vua Gia-róp-am còn lập một lễ vào ngày mười lăm tháng tám, giống như lễ vẫn mừng ở Giu-đa, và vua tiến lên bàn thờ. Vua đã làm như thế tại Bết Ên mà dâng lễ tế cho các con bò mộng vua đã làm ra. Vua đặt ở Bết Ên các tư tế để phục vụ tại các nơi cao mà vua đã thiết lập. 33 Vua tiến lên bàn thờ đã lập ở Bết Ên, vào ngày mười lăm tháng tám, tháng vua chọn theo sở thích; vua lập nên một ngày lễ cho con cái Ít-ra-en và lên bàn thờ đốt hương.

Chương 13

Kết án bàn thờ tại Bết Ên

1 Do lệnh của Ðức Chúa, có một người của Thiên Chúa từ Giu-đa đến Bết Ên vào lúc Gia-róp-am đang đứng gần bàn thờ đốt hương, 2 và theo lệnh Ðức Chúa, người ấy la lên chống bàn thờ rằng: "Bàn thờ, bàn thờ! Ðức Chúa phán thế này: Rồi đây một người con sẽ sinh ra cho nhà Ða-vít, tên là Giô-si-gia-hu; trên ngươi, nó sẽ sát tế các tư tế phục vụ tại các nơi cao, là những kẻ đã đốt hương trên ngươi; trên ngươi, nó sẽ đốt xương người.” 3 Ngay hôm ấy, ông cho một dấu hiệu, mà rằng: "Ðây là dấu Ðức Chúa đã phán: Này bàn thờ sẽ rạn nứt và tro trên đó sẽ đổ ra.” 4 Khi vua nghe biết lời mà người của Thiên Chúa la lên chống bàn thờ Bết Ên, thì từ bàn thờ, vua Gia-róp-am giơ tay ra và nói: "Bắt lấy nó!" Nhưng bàn tay giơ ra đe ông liền khô cứng, không co lại được nữa. 5 Và bàn thờ rạn nứt, tro từ bàn thờ đổ ra, đúng như dấu hiệu mà người của Thiên Chúa đã cho, theo lệnh Ðức Chúa. 6 Vua đáp lại và nói với người của Thiên Chúa: "Xin ông làm cho nét mặt Ðức Chúa dịu lại, khẩn nài Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, và xin cho ta co tay lại được." Người của Thiên Chúa đã làm cho nét mặt Ðức Chúa dịu lại và tay vua co lại được như trước. 7 Bấy giờ vua nói với người của Thiên Chúa: "Về nhà với ta để bổ sức, và ta sẽ tặng cho một món quà.” 8 Nhưng người của Thiên Chúa thưa với vua: "Ngài có cho tôi phân nửa nhà của ngài, tôi cũng sẽ không đi với ngài, hoặc ăn bánh hay uống nước tại đây; 9 vì Ðức Chúa đã truyền lệnh cho tôi rằng: "Ngươi không được ăn bánh, không được uống nước, cũng chẳng được trở về qua con đường ngươi đã đi trước.” 10 Vậy, ông ra đi theo con đường khác, không trở về qua ngả đường đã dẫn ông đến Bết Ên.

Người của Thiên Chúa và vị ngôn sứ

11 Có một ngôn sứ già cư ngụ tại Bết Ên. Mấy người con của cụ đến kể cho cụ nghe mọi việc người của Thiên Chúa đã làm hôm đó tại Bết Ên, những lời ông ta đã nói với vua, họ cũng kể cho cha họ nghe. 12 Người cha nói: "Ông ta đã đi đường nào?" Họ chỉ cho cụ con đường người của Thiên Chúa đã ra đi, sau khi từ Giu-đa tới. 13 Cụ liền nói với các con: "Thắng lừa cho cha." Họ thắng lừa cho cụ; cụ cỡi lừa 14 và đi tìm người của Thiên Chúa. Gặp được ông đang ngồi dưới cây sồi, cụ liền nói với ông: "Ông là người của Thiên Chúa từ Giu-đa tới phải không?" Người ấy đáp: "Thưa phải.” 15 Cụ bảo ông: "Ði với lão về nhà và ăn một chút bánh.” 16 Người ấy nói: "Tôi không thể cùng với cụ quay trở lại và đến nhà cụ; tôi sẽ không ăn bánh và uống nước với cụ tại đó, 17 vì có lời Ðức Chúa phán với tôi: "Ngươi không được ăn bánh, không được uống nước tại đó; không được trở về qua con đường mà ngươi đã đến.” 18 Cụ nói với ông: "Lão cũng là ngôn sứ như ông, và một thiên thần đã nói với lão theo lệnh Ðức Chúa rằng: "Hãy đưa nó cùng với ngươi quay trở lại nhà ngươi để nó ăn bánh, uống nước." Cụ đã nói dối ông. 19 Vậy ông cùng với cụ quay trở lại; ông đã ăn bánh ở nhà cụ và uống nước nữa.

20 Khi họ đang ngồi ở bàn ăn, thì có lời Ðức Chúa phán với vị ngôn sứ đã đưa người kia quay trở lại. 21 Cụ liền kêu người của Thiên Chúa đã từ Giu-đa đến mà bảo: "Ðức Chúa phán thế này: bởi vì ngươi đã trái lệnh Ðức Chúa, không tuân giữ điều Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đã truyền cho ngươi, 22 ngươi đã quay trở lại, ăn bánh, uống nước, tại nơi Người đã truyền cho ngươi không được ăn bánh uống nước, cho nên thây của ngươi sẽ không được vào chung mồ với tổ tiên ngươi.” 23 Ăn uống xong, cụ thắng lừa cho vị ngôn sứ mà cụ đã đưa quay trở lại. 24 Ông ra đi, và dọc đường, một con sư tử bắt gặp ông, đã vồ ông chết và bỏ thây ông nằm giữa đường. Con lừa vẫn đứng bên cạnh ông, cả con sư tử cũng đứng gần xác chết. 25 Chợt có mấy người đi qua, thấy xác chết bỏ giữa đường và con sư tử đứng bên, thì vào kể lại trong thành, nơi vị ngôn sứ già cư ngụ. 26 Khi vị ngôn sứ già, người đã làm cho ông bỏ đường quay trở lại biết chuyện, thì nói: "Ông ấy là người của Thiên Chúa, nhưng đã trái lệnh Ðức Chúa, nên Ðức Chúa đã để cho sư tử vồ chết, như lời Ðức Chúa đã phán với ông trước.” 27 Rồi cụ bảo các con: "Thắng lừa cho cha!" Họ thắng lừa cho cụ. 28 Cụ đi và thấy xác người kia bỏ giữa đường, có con lừa và con sư tử đứng bên cạnh; con sư tử không ăn thây người chết, cũng không cắn xé con lừa. 29 Vị ngôn sứ lấy xác người của Thiên Chúa đặt lên lừa, đưa trở lại thành của vị ngôn sứ già để làm đám tang và chôn cất. 30 Cụ đặt thi hài ông trong chính mộ của cụ, và người ta khóc thương ông: "Ôi! người anh em của tôi ơi!” 31 Chôn cất xong, cụ nói với các con: "Khi cha chết, các con hãy chôn cất cha trong cùng một ngôi mộ mà người của Thiên Chúa đã được chôn cất; hãy đặt hài cốt cha bên cạnh hài cốt ông. 32 Vì chắc chắn sẽ ứng nghiệm lời ông đã theo lệnh Ðức Chúa kết án bàn thờ ở Bết Ên và tất cả các đền thờ tại các nơi cao trong thành của Sa-ma-ri."

33 Sau sự việc này, vua Gia-róp-am cũng không chịu bỏ đường lối xấu xa của mình, nhưng vẫn cứ đặt những người dân thường làm tư tế tại các nơi cao. Ưa ai thì ông phong làm tư tế tại các nơi cao. 34 Sự việc này là nguyên cớ cho nhà Gia-róp-am phạm tội, rồi bị sụp đổ và tiêu ma khỏi mặt đất.

Chương 14

IV. Lịch Sử Hai Vương Quốc Cho Tới Thời Ngôn Sứ Ê-Li-A

Giai đoạn kế tiếp triều đại vua Gia-róp-am I (931-910)

1 Bấy giờ hoàng tử A-vi-gia, con vua Gia-róp-am, lâm bệnh; 2 vua Gia-róp-am nói với phu nhân: "Này! Xin bà đứng lên và cải trang để người ta không biết được bà là vợ của Gia-róp-am, rồi đi tới Si-lô. Ở đấy có ngôn sứ A-khi-gia là người đã báo trước cho tôi biết tôi sẽ làm vua dân này. 3 Bà hãy mang theo mười ổ bánh, một ít bánh ngọt, một bình mật ong và đến gặp ông. Ông sẽ nói cho bà biết về số phận đứa trẻ; 4 phu nhân vua Gia-róp-am làm như vậy. Bà trỗi dậy đi tới Si-lô, đến nhà ông A-khi-gia-hu. Ông A-khi-gia-hu không nhìn thấy được nữa, vì tuổi già đã làm cho mắt ông đờ ra. 5 Ðức Chúa phán với ông A-khi-gia-hu: "Này, vợ của Gia-róp-am đến hỏi ngươi về đứa con của nó, vì đứa trẻ lâm bệnh. Ngươi sẽ trả lời nó thế này, thế này." Khi đến, bà ấy giả làm một người khác. 6 Nhưng khi ông A-khi-gia-hu nghe tiếng chân bà bước qua cửa thì nói: "Xin mời phu nhân vua Gia-róp-am vào! Tại sao bà lại giả làm người khác? Tôi được lệnh báo cho bà một tin buồn. 7 Xin bà về nói với vua Gia-róp-am: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: Ta đã cất nhắc ngươi lên từ đám dân thường, đặt ngươi làm đầu Ít-ra-en dân Ta; 8 Ta đã giựt vương quốc khỏi nhà Ða-vít để ban cho ngươi nhưng ngươi đã không được như Ða-vít, tôi tớ Ta, là người đã tuân giữ các giới răn của Ta và hết lòng đi theo Ta, chỉ làm những điều ngay chính trước mặt Ta. 9 Còn ngươi, thì làm sự dữ, hành động xấu xa hơn mọi kẻ đi trước ngươi, vì ngươi đã đi tới chỗ làm ra các thần ngoại, những hình tượng đúc để chọc giận Ta và vứt bỏ Ta sau lưng ngươi. 10 Vì thế, này Ta sẽ giáng hoạ xuống nhà Gia-róp-am: Ta sẽ tiêu diệt khỏi nhà ấy mọi đàn ông con trai, tự do hay nô lệ trong dân Ít-ra-en, sẽ quét sạch dòng dõi nhà Gia-róp-am như người ta quét phân rác, cho đến khi nó bị tận diệt. 11 Kẻ nào thuộc về nhà Gia-róp-am mà chết trong thành thì sẽ bị chó ăn thịt; người chết ngoài đồng sẽ bị chim trời rỉa thây. Vì đó là lời Ðức Chúa. 12 Còn bà, bà hãy đứng dậy mà về nhà. Khi bà bước chân vào thành thì đứa trẻ sẽ chết. 13 Toàn thể Ít-ra-en sẽ khóc thương nó, và người ta sẽ chôn cất nó; chỉ một mình đứa con này của Gia-róp-am được chôn trong mồ, bởi vì trong cả nhà Gia-róp-am, nó là người còn có một chút gì đẹp lòng Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en. 14 Ðức Chúa sẽ cho một vua đứng lên cai trị Ít-ra-en, ông sẽ tiêu diệt nhà Gia-róp-am vào ngày ấy. Biết nói gì nữa bây giờ? 15 Ðức Chúa sẽ đánh Ít-ra-en ngả nghiêng như cây sậy trong dòng nước; Người sẽ bứng Ít-ra-en khỏi đất đai màu mỡ mà Người đã ban cho tổ tiên họ, và sẽ phân tán họ sang bên kia Sông, vì họ đã làm ra các cột thần mà chọc giận Ðức Chúa. 16 Vì các tội vua Gia-róp-am đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo, thì Người sẽ trao nộp Ít-ra-en.” 17 Phu nhân vua Gia-róp-am đứng dậy, ra đi và tới Tia-xa. Bà vừa bước qua ngưỡng cửa nhà thì đứa trẻ chết. 18 Người ta chôn cất nó, và toàn thể Ít-ra-en khóc thương nó, đúng như lời Ðức Chúa đã dùng ngôn sứ A-khi-gia-hu tôi tớ Người mà phán.

19 Các truyện còn lại về vua Gia-róp-am, các cuộc chiến và cách thức cai trị của vua đều được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en. 20 Thời vua Gia-róp-am trị nước là hai mươi hai năm. Vua nằm xuống với tổ tiên; con vua là Na-đáp lên ngôi kế vị.

Triều đại vua Rơ-kháp-am (931-913) (2 Sb 11:5; 12:1-2,9-16)

21 Con vua Sa-lô-môn là Rơ-kháp-am trị vì nước Giu-đa. Khi lên ngôi, vua Rơ-kháp-am được bốn mươi mốt tuổi; vua trị vì mười bảy năm tại Giê-ru-sa-lem là thành đô Ðức Chúa đã chọn làm nơi đặt Danh Người trong tất cả các chi tộc Ít-ra-en. Thân mẫu vua là bà Na-a-ma, người Am-mon. 22 Giu-đa đã làm sự dữ trái mắt Ðức Chúa và vì tất cả các tội của họ, họ đã chọc giận Ðức Chúa còn hơn mọi điều cha ông họ đã phạm. 23 Họ lại xây cất những nơi cao, những trụ thờ và những cột thần trên khắp đồi cao và dưới mọi cây xanh rậm. 24 Trong xứ có cả bọn trai điếm phục vụ đền thần. Chúng làm những điều ghê tởm như các dân ngoại mà Ðức Chúa đã đuổi đi cho khuất mắt Ít-ra-en.

25 Năm thứ năm triều vua Rơ-kháp-am, vua Ai-cập là Si-sắc, đã tiến đánh Giê-ru-sa-lem. 26 Ông chiếm đoạt các kho tàng của Ðền Thờ Ðức Chúa cũng như kho tàng của hoàng cung. Ông lấy hết, chiếm đoạt tất cả các khiên thuẫn bằng vàng vua Sa-lô-môn đã làm. 27 Vua Rơ-kháp-am làm các khiên thuẫn bằng đồng để thay thế và giao cho các người chỉ huy thị vệ canh gác cửa hoàng cung. 28 Mỗi khi vua vào Ðền Thờ Ðức Chúa thì các thị vệ mang ra, rồi lại đưa về phòng thị vệ.

29 Các truyện còn lại về vua Rơ-kháp-am và mọi việc vua làm đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 30 Giữa vua Rơ-kháp-am và vua Gia-róp-am luôn luôn có giao tranh. 31 Vua Rơ-kháp-am đã an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất với các ngài trong Thành Ða-vít. Thân mẫu của vua là bà Na-a-ma, người Am-mon. Con vua là A-vi-giam lên ngôi kế vị.

Chương 15

Triều đại vua A-vi-giam tại Giu-đa (913-911) (2 Sb 13:1-14:1)

1 Năm thứ mười tám triều vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát là A-vi-giam lên làm vua Giu-đa, 2 và trị vì tại Giê-ru-sa-lem ba năm; thân mẫu vua là bà Ma-a-kha, ái nữ ông Áp-sa-lôm. 3 Vua rập theo con đường tội lỗi vua cha đã đi trước, mà không trọn tình với Ðức Chúa, Thiên Chúa của vua, như Ða-vít tổ tiên vua. 4 Nhưng, vì nể Ða-vít, Ðức Chúa, Thiên Chúa của vua, cũng ban cho vua một ngọn đèn tại Giê-ru-sa-lem là gầy dựng cho vua một người con kế vị và làm cho Giê-ru-sa-lem đứng vững; 5 chỉ vì Ða-vít đã làm điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa, không bỏ qua một điều nào trong tất cả những điều Người đã truyền cho vua suốt thời gian vua còn sống, ngoài truyện ông U-ri-gia, người Khết.

6 Giữa vua Rơ-kháp-am và vua Gia-róp-am luôn luôn có giao tranh trong buổi sinh thời. 7 Các truyện còn lại về vua A-vi-giam và mọi việc vua làm đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? Và chiến tranh cũng xảy ra giữa vua A-vi-giam và vua Gia-róp-am. 8 Vua A-vi-giam đã an nghỉ với tổ tiên, và được chôn cất trong Thành Ða-vít; con vua là A-xa lên ngôi kế vị.

Triều đại vua A-xa tại Giu-đa (911-870) (2 Sb 15:16 -16:6,11 -14)

9 Năm thứ hai mươi triều vua Gia-róp-am cai trị Ít-ra-en thì vua A-xa lên làm vua Giu-đa. 10 Vua trị vì tại Giê-ru-sa-lem bốn mươi mốt năm. Bà nội của vua là Ma-a-kha, ái nữ ông Áp-sa-lôm. 11 Vua A-xa làm điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa, như Ða-vít tổ tiên vua. 12 Vua đuổi ra khỏi xứ bọn trai điếm phục vụ đền thần, dẹp hết các tượng thần cha ông của vua đã làm. 13 Ngay cả bà nội của vua là Ma-a-kha, cũng bị vua cách chức quốc mẫu, vì bà đã làm một vật kinh tởm kính thần A-sê-ra. Vua A-xa phá huỷ vật kinh tởm đó và đem đốt trong thung lũng Kít-rôn. 14 Các nơi cao chưa biến đi, nhưng vua A-xa vẫn suốt đời trọn tình vẹn nghĩa với Ðức Chúa. 15 Vua đưa vào Ðền Thờ Ðức Chúa các vật thánh mà vua cha cũng như chính vua dâng cúng: bạc, vàng và các vật dụng.

16 Giữa vua A-xa và vua Ba-sa của Ít-ra-en luôn luôn có giao tranh suốt buổi sinh thời hai vua. 17 Ba-sa vua Ít-ra-en tiến đánh Giu-đa và vua kiến thiết Ra-ma, để không cho ai ra vào liên lạc với A-xa vua Giu-đa. 18 Bấy giờ vua A-xa lấy tất cả bạc, vàng còn lại trong các kho tàng Ðền Thờ Ðức Chúa và các kho tàng của hoàng cung, trao vào tay bề tôi của vua, rồi vua A-xa sai họ đến với vua A-ram là Ben Ha-đát, con ông Táp-rim-môn, con ông Khét-giôn, cư ngụ tại Ða-mát và nói rằng: 19 "Nên có hiệp ước giữa tôi với ngài, cũng như giữa thân phụ tôi với thân phụ ngài! Ðây, tôi xin gửi tặng ngài bạc vàng làm quà. Xin ngài huỷ bỏ hiệp ước giữa ngài với Ba-sa vua Ít-ra-en, để ông ấy bỏ tôi mà rút về!” 20 Vua Ben Ha-đát nghe lời vua A-xa và sai các vị chỉ huy quân đội đánh các thành của Ít-ra-en; vua đánh chiếm I-giôn Ðan, A-vên Bết Ma-a-kha, tất cả Kin-nơ-rốt, mãi cho đến vùng đất Náp-ta-li. 21 Nghe biết chuyện này, vua Ba-sa ngưng kiến thiết Ra-ma, mà trở về Tia-xa. 22 Bấy giờ vua A-xa triệu tập toàn thể Giu-đa, không trừ một ai, và họ lấy đi đá, gỗ ở Ra-ma mà vua Ba-sa dùng để xây cất. Vua A-xa dùng các thứ ấy mà kiến thiết Ghe-va thuộc Ben-gia-min và Mít-pa.

23 Các truyện còn lại về vua A-xa, tất cả chiến công của vua, mọi việc vua làm, các thành vua xây, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? Chỉ có điều về già vua bị đau chân. 24 Vua A-xa nằm xuống với tổ tiên và được chôn cất với các ngài trong Thành vua Ða-vít tổ tiên vua. Con vua là Giơ-hô-sa-phát lên ngôi kế vị.

Triều đại vua Na-đáp tại Ít-ra-en (910-909)

25 Năm thứ hai triều vua A-xa, vua Giu-đa, Na-đáp, con vua Gia-róp-am lên làm vua Ít-ra-en và cai trị Ít-ra-en hai năm. 26 Vua làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, đi theo con đường của vua cha, phạm các tội vua ấy đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo. 27 Ba-sa, con ông A-khi-gia, thuộc nhà Ít-xa-kha âm mưu chống lại vua. Khi vua Na-đáp và toàn dân Ít-ra-en bao vây Ghíp-bơ-thôn, ông Ba-sa đã giết vua tại Ghíp-bơ-thôn thuộc Phi-li-tinh. 28 Ông Ba-sa đã giết vua vào năm thứ ba triều A-xa, vua Giu-đa, và ông đã lên ngôi thế vị. 29 Lên ngôi rồi, vua hạ sát tất cả nhà Gia-róp-am, không để sót một mạng nào mà không tiêu diệt, như lời Ðức Chúa đã dùng tôi tớ Người là A-khi-gia, người Si-lô, mà phán trước, 30 vì tội vua Gia-róp-am đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo, cũng như vì vua đã chọc giận Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en.

31 Các truyện còn lại về vua Na-đáp và mọi việc vua làm, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 32 Giữa vua A-xa và vua Ba-sa vua Ít-ra-en luôn luôn có giao tranh suốt buổi sinh thời hai vua.

Triều đại vua Ba-sa tại Ít-ra-en (909-886)

33 Năm thứ ba triều A-xa, vua Giu-đa, Ba-sa, con ông A-khi-gia lên làm vua toàn cõi Ít-ra-en, trị vì tại Tia-xa hai mươi năm. 34 Vua làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa đi theo con đường của vua Gia-róp-am, phạm các tội vua ấy đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.

Chương 16

1 Có lời Ðức Chúa phán với ông Giê-hu, con ông Kha-na-ni, chống lại vua Ba-sa, rằng: 2 "Từ bụi đất Ta đã kéo ngươi lên và đặt ngươi làm thủ lãnh Ít-ra-en dân Ta, nhưng ngươi đã đi theo con đường của Gia-róp-am, và đã lôi kéo Ít-ra-en dân Ta phạm tội, mà chọc giận Ta, vì thế 3 này Ta sẽ quét sạch hậu duệ của Ba-sa và con cháu nhà nó, Ta sẽ làm cho nhà ngươi nên như nhà của Gia-róp-am, con của Nơ-vát. 4 Kẻ nào thuộc về Ba-sa mà chết trong thành thì sẽ bị chó ăn thịt, người chết ngoài đồng sẽ bị chim trời rỉa thây."

5 Các truyện còn lại về vua Ba-sa, và mọi việc làm, và các chiến công của vua, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 6 Vua Ba-sa nằm xuống với tổ tiên và được chôn cất tại Tia-xa. Con vua là Ê-la lên ngôi kế vị.

7 Lại có lời Ðức Chúa dùng ngôn sứ Giê-hu, con ông Kha-na-ni, mà phán để chống vua Ba-sa và dòng họ: vì tất cả điều dữ vua đã làm trái mắt Ðức Chúa mà chọc giận Người, vì các việc vua đã làm chẳng hơn gì nhà Gia-róp-am, và vì vua đã tiêu diệt nhà ấy.

Triều đại vua Ê-la tại Ít-ra-en (886-885)

8 Năm hai mươi sáu triều A-xa, vua Giu-đa, Ê-la, con vua Ba-sa lên ngôi làm vua Ít-ra-en. Vua trị vì tại Tia-xa hai năm. 9 Dim-ri, bầy tôi của vua, chỉ huy phân nửa chiến xa, đã âm mưu chống lại vua. Khi vua uống rượu say ở Tia-xa, tại nhà ông Ác-xa, quản đốc hoàng cung tại Tia-xa, 10 thì Dim-ri đi vào hạ sát vua, năm hai mươi bảy triều A-xa, vua Giu-đa, rồi lên làm vua thế vị. 11 Lên ngôi rồi, vua liền hạ sát tất cả nhà vua Ba-sa không để sót một đàn ông con trai, thân thích hay bạn bè nào. 12 Vua Dim-ri tiêu diệt hết dòng họ nhà vua Ba-sa, đúng như lời Ðức Chúa dùng ngôn sứ Giê-hu mà phán để chống lại vua Ba-sa, 13 bởi tất cả các tội của Ba-sa và các tội của Ê-la con vua, các tội họ đã phạm và đã lôi kéo Ít-ra-en phạm theo mà chọc giận Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, vì các ngẫu tượng của họ.

14 Các truyện còn lại về vua Ê-la và mọi việc vua làm đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao?

Triều đại vua Dim-ri tại Ít-ra-en (885)

15 Năm hai mươi bảy triều A-xa, vua Giu-đa, Dim-ri lên làm vua trị vì tại Tia-xa được bảy ngày. Bấy giờ dân đang bao vây Ghíp-bơ-thôn, thuộc Phi-li-tinh. 16 Ðang khi bao vây và nghe biết ông Dim-ri mưu phản, hơn nữa đã giết cả vua, thì dân liền tôn ông Om-ri, tổng chỉ huy quân đội Ít-ra-en, lúc bấy giờ đang ở trong doanh trại, lên làm vua. 17 Ông Om-ri cùng toàn thể Ít-ra-en từ Ghíp-bơ-thôn kéo lên bao vây Tia-xa. 18 Khi vua Dim-ri thấy thành đã bị chiếm, thì rút vào vọng lâu của hoàng cung, rồi nổi lửa đốt hoàng cung, tự thiêu, và vua đã chết, 19 vì các tội vua đã phạm là làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa và đi theo con đường vua Gia-róp-am, và vì tội vua này đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.

20 Các truyện còn lại về vua Dim-ri và cuộc nổi loạn của vua đã được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en.

21 Bấy giờ dân Ít-ra-en chia làm hai phe: một phe theo Típ-ni, con ông Ghi-nát, tôn ông lên làm vua; còn phe kia thì theo Om-ri. 22 Phe theo Om-ri mạnh hơn phe theo Típ-ni, con ông Ghi-nát. Ông Típ-ni đã chết và ông Om-ri lên làm vua.

Triều đại Om-ri tại Ít-ra-en (885-874)

23 Năm ba mươi mốt triều A-xa, vua Giu-đa, Om-ri lên làm vua Ít-ra-en, trị vì mười hai năm. Vua trị vì tại Tia-xa sáu năm. 24 Vua mua vùng núi Sa-ma-ri của ông Se-me với giá sáu mươi ký bạc, rồi kiến thiết và đặt tên thành đã xây là Sa-ma-ri, theo tên người chủ của núi là Se-me. 25 Vua Om-ri làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa và còn ăn ở tệ hơn tất cả các tiên đế. 26 Vua đi theo mọi đường lối của vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, phạm các tội vua ấy đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo, mà chọc giận Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, vì các ngẫu tượng.

27 Các truyện còn lại về vua Om-ri, các việc vua làm, các chiến công của vua đều được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en. 28 Vua Om-ri nằm xuống với tổ tiên và được chôn cất tại Sa-ma-ri. Con vua là A-kháp lên ngôi kế vị.

Dẫn vào triều đại vua A-kháp (874-853)

29 Năm ba mươi tám triều A-xa, vua Giu-đa, A-kháp, con vua Om-ri, lên làm vua Ít-ra-en. Vua A-kháp, con vua Om-ri, làm vua cai trị Ít-ra-en tại Sa-ma-ri hai mươi hai năm. 30 Vua A-kháp, con vua Om-ri, đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, hơn tất cả các tiên đế. 31 Vua không chỉ phạm những tội như vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, nhưng đã cưới công chúa I-de-ven, ái nữ của Ét-ba-an, vua Xi-đôn, lại còn đi làm tôi thần Ba-an và sụp lạy nó. 32 Vua lập một bàn thờ để kính Ba-an trong đền thờ vua đã xây cất tại Sa-ma-ri. 33 Vua A-kháp làm cả trụ thần, và như thế lại càng chọc giận Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, hơn tất cả các vua Ít-ra-en trước. 34 Trong thời vua, ông Khi-ên, người Bết Ên, xây cất lại Giê-ri-khô, nhưng ông đã phải mất người con đầu lòng là A-vi-ram, khi đặt nền, và mất đứa con út là Xơ-gúp, khi dựng cửa, như lời Ðức Chúa đã dùng ông Giô-suê, con ông Nun, mà phán.

Chương 17

V. Truyện Ngôn Sứ Ê-Li-A

1. Cơn Ðại Hạn

Báo trước tai ương

1 Ông Ê-li-a, người Tít-be, trong số dân cư ngụ tại Ga-la-át, nói với vua A-kháp rằng: "Có Ðức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của Ít-ra-en, Ðấng tôi phục vụ: trong những năm sắp tới, sẽ chẳng có mưa, có sương, nếu tôi không ra lệnh."

Tại suối Cơ-rít

2 Có lời Ðức Chúa phán với ông như sau: 3 "Ngươi hãy bỏ đây đi về phía đông, và ẩn mình trong thung lũng Cơ-rít, phía đông sông Gio-đan. 4 Ngươi sẽ uống nước suối. Ta đã truyền cho quạ nuôi ngươi ở đấy.” 5 Ông ra đi và làm như Ðức Chúa truyền: là đến ở thung lũng Cơ-rít, phía đông sông Gio-đan. 6 Buổi sáng, quạ mang bánh và thịt cho ông; rồi buổi chiều, cũng mang bánh và thịt cho ông. Ông uống nước suối.

Tại Xa-rép-ta. Phép lạ bột và dầu.

7 Nhưng sau một thời gian, suối cạn khô, vì trong xứ không có mưa. 8 Bấy giờ có lời Ðức Chúa phán bảo ông: 9 "Ngươi hãy đứng dậy đi Xa-rép-ta, thuộc Xi-đôn, và ở lại đấy. Này Ta truyền cho một bà goá ở đó nuôi ngươi.” 10 Ông liền đứng dậy đi Xa-rép-ta. Khi đến cổng thành, ông thấy có một bà goá đang lượm củi. Ông gọi bà ấy và nói: "Bà làm ơn đem bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống.” 11 Bà ấy liền đi lấy nước. Ông gọi bà và nói: "Bà làm ơn lấy cho tôi miếng bánh nữa!” 12 Bà trả lời: "Có Ðức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết.” 13 Ông Ê-li-a nói với bà: "Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi một chiếc bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà. 14 Vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này:

"Hũ bột sẽ không vơi

vò dầu sẽ chẳng cạn

cho đến ngày Ðức Chúa

đổ mưa xuống trên mặt đất."

15 Bà ấy đi và làm như ông Ê-li-a nói; thế là bà ấy cùng với ông Ê-li-a và con bà có đủ ăn lâu ngày. 16 Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Ðức Chúa đã dùng ông Ê-li-a mà phán.

Hồi sinh đứa con của bà goá

17 Sau các sự việc đó, đứa con trai của bà ngã bệnh. Bệnh tình trầm trọng đến nỗi nó tắt thở. 18 Bà nói với ông Ê-li-a: "Hỡi người của Thiên Chúa, việc gì đến ông mà ông tới nhà tôi để nhắc lại tội tôi, và làm cho con tôi phải chết?” 19 Ông Ê-li-a trả lời: "Bà đưa cháu cho tôi." Ông bồng lấy đứa trẻ bà đang ẵm trong tay, đem lên phòng trên chỗ ông ở, và đặt nó nằm lên giường. 20 Rồi ông kêu cầu Ðức Chúa rằng: "Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của con. Chúa nỡ hại cả bà goá đã cho con ở nhờ, mà làm cho con bà ấy phải chết sao?” 21 Ba lần ông nằm lên trên đứa trẻ, và kêu cầu Ðức Chúa rằng: "Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của con, xin cho hồn vía đứa trẻ này lại trở về với nó!” 22 Ðức Chúa nghe tiếng ông Ê-li-a kêu cầu, hồn vía đứa trẻ trở về với nó, và nó sống. 23 Ông Ê-li-a liền bồng đứa trẻ từ phòng trên xuống nhà dưới, trao cho mẹ nó, và nói: "Bà xem, con bà đang sống đây!” 24 Bà nói với ông Ê-li-a: "Vâng, bây giờ tôi biết ông là người của Thiên Chúa, và lời Ðức Chúa do miệng ông nói ra là đúng."

Chương 18

Cuộc gặp gỡ giữa ông Ê-li-a và ông Ô-vát-gia-hu

1 Thời gian dài qua đi, lại có lời Ðức Chúa phán với ông Ê-li-a vào năm thứ ba, rằng: "Ngươi hãy đi tới gặp A-kháp, Ta sẽ cho mưa xuống trên mặt đất.” 2 Ông Ê-li-a đi tới gặp vua A-kháp.

3 Bấy giờ, vua A-kháp kêu ông Ô-vát-gia-hu, quản đốc hoàng cung vào. Ông Ô-vát-gia-hu là người rất kính sợ Ðức Chúa; 4 vì khi bà I-de-ven giết hại các ngôn sứ của Ðức Chúa, ông Ô-vát-gia-hu đã đem một trăm ngôn sứ giấu từng năm mươi người một trong những cái hang rồi cung cấp bánh và nước cho họ. 5 Vậy, vua A-kháp nói với ông Ô-vát-gia-hu: "Ngươi hãy đi khắp xứ, đến tất cả các mạch nước và các suối, may ra chúng ta sẽ tìm được cỏ, hầu nuôi sống lừa ngựa, bằng không, súc vật sẽ chết hết.” 6 Họ chia nhau đi rảo quanh khắp xứ. Một mình vua A-kháp đi một đường, và một mình ông Ô-vát-gia hu đi một nẻo. 7 Ông Ô-vát-gia-hu đang đi, thì này ông Ê-li-a đón gặp ông. Khi nhận ra Ê-li-a, ông liền phục xuống đất và nói: "Thưa ngài, ngài có phải là Ê-li-a không?” 8 Ông này đáp: "Tôi đây! Ông hãy đi nói với chủ của ông rằng: Ê-li-a đang ở đây!” 9 Ông Ô-vát-gia-hu thưa: "Tôi có tội gì mà ngài tính nộp tôi tớ ngài vào tay vua A-kháp để vua ấy giết tôi? 10 Có Ðức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ngài! Không có dân nào, nước nào mà chủ tôi lại đã không sai người tới đó để lùng bắt ngài; khi người ta nói: "Không có", thì vua bắt nước đó và dân đó phải thề rằng đã không tìm thấy ngài. 11 Thế mà bây giờ ngài lại bảo tôi: đi nói với chủ của ông: Ê-li-a đang ở đây. 12 Rồi khi tôi bỏ ngài ra đi, thần khí của Ðức Chúa sẽ đưa ngài đi đâu tôi chẳng biết, còn tôi thì phải đi báo cáo cho vua A-kháp, và khi không gặp được ngài, thì vua sẽ giết tôi, mà tôi thì từ niên thiếu vẫn kính sợ Ðức Chúa. 13 Ngài lại không được người ta cho biết việc tôi đã làm, khi bà I-de-ven sát hại các ngôn sứ của Ðức Chúa sao? Tôi đã giấu một trăm người trong số các ngôn sứ của Ðức Chúa, từng năm mươi người một, trong các hang, và đã cung cấp bánh và nước cho họ. 14 Và bây giờ ngài bảo tôi: Hãy đi nói với chủ ông: ông Ê-li-a đang ở đây, để vua ấy giết tôi.” 15 Nhưng ông Ê-li-a nói: "Có Ðức Chúa hằng sống của các đạo binh, Ðấng tôi phục vụ! Ngay hôm nay tôi sẽ ra mắt vua."

Ngôn sứ Ê-li-a và vua A-kháp

16 Ông Ô-vát-gia-hu đi gặp vua A-kháp và báo cho vua biết sự việc. Vua A-kháp đi đón ông Ê-li-a. 17 Khi nhận ra ông Ê-li-a, vua A-kháp nói với ông rằng: "Tên mang hoạ cho Ít-ra-en, nhà ngươi đấy phải không?” 18 Ông đáp: "Tôi không mang hoạ cho Ít-ra-en, nhưng chính là ngài và nhà thân phụ ngài, vì các người đã bỏ không giữ mệnh lệnh Ðức Chúa truyền, còn ngài thì đã đi theo các thần Ba-an. 19 Bây giờ, ngài hãy cho triệu tập toàn dân Ít-ra-en lại bên tôi ở núi Các-men, cùng với bốn trăm năm mươi ngôn sứ của thần Ba-an và bốn trăm ngôn sứ của thần A-sê-ra, những người được hưởng lộc của bà I-de-ven."

Hy lễ trên núi Các-men

20 Vua A-kháp sai người đi mời toàn thể con cái Ít-ra-en và triệu tập các ngôn sứ trên núi Các-men. 21 Bấy giờ, ông Ê-li-a đến bên dân và nói: "Các ngươi nhảy khập khiễng hai chân cho tới bao giờ? Nếu Ðức Chúa là Thiên Chúa, hãy theo Người; còn nếu là Ba-an thì cứ theo nó!" Nhưng dân chúng không đáp lại lời nào. 22 Ông Ê-li-a lại nói với dân: "Chỉ sót lại mình tôi là ngôn sứ của Ðức Chúa, còn ngôn sứ của Ba-an có những bốn trăm năm mươi người. 23 Hãy cho chúng tôi hai con bò mộng; họ hãy chọn lấy một con, chặt ra và đặt trên củi, nhưng đừng châm lửa; tôi cũng làm thịt con bò kia, rồi đặt trên củi, nhưng sẽ không châm lửa. 24 Ðoạn các ngươi hãy kêu cầu danh thần của các ngươi; còn tôi, tôi kêu cầu danh Ðức Chúa. Vị thần nào đáp lại bằng lửa thì vị đó chính là Thiên Chúa. Toàn dân trả lời và nói: "Ðề nghị hay đó!” 25 Bấy giờ, ông Ê-li-a nói với các ngôn sứ Ba-an: "Các người chọn lấy một con bò và làm trước đi, vì các người đông hơn. Rồi hãy kêu cầu danh thần của các người nhưng đừng châm lửa.” 26 Vậy, họ lấy con bò người ta đưa cho họ, làm thịt, rồi kêu cầu danh thần Ba-an từ sáng tới trưa: "Lạy thần Ba-an, xin đáp lời chúng tôi!" Nhưng không một tiếng nói, không một ai trả lời, và họ nhảy khập khiễng bên cạnh bàn thờ họ đã dựng. 27 Ðến trưa, ông Ê-li-a chế nhạo họ rằng: "Kêu lớn tiếng lên, vì người là một vị thần mà! Người đang mải suy nghĩ, hay là đi vắng hoặc trẩy đường xa; có khi người đang ngủ, thì sẽ thức dậy thôi!” 28 Họ càng kêu lớn tiếng hơn và theo thói tục của họ, họ dùng gươm, giáo rạch mình đến chảy máu. 29 Quá trưa rồi mà họ vẫn tiếp tục nói liên miên cho tới giờ dâng lễ; nhưng vẫn không một tiếng nói, không ai trả lời, không người để ý.

30 Bấy giờ ông Ê-li-a nói với toàn dân: "Các người hãy lại đây." Toàn dân tiến lại gần ông. Ông dọn lại bàn thờ Ðức Chúa đã bị phá huỷ. 31 Ông Ê-li-a lấy mười hai phiến đá, theo số các chi tộc con cháu ông Gia-cóp, người đã được Ðức Chúa phán bảo rằng: "Tên ngươi sẽ là Ít-ra-en.” 32 Ông dùng các phiến đá ấy xây lại một bàn thờ kính Ðức Chúa. Ông đào một đường mương chung quanh bàn thờ rộng cỡ hai thúng hạt giống. 33 Ông xếp củi lên, rồi làm thịt con bò mộng và đặt trên đống củi. 34 Ông nói: "Hãy đổ nước đầy bốn lu và tưới lên lễ vật và củi." Họ làm như vậy. Ông nói: "Lần thứ hai nữa", họ làm lần thứ hai. Ông lại nói: "Lần thứ ba!" và họ làm lần thứ ba. 35 Nước chảy tràn quanh bàn thờ, khiến đường mương cũng đầy nước. 36 Ðến giờ dâng lễ, ngôn sứ Ê-li-a tiến ra và nói: "Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en! Ước chi hôm nay người ta biết rằng trong Ít-ra-en Ngài là Thiên Chúa và con là tôi tớ Ngài. Cũng vì lời Ngài phán mà con đã làm tất cả các việc này. 37 Xin đáp lời con, lạy Ðức Chúa, xin đáp lời con, để dân này nhận biết Ngài là Ðức Chúa, Thiên Chúa thật, và Ngài đã khiến họ thay lòng đổi dạ.” 38 Bấy giờ lửa của Ðức Chúa ập xuống, thiêu rụi của lễ, củi, đá và bụi, cả nước trong mương cũng hút cạn luôn. 39 Toàn dân thấy vậy, liền phủ phục sát đất và nói: "Ðức Chúa quả là Thiên Chúa! Ðức Chúa quả là Thiên Chúa!” 40 Ông Ê-li-a nói với họ: "Bắt lấy các ngôn sứ Ba-an, đừng để tên nào thoát." Họ bắt lấy chúng và ông Ê-li-a đem giết chúng tại suối Ki-sôn.

Thời đại hạn chấm dứt

41 Ông Ê-li-a nói với vua A-kháp: "Xin mời vua lên mà ăn uống, bởi vì có tiếng mưa rào!” 42 Vua A-kháp liền lên ăn uống; còn ông Ê-li-a thì lên đỉnh Các-men, ông cúi xuống đất, gục mặt vào hai đầu gối. 43 Ðoạn ông bảo đứa tiểu đồng của ông: "Con đi lên và nhìn về phía biển." Nó đi lên, nhìn và nói: "Không có gì cả!" Ông bảo: "Hãy trở lại bảy lần.” 44 Lần thứ bảy, nó nói: "Kìa có một đám mây nhỏ bằng bàn tay người đang từ biển bốc lên." Ông nói: "Con hãy lên thưa với vua A-kháp: xin vua thắng xe và xuống kẻo bị kẹt mưa.” 45 Lập tức trời kéo mây đen nghịt và nổi gió, rồi trút mưa lớn. Vua A-kháp cỡi xe đi Gít-rơ-en. 46 Tay Ðức Chúa đặt trên ông Ê-li-a; ông thắt lưng và chạy trước vua A-kháp cho tới lúc vào Gít-rơ-en.

Chương 19

2. Ngôn Sứ Ê-Li-A Tại Khô-Rếp

Trên đường lên núi Khô-rếp

1 Vua A-kháp kể cho I-de-ven nghe mọi chuyện ông Ê-li-a đã làm và tất cả sự việc ông dùng gươm hạ sát hết các ngôn sứ. 2 Bà I-de-ven liền sai sứ giả đến nói với ông Ê-li-a rằng: "Xin các thần minh làm cho ta thế này, và còn hơn thế nữa, nếu giờ này sáng mai ta không biến mạng ngươi ra như mạng một trong các người ấy.” 3 Thấy vậy, ông Ê-li-a trỗi dậy, ra đi để thoát mạng. Khi tới Bơ-e Se-va thuộc Giu-đa, ông để đứa tiểu đồng lại đấy, 4 còn ông thì đi một ngày đường trong sa mạc. Ông đến ngồi dưới gốc một cây kim tước. Ông xin cho được chết và nói: "Lạy Ðức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con.” 5 Rồi ông nằm dưới cây kim tước đó và thiếp đi. Nhưng này có một thiên sứ đụng vào người ông và nói: "Dậy mà ăn!” 6 Ông đưa mắt nhìn thì thấy ở phía đầu ông có một chiếc bánh nướng trên những hòn đá nung và một hũ nước. Ông ăn bánh, uống nước, rồi lại nằm xuống. 7 Thiên sứ của Ðức Chúa trở lại lần nữa, đụng vào người ông và nói: "Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa.” 8 Ông dậy, ăn bánh và uống nước. Rồi nhờ lương thực ấy bổ dưỡng, ông đi suốt bốn mươi ngày, bốn mươi đêm tới Khô-rếp, là núi của Thiên Chúa.

Cuộc gặp gỡ Thiên Chúa

9 Ông vào một cái hang và nghỉ đêm tại đó. Có lời Ðức Chúa phán với ông: "Ê-li-a ngươi làm gì ở đây?” 10 Ông thưa: "Lòng nhiệt thành đối với Ðức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh nung nấu con, vì con cái Ít-ra-en đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ còn sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng sống con.” 11 Người nói với ông: "Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Ðức Chúa. Kìa Ðức Chúa đang đi qua." Gió to bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan Ðức Chúa, nhưng Ðức Chúa không ở trong cơn gió bão. Sau đó là động đất, nhưng Ðức Chúa không ở trong trận động đất. 12 Sau động đất là lửa, nhưng Ðức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa có tiếng gió hiu hiu. 13 Vừa nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Bấy giờ có tiếng hỏi ông: "Ê-li-a, ngươi làm gì ở đây?” 14 Ông thưa: "Lòng nhiệt thành đối với Ðức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, nung nấu con, vì con cái Ít-ra-en đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng con."

15 Ðức Chúa phán với ông: "Ngươi hãy đi con đường ngươi đã đi trước qua sa mạc cho tới Ða-mát mà về. Tới nơi, ngươi sẽ xức dầu phong Kha-da-ên làm vua A-ram; 16 còn Giê-hu con của Nim-si, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm vua Ít-ra-en. Ê-li-sa con Sa-phát, người A-vên Mơ-khô-la, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm ngôn sứ thay cho ngươi. 17 Kẻ thoát gươm của Kha-da-ên sẽ bị Giê-hu giết; người thoát tay Giê-hu sẽ bị Ê-li-sa giết. 18 Nhưng Ta, Ta sẽ dành ra cho Ta bảy nghìn người trong Ít-ra-en: tất cả những kẻ đã không hề bái gối trước Ba-an, những môi miệng không hề hôn kính nó."

Ê-li-sa được gọi

19 Ông Ê-li-a bỏ đó ra đi và gặp ông Ê-li-sa là con ông Sa-phát đang cày ruộng; trước mặt ông Ê-li-sa có mười hai cặp bò; chính ông thì đi theo cặp thứ mười hai. Ông Ê-li-a đi ngang qua, ném tấm áo choàng của mình lên người ông Ê-li-sa. 20 Ông này liền để bò lại, chạy theo ông Ê-li-a và nói: "Xin cho con về hôn cha mẹ để từ giã, rồi con sẽ đi theo ông." Ông Ê-li-a trả lời: "Cứ về đi! Thầy có làm gì anh đâu?” 21 Ông Ê-li-sa bỏ ông Ê-li-a mà về, bắt cặp bò giết làm lễ tế, lấy cày làm củi nấu thịt đãi người nhà. Rồi ông đứng dậy, đi theo ông Ê-li-a và phục vụ ông.

Chương 20

3. Các Cuộc Chiến Với Người A-Ram

Vây hãm Sa-ma-ri

1 Ben Ha-đát, vua A-ram tập họp tất cả quân đội lại. Cùng với ba mươi hai vua, có cả xe lẫn ngựa, vua tiến lên vây hãm Sa-ma-ri và tấn công thành ấy. 2 Vua sai sứ giả vào thành yết kiến A-kháp, vua Ít-ra-en, 3 và nói với vua này rằng: "Ben Ha-đát nói thế này: bạc, vàng của ông thuộc về ta; các người vợ đẹp con khôn của ông cũng thuộc về ta.” 4 Vua Ít-ra-en trả lời và nói: "Xin tuân lời ngài, thưa đức vua, chúa thượng tôi! Bản thân tôi và mọi sự tôi có đều thuộc về ngài."

5 Các sứ giả trở lại và nói: "Vua Ben Ha-đát bảo thế này: Ta đã sai sứ nói với ông rằng: "Bạc vàng của ông, phải nộp cho ta; các vợ con của ông, cũng phải nộp cho ta". 6 Ngày mai giờ này thế nào ta cũng sai tôi tớ ta đến với ông; chúng sẽ lục soát nhà ông và nhà tôi tớ ông. Những gì chúng cho là quý, chúng sẽ lấy hết và đem đi."

7 Bấy giờ vua Ít-ra-en triệu tập tất cả kỳ mục trong xứ lại và nói: "Các ông phải biết và thấy rõ là vua ấy đang tìm cách hại chúng ta, vì ông đã sai người đến đòi ta phải nộp vợ con, bạc vàng của ta, dù ta đã chẳng từ chối.” 8 Tất cả kỳ mục và toàn dân thưa với vua: "Xin ngài đừng nghe, cũng đừng chấp thuận!” 9 Vua trả lời các sứ giả của vua Ben Ha-đát rằng: "Xin các ông về thưa với đức vua, chúa thượng tôi: tất cả những gì ngài đã sai sứ nói với tôi tớ ngài đây lần đầu, thì tôi sẽ làm; còn chuyện này thì tôi không thể làm được." Các sứ giả ra về mang theo lời phúc đáp.

10 Bấy giờ vua Ben Ha-đát sai sứ đến nói với vua: "Xin các thần minh làm cho ta thế này và còn hơn thế nữa, nếu ở Sa-ma-ri có đủ bụi cho tất cả đám dân theo ta mỗi người một nắm!” 11 Nhưng vua Ít-ra-en đáp lại rằng: "Hãy bảo kẻ đang thắt lưng, chớ tự hào như kẻ đã cởi thắt lưng ra!” 12 Khi vua Ben Ha-đát nghe biết việc này -bấy giờ vua đang uống rượu với các vua trong lều- thì ra lệnh cho bầy tôi của vua: "Chuẩn bị!" Và họ chuẩn bị tấn công thành.

Chiến thắng của Ít-ra-en

13 Nhưng này, có một ngôn sứ đến gặp A-kháp, vua Ít-ra-en, và thưa với vua: "Ðức Chúa phán thế này: Ngươi có thấy đám dân đông đảo kia không? Này, hôm nay Ta trao chúng vào tay ngươi, để ngươi biết Ta là Ðức Chúa.” 14 Vua A-kháp nói: "Nhờ ai?" Ngôn sứ đáp: "Ðức Chúa phán thế này: Nhờ trai tráng dưới quyền các vị chỉ huy khu vực." Vua lại hỏi: "Ai sẽ khai chiến?" Ngôn sứ trả lời: "Chính ngài!"

15 Vua A-kháp duyệt lại trai tráng dưới quyền các vị chỉ huy khu vực, tính được hai trăm ba mươi hai người. Ngoài số người này, vua cũng duyệt lại toàn quân, tất cả con cái Ít-ra-en, tính được bảy ngàn. 16 Họ xuất quân vào buổi trưa lúc Ben Ha-đát đang say sưa trong lều với ba mươi hai vua đồng minh của mình. 17 Các trai tráng dưới quyền các vị chỉ huy khu vực xuất quân trước. Vua Ben Ha-đát sai người đi xem xét, và họ báo cáo với vua rằng: "Có những người đi ra từ thành Sa-ma-ri.” 18 Vua nói: "Nếu chúng đi ra để cầu hoà, thì hãy bắt sống chúng: còn nếu chúng đi ra để khiêu chiến, thì cũng bắt sống luôn!” 19 Vậy các trai tráng dưới quyền các vị chỉ huy khu vực cùng với đoàn quân theo sau tiến ra ngoài thành. 20 Họ đánh nhau. Quân A-ram tháo chạy, bị quân Ít-ra-en đuổi theo; Ben Ha-đát, vua A-ram cỡi ngựa chạy thoát thân cùng với mấy kỵ binh. 21 Vua Ít-ra-en cũng ra và đánh giết ngựa xe, gây tổn thất nặng nề cho A-ram.

Thời gian sau đó

22 Vị ngôn sứ đến gặp vua Ít-ra-en và thưa với vua: "Mời vua đi! Xin vua can đảm lên! Xin cân nhắc và xem xét điều ngài phải thực hiện, vì mùa xuân tới vua A-ram sẽ tấn công ngài."

23 Các bầy tôi của vua A-ram thưa với vua rằng: "Thần của chúng là thần đồi núi, vì thế chúng mạnh hơn chúng ta. Nhưng nếu chúng ta đánh nhau với chúng dưới đồng bằng, thì chắc chắn chúng ta sẽ thắng. 24 Vậy, xin ngài làm thế này là truất phế các vua và đặt các quan đầu tỉnh thay vào. 25 Còn ngài, thì xin lập một đạo quân như đạo quân đã bỏ ngài trước đây, với số ngựa và xe cũng như thế. Chúng ta sẽ giao tranh với chúng nơi đồng bằng, chắc chắn chúng ta sẽ thắng." Vua nghe và làm như lời họ nói.

Chiến thắng tại A-phếch

26 Khi mùa xuân tới, vua Ben Ha-đát kiểm tra người A-ram và tiến lên A-phếch giao chiến với Ít-ra-en. 27 Con cái Ít-ra-en cũng được kiểm tra và được tiếp tế lương thực; họ đã lên đường nghênh chiến. Con cái Ít-ra-en như hai bầy dê cái đóng trại đối diện với chúng, trong khi người A-ram tràn ngập khắp xứ.

28 Bấy giờ người của Thiên Chúa đến gặp vua Ít-ra-en và nói: "Ðức Chúa phán thế này: vì người A-ram nói Ðức Chúa là thần núi, chứ không phải thần thung lũng nên Ta sẽ trao tất cả đám quân đông đảo ấy vào tay ngươi, để các ngươi biết Ta là Ðức Chúa.” 29 Hai bên đóng trại đối diện nhau trong bảy ngày. Ngày thứ bảy giao tranh bùng nổ; con cái Ít-ra-en giết được một trăm ngàn bộ binh của A-ram trong một ngày. 30 Những kẻ sống sót chạy trốn về A-phếch vào nội thành; nhưng tường thành đổ xuống đè lên hai mươi bảy ngàn người còn sót lại.

Vua Ben Ha-đát cũng trốn vào thành, ẩn núp hết chỗ này đến chỗ khác. 31 Bề tôi của vua nói với vua: "Này, chúng tôi nghe nói các vua nhà Ít-ra-en là những vua nhân từ; chúng ta hãy lấy vải bố thắt lưng và cột dây lên đầu rồi ra trình diện vua Ít-ra-en. Có khi vua ấy sẽ để cho ngài an toàn tính mệnh.” 32 Vậy họ lấy vải bố thắt lưng và cột dây lên đầu, rồi ra trình diện vua Ít-ra-en và nói: "Tôi tớ ngài là Ben Ha-đát nói: Xin để tôi sống!" Vua đáp: "Thế ra ông ấy còn sống ư? Ông là anh em ta đó.” 33 Những người kia cảm thấy có điềm tốt, liền vội vàng dựa vào lời ấy mà nói: "Vua Ben Ha-đát là anh em của ngài!" Vua nói: "Các ngươi đi tìm ông ấy cho ta." Vua Ben Ha-đát ra gặp vua A-kháp. Vua A-kháp mời vua Ben Ha-đát lên xe của mình. 34 Vua Ben Ha-đát nói: "Các thành thân phụ tôi đã lấy của thân phụ ngài, tôi xin hoàn lại; xin ngài cứ dựng lên những dãy phố tại Ða-mát, như thân phụ tôi đã làm ở Sa-ma-ri." Vua A-kháp nói: "Còn tôi, dựa vào giao ước, tôi sẽ để cho ngài đi." Vậy vua A-kháp lập một giao ước với ông và để cho ông đi.

Một ngôn sứ lên án cách cư xử của vua A-kháp

35 Theo lệnh Ðức Chúa, một người trong nhóm các ngôn sứ nói với bạn mình: "Ðánh tôi đi." Nhưng người kia không chịu đánh. 36 Ông này nói: "Vì anh không vâng nghe tiếng Ðức Chúa, thì này khi anh bỏ tôi mà đi, một con sư tử sẽ vồ chết anh." Khi người ấy bỏ bạn mà đi, thì gặp một con sư tử và bị nó vồ chết. 37 Vị ngôn sứ gặp một người khác, liền nói: "Ðánh tôi đi!" Người ấy đánh ông, làm ông bị thương. 38 Vị ngôn sứ ra đường chờ vua - ông cột tấm băng bên trên mắt để khỏi bị nhận diện -. 39 Khi vua đi qua, ông kêu lên: "Tôi tớ của ngài ra trận thì bỗng có kẻ bỏ hàng ngũ dẫn đến cho tôi một người, và bảo: "Hãy canh giữ người này! Nếu mất nó, thì mạng anh sẽ đền mạng nó, hoặc anh sẽ phải trả ba mươi ký bạc. 40 Thế nhưng, khi tôi tớ ngài đang bận chuyện này chuyện khác, thì nó biến mất." Vua Ít-ra-en liền nói với người ấy: "Ngươi đã phán quyết rồi đó! Chính ngươi đã tuyên án!” 41 Người ấy vội vàng gỡ tấm băng trên mắt, và vua Ít-ra-en nhận ra đó là một trong các ngôn sứ. 42 Người ấy nói với vua: "Ðức Chúa phán thế này: Vì ngươi đã để cho kẻ bị Ta lên án biệt tru, thoát khỏi tay ngươi, thì mạng ngươi sẽ đền mạng nó, dân ngươi sẽ thay cho dân nó.” 43 Vua Ít-ra-en buồn rầu và bực bội trở về nhà. Vua vào Sa-ma-ri.

Chương 21

4. Vườn Nho Của Ông Na-Vốt

Ông Na-vốt từ chối, không chịu nhượng vườn nho của mình

1 Sau những sự việc đó, thì xảy ra chuyện ông Na-vốt người Gít-rơ-en có một vườn nho bên cạnh cung điện vua A-kháp, vua Sa-ma-ri. 2 Vua A-kháp nói với ông Na-vốt rằng: "Hãy nhượng vườn nho của ngươi cho ta, để ta làm vườn rau, vì nó ở ngay sát cạnh nhà ta. Ðể bù lại, ta sẽ cho ngươi một vườn nho tốt hơn, hay là, nếu ngươi muốn, giá bao nhiêu, ta sẽ trả bằng bạc.” 3 Nhưng ông Na-vốt thưa với vua A-kháp: "Xin Ðức Chúa đừng để tôi nhượng gia sản của tổ tiên tôi cho ngài!"

Vua A-kháp và hoàng hậu I-de-ven

4 Vua A-kháp trở về nhà buồn rầu và bực bội vì lời ông Na-vốt, người Gít-rơ-en đã nói với vua: "Tôi sẽ không nhượng gia sản của tổ tiên tôi cho vua." Vua nằm trên giường, quay mặt đi, và không chịu ăn uống gì. 5 Hoàng hậu I-de-ven đi vào, nói với vua: "Tại sao tâm thần vua buồn rầu, và vua không chịu ăn uống gì như vậy?” 6 Vua trả lời: "Tôi đã nói chuyện với Na-vốt người Gít-rơ-en và bảo nó: Hãy nhượng vườn nho của ngươi cho ta mà lấy tiền, hoặc, nếu ngươi muốn, ta sẽ đổi cho một vườn nho khác. Nhưng nó lại nói: "Tôi không nhượng vườn nho của tôi cho vua được.” 7 Bấy giờ hoàng hậu I-de-ven nói với vua: "Vua cai trị Ít-ra-en hay thật! Mời vua dậy mà ăn cho lòng phấn khởi lên! Thiếp sẽ tặng vua vườn nho của Na-vốt người Gít-rơ-en.

Ông Na-vốt bị giết

8 Bấy giờ, bà nhân danh vua A-kháp viết thơ, rồi dùng con dấu của vua mà đóng ấn, và gửi cho các kỳ mục và thân hào cư ngụ trong thành với ông Na-vốt. 9 Trong thơ bà viết rằng: "Hãy công bố một thời kỳ chay tịnh và đặt Na-vốt ngồi ở hàng đầu dân chúng. 10 Hãy đặt hai đứa vô lại ngồi đối diện với nó, để chúng tố cáo nó: "Ông đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua. Và hãy đem nó ra ngoài ném đá cho chết."

11 Dân chúng, kỳ mục và thân hào cư ngụ trong thành làm theo lệnh bà I-de-ven như trong thơ bà đã viết gửi cho họ. 12 Họ công bố thời kỳ chay tịnh và đặt ông Na-vốt ngồi ở hàng đầu dân chúng. 13 Rồi có hai kẻ vô lại đi vào, ngồi đối diện với ông. Những kẻ vô lại ấy tố cáo ông Na-vốt trước mặt dân rằng: "Na-vốt đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua." Họ liền đưa ông ra ngoài thành và ném đá ông. Ông đã chết. 14 Họ sai người đi nói với bà I-de-ven: "Na-vốt đã bị ném đá chết.” 15 Khi bà I-de-ven nghe biết ông Na-vốt đã bị ném đá chết, thì nói với vua A-kháp: "Xin vua đứng dậy và chiếm đoạt vườn nho của Na-vốt, người Gít-rơ-en, kẻ đã từ chối không chịu nhượng cho ngài để lấy tiền, vì Na-vốt không còn sống nữa, nó chết rồi.” 16 Khi nghe biết ông Na-vốt đã chết, vua A-kháp đứng dậy, xuống chiếm đoạt vườn nho của ông Na-vốt, người Gít-rơ-en.

Ngôn sứ Ê-li-a tuyên cáo án lệnh của Thiên Chúa

17 Có lời Ðức Chúa phán với ông Ê-li-a, người Tít-be, rằng: 18 "Ngươi hãy đứng dậy, xuống gặp A-kháp, vua Ít-ra-en, ở Sa-ma-ri. Này, nó đang ở trong vườn nho của Na-vốt, vì nó đã xuống chiếm đoạt vườn nho ấy. 19 Ngươi hãy nói với nó rằng: "Ðức Chúa phán thế này: Ngươi đã giết hại, lại còn chiếm đoạt nữa ư? - ngươi hãy nói với nó -, Ðức Chúa phán thế này: Tại chính nơi chó đã liếm máu Na-vốt, thì chó cũng sẽ liếm máu ngươi".” 20 Vua A-kháp nói với ông Ê-li-a: "Hỡi kẻ thù của ta, ngươi đã bắt được ta." Ông đáp: "Tôi đã bắt được ngài làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa. 21 Này, Ta sẽ giáng tai hoạ xuống trên ngươi: Ta sẽ xoá sạch hậu duệ ngươi, Ta sẽ tiêu diệt các đàn ông con trai của A-kháp trong Ít-ra-en, đang bị ràng buộc hay được tự do. 22 Ta sẽ làm cho nhà ngươi nên như nhà Gia-róp-am, con của Nơ-vát, và như nhà Ba-sa con của A-khi-gia, vì ngươi đã chọc giận Ta và đã làm cho Ít-ra-en phạm tội.” 23 Ðức Chúa cũng tuyên án phạt I-de-ven rằng: "Chó sẽ ăn thịt I-de-ven trong cánh đồng Gít-rơ-en. 24 Kẻ nào thuộc về A-kháp mà chết trong thành thì sẽ bị chó ăn thịt, người chết ngoài đồng sẽ bị chim trời rỉa thây."

25 Thật, không hề có ai như vua A-kháp, đã liều lĩnh làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, vì bị hoàng hậu I-de-ven xúi giục. 26 Vua sẽ làm chuyện rất ghê tởm là đi theo các tượng thần, như dân E-mô-ri, những kẻ Ðức Chúa đã đuổi khuất mắt con cái Ít-ra-en.

Vua A-kháp hối hận

27 Khi nghe những lời ấy, vua A-kháp xé áo mình ra, khoác áo vải bố bám sát vào thịt, ăn chay, nằm ngủ với bao bì và bước đi thiểu não. 28 Bấy giờ có lời Ðức Chúa phán với ông Ê-li-a, người Tít-be, rằng: 29 "Ngươi có thấy A-kháp đã hạ mình trước mặt Ta thế nào không? Vì nó đã hạ mình trước mặt Ta, nên Ta sẽ không giáng hoạ trong buổi sinh thời của nó, nhưng đến đời con nó, Ta sẽ giáng hoạ xuống nhà nó."

Chương 22

5. Lại Giao Tranh Với Người A-Ram

Vua A-kháp quyết định tấn công Ra-mốt Ga-la-át (2 Sb 18:1-3)

1 Suốt ba năm, không có giao tranh giữa A-ram và Ít-ra-en. 2 Năm thứ ba, Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa, xuống thăm vua Ít-ra-en. 3 Vua Ít-ra-en nói với bề tôi mình rằng: "Các ngươi biết: Ra-mốt Ga-la-át là của chúng ta, thế mà chúng ta cứ để yên không lấy lại khỏi tay vua A-ram.” 4 Rồi vua nói với vua Giơ-hô-sa-phát: "Ngài có đi tấn công Ra-mốt Ga-la-át với tôi không?" Vua Giơ-hô-sa-phát nói với vua Ít-ra-en: "Tôi cũng làm như ngài, dân tôi cũng như dân ngài, ngựa của tôi cũng như ngựa của ngài."

Các ngôn sứ tiên báo thành công (2 Sb 18:4-11)

5 Nhưng vua Giơ-hô-sa-phát nói với vua Ít-ra-en: "Hôm nay, xin ngài thỉnh vấn sấm ngôn của Ðức Chúa.” 6 Vua Ít-ra-en tập họp các ngôn sứ, khoảng bốn trăm người, và nói với họ: "Ta có phải đi đánh Ra-mốt Ga-la-át không hay là phải ngưng lại?" Họ thưa: "Xin vua cứ lên, Chúa sẽ trao thành ấy vào tay vua.” 7 Nhưng vua Giơ-hô-sa-phát nói: "Ở đây không có ngôn sứ nào khác của Ðức Chúa nữa, để chúng ta nhờ ông thỉnh vấn cho hay sao?” 8 Vua Ít-ra-en trả lời vua Giơ-hô-sa-phát: "Còn một người nữa chúng ta có thể nhờ thỉnh vấn Ðức Chúa được, nhưng tôi ghét ông ta, vì ông ta không hề tiên báo cho tôi điều lành, mà chỉ toàn điều dữ. Ðó là Mi-kha-giơ-hu, con của Gim-la." Vua Giơ-hô-sa-phát nói: "Ðức vua đừng nói như vậy.” 9 Vua Ít-ra-en gọi một hoạn quan tới và bảo: "Mau đưa Mi-kha-giơ-hu, con của Gim-la, đến đây."

10 Vua Ít-ra-en và Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa, lúc ấy mỗi vua đang ngồi trên ngai, mình mặc cẩm bào, ở sân lúa tại cổng thành Sa-ma-ri; và tất cả các ngôn sứ đều đang nói liên miên trước mặt các vua. 11 Ông Xít-ki-gia, con ông Cơ-na-a-na, đã làm một cặp sừng bằng sắt và nói: "Ðức Chúa phán như sau: Với những chiếc sừng này, ngươi sẽ húc A-ram cho đến khi tiêu diệt chúng.” 12 Và tất cả các ngôn sứ đều nói tiên tri như thế mà rằng: "Xin vua cứ đi lên Ra-mốt Ga-la-át là sẽ gặp may. Ðức Chúa sẽ trao thành ấy vào tay vua."

Ngôn sứ Mi-kha-giơ-hu báo trước cuộc thất trận (2 Sb 18:12 -27)

13 Người được sai đi mời ông Mi-kha-giơ-hu nói với ông rằng: "Này, lời các ngôn sứ đều đồng thanh báo cho vua điều may; mong sao lời của ông cũng giống như lời của họ. Xin ông cũng báo điều may.” 14 Ông Mi-kha-giơ-hu nói: "Có Ðức Chúa hằng sống! Ðức Chúa phán sao, tôi sẽ nói vậy.” 15 Rồi ông vào gặp vua, vua nói với ông: "Này, Mi-kha-giơ-hu, chúng ta có nên đi đánh Ra-mốt Ga-la-át không, hay là ngưng lại?" Ông thưa với vua: "Xin vua cứ lên, vua sẽ gặp may. Ðức Chúa sẽ trao thành ấy vào tay vua.” 16 Vua liền nói với ông: "Ðã bao lần, ta thề buộc ngươi là, nhân danh Ðức Chúa, ngươi chỉ được nói thật với ta?” 17 Ông Mi-kha-giơ-hu mới nói:

"Tôi đã thấy toàn thể Ít-ra-en tán loạn trên núi

như chiên không người chăn

Ðức Chúa phán: chúng không còn chủ nữa.

Ai nấy hãy về nhà bình an!"

18 Vua Ít-ra-en nói với vua Giơ-hô-sa-phát: "Tôi đã chẳng nói với ngài rằng: ông ta không hề tiên báo cho tôi điều may, mà chỉ toàn điều rủi đó sao?” 19 Ông Mi-kha-giơ-hu lại nói: "Vì thế, hãy nghe lời Ðức Chúa: tôi đã thấy Ðức Chúa ngự trên ngai, và toàn thể đạo thiên binh đứng chầu Người ở hai bên tả hữu. 20 Và Ðức Chúa phán: "Ai sẽ dụ A-kháp tiến lên, cho nó gục ngã tại Ra-mốt Ga-la-át? Và kẻ nói thế này, người nói thế kia. 21 Bấy giờ thần khí xuất hiện, đứng trước Ðức Chúa và nói: "Tôi sẽ dụ y. Ðức Chúa hỏi thần khí: "Bằng cách nào? 22 Thần khí đáp: "Tôi sẽ xuất hiện làm thần khí dối trá trên môi miệng tất cả các ngôn sứ của vua ấy. Ðức Chúa liền phán: "Ngươi sẽ lừa dối được nó và ngươi sẽ thành công. Cứ đi và làm như thế. 23 Này Ðức Chúa đã đặt thần khí dối trá trên môi miệng tất cả những ngôn sứ này của vua, vì Ðức Chúa đã phán quyết điều dữ hại vua."

24 Bấy giờ Xít-ki-gia-hu, con ông Cơ-na-a-na, đến gần vả vào mặt ông Mi-kha-giơ-hu và nói: "Thần khí của Ðức Chúa từ nơi ta đã qua ngả nào mà nói với mi?” 25 Ông Mi-kha-giơ-hu nói: "Rồi ngươi sẽ thấy vào ngày ngươi phải chui rúc hết phòng này sang phòng khác, để lẩn trốn.” 26 Vua Ít-ra-en liền nói: "Bắt lấy Mi-kha-giơ-hu và dẫn nó tới thị trưởng A-môn, và tới hoàng tử Giô-át. 27 Ngươi sẽ nói thế này: Ðức vua nói như sau: Giam tên này vào nhà tù và cho nó ăn uống ít thôi, cho tới khi ta về bình an.” 28 Ông Mi-kha-giơ-hu liền nói: "Nếu vua trở về bình an, thì Ðức Chúa đã không dùng tôi mà phán." Ông nói tiếp: "Toàn thể các dân tộc, xin hãy nghe cho!"

Vua A-kháp tử trận tại Ra-mốt Ga-la-át (2 Sb 18:28 -34)

29 Vua Ít-ra-en và Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa, lên Ra-mốt Ga-la-át. 30 Vua Ít-ra-en nói với vua Giơ-hô-sa-phát: "Tôi sẽ cải trang và ra trận; còn ngài, thì xin cứ mặc áo của ngài." Vua Ít-ra-en cải trang và ra trận. 31 Vua A-ram đã ra lệnh cho ba mươi hai người chỉ huy chiến xa của vua rằng: "Các ngươi không đánh ai, dù nhỏ hay lớn, chỉ đánh một mình vua Ít-ra-en thôi.” 32 Khi các người chỉ huy chiến xa nhìn thấy vua Giơ-hô-sa-phát thì nói: "Ðúng là vua Ít-ra-en đây rồi," và dồn lực lượng tấn công vua, nhưng vua Giơ-hô-sa-phát thét lên. 33 Khi thấy rằng đó không phải là vua Ít-ra-en thì các người chỉ huy chiến xa không đuổi theo nữa.

34 Một người giương cung bắn đại, lại trúng ngay vua Ít-ra-en vào giữa khớp của áo giáp. Vua liền bảo người đánh xe: "Quay xe lại, đưa ta ra khỏi chiến trường, vì ta đã bị thương.” 35 Nhưng trận chiến hôm ấy trở nên ác liệt, và người ta đã cho vua đứng trên xe, đối diện với quân A-ram, và đến chiều thì vua chết; máu từ vết thương chảy cả vào lòng xe. 36 Lúc mặt trời lặn, có tiếng kêu vang lên khắp trại rằng: "Ai nấy về thành mình, ai nấy về xứ mình! 37 Vì vua đã chết!" Họ đưa vua về Sa-ma-ri và chôn cất vua tại đó. 38 Người ta xối nước rửa xe, cạnh hồ nước ở Sa-ma-ri; chó liếm máu vua và gái điếm tắm rửa trong hồ ấy, đúng như lời Ðức Chúa đã phán.

6. Sau Khi Vua A-Kháp Qua Ðời

Kết thúc triều vua A-kháp

39 Các truyện còn lại về vua A-kháp, các việc vua làm, điện ngà vua xây, các thành vua kiến thiết đều đã được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en. 40 Vua A-kháp an nghỉ với tổ tiên. Con vua là A-khát-gia-hu lên ngôi kế vị.

Triều đại vua Giơ-hô-sa-phát ở Giu-đa (876-848) (2 Sb 20:31-21:1)

41 Năm thứ tư triều A-kháp, vua Ít-ra-en, Giơ-hô-sa-phát con vua A-xa lên làm vua Giu-đa. 42 Giơ-hô-sa-phát lên ngôi vua khi được ba mươi lăm tuổi, vua trị vì tại Giê-ru-sa-lem hai mươi lăm năm. Thân mẫu vua là bà A-du-va, ái nữ ông Sin-khi. 43 Vua hoàn toàn theo đường lối phụ vương A-xa đã đi, không sai trệch, tức là làm điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa. 44 Thế nhưng, các nơi cao không biến đi hết, dân chúng vẫn tiếp tục tế lễ và dâng hương tại các nơi đó. 45 Vua Giơ-hô-sa-phát giao hảo với vua Ít-ra-en.

46 Các truyện còn lại về vua Giơ-hô-sa-phát, các chiến công của vua, các cuộc chiến vua đã thực hiện, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 47 Vua còn quét sạch khỏi xứ bọn trai điếm phục vụ đền thần còn sót lại từ thời phụ vương A-xa. 48 Bấy giờ ở Ê-đôm không có vua; nhưng có một vị thủ lãnh nhiếp chính. 49 Vua Giơ-hô-sa-phát đóng một đoàn tàu Tác-sít để đi Ô-phia tìm vàng, nhưng không đi được, vì tàu bị vỡ tại E-xi-ôn Ghe-ve. 50 Bấy giờ vua A-khát-gia-hu, con vua A-kháp, nói với vua Giơ-hô-sa-phát: "Xin để cho tôi tớ của tôi cùng đi tàu với tôi tớ của ngài." Nhưng vua Giơ-hô-sa-phát không muốn. 51 Vua Giơ-hô-sa-phát an nghỉ với tổ tiên, và được chôn cất với các ngài trong Thành vua Ða-vít, tổ phụ vua. Con vua là Giơ-hô-ram lên ngôi kế vị.

A-khát-gia-hu vua Ít-ra-en (853-852) và ngôn sứ Ê-li-a

52 Năm thứ mười bảy triều vua Giơ-hô-sa-phát cai trị Giu-đa, A-khát-gia-hu con vua A-kháp lên làm vua cai trị Ít-ra-en tại Sa-ma-ri; vua trị vì Ít-ra-en được hai năm. 53 Vua làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, vì vua theo đường lối của thân phụ và thân mẫu vua, đường lối của con ông Nơ-vát là Gia-róp-am, người đã lôi kéo Ít-ra-en phạm tội. 54 Vua làm tôi Ba-an và phục lạy nó; vua chọc giận Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, y như thân phụ vua đã làm.

Các Vua 2

Chương 01

1 Sau khi vua A-kháp qua đời, Mô-áp nổi loạn chống Ít-ra-en. 2 Vua A-khát-gia ngã xuống từ lan can phòng trên của lầu vua ở Sa-ma-ri, nên bị đau ốm. Vua sai sứ giả đi và bảo họ: "Các ngươi hãy đi thỉnh ý Ba-an Dơ-vúp, thần của Éc-rôn, để xem ta có thể qua khỏi cơn bệnh này không?” 3 Nhưng sứ giả của Ðức Chúa nói với ông Ê-li-a người Tít-be: "Hãy trỗi dậy, lên gặp các sứ giả của vua Sa-ma-ri, và bảo họ: Ở Ít-ra-en không có Thiên Chúa hay sao, mà các anh lại đi thỉnh ý Ba-an Dơ-vúp, thần của Éc-rôn? 4 Vì thế Ðức Chúa phán thế này: Ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên nằm, vì thế nào ngươi cũng chết." Rồi ông Ê-li-a đi khỏi đó.

5 Các sứ giả trở về với vua. Vua bảo họ: "Sao các ngươi lại trở về?” 6 Họ đáp: "Một người đã lên gặp chúng tôi và nói với chúng tôi: Hãy đi về với ông vua đã sai các anh đi và thưa với vua: Ðức Chúa phán thế này: Ở Ít-ra-en không có Thiên Chúa hay sao, mà ngươi lại sai sứ giả đi thỉnh ý Ba-an Dơ-vúp, thần của Éc-rôn? Vì thế, ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên nằm, vì thế nào ngươi cũng chết.” 7 Vua hỏi họ: "Người đã lên gặp các ngươi và nói với các ngươi những lời đó, ăn mặc thế nào?” 8 Họ trả lời: "Ðó là một người mặc áo da lông, đóng khố da." Vua nói: "Ðó là ông Ê-li-a người Tít-be!"

9 Vua sai một sĩ quan chỉ huy năm mươi quân đem theo năm mươi quân của mình đến với ông Ê-li-a. Viên sĩ quan này đi lên với ông Ê-li-a đang ngồi trên đỉnh núi. Viên sĩ quan thưa ông Ê-li-a: "Hỡi người của Thiên Chúa, vua bảo: Xin mời ông xuống!” 10 Ông Ê-li-a trả lời sĩ quan chỉ huy năm mươi quân: "Nếu ta là người của Thiên Chúa, thì chớ gì một ngọn lửa từ trời xuống thiêu đốt ngươi và năm mươi quân của ngươi!" Một ngọn lửa từ trời liền xuống thiêu đốt viên sĩ quan và năm mươi quân của ông. 11 Vua lại sai một sĩ quan khác chỉ huy năm mươi quân đem năm mươi quân của mình đến với ông Ê-li-a. Viên sĩ quan đó lên tiếng nói: "Hỡi người của Thiên Chúa, vua nói thế này: Xin ông xuống mau!” 12 Ông Ê-li-a trả lời họ: "Nếu ta là người của Thiên Chúa, thì chớ gì một ngọn lửa từ trời xuống thiêu đốt ngươi và năm mươi quân của ngươi!" Một ngọn lửa từ trời liền xuống thiêu đốt viên sĩ quan và năm mươi người của ông. 13 Vua lại sai viên sĩ quan thứ ba chỉ huy năm mươi quân đem theo năm mươi quân của mình. Viên sĩ quan thứ ba đi lên, và khi đến nơi, thì quỳ gối trước mặt ông Ê-li-a và khẩn nài: "Hỡi người của Thiên Chúa, ước gì mạng tôi và mạng của năm mươi tôi tớ ngài đây được coi là quý trước mắt ngài! 14 Một ngọn lửa đã từ trời xuống thiêu đốt hai sĩ quan trước, mỗi người cùng với năm mươi quân của họ. Nhưng bây giờ, ước gì mạng tôi được coi là quý trước mắt ngài!” 15 Sứ giả của Ðức Chúa nói với ông Ê-li-a: "Hãy xuống với người này, đừng sợ gì nó!" Ông trỗi dậy, cùng với viên sĩ quan xuống gặp vua. 16 Ông Ê-li-a nói với vua: "Ðức Chúa phán thế này: Vì ngươi đã sai sứ giả đi thỉnh ý Ba-an Dơ-vúp, thần của Éc-rôn, - ở Ít-ra-en không có Thiên Chúa hay sao, mà lại đi thỉnh lời sấm của nó? -, nên ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên nằm, vì thế nào ngươi cũng chết!"

17 Vua đã chết, như lời của Ðức Chúa mà ông Ê-li-a đã truyền lại. Vì vua A-khát-gia không có con, nên ông Giô-ram lên ngôi kế vị, vào năm thứ hai triều vua Giô-ram, con ông Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa. 18 Các truyện còn lại của vua A-khát-gia, những gì vua làm, đã chẳng được ghi trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao?

Chương 02

VI. Truyện Ông Ê-Li-Sa

1. Những Bước Ðầu

Ngôn sứ Ê-li-a được đem đi. Ông Ê-li-sa thay thế.

1 Vào thời Ðức Chúa đem ông Ê-li-a lên trời trong cơn gió lốc, ông Ê-li-a và ông Ê-li-sa rời Ghin-gan. 2 Ông Ê-li-a nói với ông Ê-li-sa: "Xin anh ở lại đây, vì Ðức Chúa sai thầy đến Bết Ên." Nhưng ông Ê-li-sa thưa: "Có Ðức Chúa hằng sống và có thầy đang sống đây, con xin thề sẽ không bỏ thầy!" Rồi các ông đi xuống Bết Ên. 3 Các anh em ngôn sứ ở Bết Ên ra gặp ông Ê-li-sa và nói: "Ông có biết không, hôm nay Ðức Chúa sẽ đem thầy của ông lên cao ngay trên đầu ông?" Ông nói: "Tôi cũng biết chứ, im đi!” 4 Ông Ê-li-a bảo ông: "Này Ê-li-sa, xin anh ở lại đây, vì Ðức Chúa sai thầy đi Giê-ri-khô." Nhưng ông Ê-li-sa thưa: "Có Ðức Chúa hằng sống và có thầy đang sống đây, con xin thề sẽ không bỏ thầy!" Và các ông đã đến Giê-ri-khô. 5 Các anh em ngôn sứ ở Giê-ri-khô đến gần ông Ê-li-sa và nói: "Ông có biết không, hôm nay Ðức Chúa sẽ đem thầy của ông lên cao, ngay trên đầu ông?" Ông nói: "Tôi cũng biết chứ, im đi!” 6 Ông Ê-li-a bảo: "Xin anh ở lại đây, vì Ðức Chúa sai thầy đến sông Gio-đan." Nhưng ông thưa: "Có Ðức Chúa hằng sống và có thầy đang sống đây, con xin thề sẽ không bỏ thầy! " Rồi cả hai ông cùng đi.

7 Năm mươi anh em ngôn sứ cũng đi, đứng ở đằng xa, phía trước hai ông, còn hai ông thì đứng bên bờ sông Gio-đan. 8 Ông Ê-li-a lấy áo choàng của mình, cuộn lại mà đập xuống nước. Nước rẽ ra hai bên. Hai ông đã đi qua ráo chân. 9 Vậy, khi đã đi qua, ông Ê-li-a nói với ông Ê-li-sa: "Anh cứ xin đi: thầy có thể làm gì cho anh trước khi thầy được đem đi, rời xa anh?" Ông Ê-li-sa nói: "Xin cho con được hai phần thần khí của thầy!” 10 Ông Ê-li-a đáp: "Anh xin một điều khó đấy! Nếu anh thấy thầy khi thầy được đem đi, rời xa anh, thì sẽ được như thế; bằng không, thì không được.” 11 Các ông còn đang vừa đi vừa nói, thì này một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa tách hai người ra. Và ông Ê-li-a lên trời trong cơn gió lốc. 12 Thấy thế, ông Ê-li-sa kêu lên: "Cha ơi! Cha ơi! Hỡi chiến xa và chiến mã của Ít-ra-en!" Rồi ông không thấy thầy mình nữa. Ông túm lấy áo mình và xé ra làm hai mảnh. 13 Ông lượm lấy áo choàng của ông Ê-li-a rơi xuống. Ông trở về và đứng bên bờ sông Gio-đan.

14 Ông lấy áo choàng của ông Ê-li-a đã rơi xuống mà đập xuống nước và nói: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông Ê-li-a ở đâu?" Ông đập xuống nước, nước rẽ ra hai bên, và ông Ê-li-sa đi qua. 15 Các anh em ngôn sứ Giê-ri-khô thấy ông ở đằng xa thì nói: "Thần khí của ông Ê-li-a đã ngự xuống trên ông Ê-li-sa." Họ đến đón ông và sụp xuống đất lạy ông. 16 Họ thưa ông: "Tại đây có năm mươi người dũng cảm đang ở với các tôi tớ ngài. Xin cho phép họ đi tìm thầy của ngài. Có lẽ thần khí của Ðức Chúa đã đem người đi, rồi thả xuống một ngọn núi hay một thung lũng nào đó." Nhưng ông nói: "Ðừng sai ai đi cả!” 17 Họ cứ một mực nài ép ông, nên ông bảo: "Thì cứ sai đi!" Họ sai năm mươi người đi kiếm suốt ba ngày, nhưng không tìm thấy ông Ê-li-a. 18 Họ trở về với ông. Ông đang ở Giê-ri-khô, ông nói với họ: "Tôi đã chẳng bảo các anh là đừng đi đó sao?"

Hai phép lạ của ông Ê-li-sa

19 Người trong thành nói với ông Ê-li-sa: "Như ngài thấy đó, địa thế của thành thì tốt, nhưng nước thì độc và xứ sở bị nạn vô sinh.” 20 Ông Ê-li-sa bảo: "Lấy cho tôi một cái tô mới và bỏ muối vào đó." Họ đi lấy cho ông. 21 Ông đi ra suối nước, đổ muối xuống và nói: "Ðức Chúa phán thế này: Ta làm cho nước hoá lành, và nước này sẽ không còn gây chết chóc và nạn vô sinh nữa.” 22 Và nước hoá lành cho đến ngày nay, theo lời ông Ê-li-sa đã nói.

23 Ông rời nơi đó lên Bết Ên. Và khi ông đi lên, thì dọc đường có những trẻ con từ thành đi ra, chúng nhạo ông và nói: "Lên đi, ông hói đầu ơi! Lên đi, ông hói đầu ơi!” 24 Ông quay lại, và khi thấy chúng thì nguyền rủa chúng nhân danh Ðức Chúa. Bấy giờ, có hai con gấu từ trong rừng đi ra và xé xác bốn mươi hai đứa trẻ. 25 Từ nơi đó, ông đi tới núi Các-men, rồi trở lại Sa-ma-ri.

Chương 03

2. Cuộc Chiến Chông Mô-Áp

Thời vua Giô-ram cai trị Ít-ra-en (852-841)

1 Vua Giô-ram, con vua A-kháp, lên ngôi tại Sa-ma-ri cai trị Ít-ra-en, vào năm thứ mười tám triều vua Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa. Vua trị vì được mười hai năm. 2 Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, nhưng không như cha như mẹ của vua, vì vua đã cất bỏ trụ đá thần Ba-an mà vua cha đã dựng. 3 Tuy nhiên, vua vẫn bám lấy tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo; và vua không dứt ra được.

Cuộc viễn chinh của Giu-đa và Ít-ra-en đánh Mô-áp

4 Mê-sa, vua Mô-áp, là người nuôi chiên cừu. Ông thường cống nộp cho vua Ít-ra-en một trăm ngàn con chiên và một trăm ngàn con cừu len. 5 Nhưng sau khi vua A-kháp qua đời, thì vua Mô-áp nổi loạn chống lại vua Ít-ra-en.

6 Ngày ấy, vua Giô-ram ra khỏi Sa-ma-ri và kiểm tra dân số toàn thể Ít-ra-en. 7 Rồi vua đi, sai người đến nói với vua Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa: "Vua Mô-áp nổi loạn chống tôi. Ngài có cùng với tôi đi đánh Mô-áp không?" Vua Giơ-hô-sa-phát đáp: "Tôi sẽ lên. Tôi cũng làm như ngài, dân tôi cũng như dân ngài, ngựa của tôi cũng như ngựa của ngài.” 8 Rồi vua nói tiếp: "Chúng ta sẽ đi đường nào mà lên?" Vua Giô-ram trả lời: "Ðường sa mạc Ê-đôm."

9 Vua Ít-ra-en, vua Giu-đa và vua Ê-đôm lên đường. Họ đi vòng quanh bảy ngày đường; không còn nước cho quân lính và thú vật đi theo nữa. 10 Vua Ít-ra-en mới nói: "Than ôi! Ðức Chúa đã triệu tập ba vua chúng ta đây để nộp vào tay Mô-áp!” 11 Vua Giơ-hô-sa-phát nói: "Ở đây không có một ngôn sứ nào của Ðức Chúa có thể giúp chúng ta thỉnh ý Người sao?" Một trong những tôi tớ của vua Ít-ra-en trả lời: "Ở đây có ông Ê-li-sa, con ông Sa-phát, người đã đổ nước trên tay ông Ê-li-a.” 12 Vua Giơ-hô-sa-phát nói: "Ông ấy có lời của Ðức Chúa." Vua Ít-ra-en, vua Giơ-hô-sa-phát và vua Ê-đôm đi xuống gặp ông. 13 Ông Ê-li-sa nói với vua Ít-ra-en: "Chuyện đó can gì đến vua và tôi? Vua hãy đi gặp các ngôn sứ của vua cha, các ngôn sứ của thái hậu." Vua Ít-ra-en nói: "Không, vì Ðức Chúa đã triệu tập ba vua chúng tôi đây để nộp vào tay Mô-áp.” 14 Ông Ê-li-sa nói: "Có Ðức Chúa, Chúa Tể càn khôn, hằng sống, Ðấng tôi phụng thờ, tôi xin thề: Nếu tôi không nể vua Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa, thì tôi sẽ không để ý đến vua và cũng chẳng nhìn mặt vua. 15 Bây giờ, hãy dẫn đến tôi một người gảy đàn." Người gảy đàn vừa đánh đàn, thì bàn tay Ðức Chúa ở trên ông. 16 Ông nói: "Ðức Chúa phán thế này: Hãy đào trong khe này thật nhiều hố. 17 Vì Ðức Chúa phán thế này: Các ngươi không thấy có gió, các ngươi không thấy có mưa; nhưng khe này sẽ đầy nước, và các ngươi sẽ được uống, các ngươi, súc vật và lừa ngựa của các ngươi. 18 Ðối với Ðức Chúa, đó còn là quá ít. Người sẽ nộp Mô-áp vào tay các ngươi. 19 Các ngươi sẽ hạ mọi thành kiên cố, mọi thành quan trọng, sẽ chặt mọi cây cối tươi tốt, lấp mọi giếng nước và rải đá để tàn phá mọi ruộng đồng phì nhiêu.” 20 Quả thật, ban sáng, vào giờ dâng lễ tiến, thì nước từ phía Ê-đôm đến, và toàn xứ đều ngập nước.

21 Khi nghe tin các vua lên đánh chúng, mọi người Mô-áp, những người đến tuổi mang vũ khí và cả những người đã quá tuổi đó, đều được gọi nhập ngũ và đóng ở biên giới. 22 Sáng sớm họ thức dậy; Và khi mặt trời mọc lên, chiếu sáng trên mặt nước, người Mô-áp thấy nước đằng trước chúng đỏ như máu, 23 thì nói: "Máu đó! Chắc chắn các vua đã đánh nhau, chém giết lẫn nhau. Bây giờ, hỡi Mô-áp, đi hôi của đi!"

24 Chúng đến trại người Ít-ra-en. Nhưng người Ít-ra-en đã vùng dậy, đánh quân Mô-áp, khiến chúng phải tẩu thoát trước mặt họ. Họ tiến vào Mô-áp mà đánh. 25 Họ phá huỷ các thành, mỗi người nhặt đá quăng xuống lấp đầy mọi đồng ruộng phì nhiêu; họ bịt mọi giếng nước và chặt mọi cây cối tốt tươi. Cuối cùng, ở Kia Kha-re-xét chỉ còn trơ lại một đống đá. Lính phóng đá bao vây thành đó và đánh phá. 26 Khi vua Mô-áp thấy cuộc chiến ác liệt, không cầm cự nổi, thì dẫn theo bảy trăm người mang kiếm, mở đường máu đi tới vua Ê-đôm. Nhưng chúng không làm nổi chuyện đó. 27 Khi ấy, vua mới bắt con đầu lòng, là người có quyền lên ngôi kế vị, mà tế trên tường thành làm lễ vật toàn thiêu. Một cơn thịnh nộ lớn giáng xuống Ít-ra-en. Quân Ít-ra-en nhổ trại, rút lui mà trở về xứ.

Chương 04

3. Vài Phép Lạ Của Ông Ê-Li-Sa

Dầu của bà goá

1 Có người vợ của một trong những anh em ngôn sứ kêu cứu ông Ê-li-sa: "Tôi tớ ngài là chồng tôi đã chết. Và ngài biết là tôi tớ ngài kính sợ Ðức Chúa. Nhưng chủ nợ đã đến bắt hai đứa con tôi làm nô lệ.” 2 Ông Ê-li-sa nói với bà: "Tôi có thể làm gì cho chị đây? Hãy cho tôi biết: trong nhà chị còn có gì không?" Bà thưa: "Trong nhà nữ tỳ của ngài chẳng còn gì cả, trừ một lọ dầu.” 3 Ông nói: "Chị hãy đi ra ngoài mượn bà con láng giềng các thứ bình, những bình rỗng, đừng có ít quá! 4 Rồi chị trở về, chị và các con cái chị vào nhà đóng cửa lại. Chị sẽ đổ dầu vào tất cả các bình đó, bình nào đầy thì để riêng ra.” 5 Bà từ giã ông mà đi; bà và con cái bà vào nhà đóng cửa lại. Chúng đem bình đến cho bà, còn bà thì đổ vào.6 Khi các bình đã đầy, bà nói với con: "Ðem bình nữa cho mẹ." Nhưng nó thưa: "Hết bình rồi." Dầu liền ngưng chảy. 7 Bà đến trình cho người của Thiên Chúa biết. Ông nói: "Chị đi bán dầu ấy mà trả nợ; phần còn lại thì mẹ con dùng để sinh sống."

Ông Ê-li-sa và mẹ con người phụ nữ Su-nêm

8 Một hôm, ông Ê-li-sa đi qua Su-nêm. Ở đó có một phụ nữ giàu sang. Bà ta giữ ông lại dùng bữa. Từ đó, mỗi lần đi qua, ông đều ghé vào dùng bữa. 9 Bà ấy nói với chồng: "Này ông! Tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một thánh nhân của Thiên Chúa. 10 Mình phải làm cho ông một căn phòng nhỏ trên lầu có tường có vách, rồi kê ở đó một cái giường, đặt bàn ghế và để một cái đèn cho ông dùng. Như thế, khi nào đến nhà mình, ông sẽ lui vào đó.” 11 Một hôm, ông đến nơi ấy, ông lui vào phòng trên lầu và nghỉ ở đó. 12 Ông nói với Giê-kha-di, tiểu đồng của ông: "Ði gọi bà Su-nêm." Nó đi gọi bà và bà đến trước mặt nó. 13 Ông Ê-li-sa bảo nó: "Hãy nói với bà ấy: Bà đã quá lo lắng bận rộn vì chúng tôi. Chúng tôi biết phải làm gì cho bà đây? Có cần chúng tôi phải nói một lời với đức vua hay với tướng chỉ huy quân đội cho bà không?" Bà trả lời: "Tôi sống yên hàn giữa dân tôi.” 14 Ông Ê-li-sa nói với tiểu đồng: "Nên làm gì cho bà ấy?" Giê-kha-di đáp: "Tội nghiệp, bà ấy không có con trai, mà chồng thì đã già.” 15 Ông Ê-li-sa bảo: "Ði gọi bà ấy." Nó đi gọi bà, và bà ấy đến đứng ngoài cửa. 16 Ông Ê-li-sa nói: "Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ được bế con trai." Bà mới nói: "Không, thưa ngài, người của Thiên Chúa, xin đừng lừa dối nữ tỳ ngài!” 17 Quả nhiên, bà ấy có thai, và năm sau, vào thời kỳ, vào độ mà ông Ê-li-sa đã nói, thì bà sinh con trai.

18 Ðứa trẻ lớn lên. Một ngày kia, khi đi kiếm cha nó ở giữa những người thợ gặt,19 nó nói với cha: "Ôi, cái đầu con! Cái đầu con!" Người cha bảo anh đầy tớ: "Bồng nó về cho mẹ nó.” 20 Người tớ trai bồng nó, đem về cho bà mẹ. Ðứa trẻ ngồi trên đầu gối bà đến trưa, rồi nó chết. 21 Bà đem nó lên đặt trên giường dành cho người của Thiên Chúa, đóng cửa lại, để nó ở trong rồi đi ra. 22 Bà đi gọi chồng và nói: "Xin ông sai đến tôi một anh đầy tớ và một con lừa cái. Tôi chạy đến người của Thiên Chúa, rồi sẽ về.” 23 Người chồng bảo: "Tại sao bà lại đi gặp ngài ngày hôm nay? Không phải là ngày đầu tháng, cũng chẳng phải là ngày sa-bát." Nhưng bà trả lời: "Ông cứ yên tâm!” 24 Rồi bà cho thắng lừa và nói với anh đầy tớ: "Hãy đưa tôi đi và lên đường! Chỉ dừng xe lại khi tôi bảo.” 25 Bà lên đường và đi đến với người của Thiên Chúa ở núi Các-men. Vừa thấy bà đằng xa, người của Thiên Chúa nói với Giê-kha-di, tiểu đồng của ông: "Kìa bà Su-nêm. 26 Con hãy chạy ra đón và nói với bà ấy: "Bà có được mạnh khoẻ không? Ông nhà có được mạnh khoẻ không? Cậu bé có được mạnh khoẻ không?" Bà trả lời: "Vâng, mạnh khoẻ cả.” 27 Khi đến gần người của Thiên Chúa ở trên núi, bà ôm lấy chân ông. Giê-kha-di tiến tới, đẩy bà ra, nhưng người của Thiên Chúa bảo: "Ðể yên cho bà ấy, vì tâm hồn bà đang phải cay đắng. Ðức Chúa đã giấu ta điều ấy, Người không cho ta biết.” 28 Khi ấy, bà nói: "Nào tôi có xin ngài cho tôi được đứa con đâu? Tôi đã chẳng nói: "Xin đừng đánh lừa tôi, đó sao?"

29 Ông Ê-li-sa bảo Giê-kha-di: "Hãy thắt lưng, cầm gậy của ta mà đi! Gặp ai thì đừng có chào, ai chào thì đừng đáp lại. Ngươi sẽ đặt gậy của ta trên mặt cậu bé.” 30 Mẹ cậu bé nói: "Có Ðức Chúa hằng sống và có ngài đang sống đây, tôi xin thề sẽ không rời xa ngài." Ông trỗi dậy và đi theo bà. 31 Giê-kha-di đã đi trước hai người và đặt gậy trên mặt cậu bé; nhưng không nghe thấy tiếng, không thấy động đậy. Anh ta quay lại đón ông Ê-li-sa và trình ông: "Cậu bé đã không thức dậy.” 32 Khi ông Ê-li-sa tới nhà thì cậu bé đã chết, nằm trên giường của ông. 33 Ông đi vào chỗ cậu bé, đóng cửa lại, chỉ có hai người ở bên trong, rồi cầu nguyện với Ðức Chúa. 34 Ông lên giường nằm lên trên đứa trẻ, kề miệng ông trên miệng nó, kề mắt ông trên mắt nó, đặt bàn tay ông trên bàn tay nó. Ông cứ nằm trên đứa trẻ, da thịt nó nóng lên. 35 Ông đi đi lại lại trong nhà, rồi lại lên nằm trên nó; cậu bé hắt hơi đến bảy lần, và mở mắt ra. 36 Ông Ê-li-sa gọi Giê-kha-di và bảo: "Ði gọi bà Su-nêm." Nó đi gọi bà; bà đến với ông, ông nói: "Bà hãy đem con đi!” 37 Bà đi vào, quỳ dưới chân ông, rồi sụp xuống đất lạy ông. Sau đó, bà đem con đi và ra khỏi phòng.

Nồi cháo độc

38 Ông Ê-li-sa trở về Ghin-gan, khi nạn đói đang xảy ra trong xứ. Lúc anh em ngôn sứ đang ngồi trước mặt ông, ông nói với tiểu đồng: "Bắc nồi lớn lên bếp và nấu cháo cho anh em ngôn sứ.” 39 Một người trong nhóm ra đồng hái rau, tìm thấy một thứ cây giống như nho dại, thì hái trái dưa đắng ấy, đầy một vạt áo, rồi về nhà, thái nhỏ ra, bỏ vào nồi nấu cháo, vì họ không biết đó là thứ gì. 40 Sau đó, họ múc ra cho mọi người ăn. Vừa ăn chút cháo, họ kêu lên: "Người của Thiên Chúa ơi, thần chết ở trong nồi!" Và họ không thể ăn được nữa. 41 Ông Ê-li-sa bảo: "Ðem bột đến đây!" Ông bỏ bột vào và bảo: "Múc ra cho người ta ăn." Trong nồi liền hết chất độc.

Phép lạ hoá bánh ra nhiều

42 Có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem bánh đầu mùa biếu người của Thiên Chúa: hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông Ê-li-sa nói: "Phát cho người ta ăn.” 43 Nhưng tiểu đồng hỏi ông: "Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?" Ông bảo: "Cứ phát cho người ta ăn! Vì Ðức Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư.” 44 Tiểu đồng phát cho người ta. Họ đã ăn, mà vẫn còn dư, như lời Ðức Chúa phán.

Chương 05

Ông Na-a-man được chữa khỏi bệnh phung hủi

1 Ông Na-a-man, tướng chỉ huy quân đội của vua A-ram, là người có thần thế và uy tín trước mặt chúa thượng của ông, vì Ðức Chúa đã dùng ông mà ban chiến thắng cho A-ram. Nhưng ông lại mắc bệnh phung hủi. 2 Khi những người A-ram đi càn quét, họ đã bắt được một cô bé từ đất Ít-ra-en đưa về. Nó vào giúp việc cho vợ ông Na-a-man. 3 Nó nói với bà chủ: "Ôi, phải chi ông chủ con được giáp mặt vị ngôn sứ ở Sa-ma-ri, thì chắc ngôn sứ sẽ chữa ông khỏi bệnh phung hủi!” 4 Ông Na-a-man đến tường trình với chúa thượng của ông: "Một thiếu nữ xuất thân từ đất Ít-ra-en đã nói thế này thế này.” 5 Vua A-ram bảo: "Ngươi cứ lên đường và trẩy đi. Ta sẽ gửi thư cho vua Ít-ra-en." Ông Na-a-man lên đường, mang theo ba trăm ký bạc, sáu mươi ký vàng và mười bộ quần áo để thay đổi. 6 Ông trình thư lên vua Ít-ra-en. Thư viết: "Cùng với bức thư mà tôi gửi tới ngài đây, tôi sai Na-a-man, thuộc hạ của tôi, đến với ngài, để ngài chữa người này khỏi bệnh phung hủi.” 7 Vua Ít-ra-en đọc thư xong thì xé áo mình ra và nói: "Ta đâu có phải là vị thần cầm quyền sinh tử, mà ông ấy lại sai người này đến nhờ ta chữa hắn khỏi bệnh phung hủi? Các ngươi phải biết, phải thấy rằng ông ấy muốn sinh sự với ta."

8 Vậy, khi ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, nghe biết là vua Ít-ra-en đã xé áo mình ra, thì sai người đến nói với vua: "Sao vua lại xé áo mình ra? Người ấy cứ đến với tôi, thì sẽ biết là có một ngôn sứ ở Ít-ra-en.” 9 Ông Na-a-man đi đến cùng với cả xe và ngựa. Ông đứng trước cửa nhà ông Ê-li-sa. 10 Ông Ê-li-sa sai sứ giả ra nói với ông: "Ông hãy đi tắm bảy lần trong sông Gio-đan. Da thịt ông sẽ trở lại như trước, và ông sẽ được sạch.” 11 Ông Na-a-man nổi giận bỏ đi và nói: "Ta cứ nghĩ bụng là thế nào ông ấy cũng đích thân đi ra, rồi đứng mà cầu khẩn danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông ta. Ông ta sẽ quơ tay lên đúng chỗ phung hủi mà chữa khỏi. 12 Nước các sông A-va-na và Pác-pa ở Ða-mát chẳng tốt hơn tất cả nước sông ở Ít-ra-en sao? Ta lại không thể tắm ở các sông ấy để được sạch hay sao?" Ông quay lưng lại và tức tối ra đi. 13 Bấy giờ, các tôi tớ của ông đến gần và nói: "Cha ơi, giả như ngôn sứ bảo cha làm một điều gì khó, chẳng lẽ cha lại không làm? Phương chi ngôn sứ chỉ nói: Ông hãy đi tắm, thì sẽ được sạch!” 14 Vậy ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Gio-đan, theo lời người của Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Ông đã được sạch.

15 Cùng với đoàn tuỳ tùng, ông trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ông vào, đứng trước mặt ông ấy và nói: "Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en. Bây giờ, xin ngài vui lòng nhận món quà của tôi tớ ngài đây.” 16 Ông Ê-li-sa nói: "Có Ðức Chúa hằng sống là Ðấng tôi phụng sự, tôi thề sẽ không nhận gì cả." Ông Na-a-man nài ép ông nhận, nhưng ông vẫn từ chối. 17 Ông Na-a-man nói: "Nếu ngài từ chối, thì xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Ðức Chúa. 18 Nhưng xin Ðức Chúa tha thứ điều này cho tôi tớ ngài: Khi ông chủ tôi vào điện của thần Rim-môn để sụp xuống lạy, và khi ông ấy vịn vào cánh tay tôi, thì tôi cũng phải sụp xuống lạy trong điện của thần Rim-môn cùng lúc với ông. Xin Ðức Chúa tha thứ điều ấy cho tôi tớ ngài!” 19 Ông Ê-li-sa bảo: "Ông đi bằng an!" và ông Na-a-man đi khỏi chỗ ông Ê-li-sa được một quãng đường.

20 Khi đó, Giê-kha-di, tiểu đồng của ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, nghĩ bụng: "Chủ ta đã giữ gìn không nhận những gì ông Na-a-man, người A-ram, tự tay đem dâng. Có Ðức Chúa hằng sống, ta sẽ chạy theo ông ấy để nhận được chút gì chứ!” 21 Giê-kha-di liền đuổi theo ông Na-a-man. Khi thấy Giê-kha-di chạy theo mình, ông Na-a-man từ trên xe nhảy xuống gặp nó, và hỏi: "Mọi sự đều yên ổn chứ?” 22 Nó trả lời: "Mọi sự đều yên ổn. Chủ tôi sai tôi đi nói với ông: "Vừa rồi có hai thanh niên thuộc nhóm các ngôn sứ đến với tôi từ vùng núi Ép-ra-im. Xin ông cho họ ba mươi ký bạc và hai bộ quần áo để thay đổi.” 23 Ông Na-a-man nói: "Anh vui lòng nhận lấy sáu mươi ký." Rồi ông ép nó nhận. Ông nhét sáu mươi ký bạc trong hai bị cùng với hai bộ quần áo để thay đổi, rồi đưa cho hai người tớ trai mang đi trước mặt nó. 24 Khi tới Ô-phen, nó lấy những thứ đó từ tay họ, đem cất vào nhà, rồi từ giã những người ấy, và họ trẩy đi.

25 Còn nó, nó vào hầu chủ. Ông Ê-li-sa hỏi: "Giê-kha-di, mày đi đâu về?" Nó đáp: "Tôi tớ ngài không có đi đâu cả.” 26 Ông Ê-li-sa bảo: "Trí ta đã chẳng ở đó khi có người xuống xe gặp mày sao? Giờ đây, mày đã nhận tiền bạc, mày có thể sắm quần áo, tậu vườn, vườn ô-liu và vườn nho, mua bò dê chiên cừu và tôi trai tớ gái. 27 Nhưng bệnh phung hủi của ông Na-a-man sẽ mãi mãi bám lấy mày và dòng dõi mày." Giê-kha-di rời ông Ê-li-sa; nó mắc bệnh phung hủi, mốc thếch như tuyết.

Chương 06

Cái rìu đã mất lại tìm thấy

1 Các anh em ngôn sứ nói với ông Ê-li-sa: "Thầy coi, nơi chúng tôi ngồi nghe thầy đây đã ra quá hẹp, so với số người chúng tôi. 2 Vậy xin cho chúng tôi đi ra bờ sông Gio-đan; ở đó, mỗi người chúng tôi sẽ lấy một cái xà, rồi làm một nơi để ngồi nghe." Ông bảo: "Các anh cứ đi!” 3 Một người trong nhóm nói: "Xin thầy vui lòng cùng đi với các tôi tớ thầy." Ông đáp: "Ðược, tôi sẽ đi", 4 rồi ông cùng đi với họ. Tới sông Gio-đan, họ đốn cây. 5 Khi một người trong nhóm đang hạ cây làm xà, thì lưỡi rìu bằng sắt văng xuống nước. Người ấy liền kêu lên: "Chết rồi, ngài ơi! Cái rìu này tôi mượn của người ta!” 6 Người của Thiên Chúa hỏi: "Nó văng đi đâu?" Người ấy chỉ chỗ cho ông. Ông chặt một khúc gỗ, ném xuống đó và làm cho lưỡi rìu bằng sắt nổi lên. 7 Ông bảo: "Vớt lên đi!" Người kia đưa tay ra cầm lấy.

4. Chiến Tranh Với A-Ram

Ông Ê-li-sa tóm gọn một toán quân A-ram

8 Hồi ấy, vua A-ram đang giao chiến với Ít-ra-en. Vua bàn với các thuộc hạ và bảo chúng: "Ta sẽ đặt trại quân chỗ này, chỗ nọ.” 9 Nhưng người của Thiên Chúa nhắn tin cho vua Ít-ra-en: "Xin ngài đề phòng, đừng đi qua chỗ ấy, vì quân A-ram đi xuống đó.” 10 Vua Ít-ra-en mới sai lính tới chỗ người của Thiên Chúa đã nói, đã báo cho biết; vua đề phòng, không phải chỉ một hay hai lần mà thôi.

11 Lòng vua A-ram rất nao núng vì chuyện này. Vua gọi các thuộc hạ lại và bảo: "Chẳng lẽ các ngươi không báo cho ta biết ai trong chúng ta đã bỏ theo vua Ít-ra-en sao?” 12 Một người trong nhóm thuộc hạ đáp: "Thưa đức vua, chúa công tôi, chẳng có ai đâu! Chính ông Ê-li-sa, ngôn sứ của Ít-ra-en, đã cho vua Ít-ra-en biết những lời ngài nói trong phòng ngủ của ngài.” 13 Vua nói: "Ði coi xem ông ấy ở đâu! Ta sẽ sai người đi bắt." Người ta cho vua biết: "Ông ấy đang ở Ðô-than.” 14 Vua liền phái tới đó một đạo quân lớn, có cả ngựa xe. Chúng đến nơi ban đêm và bao vây thành.

15 Sáng hôm sau, người của Thiên Chúa dậy sớm và đi ra ngoài. Và kìa một toán quân có cả ngựa xe đang vây quanh thành. Người đầy tớ nói với ông: "Chết rồi, ngài ơi! Làm sao bây giờ?” 16 Ông trả lời: "Ðừng sợ, vì những người đi theo chúng ta thì đông hơn những người đi theo chúng.” 17 Ông Ê-li-sa cầu xin rằng: "Lạy Ðức Chúa, xin mở mắt cho nó thấy!" Ðức Chúa mở mắt người đầy tớ của ông và nó thấy núi đầy những ngựa và xe đỏ như lửa vây quanh ông Ê-li-sa.

18 Khi quân A-ram kéo xuống phía ông Ê-li-sa, thì ông cầu xin Ðức Chúa: "Xin Chúa đánh mờ mắt những quân này." Và Ðức Chúa đã đánh mờ mắt chúng, theo lời ông Ê-li-sa xin. 19 Khi đó, ông Ê-li-sa bảo chúng: "Ðây không phải là đường, cũng không phải là thành. Các anh đi theo tôi, tôi sẽ dẫn các anh đến người các anh đang tìm kiếm." Và ông đã dẫn chúng tới Sa-ma-ri. 20 Khi chúng vào Sa-ma-ri, ông Ê-li-sa lại nói: "Lạy Ðức Chúa, xin mở mắt cho những người này, cho chúng thấy được." Ðức Chúa đã mở mắt chúng và chúng thấy là mình đang ở giữa thành Sa-ma-ri!

21 Thấy chúng, vua Ít-ra-en nói với ông Ê-li-sa: "Thưa cha, có phải giết chúng không?” 22 Ông đáp: "Ðừng giết! Thử hỏi những kẻ vua đã dùng gươm dùng nỏ bắt làm tù binh, thì vua có giết không? Vua hãy đem bánh và nước tới cho chúng ăn uống, rồi để chúng trở về với chủ của chúng!” 23 Vua dọn tiệc lớn đãi chúng. Khi chúng ăn uống xong, vua cho chúng đi và chúng trở về với chủ của chúng. Những toán quân A-ram không còn xâm nhập Ít-ra-en nữa.

Nạn đói trong thành Sa-ma-ri bị bao vây

24 Sau đó, Ben Ha-đát, vua A-ram, tập họp tất cả quân đội lại, tiến lên vây thành Sa-ma-ri. 25 Ở Sa-ma-ri, đang có một nạn đói lớn; thành bị địch bao vây gắt gao đến nỗi một đầu lừa lên tới hai mươi bốn lượng bạc, và một dúm hành dại cũng lên tới mười lăm chỉ bạc.

26 Khi vua Ít-ra-en đang đi lại trên tường thành, thì một phụ nữ kêu với vua rằng: "Thưa đức vua, chúa thượng tôi, xin cứu tôi với!” 27 Vua trả lời: "Nếu Ðức Chúa không cứu ngươi, thì ta biết lấy gì để cứu ngươi? Chẳng lẽ lấy sân lúa hay bồn đạp nho?” 28 Rồi vua hỏi chị ta: "Chuyện gì vậy?" Chị ấy thưa: "Mụ này đã nói với tôi: "Ðưa con chị đây, chúng ta ăn thịt nó hôm nay; ngày mai, chúng ta sẽ ăn thịt con tôi! 29 Chúng tôi đã nấu chín con tôi và ăn thịt nó. Hôm sau, tôi bảo mụ: "Ðưa con chị đây, chúng ta ăn thịt nó! Nhưng mụ đã giấu con đi.” 30 Vừa nghe người phụ nữ nói những lời ấy, vua liền xé áo mình ra. Vì vua đang đi lại trên tường thành, nên dân thấy được là bên trong vua mặc áo lót bằng vải thô. 31 Vua nói: "Xin Thiên Chúa phạt ta thế này và thêm thế kia nữa, nếu hôm nay đầu của Ê-li-sa, con Sa-phát, còn nằm trên cổ của hắn!"

Ông Ê-li-sa báo tin cơn thử thách sắp chấm dứt

32 Ông Ê-li-sa đang ngồi trong nhà và có những kỳ mục ngồi với ông, thì vua sai người đến với ông. Nhưng trước khi sứ giả đến nơi, ông Ê-li-sa nói với các kỳ mục: "Các ông thấy không: Kẻ sát nhân ấy sai người đến lấy đầu tôi! Vậy thế này: Khi nào sứ giả đến, thì đóng cửa lại, lấy cửa đẩy nó ra. Nhưng tiếng chân chủ nó chẳng đang theo sau nó đấy ư?” 33 Ông còn đang nói, thì vua đã xuống gặp ông và bảo: "Tai hoạ này do Ðức Chúa giáng xuống, thế thì tôi còn biết trông đợi gì nữa nơi Ðức Chúa?"

Chương 07

1 Ông Ê-li-sa nói: "Hãy nghe lời của Ðức Chúa: Ðức Chúa phán thế này: Ngày mai, cũng vào giờ này, tại cửa thành Sa-ma-ri, cứ ba chỉ bạc sẽ mua được một thúng tinh bột lúa miến; cứ ba chỉ bạc sẽ mua được hai thúng lúa mạch!” 2 Viên giám mã đỡ tay vua đáp lời người của Thiên Chúa: "Cho dù Ðức Chúa có mở cống trên trời, điều đó liệu có xảy ra không?" Ông Ê-li-sa nói: "Chính ông sẽ thấy tận mắt, nhưng sẽ không được ăn!"

Trại quân A-ram bỏ trống

3 Có bốn người phung hủi đang ở lối vào cửa thành. Họ nói với nhau: "Sao chúng ta cứ ở lại đây mà chờ chết? 4 Nếu chúng ta quyết định vào thành, thì chúng ta sẽ chết trong thành, vì ở đó đang có nạn đói; nếu chúng ta ở lại đây, thì chúng ta cũng sẽ chết. Vậy bây giờ, đến đây, chúng ta cùng trốn sang trại quân A-ram. Nếu chúng để chúng ta sống, thì chúng ta sẽ sống; mà nếu chúng giết chúng ta, thì chúng ta sẽ chết.” 5 Lúc chập tối, những người phung hủi lên đường đi đến trại quân A-ram. Nhưng khi tới đầu trại quân A-ram, thì họ chẳng thấy có ai! 6 Vì Ðức Chúa đã cho tiếng xe, tiếng ngựa, tiếng một đạo binh lớn vang lên trong trại quân A-ram. Chúng bảo nhau: "Này vua Ít-ra-en đã thuê các vua Khết và các vua Ai-cập vào đánh chúng ta.” 7 Vậy chúng đã lên đường, chạy trốn lúc chập tối, bỏ lại lều, ngựa, lừa; tóm lại, chúng để cả trại y nguyên mà chạy thục mạng. 8 Khi tới đầu trại, những người phung hủi kia vào một lều; họ ăn uống, rồi mang bạc, vàng và quần áo đi giấu. Họ trở lại, vào một lều khác, rồi mang đồ vật trong đó đi giấu.

Hết cuộc bao vây và hết nạn đói

9 Bấy giờ, họ nói với nhau: "Chúng ta làm thế thì không phải. Hôm nay là ngày mang lại tin vui. Nếu chúng ta làm thinh và chần chừ mãi cho tới khi trời sáng, thì chúng ta sẽ mắc tội. Bây giờ, đến đây, chúng ta cùng đi báo tin cho đền vua.” 10 Họ vào gọi những người canh cửa thành và báo tin: "Chúng tôi đã vào trại quân A-ram. Chúng tôi chẳng thấy có ai, cũng không nghe tiếng người; chỉ có ngựa còn cột đó, lừa còn cột đó; các lều còn y nguyên.” 11 Những người canh cửa thành hô lên và báo tin cho đền vua ở bên trong.

12 Ðang đêm, vua trỗi dậy, nói với các thuộc hạ: "Ðể ta giải thích cho các ngươi nghe những gì quân A-ram làm để hại chúng ta. Chúng biết chúng ta đang bị đói, nên đã ra khỏi trại để nấp ở ngoài đồng, nghĩ bụng rằng: "Họ sẽ ra khỏi thành; chúng ta sẽ bắt sống họ, rồi vào thành".” 13 Một người trong các thuộc hạ vua trả lời: "Xin để người ta lấy năm con ngựa trong số những con sống sót còn lại đây, - nếu không, những con ấy cũng sẽ cùng chung số phận với toàn đám dân Ít-ra-en sống sót trong thành đang chờ chết -; chúng ta cứ gửi đi xem sao.” 14 Người ta lấy hai cỗ xe, rồi vua sai người đuổi theo quân A-ram, và nói: "Hãy đi, xem thế nào!” 15 Họ đã đuổi theo chúng cho đến sông Gio-đan. Trên tất cả quãng đường ấy đều la liệt quần áo và vật dụng quân A-ram đã liệng xuống trong lúc vội vã. Các sứ giả trở về trình lại các sự việc cho vua.

16 Dân đi ra hôi của trong trại quân A-ram. Quả thật, theo như lời của Ðức Chúa, cứ ba chỉ bạc sẽ mua được một thúng tinh bột lúa miến; cứ ba chỉ bạc sẽ mua được hai thúng lúa mạch. 17 Vua đã đặt một viên giám mã canh cửa thành, người đó là người đã đỡ tay vua. Dân chúng giẫm lên người đó ở cửa thành, làm cho người đó chết, đúng y như lời người của Thiên Chúa đã nói khi vua xuống gặp ông. 18 Quả thật, khi người của Thiên Chúa nói với vua: "Ngày mai, cũng vào giờ này, tại cửa thành Sa-ma-ri, ba chỉ bạc sẽ mua được hai thúng lúa mạch, ba chỉ bạc sẽ mua được một thúng tinh bột lúa miến", 19 thì viên giám mã trả lời cho người của Thiên Chúa: "Cho dù Ðức Chúa có mở cống trên trời, điều đó liệu có xảy ra không?" Ông Ê-li-sa nói: "Ông sẽ thấy tận mắt, nhưng ông sẽ không được ăn!” 20 Ðiều đó đã xảy ra cho viên giám mã: dân chúng giẫm lên ông ở cửa thành, làm ông chết.

Chương 08

Kết thúc truyện người phụ nữ Su-nêm

1 Ông Ê-li-sa nói với người phụ nữ có đứa con trai ông đã làm cho sống lại: "Bà hãy trỗi dậy, lên đường, đem theo gia đình của bà. Hãy ra nước ngoài, ở tạm nơi nào ở được, vì Ðức Chúa đã khiến nạn đói xảy ra, hơn nữa nạn đói còn xảy ra trong xứ suốt bảy năm.” 2 Người phụ nữ trỗi dậy và làm theo lời người của Thiên Chúa dạy. Bà và gia đình bà đã đi và ở tạm bên xứ người Phi-li-tinh bảy năm. 3 Sau bảy năm, người phụ nữ bỏ xứ người Phi-li-tinh trở về. Bà đi cầu cứu với vua về chuyện nhà cửa ruộng đất của bà.

4 Vua nói với Giê-kha-di, tiểu đồng của ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa: "Hãy kể cho ta nghe tất cả những chuyện lớn lao ông Ê-li-sa đã làm.” 5 Giê-kha-di đang kể cho vua nghe chuyện ông Ê-li-sa đã làm cho người chết sống lại thế nào, thì người phụ nữ có đứa con trai ông đã làm sống lại, đến cầu cứu với vua về chuyện nhà cửa ruộng đất của bà. Giê-kha-di liền trình vua: "Thưa đức vua, chúa thượng của con, đây là người phụ nữ, và đây là người con trai mà ông Ê-li-sa đã làm cho sống lại.” 6 Vua hỏi người phụ nữ, và bà kể hết cho vua nghe. Vua chỉ định một viên thái giám lo việc cho bà và nói: "Ngươi giúp bà này lấy lại tất cả tài sản của bà, cũng như mọi lợi tức ruộng đất, kể từ ngày bà rời xứ cho đến nay."

Ông Ê-li-sa và ông Kha-da-ên thành Ða-mát

7 Ông Ê-li-sa vào Ða-mát. Vua A-ram là Ben Ha-đát đang bị bệnh. Người ta báo tin cho vua: "Người của Thiên Chúa đã đến tận đây.” 8 Vua nói với ông Kha-da-ên: "Ngươi hãy mang quà và đi gặp người của Thiên Chúa. Ngươi sẽ nhờ ông thỉnh ý Ðức Chúa và thưa Người: "Con có được khỏi bệnh này không?"

9 Ông Kha-da-ên đi gặp ông Ê-li-sa, đem theo tất cả những gì tốt nhất ở Ða-mát làm quà, chất trên lưng bốn mươi con lạc đà. Khi tới nơi, ông Kha-da-ên đứng trước ông Ê-li-sa và nói: "Con của ngài là Ben Ha-đát, vua A-ram, đã sai tôi đến thưa ngài: "Tôi có được khỏi bệnh này không?” 10 Ông Ê-li-sa nói: "Ông đi nói với vua: "Chắc chắn ngài sẽ sống! Nhưng Ðức Chúa đã cho tôi thấy chắc chắn vua sẽ chết.” 11 Người của Thiên Chúa nghiêm nét mặt, nhìn chằm chằm khiến ông Kha-da-ên phát ngượng. Ông Ê-li-sa khóc. 12 Ông Kha-da-ên mới hỏi: "Tại sao ngài lại khóc?" Ông đáp: "Vì tôi biết tai hoạ ông sẽ gây cho con cái Ít-ra-en. Ông sẽ phóng hoả đốt các thành trì, sẽ dùng gươm chém giết các trai tráng, ném trẻ con xuống đất cho chết và mổ bụng đàn bà có thai.” 13 Ông Kha-da-ên nói: "Tôi tớ ngài, con chó này, là chi mà làm được điều quá thể như vậy?" Ông Ê-li-sa đáp: "Ðức Chúa đã cho tôi thấy ông làm vua A-ram.” 14 Ông Kha-da-ên từ giã ông Ê-li-sa và lại về với chủ mình, vua hỏi: "Ông Ê-li-sa đã nói gì với ngươi?" Ông Kha-da-ên đáp: "Ông ấy nói với tôi là chắc chắn ngài sẽ sống.” 15 Hôm sau, ông Kha-da-ên đã lấy chăn, nhúng nước, rồi phủ lên mặt vua. Vua đã chết, và ông Kha-da-ên lên ngôi kế vị.

Vua Giô-ram cai trị Giu-đa (848-841) (2 Sb 21:1-20)

16 Năm thứ năm triều Giô-ram, con vua A-kháp làm vua Ít-ra-en, ông Giơ-hô-ram, con vua Giơ-hô-sa-phát lên làm vua Giu-đa. 17 Ông lên ngôi vua khi được ba mươi hai tuổi, và trị vì ở Giê-ru-sa-lem tám năm. 18 Vua đi theo đường lối các vua Ít-ra-en, hành động như nhà A-kháp, vì vua đã lấy một người con gái của vua A-kháp làm vợ. Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa. 19 Nhưng vì vua Ða-vít, tôi trung của người, Ðức Chúa không muốn huỷ diệt Giu-đa, theo lời Người đã phán với vua, là sẽ ban cho vua và con cháu vua một ngọn đèn luôn cháy sáng mọi ngày.

20 Dưới thời của vua, Ê-đôm thoát ách thống trị của Giu-đa và đặt một vua lên cai trị mình. 21 Vua Giô-ram sang Xa-ia cùng với toàn bộ chiến xa. Ban đêm, vua trỗi dậy, đánh quân Ê-đôm đang bao vây vua và những người chỉ huy chiến xa. Dân chạy trốn về lều của họ. 22 Như thế, Ê-đôm đã thoát ách thống trị của Giu-đa cho đến ngày nay. Rồi Líp-na cũng đã thoát ách thống trị vào lúc ấy.

23 Những truyện còn lại của vua Giô-ram và mọi việc vua làm đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 24 Vua Giô-ram đã an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất với các ngài trong Thành Ða-vít. Ông A-khát-gia-hu, con của vua, lên ngôi kế vị vua cha.

Vua A-khát-gia-hu cai trị Giu-đa (841) (2 Sb 22:1-6)

25 Năm thứ mười hai triều Giô-ram, con vua A-kháp, làm vua Ít-ra-en, ông A-khát-gia-hu, con vua Giơ-hô-ram, lên làm vua Giu-đa. 26 A-khát-gia-hu lên ngôi vua khi được hai mươi hai tuổi, và trị vì ở Giê-ru-sa-lem được một năm. Thân mẫu vua là bà A-than-gia-hu, ái nữ của Om-ri, vua Ít-ra-en. 27 Vua đi theo đường lối nhà A-kháp, đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa như nhà A-kháp, vì có họ hàng với nhà A-kháp.

28 Cùng với vua Giô-ram, con vua A-kháp, vua đi đánh vua A-ram là Kha-da-ên, ở Ra-mốt Ga-la-át. Nhưng quân A-ram đã đánh vua Giô-ram bị thương. 29 Vua Giô-ram đã quay về Gít-rơ-en để chữa trị, vì các thương tích quân A-ram đã gây cho vua ở Ra-ma, trong lúc giao chiến với vua A-ram là Kha-da-ên. Vua Giu-đa là A-khát-gia-hu, con vua Giơ-hô-ram, đã xuống Gít-rơ-en thăm vua Giô-ram, con vua A-kháp, vì vua này đang bị bệnh.

Chương 09

5. Truyện Vua Giê-Hu

Xức dầu phong vương cho ông Giê-hu

1 Ngôn sứ Ê-li-sa gọi một người trong nhóm anh em ngôn sứ và bảo: "Hãy thắt lưng và cầm theo lọ dầu này, mà đi tới Ra-mốt Ga-la-át. 2 Khi đến nơi, anh hãy tìm cách nhận mặt ông Giê-hu, con ông Giơ-hô-sa-phát, cháu ông Nim-si. Anh đến và mời ông ấy đứng lên, ra khỏi chỗ các anh em đồng đội, rồi dẫn vào một phòng kín đáo. 3 Sau đó, anh lấy lọ dầu mà đổ trên đầu ông và nói: "Ðức Chúa phán thế này: Ta xức dầu phong ngươi làm vua Ít-ra-en. Rồi anh mở cửa, trốn ngay đi, đừng chậm trễ."

4 Người thanh niên, một ngôn sứ trẻ, trẩy đi Ra-mốt Ga-la-át. 5 Khi anh đến nơi, thì các tướng lãnh quân đội đang ngồi với nhau. Người thanh niên nói: "Thưa tướng quân, tôi có điều phải nói với ngài." Ông Giê-hu hỏi: "Với ai trong chúng tôi?" Anh trả lời: "Thưa, với tướng quân.” 6 Khi đó, ông Giê-hu đứng lên, đi vào trong nhà. Người thanh niên đổ dầu lên đầu ông và nói: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: "Ta xức dầu phong ngươi làm vua cai trị Ít-ra-en là dân của Ðức Chúa. 7 Ngươi sẽ đánh phạt nhà A-kháp, chủ ngươi, để ta đòi I-de-ven đền nợ máu các tôi tớ Ta là các ngôn sứ và mọi tôi tớ của Ðức Chúa. 8 Toàn thể nhà A-kháp sẽ bị diệt vong. Ta sẽ diệt trừ mọi đàn ông con trai của nhà A-kháp, nô lệ cũng như tự do ở Ít-ra-en. 9 Ta sẽ xử với nhà A-kháp như với nhà Gia-róp-am, con Nơ-vát, như với nhà Ba-sa, con A-khi-gia. 10 Còn I-de-ven, thì chó sẽ ăn thịt nó ngoài đồng Gít-rơ-en, mà không có người chôn cất." Sau đó, người thanh niên mở cửa, chạy trốn.

Ông Giê-hu được tôn làm vua

11 Ông Giê-hu ra gặp các thuộc hạ của chủ mình. Họ hỏi ông: "Bình an chứ? Tại sao tên khùng ấy lại đến gặp ông?" Ông Giê-hu đáp: "Các ông biết con người ấy và bài ca lải nhải của y mà!” 12 Nhưng họ bảo: "Ông nói dối! Kể lại cho chúng tôi đi!" Ông nói: "Y nói với tôi thế này thế này; y bảo Ðức Chúa phán rằng: Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua Ít-ra-en.” 13 Họ vội vàng lấy áo choàng trải lên đầu thềm cấp, dưới chân ông. Họ thổi tù và, rồi hô lên: "Giê-hu làm vua!"

Ông Giê-hu chuẩn bị tiếm quyền

14 Ông Giê-hu, con ông Giơ-hô-sa-phát, cháu ông Nim-si, âm mưu chống lại vua Giô-ram. Lúc đó, vua Giô-ram và toàn thể Ít-ra-en đang bảo vệ Ra-mốt Ga-la-át chống lại vua A-ram là Kha-da-ên. 15 Nhưng vua Giơ-hô-ram đã về điều trị ở Gít-rơ-en, vì các thương tích quân A-ram đã gây cho vua, trong lúc vua giao chiến với vua A-ram là Kha-da-ên. Ông Giê-hu nói: "Nếu thực sự các ông đồng lòng với tôi, thì đừng ai thoát khỏi thành mà đi báo tin cho Gít-rơ-en.” 16 Ông Giê-hu lên xe đi Gít-rơ-en, vì vua Giô-ram đang liệt giường ở đó; vua Giu-đa là A-khát-gia đã xuống thăm vua Giô-ram.

17 Người lính canh đứng trên tháp Gít-rơ-en nhìn thấy đoàn quân của ông Giê-hu đang đến, thì nói: "Tôi nhìn thấy một đoàn quân." Vua Giơ-hô-ram bảo: "Hãy chọn một kỵ binh, sai đi gặp họ và hỏi: Bình an chứ?” 18 Người kỵ binh đi gặp ông Giê-hu và nói: "Vua phán thế này: Bình an chứ?" Ông Giê-hu trả lời: "Bình an hay không, việc gì đến ngươi! Lui ra đằng sau ta!" Người lính canh lại báo tin: "Sứ giả đã tới chỗ họ, nhưng không trở về.” 19 Vua lại sai người kỵ binh thứ hai, người ấy đến với họ và nói: "Vua phán thế này: Bình an chứ?" Ông Giê-hu đáp: "Bình an hay không, việc gì đến ngươi! Lui ra đằng sau ta!” 20 Người lính canh lại báo tin: "Sứ giả đã tới chỗ họ, nhưng không trở về. Kiểu đánh xe thì giống như kiểu của ông Giê-hu, con ông Nim-si: Ông ấy đánh xe như điên!” 21 Vua Giơ-hô-ram bảo: "Thắng xe đi!" Và người ta thắng xe. Vua Ít-ra-en là Giơ-hô-ram và vua Giu-đa là A-khát-gia-hu đi ra, mỗi người ngồi trên xe mình. Hai vua đi ra gặp ông Giê-hu và thấy ông ở thửa đất ông Na-vốt, người Gít-rơ-en.

Vua Giơ-hô-ram bị sát hại

22 Vậy vua Giơ-hô-ram vừa thấy ông Giê-hu, thì nói: "Ông Giê-hu, bình an chứ?" Ông Giê-hu trả lời: "Bình an thế nào được, bao lâu I-de-ven, mẹ ông, còn dở những trò dâm đãng và làm bao nhiêu chuyện phù phép như thế!” 23 Vua Giơ-hô-ram liền cho quay xe lại và chạy trốn. Vua nói với vua A-khát-gia-hu: "Phản loạn, ông A-khát-gia ơi!” 24 Nhưng ông Giê-hu, đang cầm sẵn cung trong tay, bắn trúng khoảng giữa hai vai vua Giơ-hô-ram; mũi tên xuyên qua tim vua Giơ-hô-ram mà đi ra, khiến vua gục ngã trong xe. 25 Ông Giê-hu bảo viên sĩ quan Bít-ca: "Lôi nó ra, ném vào thửa đất ông Na-vốt, người Gít-rơ-en. Anh còn nhớ chứ: Khi tôi và anh cưỡi ngựa song song tháp tùng cha nó là A-kháp, Ðức Chúa đã tuyên sấm về nó như thế này: 26 Hôm qua, Ta đã chẳng thấy máu của Na-vốt, và của con cái Na-vốt sao? - Sấm ngôn của Ðức Chúa. Ta sẽ bắt ngươi phải trả nợ máu như thế, ngay tại thửa đất ấy- Sấm ngôn của Ðức Chúa! Vậy bây giờ, lôi nó ra, ném vào thửa đất ấy, theo lời Ðức Chúa!"

Vua A-khát-gia bị sát hại

27 Thấy thế, vua Giu-đa là A-khát-gia chạy trốn theo đường Bết Ha Gan. Ông Giê-hu đuổi theo và nói: "Giết cả nó nữa!" Và người ta đã đánh vua bị thương ngay trên xe, ở dốc Gua gần Gíp-lơ-am. Vua chạy trốn vào Mơ-ghít-đô và chết ở đó. 28 Các thuộc hạ của vua đưa vua lên xe chở về Giê-ru-sa-lem, và chôn cất vua trong mồ bên cạnh tổ tiên vua trong Thành vua Ða-vít. 29 Vua A-khát-gia đã lên ngôi cai trị Giu-đa vào năm thứ mười một triều vua Giô-ram, con vua A-kháp.

Bà I-de-ven bị sát hại

30 Ông Giê-hu vào Gít-rơ-en. Nghe tin đó, bà I-de-ven đánh phấn tô mắt và trang điểm mái tóc, rồi từ cửa sổ nhìn xuống. 31 Khi ông Giê-hu đi vào cửa thành, bà nói: "Bình an chứ, Dim-ri, tên giết chủ?” 32 Ông Giê-hu ngẩng mặt lên phía cửa sổ và nói: "Có ai theo ta không, có ai không?" Có hai hoặc ba viên thái giám nhìn xuống phía ông. 33 Ông nói: "Quẳng nó xuống!" Họ quẳng bà xuống; máu của bà bắn vào tường và vào các con ngựa. Ông đạp chân lên bà,34 rồi đi vào mà ăn uống. Sau đó, ông nói: "Các anh lo vụ con khốn kiếp ấy đi và chôn cất nó, vì nó là công chúa.” 35 Họ đi chôn bà, nhưng chỉ tìm thấy cái sọ, hai chân và hai bàn tay của bà. 36 Họ về báo tin cho ông Giê-hu. Ông nói: "Ðây là lời Ðức Chúa đã dùng tôi trung Người là ông Ê-li-a, người Tít-be, mà phán: "Trong thửa đất Gít-rơ-en, chó sẽ ăn thịt I-de-ven. 37 Xác I-de-ven sẽ ra như phân trên mặt đồng ruộng, trong thửa đất Gít-rơ-en, khiến người ta không thể nói được: Ðó là I-de-ven!"

Chương 10

Hoàng tộc Ít-ra en bị sát hại

1 Vua A-kháp có bảy mươi người con ở Sa-ma-ri. Ông Giê-hu viết thư gửi đến Sa-ma-ri cho các thủ lãnh của Gít-rơ-en, các kỳ mục và các tổng trấn của vua A-kháp. Thư viết: 2 "Vì các ông có các hoàng tử của chủ các ông ủng hộ, vì các ông có nào xe, nào ngựa, nào thành trì kiên cố, nào khí giới, cho nên khi thư này đến tay các ông, 3 các ông hãy xem ai là người ưu tú và xứng đáng nhất trong số các hoàng tử của chủ các ông, thì đặt người đó lên ngôi kế vị vua cha. Các ông hãy đến chiến đấu cho nhà của chủ các ông.” 4 Họ hết sức kinh hãi, họ nói với nhau: "Hai vua còn không đứng vững trước mặt ông ấy, thì làm sao chúng ta đứng vững được?” 5 Quan đại nội thị thần, ông thị trưởng, các kỳ mục và tổng trấn liền sai người đến nói với ông Giê-hu: "Chúng tôi là thuộc hạ của ông. Tất cả những gì ông nói với chúng tôi, chúng tôi sẽ làm. Chúng tôi sẽ không tôn ai lên làm vua cả. Ông cứ làm những gì ông thấy nên làm."

6 Ông Giê-hu viết cho họ bức thư thứ hai, trong đó ông nói: "Nếu các ông ủng hộ tôi và nghe lời tôi kêu gọi, thì hãy lấy đầu các người con của chủ các ông, rồi đến gặp tôi ngày mai vào giờ này, ở Gít-rơ-en." Bảy mươi người con của vua đang ở tại nhà các quan lớn trong thành. Các quan lớn này có nhiệm vụ dưỡng dục họ. 7 Vậy, thư ấy vừa đến nơi, các quan lớn liền bắt bảy mươi người con của vua, cắt cổ, rồi bỏ đầu vào giỏ mà gửi cho ông Giê-hu ở Gít-rơ-en.

8 Sứ giả đến báo tin cho ông: "Họ đã mang đầu các con vua tới rồi." Ông bảo: "Hãy chất làm hai đống nơi cửa thành cho đến sáng.” 9 Sáng hôm sau, ông ra ngoài, đứng nói với toàn dân: "Các ngươi đều vô can! Chính tôi đã âm mưu hại chủ của tôi và đã giết ông ấy! Nhưng ai đã hạ sát tất cả những người này? 10 Vậy các người hãy biết rằng không có lời nào của Ðức Chúa, không có lời nào của Ðức Chúa chống lại nhà A-kháp mà lại ra vô hiệu: Ðức Chúa thực hiện những gì Người đã dùng ông Ê-li-a, tôi trung của Người, mà phán.” 11 Ông Giê-hu hạ sát tất cả những người còn sót lại của nhà A-kháp ở Gít-rơ-en, mọi quan lớn, những người quen biết và tư tế của vua; không để một mạng nào sống sót.

Các ông hoàng Giu-đa bị hạ sát

12 Rồi ông Giê-hu lên đường đi Sa-ma-ri. Trên đường đi, lúc ở Bết E-két Ha-rô-im, 13 ông gặp các anh em của ông A-khát-gia-hu, vua Giu-đa, thì hỏi: "Các ông là ai?" Họ đáp: "Chúng tôi là anh em của vua A-khát-gia-hu. Chúng tôi xuống hỏi thăm các hoàng tử và các con bà hoàng thái hậu.” 14 Ông nói: "Bắt sống lấy chúng!" Người ta bắt sống họ và cắt cổ ở bể nước Bết E-két, tất cả là bốn mươi hai người, không sót một ai.

Ông Giê-hu và ông Giơ-hô-na-đáp

15 Ông rời đó mà đi và gặp ông Giơ-hô-na-đáp, con ông Rê-kháp, ra đón ông. Ông chào và nói: "Ông có thực lòng với tôi như tôi thực lòng với ông không?" Ông Giơ-hô-na-đáp nói: "Có" Ông Giê-hu nói: "Nếu có, thì hãy bắt tay tôi." Ông Giơ-hô-na-đáp liền bắt tay ông Giê-hu. Ông này đưa ông lên xe, cho ngồi bên cạnh. 16 Ông Giê-hu nói: "Hãy đi với tôi và chứng kiến lòng nhiệt thành của tôi đối với Ðức Chúa!" Rồi ông đưa ông ấy lên xe. 17 Vào Sa-ma-ri, ông hạ sát tất cả những người còn lại của nhà A-kháp ở Sa-ma-ri, ông tiêu diệt hết, như lời Ðức Chúa đã phán với ông Ê-li-a.

Sát hại các tín đồ thần Ba-an và phá huỷ đền thờ

18 Ông Giê-hu tập họp toàn dân lại và nói với họ: "A-kháp phụng sự thần Ba-an còn ít, chứ Giê-hu đây sẽ phụng sự người nhiều. 19 Vậy bây giờ, hãy triệu tập lại đây cho tôi tất cả các ngôn sứ của thần Ba-an, mọi tín đồ và tư tế của thần, đừng có ai vắng mặt, vì tôi sẽ dâng một hy lễ lớn kính thần Ba-an. Ai vắng mặt, sẽ không được sống." Ông Giê-hu lập mưu diệt trừ những kẻ phụng sự thần Ba-an. 20 Ông Giê-hu nói: "Hãy triệu tập một buổi họp long trọng kính thần Ba-an." Và người ta đã triệu tập buổi họp đó. 21 Ông Giê-hu sai người đi khắp Ít-ra-en. Mọi tín đồ thần Ba-an đều đến, chẳng còn ai mà lại không đến. Họ vào đền Ba-an. Ðền này chỗ nào cũng chật ních người. 22 Ông Giê-hu bảo người phụ trách phòng lễ phục: "Ðem lễ phục ra, phát cho mọi người phụng sự thần Ba-an." Người ấy đem lễ phục ra cho họ. 23 Ông Giê-hu cùng với ông Giơ-hô-na-đáp, con ông Rê-kháp, vào đền Ba-an, ông nói với những người phụng sự thần Ba-an: "Hãy lục soát xem: đừng để những người phụng sự Ðức Chúa có mặt ở đây với các người; chỉ để những người phụng sự Ba-an mà thôi.” 24 Rồi người ta vào dâng hy lễ và lễ toàn thiêu.

Nhưng ông Giê-hu đã đặt tám mươi người bên ngoài và nói: "Ai để cho một người nào trong các kẻ ta sắp nộp vào tay các người thoát được, thì phải lấy mạng thế mạng.” 25 Vậy, khi lễ toàn thiêu đã hoàn tất, ông Giê-hu bảo các thị vệ và sĩ quan: "Vào giết chúng đi! Ðừng để cho ai ra ngoài!" Các thị vệ và sĩ quan dùng lưỡi gươm mà giết chúng, quăng xác đi. Rồi họ vào tận cung thánh của đền Ba-an; 26 họ lôi trụ thờ của đền Ba-an ra mà đốt đi. 27 Họ phá huỷ trụ đá kính thần Ba-an, phá huỷ đền Ba-an, biến thành nhà tiêu cho đến ngày nay.

Ông Giê-hu làm vua Ít-ra-en (841-814)

28 Như thế, vua Giê-hu làm cho thần Ba-an biến khỏi Ít-ra-en. 29 Tuy nhiên, vua Giê-hu không dứt bỏ các tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo: đó là thờ những con bê bằng vàng ở Bết Ên và ở Ðan. 30 Ðức Chúa phán với vua Giê-hu: "Vì ngươi đã làm đúng những điều Ta coi là ngay thẳng, và ngươi đã xử với nhà A-kháp y như lòng Ta muốn, thì con cháu ngươi sẽ ngự trên ngai cai trị Ít-ra-en cho đến đời thứ bốn.” 31 Nhưng vua Giê-hu đã không hết lòng hết dạ chú tâm đi theo lề luật Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en: vua đã không dứt bỏ các tội mà vua Gia-róp-am đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.

32 Trong những ngày ấy, Ðức Chúa bắt đầu cắt xén lãnh thổ Ít-ra-en. Ông Kha-da-ên đánh bại họ trên toàn lãnh thổ Ít-ra-en, 33 từ sông Gio-đan đến phía mặt trời mọc, toàn miền Ga-la-át, những vùng thuộc các chi tộc Gát, Rưu-vên và Mơ-na-se, từ A-rô-e trên bờ suối Ác-nôn, miền Ga-la-át và Ba-san.

34 Những truyện còn lại của vua Giê-hu, mọi việc vua làm, cũng như mọi chiến công của vua, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 35 Vua Giê-hu nằm xuống với tổ tiên và được chôn cất ở Sa-ma-ri. Con vua là Giơ-hô-a-khát đã lên ngôi kế vị vua cha. 36 Thời gian vua Giê-hu cai trị Ít-ra-en ở Sa-ma-ri là hai mươi tám năm.

Chương 11

6. Từ Triều A-Than-Gia Ðến Khi Ông Ê-Li-Sa Qua Ðời

Truyện bà A-than-gia (841-835) (2 Sb 22:10-23:21)

1 Bà A-than-gia, thân mẫu vua A-khát-gia-hu, thấy con mình đã chết, thì đứng lên tiêu diệt tất cả hoàng tộc. 2 Nhưng bà Giơ-hô-se-va, ái nữ vua Giô-ram và là chị của vua A-khát-gia-hu, đã ẵm Giô-át, con vua A-khát-gia-hu, lén đưa cậu ra khỏi số các hoàng tử sẽ bị sát hại, giấu trong phòng ngủ cùng với người vú nuôi. Như thế, người ta đã giấu được cậu bé khuất mắt bà A-than-gia, và cậu không bị giết. 3 Cậu Giô-át ở lại với bà Giơ-hô-se-va trong Nhà Ðức Chúa, lẩn trốn ở đó sáu năm, suốt thời bà A-than-gia cai trị xứ sở.

4 Năm thứ bảy, ông Giơ-hô-gia-đa sai người đi mời các vị chỉ huy một trăm quân thuộc đạo binh Ca-ri và thuộc đoàn thị vệ. Ông cho họ vào trong Nhà Ðức Chúa với ông. Ông kết ước với họ, bắt họ tuyên thệ trong Nhà Ðức Chúa, và cho họ được thấy hoàng tử. 5 Ông truyền lệnh cho họ như sau: "Ðây là điều các ông phải làm: Một phần ba các ông, những người đang phiên trực ngày sa-bát, sẽ canh giữ đền vua, 6 một phần ba sẽ đứng ở cửa Xua, và một phần ba ở cửa phía sau đoàn thị vệ. Các ông sẽ luân phiên nhau canh giữ đền vua. 7 Hai đội khác của các ông, những người hết phiên trực ngày sa-bát, sẽ canh giữ Nhà Ðức Chúa. 8 Các ông sẽ đứng chung quanh vua, ai nấy đều cầm khí giới trong tay. Kẻ nào xâm phạm hàng ngũ các ông, thì sẽ bị xử tử. Khi vua đi ra đi vào, các ông luôn phải ở bên cạnh vua."

9 Các vị chỉ huy một trăm quân làm đúng mọi điều tư tế Giơ-hô-gia-đa đã truyền. Mỗi vị chỉ huy đem theo người của họ, những người đang phiên trực ngày sa-bát, cùng với những người hết phiên trực ngày sa-bát. Họ đến với tư tế Giơ-hô-gia-đa. 10 Tư tế trao cho các vị chỉ huy trăm quân, giáo và thuẫn của vua Ða-vít để trong Nhà Ðức Chúa. 11 Các thị vệ ai nấy đều cầm khí giới trong tay, đứng dàn từ phía nam đến phía bắc Nhà Ðức Chúa, trước bàn thờ và trước Nhà Ðức Chúa cốt để bao quanh vua. 12 Ông Giơ-hô-gia-đa rước hoàng tử ra, đội vương miện và trao cuộn Chứng Ước. Người ta phong vương và xức dầu cho hoàng tử, rồi vỗ tay hô lên: "Vạn tuế đức vua!"

13 Khi bà A-than-gia nghe tiếng dân chúng la, bà đi về phía họ đang ở trong Nhà Ðức Chúa. 14 Bà nhìn lên, thì kìa vua đứng trên bệ cao theo nghi lễ thường dùng, các vị chỉ huy và các người thổi kèn ở bên cạnh vua. Toàn dân trong xứ hân hoan reo hò giữa tiếng kèn trỗi vang. Bà A-than-gia liền xé áo mình ra và kêu lên: "Phản bội! Phản bội!” 15 Tư tế Giơ-hô-gia-đa truyền lệnh cho các vị chỉ huy một trăm quân đứng đầu toán binh, ông bảo họ: "Lôi nó ra khỏi hàng quân! Ai theo nó, thì lấy gươm chém chết!" Tư tế nói: "Nó không được chết trong Nhà Ðức Chúa!” 16 Họ liền túm lấy bà. Và khi bà đi qua lối Cửa Ngựa để tới đền vua; thì họ giết bà ở đó.

17 Ông Giơ-hô-gia-đa lập giao ước giữa Ðức Chúa, vua và dân, nhờ đó dân trở thành dân của Ðức Chúa. Ông cũng lập giao ước giữa vua và dân. 18 Rồi toàn dân trong xứ kéo tới đền Ba-an mà phá huỷ các bàn thờ và tượng thần. Còn Mát-tan, tư tế của thần Ba-an, thì họ giết ngay trước các bàn thờ.

Tư tế Giô-hô-gia-đa đặt những trạm canh để giữ Nhà Ðức Chúa. 19 Rồi ông đem theo các vị chỉ huy một trăm quân, quân Ca-ri, các thị vệ và toàn dân trong xứ. Họ rước vua từ Nhà Ðức Chúa xuống, sau đó đi qua Cửa Các Thị Vệ mà tới đền vua. Vua Giô-át ngự lên ngai vua. 20 Toàn dân trong xứ thì vui mừng, còn thành vẫn không động tĩnh. Về phần bà A-than-gia, họ đã lấy gươm giết chết trong đền vua.

Chương 12

Vua Giô-át cai trị Giu-đa (835-796) (2 Sb 24:1-16)

1 Giô-át lên làm vua khi được bảy tuổi. 2 Năm thứ bảy triều vua Giê-hu, vua Giô-át lên ngôi và đã trị vì ở Giê-ru-sa-lem bốn mươi năm. Thân mẫu vua là bà Xíp-gia, người Bơ-e Se-va. 3 Suốt cả đời, vua Giô-át đã làm điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa, vì vua đã được tư tế Giơ-hô-gia-đa dạy dỗ. 4 Tuy nhiên, các tế đàn ở nơi cao không bị phá huỷ; dân chúng vẫn còn tế lễ và đốt hương trên các nơi cao đó.

5 Vua Giô-át nói với các tư tế: "Tất cả số bạc nộp thuế cho Nhà Ðức Chúa, số bạc mỗi người phải dâng, và tất cả số bạc mỗi người tự ý dâng cho Nhà Ðức Chúa, 6 mỗi tư tế sẽ nhận từ những người mình quen biết, và các tư tế sẽ sửa chữa những chỗ hư hại trong Nhà Ðức Chúa, ở bất cứ nơi nào thấy hư hại.” 7 Ðến năm thứ hai mươi ba đời vua Giô-át, các tư tế vẫn không sửa chữa những chỗ hư hại trong Nhà Ðức Chúa. 8 Vua Giô-át mới triệu tập tư tế Giơ-hô-gia-đa và các tư tế khác, rồi nói với họ: "Sao các ông lại không sửa chữa những chỗ hư hại trong Nhà Ðức Chúa? Vậy từ nay, các ông đừng nhận bạc từ những người quen biết nữa, nhưng hãy trao lại để sửa chữa những chỗ hư hại trong Nhà Ðức Chúa.” 9 Các tư tế bằng lòng không nhận bạc của dân và khỏi phải lo sửa chữa những chỗ hư hại trong Nhà Ðức Chúa.

10 Tư tế Giơ-hô-gia-đa lấy một cái hòm, khoét lỗ trên nắp và đặt hòm đó bên cạnh trụ đá, phía bên phải cửa vào Nhà Ðức Chúa. Các tư tế canh ngưỡng cửa bỏ vào hòm tất cả số bạc người ta dâng vào Nhà Ðức Chúa. 11 Khi nào các ông thấy có nhiều bạc trong hòm, thì viên thư ký của vua đi lên cùng với vị thượng tế. Người ta đúc thành thoi, rồi đếm số thoi bạc có trong Nhà Ðức Chúa. 12 Sau khi kiểm lại số bạc, người ta trao cho những người lo công việc sửa chữa, những người phụ trách Nhà Ðức Chúa. Những người này chi bạc cho các thợ mộc, các người thợ làm việc tại nhà Ðức Chúa, 13 cho các thợ nề và thợ đá; họ cũng chi bạc để mua gỗ và đá đẽo, để sửa chữa những chỗ hư hại trong Nhà Ðức Chúa; tóm lại, họ chi bạc cho mọi phí tổn liên quan đến việc sửa chữa Nhà Ðức Chúa. 14 Nhưng người ta không lấy bạc dâng vào Nhà Ðức Chúa để làm chậu bạc, dao, bình rảy, kèn, hay bất cứ đồ vật nào bằng vàng, bằng bạc dùng trong Nhà Ðức Chúa. 15 Người ta trao số bạc ấy cho những người lo công việc sửa chữa, và họ dùng để sửa chữa Nhà Ðức Chúa. 16 Những người nhận bạc cứ trả cho các người lo công việc sửa chữa, mà không ai đòi họ phải tính sổ, vì họ hành động liêm chính. 17 Còn số bạc người ta xin lễ đền tội và lễ tạ tội, thì không nộp vào Nhà Ðức Chúa: số bạc ấy thuộc về các tư tế.

18 Bấy giờ, vua A-ram là Kha-da-ên tiến quân đánh thành Gát và chiếm được thành này. Sau đó, vua Kha-da-ên định tiến đánh Giê-ru-sa-lem. 19 Vua Giu-đa là Giô-át lấy mọi đồ vật thánh mà các vua Giu-đa tổ tiên mình là Giơ-hô-sa-phát, Giơ-hô-ram và A-khát-gia-hu, đã dâng cúng, cũng như các đồ vật mà chính vua đã dâng cúng, và tất cả vàng có trong kho Nhà Ðức Chúa và trong đền vua. Vua gửi tất cả những thứ đó cho vua A-ram là Kha-da-ên, và vua này rời khỏi Giê-ru-sa-lem.

20 Những truyện còn lại của vua Giô-át và tất cả những gì vua làm, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 21 Các thuộc hạ của vua Giô-át đứng lên, âm mưu chống lại vua và hạ sát vua ở Bết Mi-lô, khi vua xuống Xi-la. 22 Các thuộc hạ của vua là Giô-da-vát, con bà Sim-át, và Giơ-hô-da-vát, con ông Sô-me, hạ sát vua, và vua đã chết. Người ta chôn cất vua bên cạnh tổ tiên vua trong Thành Ða-vít. Con vua là A-mát-gia lên ngôi kế vị vua cha.

Chương 13

Vua Giơ-hô-a-khát cai trị Ít-ra-en (814-798)

1 Năm thứ hai mươi ba triều vua Giô-át, con vua A-khát-gia-hu, vua Giu-đa, ông Giơ-hô-a-khát, con vua Giê-hu, lên làm vua ở Sa-ma-ri, trị vì Ít-ra-en được mười bảy năm. 2 Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, đã bắt chước vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, phạm thứ tội trước kia vua Gia-róp-am, đã lôi kéo Ít-ra-en phạm theo; và vua không dứt ra được.

3 Ðức Chúa đã nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en. Người nộp họ vào tay vua Kha-da-ên, vua A-ram, và vua Ben Ha-đát, con vua Kha-da-ên, trong suốt triều đại hai vua này. 4 Vua Giơ-hô-a-khát cố làm cho nét mặt Ðức Chúa dịu lại. Và Ðức Chúa nhận lời vua, vì Người đã thấy cảnh Ít-ra-en bị vua A-ram áp bức. 5 Ðức Chúa ban cho Ít-ra-en một vị cứu tinh giải thoát họ khỏi ách đô hộ của A-ram. Con cái Ít-ra-en lại được ở trong lều trại của họ như trước. 6 Nhưng họ không dứt bỏ các tội nhà Gia-róp-am đã lôi kéo họ phạm theo. Họ cứ đi theo đường tội lỗi đó. Ngay cả cột thờ vẫn còn đứng sừng sững ở Sa-ma-ri. 7 Ðức Chúa chỉ để lại cho vua Giơ-hô-a-khát năm mươi kỵ binh, mười xe trận, và mười ngàn bộ binh, bởi vì vua A-ram đã tiêu diệt quân Ít-ra-en và nghiền nát họ ra như tro bụi người ta chà đạp.

8 Những truyện còn lại của vua Giơ-hô-a-khát và mọi việc vua làm, cũng như các chiến công của vua, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 9 Vua Giơ-hô-a-khát đã nằm xuống với tổ tiên và được chôn cất ở Sa-ma-ri. Con vua là Giô-át lên ngôi kế vị vua cha.

Vua Giô-át cai trị Ít-ra-en (798-783)

10 Năm thứ ba mươi bảy triều vua Giô-át, vua Giu-đa, con vua Giơ-hô-a-khát là Giô-át lên làm vua ở Sa-ma-ri, trị vì Ít-ra-en được mười sáu năm. 11 Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa. Vua không dứt bỏ các tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo. Vua cứ đi theo đường tội lỗi đó.

12 Các truyện còn lại của vua Giô-át và tất cả mọi việc vua làm, cũng như chiến công của vua trong cuộc giao chiến với vua Giu-đa là A-mát-gia, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 13 Vua Giô-át đã an nghỉ với tổ tiên, và vua Gia-róp-am lên ngôi. Vua Giô-át được chôn cất ở Sa-ma-ri bên cạnh các vua Ít-ra-en.

Ngôn sứ Ê-li-sa qua đời

14 Ông Ê-li-sa lâm bệnh. Cơn bệnh sẽ làm cho ông chết. Vua Ít-ra-en là Giô-át xuống gặp ông, áp sát mặt vào mặt ông mà khóc. Vua nói: "Cha ơi! Cha ơi! Hỡi chiến xa và chiến mã của Ít-ra-en!” 15 Ông Ê-li-sa bảo: "Vua cầm lấy cung tên!" Vua liền cầm lấy cung tên. 16 Ông Ê-li-sa nói với vua Ít-ra-en: "Vua giương cung lên!" Vua liền giương cung. Ông Ê-li-sa đặt tay lên tay vua 17 và nói: "Vua mở cửa sổ về hướng đông", và vua mở cửa sổ. Ông Ê-li-sa bảo: "Vua bắn đi!" và vua bắn. Ông Ê-li-sa lại bảo: "Mũi tên chiến thắng của Ðức Chúa! Mũi tên chiến thắng A-ram! Vua sẽ đánh A-ram ở A-phếch cho tới mức tận diệt chúng."

18 Ông Ê-li-sa nói: "Vua cầm lấy tên", Và vua đã cầm lấy tên. Ông Ê-li-sa lại bảo vua Ít-ra-en: "Vua đập xuống đất!", và vua đã đập xuống ba lần, rồi ngưng. 19 Người của Thiên Chúa nổi giận với vua, ông nói: "Ðáng lẽ phải đập năm sáu lần, thì bấy giờ vua mới đánh A-ram cho tới mức tận diệt chúng. Nhưng bây giờ, vua chỉ đánh được A-ram ba lần thôi."

20 Ông Ê-li-sa qua đời và người ta đã chôn cất ông. Hàng năm, các toán quân Mô-áp xâm nhập xứ sở. 21 Vậy, có lần người ta đang đem một người chết đi chôn, thì thấy một toán quân của bọn đó, họ liền vất người chết vào mộ ông Ê-li-sa, rồi bỏ đi. Người chết vừa đụng phải hài cốt của ông Ê-li-sa thì sống lại và đứng thẳng dậy.

Vua Giô-át chiến thắng quân A-ram

22 Suốt triều vua Giơ-hô-a-khát, vua A-ram là Kha-da-ên đã áp bức người Ít-ra-en. 23 Nhưng Ðức Chúa tỏ lòng nhân từ và chạnh lòng thương đoái nhìn họ, vì Người đã lập giao ước với các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Người không muốn diệt trừ họ, và cho đến nay vẫn không xua đuổi họ cho khuất nhan Người. 24 Vua A-ram là Kha-da-ên qua đời, và con vua là Ben Ha-đát lên ngôi kế vị vua cha. 25 Vua Giô-át, con vua Giơ-hô-a-khát, lấy lại được những thành mà vua Kha-da-ên trong một cuộc chiến, đã chiếm được của vua Giơ-hô-a-khát, cha vua Giô-át. Những thành này khi đó nằm trong tay vua Ben Ha-đát, con vua kha-da-ên. Vua Giô-át đã đánh bại vua Ben Ha-đát ba lần và thu hồi được các thành của Ít-ra-en.

Chương 14

VII. Hai Vương Quốc

Cho Tới Ngày Sa-Ma-Ri Thất Thủ

Vua A-mát-gia-hu cai trị Giu-đa (796-781) (2 Sb 25:1-28)

1 Năm thứ hai triều vua Giô-át, con vua Giơ-hô-a-khát, vua Ít-ra-en, thì con vua Giô-át, vua Giu-đa, là A-mát-gia-hu, lên làm vua. 2 Khi lên ngôi, vua được hai mươi lăm tuổi và trị vì tại Giê-ru-sa-lem hai mươi chín năm. Thân mẫu của vua là bà Giơ-hô-át-đan người Giê-ru-sa-lem. 3 Vua đã điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa, tuy không bằng vua Ða-vít, tổ tiên vua. Trong mọi sự, vua đã làm như vua cha là Giô-át. 4 Tuy nhiên, các tế đàn ở nơi cao không bị phá huỷ; dân chúng vẫn còn tế lễ và đốt hương trên các nơi cao đó.

5 Vậy khi đã nắm vững vương quyền trong tay, vua A-mát-gia-hu hạ sát những thuộc hạ đã hạ sát vua cha. 6 Nhưng vua không xử tử con cái những kẻ sát nhân ấy, như đã chép trong sách Luật Mô-sê, chiếu theo lệnh Ðức Chúa truyền rằng: "Cha sẽ không bị xử tử vì con, và con sẽ không bị xử tử vì cha: mỗi người sẽ bị xử tử về tội của mình."

7 Chính vua đã hạ sát mười ngàn quân Ê-đôm tại thung lũng Muối, và trong cuộc chiến vua đã chiếm được thành luỹ Tảng Ðá, mà vua đặt tên cho là Gióc-thơ-ên; tên này vẫn tồn tại đến ngày nay.

8 Khi ấy, vua A-mát-gia sai sứ giả đến vua Giô-át con vua Giơ-hô-a-khát, cháu vua Ít-ra-en là Giê-hu, và nói: "Nào đến đây, ta đọ sức với nhau!” 9 Vua Ít-ra-en là Giô-át mới sai người đến nói với vua A-mát-gia-hu, vua Giu-đa: "Cỏ gai trên núi Li-băng sai người đến nói với cây bá hương Li-băng: "Xin gả con gái của ngài cho con trai tôi. Nhưng một con dã thú Li-băng đi qua đã đạp lên cỏ gai. 10 Vì đã đánh bại Ê-đôm, nên ông lên mặt. Ông cứ vênh vang mà ở nhà! Chứ sao ông lại muốn khiêu chiến, để rồi bị ngã gục cùng với Giu-đa?"

11 Nhưng vua A-mát-gia-hu không chịu nghe. Bấy giờ, vua Ít-ra-en là Giô-át mới tiến lên; vua Giô-át và vua Giu-đa là A-mát-gia-hu đọ sức với nhau ở Bết Se-mét thuộc Giu-đa. 12 Giu-đa bị Ít-ra-en đánh bại; quân Giu-đa chạy trốn, ai về lều nấy. 13 Còn vua Giu-đa là A-mát-gia-hu, con vua Giô-át, cháu vua A-khát-gia-hu, thì bị vua Ít-ra-en là Giô-át bắt ở Bết Se-mét, và điệu về Giê-ru-sa-lem. Vua đập phá tường thành Giê-ru-sa-lem, tạo ra một chỗ hổng dài hai trăm thước, từ Cửa Ép-ra-im đến Cửa Góc thành. 14 Sau đó, vua lấy tất cả vàng bạc cùng mọi đồ vật có trong Nhà Ðức Chúa và trong các kho của đền vua, bắt các con tin, rồi trở về Sa-ma-ri.

15 Các truyện còn lại của vua Giô-át, những gì vua làm, cũng như chiến công của vua trong cuộc giao chiến với vua Giu-đa là A-mát-gia-hu, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 16 Vua Giô-át đã an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất ở Sa-ma-ri bên cạnh các vua Ít-ra-en. Con vua là Gia-róp-am lên ngôi kế vị.

17 Vua A-mát-gia-hu, con vua Giô-át, vua Giu-đa, còn sống mười lăm năm nữa sau khi vua Giô-át, con vua Giơ-hô-a-khát, vua Ít-ra-en, qua đời.

18 Các truyện còn lại của vua A-mát-gia-hu đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 19 Người ta âm mưu hại vua ở Giê-ru-sa-lem, nên vua chạy trốn về hướng La-khít, nhưng người ta sai người đuổi theo vua đến tận La-khít và giết vua ở đó. 20 Người ta cho ngựa chở vua về Giê-ru-sa-lem và chôn cất vua ở đó, bên cạnh tổ tiên vua trong Thành vua Ða-vít. 21 Toàn dân Giu-đa đặt A-dác-gia mới mười sáu tuổi lên ngôi kế vị vua cha là A-mát-gia-hu. 22 Chính vua đã tái thiết Ê-lát và trả lại cho Giu-đa, sau khi vua A-mát-gia-hu an nghỉ bên cạnh tổ tiên.

Vua Gia-róp-am II cai trị Ít-ra-en (783-743)

23 Năm thứ mười lăm triều vua A-mát-gia-hu, con vua Giô-át, vua Giu-đa, con vua Giô-át, vua Ít-ra-en, là Gia-róp-am lên làm vua, và trị vì bốn mươi mốt năm ở Sa-ma-ri. 24 Vua đã làm sự dữ trái mắt Ðức Chúa, đã không dứt bỏ mọi tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.

25 Chính vua đã tái lập biên giới Ít-ra-en từ Cửa Ải Kha-mát cho đến biển A-ra-va, như lời Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, đã dùng tôi trung của Người là ngôn sứ Giô-na, con ông A-mít-tai, quê ở Gát Khê-phe, mà phán. 26 Vì Ðức Chúa đã nhìn thấy cảnh bần cùng của Ít-ra-en phản nghịch; chẳng có một ai, nô lệ hay tự do, đến cứu giúp Ít-ra-en. 27 Ðức Chúa đã không nói là sẽ xoá tên Ít-ra-en không còn dấu vết trong thiên hạ, nên Người đã cứu họ nhờ tay vua Gia-róp-am, con vua Giô-át.

28 Các truyện còn lại của vua Gia-róp-am và mọi việc vua làm, cũng như chiến công nhờ đó vua đánh chiếm và đem Ða-mát cùng Kha-mát về lại cho Ít-ra-en, những truyện đó đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 29 Vua Gia-róp-am đã nằm xuống với tổ tiên là các vua Ít-ra-en. Con vua là Dơ-khác-gia lên ngôi kế vị vua cha.

Chương 15

Vua A-dác-gia cai trị Giu-đa (781-740) (2 Sb 26:1-23)

1 Năm thứ hai mươi bảy triều Gia-róp-am, vua Ít-ra-en, con vua A-mát-gia, vua Giu-đa, là A-dác-gia lên làm vua. 2 Ông lên ngôi vua khi được mười sáu tuổi, và trị vì năm mươi hai năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Giơ-khôn-gia-hu, người Giê-ru-sa-lem. 3 Vua đã làm điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa, hoàn toàn đúng như vua cha là A-mát-gia-hu đã làm. 4 Tuy nhiên, các tế đàn ở nơi cao đã không bị phá huỷ, dân chúng vẫn còn tế lễ và đốt hương trên các nơi cao đó.

5 Ðức Chúa đánh phạt vua; vua mắc bệnh phung hủi cho đến ngày qua đời, và sống cô lập trong một căn nhà. Chính ông Giô-tham, con vua, làm đại nội thị thần và cai trị dân trong xứ.

6 Các truyện còn lại của vua A-dác-gia-hu và mọi việc vua làm đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 7 Vua A-dác-gia đã nằm xuống với tổ tiên và được chôn cất bên cạnh tổ tiên trong Thành vua Ða-vít. Con vua là Giô-tham lên ngôi kế vị vua cha.

8 Năm thứ ba mươi tám triều vua A-dác-gia-hu, vua Giu-đa, con vua Gia-róp-am là Dơ-khác-gia lên làm vua Ít-ra-en và trị vì sáu tháng ở Sa-ma-ri. 9 Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa như tổ tiên vua. Vua đã không dứt bỏ các tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo. 10 Ông Sa-lum, con ông Gia-vết, âm mưu hại vua. Ông đã đánh chết vua trước mặt dân, rồi lên ngôi thay vua. 11 Các truyện còn lại của vua Dơ-khác-gia đã được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en. 12 Ðức Chúa đã phán với vua Giê-hu rằng: "Con cháu ngươi sẽ ngự trên ngai cai trị Ít-ra-en cho đến đời thứ bốn"; lời ấy đã ứng nghiệm.

Vua Sa-lum cai trị Ít-ra-en (743)

13 Con ông Gia-vết là Sa-lum lên làm vua năm thứ ba mươi chín triều vua Út-di-gia, vua Giu-đa. Vua trị vì được một tháng ở Sa-ma-ri.

14 Ông Mơ-na-khêm, con ông Ga-đi, đi lên từ Tia-xa và tiến vào Sa-ma-ri. Tại Sa-ma-ri, ông đánh chết vua Sa-lum, con ông Gia-vết, và lên làm vua thay vua ấy.

15 Những truyện còn lại của vua Sa-lum và cuộc âm mưu vua đã chủ xướng, những sự việc ấy đã được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en. 16 Bấy giờ, vua Mơ-na-khêm đánh phạt Táp-pu-ác, mọi người ở trong đó cũng như lãnh thổ của thành bắt đầu từ Tia-xa, vì người trong thành đã không mở cửa cho vua; vua đã mổ bụng tất cả phụ nữ có thai.

Vua Mơ-na-khêm cai trị Ít-ra-en (743-738)

17 Năm thứ ba mươi chín triều vua A-dác-gia, vua Giu-đa, con ông Ga-đi là Mơ-na-khêm lên làm vua cai trị Ít-ra-en mười năm, ở Sa-ma-ri. 18 Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa; vua không dứt bỏ các tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.

19 vua Át-sua là Pun xâm nhập xứ sở, và vua Mơ-na-khêm nộp cho vua Pun ba mươi ngàn ký bạc để vua này nâng đỡ và củng cố vương quyền vua đang nắm trong tay. 20 Vua Mơ-na-khêm thu bạc ấy của Ít-ra-en, của mọi phú hào, để nộp cho vua Át-sua: mỗi người mười lăm lượng bạc. Vì thế, vua Át-sua đã trở về nước, không ở lại trong xứ.

21 Các truyện còn lại của vua Mơ-na-khêm, và mọi việc vua làm, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 22 Vua Mơ-na-khêm đã nằm xuống với tổ tiên. Con vua là Pơ-các-gia lên ngôi kế vị vua cha.

Vua Pơ-các-gia cai trị Ít-ra-en (738-737)

23 Năm thứ năm mươi triều vua A-dác-gia, vua Giu-đa, con vua Mơ-na-khêm là Pơ-các-gia lên làm vua cai trị Ít-ra-en hai năm, ở Sa-ma-ri. 24 Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, vua không dứt bỏ những tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.

25 Giám mã của vua là ông Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, âm mưu chống lại vua và hạ sát vua ở Sa-ma-ri, trong tháp chính của đền vua... Có năm mươi người dân Ga-la-át cùng theo ông. Ông giết vua và lên ngôi thay thế.

26 Các truyện còn lại của vua Pơ-các-gia, và mọi việc vua làm, đã được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en.

Vua Pe-các cai trị Ít-ra-en (737-732)

27 Năm thứ năm mươi hai triều vua A-dác-gia, vua Giu-đa, con ông Rơ-man-gia-hu là Pe-các lên làm vua cai trị Ít-ra-en hai mươi năm, ở Sa-ma-ri. 28 Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, vua không dứt bỏ những tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.

29 Trong thời gian vua Pe-các, vua Ít-ra-en, vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe đến xâm chiếm I-giôn, A-vên Bết Ma-a-kha, Gia-nô-ác, Ke-đét, Kha-xo, miền Ga-la-át và Ga-li-lê, toàn xứ Náp-ta-li, rồi đày dân sang Át-sua. 30 Ông Hô-sê, con ông Ê-la, âm mưu chống lại vua Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, đánh chết vua và lên ngôi thay thế, vào năm thứ hai mươi triều vua Giô-tham, con vua Út-di-gia.

31 Các truyện còn lại của vua Pe-các, và mọi việc vua làm, đã được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en.

Vua Giô-tham cai trị Giu-đa (740-736) (2 Sb 27:1-9)

32 Năm thứ hai triều Pe-các, vua Ít-ra-en, con ông Rơ-man-gia-hu, thì con vua Út-di-gia-hu, vua Giu-đa, là Giô-tham lên làm vua. 33 Ông lên ngôi vua khi được hai mươi lăm tuổi, và trị vì mười sáu năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Giơ-ru-sa, con gái ông Xa-đốc. 34 Vua đã làm điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa, đúng như vua cha là Út-di-gia-hu đã làm. 35 Tuy nhiên, các tế đàn ở nơi cao không bị phá huỷ; dân chúng vẫn còn tế lễ và đốt hương trên các nơi cao đó.

Chính vua đã xây Cửa Trên của Nhà Ðức Chúa.

36 Các truyện còn lại của vua Giô-tham, những việc vua làm, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 37 Vào thời ấy, Ðức Chúa bắt đầu sai vua A-ram là Rơ-xin và vua Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, đến đánh Giu-đa. 38 Vua Giô-tham đã an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất bên cạnh tổ tiên trong Thành Ða-vít, tổ phụ vua. Con vua là A-khát lên ngôi kế vị.

Chương 16

Vua A-khát cai trị Giu-đa (736-716) (2 Sb 28:1-27)

1 Năm thứ mười bảy triều vua Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, con vua Giô-tham, vua Giu-đa, là A-khát, lên làm vua. 2 A-khát lên ngôi vua khi được hai mươi tuổi, và trị vì mười sáu năm ở Giê-ru-sa-lem. Vua đã không làm điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa, Thiên Chúa của vua, như vua Ða-vít, tổ phụ vua. 3 Vua đã đi theo đường lối các vua Ít-ra-en, và thậm chí còn làm lễ thiêu con trai mình, theo các thói ghê tởm của các dân mà Ðức Chúa đã trục xuất cho khuất mắt con cái Ít-ra-en. 4 Vua đã tế lễ và đốt hương trên các nơi cao, trên các ngọn đồi và dưới mọi cây xanh.

5 Bấy giờ, vua A-ram là Rơ-xin, và vua Ít-ra-en là Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, lên đánh Giê-ru-sa-lem. Họ vây hãm vua A-khát, nhưng không đánh thắng được. 6 Thuở ấy, vua A-ram là Rơ-xin đem Ê-lát về lại cho A-ram. Vua đuổi người Giu-đa khỏi Ê-lát. Người A-ram lại vào Ê-lát và tiếp tục ở đó cho đến ngày nay. 7 Vua A-khát sai sứ giả đến nói với vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe: "Tôi là tôi tớ, là con cái của ngài. Xin ngài lên cứu tôi khỏi tay vua A-ram và vua Ít-ra-en, họ nổi lên chống tôi.” 8 Vua A-khát lấy bạc vàng có trong Nhà Ðức Chúa và trong kho đền vua mà gửi tặng vua Át-sua. 9 Vua Át-sua nhận lời, tiến lên đánh Ða-mát và chiếm được thành đó. Vua đày dân đến thành Kia và giết vua Rơ-xin.

10 Vua A-khát đi Ða-mát gặp vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe. Khi nhìn thấy bàn thờ ở Ða-mát, vua A-khát gửi cho tư tế U-ri-gia hoạ đồ kiểu mẫu của bàn thờ, và mọi chi tiết chỉ dẫn cách làm. 11 Tư tế U-ri-gia xây bàn thờ: tất cả những chỉ thị vua A-khát gửi về từ Ða-mát, tư tế U-ri-gia đều thi hành đúng như thế, trong khi chờ vua A-khát từ Ða-mát về. 12 Khi từ Ða-mát về, vua nhìn thấy bàn thờ, lại gần, rồi tiến lên. 13 Vua cho đốt của lễ toàn thiêu, lễ phẩm, tưới rượu tế và lấy máu những con vật của hy lễ kỳ an rảy lên bàn thờ. 14 Còn bàn thờ bằng đồng ở trước nhan Ðức Chúa, ở giữa bàn thờ mới và Nhà Ðức Chúa, vua dời đi khỏi phía trước Nhà Ðức Chúa, và đặt bên cạnh bàn thờ mới, ở phía bắc. 15 Rồi vua A-khát truyền lệnh cho tư tế U-ri-gia rằng: "Trên bàn thờ lớn, ông sẽ cho đốt của lễ toàn thiêu ban sáng và lễ phẩm ban chiều, lễ toàn thiêu, lễ phẩm của vua, lễ toàn thiêu, lễ phẩm và các lễ tưới rượu của toàn dân trong xứ. Ông sẽ rảy trên bàn thờ tất cả máu của các lễ toàn thiêu và của các hy lễ. Còn bàn thờ bằng đồng thì ta sẽ tính sau.” 16 Tư tế U-ri-gia đã thi hành đúng mệnh lệnh vua A-khát.

17 Vua A-khát bẻ gẫy các đòn ngang và các giàn: vua cất các bồn nước đặt ở trên đi. Bể nước bằng đồng kê trên những con bò, thì vua hạ xuống mà đặt trên một nền đá. 18 Ðể được lòng vua Át-sua, vua thay đổi vị trí trong Nhà Ðức Chúa: hành lang ngày sa-bát xây trong Nhà Ðức Chúa, và lối vào của vua nằm ở bên ngoài.

19 Các truyện còn lại của vua A-khát, những việc vua làm, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 20 Vua A-khát đã an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất bên cạnh tổ tiên trong Thành Ða-vít. Con vua là Khít-ki-gia-hu lên ngôi kế vị.

Chương 17

Vua Hô-sê cai trị Ít-ra-en (732-724)

1 Năm thứ mười hai triều A-khát, vua Giu-đa, con ông Ê-la là Hô-sê lên làm vua cai trị Ít-ra-en chín năm, ở Sa-ma-ri. 2 Vua đã làm diều dữ trái mắt Ðức Chúa, tuy không bằng các vua Ít-ra-en trước. 3 Vua Át-sua là San-ma-ne-xe tiến lên đánh vua. Vua Hô-sê đã phải làm tôi và triều cống vua ấy. 4 Nhưng vua Át-sua khám phá ra là vua Hô-sê âm mưu phản loạn: vua đã sai sứ giả đến với vua Ai-cập là Xô, và không còn triều cống vua Át-sua như hằng năm trước đây. Vua Át-sua cho bắt vua Hô-sê, xiềng lại và bỏ tù.

Sa-ma-ri thất thủ (721)

5 Vua Át-sua tiến đánh cả xứ, đến Sa-ma-ri và vây hãm thành này ba năm. 6 Năm thứ chín triều vua Hô-sê, vua Át-sua chiếm được Sa-ma-ri và đày Ít-ra-en sang Át-sua. Vua cho họ định cư ở Khơ-lác, và ở ven sông Kha-vo thuộc vùng Gô-dan, và trong các thành xứ Mê-đi.

Suy gẫm về vương quốc Ít-ra-en suy tàn

7 Sự việc đó xảy ra, vì con cái Ít-ra-en đã đắc tội với Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ, là Ðấng đã đem họ lên từ đất Ai-cập, đã giải thoát họ khỏi tay Pha-ra-ô, vua Ai-cập, và vì họ đã kính sợ các thần khác. 8 Họ theo những thói tục của các dân Ðức Chúa đã trục xuất cho khuất mắt con cái Ít-ra-en và những thói tục các vua Ít-ra-en đã tạo ra. 9 Con cái Ít-ra-en đã thốt những lời bất xứng phạm đến Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ; họ xây cho mình các tế đàn ở nơi cao trong mọi thành của họ, từ tháp canh cho đến thành trì kiên cố. 10 Họ đã dựng các trụ đá và cột thờ trên mọi đồi cao và dưới mọi cây xanh. 11 Ở đó, trên mọi tế đàn ở nơi cao, họ đã đốt hương như các dân Ðức Chúa đã đày cho khuất mặt họ, và họ đã làm những việc xấu xa để trêu giận Người. 12 Họ phụng thờ những ngẫu tượng, mặc dù Ðức Chúa đã phán với họ: "Các ngươi sẽ không được làm điều đó."

13 Nhưng Ðức Chúa đã dùng tất cả các ngôn sứ và các thầy chiêm mà cảnh cáo Ít-ra-en và Giu-đa: "Hãy trở lại, bỏ con đường tà của các ngươi, hãy tuân giữ các mệnh lệnh và quy tắc của Ta, đúng theo Lề Luật Ta đã truyền cho cha ông các ngươi, và Ta đã chuyển đến các ngươi nhờ các ngôn sứ tôi trung của Ta.” 14 Nhưng họ đã không nghe lời, họ cứng đầu cứng cổ như cha ông họ, những người không tin vào Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ. 15 Họ đã khinh dể những quy luật của Người, cũng như giao ước Người đã lập với cha ông họ và những chỉ thị Người đã truyền cho họ. Họ đã đi theo thần hư ảo, và chính họ cũng trở nên hư ảo, theo các dân ngoại ở chung quanh họ, mặc dầu Ðức Chúa đã truyền cho họ không được làm như các dân đó. 16 Họ đã bỏ tất cả các mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ, và họ đã đúc cho mình tượng hai con bê; họ đã dựng cột thờ, sụp xuống lạy toàn thể thiên binh và phụng thờ Ba-an. 17 Họ đã làm lễ thiêu con trai con gái họ; họ làm nghề bói toán, nghề phù thuỷ, và họ bán mình để làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, để trêu giận Người. 18 Ðức Chúa nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và đẩy Ít-ra-en cho khuất nhan Người. Chỉ còn lại chi tộc Giu-đa.

19 Cả Giu-đa nữa cũng không tuân giữ các mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của mình, và theo những thói tục Ít-ra-en đã tạo ra. 20 Vì thế, Ðức Chúa đã từ bỏ toàn thể dòng giống Ít-ra-en; Người đã hành hạ và nộp họ vào tay quân cướp cho đến khi xua đuổi họ cho khuất nhan Người. 21 Người đã tách Ít-ra-en khỏi nhà Ða-vít và họ đã tôn con ông Nơ-vát là Gia-róp-am làm vua. Vua Gia-róp-am đã thúc đẩy Ít-ra-en rời bỏ Ðức Chúa và làm cho họ phạm một tội lớn. 22 Con cái Ít-ra-en đã bắt chước vua mà phạm mọi tội vua đã phạm, họ không dứt bỏ các tội đó, 23 đến nỗi Ðức Chúa đẩy Ít-ra-en đi cho khuất nhan Người, như Người đã dùng mọi ngôn sứ, tôi trung của Người, mà phán. Ít-ra-en đã bị đày biệt xứ sang Át-sua cho đến ngày nay.

Nguồn gốc người Sa-ma-ri

24 Vua Át-sua đã đưa người từ Ba-by-lon, Cu-tha, A-va, Kha-mát và Xơ-phác-va-gim đến định cư ở các thành xứ Sa-ma-ri, thế vào chỗ con cái Ít-ra-en. Họ chiếm Sa-ma-ri và ở trong các thành của xứ này.

25 Ban đầu, khi mới định cư ở đó, họ không kính sợ Ðức Chúa, nên Người đã sai sư tử đến phá phách họ và giết hại nhiều người. 26 Họ nói với vua Át-sua: "Các dân mà vua đã cho đi đày, và định cư ở thành xứ Sa-ma-ri, không biết cách tôn thờ vị thần của xứ. Vì thế, vị thần đó đã sai sư tử đến phá phách và giết chết họ, bởi họ không biết cách tôn thờ vị thần của xứ.” 27 Vua Át-sua mới truyền lệnh sau đây: "Hãy đưa một trong những tư tế mà ta đã cho đi đày, trở lại đó; tư tế ấy phải đến định cư ở đó và dạy họ biết cách tôn thờ vị thần của xứ.” 28 Bấy giờ, một trong những tư tế Sa-ma-ri, đã bị đi đày, tới định cư ở Bết Ên và dạy họ biết cách kính sợ Ðức Chúa.

29 Nhưng mỗi dân lại tạc tượng thần của mình và đặt trong các miếu ở nơi cao mà người Sa-ma-ri đã xây; họ đã làm như vậy trong thành họ ở. 30 Người Ba-by-lon tạc tượng thần Xúc-cốt Bơ-nốt, người Cu-tha tạc tượng thần Néc-gan, người Kha-mát tạc tượng thần A-si-ma, 31 Người A-va tạc tượng thần Níp-khát và Tác-tắc; còn người Xơ-phác-va-gim thì làm lễ thiêu con trai của họ để kính Át-ram-me-léc và A-nam-me-léc, các thần của dân Xơ-phác-va-gim. 32 Họ cũng kính sợ Ðức Chúa, và chọn những người cùng nhóm làm tư tế phục vụ tại các tế đàn ở nơi cao và tế lễ cho họ trong các miếu ở nơi cao. 33 Họ kính sợ Ðức Chúa nhưng cũng phụng thờ các thần của họ, theo cách tôn thờ của các dân mà họ đã rời bỏ khi bị đi đày. 34 Cho đến ngày nay họ vẫn theo cách tôn thờ xưa kia của họ.

Người Ít-ra-en đã không kính sợ Ðức Chúa, cũng không hành động theo những quy tắc, những quyết định, Lề Luật và mệnh lệnh Ðức Chúa đã truyền cho con cái ông Gia-cóp, người cũng được gọi tên là Ít-ra-en. 35 Ðức Chúa đã lập giao ước với họ và truyền lệnh cho họ: "Các ngươi không được kính sợ các thần khác và không được sụp xuống lạy chúng; các ngươi không được phụng thờ và tế lễ chúng. 36 Nhưng chính Ðức Chúa, Ðấng đã dùng sức mạnh lớn lao và cánh tay uy quyền đưa các ngươi lên từ Ai-cập, chính Người là Ðấng các ngươi phải kính sợ, phải sụp xuống lạy và phải tế lễ. 37 Những quy luật, những quyết định, Lề Luật và mệnh lệnh Người đã truyền ghi chép cho các ngươi, các ngươi phải tuân giữ, phải thi hành mọi ngày. Các ngươi không được kính sợ các thần khác. 38 Giao Ước Ta đã lập với các ngươi, các ngươi không được quên; và các ngươi không được kính sợ các thần khác. 39 Nhưng chính Ðức Chúa, Thiên Chúa các ngươi, là Ðấng các ngươi phải kính sợ. Người sẽ giải thoát các ngươi khỏi tay mọi địch thù của các ngươi.” 40 Người Sa-ma-ri đã không nghe lời, họ cứ theo cách tôn thờ xưa kia của họ.

41 Như thế, các dân ấy đã kính sợ Ðức Chúa, nhưng cũng phụng thờ các ngẫu tượng của họ; con cái cháu chắt họ cũng làm như cha ông họ cho đến ngày nay.

Chương 18

VIII. Những Giai Ðoạn Cuối Cùng

Của Vương Quốc Giu-Ða

1. Vua Khít-Ki-Gia, Ngôn Sứ I-Sai-A Và Nước Át-Sua

Dẫn nhập vào triều vua Khít-ki-gia (716-687) (2 Sb 29:1-2; 31:1)

1 Năm thứ ba triều vua Hô-sê, con ông Ê-la, vua Ít-ra-en, con vua A-khát, vua Giu-đa, là Khít-ki-gia lên làm vua. 2 Khi lên ngôi, vua được hai mươi lăm tuổi và trị vì hai mươi chín năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là A-vi, con gái ông Dơ-khác-gia. 3 Vua đã làm điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa, đúng như vua Ða-vít, tổ phụ vua đã làm. 4 Chính vua đã dẹp các tế đàn ở nơi cao, đập bể các trụ đá, bổ các cột thờ và đập tan con rắn đồng ông Mô-sê đã làm, vì cho đến thời đó, con cái Ít-ra-en vẫn đốt hương kính nó; người ta gọi nó là Nơ-khút-tan.

5 Vua đã đặt niềm tin tưởng vào Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en. Sau vua, chẳng có vua Giu-đa nào được như thế, cũng như trước vua chẳng có ai được như vậy. 6 Vua gắn bó với Ðức Chúa, không bỏ Người; vua tuân giữ các mệnh lệnh Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 7 Vì thế, Ðức Chúa đã ở với vua; vua tra tay làm việc gì thì cũng thành công. Vua nổi lên chống lại vua Át-sua và không còn chịu phục tùng vua ấy nữa. 8 Chính vua đã đánh đuổi quân Phi-li-tinh cho đến Ga-da và ranh giới của thành ấy, từ tháp canh cho đến thành trì kiên cố.

Nhắc lại chuyện Sa-ma-ri thất thủ

9 Năm thứ tư triều vua Khít-ki-gia, tức là năm thứ bảy triều vua Hô-sê, con ông Ê-la, vua Ít-ra-en, vua Át-sua là San-ma-ne-xe tiến lên đánh và vây thành Sa-ma-ri. 10 Sau ba năm, người ta chiếm được thành. Sa-ma-ri thất thủ vào năm thứ sáu triều vua Khít-ki-gia, tức là năm thứ chín triều vua Hô-sê, vua Ít-ra-en. 11 Vua Át-sua đày Ít-ra-en sang Át-sua và cho lập cư tại Khơ-lác, và ở ven sông Kha-vo thuộc vùng Gô-dan, và trong các thành xứ Mê-đi, 12 vì họ đã không nghe lời Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ, và đã vi phạm giao ước của Người; tất cả những gì ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, đã truyền, họ đều không nghe theo và thi hành.

Cuộc xâm lăng của vua Xan-khê-ríp (Es 36:1)

13 Năm thứ mười bốn triều vua Khít-ki-gia, vua Át-sua là Xan-khê-ríp tiến lên đánh mọi thành kiên cố của Giu-đa và đã chiếm được. 14 Vua Giu-đa là Khít-ki-gia mới sai người đến nói với vua Át-sua ở La-khít: "Tôi có tội, xin ngài lui binh cho, ngài bắt nộp gì, tôi cũng chịu." Vua Át-sua bắt vua Khít-ki-gia phải nộp chín ngàn ký bạc và chín trăm ký vàng. 15 Vua Khít-ki-gia nộp tất cả số bạc có trong Nhà Ðức Chúa và trong kho đền vua. 16 Chính vào thời đó, vua Khít-ki-gia đập gẫy các cánh cửa của đền thờ Ðức Chúa, cũng như các khung cửa mà..., vua Giu-đa, đã bọc bằng kim khí, lấy nộp cho vua Át-sua.

Sứ mạng của quan chánh chước tửu (2 Sb 32:9-19; Es 36:2-22)

17 Từ La-khít, vua Át-sua sai tướng tổng tư lệnh, quan thái giám và quan chánh chước tửu, cùng với một đạo binh hùng hậu, đến gặp vua Khít-ki-gia ở Giê-ru-sa-lem. Họ tiến lên và đến Giê-ru-sa-lem. Họ đứng gần kênh dẫn nước của hồ trên, phía đường dẫn tới cánh đồng Thợ Nện Dạ. 18 Họ cho mời vua đến. Ra đón tiếp họ có ông En-gia-kim, con ông Khin-ki-gia-hu, đại nội thị thần, cũng như viên ký lục Sép-na và viên quản lý văn khố Giô-ác, con ông A-xáp. 19 Viên chánh chước tửu bảo họ: "Hãy nói với vua Khít-ki-gia: đại đế là vua Át-sua phán thế này: "Dựa vào niềm tin nào mà ông tin tưởng như thế? 20 Ông tưởng rằng trong cuộc chiến, lời nói suông ngoài miệng thay thế được cho mưu kế và sức mạnh sao? Giờ đây, ông tin tưởng vào ai mà dám nổi loạn chống ta? 21 Hoá ra ông tin tưởng vào cây gậy sậy dập nát là Ai-cập; nó sẽ đâm thủng bàn tay kẻ vịn vào nó! Pha-ra-ô vua Ai-cập là vậy đó, đối với mọi kẻ tin tưởng vào ông ta. 22 Có thể ông sẽ nói với tôi: "Chúng tôi tin tưởng vào Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi. Thế chẳng phải Khít-ki-gia đã dẹp các nơi cao và các bàn thờ của Người đó sao? Ông ta đã chẳng nói với Giu-đa và Giê-ru-sa-lem rằng: Các ngươi sẽ sụp lạy trước bàn thờ này ở Giê-ru-sa-lem? 23 Bây giờ ông hãy đánh cuộc với vua Át-sua chúa thượng tôi: Tôi cho ông hai ngàn con ngựa nếu ông tìm được người cưỡi. 24 Liệu ông có thể đẩy lui được một người thuộc hạng dở nhất trong nhóm bộ hạ của chúa thượng tôi không? Thế mà ông lại cậy vào Ai-cập để có xe, có ngựa! 25 Bây giờ có phải ngoài ý muốn của Ðức Chúa mà ta đã tiến đánh để tàn phá nơi này không? Chính Ðức Chúa đã phán với ta: "Hãy tiến đánh và tàn phá xứ này!"

26 Ông En-gia-kim, con ông Khin-ki-gia-hu, ông Sép-na và ông Giô-ác nói với viên chánh chước tửu: "Xin ngài dùng tiếng A-ram mà nói vì các tôi tớ ngài đây hiểu được. Ngài đừng nói tiếng Giu-đa với chúng tôi, kẻo dân ở trên tường thành nghe được.” 27 Viên chánh chước tửu nói: "Chẳng lẽ Chúa thượng tôi sai tôi đến nói những lời như thế với chúa thượng của ông hay với ông sao? Chẳng phải là để nói với những người đang ngồi trên tường thành kia, đang phải ăn phân và uống nước tiểu của mình, cùng với các ông sao?"

28 Bấy giờ, viên chánh chước tửu đứng thẳng và hô lớn bằng tiếng Giu-đa rằng: "Hãy nghe lời đại đế, vua Át-sua: 29 Ðức vua phán thế này: Ðừng để Khít-ki-gia lừa dối các ngươi, vì ông ta không thể nào giải thoát các ngươi khỏi tay ta được. 30 Cũng đừng để Khít-ki-gia dụ dỗ các ngươi tin tưởng vào Ðức Chúa khi ông ta nói: Chắc chắn Ðức Chúa sẽ giải thoát chúng ta, và thành này sẽ không bị nộp vào tay vua Át-sua. 31 Ðừng nghe lời Khít-ki-gia, vì vua Át-sua phán thế này: Hãy làm hoà với ta và ra đây; ai nấy trong các ngươi vẫn được ăn hoa trái trong vườn nho, vườn vả của mình, vẫn được uống nước bể nhà mình, 32 cho tới khi ta đến đem các ngươi tới một xứ giống như xứ các ngươi, một xứ có lúa mì và rượu, xứ có bánh, có vườn nho và vườn ô-liu, xứ có dầu tươi và mật ong; như vậy, các ngươi sẽ được sống và khỏi phải chết. Ðừng nghe lời Khít-ki-gia, vì ông ta phỉnh gạt các ngươi khi nói: Ðức Chúa sẽ giải thoát chúng ta. 33 Hỏi rằng trong các thần của chư dân, đã có vị nào thực sự giải thoát xứ mình khỏi tay vua Át-sua chưa? 34 Các thần của Kha-mát và Ác-pát ở đâu? Các thần của Xơ-phác-va-gim, của Hê-na và I-va ở đâu? Họ có giải thoát được Sa-ma-ri khỏi tay ta chăng? 35 Trong tất cả các thần của các xứ, hỏi đã có thần nào cứu được xứ của họ thoát khỏi tay ta chưa? Vậy Ðức Chúa cứu nổi Giê-ru-sa-lem khỏi tay ta sao?"

36 Dân làm thinh, không đáp một lời; vì vua đã ra lệnh: "Các ngươi đừng đáp lại hắn!” 37 Ông En-gia-kim, đại nội thị thần, con ông Khin-ki-gia vào yết kiến vua Khít-ki-gia-hu cùng với ông Sép-na, ký lục, và ông Giô-ác, quản lý văn khố, con ông A-xáp. Họ xé áo mình ra, kể lại cho vua nghe những lời viên chánh chước tửu đã nói.

Chương 19

Cầu cứu ngôn sứ I-sai-a (Es 37:1-7)

1 Nghe thế, vua Khít-ki-gia liền xé áo mình ra, khoác áo vải thô, vào Nhà Ðức Chúa. 2 Vua sai ông En-gia-kim, đại nội thị thần, ông Sép-na, ký lục, và các kỳ mục trong hàng tư tế, tất cả đều khoác áo vải thô, đến gặp ngôn sứ I-sai-a, con ông A-mốc. 3 Họ thưa: "Vua Khít-ki-gia phán thế này: Hôm nay là một ngày khốn quẫn, ngày trừng phạt, ngày ô nhục. Vì đã đến lúc con lọt lòng, mà mẹ lại không có sức sinh! 4 Ước chi Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông nghe thấy tất cả những lời của viên chánh chước tửu là người đã được vua Át-sua, chúa thượng hắn, sai đến thoá mạ Thiên Chúa hằng sống; ước gì Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, trừng phạt vì những lời Người đã nghe thấy. Xin ông dâng lời cầu nguyện cho số sót còn lại."

5 Khi các thuộc hạ của vua Khít-ki-gia đến gặp ông I-sai-a, 6 ông I-sai-a bảo họ: "Các vị sẽ thưa với chúa thượng của các vị như sau: Ðức Chúa phán thế này: "Ðừng sợ những lời ngươi đã nghe, những lời mà các tên hầu của vua Át-sua đã xúc phạm đến Ta. 7 Này Ta sẽ đặt nơi nó một thần khí; khiến nó vừa nghe một tin đồn, liền rút lui về nước. Ta sẽ làm cho nó bị gươm đâm gục ngã ngay tại xứ sở nó."

Viên chánh chước tửu trở về (Es 37:8-9a)

8 Viên chánh chước tửu trở về gặp lúc vua Át-sua đang giao chiến với Líp-na. Quả thật, ông nghe biết vua đã rời La-khít, 9 vì vua nhận được tin nói về vua Cút là Tia-ha-ca: "Kìa vua ấy đã ra quân để giao chiến với ngài."

Thư của Xan-khê-ríp gửi vua Khít-ki-gia (Is 37 :9b-20)

Vua Xan-khê-ríp lại sai sứ giả đến với vua Khít-ki-gia, vua bảo họ: 10 "Các ngươi sẽ nói với Khít-ki-gia, vua Giu-đa, thế này: Ðừng để Thiên Chúa của ông là Ðấng ông tin tưởng, lừa dối ông rằng: Giê-ru-sa-lem sẽ không bị nộp vào tay vua Át-sua. 11 Này, ông thừa biết các vua Át-sua đã xử thế nào với tất cả các nước: Các vị ấy đã tru hiến chúng; còn ông, ông thoát sao được? 12 Thế các thần của chư dân mà cha ông ta đã tiêu diệt, tức là các dân Gô-dan, Kha-ran, Re-xép, và con cái ông E-đen ở Tơ-la-xa, có giải thoát được các dân ấy không? 13 Các vua của Kha-mát, của Ác-pát, của La-ia, Xơ-phác-va-gim, Hê-na, I-va đâu cả rồi?"

14 Vua Khít-ki-gia cầm lấy thư từ tay các sứ giả trao cho mà đọc, rồi lên Nhà Ðức Chúa, mở thư ra trước nhan Ðức Chúa. 15 Vua cầu nguyện trước nhan Ðức Chúa rằng: "Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en, Ðấng ngự trên các Kê-ru-bim, chính Ngài, và chỉ mình Ngài mới là Thiên Chúa thống trị mọi vương quốc trần gian. Chính Ngài đã làm nên trời đất. 16 Lạy Ðức Chúa, xin lắng tai nghe, lạy Ðức Chúa, xin đưa mắt nhìn. Xin nghe rõ những lời Xan-khê-ríp là kẻ đã sai người đến thoá mạ Thiên Chúa hằng sống. 17 Quả thật, lạy Ðức Chúa, các vua Át-sua đã tàn phá các dân và xứ sở của họ, 18 quăng các tượng thần của họ vào lửa, vì chúng không phải là thần, mà chỉ là tác phẩm bằng gỗ đá do tay người phàm làm ra, cho nên các vua ấy đã phá huỷ được. 19 Nhưng giờ đây, lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng con, xin đoái thương cứu chúng con khỏi tay vua ấy, để mọi vương quốc trần gian nhận biết rằng chính Ngài, và chỉ một mình Ngài mới là Thiên Chúa, lạy Ðức Chúa!"

Ông I-sai-a can thiệp (Es 37:21-35)

20 Ông I-sai-a con ông A-mốc, sai người đến tâu vua Khít-ki-gia rằng: "Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán thế này: Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện về vụ Xan-khê-ríp, vua Át-sua. 21 Ðây lời Ðức Chúa kết tội nó:

Trinh nữ, cô gái Xi-on khinh dể, nhạo báng ngươi;

sau lưng ngươi, cô gái Giê-ru-sa-lem lắc đầu!

22 Ngươi đã thoá mạ, lăng nhục ai,

đã lớn tiếng, vênh mặt khinh khi ai,

nếu không phải là chính Ðấng Thánh của Ít-ra-en!

23 Ngươi đã dùng sứ giả mà phỉ báng Chúa Thượng,

và ngươi nói rằng: "Với vô vàn chiến xa, ta trèo lên đỉnh núi,

lên những ngọn cao chót vót của Li-băng.

Ta đốn những cây bá hương cao vút,

những ngọn tùng bách đẹp tuyệt.

Ta vào tận sào huyệt cuối cùng, tới rừng cây thăm thẳm.

24 Chính ta đã đào giếng, đã uống nước của ngoại bang;

ta đã làm cạn khô mọi sông ngòi Ai-cập dưới đôi bàn chân ta.

25 Phải chăng ngươi không hề nghe biết

Ta đã làm những điều ấy từ lâu?

Những điều Ta dự tính từ những ngày xa xưa,

giờ đây Ta thực hiện:

là phá tan những thành trì kiên cố,

khiến chúng trở nên đống đá vụn hoang tàn.

26 Cư dân của chúng đành bó tay và thẹn thùng khiếp đảm.

Khác nào cỏ đồng nội, tựa đám cỏ xanh tươi,

đám cỏ mọc mái nhà, hoặc như cây lúa héo

chưa kịp vươn lên cao.

27 Khi ngươi ngồi, ngươi đứng, lúc ngươi ra, lúc ngươi vào,

Ta đều biết rõ cả; ngay lúc ngươi nổi giận với Ta, Ta cũng biết.

28 Bởi vì ngươi nổi giận với Ta,

và những lời ngạo mạn đã thấu tận tai Ta,

nên Ta sẽ xỏ vòng vào mũi, tra hàm thiếc vào môi ngươi.

Trên chính con đường ngươi đã tới, Ta sẽ bắt ngươi phải lui về.

29 Ðây sẽ là dấu hiệu cho ngươi:

Năm nay ăn lúa chét;

năm tới có lúa trổi;

đến năm thứ ba, hãy gieo, hãy gặt,

hãy trồng nho mà ăn trái.

30 Trong nhà Giu-đa, những gì đã thoát chết,

những gì còn sót lại, sẽ cứ tiếp tục đâm rễ sâu

và trên cao trổ sinh hoa trái.

31 Vì từ Giê-ru-sa-lem, sẽ nảy sinh số còn sót lại,

và từ núi Xi-on, sẽ xuất hiện những người thoát chết.

Vì yêu thương cuồng nhiệt, Ðức Chúa sẽ thực hiện điều đó.

32 Về vua Át-sua Ðức Chúa phán như sau:

Nó sẽ không vào được thành này,

không bắn được mũi tên tới đó,

không núp sau thuẫn mà xông lên,

cũng chẳng đắp ụ để công phá.

33 Nó sẽ phải quay về, theo chính con đường nó đã đến,

chứ thành này thì nó không vào được.

Sấm ngôn của Ðức Chúa.

34 Vì Ta và vì Ða-vít, tôi tớ của Ta

chính Ta sẽ che chở và sẽ cứu thành này."

Vua Xan-khê-ríp bại trận và chết (Es 37:36-38)

35 Chính đêm ấy, thiên sứ của Ðức Chúa ra đánh chết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong trại quân Át-sua. Ban sáng, khi người ta thức dậy, thì kìa, toàn là thây ma xác chết.

36 Vua Át-sua là Xan-khê-ríp nhổ trại và lên đường. Ông rút về Ni-ni-vê và ở lại đó. 37 Nhưng rồi, khi ông đang sụp xuống lạy thần Nít-rốc của ông trong đền thờ, thì các con ông là Át-ram-me-léc và Sa-re-xe dùng gươm đâm ông chết, rồi trốn sang xứ A-ra-rát. Con vua là Ê-xa-khát-đôn lên ngôi kế vị.

Chương 20

Vua Khít-ki-gia lâm bệnh và được khỏi (Es 38:1-8,21-22;2 Sb 32:24-26)

1 Trong những ngày ấy, vua Khít-ki-gia lâm bệnh nguy tử. Ngôn sứ I-sai-a, con ông A-mốc, đến gặp vua và nói: "Ðức Chúa phán thế này: Hãy lo thu xếp việc nhà, vì ngươi chết chứ không sống nổi đâu.” 2 Vua quay mặt vào tường, và cầu nguyện với Ðức Chúa như sau: 3 "Ôi, lạy Ðức Chúa, xin Ngài nhớ cho, con đã trung tín và thành tâm bước đi trước nhan Ngài, đã thi hành điều đẹp mắt Ngài." Rồi vua Khít-ki-gia khóc, khóc thật to.

4 Ông I-sai-a chưa ra đến sân giữa, thì lời Ðức Chúa phán với ông: 5 "Hãy quay lại nói với Khít-ki-gia, thủ lãnh dân Ta: Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ða-vít, tổ tiên ngươi, phán thế này: Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện, Ta đã thấy nước mắt của ngươi. Này Ta chữa lành ngươi, ba ngày nữa, ngươi sẽ lên Nhà Ðức Chúa. 6 Ta sẽ cho ngươi sống thêm mười lăm năm nữa. Ta sẽ giải thoát ngươi cùng với thành này khỏi tay vua Át-sua, và sẽ che chở thành này, vì Ta và vì Ða-vít, tôi tớ của Ta."

7 Ông I-sai-a nói: "Hãy lấy một cái bánh vả." Người ta đi lấy, đặt trên ung nhọt và vua sống được.

8 Vua Khít-ki-gia nói với ông I-sai-a: "Tôi dựa vào dấu hiệu nào để biết Ðức Chúa sẽ chữa lành tôi, và ba ngày nữa tôi sẽ lên Nhà Ðức Chúa?” 9 Ông I-sai-a trả lời: "Ðây là dấu Ðức Chúa ban cho ngài, chứng tỏ Ðức Chúa sẽ thực hiện điều Người đã phán: Vua muốn bóng tiến mười độ hay lùi mười độ?” 10 Vua Khít-ki-gia nói: "Bóng ngả thêm mười độ: điều đó quá dễ! Không! Xin cho bóng lùi mười độ!” 11 Ngôn sứ I-sai-a cầu khẩn Ðức Chúa, và Người cho bóng lùi lại mười độ, so với bóng đã ngả trên bậc thang mà vua A-khát đã xây.

Các sứ giả của vua Mơ-rô-đác Ba-la-đan (Es 39:1-8)

12 Khi ấy, vua Ba-by-lon là Mơ-rô-đác Ba-la-đan, con ông Ba-la-đan, sai người đem thư và quà tặng cho vua Khít-ki-gia, vì nghe tin vua bị bệnh. 13 Sau khi nghe các sứ giả, vua Khít-ki-gia cho họ xem mọi kho tàng của vua, vàng bạc, hương liệu, dầu quý, kho vũ khí và tất cả những gì có trong các nơi dự trữ của vua, không có gì trong cung điện và trong toàn lãnh thổ mà vua Khít-ki-gia không cho họ xem.

14 Ngôn sứ I-sai-a vào gặp vua Khít-ki-gia và nói: "Những người ấy đã nói gì với vua, và họ từ đâu tới?" Vua Khít-ki-gia đáp: "Họ từ một xứ xa xôi, mãi tận Ba-by-lon đến đây.” 15 Ông hỏi: "Họ thấy gì trong cung điện của ngài?" Vua đáp: "Trong cung điện của tôi có gì, họ thấy hết cả. Không có gì trong các kho dự trữ mà tôi không cho họ xem."

16 Bấy giờ, ông I-sai-a nói với vua Khít-ki-gia: "Xin vua nghe lời của Ðức Chúa: 17 Này, sẽ đến những ngày mọi sự trong cung điện ngươi, tất cả những gì xưa nay tổ tiên ngươi đã tích trữ đều bị đem đi Ba-by-lon, không còn lại một thứ gì, Ðức Chúa phán. 18 Một số con cái ngươi, xuất thân từ ngươi, do chính ngươi sinh ra, sẽ bị bắt đi làm thái giám trong hoàng cung của vua Ba-by-lon.” 19 Vua Khít-ki-gia nói với ông I-sai-a: "Lời Ðức Chúa ông vừa truyền lại quả là tốt." Vua tự nhủ: "Sao lại không? Miễn là có hoà bình và an ninh trong đời ta."

Kết thúc triều vua Khít-ki-gia (2 Sb 32:32-33)

20 Những truyện còn lại của vua Khít-ki-gia, mọi chiến công của vua, cũng như việc xây hồ và kênh dẫn nước vào thành, những điều ấy đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 21 Vua Khít-ki-gia đã an nghỉ với tổ tiên. Con vua là Mơ-na-se, lên ngôi kế vị.

Chương 21

2. Hai Vua Bất Trung

Vua Mơ-na-se cai trị Giu-đa (687-642) (2 Sb 33:1-10,18-20)

1 Mơ-na-se lên ngôi vua khi được mười hai tuổi, và trị vì năm mươi lăm năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Khép-xi Va. 2 Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, theo những thói ghê tởm của các dân mà Ðức Chúa đã trục xuất cho khuất mắt con cái Ít-ra-en. 3 Vua xây lại những nơi cao mà vua cha là Khít-ki-gia đã phá huỷ; vua lập các tế đàn kính Ba-an, dựng một cột thờ như vua Ít-ra-en là A-kháp đã làm, sụp lạy toàn thể các thiên binh và phụng thờ chúng. 4 Vua xây các tế đàn trong Nhà Ðức Chúa, như Ðức Chúa phán: "Chính ở Giê-ru-sa-lem Ta sẽ đặt Danh Ta."

5 Trong hai sân của Nhà Ðức Chúa vua đã xây các tế đàn kính toàn thể các thiên binh. 6 Vua làm lễ thiêu con trai mình, làm nghề chiêm tinh và phù thuỷ, lập ra cô đồng và thầy bói; vua làm nhiều điều dữ trái mắt Ðức Chúa để trêu giận Người. 7 Vua đặt tượng thần A-sê-ra, mà vua đã tạc, trong Nhà Ðức Chúa, Nhà mà Ðức Chúa đã phán với vua Ða-vít và vua Sa-lô-môn, con vua: "Tại Nhà này và ở Giê-ru-sa-lem, nơi Ta đã chọn giữa mọi chi tộc Ít-ra-en, Ta sẽ đặt Danh Ta mãi mãi. 8 Ta sẽ không để chân Ít-ra-en phiêu bạt đây đó, xa miền đất Ta đã ban cho tổ tiên chúng, chỉ cần chúng lo làm đúng theo những gì Ta đã truyền cho chúng, và đúng theo tất cả Lề Luật mà Mô-sê, tôi trung của Ta, đã truyền cho chúng.” 9 Nhưng họ đã không nghe theo, và vua Mơ-na-se đã làm cho họ lạc đường, khiến họ làm điều dữ hơn cả những nước mà Ðức Chúa đã tiêu diệt trước mặt con cái Ít-ra-en.

10 Ðức Chúa đã dùng các ngôn sứ, tôi trung của Người, mà phán: 11 "Vì Mơ-na-se, vua Giu-đa, đã làm những điều ghê tởm ấy, vì nó đã hành động tệ hơn cả những người E-mô-ri ở đấy trước nó đã làm, vì nó cũng đã dùng các ngẫu tượng mà lôi kéo Giu-đa phạm tội, 12 thì Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này: Này đây Ta sẽ giáng xuống Giê-ru-sa-lem và Giu-đa một tai hoạ, mà bất cứ ai nghe nói cũng phải ù cả hai tai. 13 Ta sẽ san bằng Giê-ru-sa-lem, như đã san bằng Sa-ma-ri và nhà A-kháp; Ta sẽ vét sạch Giê-ru-sa-lem, như người ta vét sạch đĩa rồi úp xuống sau khi vét sạch. 14 Ta sẽ từ bỏ gia nghiệp sót lại của Ta; Ta sẽ nộp chúng vào tay kẻ thù chúng, chúng sẽ thành mồi, thành chiến lợi phẩm cho mọi kẻ thù chúng, 15 vì chúng đã làm những gì Ðức Chúa coi là xấu, và chúng không ngừng trêu giận Ta từ ngày tổ tiên chúng ra khỏi đất Ai-cập cho đến ngày nay."

16 Vua Mơ-na-se cũng đã đổ máu người vô tội, rất nhiều đến nỗi máu ấy tràn ngập Giê-ru-sa-lem từ đầu thành đến cuối thành; đó là không kể đến tội vua đã lôi kéo Giu-đa phạm theo, khi vua làm các điều dữ trái mắt Ðức Chúa.

17 Những truyện còn lại của vua Mơ-na-se và mọi việc vua làm, cũng như tội vua đã phạm, tất cả những điều ấy đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 18 Vua Mơ-na-se đã an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất trong vườn thuộc cung điện vua, vườn của ông Út-da. Con vua là A-môn lên ngôi kế vị.

Vua A-môn cai trị Giu-đa (642-640) (2 Sb 33:21-25)

19 A-môn lên làm vua khi được hai mươi hai tuổi, và trị vì hai năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Mơ-su-le-mét, con gái ông Kha-rút; bà là người Giót-va. 20 Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, như vua cha là Mơ-na-se. 21 Trong mọi sự, vua đã đi theo đường lối của vua cha, đã phụng thờ các ngẫu tượng mà vua cha đã phụng thờ và sụp lạy chúng. 22 Vua đã bỏ Ðức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên, và không đi theo đường lối của Ðức Chúa.

23 Các thuộc hạ vua A-môn đã âm mưu chống lại vua và giết chết vua trong cung điện. 24 Dân trong xứ hạ sát mọi kẻ đã âm mưu chống lại vua A-môn, và tôn con vua là Giô-si-gia lên ngôi kế vị.

25 Những truyện còn lại của vua A-môn, những việc vua làm, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 26 Người ta đã chôn cất vua trong mộ vua, trong vườn của ông Út-da. Con vua là Giô-si-gia lên ngôi kế vị vua cha.

Chương 22

3. Vua Giô-Si-Gia Với Việc Cải Cách Tôn Giáo

Dẫn nhập vào triều vua Giô-si-gia (640-609) (2 Sb 34:1-2)

1 Giô-si-gia lên làm vua khi được tám tuổi, và trị vì ba mươi mốt năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Giơ-đi-đa, con ông A-đa-gia; bà là người Bót-cát. 2 Vua đã làm những điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa, và trong mọi sự vua đi theo đường lối vua Ða-vít, tổ tiên vua; vua không đi trệch bên phải bên trái.

Tìm thấy sách Luật (2 Sb 34:8-18)

3 Năm thứ mười tám triều Giô-si-gia, vua sai ký lục Sa-phan, con ông A-xan-gia-hu, cháu ông Mơ-su-lam, đến Nhà Ðức Chúa và nói: 4 "Hãy lên gặp thượng tế Khin-ki-gia-hu, xin thượng tế cộng lại số bạc dâng vào Nhà Ðức Chúa, mà các tư tế canh ngưỡng cửa đã nhận của dân; 5 người ta phải trao số bạc đó cho những người lo việc sửa chữa, những người phụ trách Nhà Ðức Chúa; rồi những người này phải trả cho những người lo việc sửa chữa Nhà Ðức Chúa, để họ sửa chữa những chỗ hư hại trong đó; 6 cũng phải trả cho thợ mộc, thợ xây nhà và thợ nề, để họ mua gỗ và đá đẽo mà sửa chữa Nhà Ðức Chúa. 7 Nhưng đừng đòi họ tính sổ về số bạc đã trao cho họ, vì họ hành động liêm chính."

8 Thượng tế Khin-ki-gia-hu nói với ký lục Sa-phan: "Tôi đã tìm thấy sách Luật trong Nhà Ðức Chúa." Ông Khin-ki-gia-hu trao sách cho ông Sa-phan đọc. 9 Ký lục Sa-phan đến gặp vua và trình lên vua rằng: "Bầy tôi của vua đã đúc số bạc tìm thấy trong Nhà Ðức Chúa, và đã trao cho những người lo việc sửa chữa, những người phụ trách Nhà Ðức Chúa.” 10 Rồi ký lục Sa-phan báo tin cho vua như sau: "Tư tế Khin-ki-gia-hu đã đưa cho tôi một cuốn sách." Sau đó, ông Sa-phan đọc sách trước mặt vua.

Thỉnh ý nữ ngôn sứ Khun-đa (2 Sb 34:19-28)

11 Nghe những lời ghi chép trong sách Luật, vua xé áo mình ra, 12 rồi truyền lệnh sau đây cho tư tế Khin-ki-gia-hu, cho ông A-khi cam, con ông Sa-phan, cho ông Ác-bo, con ông Mi-kha-gia, cho ký lục Sa-phan và ông A-xa-gia, tôi tớ của vua: 13 "Hãy đi thỉnh ý Ðức Chúa cho ta, cho dân và toàn thể Giu-đa về những lời ghi chép trong sách đã tìm thấy đây, vì Ðức Chúa đã bừng bừng nổi cơn thịnh nộ chống lại chúng ta, bởi lẽ tổ tiên chúng ta đã không vâng nghe các lời trong sách này mà làm theo mọi điều đã viết trong đó."

14 Tư tế Khin-ki-gia-hu, các ông A-khi-cam, Ác-bo, Sa-phan và A-xa-gia đi gặp nữ ngôn sứ Khun-đa, vợ người phụ trách phòng lễ phục là ông Sa-lum, con ông Tích-va; cháu ông Khác-khát; bà ở tại khu vực phụ thuộc thành Giê-ru-sa-lem. Họ thưa chuyện với bà; 15 rồi bà bảo họ: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: "Hãy nói với người đã cử các ngươi đến gặp Ta: 16 Ðức Chúa phán thế này: Ta sắp giáng hoạ xuống nơi đó, xuống dân cư ở nơi đó, đúng như mọi lời ghi chép trong sách vua Giu-đa đã đọc. 17 Vì chúng đã bỏ Ta và đã đốt hương kính các thần khác để trêu giận Ta bằng mọi việc tay chúng làm, nên Ta đã bừng bừng nổi giận chống lại nơi này, và cơn giận đó sẽ khôn nguôi. 18 Các ông hãy nói thế này với vua Giu-đa đã sai các ông đi thỉnh ý Ðức Chúa: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: những lời mà ngươi đã nghe... 19 Vì ngươi đã mềm lòng và hạ mình trước nhan Ðức Chúa, khi nghe những gì Ta đã nói chống lại nơi đó và dân cư ở đó, những kẻ sẽ trở thành kinh tởm và đáng nguyền rủa; vì ngươi đã xé áo mình ra và khóc lóc trước nhan Ta, thì Ta, Ta cũng đã nghe, sấm ngôn của Ðức Chúa. 20 Bởi thế, này Ta sẽ cho ngươi sum họp với tổ tiên ngươi, ngươi sẽ được bình yên sum họp nơi phần mộ ngươi. Mắt ngươi sẽ không thấy gì về tất cả tai hoạ Ta sắp giáng xuống nơi này." Họ đã trình lại cho vua câu trả lời ấy.

Chương 23

Ðọc sách Luật (2 Sb 34:29-32)

1 Vua sai người tập họp chung quanh vua mọi kỳ mục của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 2 Rồi cùng với mọi người Giu-đa và mọi dân cư ở Giê-ru-sa-lem, cùng với các tư tế, các ngôn sứ và toàn dân từ người nhỏ nhất cho đến người lớn nhất. Vua lên Nhà Ðức Chúa, đọc cho họ nghe tất cả các lời trong sách Giao Ước đã tìm thấy trong Nhà Ðức Chúa. 3 Ðứng trên bệ cao, vua lập giao ước trước nhan Ðức Chúa, cam kết đi theo Ðức Chúa và hết lòng hết dạ tuân giữ các mệnh lệnh, chỉ thị và quy tắc của Người, để chu toàn các khoản của Giao Ước được ghi chép trong sách đó. Toàn dân chấp nhận giao ước.

Việc cải cách tôn giáo ở Giu-đa (2 Sb 34:3-5)

4 Vua truyền cho thượng tế Khin-ki-gia-hu, cho các tư tế bậc hai và các tư tế canh ngưỡng cửa, phải đem ra khỏi đền thờ Ðức Chúa mọi đồ vật đã làm để kính thần Ba-an, thần A-sê-ra và toàn thể thiên binh. Vua thiêu huỷ các đồ vật đó ở ngoài Giê-ru-sa-lem, trong các cánh đồng Kít-rôn, rồi đem tro về Bết Ên. 5 Vua dẹp bỏ hàng tư tế bất hợp pháp mà các vua Giu-đa đã lập; chúng đã đốt hương trên các tế đàn ở nơi cao, trong các thành của Giu-đa và vùng ngoại ô Giê-ru-sa-lem; vua cũng đã dẹp bỏ những kẻ đốt hương kính thần Ba-an, kính mặt trời, mặt trăng, các chòm sao và toàn thể thiên binh. 6 Vua đưa cột thờ ra khỏi Nhà Ðức Chúa, khỏi Giê-ru-sa-lem, đưa đến thung lũng Kít-rôn; vua thiêu huỷ cột thờ đó trong thung lũng Kít-rôn, biến thành tro, rồi vứt tro ấy vào mồ tập thể. 7 Vua phá huỷ những nơi chứa trai điếm trong Nhà Ðức Chúa, nơi phụ nữ dệt khăn áo cho thần A-sê-ra.

8 Vua đưa mọi tư tế từ các thành của Giu-đa về, và làm ô uế các tế đàn ở nơi cao, chỗ các tư tế ấy đã đốt hương, từ Ghe-va đến Bơ-e Se-va. Vua phá huỷ các tế đàn ở nơi cao kính các thần dê, chỗ vào Cửa Giơ-hô-su-a, -tên ông thị trưởng của thành-, nằm phía trái khi người ta vào cửa thành. 9 Nhưng các tư tế của những tế đàn ở nơi cao không được lên bàn thờ Ðức Chúa ở Giê-ru-sa-lem, mà chỉ được ăn bánh không men ở giữa anh em của họ. 10 Vua làm ô uế Tô-phét trong thung lũng Ben Hin-nôm, để đừng có ai làm lễ thiêu con trai, con gái mình mà kính thần Mô-léc. 11 Vua dẹp bỏ những con ngựa mà các vua Giu-đa đã dâng kính mặt trời, chỗ vào Nhà Ðức Chúa, gần phòng thái giám Nơ-than Me-léc, trong dãy nhà phụ thuộc; vua cũng phóng hoả đốt xe của mặt trời. 12 Các tế đàn ở trên mái nhà, tại phòng trên của vua A-khát mà các vua Giu-đa đã lập, cũng như các tế đàn mà vua Mơ-na-se đã lập trong hai sân Nhà Ðức Chúa, thì vua đã phá huỷ, đập bể tại chỗ, rồi vứt các mảnh vụn xuống suối Kít-rôn. 13 Vua làm ô uế các tế đàn ở nơi cao, đối diện với Giê-ru-sa-lem, phía nam Núi Tàn Phá, đó là những tế đàn mà vua Sa-lô-môn, vua Ít-ra-en, đã xây kính các thần: Át-tô-rét, đồ gớm ghiếc của dân Xi-đôn, Cơ-mốt, đồ gớm ghiếc của Mô-áp, và Min-côm, đồ ghê tởm của con cái Am-mon. 14 Vua đập tan các trụ đá, bổ các cột thờ và chất đầy xương người vào chỗ đó.

Việc cải cách lan rộng tới vương quốc miền Bắc (2 Sb 34:6-7)

15 Vua cũng phá huỷ tế đàn ở Bết Ên và tế đàn ở nơi cao mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã lập, - vua này đã lôi kéo Ít-ra-en phạm tội. Vua thiêu huỷ tế đàn ở nơi cao, biến thành tro, và thiêu huỷ cột thờ.

16 Khi quay lại, vua Giô-si-gia nhìn thấy những mồ mả tại đó, ở trên núi. Vua sai người đi quật mả lấy xương cốt ra, đốt trên tế đàn. Như vậy, vua đã làm ô uế tế đàn đó, theo lời của Ðức Chúa mà người của Thiên Chúa đã lớn tiếng loan báo, ông đã lớn tiếng loan báo những điều ấy. 17 Vua hỏi: "Lăng mà ta đang thấy đó là lăng nào vậy?" Các người trong thành thưa: "Ðó là mộ người của Thiên Chúa đã từ Giu-đa đến và đã lớn tiếng loan báo những điều ấy, những điều mà vua đã thực hiện để phá tế đàn Bết Ên. 18 Vua nói: "Hãy để yên người ở đó; đừng ai đụng đến xương cốt của người." Người ta đã để nguyên xương cốt của ông, cũng như xương cốt của ngôn sứ xuất thân từ xứ Sa-ma-ri.

19 Vua Giô-si-gia cũng dẹp mọi nhà cửa phụ thuộc các tế đàn ở nơi cao trong các thành của Sa-ma-ri, do các vua Ít-ra-en dựng lên để trêu giận Ðức Chúa. Ðối với những nơi đó, vua đã xử sự hệt như đối với Bết Ên. 20 Mọi tư tế của các tế đàn ở nơi cao đang có mặt ở đó đã bị vua sát tế trên các tế đàn; vua đã thiêu huỷ xương người trên đó, rồi trở về Giê-ru-sa-lem.

Cử hành lễ Vượt Qua (2 Sb 35 :1,18-19)

21 Vua truyền lệnh sau đây cho toàn dân: "Hãy cử hành lễ Vượt Qua kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, theo nghi thức ghi chép trong sách Giao Ước này.” 22 Người ta chưa bao giờ cử hành một lễ Vượt Qua nào như thế từ ngày các thủ lãnh cai trị Ít-ra-en, cũng như suốt thời các vua Ít-ra-en và các vua Giu-đa. 23 Mãi đến năm thứ mười tám triều Giô-si-gia, người ta mới cử hành lễ Vượt Qua kính Ðức Chúa như vậy tại Giê-ru-sa-lem.

Kết luận về việc cải cách tôn giáo

24 Ngoài ra, vua Giô-si-gia còn khử trừ các cô đồng và thầy bói, các tượng thần, các ngẫu tượng và mọi đồ gớm ghiếc trông thấy ở xứ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, để thực hiện những lời của Lề Luật chép trong sách mà tư tế Khin-ki-gia-hu đã tìm thấy trong Nhà Ðức Chúa. 25 Trước vua, không có vua nào đã trở lại với Ðức Chúa hết lòng, hết dạ và hết sức mình, theo đúng Luật Mô-sê, như vua; và sau vua, cũng chẳng thấy xuất hiện vua nào được như vua.

26 Nhưng Ðức Chúa không nguôi cơn thịnh nộ của Người, cơn thịnh nộ đã bừng lên chống lại Giu-đa, vì những hành động của vua Mơ-na-se đã trêu giận Người. 27 Ðức Chúa phán: "Ta cũng sẽ đẩy cả Giu-đa đi cho khuất nhan Ta, như Ta đã đẩy Ít-ra-en đi; Ta sẽ từ bỏ Giê-ru-sa-lem, thành Ta đã chọn, cũng như Nhà mà Ta đã nói: Danh Ta sẽ ngự ở đó."

Triều vua Giô-si-gia chấm dứt (2Sb 35 :20-36 :1)

28 Các truyện còn lại của vua Giô-si-gia, và mọi việc vua đã làm, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao?

29 Vào thời vua Giô-si-gia, vua Ai-cập là Pha-ra-ô Nơ-khô lên gặp vua Át-sua bên bờ sông Êu-phơ-rát. Vua Giô-si-gia đi đón vua Nơ-khô; nhưng vua Nơ-khô giết chết vua Giô-si-gia ở Mơ-ghít-đô, khi vừa thấy vua này. 30 Các thuộc hạ của vua này chở thi hài vua lên xe, rồi đưa từ Mơ-ghít-đô về Giê-ru-sa-lem và chôn trong mộ của vua. Dân trong xứ chọn con vua Giô-si-gia là Giơ-hô-a-khát, xức dầu tôn làm vua kế vị vua cha.

4. Giê-Ru-Sa-Lem Bị Tàn Phá

Vua Giơ-hô-a-khát cai trị Giu-đa (609) (2 Sb 36 :2-4)

31 Giơ-hô-a-khát lên ngôi vua khi được hai mươi ba tuổi, và trị vì ba tháng ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Kha-mu-tan, con gái ông Giếc-mơ-gia-hu; bà là người Líp-na. 32 Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa hệt như tổ tiên vua.

33 Pha-ra-ô Nơ-khô xiềng vua lại ở Ríp-la, trong xứ Kha-mát, không cho vua trị vì ở Giê-ru-sa-lem, và bắt xứ phải nộp ba ngàn ký bạc và ba mươi ký vàng. 34 Pha-ra-ô Nơ-khô đặt con vua Giô-si-gia là En-gia-kim làm vua kế vị vua cha là Giô-si-gia, và cho đổi tên là Giơ-hô-gia-kim. Pha-ra-ô bắt vua Giơ-hô-a-khát đưa sang Ai-cập, và vua này chết tại đó.

35 Vua Giơ-hô-gia-kim nộp vàng bạc cho Pha-ra-ô. Nhưng để có thể nộp số bạc theo lệnh Pha-ra-ô, vua bắt dân trong xứ phải đóng thuế: vua đòi dân trong xứ, mỗi người theo khả năng mình, phải góp vàng bạc để nộp cho Pha-ra-ô Nơ-khô.

Vua Giơ-hô-gia-kim cai trị Giu-đa (609-598) (2 Sb 36 :5-8)

36 Giơ-hô-gia-kim lên ngôi vua khi được hai mươi lăm tuổi, và trị vì mười một năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Dơ-vi-đa, con gái ông Pơ-đa-gia; bà là người Ru-ma. 37 Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, hệt như tổ tiên vua.

Chương 24

1 Trong thời vua Giơ-hô-gia-kim, vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-nô-xo tiến lên đánh vua Giơ-hô-gia-kim; vua này phải chịu lệ thuộc trong vòng ba năm rồi lại nổi lên chống vua Ba-by-lon. 2 Ðức Chúa sai những toán quân Can-đê, A-ram, Mô-áp và những toán quân của con cái Am-mon đến hại vua Giơ-hô-gia-kim. Người sai chúng đến tấn công Giu-đa để huỷ diệt xứ này, theo lời Ðức Chúa đã dùng các ngôn sứ, tôi trung của Người mà phán. 3 Ðiều ấy đã xảy ra cho Giu-đa hoàn toàn do mệnh lệnh của Ðức Chúa với mục đích đẩy Giu-đa đi cho khuất nhan Người, vì các tội vua Mơ-na-se đã phạm, vì mọi việc vua đã làm, 4 và cũng vì máu vô tội vua đã đổ làm cho Giê-ru-sa-lem ngập tràn máu vô tội, và Ðức Chúa không muốn tha thứ.

5 Các truyện còn lại của vua Giơ-hô-gia-kim và mọi việc vua làm đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 6 Vua Giơ-hô-gia-kim đã an nghỉ với tổ tiên, và con vua là Giơ-hô-gia-khin lên ngôi kế vị.

7